"
Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới
Ebooks
Nhóm Zalo
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới
Tác giả: Haruki Murakami
Thể loại: Tiểu Thuyết
Dịch giả: Lê Quang
Biên soạn: Diana C.
Website: http://motsach.info
Date: 21-October-2012
Trang 1/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
Giới Thiệu
Sao vầng dương còn chói sáng?
Chim chóc vẫn ca vang?
Chúng không hay thế giớ sắp lụi tàn?
“The End of the World”, nhạc và lời: Sylvia Dee/Arthur Kent
Một tác phẩm khoa học giả tưởng, truyện trinh thám và bản tuyên ngôn của chủ nghĩa hậu hiện đại kết hợp trong cuốn tiểu thuyết dung lượng đồ sộ. Murakami đã hợp nhất Đông - Tây, bi - hài, sự thờ ơ và lòng trắc ẩn, ngôn ngữ lóng thông tục và các tư tưởng triết học siêu hình trong câu chuyện đặc sắc về toán sư 35 tuổi ly hôn trong hành trình đi xuống thế giới ngầm mang màu sắc Kafka dưới lòng Tokyo hiện đại. Kết quả là Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới với những tưởng tượng sáng tạo phóng túng và một trạng thái lắng đọng sâu xa của tâm thức, góp phần tạo nên thành công lớn làm gia tăng đáng kể lượng độc giả của Haruki Murakami trên toàn thế giới.
Tiểu thuyết Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới được trao Giải thưởng Văn học Tanizaki uy tín của Nhật Bản năm 1985.
“Một tiểu thuyết gia xuất sắc... ông nắm bắt được nỗi đau chung trong tâm hồn và trí óc của con người đương đại.”
- Jay Mclnerney
“Tồn tại khái niệm kỳ bí mang tên Hiệu ứng Murakami: đọc sách của ông người ta trở nên trầm lặng, vì bắt buộc phải chìm đắm vào một trạng thái thiền.”
- Frankfurter Allgemeine Zeitung
“Haruki Murakami thành công trong nỗ lực kết hợp Stephen King, Franz Kafka và Thomas Pynchon ở tác phẩm của mình. Ông là một trong những cây bút đương đại bậc thầy.”
- Der Tagesspiegel
“Khi viết cuốn sách này, một hình mẫu quan trọng của tôi là huyền thoại về Orpheus xuống địa phủ tìm người vợ yêu đã khuất. Xưa kia con người từng quan niệm dưới bề mặt này còn một thực tại khác nữa. Giờ đây tôi vẫn tin như vậy, dĩ nhiên là hiểu theo nghĩa ẩn dụ. Có thể hình dung thế giới chúng ta đang sống là một ngôi nhà. Có tầng trệt, tầng lầu và tầng hầm. Tôi tin bên dưới tầng hầm vẫn còn tầng hầm nữa. Nếu thực sự muốn, chúng ta sẽ tìm được đường đi xuống. Cuốn tiểu thuyết này dẫn dụ ta theo hướng đó.”
- Lời tự bạch của Haruki Murakami, 2003
Trang 2/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới được xây dựng bằng các Chương xen kẽ nhau, với hai câu chuyện được kể lại dưới góc nhìn của hai nhân vật xưng “tôi”. Câu chuyện thứ nhất diễn ra tại Tokyo, một toán sư được mời đến làm việc cho một nhà khoa học lập dị đang nghiên cứu dự án điều khiển âm thanh trong tự nhiên. Toán sư này là người làm cho Hệ thống, một tổ chức rộng lớn chuyên bảo vệ dữ liệu, đối lập với nó là Nhà máy – tổ chức của các ký hiệu sư chuyên xâm nhập dữ liệu. Ngoài Nhà máy, bọn ma đen – những sinh vật ghê rợn sống trong bóng tối cũng thèm khát chiếm hữu công trình của nhà khoa học nọ. Để chống lại, toán sư nhận nhiệm vụ mã hóa dữ liệu bằng phương pháp đặc biệt nhất của Hệ thống – sử dụng các tầng ý thức sâu mà chính anh cũng không tự nhận biết được. Bất ngờ nhà khoa học biến mất, anh không còn cách nào khác là dấn thân vào cuộc phiêu lưu dưới lòng đất hòng tìm ra ông, trước thời điểm “thế giới lụi tàn”.
Bối cảnh của câu chuyện thứ hai là một vùng đất kỳ lạ được gọi là Chốn tận cùng thế giới. Được bao quanh bởi bức tường thành chỉ có chim bay qua được, con người ở vùng đất này sống lặng lẽ, không khổ đau, không lo lắng, vì họ đã bỏ lại cái bóng của mình ngoài tường thành. Nhân vật “tôi” có nhiệm vụ là đọc các “giấc mơ xưa” tại thư viện, nhưng do mới tách ra khỏi cái bóng của mình chưa lâu, anh vẫn còn khả năng gợi lại ký ức, vẫn cảm thấy bất an trong xứ sở hoàn hảo này. Anh đứng trước hai lựa chọn, hoặc dấn thân vào những hiểm nguy vô hình để tìm đường thoát ra, hoặc ở lại và vĩnh viễn từ bỏ tâm hồn mình, một khi cái bóng đã chết hẳn...
Hai nhân vật có liên quan gì đến nhau, chốn tận cùng thế giới nằm ở đâu, và thế giới lụi tàn sẽ dẫn đến điều gì? Những câu hỏi siêu hình về số phận, về bản sắc con người trong xã hội bị thống trị bởi các tổ chức bí hiểm đầy sức mạnh – là chủ đề quen thuộc mà Murakami sẽ tiếp tục sử dụng trong Biên niên kí chim vặn dây cót, Kafka bên bờ biển... Một tác phẩm khoa học giả tưởng, truyện trinh thám và bản tuyên ngôn của chủ nghĩa hậu hiện đại kết hợp trong cuốn tiểu thuyết dung lượng đồ sộ. Murakami đã hợp nhất Đông - Tây, bi - hài, sự thờ ơ và lòng trắc ẩn, ngôn ngữ lóng thông tục và các tư tưởng triết học siêu hình trong câu chuyện đặc sắc về toán sư 35 tuổi li hôn trong hành trình đi xuống thế giới ngầm mang màu sắc Kafka dưới lòng Tokyo hiện đại. Kết quả là Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới với những tưởng tượng sáng tạo phóng túng và một trạng thái lắng đọng sâu xa của tâm thức, góp phần tạo nên thành công lớn làm gia tăng đáng kể lượng độc giả của Haruki Murakami trên toàn thế giới. Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới đã được trao giải văn học Tanizaki uy tín của Nhật Bản.
Công ty cổ phần Văn hoá và Truyền thông Nhã Nam
Trang 3/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
Chương 1
Thang Máy, Im Lìm,
Mũm Mĩm
Thang máy đi lên với tốc độ chậm kinh khủng. Tôi đoán là nó đang chuyển động lên phía trên. Nhưng mà đi đâu tôi cũng không biết chắc. Nó đi chậm đến mức tôi mất cả cảm giác về phương hướng. Có thể nó đi xuống cũng nên, hoặc có khi nó chẳng nhúc nhích tí nào. Suy từ tình trạng trước đó, tôi quyết định cho là nó đi lên đi. Chỉ là đoán vậy thôi. Chẳng có cơ sở nào cả. Biết đâu nó đã lên mười hai tầng rồi tụt xuống ba tầng hay kịp làm một vòng quanh thế giới. Tôi không rõ nữa.
Cái thang máy này khác xa so với thang máy trong tòa nhà tôi đang ở, một cái máy nâng rẻ tiền với bộ dây ròng rọc cải tiến đơn sơ. Sự khác biệt lớn đến nỗi khó có ai dám tin rằng chúng là hai cỗ máy được chế ra cho cùng mục đích, có cùng cơ chế vận hành và mang cùng một tên gọi. Hai cái thang máy khác nhau đến mức tối đa mà người ta có thể tưởng tượng được.
Trước tiên là về kích thước. Cái thang máy mà tôi đang đứng trong đó lớn bằng một văn phòng xinh xinh. Nếu đặt vào đây một cái bàn giấy, két sắt và tủ tài liệu rồi kê thêm một ngăn bếp nữa thì vẫn còn khối chỗ. Tất nhiên có thêm ba con lạc đà và một cây cọ cỡ trung nữa cũng vừa. Thứ hai là sạch. Thang máy sạch như một chiếc quan tài mới đóng. Vách và trần làm bằng thép không gỉ, nhẵn lì và sáng loáng, sàn trải thảm màu xanh rêu dày dặn. Thứ ba: im ắng đến rợn người. Sau khi tôi vào trong, hai cánh cửa trượt khép lại không một tiếng động – theo đúng nghĩa đen của từ: không hề gây một âm thanh nào, và sau đó không thể nghe thấy chút gì khác nữa, khiến tôi không thể nói là thang máy giờ đây đang đứng im hay chuyển động. Sông sâu thì nước không réo.
Thêm vào đó là thiếu hẳn một phần lớn bảng điều khiển, cái thứ mà người ta vẫn cho rằng nhất định phải là trang bị cơ bản của thang máy. Trước tiên không thấy cái bảng với những nút bấm và công tắc. Không có nút bấm đề số tầng và nút đóng cửa, cả nút báo động cũng thiếu nốt. Đúng là thiếu tất. Tôi bối rối vô cùng. Và không chỉ thiếu các công tắc: các ô đèn báo số tầng, bảng hướng dẫn sử dụng và ghi số người cho phép, cả tấm biển hiệu của nhà sản xuất cũng chẳng thấy. Cũng lạ là không biết ô cửa thoát hiểm ở đâu. Một chiếc quan tài chính cống, không nghi ngờ gì nữa. Không bao giờ thanh tra xây dựng lại cấp phép cho một cái thang máy như thế này. Thang máy thì phải có những đặc tính như của thang máy chứ.
Trong khi săm soi bốn bức vách inox không một chỗ bám, tôi chợt nhớ đến những tiết mục đặc sắc của Houdini[1] mà hồi nhỏ hay thấy trên ti vi. Ông sai người trói mình nhiều vòng xích và chão rồi cho vào một va li to, lại còn chằng mấy vòng xích nặng xung quanh rồi đẩy xuống thác Niagara hay chôn xuống băng tuyết Bắc Cực. Sau khi hít một hơi thật sâu, tôi lạnh lùng so sánh tình cảnh của mình với Houdini. Lợi thế của tôi là không bị trói, nhưng dở một nỗi là tôi không biết mẹo trốn thoát.
