Cuốn sách Chủ Nghĩa Khắc Kỷ của tác giả William B. Irvine là một lời khuyên thiết thực dành cho những ai đang tìm kiếm một triết lý sống hiệu quả.
Tác giả không chỉ giới thiệu về triết lý Khắc kỷ cổ đại mà còn chia sẻ cách áp dụng nó vào cuộc sống hiện đại. Qua đó, giúp bạn có được một cuộc sống ý nghĩa và trọn vẹn hơn.
Dưới đây là một số điểm nổi bật của cuốn sách:
Dù bạn là ai, bạn đều có thể tìm thấy giá trị trong cuốn sách này. Cho dù bạn là một người đang tìm kiếm một triết lý sống mới, hay đơn giản là muốn cải thiện sức khỏe tinh thần của mình, Chủ Nghĩa Khắc Kỷ sẽ là một nguồn tài nguyên hữu ích dành cho bạn.
Mời các bạn đón đọc Chủ Nghĩa Khắc Kỷ – Phong Cách Sống Bản Lĩnh Và Bình Thản của tác giả William B. Irvine
—
PHẦN MỘT: SỰ HÌNH THÀNH CỦA CHỦ NGHĨA KHẮC KỶ
1.Triết học quan tâm đến cuộc sống
Trong lịch sự nhân loại có lẽ chưa bao giờ vắng bóng các triết gia, theo ý nghĩa nào đó của từ này. Họ không chỉ đặt ra các câu hỏi – chẳng hạn như Thế giới đến từ đâu? Con người đến từ đâu? và Tại sao lại có cầu vồng? – mà quan trọng hơn, họ tiếp tục đặt ra những câu hỏi tiếp theo. Ví dụ khi nói rằng thế giới được các vị thần tạo ra, các triết gia cổ đại sẽ thấy câu trả lời này không đi đến tận cùng vấn đề. Họ sẽ tiếp tục hỏi tại sao các vị thần tạo ra thế giới, họ tạo ra nó như thế nào, và – gây bực bội nhất cho những ai đang cố gắng trả lời các câu hỏi của họ – ai đã tạo ra các vị thần.
Tư duy triết học đã có một bước tiến vượt bậc vào thế kỷ thứ sáu trước công nguyên (TCN). Chúng ta có Pythagoras (570-500 TCN) ở Ý; Thales (636-546 TCN), Anaximander (641-547 TCN), và Heracleitus (535-475 TCN) ở Hy Lạp; Khổng Tử (551-479 TCN) ở Trung Quốc; và Đức Phật (563-483 TCN) ở Ấn Độ. Chúng ta không rõ liệu những cá nhân này có khám phá ra triết lý của họ một cách độc lập hay không; cũng như không rõ ảnh hưởng triết học chảy theo chiều hướng nào, nếu quả thực là có một ảnh hưởng như thế.
Nhà viết tiểu sử người Hy Lạp Diogenes Laertius, từ góc nhìn thuận lợi của thế kỷ thứ ba công nguyên (CN), đã cung cấp một tài liệu lịch sử về triết học thời kỳ đầu rất dễ đọc (nhưng không hoàn toàn đáng tin cậy). Theo Diogenes, triết học phương Tây thời kỳ đầu có hai nhánh riêng biệt. Một nhánh – mà ông gọi là nhánh Ý – bắt đầu với Pythagoras. Nếu tiếp tục lần theo những người kế tục Pythagoras, chúng ta cuối cùng sẽ bắt gặp Epicurus, người khai sinh ra trường phái triết học từng là đối thủ chính của trường phái Khắc kỷ. Một nhánh khác – Diogenes gọi là nhánh Ionian – bắt đầu với Anaximander, người sinh ra (về phương diện trí tuệ và giáo dục) Anaximenes, người sinh ra Anaxagoras, người sinh ra Archelaus, người sinh ra Socrates (469-399 TCN).
Socrates đã sống một cuộc đời phi thường. Cái chết của ông cũng phi thường không kém: ông bị xét xử vì tội làm hư hỏng giới trẻ Athens và những hành vi sai trái khác, bị công dân trong thành kết án tử hình bằng cách uống thuốc độc. Ông có thể tránh được hình phạt này nếu cầu xin tòa khoan hồng hoặc bỏ trốn sau khi bản án đã được tuyên. Nhưng các nguyên tắc triết lý của ông không cho phép ông làm như vậy. Sau cái chết của Socrates, nhiêu học trò của ông không chỉ tiếp tục nghiên cứu triết học mà còn thu hút thêm nhiều học trò gia nhập trường phái của họ. Plato, môn đệ nổi tiếng nhất của Socrates, đã sáng lập học viên Academy, Aristippus sáng lập trường phái Cyrenaic, Euclides sáng lập trường phái Megarian, Phaedo sáng lập trường phái Elian và Antisthenes sáng lập trường phái Yếm thế. Hoạt động triết học từng chỉ là một dòng chảy nhỏ giọt trước thời Socrates đã trở thành một dòng chảy thực sự sau cái chết của ông.
