Tóm tắt & Review (Đánh Giá) truyện ngắn Cố Định Một Đám Mây của tác giả Nguyễn Ngọc Tư.
Trước hết, hãy nói về nhan đề của truyện ngắn này. “Cố định một đám mây” là một nhan đề rất thi vị và mơ mộng. Sự thi vị, mơ mộng nằm ở mong muốn rất nghệ sĩ của người viết. “Cố định” là làm cho thực thể ở yên một vị trí. Bỏ qua những ngoại lệ của tiến bộ khoa học, mây trời là thứ chẳng thể giữ yên một chỗ. Nghệ sĩ xưa nay luôn có mong muốn xoay ngược dòng chảy của tự nhiên như thế. Sự thi vị ấy chẳng khác gì mong muốn “tắt nắng đi”, “buộc gió lại” của thi sĩ Xuân Diệu. Nhưng khác là Xuân Diệu khi xưa chỉ “tắt nắng đi”, “buộc gió lại” trong suy tưởng còn nhân vật trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư thì thực đã làm cái việc hoang đường “cố định một đám mây” ấy, dù biết là không thể.
Nhưng nhan đề cũng gợi lên sự không tưởng, vô vọng. Mây là thứ rất mỏng manh, được kết thành từ muôn vàn hạt nước li ti, tan hợp bất kì. Mây ngưng tụ thành mưa, mưa xuống là đời mây cũng hết. Mây vốn thuộc về trời, về thế giới tự nhiên chứ chẳng thuộc về cá nhân nào. Hành động “cố định” ấy gần như là “cố chấp”, là việc cố gắng làm một thứ không trong khả năng.
Tuổi trẻ đối mặt với nỗi chán chường, tuyệt vọng vào cuộc sống.
Ái và Biền còn rất trẻ, tuổi đời chưa chạm đôi mươi. Theo lẽ thông thường, Ái và Biền phải rất háo hức với cuộc sống. Thế nhưng hai người chẳng có vẻ gì hài lòng với tuổi trẻ và sức sống hiện tại. Câu nói đầu tiên của Ái và cũng là những từ mở đầu cho truyện, được nhắc lại hai lần “Chỉ người chết mới chịu ở lại cái đất này”. Điều đó chứng tỏ cô rất chán chường với cuộc sống, với quê hương, với hoàn cảnh hiện tại của mình. Dù cho cô không muốn trở thành “người chết”, không muốn ở lại mảnh “đất này”, nhưng cô hoàn toàn không có ý niệm gì về mảnh “đất khác” là đâu, như thế nào. Tức là cô chỉ nhìn vào mặt tiêu cực của vấn đề và cố ý đổ lỗi cho “đất”, cho quê hương, cho hiện thực khách quan. Chưa khi nào cô nhìn vào bản thân và mong muốn chính mình thay đổi hiện thực tàn khốc ấy.
Nhưng suy nghĩ tiêu cực của Ái hoàn toàn có cơ sở khi cô sinh ra và lớn lên trên mảnh đất cằn cỗi, đói nghèo này:
“Suốt năm nay Biền lì lợm ngồi đó với chiếc đò máy bạc đi, thuyết phục Ái cùng người nhà cô và cả chính mình, rằng nó có một công việc khá ổn. Thêm cả chục ngoài giồng khoai lang ngoài vườn đang xuống củ, và nhà của nó trụ được giông gió phải đến chục năm nữa, mới phải sửa sang”.
Nhưng sự lạc quan ấy chỉ len lỏi trong suy nghĩ và những lời nói đến chính cậu cũng không bị thuyết phục. Cậu ít nói, ngay đến cả việc thuyết phục cô bạn gái ở lại bên mình cũng không làm được, làm không tới, quan trọng nhất là chính cậu cũng không tin vào sự khả thi trong lời đề nghị đó. Giữ người yêu lại không được, khuyên nhủ cùng bỏ đi biệt xứ cũng không xong. Ngay đến việc trình diện trước gia đình của người yêu, cậu cũng không đủ can đảm. Đau đớn khi phải thừa nhận, cậu bất lực hệt như một lão già hết gân, “cố gieo vào bụng” người yêu một đứa trẻ cũng không được. Tinh lực, trí lực, năng lực của Biền không thể đủ, dù cậu đang ở giai đoạn sung sức của đời người. Cuối truyện, đến Biền cũng bị thuyết phục hoàn toàn bởi câu nói của người yêu “Giờ Biền biết ra bến đò ngồi còn ý nghĩa gì, bởi sự thật, chỉ người chết mới chịu ở lại bìa cát mặn này. Biền bắt đầu nghĩ về chuyện đó, hết sức nghiêm túc”. Cái đói, cái nghèo đã thành công nuốt chửng cá thể cuối cùng. Truyện mở ra tăm tối khép lại tối tăm, hệt như tuổi trẻ của Ái và Biền, chưa kịp nở rộ đã sớm tàn trên vùng đất đói nghèo, cằn cỗi.