Không, nói cho đúng thì tôi không chỉ không biết tự thoát thân: thậm chí tôi còn không biết Trang 4/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
thang máy đang chuyển động hay dừng. Tôi hắng giọng. Tiếng đằng hắng nghe có vẻ rất lạ - không giống như tiếng thông thường. Mà chỉ là một tiếng bộp đùng đục đáng ngờ, như tiếng động tạo ra khi ném một nắm bùn nhão vào tường bê tông vậy. Tiếng tôi đằng hắng đó sao? Tôi hắng giọng lần nữa cho chắc, nhưng kết quả vẫn thế. Tôi chán nản bỏ cuộc.
Tôi cứ thế đứng im một hồi khá lâu. Mãi vẫn chẳng thấy cửa mở. Thang máy và tôi lặng tờ như bức tĩnh vật mang tên “Người đàn ông trong thang máy”. Dần dần tôi bắt đầu thấy lo.
Có thể phần cơ bị hỏng, có thể người điều khiển thang máy – dĩ nhiên, nếu ở đâu đó có ai đó làm nhiệm vụ này thật – đơn giản quên béng đi mất là tôi đang ở trong cái hòm này. Đôi khi cũng từng xảy ra chuyện ai đó quên mất có tôi trên cõi đời. Nhưng gì thì gì, rốt cuộc tôi vẫn đang bị nhốt trong cái xà lim inox này. Tôi cố lắng nghe, nhưng tai tôi không thể nhận ra động tĩnh nào. Tôi ép chặt tai vào vách kim loại nhưng cũng chẳng hơn gì. Chỉ đọng lại vết tai áp vào trăng trắng. Có cảm giác như thang máy này là một hòm kim loại đặc chủng được chế tạo để cách âm. Tôi thử huýt một điệu nhạc của Danny Boy, nhưng âm thanh thoát ra nghe như tiếng thở dài của một con chó mắc chứng viêm phổi.
Tôi từ bỏ, dựa lưng vào tường và giết thời gian bằng cách đếm đồng xu trong túi quần. Thực ra, đối với những người làm nghề như tôi thì đây là một bài tập khá quan trọng, giống như võ sĩ quyền Anh chuyên nghiệp bóp bóng cao su vậy. Lặp đi lặp lại mãi một việc có tác dụng cân bằng xu hướng bấp bênh.
Lúc nào tôi cũng để ý cất một lượng tiền xu kha khá trong túi quần. Tôi đút những đồng 100 và 500 yên vào túi phải, 50 và 10 yên vào túi trái, còn những đồng 1 và 5 yên thì cất ở túi sau nhưng tuyệt đối không sử dụng khi đếm. Tôi thọc tay vào túi quần, tính số tiền gồm những đồng 100 và 500 yên bằng tay phải, đồng thời tay trái đếm chỗ 50 và 10 yên.
Ai chưa từng tính tiền kiểu này thì khó có thể tưởng tượng được, nhưng ban đầu quả thật đây là một việc khá phức tạp. Bán cầu não phải và trái phải làm hai con tính hoàn toàn khác nhau, không khác gì chắp những mảnh vụn của một quả dưa hấu vỡ lại. Không tập thì khó mà làm được.
Liệu nửa phải và nửa trái của não bộ có thực sự hoạt động riêng rẽ, tôi cũng không rõ nữa. Các nhà thần kinh học có lẽ sẽ dùng thuật ngữ khác hẳn. Nhưng tôi không phải nhà thần kinh học, và ấn tượng thường nhật của tôi là bán cầu não bên phải và bên trái của mình thực sự độc lập với nhau mỗi khi làm tính. Cảm giác mệt mỏi sau khi đếm kiểu này cũng dường như có bản chất khác hẳn với sự mệt mỏi sau khi tính toán theo kiểu bình thường.
Tôi tự cho mình là một người có cách tiếp thu các hiện tượng, sự kiện và đồ vật trên thế giới này khá thực dụng. Không phải vì tôi là dạng người thực dụng – mặc dù, thú thực là tất nhiên tính cách đó cũng đóng vai trò nhất định – mà bởi vì trong nhiều trường hợp người ta phát hiện ra bản chất sự việc qua cách tiếp cận thực dụng tốt hơn là dựa vào cách giải trình chính thống.
Thử nghĩ xem, trong cuộc sống thường nhật sẽ có hại gì không nếu ví dụ ta không coi trái đất là một quả cầu, mà là một mặt bàn cà phê khổng lồ? Dĩ nhiên đây là một ví dụ tương đối cực đoan, và không phải mọi thứ trên đời này đều có thể nghĩ ngược kiểu đơn giản như vậy. Cho dù sự thật là, nếu trái đất là một cái bàn cà phê khổng lồ theo kiểu thực dụng thì có thể thản nhiên quên luôn một mớ vấn đề lãng xẹt do cách hiểu quả đất hình cầu đem lại – lực trọng trường chẳng hạn, hay đường đổi ngày quốc tế, xích đạo và mấy thứ không có ích gì lắm. Một người
Trang 5/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
bình thường liệu có mấy lần trong đời dính dáng đến xích đạo cơ chứ?
Do vậy tôi cố gắng hiểu mọi chuyện một cách thực dụng như có thể. Quan điểm của tôi là thế giới được cấu thành bởi hàng nghìn, nếu không muốn nói là vô số khả năng. Và đến một chừng mực nào đó thì chuyện lựa chọn là tùy vào những cá thể cấu tạo nên thế giới này. Thế giới là do các khả năng ngưng tụ lại thành một cái bàn cà phê.
Đồng thời – ta hãy quay lại điểm xuất phát – dùng tay trái và tay phải làm hai con tính hoàn toàn khác nhau là một việc thực sự không đơn giản. Tôi cũng đã mất khá nhiều thời gian để đạt tới mức thành thạo. Một khi đã làm được rồi, hay nói cách khác, một khi đã dò ra được mẹo thì khả năng này sẽ không dễ gì mất đi. Đại loại như khi đã biết đi xe đạp hay biết bơi. Song không có nghĩa là không cần tập luyện. Chỉ có miệt mài tập luyện mới đạt được tiến bộ và phong độ xuất chúng. Vì vậy tôi luôn chú ý giữ tiền xu trong túi quần, cứ rỗi rãi là tôi làm tính.
Trong túi quần tôi có ba đồng 500 và mười tám đồng 100 yên, ngoài ra còn năm đồng 50 và mười sáu đồng 10 yên. Tổng cộng là 3.810 yên. Con tính dễ như chơi. Dễ hơn cả đếm các ngón trên bàn tay. Tôi hài lòng dựa lưng lên bức vách inox và nhìn chằm chằm vào cánh cửa. Nó vẫn chưa mở.
Tại sao cửa thang máy đóng lâu như vậy, đây quả là một câu đố cho tôi. Song nghĩ một lát thì tôi kết luận rằng, cả giả thiết phần cơ bị hỏng lẫn giả thiết nhân viên điều khiển lơ là quên đi sự hiện diện của tôi đều có thể an tâm loại bỏ được. Vì chúng không thực tế. Tôi hoàn toàn không có ý nói rằng trên đời này không có máy hỏng hay nhân viên lơ là. Mà ngược lại tôi tin là những trục trặc kiểu ấy xảy ra khá thường xuyên trong thực tế. Cái tôi không muốn nói ra là, trong một thực tế đặc thù – và đương nhiên tôi ám chỉ cái thang máy khốn nạn này – thì phải loại bỏ những điểm phản đặc thù và coi chúng là điểm đặc thù nghịch lý. Làm gì có chuyện những người lơ là công tác duy tu phần cơ khí, những người đẩy khách vào thang máy rồi quên họ đi, lại có thể chế tạo nổi một chiếc thang máy lập dị điệu nghệ đến mức này?
Câu trả lời hiển nhiên là: Không.
Không thể có chuyện như thế được.
Cho đến giờ bọn họ vẫn cẩn trọng, chu đáo và chính xác kinh khủng. Họ chú ý đến từng chi tiết cỏn con, cứ như thể vừa đi vừa lấy thước đo từng bước vậy.
Ở khu vực cửa vào, hai nhân viên bảo vệ ngăn tôi lại và hỏi đến gặp ai, soi tên trong danh sách những người đang đợi khách, kiểm tra giấy phép lái xe và dữ kiện cá nhân của tôi trong máy tính trung tâm, soi tôi bằng máy dò kim loại và cuối cùng đẩy tôi vào cái thang máy này. Ngay đến ngân hàng quốc gia cũng không kiểm tra khách hàng của mình nghiêm ngặt như vậy. Sau chừng ấy thủ tục, tôi có ác ý mấy cũng không thể tưởng tượng ra họ bỗng dưng đánh mất hết cảnh giác.
Vậy, chỉ còn khả năng cuối cùng là họ cố ý để tôi trong hoàn cảnh này. Hình như họ không muốn tôi nắm bắt được chuyển động của thang máy, vì thế họ cho nó chạy với vận tốc thấp để tôi khó đoán ra chiều di chuyển. Biết đâu còn có camera lắp trong này. Trong phòng bảo vệ gần cửa ra vào họ có một dãy màn hình, và tôi chẳng có gì ngạc nhiên nếu một trong những màn hình ấy đang chiếu các hình ảnh trong thang máy.
Trang 6/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
Tôi thầm nghĩ cách tìm ống kính camera để giết thì giờ, song nói cho cùng thì có ích lợi gì đâu, ngay cả khi tôi phát hiện ra nó. Người ta sẽ chỉ sinh nghi và biết đâu còn cho thang máy chạy chậm hơn nữa. Đó là điều tôi không muốn. Chỉ tổ làm tôi thêm trễ giờ một cách không cần thiết.
Rốt cuộc thì tôi mặc cho đến đâu thì đến, không làm gì nữa. Thực tình thì tôi đến đây chỉ để hoàn thành một nghĩa vụ công tác hoàn toàn hợp pháp được người ta giao cho. Tôi chẳng việc gì mà lo ngại. Không có lý do gì để phải bồn chồn cả.
Tôi dựa vào vách, thọc tay vào túi quần và bắt đầu tính chỗ tiền lẻ lần nữa. 3.750 yên. Dễ ợt. Nháy mắt là xong.
3.750 yên?
Sai rồi.
Tôi đã phạm sai lầm ở một đoạn nào đó. Trong ba năm tôi chưa hề tính sai tiền trong túi lần nào. Không một lần nào. Rõ ràng đây là điềm gở. Trước khi nó hiện nguyên hình là một tai họa thì tôi phải chiếm lại được cứ điểm đã mất.