Tại sao mối quan tâm về triết học lại bùng nổ như vậy? Một phần vì Socrates đã thay đổi trọng tâm tìm hiểu của triết học. Trước Socrates, các triết gia chủ yếu quan tâm đến việc giải thích về thế giới xung quanh họ và các hiện tượng của thế giới đó – chính là thứ mà chúng ta bây giờ gọi là khoa học. Mặc dù Socrates từng nghiên cứu khoa học lúc còn trẻ, nhưng ông đã từ bỏ nó để tập trung vào thân phận con người. Như nhà hùng biện, chính trị gia và triết gia La Mã Cicero đã nói, Socrates là “người đầu tiên kéo triết học từ trên trời xuống mặt đất, đặt nó vào các thành phố của loài người, đưa nó đến các gia đình và buộc nó đặt ra những câu hỏi về cuộc sống, đạo đức và những điều thiện ác”. Học giả Francis MacDonald Cornford mô tả tầm quan trọng của triết học Socrates bằng những lời lẽ tương tự: “Triết học tiền Socrates bắt đầu… với công cuộc khám phá Tự nhiên; triết học Socrates bắt đầu với công cuộc khám phá Tâm hồn con người.”
Tại sao sau hai mươi bốn thế kỷ, Socrates vẫn là một nhân vật ấn tượng đến vậy? Đó không hẳn là vì những khám phá triết học của ông; suy cho cùng, những nhận định triết học của ông về cơ bản là bi quan: ông cho chúng ta thấy những điều chúng ta không biết. Theo triết gia Luis E. Navia, “ở đây [Socrates], có lẽ hơn bất kỳ triết gia lớn nào khác, chúng ta tìm thấy tấm gương về một người có khả năng đưa những mối quan tâm mang tính lý thuyết và suy diễn vào cuộc sống sinh hoạt thường ngày”. Navia mô tả ông là “một thí dụ điển hình về hoạt động triết học trong cả tư tưởng lẫn hành động”.
Có lẽ một số người bị Socrates thu hút chủ yếu là do ấn tượng với lý thuyết của ông, còn số khác lại ấn tượng sâu sắc trước lối sống của ông. Plato thuộc về nhóm đầu; tại học viện Academy của mình, Plato thích khám phá lý thuyết triết học hơn là rao giảng lời khuyên về lối sống. Ngược lại, Antisthenes ấn tượng sâu sắc với lối sống của Socrates; trường phái Yếm thế mà ông sáng lập không sa đà vào lý thuyết triết học mà tập trung khuyên nhủ con người cần phải làm gì để có một cuộc sống tốt đẹp.
Như thể Socrates sau khi qua đời đã phân tách thành Plato và Antisthenes, với Plato kế thừa mối quan tâm của Socrates về lý thuyết và Antisthenes kế thừa mối quan tâm của ông với việc sống cuộc đời tốt đẹp. Sẽ thật tuyệt vời nếu hai khía cạnh này của triết học phát triển mạnh mẽ trong những thiên niên kỷ tiếp theo, bởi lẽ con người sẽ nhận được nhiều lợi ích từ cả lý thuyết triết học và việc áp dụng triết học vào cuộc sống. Đáng tiếc là mặc dù khía cạnh lý thuyết của triết học đã trở nên hưng thịnh, khía cạnh thực tiễn lại lụi tàn.
Dưới sự cai quản của một thể chế nhà nước chuyên quyền như Ba Tư cổ đại, khả năng đọc, viết và làm toán rất quan trọng với chính quyền, còn khả năng thuyết phục người khác thì lại bị xem nhẹ. Chính quyền chỉ cần đưa ra mệnh lệnh, những người dưới quyền sẽ răm rắp tuân theo. Tuy nhiên, ở Hy Lạp và La Mã, sự phát triển của chế độ dân chủ đồng nghĩa với việc những người có khả năng thuyết phục người khác sẽ dễ thành công hơn trong sự nghiệp chính trị hoặc luật pháp. Một phần vì lý do này mà các bậc cha mẹ giàu có ở Hy Lạp và La Mã luôn tìm kiếm những người thầy có thể giúp con họ phát triển khả năng thuyết phục người khác, sau khi đứa trẻ hoàn thành chương trình giáo dục phổ thông.
Các bậc cha mẹ này có thể tìm đến những nhà ngụy biện, đó là những người đặt mục tiêu dạy cho học sinh chiến thắng trong các cuộc tranh luận. Để đạt được mục tiêu này, các nhà ngụy biện sẽ dạy nhiều kỹ thuật thuyết phục khác nhau, gồm cả thuyết phục lý trí và thao túng cảm xúc. Cụ thể, họ dạy học sinh cách tranh luận nhằm ủng hộ hoặc phản bác lại bất kỳ nhận định nào. Cùng với việc phát triển kỹ năng tranh luận của học trò, họ còn phát triển kỹ năng hùng biện của chúng, để chúng có thể truyền đạt hiệu quả các lý lẽ của mình.