Sự sống đối đầu với cái Chết.
Cảnh vật nơi nhị tì và địa thế của vùng Nước Mặn.
“Bảy năm nay Thản ở yên một chỗ này. Nó giàu, chết vì u não. Mười bốn tuổi, Thản làm nên mớ nghịch lý mà dân Nước Mặn không làm sao chấp nhận được: giàu và chết, trẻ và chết, con nít và mộ lớn. Bù đắp cho cuộc đời ngắn ngủi của nó, người ta xây cho nó ngôi mộ tráng lệ, ngói lợp mái che, xung quanh ốp gạch men, bia đục từ đá hoa cương, nền mộ rộng đủ cho chục ngoài người ngồi bày tiệc”
Thản là người duy nhất không vội thoát khỏi mảnh đất này, và Thản là một người chết. Thản trở thành dẫn chứng hùng hồn cho câu nói “Chỉ người chết mới ở lại cái đất này” của Ái. Hay nói cách khác, chỉ người chết mới không thấy khổ, mới không có nguyện vọng chạy trốn khỏi mảnh đất nghèo đói này.
Cuộc làm tình của Ái và Biền trong nghĩa địa
Dễ dàng thấy được, mối quan hệ của Ái và Biền, dù không có gì sai trái nhưng cũng không phải là chính thức, không có sự chúc tụng của bất cứ ai. Họ lén lút làm tình trong nghĩa địa, nơi khởi nguồn màn đêm của cả miền Nước Mặn. Ân ái tại một nơi âm u lạnh lẽo như vậy, người đọc thừa hiểu kết cục của mối quan hệ mập mờ này. Cuộc làm tình diễn ra vừa chóng vánh, vừa lạnh lẽo. Sự chóng vánh thể hiện ở cái hối hả khi Biền “lột vỏ” Ái ngay khi hai người ở chợ về. Cái lạnh lẽo toát ra cả ở khung cảnh nghĩa địa tối tăm, cả ở lòng người nguội lạnh.
tình yêu cổ tích và giản dị, Ái có lẽ còn không tin vào tình yêu, cô chỉ tin vào một cuộc sống no đủ và ấm êm, với những “lấp lánh” từ phương xa. Chi tiết Biền ngồi bên cái đò máy bạc phếch và Ái cùng với chiếc vali đỏ bầm thật đắt giá làm sao. Với sự cũ kĩ phong sương của phương tiện mưu sinh, Biền như hòa vào không khí và cảnh vật ảm đạm nơi miền Nước Mặn. Ái, cùng với món đồ gói ghém hành trang của cô nổi bần bật trên nền đất nghĩa địa, nghĩ thế nào cũng thấy thật kệch cỡm. Khi Biền còn đang mắc kẹt với những suy tư về tương lai của hai người, Ái một mực nghĩ về việc sắm một đôi giày “coi được”. Ái không biết nhét gì cho đầy chiếc vali, cùng như cô không có bất cứ sự chuẩn bị gì cho cuộc sống mới của mình. Biền mộng ảo nhưng chân thành, Ái thực dụng nhưng phù phiếm. Nghĩ thế nào cũng khó cho rằng hai người có thể đi với nhau.
Những đoạn đối thoại ngắn ngủn của Ái và Biền cũng đủ thấy họ còn không có tiếng nói chung. Biền cố gắng phát những tín hiệu, tuyệt vọng và nghẹn đắng trong từng lời nói, níu kéo để Ái ở lại bên mình. Ái thì không để ý, không nghe thấy, hoặc ngó lơ, hoặc coi thường, hoặc từ chối những lời đề nghị đó.
Biền cố gắng từng chút, cố định cô bằng mọi cách: là gắn chặt cô vào mình để hai đứa hòa làm một, là cố gieo vào bụng Ái một đứa con, là cố gắng dùng tay để nắm lấy và thấu hiểu người mình yêu; là sát bước cô khi cả hai bước vào màn đêm tăm tối,… Tất cả mọi hành động đều tuyệt vọng, đều tỏ ra đuối sức và khiên cưỡng.