Tôi nhắm mắt và cọ sạch hai bán cầu não, tựa như lau kính mắt vậy. Sau đó tôi rút cánh tay khỏi túi quần và xòe ra cho ráo mồ hôi. Công việc chuẩn bị này tôi làm nhanh và thành thạo như Henry Fonda trước khi bước vào cảnh đấu súng trong phim Warlock. Không liên quan gì đến lúc này, nhưng tôi khoái phim ấy.
Sau khi chắc chắn là hai tay đã khô hẳn, tôi lại cho tay vào túi quần và bắt đầu tính lần thứ ba. Nếu kết quả lần này trùng với một trong hai kết quả ban nãy thì vấn đề đã xong. Ai cũng có khi mắc lỗi. Tôi bị bối rối trong một tình cảnh đặc biệt và thú thực là cũng vì hơi tự cao tự đại một chút. Đó là lý do cho sai phạm tài tử này. Giờ thì phải xác định con số chính xác – nó sẽ là cứu tinh của tôi. Song cứu tinh chưa xuất hiện thì cửa thang máy đã mở. Không một dấu hiệu báo trước, cánh cửa im lìm trượt qua hai bên.
Vì đang mải tập trung tinh thần vào chỗ tiền xu trong túi quần, thoạt tiên tôi không nhận thấy cửa đã mở. Nghĩa là, để diễn tả cho đúng hơn: thị giác của tôi nhận thấy cửa mở ra, nhưng một lát sau vẫn không hiểu được ý nghĩa cụ thể của chuyển động ấy. Tất nhiên điều này có nghĩa là sự tái lập tính liên tục của hai không gian bị chia cắt bởi tấm cửa cho đến thời điểm đó. Đồng thời cũng có nghĩa là chiếc thang máy chở tôi đã đến đích.
Tôi chấm dứt trò chơi với ngón tay trong túi và ngó ra ngoài. Bên ngoài là một hành lang, và ở đầu hành lang có một cô gái. Cô ta béo, trẻ, vận bộ đồ màu hồng và đi giày cao gót hồng. Bộ đồ cắt rất khéo bằng vải láng, và khuôn mặt cô cũng nhẵn nhụi như vậy. Cô nhìn tôi một lát như để chắc tin, rồi gật đầu với tôi. Rõ ràng đó là dấu hiệu: “Xin mời”. Tôi bỏ trò đếm tiền xu, rút tay khỏi túi quần và bước ra. Tôi vừa ra ngoài thì tựa như chỉ đợi dịp ấy, cửa thang máy cũng đóng lại sau lưng.
Ra đến hành lang, tôi nhìn quanh quất thật kỹ nhưng không phát hiện ra điều gì khả dĩ làm sáng tỏ hơn tình cảnh của mình. Đây là hành lang một tòa nhà, rõ rồi, nhưng điều ấy thì đến thằng bé lớp Một cũng nhận ra.
Tựu trung đây là một tòa nhà với nội thất tẻ nhạt đến mức khó hiểu. Như trong chiếc thang máy Trang 7/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
trở tôi lên đây, các vật liệu được sử dụng toàn là loại thượng hạng, nhưng không có điểm nào để dừng mắt. Nền nhà bằng cẩm thạch đánh bóng sáng choang, tường sơn vàng như màu bánh mì mà tôi vẫn hay ăn sáng. Dọc hai bên hành lang là hàng loạt cửa gỗ nặng trịch, trên mỗi cửa một tấm biển kim loại ghi số phòng; tuy nhiên số phòng được đánh thất thường đến mức ngớ ngẩn. Sau số 936 là đến 1213, tiếp theo là 26. Chẳng đâu có cách đánh dấu phòng vớ vẩn như vậy. Ở đây có gì đó không ổn.
Cô gái hầu như không hé miệng. Tuy cô có nói với tôi “Mời ông đi đường này!” nhưng đó chỉ là cặp môi cô động đậy, không có tiếng nói. Trước khi làm công việc hiện tại, tôi đã theo một lớp học đọc cử động môi, nhờ vậy tôi hiểu sơ sơ ý cô. Thoạt tiên tôi tưởng tai mình có vấn đề. Lúc nãy là thang máy lặng ngắt, rồi tiếng đằng hắng và huýt sáo không ra hơi, khiến đầu óc tôi rối tung lên vì chuyện âm thanh.
Tôi thử hắng giọng. Nghe vẫn còn đùng đục nhưng đã khá hơn hẳn so với tiếng trong thang máy. Tôi nhẹ người và lấy lại được tự tin về thính giác của mình. Tai tôi thế là ổn. Có nghĩa vấn đề là ở miệng cô gái.
Tôi đi theo sau cô. Trong hành lang trống trải, tiếng gót giày nhọn của cô vang lách cách như trong một mỏ đá ngay sau giờ nghỉ trưa. Nền cẩm thạch phản chiếu bắp chân đi tất của cô.
Cô gái béo. Trẻ và xinh, nhưng dù vậy vẫn béo. Phụ nữ béo có điều gì đó đáng chú ý, nhất là lại còn trẻ và xinh. Trong lúc theo sau lưng cô, tôi ngắm gáy, tay và chân cô. Thân hình cô mũm mĩm, tựa như đêm qua có một trận mưa tuyết đã dịu dàng phủ lên vậy.
Khi ở cạnh các cô gái trẻ, xinh và béo, lúc nào tôi cũng cực kỳ lúng túng. Chính tôi cũng không rõ tại sao. Rất có thể vì tôi bất giác buộc phải mường tượng ra thói quen ăn uống của những cô gái ấy. Nhìn thấy một cô gái béo là tự khắc đầu tôi tán loạn những hình ảnh, như cảnh cô ta say sưa chén chỗ cải xoong trang trí nằm sót lại trên đĩa hay âu yếm dùng mẩu bánh mì quẹt nốt giọt nước xốt bơ cuối cùng. Tôi không làm khác được. Như a xít gặm thủng kim loại, đầu tôi chật cứng những hình ảnh ở bàn ăn đến nỗi không nghĩ được gì khác.
Nếu họ chỉ béo thôi thì không sao. Phụ nữ béo cũng giống mây trên trời, chúng bập bềnh trên đó và chẳng đụng chạm gì tới ta. Song nếu họ béo và trẻ và đẹp thì lại khác. Những người như thế buộc tôi phải tỏ một thái độ nhất định khi đứng trước mặt họ. Nghĩa là biết đâu ta sẽ ngủ với họ. Lên giường với một cô gái trong khi đầu óc mông lung là chuyện không đơn giản.
Điều đó hoàn toàn không có nghĩa là tôi ghét phụ nữ béo. Lúng túng và ghét không phải là hai từ đồng nghĩa. Tôi đã ngủ với một loạt cô béo, trẻ và đẹp, và nhìn chung những trải nghiệm ấy thực sự không dở. Lái được sự lúng túng sang một hướng thích hợp thì có thể có kết quả tốt đẹp, một kết quả mà đằng thằng ra thì ta không được dây phần. Tất nhiên không phải lúc nào cũng trôi chảy. Tình dục là một công việc rất tinh tế, khác hẳn chuyện ta vào siêu thị ngày Chủ nhật để mua cái phích đựng nước. Phụ nữ có thể vừa béo, vừa trẻ đẹp, nhưng dưới cái vỏ mũm mĩm ấy họ vẫn khác nhau. Tôi có thể lái một dạng mũm mĩm nào đó vào hướng thích hợp, ngược lại thì một dạng khác lại đẩy tôi vào thế lúng túng ghê gớm.
Xét về mặt ấy thì lên giường với phụ nữ béo là một thử thách đối với tôi. Béo cũng có nhiều kiểu và các kiểu ấy khác nhau như các kiểu chết vậy.
Đại để đó là những ý nghĩ của tôi trong khi đi dọc hành lang sau lưng một cô gái trẻ đẹp và béo. Trang 8/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
Cô quấn một khăn trắng quanh chiếc cổ áo của bộ đồ màu hồng rất thời trang. Bông tai vàng hình vuông lủng lẳng dưới dái tai dày dặn dễ coi của cô chớp lên cùng mỗi bước đi như đèn xi nhan ô tô. Nhìn chung, trong vẻ mũm mĩm ấy, cô vẫn là người nhẹ nhàng và thanh thoát. Tất nhiên có thể cô dùng áo nịt hay gì đó tương tự để bó người, nhưng động tác lắc hông của cô – nếu ta lôi thêm vào để bình phẩm – mang vẻ rắn rỏi dễ chịu. Tôi thấy ưa cô. Kiểu béo của cô là đúng kiểu tôi thích.
Chẳng phải tôi định thanh minh, nhưng không phải bạ cô gái nào tôi cũng thấy thích. Thậm chí ngược lại mới đúng. Vậy nên một khi thấy thích là tôi muốn kiểm tra cảm giác đó ngay, tôi muốn thử theo cách riêng của mình, liệu cảm giác ấy có thật không và nếu thật thì tiếp theo sẽ ra sao.
Vậy là tôi tiến lên ngang hàng cô ta và xin lỗi vì đã đến chậm mất tám, chín phút so với lịch hẹn.
“Tôi không ngờ thủ tục ở cửa mất thời gian đến vậy”, tôi nói. “Mà thang máy lại chậm thế. Đúng mười phút trước giờ hẹn tôi đã có mặt trước cửa rồi.”
“Tôi biết”, cô ra hiệu, thoáng gật đầu. Gáy cô tỏa hương Eau de Cologne. Một mùi hương khiến ta tưởng như đang được đứng trên một cánh đồng dưa bở vào một sớm mùa hạ. Không rõ vì sao mùi hương làm tôi chững lại, một cảm giác hi hữu, nghịch cảnh nhưng cũng buồn bã, tựa như hai hoài niệm khác kiểu nhau được chập lại tại một nơi tôi không quen. Tôi hay sa vào những tâm trạng như thế. Và chúng hầu như luôn được gợi ra bởi một thứ mùi hương đặc biệt. Vì sao ư, chính tôi cũng không lý giải nổi.
“Hành lang này dài thế nhỉ”, tôi nói để tìm cách bắt chuyện. Cô vừa đi vừa nhìn tôi. Tôi đoán tuổi cô cỡ hai mươi, hai mốt. Nét mặt cô sắc sảo, trán cao, nước da đẹp.
Cô vẫn nhìn tôi và nói “Proust”. Nghĩa là cô không nói chính xác ra chữ “Proust”, mà tôi chỉ có cảm tưởng môi cô mấp máy theo hình ấy. Trước sau vẫn không thấy tiếng. Thậm chí không nghe cả tiếng cô thở. Hệt như cô nói với tôi khi đứng bên kia một tấm kính dày vậy.
Proust?
“Marcel Proust?”, tôi hỏi.