Ngoài ra, các bậc cha mẹ có thể tìm đến một triết gia. Giống như các nhà ngụy biện, các triết gia cũng dạy các kỹ thuật thuyết phục, nhưng điểm khác là họ tránh thao túng cảm xúc. Không như các nhà ngụy biện, các triết gia cho rằng bên cạnh việc dạy học sinh cách thuyết phục người khác, họ cũng nên dạy chúng cách sống cho tốt. Bởi thế, theo nhà sử học H. I. Marrou, họ luôn nhấn mạnh đến “khía cạnh đạo đức của giáo dục, sự phát triển của nhân cách và đời sống nội tâm”. Trong quá trình giảng dạy, nhiều triết gia cung cấp cho học sinh một triết lý sống: họ dạy chúng những điều gì đáng để theo đuổi trong cuộc sống và cách tốt nhất để đạt được chúng.
Một số bậc cha mẹ muốn con cái được thụ hưởng nền giáo dục triết học đã thuê các triết gia làm gia sư; ví dụ như Aristotle được vua Philip của Macedonia thuê để kèm cặp Alexander, người sau này trở thành Alexander Đại đế. Những bậc cha mẹ không đủ tiền để thuê gia sư riêng thì sẽ cho con trai họ – con gái thì rất hiếm khi – theo học một trường dạy về triết. Sau cái chết của Socrates, những ngôi trường này đã trở thành nét đặc trưng nổi bật của văn hóa Athens, và đến thế kỷ thứ hai TCN, khi La Mã chịu sự ảnh hưởng của văn hóa Athens, các ngôi trường triết học cũng bắt đầu xuất hiện ở Rome.
Các ngôi trường triết học hiện không còn tồn tại, và đây là một điều đáng tiếc. Đúng là triết học vẫn còn được dạy ở các trường nhưng so với các trường triết học thời cổ đại, vai trò văn hóa của các khoa triết đã thay đổi hoàn toàn. Bởi một lẽ, hiếm có sinh viên nào học triết ở trường đại học là do khao khát có được một triết lý sống; thay vào đó, họ cố học chỉ vì giáo sư hướng dẫn của họ bảo rằng nếu không học thì không được tốt nghiệp. Và giả dụ họ có muốn tìm kiếm một triết lý sống thì cũng khó tìm được một khóa học cung cấp điều đó tại đa số các trường đại học.
Nhưng cho dù các ngôi trường triết học chỉ còn là dĩ vãng, thì con người thời nay cũng vẫn cần có triết lý sống. Câu hỏi là họ có thể đến đâu để tìm được nó? Nếu đến khoa triết ở trường đại học, như tôi đã giải thích, có lẽ họ sẽ thất vọng. Nếu thay vào đó, họ tìm đến nhà thờ thì sao? Mục sư có thể khuyên họ những điều phải làm để trở thành một người tốt, tức là những điều phải làm để trở thành một người chính trực về mặt đạo đức. Chẳng hạn họ có thể được dạy rằng không được nói dối, ăn cắp hoặc (trong một số tôn giáo) phá thai. Mục sư có lẽ cũng sẽ giải thích những điều họ phải làm để có được một cuộc sống tốt đẹp sau khi chết. Họ nên đi lễ thường xuyên, cầu nguyện và (trong một số tôn giáo) đóng thuế thập phân. Nhưng có lẽ mục sư của họ sẽ không đề cập đến những điều họ phải làm để có được một cuộc sống tốt đẹp. Quả thực phần lớn các tôn giáo, sau khi răn dạy tín đồ những điều họ phải làm để trở thành một người có đạo đức tốt và được lên thiên đàng, lại đều phó mặc họ tự định đoạt những thứ gì đáng và không đáng theo đuổi trong cuộc sống. Các tôn giáo này thấy chẳng có gì sai khi một tín đồ lao động chăm chỉ để mua được một căn biệt thự lớn và một chiếc xe hơi thể thao đắt tiền, miễn là anh ta không làm giàu phi pháp; cũng như họ thấy chẳng có gì sai khi những tín đồ từ bỏ căn biệt thự để sống trong một túp lều và từ bỏ xe hơi để đi xe đạp.
Và nếu các tôn giáo đưa ra lời khuyên cho tín đồ về những gì đáng hoặc không đáng theo đuổi trong cuộc sống, thì họ lại thường đưa ra lời khuyên với thái độ ôn hòa, thành thử tín đồ chỉ xem nó như một gợi ý hơn là một chỉ dẫn về cách sống và do đó có thể bỏ ngoài tai lời khuyên này. Đây là lý do tại sao tín đồ của các tôn giáo khác nhau, mặc cho những khác biệt về niềm tin tôn giáo, rốt cuộc đều có cùng một triết lý sống tự phát, một dạng của chủ nghĩa khoái lạc khai ngộ. Do đó, mặc dù những người theo giáo phái Luther, giáo phái Baptist, Do Thái giáo, giáo phái Mormons và Công giáo có quan điểm tôn giáo khác nhau, nhưng họ lại rất giống nhau khi gặp bên ngoài nhà thờ hoặc giáo đường. Họ làm những công việc giống nhau và có tham vọng nghề nghiệp giống nhau. Họ sống trong những ngôi nhà giống nhau, có đồ nội thất giống nhau. Và họ đều thèm khát những sản phẩm tiêu dùng thịnh hành.