Càng về sau, khoảng cách giữa Ái và Biền càng xa. Đầu truyện, Ái và Biền dính lấy nhau trong bãi tha ma, hai người dính chặt đến độ Biền cảm thấy như có thể đọc được lời nói của Ái qua mạch đập ở cổ. Biền giữ chặt ái bằng cả cơ thể, cảm nhận cô bằng đủ các giác quan. Sau đó hai người nối đuôi nhau đi trong màn đêm, Biền cảm giác như thể lạc khỏi người yêu, chỉ còn có thể cảm nhận được Ái qua mùi mồ hôi đậm nhạt trong không khí. Cuối truyện, hình ảnh, mùi hương, cảm giác về Ái cũng không còn, chỉ còn Biền chơ vơ trên con đò máy bạc phếch, ngơ ngác nghĩ về tương lai.
Có lẽ Biền chưa bao giờ có được Ái, cả trong tư tưởng, trong cảm xúc và cả về thể xác. Chỉ có điều trong quá khứ, hoàn cảnh đẩy đưa họ thành một cặp, và trong hiện tại, hoàn cảnh cũng tiễn họ ra xa.
Trong mối quan hệ, chỉ Biền là người chủ động. Biền như một bến đậu, một khoảng trời nho nhỏ còn Ái là đám mây du đãng đi qua cuộc đời Biền. Điều này cũng trái ngược với quan niệm xưa về tình yêu đôi lứa: người con trai thường là con thuyền còn người con gái là bến đỗ.
Sự tác hợp của hai bên gia đình
Mối quan hệ của Ái và Biền không có sự tác hợp của bất cứ ai. Không một ai còn sống chứng giám cho mối quan hệ của hai người mà chỉ có người âm. Đó là những hồn ma nằm sâu dưới lòng đất nơi nghĩa địa hai người làm tình mà trong đó có thằng Thản, đứa bé nhà giàu chết trẻ; là người mẹ nghèo tội nghiệp đã mất của Biền. Thêm nữa là những đứa con trai trong xóm thầm hiểu về mối quan hệ giữa hai người nên chủ động dạt ra khỏi Ái – điều này là do Biền “đánh dấu lãnh thổ” bằng cách xui lũ trẻ con rêu rao về những tiếp xúc da thịt với Ái – cũng rất ấu trĩ và tuyệt vọng. Gia đình Ái cũng có thể biết về mối quan hệ này, nhưng đương nhiên sẽ không ai ủng hộ cho hai người. Biền thậm chí còn không được chào đón ở nhà Ái do những thù hận xưa cũ giữa các bậc phụ huynh. Thực tế là Ái đã được đặt vào một cuộc hôn nhân mà Biền không thể can dự vào.
Má của Biền, người cũng nghèo khổ, đang nằm dưới nấm mộ bao bọc bởi bụi xương khô ủ rũ, có lẽ cũng không hạnh phúc với mối quan hệ của Ái và Biền. Khi còn sống, bà nghèo khó và bạo bệnh. Từng ngày từng giờ, bà muốn Biền ở cạnh bên lâu hơn một chút vậy mà Biền vẫn lẻn trốn đi chơi với Ái. Câu nói “Đừng bỏ má” nghe xé ruột xé gan. Biền hẳn rất ân hận vì đã chưa báo hiếu được người mẹ cả đời vất vả. Má Biền thì ra cũng từng cố định Biền vào lòng, nhưng không được. Và hiện tại, Biền cũng cố gắng làm điều mà thế hệ trước đã không làm được.Vĩ thanh
Tôi đọc “Cố định một đám mây” nhiều hơn số lần mà tôi có thể nhớ được. Tôi chưa từng ở trong hoàn cảnh như những nhân vật trong truyện, nhưng tôi nghĩ rằng ở đâu đó tôi hiểu họ. Nguyễn Ngọc Tư kể chuyện như tâm sự, như khóc than nhưng không bi lụy. Một số người nhận định rằng truyện sử dụng ngôn từ quá dài dòng, câu nệ làm giảm đi sự chân thành trong lời văn. Tôi thì nghĩ khác. Đó là chất của Nguyễn Ngọc Tư. Sự “lâu la” đó đối nghịch hoàn hảo với sự ngắn gọn của tình tiết trong truyện. Thật thô bạo khi cho rằng nhà văn nói thừa trong khi họ chỉ đang nói những gì họ cần nói. Văn của Nguyễn Ngọc Tư khi nói về những cảnh vật “xấu xí”, thê lương vẫn rất đẹp, rất trong sáng và thánh thiện. Truyện ngắn và cả tập truyện nói chung có khác so với những tác phẩm trước đó của nhà văn vẫn không làm mất tính thiện trong văn của Nguyễn Ngọc Tư xưa nay.
Mời các bạn mượn đọc sách Cố Định Một Đám Mây của tác giả Nguyễn Ngọc Tư.