Cô ngạc nhiên nhìn tôi. ‘Proust’, cô lặp lại. Tôi đành bỏ cuộc, lùi về vị trí cũ của mình và vắt óc tìm những từ tương ứng với cử động môi của ‘Proust’. Tôi lẩm bẩm một loạt từ vô nghĩa cùng vần, nhưng không từ nào khớp hẳn với cử động môi của cô. Rõ ràng cô vừa nói ‘Proust’. Tuy nhiên tôi không rõ có mối liên quan nào giữa Proust và đoạn hành lang dài này.
Có thể cô dùng Marcel Proust như một ẩn dụ cho hành lang dài. Nhưng nếu đúng thế chăng nữa thì ý nghĩ ấy cũng quá đột ngột và xét về cách thể hiện thì ít nhất phải gọi là bất lịch sự. Nếu cô dùng hành lang dài làm ẩn dụ cho các tác phẩm của Proust, được thôi, tôi còn chấp nhận được. Nhưng ngược lại? Đúng là đánh đố thật.
Hành lang dài như Marcel Proust?
Vậy là tôi đi suốt dọc hành lang dài sau lưng cô. Quả là dài thật. Chúng tôi rẽ hàng nghìn góc, leo lên những cầu thang ngắn năm, sáu bậc rồi lại leo xuống. Quãng hành lang này phải dài gấp năm, sáu lần tòa nhà thông thường. Có lẽ chúng tôi đang đi đi lại lại trong một bức tranh phối
Trang 9/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
cảnh ảo của Escher. Gì thì gì, chúng tôi đi mất bao lâu thì xung quanh cũng chẳng thay đổi chút nào. Nền cẩm thạch, tường vàng trứng, số phòng loạn xạ và cửa gỗ có tay nắm inox. Không có lấy một cửa sổ. Hành lang vang tiếng gót giày gõ nhịp chính xác và đều đặn như máy của cô gái, và tôi bám đuôi cô bằng đôi giày thể thao gây ra tiếng động như cao su dai đang rữa ra. Giày tôi kêu lép nhép to quá mức, khiến tôi ái ngại cho lớp đế cao su quả thực đang tan ra. Lần đầu tiên trong đời tôi đi giày thể thao trên nền cẩm thạch, vì vậy không thể đoán tiếng động như vậy là bình thường hay bất thường. Tôi bụng bảo dạ, có lẽ là nửa bình thường nửa bất thường. Vì ấn tượng của tôi là tất cả mọi thứ ở đây đều được xếp đặt theo tỷ lệ ấy.
Cô gái dừng lại đột ngột, và vì suốt cả thời gian tập trung vào tiếng lép nhép dưới đế giày nên tôi không nhìn thấy và xô ngực vào lưng cô. Cảm giác mềm mại dễ chịu như một đám mây mưa dày đặc, và từ gáy cô, hương dưa bở lại tỏa ra. Suýt nữa cô ngã chúi về phía trước vì bị xô phải, tôi vội đưa hai tay nắm vào vai cô và kéo lại.
“Xin lỗi”, tôi nói. “Tôi đang mải nghĩ.”
Cô nàng béo nhìn tôi, mặt hơi ửng đỏ. Tôi không dám chắc, nhưng có vẻ cô không bực mình. “Taszer”, cô nói và thoáng mỉm cười. Rồi cô nhún vai nói “Sela”. Tất nhiên cô không thực sự nói ra tiếng, mà – tôi nhắc lại – chỉ mấp máy cặp môi theo hình đó.
“Taszes?”, tôi phát âm như thể học thuộc. “Sela?”
“Sela”, cô xác nhận.
Nghe loáng thoáng như tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, vấn đề chỉ là tôi chưa bao giờ nghe tiếng Thổ cả. Vậy thì không phải tiếng Thổ. Dần dần tôi rối tung đầu óc, do đó tôi quyết định không chuyện trò với cô nữa. Nghệ thuật nhìn môi đoán chữ của tôi còn cần phải nâng cấp, không phải thứ nắm bắt được trong một khóa học buổi tối kéo dài hai tháng.
Cô rút một chìa khóa điện tử nho nhỏ hình ô van trong túi áo khoác ra và áp nó vào ổ khóa trên cửa phòng có biển số 728. Then cửa kêu lạch cạch. Hiện đại thật.
Cô mở cửa. Rồi nói với tôi đang đứng chặn trên ngưỡng cửa: “Somto, sela.” Tất nhiên tôi gật đầu và bước vào.
Chú thích
[1] Harry Houdini (1874 – 1926): ảo thuật gia nổi tiếng người Mỹ gốc Hungary. Ông nổi tiếng với những tiết mục tự thoát hiểm căng thẳng đến nghẹt thở
Trang 10/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
Chương 2
Bầy Thú Vàng
Đến mùa thu là toàn thân chúng phủ một lớp lông vàng ròng dày mượt. Vàng theo đúng nghĩa. Không một thứ sắc màu nào khác có thể lẫn vào được. Lông của chúng là vàng, xuất hiện trên thế gian này dưới dạng vàng và tồn tại trên thế gian này dưới dạng vàng. Với màu vàng óng không hề dính một màu pha trộn nào, chúng đứng đó giữa trời cao đất rộng.
Tôi tới thành phố vào một ngày xuân, hồi đó những con thú ấy mang lớp lông ngắn với những màu sắc khác nhau. Đen, nâu xám, hung hung và nâu đỏ. Có những con pha nhiều màu. Bầy thú với bộ lông đủ màu sặc sỡ nhẹ nhàng cuốn đi trên nền đất phủ màu xanh non như bị gió đẩy. Hầu như có thể coi chúng là những con thú hiền lành vì chúng rất trầm lặng. Ngay hơi thở của chúng cũng nhẹ như sương mai. Chúng lặng lẽ gặm cỏ, và no rồi thì rụt cẳng lại nằm lên thảm cỏ mà gà gật ngủ.
Xuân rồi hạ qua đi, và khi ánh sáng trong trẻo đã nhuốm màu bàng bạc và ngọn gió thu đầu tiên xô những con sóng trên mặt sông lững lờ thì những thay đổi bên ngoài của bầy thú bắt đầu hiện rõ. Thoạt tiên chỉ xuất hiện những đốm vàng lẻ tẻ, như những khóm cây ngẫu nhiên mọc trái mùa, nhưng chẳng bao lâu chúng tỏa ra vô số nhánh len lỏi khắp lớp lông ngắn, để rồi rốt cuộc phủ một lớp vàng lấp lánh sáng lên toàn thân. Toàn bộ diễn biến không đầy một tuần. Sự chuyển hóa bắt đầu gần như cùng lúc ở tất cả các con và chấm dứt hầu như cùng lúc. Sau một tuần, tất cả chùm một tấm chăn vàng ròng, không một ngoại lệ. Sớm hôm sau, khi ánh dương bừng lên và nhuộm thế gian trong ánh vàng tươi trẻ thì đó là lúc mùa thu về.
Riêng cái sừng dài mọc chính giữa trán chúng là trước sau vẫn mang một màu trắng quý phái. Trông nó không giống một cái sừng, đúng ra thì nên gọi là một đoạn xương gãy chọc xuyên qua da và mọc liền lại ở vị trí đó. Duy nhất và chỉ riêng màu trắng của sừng và màu lam của mắt chúng là không chuyển sang ánh vàng tuyệt mỹ. Các con thú hất đầu lên vài nhát và thúc sừng vào bầu trời thu, tựa như chúng muốn thử bộ cánh mới. Rồi chúng lội xuống làn nước sông đã chớm lạnh và nghển cổ với tới những chùm dâu đỏ mùa thu.
Khi hoàng hôn bắt đầu nhuộm tím bóng nhà cửa hiện trên nền trời, tôi trèo lên trạm canh ở bờ tường phía Tây để xem ông gác cổng thổi tù và dồn súc vật về. Tiếng tù và cất lên một nhịp dài và ba nhịp ngắn. Đó là quy định. Mỗi lần tiếng tù và vang lên là tôi lại nhắm mắt để âm thanh mềm mại ấy nhấn chìm mình. Tiếng tù và khác hẳn mọi âm thanh khác. Như một con cá trong suốt lấp lánh xanh lam, nó trườn qua đường phố đang chìm vào bóng đêm, phủ lên đá rải đường, tường nhà và lũy đất cạnh con đường chạy ven sông. Tựa như ngoằn ngoèo bò qua lớp thời gian vô hình bị khí quyển bao bọc, tiếng tù và khẽ lan tỏa đến tận hang cùng ngõ hẻm của thành phố.
Khi tiếng tù và vang lên, bầy kỳ lân cất cao đầu theo một hoài niệm ngàn xưa. Cùng lúc, hơn một nghìn con vật đứng cùng một tư thế và ngoảnh đầu về phía tiếng tù và vẳng đến. Vài con ngừng nhai nhành kim tước, một con khác ngừng nện móng lên nền đá rải đường, một con khác nữa thức giấc ngủ chiều trong tia nắng cuối cùng – và tất cả cùng cất cao đầu.
Trang 11/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
Tất cả đứng im trong khoảnh khắc này. Chỉ có bộ lông vàng ròng của chúng khẽ lay động trong gió chiều. Không rõ chúng đang nghĩ gì và đang nhìn gì. Chúng quay đầu theo cùng một góc về một hướng, và trong khi đăm đăm nhìn lên không trung thì chúng đứng im phăng phắc như tượng. Rồi tất cả dỏng tai lắng nghe tiếng tù và. Rồi cuối cùng, khi dư âm cuối cùng tan dần trong ánh hoàng hôn nhạt nhòa thì tất cả đứng dậy và chạy về cùng một hướng, dường như vừa sực nhớ điều gì. Vòng kiềm tỏa đã vỡ, và cả thành phố vang dội tiếng móng đổ dồn. Lúc đó tôi luôn mường tượng ra vô vàn bong bóng tí xíu sùi lên từ nền đất. Lớp bọt ấy phủ lên đường sá, dâng lên dọc theo bờ tường nhà và sau rốt nhấn chìm cả tháp đồng hồ.
Sau đó chỉ là một ảo giác lúc đêm về. Hễ tôi mở mắt ra là lớp bọt tan biến tức thì. Chỉ còn tiếng móng gõ như trống, và thành phố nom chẳng khác mọi khi. Bầy thú kéo đi như một dòng sông tràn lên mặt đường, chảy qua các ngõ phố quanh co. Không được chỉ lối. Không có con đầu đàn. Chúng cúi đầu và loạng choạng đi dọc lòng sông im lặng. Trông chúng như bị trói chặt bởi những sợi thừng hoài niệm, những sợi thừng rõ ràng tồn tại ngay cả khi không thấy trên mình từng con vật riêng lẻ.