Tất nhiên là một tôn giáo cũng có thể yêu cầu tín đồ tuân theo một triết lý sống cụ thể. Chẳng hạn, giáo phái Hutterite răn dạy tín đồ rằng một trong những điều quý giá nhất của cuộc sống là ý thức cộng đồng. Do đo, tín đồ Huttente bị cấm sở hữu tài sản riêng, lý do là quyền sở hữu sẽ làm nảy sinh cảm giác ghen tị, kéo theo phá vỡ ý thức cộng đồng mà tín đồ Hutterite coi trọng. (Tất nhiên, chúng ta có thể đặt câu hỏi liệu đây có phải là một triết lý sống đúng đắn hay không.)
Tuy nhiên, hầu hết các tôn giáo đều không yêu cầu tín đồ tuân theo một triết lý sống cụ thể. Chừng nào các tín đồ không làm hại người khác và không chọc giận Chúa, họ có thể tự do sống theo ý mình. Kỳ thực, đa số mọi người cảm thấy giáo phái Hutterite vừa cực đoan vừa kỳ lạ là bởi họ không hình dung nổi bản thân thuộc về một tôn giáo răn dạy họ cách sống cuộc đời mình.
Điều này có nghĩa là ngày nay, hoàn toàn có thể xảy ra chuyện một người nào đó tuy được nuôi dạy trong một tôn giáo và tham gia các khóa triết ở trường đại học nhưng vẫn không có một triết lý sống. (Quả thật đây là tình cảnh mà đa phần các sinh viên của tôi gặp phải.) Vậy thì những người đang tìm kiếm một triết lý sống nên làm gì? Có lẽ lựa chọn tốt nhất của họ là tạo ra cho mình một ngôi trường triết học ảo bằng cách đọc tác phẩm của các triết gia từng đứng đầu các ngôi trường thời cổ đại. Điều này, ở mức độ nào đó, là điều mà tôi sẽ khuyến khích độc giả thực hiện trong những trang tiếp theo.
Vào thời Hy Lạp cổ đại, khi các ngôi trường triết học vẫn là nét đặc trưng của cảnh quan văn hóa, có nhiều ngôi trường mà các bậc cha mẹ có thể gửi con cái theo học. Giả sử chúng ta du hành ngược thời gian về năm 300 TCN và được một triết gia dẫn đi tham quan Athens. Chúng ta có thể bắt đầu hành trình ở Agora, nơi một thế kỷ trước đó, Socrates từng tranh biện với các công dân Athens. Ở phía bắc Agora, chúng ta sẽ thấy Stoa Poikile, còn được gọi là Dãy Cột Sơn, và có thể bắt gặp Zeno xứ Citium, người sáng lập trường phái triết học Khắc kỷ, đang diễn thuyết ở đó. Địa điểm này trên thực tế là một dãy cột lớn được trang trí bằng tranh bích họa.
Trên đường tham quan Athens, chúng ta có thể tình cờ gặp triết gia Yếm thế Crates, người mà Zeno từng theo học. Mặc dù các triết gia Yếm thế thời kỳ đầu thường tụ họp gần nhà thi đấu Cynosarges – nguồn gốc tên gọi của trường phái này* – nhưng chúng ta có thể bắt gặp họ ở bất cứ đâu tại Athens, cố gắng lôi kéo (hoặc lôi xềnh xệch, nếu cần) những người bình thường vào các cuộc tranh luận về triết học. Hơn nữa, trong khi các bậc cha mẹ sẵn sàng cho con cái theo học Zeno, họ lại không khuyến khích chúng trở thành những nhà Yếm thế, bởi nếu tiếp thu tư tưởng của học thuyết này, đứa trẻ tất sẽ lựa chọn sống một cuộc đời cơ cực.
Đi về hướng tây bắc và rời khỏi thành qua Cổng Dipylon, chúng ta sẽ đến Khu vườn của những người theo trường phái Epicurean, do chính Epicurus cai quản. Trong khi Dãy Cột Sơn nằm trong thành nên việc giảng bài của các nhà Khắc kỷ chốc chốc lại bị gián đoạn do tiếng phố xá huyên náo hoặc bình luận của người đi đường, thì Khu vườn của Epicurus lại mang hơi hướng thôn dã. Khu vườn này trên thực tế là nơi những người theo trường phái Epicurean tự trồng rau.
Tiếp tục đi về hướng tây bắc, cách Agora khoảng một dặm, chúng ta sẽ đến học viện Academy, ngôi trường triết học do Plato sáng lập năm 387 TCN, hơn một thập kỷ sau cái chết của Socrates. Giống như Khu vườn của Epicurus, học viện Academy là một địa điểm thu hút những người thích tranh biện. Đây là một nơi thoái ẩn giống như công viên, có nhiều lối đi bộ và đài phun nước. Trong khuôn viên Academy là các tòa nhà được xây dựng bằng tiền của Plato và bạn bè ông. Thuyết giảng ở đó vào năm 300 TCN có lẽ là Polemo, người kế thừa vị trí chủ nhân của trường. (Triết gia Khắc kỷ Zeno, như chúng ta sẽ thấy, cũng từng theo học tại trường của Polemo một thời gian.)
Quay trở lại, đi qua thành một lần nữa và ra khỏi cổng thành, dạo bước tới vùng ngoại ô phía đông của Athens, chúng ta sẽ đến Lyceum. Trong khu vực rậm rạp cây cối này, gần một đền thờ Apollo Lykeios, chúng ta có thể thấy những người theo trường phái Peripatetic, học trò của Aristotle, đang vừa tản bộ vừa trò chuyện, và người đứng đầu nhóm có thể là Theophrastus.
Nhưng đây mới chỉ là một vài sự lựa chọn giáo dục đối với các bậc cha mẹ thời cổ đại. Bên cạnh các trường phái được đề cập ở trên, còn có các trường phái Cyrenaic, Hoài nghi, Megarian và Elea đã nói bên trên, cộng thêm một số trường phái khác được Diogenes Laertius đề cập đến, bao gồm các trường phái Eretrian, Annicerean và Theodorean, cùng với các trường phái của những người theo chủ nghĩa hạnh phúc, những người yêu thích sự thật, những người theo chủ nghĩa phản biện, những nhà lý luận theo phép loại suy, những nhà vật lý, những nhà đạo đức học và những nhà biện chứng.
Thật bất ngờ, những chàng trai trẻ không phải là đối tượng duy nhất có mặt tại các trường triết học. Có đôi lúc người cha đi học cùng con trai họ. Còn trong các trường hợp khác, những người trưởng thành tự mình đi nghe các bài giảng. Một số người chỉ đơn thuần là có hứng thú với triết học; có lẽ hồi trẻ họ từng theo học và bây giờ muốn học tiếp về triết lý sống của một trường phái nào đó. Những người khác, mặc dù chưa từng thuộc về một trường phái nào, có thể đến nghe giảng với tư cách khách mời. Động cơ của họ có lẽ cũng giống động cơ của những con người thời nay khi tham dự một buổi diễn thuyết công cộng: họ muốn được mở mang đầu óc và tiêu khiển.
Tuy nhiên, cũng có những người trưởng thành theo học các trường triết học với động cơ mờ ám. Họ muốn thành lập trường phái riêng và đi nghe bài giảng của người đứng đầu các trường phái thành công để vay mượn ý tưởng triết học cho bài giảng của họ. Zeno xứ Citium đã bị buộc tội này. Polemo tố cáo rằng động cơ của Zeno khi đi nghe các bài giảng tại học viện Academy là để ăn cắp các học thuyết của ông.
Các trường phái triết học đối địch dạy các chủ đề khác nhau. Chẳng hạn, các nhà Khắc kỷ thời kỳ đầu không chỉ quan tâm đến triết lý sống, mà còn cả vật lý và lô-gic, vì lý do đơn giản là họ cho rằng các lĩnh vực nghiên cứu đó gắn liền với nhau. Những người theo trường phái Epicurean cũng quan tâm đến vật lý (mặc dù họ có những quan điểm khác về thế giới vật chất so với các nhà Khắc kỷ) nhưng họ không quan tâm đến lô-gic. Còn những người theo trường phái Cyrenaic và thuyết Yếm thế không quan tâm đến cả vật lý cũng như lô-gic, họ chỉ giảng dạy về triết lý sống tại các ngôi trường của mình.
Mỗi trường phái này lại đưa ra cho học trò một triết lý sống khác nhau. Chẳng hạn, những người theo trường phái Cyrenaic cho rằng mục tiêu lớn lao trong cuộc sống là trải nghiệm lạc thú và do đó ủng hộ con người tận dụng mọi cơ hội để trải nghiệm nó. Những người theo chủ nghĩa Yếm thế ủng hộ lối sống khổ hạnh: Họ cho rằng nếu muốn có một cuộc sống tốt đẹp thì bạn phải học cách gần như chẳng mong cầu điều gì. Trường phái Khắc kỷ rơi vào đâu đó giữa trường phái Cyrenaic và trường phái Yếm thế: Họ cho rằng con người nên tận hưởng những điều tốt đẹp mà cuộc đời mang lại, bao gồm tình bạn và sự giàu sang, miễn là ta không bám chấp vào những điều tốt đẹp đó. Thực vậy, họ tin rằng chúng ta nên định kỳ tạm ngừng thụ hưởng những gì cuộc đời mang lại để dành thời gian suy ngẫm về sự mất mát của bất kể thứ gì mà chúng ta đang thụ hưởng.
Tham gia một trường phái triết học là chuyện nghiêm túc. Theo nhà sử học Simon Price: “Trung thành với một trường phái triết học không đơn thuần là để thỏa mãn tâm trí hoặc ra vẻ tri thức. Những người coi trọng triết lý sống của mình sẽ cố gắng sống theo triết lý đó mỗi ngày.” Và giống như tôn giáo có thể là yếu tố then chốt tạo nên bản sắc riêng của một người thời nay, các trường phái triết học cũng là thành phần quan trọng tạo nên bản sắc của một người Hy Lạp hoặc La Mã thời cổ đại. Theo nhà sử học Paul Veyne: “Một triết gia thực thụ là người sống cả đời theo học thuyết của một trường phái, điều chỉnh hành vi (thậm chí cả trang phục) theo nó, và nếu cần, sẵn sàng chết vì nó.”