Chúng đi từ phía bắc về, qua Cầu Cũ sang bờ nam, gặp chúng bạn từ phía đông lại, đi dọc kênh qua khu nhà máy, xuống tiếp phía tây, chui qua đường hầm bên dưới xưởng đúc, rồi tập trung ở Đồi Tây.
Khi những con đầu tiên về tới nơi, ông gác cổng liền ra mở. Cánh cổng được gia cố bằng những thanh sắt to đóng ngang dọc, trông rất nặng nề và chắc chắn. Cao khoảng bốn, năm thước, và phía trên có đóng đinh nhọn sắc lẻm để không ai trèo qua. Ông gác cổng ung dung kéo cánh cổng nặng nề ra và dồn những con vật vừa tụ tập ra ngoài. Cổng có hai cánh, nhưng bao giờ ông ta cũng chỉ mở một cánh.
Thường là cánh bên trái khóa chặt. Khi các con vật đã qua hết, ông gác liền đóng cổng lại và cài then.
Theo tôi được biết, Cổng Tây là nơi ra vào duy nhất của thành phố. Bao quanh thành phố là một bức tường thành hùng vĩ cao bảy, tám thước, chỉ chim chóc mới vượt qua nổi.
Khi trời hửng sáng, ông gác lại mở cổng, thổi một hồi tù và lùa súc vật vào. Khi chúng vào hết trong thành, ông lại đóng cổng, như mọi khi, và cài then.
“Thực ra không cần cài then”, ông gác cổng cho tôi hay. “Đằng nào thì ngoài tôi ra cũng chẳng ai kéo được cánh cổng nặng nề này. Mấy người cùng kéo cũng chẳng xong. Nhưng biết làm sao được, quy định là quy định.” Ông kéo cái mũ len sụp xuống sát lông mày và im lặng.
Ông gác cổng là người đàn ông lực lưỡng nhất mà tôi từng thấy. Người ông nung núc chắc nịch, hễ cơ bắp ông động cựa một chút xíu thôi là sơ mi và áo khoác của ông chỉ chực bục ra. Thỉnh thoảng ông nhắm mắt và chìm vào sự im lặng oai vệ. Tôi không biết đó có phải là một dạng sầu muộn của ông, hay các công năng bên trong cơ thể ông bị cắt rời khỏi thế giới xung quanh bằng một động thái nào đó. Dù sao đi nữa, khi sự im lặng đã chế ngự ông thì tôi không còn cách nào khác ngoài đợi cho đến khi ông tỉnh. Đó là lúc ông gác cổng lừ đừ mở mắt ra, vừa nhìn tôi thật lâu với ánh mắt uể oải vừa xoa hai tay vào nhau, tựa như phải gắng sức hiểu ra lý do sự hiện diện của tôi ở đây vậy.
“Tại sao buổi tối ông dồn súc vật lại và cho ra ngoài thành, chỉ để sáng hôm sau lại cho chúng Trang 12/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
vào?”, tôi hỏi ngay khi thấy ông đã hồi tỉnh.
Ông gác cổng vô cảm nhìn tôi chằm chằm một hồi lâu. “Vì đó là quy định”, ông đáp. “Thế đấy. Giống như mặt trời mọc ở đằng Đông và lặn ở đằng Tây.”
Ngoài việc mở và đóng cổng, hình như phần thời gian còn lại của ông chỉ dành cho việc bảo dưỡng các công cụ. Trong trạm canh có vô thiên lủng các loại công cụ: rìu, đục, dao, và cứ rảnh rỗi là ông mài bén chúng trên phiến đá mài. Sau khi mài xong, các lưỡi cắt lấp lánh sáng trắng và trông rất nguy hiểm. Có vẻ như chúng không phản chiếu ánh sáng mà theo tôi chính chúng chứa một nguồn sáng bí hiểm nào đó.
Thấy tôi ngắm nghía các công cụ, khóe miệng của ông gác cổng nở một nụ cười thỏa mãn.
“Chú ý, chạm một tí tẹo là đứt tay ngay đấy!” Ông chỉ ngón tay sần sùi của mình vào đống công cụ. “Khác hẳn mấy thứ hàng sản xuất đại trà của bọn nghiệp dư bày bán khắp nơi! Tự tay tôi rèn từng lưỡi dao một đấy. Thế mới gọi là thủ công nghiêm túc, ngày xưa tôi là thợ rèn mà. Bảo dưỡng tử tế, nằm thuận trong tay. Chọn cái cán vừa vặn với trọng lượng lưỡi dao không đơn giản đâu nhé. Cậu cầm một con dao lên tay đi, con nào cũng được, nhưng cẩn thận đừng chạm vào lưỡi!”
Trong đống công cụ trên bàn tôi lựa ra một con dao nhỏ nhất và cầm lên tay. Quả thật, nó phản ứng nhạy như một con chó săn được huấn luyện và rít một đường khô lạnh trong không khí. Ông gác cổng thật sự có quyền tự hào về bản thân.
“Cán dao tôi cũng làm lấy. Tôi đẽo nó từ gỗ tần bì mười tuổi. Người ta có thể tranh cãi xem vật liệu nào làm cán tốt nhất, tôi thì nhất quyết dùng gỗ tần bì mười tuổi. Không non hơn, cũng không già hơn, được mười tuổi là gỗ có đủ độ cứng, độ ẩm và độ căng mong muốn. Tần bì loại tốt ở Rừng Đông.”
“Ông cần chừng này dao làm gì?”
“Nhiều việc”, ông gác cổng nói. “Mùa đông là phải dùng chúng suốt. Đến mùa đông rồi cậu sẽ thấy. Mùa đông ở đây dài lắm.”
Bên ngoài cổng đàn súc vật có chỗ ngủ qua đêm của chúng. Có cả một con suối để chúng uống nước. Phía sau là một rừng cơ man là táo.
Dọc tường thành phía tây có ba tháp canh, chúng được che chắn tiềm tiệm để chống mưa. Từ đây có thể quan sát đàn súc vật qua các cửa sổ rào lưới sắt.
“Ngoài cậu ra chẳng ai ngắm mấy con vật ấy cả”, ông gác cổng nói. “Nhưng rồi cũng chán dần thôi. Cậu hiếm khi đến đây mà. Sống một thời gian ở đây rồi thì cậu sẽ hết hứng. Như mọi người khác. Trừ tuần đầu tiên của mùa xuân.”
Ông kể cho tôi biết, trong tuần đầu tiên của mùa xuân, dân thành phố trèo lên các tháp canh để xem những con vật đánh nhau. Chỉ trong một tuần ấy, hình ảnh bình yên biến đổi không ngờ, chỉ lúc ấy thôi – khi các con vật vừa thay lông mùa đông và ngay trước lúc các con mẹ sắp đẻ con – các con đực xông vào nhau một cách tàn bạo không tưởng tượng nổi. Biển máu tràn lan dưới đất làm nảy sinh một trật tự mới và cuộc sống mới.
Trang 13/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
Bây giờ là mùa thu, từng con vật khoanh chân nằm riêng một chỗ, những bộ lông vàng tỏa sáng trong nắng chiều. Chúng nghếch đầu lên chờ đợi, im phăng phắc như những bức tượng chôn chân xuống đất, cho đến khi những tia sáng cuối cùng trong ngày biến mất sau tán lá rừng táo. Khi vầng dương cuối cùng cũng lặn hẳn và bóng đêm rủ xuống, chúng gục đầu ngả chiếc sừng trắng lên mặt đất và nhắm mắt.
Thế là hết một ngày trong thành.
Trang 14/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
Chương 3
Áo Mưa, Ma Đen, Rửa Số
Cô gái đưa tôi vào một căn phòng rộng rãi và trống trơn. Tường và trần đều trắng, nền thảm màu cà phê, mọi màu sắc đều tinh tế và quý phái. Người ta vẫn nói chung là màu “trắng”, nhưng có trắng quý phái và trắng dung tục. Màu cũng có dòng dõi của nó. Kính mờ trên cửa sổ cần ánh nhìn dò xét ra ngoài, nhưng ánh sáng lờ mờ chiếu từ bên ngoài vào thì rõ ràng là ánh nắng. Có nghĩa là tôi không ở trong một tầng hầm, thang máy nhất định đã đi lên phía trên. Tôi yên tâm được một chút vì không bị cảm giác đánh lừa. Cô gái ra hiệu mời tôi ngồi xuống. Tôi ra chiếc sofa bọc da ở giữa phòng và ngồi vắt chân chữ ngũ. Tôi vừa ngồi thì cô gái ra khỏi phòng, qua một cửa sổ khác với cửa chúng tôi đi vào.
Trong phòng hầu như chẳng có gì đáng gọi là đồ nội thất. Trên bàn nước có bật lửa, gạt tàn và một hộp thuốc lá, tất cả đều bằng gốm. Tôi mở nắp hộp thuốc lá ra, nhưng trong hộp không có gì. Trên tường không treo tranh vẽ hay ảnh, không một tờ lịch. Không có gì thừa.
Một bàn giấy lớn kê cạnh cửa sổ. Tôi đứng dậy đi tới cửa sổ, trên đường đi tôi ngó lên bàn giấy. Mặt bàn là một tấm nặng, nhiều ngăn kéo lớn ở hai bên. Trên bàn có một chiếc đèn bàn, ba cây bút bi hiệu Bic và một quyển lịch để bàn, cạnh đó là một nắm kẹp ghim giấy vương vãi. Tôi kiểm tra lịch: ngày tháng chính xác. Lịch chỉ ngày hôm nay.
Ba tủ két loại thường dễ thấy ở khắp nơi đứng trong một góc phòng. Chúng không hợp với căn phòng. Trông có vẻ nặng nề công việc, quá thô. Phải tay tôi thì tôi sẽ kê vài cái tủ gỗ lịch sự vào phòng, nhưng đây không phải phòng tôi. Tôi đến đây vì công việc. Ở đây có kê mấy cái tủ sắt màu lông chuột hay đặt máy nghe nhạc màu trái đào thì cũng chẳng dính gì đến tôi cả.
Bức tường bên trái gắn một tủ âm với những cánh cửa gấp cao và hẹp. Đó là toàn bộ đồ nội thất trong căn phòng này. Không đồng hồ, không điện thoại, không máy gọt bút chì, không ấm nước. Không tủ sách, không kệ tài liệu. Tôi không đoán nổi công năng và mục đích căn phòng này. Tôi quay lại sofa, ngồi vắt chân chữ ngũ và ngáp.