Do đó, độc giả nên nhớ rằng mặc dù tôi ủng hộ triết lý sống của chủ nghĩa Khắc kỷ, thì đó cũng không phải là sự lựa chọn duy nhất cho những ai đang tìm kiếm một triết lý sống. Hơn nữa, mặc dù các nhà Khắc kỷ cho rằng họ có thể chứng minh triết lý của họ là lẽ sống đúng đắn cho cuộc đời nay thì tôi không nghĩ đó là chuyện khả thi. Thay vào đó, tôi cho rằng một người nên chọn lựa triết lý sống tùy theo tính cách và hoàn cảnh sống của mình.
Nhưng khi thừa nhận điều này, tôi xin nói thêm rằng tôi nghĩ rất nhiều người có tính cách và hoàn cành sống phù hợp để thực hành chủ nghĩa Khắc kỷ. Hơn nữa, bất kể cuối cùng một người lựa chọn tuân theo triết lý sống nào, họ cũng sẽ có một cuộc sống tốt đẹp hơn so với không có một triết lý sống nhất quán.
—
2. Các nhà Khắc kỷ đầu tiên
ZENO (333-261 TCN) là nhà Khắc kỷ đầu tiên. (Và Zeno này là Zeno xứ Citium, đừng nhầm lẫn với Zeno xứ Elea, người nổi danh vì một nghịch lý liên quan đến Achilles và một con rùa, hay với bất kỳ ông Zeno nào trong số bảy ông Zeno khác được Diogenes Laertius đề cập đến trong các bản tóm tắt tiểu sử của ông.) Cha của Zeno là một lái buôn thuốc nhuộm tím và sau những chuyến đi, ông thường mang sách về tặng cho Zeno. Trong số đó có những cuốn sách triết học mua ở Athens. Những cuốn sách này đã khơi dậy sự quan tâm của Zeno về cả triết học và Athens.
Vào khoảng năm 300 TCN, do bị đắm tàu, Zeno mắc kẹt ở Athens, và trong lúc lang thang tại đó, ông quyết định tận dụng những nguồn lực triết học mà thành phố này mang lại. Ông đến một tiệm sách và hỏi nơi có thể tìm gặp những người giống như Socrates. Ngay lúc đó thì Crates – người theo chủ nghĩa Yếm thế – đi ngang qua. Người bán sách chỉ vào ông ta và nói: “Hãy đi theo người đàn ông đằng kia”. Và thế là, như chúng ta được biết, Zeno trở thành học trò của Crates. Nhìn lại quãng thời gian này trong cuộc đời, Zeno nhận xét: Tôi đã có một chuyến đi thành công khi bị đắm tàu.”
Những người theo chủ nghĩa Yếm thế không quan tâm nhiều đến lý thuyết triết học. Thay vào đó, họ ủng hộ một lối sống triết học khá cực đoan. Họ là những người khổ hạnh. Về mặt xã hội, họ cũng giống như những người mà ngày nay chúng ta gọi là người vô gia cư: Họ sống trên đường phố và ngủ dưới nền đất. Họ chỉ sở hữu quần áo mặc trên người, thường là một cái áo choàng rách nát, thứ mà người xưa gọi là “y phục của người Yếm thế”. Họ sống cuộc đời giật gấu vá vai hết ngày này qua tháng nọ.
Khi ai đó nói với Epictetus – một người hiểu rõ về chủ nghĩa Yếm thế, mặc dù bản thân ông là một nhà Khắc kỷ – rằng anh ta định gia nhập trường phái Yếm thế, Epictetus sẽ giải thích những hệ quả của việc trở thành một người Yếm thế: “Anh phải hoàn toàn gạt bỏ ý muốn chiếm hữu, và phải ngăn ngừa tất cả những gì nằm trong phạm vi ý chí: anh không còn được dung dưỡng sự tức giận, phẫn nộ, ganh tị, lòng thương hại: một cô thiếu nữ, một danh vọng, những sở thích hoặc những chiếc bánh ngọt không được còn có ý nghĩa gì với anh.” Một người Yếm thế, như ông giải thích, “phải có một tinh thần bền bỉ to lớn mới có thể xuất hiện trước quần chúng với dáng vẻ vô cảm như sắt đá. Những lời mạt sát, lăng mạ hay những tai họa chẳng có nghĩa lý gì đối với anh ta.” Có thể thấy là ít ai đủ can đảm và sức chịu đựng để sống cuộc đời của một người Yếm thế.
Những người Yếm thế nổi tiếng là khôn ngoan và thông thái. Chẳng hạn, khi ai đó hỏi một người đàn ông nên kết hôn với kiểu phụ nữ nào, Antisthenes đáp rằng dù có chọn mẫu phụ nữ nào làm vợ thì anh ta cũng sẽ hối tiếc về cuộc hôn nhân đó: “Nếu nàng xinh đẹp, anh sẽ không có được nàng cho riêng mình; còn nếu nàng xấu xí, anh sẽ phải trả giá đắt. Bàn về mối quan hệ của chúng ta với những người khác, ông nhận xét rằng “thà rơi vào tay lũ quạ còn hơn là những kẻ xu nịnh; bởi trong trường hợp đầu tiên, ta bị ăn thịt khi đã chết, trong trường hợp còn lại, ta bị ăn thịt khi đang sống”. Ông cũng khuyên thính giả của ông “hãy chú ý đến kẻ thù của bạn, vì họ là những người đầu tiên phát hiện ra lỗi lầm của bạn”.
Diogenes thành Sinope (đừng nhầm lẫn với Diogenes Laertius, người đã viết một bản tóm tắt tiểu sử về ông và các triết gia khác) là học trò của Antisthenes và trở thành người theo chủ nghĩa Yếm thế nổi tiếng nhất. Để ủng hộ lối sống đơn giản, Diogenes nhận xét rằng “các vị thần đã ban cho loài người các phương tiện sống dễ dàng, nhưng điều này đang bị che khuất, bởi vì chúng ta đòi hỏi bánh mật ong, thuốc mỡ và những thứ tương tự”. Ông cho rằng con người thật điên rồ vì chọn cuộc sống khổ sở trong khi có quyền năng để được hạnh phúc. Vấn đề là “người xấu tuân theo những ham muốn của họ cũng giống như tôi tớ tuân lệnh chủ nhân”, và do không thể kiểm soát được những ham muốn của bản thân nên họ không bao giờ có thể thỏa mãn.
Diogenes quả quyết rằng các giá trị của con người đang trở nên bại hoại. Ông lấy ví dụ minh họa là một bức tượng vốn chỉ để làm cảnh có thể tiêu tốn ba ngàn drachma*, trong khi chỉ với hai xu là đã mua được một đấu bột lúa mạch, thực phẩm duy trì mạng sống. Ông tin rằng cơn đói là món khai vị tốt nhất, và bởi ông đợi đến khi cảm thấy đói hoặc khát rồi mới ăn hoặc uống, nên “ông ăn một chiếc bánh lúa mạch với niềm thỏa mãn lớn hơn cả những người ăn loại thực phẩm đắt tiền nhất, và thích thú uống nước từ một dòng suối hơn cả những người đang uống rượu Thasian”. Khi ai đó đề cập đến chuyện ông không có nhà cửa, Diogenes đáp rằng ông đã ở trong những ngôi nhà to lớn nhất tại mọi thành phố – đó là những ngôi đền thờ và nhà thi đấu thể thao. Và khi được hỏi ông đã học được gì từ triết học, Diogenes đáp: “Có chuẩn bị cho mọi vận mệnh”. Câu trả lời này báo trước về một chủ đề quan trọng của chủ nghĩa Khắc kỷ.
Những người Yếm thế không rao giảng triết học ở vùng ngoại ô, như Epicurus và Plato, mà trên đường phố của Athens, giống như Socrates. Và tương tự Socrates, những người Yếm thế không chỉ nỗ lực hướng dẫn cho học trò mà là cho bất cứ ai, kể cả những người không muốn được dạy. Thật vậy, triết gia Yếm thế Crates – người thầy triết học đầu tiên của triết gia Khắc kỷ Zeno – không chỉ dừng lại ở việc kêu gọi những người ông gặp trên đường phố, ông còn tự tiện xông vào nhà dân để thuyết giảng cho những người trong nhà. Vì thói quen này mà ông còn được gọi là “Người mở cửa”.
Sau khi theo học Crates một thời gian, Zeno nhận thấy rằng ông quan tâm đến lý thuyết hơn so với Crates. Do đó, ông nảy ra ý tưởng là không chỉ tập trung vào một lối sống hoặc lý thuyết triết học, mà kết hợp lối sống với lý thuyết, theo cách mà Socrates đã làm. Nhà triết học người Đức thế kỷ 19 Arthur Schopenhauer đã tóm tắt mối quan hệ giữa chủ nghĩa Yếm thế và chủ nghĩa Khắc kỷ bằng nhận định rằng các triết gia Khắc kỷ tiếp nối các triết gia Yếm thế “bằng cách thay đổi thực hành thành lý thuyết”.
Do đó, Zeno bắt đầu tìm hiểu lý thuyết triết học. Ông theo học Stilpo của trường phái Megarian. (Crates đã phản đối và cố kéo ông ra.) Ông cũng theo học Polemo ở học viện Academy, và vào khoảng năm 300 TCN, ông bắt đầu sáng lập trường phái triết học riêng. Trong bài giảng của mình, ông dường như pha trộn lời khuyên về lối sống của Crates với lý thuyết triết học của Polemo. Trong sự pha trộn này, ông cũng hợp nhất mối quan tâm về lô-gic và nghịch lý của trường phái Megarian.
Trường phái triết học của Zeno ngay lập tức có được tiếng vang. Học trò của ông ban đầu được gọi là Zenonian, nhưng vì ông có thói quen giảng bài ở Stoa Poikile, nên sau này họ được gọi là những nhà Stoic*.