Chừng mười phút sau cô gái quay lại. Không nhìn tôi, cô mở một tủ két, lấy ra một vật màu đen bóng ôm trên ngực rồi đem ra bàn. Đó là chiếc áo mưa gấp ngay ngắn và một đôi ủng. Trên cùng là một cặp kính bảo hộ giông giống như loại phi công trong Thế chiến I vẫn đeo. Tôi không hề đoán được việc gì đang diễn ra.
Cô gái nói với tôi gì đó, nhưng môi cô mấp máy quá nhanh, tôi không đọc nổi. “Phiền chị nói chậm hơn một chút được không? Tôi không giỏi đọc theo môi lắm.”
‘Ông mặc đồ này vào đi.’ Giờ thì cô nói chậm và mở miệng to hơn. Thực tình tôi chẳng thích thú khi mặc đồ đi mưa này vào, nhưng tranh cãi với cô bé có lẽ còn khó nhọc hơn, vì vậy tôi lặng lẽ làm theo lệnh cô. Tôi cởi giày thể thao và xỏ chân vào ủng, khoác áo mưa ra ngoài áo thể thao. Nó nặng như chì, và giày to hơn chân tôi chừng một, hai số. Song tôi không nói gì.
Trang 15/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
Cô gái bước ra trước mặt tôi, giúp tôi cài khuy áo mưa xuống đến tận mắt cá và kéo mũ đội lên đầu. Trong lúc làm việc đó, chóp mũi tôi chạm vào vầng trán nhẵn nhụi của cô. “Thơm quá!”, tôi nói. Một câu khen cho nước hoa Eau de Cologne của cô.
‘Cảm ơn’, cô nói và kéo móc cài mũ kín đến mũi tôi. Rồi cô chỉnh kính bảo hộ vòng ra ngoài áo mưa cho đúng chỗ. Trông tôi như một xác ướp được bọc lại để tránh nước mưa.
Sau đó cô mở tủ tường, một tay lôi tôi vào đó, bật đèn và lấy tay kia đóng tủ. Chúng tôi đang ở trong một tủ đựng quần áo. Nhưng không có quần áo treo bên trong, chỉ có vài mắc áo và băng phiến. Tôi tưởng tượng ra, đây chắc phải là một lối thông bí mật được ngụy trang thành tủ hay gì đó tương tự. Chả có lý gì để cuốn tôi vào cái áo mưa rồi đẩy vào một tủ quần áo bình thường.
Cô gái lần mò tới một cần kéo kim loại trong góc, lập tức, đúng như mong đợi, vách tủ mở ra – có một cái hang to bằng cốp xe ô tô loại nhỏ. Hang đen thui, có thể nhận thấy hơi lạnh ẩm ướt phả ra. Một làn gió không dễ chịu mấy. Ngoài ra có gì đó liên tục réo như tiếng nước sông chảy.
“Trong đó là một con suối”, cô gái nói. Tôi có cảm giác tiếng nước réo đưa lại cho ngôn ngữ không tiếng động của cô thêm chút thực tế. Dường như cô có phát âm thực sự nhưng đã bị tiếng suối reo át đi. Ấn tượng của tôi là bây giờ tôi hiểu cô dễ hơn. Thật kỳ lạ, nhưng đúng thế.
“Ông cứ việc đi ngược con suối, sẽ đến một thác nước lớn, ông phải đi xuyên qua đó. Đằng sau là phòng thí nghiệm của ông tôi. Ông sẽ nhìn thấy ngay.”
“Ông cô đợi tôi ở đó à?”
“Vâng”, cô nói và trao cho tôi một cây đèn pin chống nước có dây đeo. Thực ra tôi không hứng thú chui vào cái hang đen thui này, nhưng bây giờ thì bàn cãi nữa cũng chẳng đem lại gì. Tôi trấn tĩnh và cho một chân vào bóng tối đang ngoác mõm ra. Rồi khom người xuống, luồn đầu và vai vào, kéo chân kia theo. Áo mưa cứng quèo khiến mọi việc khá khó khăn, song tôi cũng chui được từ tủ quần áo ra sau bức tường. Tôi ngắm cô gái mũm mĩm trong tủ quần áo. Nhìn qua kính bảo hộ và từ trong hang tối, trông cô cực kỳ đáng yêu.
“Ông hãy cẩn thận! Không được rời xa con suối, và tuyệt đối không rẽ. Cứ thế đi thẳng!”, cô nói. Cô khom lưng vươn tới phía trước và nhìn thẳng vào mặt tôi.
“Đi thẳng, thác nước”, tôi kêu to.
“Đi thẳng, thác nước”, cô nhắc lại.
Tôi thử uốn môi làm điệu bộ chữ ‘Sela’. Cô mỉm cười chào lại: ‘Sela’. Rồi cửa đóng sập lại.
Sau khi cửa đóng, tôi đứng trong bóng tối mịt mù. Tối mù theo đúng nghĩa đen của từ này, không một chút ánh sáng bằng đầu kim lọt vào đây. Tôi không nhìn thấy gì, tuyệt đối không thấy gì. Thậm chí không thấy cả bàn tay đưa lên trước mắt. Bàng hoàng như vừa bị quật ngã, tôi đứng im một lúc. Tràn ngập cảm giác bất lực lạnh giá, tôi thấy mình như con cá được gói cẩn thận trong nylon rồi quẳng vào tủ lạnh. Cửa sập đánh rầm! Đột ngột bị ném vào bóng tối mù mịt, trong một thoáng toàn bộ sức lực rời khỏi cơ thể. Ít nhất thì trước khi đóng cửa lại cô gái cũng nên cảnh báo tôi một câu chứ?
Khi tôi mò mẫm bật được đèn pin, ánh sáng vàng thân thuộc chọc thủng màn đêm. Thoạt tiên Trang 16/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
tôi chiếu xuống chân, rồi mới dần dần soi nền đất xung quanh. Tôi đang đứng trên một bệ bê tông vuông mỗi chiều dài ba thước. Từ mép bệ, vách đá đổ dốc thăm thẳm, không nhìn thấy đáy. Và không có cả tay vịn lẫn rào chắn. Tôi khá bực mình: cô ta cũng phải nhắc tôi đề phòng cả chuyện này mới đúng.
Bên mép bệ có một chiếc thang nhôm để trèo xuống. Tôi quàng đèn pin chéo ngang ngực và thận trọng leo xuống từng bậc trơn nhẫy. Càng xuống sâu tiếng nước réo càng to và rõ hơn. Đằng sau tủ tường trong phòng của một cao ốc có vực sâu, dưới đáy là dòng suối chảy: có nên tin là thật không! Lại còn ở giữa Tokyo nữa chứ! Càng nghĩ về chuyện này tôi càng điên đầu hơn. Trước tiên là cái thang máy kỳ quái, sau đó đến con bé béo quay nói không ra tiếng, còn bây giờ lại còn cảnh tượng này. Có lẽ tôi nên đơn giản từ chối công việc này và quay về nhà. Tất cả quá nguy hiểm và điên rồ từ đầu đến đuôi. Mặc dù vậy tôi vẫn trèo tiếp xuống dọc vách đá tối om. Một phần vì danh dự nghề nghiệp, phần khác vì cô gái mũm mĩm vận đồ hồng. Chẳng hiểu sao tôi thấy lo lắng cho cô ta, tôi không thể đơn giản từ chối và rút lui được.
Được hai chục bậc tôi nghỉ lấy hơi, thêm mười tám bậc nữa thì chạm đáy. Tôi cẩn thận chiếu đèn từ chân thang ra xung quanh. Tôi đang đứng trên một phiến đá cứng và phẳng, cách một đoạn nữa là một dòng suối rộng chừng hai thước. Trong ánh đèn pin, mặt nước cuồn cuộn như cờ trong gió. Có vẻ như nước suối chảy khá xiết, nhưng sâu chừng nào và nước màu gì thì tôi không nhận ra. Tôi chỉ thấy nó chảy từ trái qua phải. Thế thôi.
Tôi chiếu đèn xuống đất và đi tiếp ngược dòng. Thỉnh thoảng tôi lại cảm thấy có gì đó lấp ló quanh mình, và hất ngược ánh đèn lên, nhưng chẳng thấy gì. Chỉ thấy dòng suối và vách đá dựng đứng ở hai bên. Có lẽ hệ thần kinh đã chơi khăm tôi trong bóng tối.
Đi được năm, sáu phút, qua tiếng vọng của nước tôi nhận ra là trần ngày càng hạ thấp. Tôi chiếu đèn lên trên nhưng không nhìn thấy gì vì ánh sáng không chọc qua nổi bóng tối. Sau đó, như lời cô gái, có vài lối rẽ ở hai bên vách đá, hay gọi là khe đá thì đúng hơn. Phía dưới có nước ri rỉ chảy ra và tạo thành những dòng nhỏ ngoằn ngoèo nhập vào suối. Tôi tiến lại gần một trong những khe đá ấy và thử chiếu đèn vào, nhưng không phát hiện được gì. Chỉ nhận ra nó nở rộng đáng kể về phía sau. Tôi không có chút hứng thú nào để bước vào đó.
Tai trái nắm chắc đèn pin, tôi tiếp tục lần mò ngược dòng trong bóng tối; tôi cảm thấy mình giống như một con cá trên đường hóa rồng. Nước suối khiến đá trong lòng suối trơn tuột, tôi phải căng thẳng chú ý từng bước một. Nếu tôi trượt chân trong cái hũ nút tối om này và ngã xuống nước hay đánh vỡ đèn pin thì chắc chỉ còn nước cầu trời mà thôi.
Tôi tuyệt đối tập trung tinh thần vào mỗi bước chân nên thoạt tiên không nhận thấy một ánh sáng yếu ớt đang vung vẩy đằng trước. Khi tôi ngẩng lên nhìn thì nó đã tiến sát khoảng bảy, tám thước. Tôi bất giác tắt đèn pin, thọc tay qua vạt áo mưa và rút con dao trong túi quần sau ra. Tôi mò mẫm sờ đến lưỡi dao và bật nó ra. Xung quanh tôi chỉ còn đêm đen và tiếng suối reo.
Khi đèn pin của tôi vừa tắt thì ánh sáng yếu ớt kia lập tức cũng dừng chuyển động. Nó vẽ trong không khí hai vòng tròn lớn. Nhất định có ý là ‘Không có vấn đề gì, mọi việc ổn cả’. Nhưng tôi vẫn đứng im, căng thẳng chú ý và đợi xem người đằng trước sẽ làm gì. Cuối cùng thì ánh sáng lại vung vẩy, xoay tròn và tiến về phía tôi như một con đom đóm khổng lồ có trí khôn. Như bị thôi miên, tôi nhìn chằm chằm vào đốm sáng, tay phải cầm dao, tay trái cầm chiếc đèn pin đã tắt.