Một điều làm cho chủ nghĩa Khắc kỷ trở nên thu hút là nó từ bỏ chủ nghĩa khổ hạnh của người Yếm thế: các nhà Khắc kỷ chủ trương lối sống đơn giản nhưng vẫn cho phép con người được ăn ngon mặc đẹp. Họ lập luận rằng nếu tránh xa những “điều tốt đẹp” như cách của những người Yếm thế, họ chỉ chứng tỏ rằng những thứ đó là thực sự tốt đẹp – đó là những thứ, nếu họ không che giấu chúng khỏi chính mình, họ ắt sẽ thèm muốn. Các nhà Khắc kỷ tận hưởng bất cứ thứ tốt đẹp nào đến với họ, nhưng họ cũng chuẩn bị tinh thần để từ bỏ những thứ đó.
Triết học của Zeno bao hàm đạo đức, vật lý và lô-gic. Những người theo học chủ nghĩa Khắc kỷ dưới thời của ông bắt đầu với lô-gic, rồi chuyển sang vật lý và kết thúc bằng đạo đức.
Mặc dù các nhà Khắc kỷ không phải là những người đầu tiên tìm hiểu về lô-gic – chẳng hạn, Aristotle cũng như những người theo trường phái Megarian đã làm điều đó trước họ – nhưng lô-gic học của phái Khắc kỷ cho thấy một mức độ công phu chưa từng thấy. Mối quan tâm với lô-gic của các nhà Khắc kỷ là hệ quả tự nhiên của niềm tin rằng đặc điểm phân biệt con người với động vật là lý tính của anh ta. Suy cho cùng, lô-gic là môn học về cách sử dụng lập luận chính xác. Các nhà Khắc kỷ trở thành chuyên gia về các hình thức tranh luận, ví dụ “Nếu A, thì B; Không A, do đó B” hay “Hoặc A hoặc B; nhưng không A, do đó B”. Những hình thức lập luận đó lần lượt được gọi là modus ponens (khẳng định luận) và modus tollendo ponens (phủ định – khẳng định), hiện vẫn được các nhà lô-gic học sử dụng.
Để hiểu mối quan tâm của các nhà Khắc kỷ với lô-gic, ta cần nhớ rằng các bậc cha mẹ gửi con cái theo học các trường triết học với kỳ vọng rằng chúng không những học được cách sống tốt mà còn có thể mài giũa kỹ năng thuyết phục. Bằng cách dạy lô-gic cho học trò, các nhà Khắc kỷ giúp chúng phát triển những kỹ năng đó: những học trò hiểu lô-gic có thể phát hiện ra lỗi ngụy biện của người khác và nhờ vậy chiếm ưu thế trong các cuộc tranh luận.
Vật lý là thành phần thứ hai trong chủ nghĩa Khắc kỷ của Zeno. Sống trong một thời đại chưa có khoa học, các học trò của Zeno hiển nhiên sẽ đánh giá cao những lý giải về thế giới xung quanh họ. Và bên cạnh việc đưa ra giải thích về các hiện tượng tự nhiên, giống như cách làm của vật lý hiện đại, vật lý của chủ nghĩa Khắc kỷ còn quan tâm đến cái mà chúng ta gọi là thần học. Ví dụ, Zeno cố gắng giải thích những thứ như sự tồn tại và bản chất của các vị thần, lý do các vị thần tạo ra vũ trụ và con người, vai trò của các vị thần trong việc định đoạt kết quả của các sự kiện, và mối quan hệ đúng đắn giữa con người với các vị thần.
Đạo đức là thành phần thứ ba và quan trọng nhất trong chủ nghĩa Khắc kỷ của Zeno. Độc giả cần nhận ra điểm khác biệt giữa quan niệm của chủ nghĩa Khắc kỷ và quan niệm hiện đại về đạo đức. Chúng ta xem đạo đức học là ngành nghiên cứu tính đúng sai về mặt đạo đức. Chẳng hạn, một nhà đạo đức học thời nay sẽ muốn tìm hiểu xem việc phá thai có được phép về mặt đạo đức hay không, và nếu được thì trong hoàn cảnh nào. Ngược lại, đạo đức của chủ nghĩa Khắc kỷ là đạo đức eudaemonistic, theo tiếng Hy Lạp eu nghĩa là “tốt” và daimon nghĩa là “tinh thần”. Nó không quan tâm đến tính đúng sai về mặt đạo đức, mà quan tâm đến việc có một “tinh thần tốt”, tức là đến việc sống một cuộc đời hạnh phúc, tốt đẹp – hoặc quan tâm đến cái còn được gọi là trí tuệ đạo đức. Như nhà triết học Lawrence C. Becker đã nói: “Đạo đức của chủ nghĩa Khắc kỷ là một dạng chủ nghĩa hạnh phúc. Mối quan tâm chính của nó là về những gì chúng ta cần làm để sống tốt và phát triển.” Theo nhà sử học Paul Veyne: “chủ nghĩa Khắc kỷ không hẳn là một tiêu chuẩn đạo đức bởi nó là một phương pháp nghịch lý để đạt được hạnh phúc.”