Trang 17/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
Cách tôi khoảng ba thước thì ánh sáng dừng lại, dịch lên trên và khựng lại. Nó quá yếu, khiến tôi thoạt tiên không rõ nó chiếu vào đâu, nhưng cố giương mắt lên thì tôi nhận ra một cái đầu trùm mũ chụp. Trên sống mũi là cặp kính bảo hộ giống của tôi. Người đàn ông này cầm trong tay một chiếc đèn hộp loại vẫn bày bán trong cửa hiệu đồ cắm trại. Ông ta soi nó lên mặt mình. Ông ta hét lên với tôi qua tiếng nước réo, nhưng tôi không nghe thấy gì, và trời quá tối để có thể nhìn môi đoán miệng.
“... lý do vì... đoán ra thế. Hoặc anh... tiếc rằng, để mà...”, dường như ông ta muốn nói thế, nhưng nó chẳng có ý nghĩa gì với tôi. Song ít nhất nó cũng không có vẻ nguy hiểm gì, vì vậy tôi bật đèn pin lên, rọi từ bên cạnh lên mặt mình, và bằng cách gõ gõ vào tai, tôi ra hiệu để ông biết tôi gần như chẳng nghe được gì cả.
Ông ta gật đầu mấy lần liền cho thấy đã hiểu, hạ đèn xuống, thọc tay vào túi áo đi mưa của mình và lần mò dưới áo; ngay sau đó tiếng ào ào xung quanh chúng tôi khẽ dần, tựa như tiếng nước triều đột ngột hạ xuống. Tôi nghĩ là mình sắp bất tỉnh và cho rằng tiếng động biến khỏi đầu vì mình đang kém tỉnh táo. Tôi gồng hết mình để đợi ngã lăn ra – dù chẳng rõ làm sao lại có thể ngất đi được.
Mấy giây trôi qua, tôi không ngã lăn ra, mà cũng chẳng thấy xỉu xuống. Duy chỉ tiếng ồn xung quanh là giảm đi rõ rệt.
“Tôi ra đón anh”, người đàn ông nói. Lần này thì tôi nghe rất rõ.
Tôi lắc lắc đầu, kẹp đèn pin dưới nách, gập lưỡi dao và cất vào túi quần. Hôm nay quả là một ngày lắm chuyện!
“Chuyện gì xảy ra với tiếng ồn vậy?”, tôi hỏi.
“À, tiếng ồn. Ầm quá phải không? Tôi chỉnh khẽ đi đấy. Xin lỗi ông. Giờ thì mọi chuyện ổn rồi”, ông nói, đầu gật liên tục. Tiếng suối réo ào ào bây giờ chỉ còn như ai nói thì thầm.
“Nào, ta đi thôi.”
Người đàn ông quay lưng lại phía tôi và vững bước lội ngược suối. Tôi đi theo sau, rọi đèn pin xuống đất.
“Chỉnh khẽ đi – có nghĩa đây là tiếng động nhân tạo?”, tôi nói về hướng mà tôi đoán là lưng ông.
“Không”, người đàn ông nói. “Đó là tiếng động thiên nhiên.”
“Và ông có thể chỉnh cho âm thanh của thiên nhiên khẽ đi?”
“Nói cho đúng thì tôi không chỉnh cho chúng khẽ đi”, ông trả lời. “Tôi rút âm thanh đi.”
Tôi hơi băn khoăn, nhưng thôi không hỏi thêm nữa thì hơn. Tôi không có quyền tra hỏi người ta lắm thế. Tôi tới đây để hoàn tất nhiệm vụ của mình, và người giao nhiệm vụ cho tôi muốn chỉnh âm thanh khẽ xuống hay tắt nó đi hay trộn với vodka chanh thì cũng chẳng liên quan gì đến nhiệm vụ đó cả. Vậy nên tôi ngậm miệng lại và im lặng đi theo ông.
Sau khi người đàn ông tắt tiếng nước réo đi, xung quanh trở nên im ắng. Thậm chí nghe rõ được Trang 18/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
cả tiếng nhóc nhách của ủng cao su. Mấy lần có tiếng ken két trên đầu, tựa như có người miết hai viên sỏi vào nhau, rồi im lặng trở lại.
“Có dấu hiệu của ma đen lẩn quất đâu đây, vì vậy tôi đi đón anh cho chắc. Thường thì chúng không dám mò đến tận đây, nhưng cũng có khi xảy ra rồi, lũ khốn khiếp”, người đàn ông nói.
“Ma đen...”, tôi nói.
“Chắc anh không muốn bị chúng quấy nhiễu chứ?”, người đàn ông nói và cười phá lên.
“Không bị thì hơn”, tôi đáp. Ma đen hay của nợ nào cũng thế - trong cái chốn đen như mực này thì tôi không muốn gặp ai hoặc cái gì bất thường cả.
“Vì thế mà tôi ra đón anh”, người đàn ông nhắc lại. “Bọn ma đen không phải chuyện đùa đâu.”
“Cảm ơn ông”, tôi nói. Một lát sau có tiếng ào ào ở phía trước, giống như có người quên khóa máy nước. Thác nước. Tôi chỉ rọi đèn lướt qua nên không thấy rõ lắm, song có vẻ là một thác nước khá lớn. Giả sử không tắt tiếng ồn đi thì có lẽ ở đây ầm ĩ kinh khủng. Bọt nước bắn lên tận kính bảo hộ.
“Ta phải đi qua đó, đúng không?”, tôi hỏi.
“Vâng”, người đàn ông nói. Rồi ông đi về phía thác nước mà không giải thích một lời – và biến mất. Tôi hấp tấp chạy theo – còn biết làm gì khác?
May mà chúng tôi đi xuyên qua đoạn thác “khô” nhất, mặc dù vậy sức nước vẫn ấn tôi muốn khuỵu xuống. Để đi vào và ra khỏi một phòng thí nghiệm mà lần nào cũng bị thác nước hành hạ - kể cả khi có áo mưa hay không – thì quả là ngu xuẩn. Ngay cả khi phải cân nhắc vấn đề bảo mật chăng nữa thì nhất định phải có giải pháp thông minh hơn. Đúng giữa thác nước thì tôi trượt chân và ngã dập đầu gối lên đá. Mất âm thanh, sự cân bằng giữa tiếng động và thực trạng do tiếng động gây ra bị nhiễu loạn đáng kể, khiến tôi rối cả lên. Thác nước phải ầm ào thích hợp với lượng nước của nó chứ.
Đằng sau thác nước hiện ra một miệng hang đủ rộng cho một người lọt qua, dẫn đến một cửa sắt. Người đàn ông rút trong túi áo mưa ra một vật gì đó trông như máy tính bỏ túi, đút nó vào một rãnh cạnh cửa và bấm bấm một hồi, đến khi cánh cửa im lìm trượt vào bên trong.
“Ta đến rồi. Mời anh vào”, người đàn ông nói và nhường tôi đi trước để cài chốt cửa từ bên trong. “Vất vả quá phải không?”
“Không, ờ... không đến nỗi...”, tôi nhũn nhặn đáp.
Người đàn ông cười, kính vẫn thượng trên mũi, mũi chụp đầu và dây đèn hộp đeo vòng trên cổ. Một kiểu cười hô hố khá kỳ quái.
Chúng tôi ở trong một căn phòng lớn nhưng lạnh và kém thân thiện, trông như phòng thay đồ của nhà tắm công cộng. Trên và cạnh các giá xếp là nửa tá áo mưa đen, ủng cao su và kính bảo hộ sắp thành hàng lối. Tôi lột kính, treo áo choàng lên mắc áo và đặt ủng vào giá. Đèn pin thì tôi treo lên cái móc trên tường.
“Rất xin lỗi vì đã bắt anh phải vất vả đến thế”, người đàn ông nói, “song ta phải cẩn trọng. Trang 19/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
Không được phép sao nhãng vì bên ngoài có khối kẻ rình rập.”
“Bọn ma đen?”, tôi bắt nọn.
“Đúng vậy. Và không chỉ riêng bọn ma đen, nói thêm để anh khỏi ngạc nhiên,” người đàn ông nói và gật đầu tư lự. Rồi ông dẫn tôi vào phòng tiếp khách nằm sau phòng thay đồ. Lúc này khi bỏ cái áo mưa đen ra, người đưa đường của tôi hóa ra là một ông già trông thâm thấp và trang nhã. Không béo bệu, nhưng to ngang. Da dẻ hồng hào tráng kiện, sau khi ông rút trong túi ra một cặp kính không gọng đeo lên trông ông như các chính khách tiền chiến cao cấp thời kì trước chiến tranh vậy.
Ông bảo tôi ngồi xuống sofa bằng da còn mình ra bàn giấy ngồi. Căn phòng giống hệt căn phòng mà tôi được dẫn vào ban đầu. Màu thảm, ánh sáng, giấy dán tường, sofa, mọi thứ giống hệt. Trên bàn vẫn có những vật dụng cho người hút thuốc. Một cuốn lịch bàn trên bàn giấy và một nhúm ghim giấy, cũng nằm lộn xộn tương tự. Tôi có cảm tưởng rằng mình vừa lượn ra ngoài một vòng rồi quay lại chính căn phòng cũ. Chả gì thì tôi vẫn còn nhớ như in vị trí của từng cái ghim giấy một.
Ông già quan sát tôi một hồi. Rồi ông cầm lên một cái ghim giấy lên, bẻ duỗi ra và nghí ngoáy đẩy ngược lớp da viền trên móng ngón trỏ bàn tay trái một lúc lâu. Xong rồi, ông ném cái ghim giấy đã duỗi thẳng ra vào gạt tàn. Tôi ngẫm nghĩ, giả sử kiếp sau có được đầu thai thành một vật thì tôi nhất quyết sẽ không làm ghim giấy. Đẩy lớp da viền móng tay của một ông già lẩm cẩm rồi sau đó bị vứt vào gạt tàn, quả là viễn cảnh kém hấp dẫn.
“Theo thông tin của tôi, hiện nay bọn ma đen và ký hiệu sư đang cộng tác với nhau”, ông già nói. “Tất nhiên không nên hiểu rằng bọn chúng là đồng minh thật sự. Vì bọn ma đen quá thận trọng, còn ký hiệu sư thì dã tâm quá lớn. Nghĩa là quan hệ này chỉ hạn chế ở mấy nhóm rất nhỏ. Song đó là một dấu hiệu không lành. Hiện nay đã có vài tên ma đen lẩn quất đâu đây, dù không phải là lãnh địa của chúng. Nếu cứ tiếp tục như thế này thì chẳng mấy chốc sẽ nhung nhúc toàn ma đen ở đây, và tôi sẽ gặp phải vấn đề nghiêm trọng.”
“Đúng thế”, tôi nói, “đúng thế đấy”. Tôi chẳng rõ ma đen là ai hay cái gì. Song nếu thực sự bọn ký hiệu sư liên minh với một thế lực nào đó thì hậu quả đối với tôi cũng cực kỳ khó chịu. Chưa có chuyện đó thì giữa chúng tôi và bọn ký hiệu sư đã có một tương quan cạnh tranh không mấy cân bằng, khẽ lay động một chút là đủ làm tất cả sụp đổ tan tành. Có thể nhận ra cán cân bấp bênh đó chỉ riêng qua việc chúng tôi không biết gì về các ma đen, còn phe kia thì biết rõ. Cũng có thể chỉ mình tôi, một toán sư quèn công tác độc lập tại hiện trường, là không biết gì về các ma đen, còn ban chỉ huy đã nắm tình hình từ lâu.
“Thôi được, chuyện đã thế rồi”, ông già nói. “Nếu anh đồng ý thì tôi muốn bắt tay vào việc ngay.”
“Bất cứ lúc nào”, tôi nói.
“Tôi đã nhờ người đại diện giới thiệu toán sư giỏi nhất, và người ta đã chọn anh. Ai cũng khen ngợi anh là người xuất sắc về kỹ thuật, có bản lĩnh và làm việc tận tình. Ngoài chuyện anh thiếu tinh thần đồng đội thì không có gì đáng chê cả.”
“Tôi nghĩ là người ta hơi quá lời”, tôi khiêm tốn nói.
Trang 20/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
Ông già lại bật cười hô hố. “Nhưng tinh thần đồng đội là chuyện vặt. Bản lĩnh mới quan trọng. Thiếu bản lĩnh thì không thành toán sư hạng nhất được. Bù lại thì anh cũng được trả lương hậu hĩnh.”
Biết trả lời gì đây. Tôi im lặng. Ông già lại cười hô hố và đưa tôi qua phòng làm việc bên cạnh.
“Tôi nghiên cứu sinh học”, ông nói. “Nhưng lĩnh vực công tác của tôi rộng hơn nhiều, chỉ riêng chữ sinh học thì không bao hàm hết được. Lĩnh vực của tôi dàn trải từ chức năng sinh lý của não, âm thanh học và ngôn ngữ học cho đến nghiên cứu tôn giáo. Tôi xin được phép gọi công việc của mình là độc đáo và có ý nghĩa cực kỳ trọng đại. Hiện tại tôi chủ yếu nghiên cứu khẩu cái của động vật có vú.”
“Khẩu cái?”
“Cái miệng ấy, anh bạn trẻ ạ. Cấu trúc của miệng. Nó cử động ra sao, phát âm ra sao, vân vân. Tôi nghiên cứu các vấn đề đó. Anh hãy nhìn xem.” Ông bật một công tắc trên tường, phòng làm việc sáng bừng lên. Cả bức tường đầu hồi là một cái giá nhiều ngăn, xếp chật ních đầu lâu của đủ loại động vật có vú. Từ hươu cao cổ đến ngựa, gấu trúc và chuột, các loài thú có vú mà tôi biết đều có mặt, phải đến ba, bốn trăm cái. Tất nhiên có cả sọ người. Sọ người da trắng và da đen, người châu Á và châu Mỹ, từng cặp giới tính một.
“Xương sọ của cá voi và voi tôi để dưới tầng hầm. Chúng chiếm tương đối nhiều chỗ, chắc anh cũng hiểu”, ông già nói.
“Vâng, dĩ nhiên”, tôi nói. Hai hộp sọ cá voi là chật phòng rồi.
Như hẹn nhau, tất cả các đầu lâu đều há hốc miệng ra, và đều chăm chăm nhìn từ hai trố mắt trống rỗng sang bức tường đối diện. Đó là những tiêu bản để nghiên cứu, đương nhiên, nhưng đứng giữa một núi đầu lâu như thế này cũng không được dễ chịu cho lắm. Trên một giá khác là một hàng dài toàn lưỡi, tai, môi và thanh quản ngâm phoóc môn, nhưng không nhiều như số xương sọ.
“Một bộ sưu tập khá đấy chứ?”, ông già hài lòng nói. “Có người sưu tập tem, có người sưu tập đĩa hát, một số khác có hầm rượu vang, có ông triệu phú thì đặt xe tăng ngoài vườn. Tôi sưu tập đầu lâu. Thế giới muôn màu. Chính vì thế mà nó thú vị, đúng không anh bạn?”
“Vâng, đúng thế”, tôi nói.
“Từ hồi còn khá trẻ tôi đã quan tâm nhiều tới xương sọ động vật có vú và rất để tâm sưu tầm. Bao nhiêu nhỉ, ờ, gần bốn chục năm rồi. Để hiểu rõ một cái đầu lâu, cần có nhiều thời gian hơn người ta vẫn tưởng. So với việc ấy thì hiểu một con người bằng xương bằng thịt chỉ là trò trẻ con. Tôi nói hoàn toàn nghiêm túc đấy. Nhưng người còn trẻ như anh thì người ta quan tâm đến xác thịt hơn, đúng không?”, ông già nói và lại cười hô hố. “Tôi đã mất trọn ba chục năm cho đến khi nghe được những âm thanh phát ra từ xương sọ. Ba chục năm, bạn trẻ ạ, không phải là chuyện đùa đâu!”
“Âm thanh?”, tôi nói. “Đầu lâu phát ra âm thanh?”
“Phải”, ông già nói. “Mỗi cái đầu lâu có âm thanh riêng. Có thể gọi chúng là một dạng tín hiệu mật. Đầu lâu biết nói, tôi nói thế là theo nghĩa đen chứ không phải dùng ẩn dụ. Hiện tại tôi
Trang 21/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
đang phân tích các tín hiệu này. Khi việc hoàn thành thì ta sẽ có khả năng chế ngự và sử dụng chúng.”
“Một công trình hoành tráng”, tôi nói. Tôi không hiểu từng chi tiết, nhưng nếu sự việc diễn ra như ông già nói thì rõ ràng đây là một công việc cực kỳ có ý nghĩa. “Quả là công trình có ý nghĩa trọng đại”, tôi nói.
“Thực vậy”, ông già gật đầu nói. “Chẳng trách bọn chúng cứ hau háu tìm hiểu. Chúng nó vểnh hết tai lên, chỉ chực lợi dụng kết quả nghiên cứu của tôi cho mục đích xấu. Nếu lọc được những ý nghĩ khỏi xương sọ thì chẳng việc gì phải tra tấn nữa. Người ta chỉ việc giết chết nạn nhân, lóc thịt ra và làm sạch đầu lâu là xong.”
“Khủng khiếp quá”, tôi nói.
“Không rõ là may hay không may mà tôi chưa tiến xa đến thế. Hiện giờ người ta mới lấy được những ký ức chính xác khi lọc trực tiếp từ não được khuấy tan ra thôi.”
“Nhân đạo nhỉ”, tôi nói. Chặt đầu hay bổ não ra thì có khác gì nhau lắm đâu?
“Vì vậy tôi mới nhờ đến anh: không được để bọn ký hiệu sư ăn cắp các thông tin từ phòng thí nghiệm”, ông già nghiêm mặt nói. “Cuộc khủng hoảng văn minh mà chúng ta đang trải qua vốn sinh ra từ tình trạng lợi dụng và ứng dụng khoa học, xét về mặt tích cực lẫn tiêu cực. Tôi tin tưởng sắt đá rằng khoa học chỉ tồn tại vì khoa học mà thôi.”
“Tôi kính trọng niềm tin của ông”, tôi nói. “Nhưng có một chuyện tôi muốn biết rõ. Chuyện công việc. Nhiệm vụ lần này không đến từ Hệ thống hay từ một đại diện chính thức, mà do ông giao trực tiếp. Một việc ngoài luồng. Nói trắng ra là có thể vi phạm quy định nghề nghiệp. Nếu đúng thế thì có thể người ta sẽ kỷ luật tôi và tước giấy phép hành nghề. Ông biết điều đó chứ?”
“Tôi biết rất rõ”, ông già nói. “Tôi hiểu là anh đang lo ngại. Nhưng công việc này được giao qua Hệ thống, hoàn toàn đúng quy định. Tôi bỏ qua thủ tục văn phòng và liên lạc thẳng với anh cũng chỉ vì lý do bảo mật. Anh sẽ không bao giờ bị kỷ luật.”
“Ông có bảo đảm được không?”
Ông già lôi một tập tài liệu trong ngăn kéo ra và đưa cho tôi. Tôi lật xem. Quả thật, có một văn bản giao việc chính thức của Hệ thống. Mẫu công văn chính xác. Các chữ ký chính xác.
“Rất tốt”, tôi nói và trả lại cặp tài liệu. “Theo thứ hạng của mình, tôi làm việc theo hệ số hai. Được chứ ạ? Hệ số hai nghĩa là...”
“Nghĩa là anh tính gấp hai mức thù lao cơ bản. Tôi đồng ý. Thậm chí tôi còn thưởng thêm nữa: hệ số ba!”
“Ông hào phóng quá.”
“Tính toán là chuyện quan trọng. Vả lại anh còn phải đi xuyên thác nước nữa!” Ông lại cười phá lên.
“Tôi xin được xem các số liệu đã”, tôi nói. “Sau đó tôi sẽ quyết định sử dụng phương pháp nào. Ai là người tính toán trên máy tính?”
Trang 22/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
“Tôi làm trên computer của tôi. Trước đó và sau đó, nếu anh đồng ý, là việc của anh.” “Càng tốt. Sẽ đỡ cho tôi rất nhiều.”
Ông già đứng dậy và mó máy một hồi lâu trên tường. Một khoảng tường đột ngột mở ra. Người ta hẳn đã tốn khá nhiều công sức cho phòng thí nghiệm này. Ông già rút ra một cặp tài liệu thứ hai và đóng lại. Bức tường biến trở lại thành một mặt phẳng trắng tinh như ban nãy. Tôi đón lấy cặp tài liệu và đọc: bảy trang giấy, in toàn những số nhỏ li ti.
“Rửa mấy số này không quá mười phút”, tôi nói. “Ít có sự lặp lại dãy số tương tự như thế này thì hầu như không lo bị tạm thời bắc cầu tắt qua. Dĩ nhiên về mặt lý thuyết thì vẫn luôn xảy ra khả năng ấy, song sẽ không chứng minh được cầu nào đúng, mà không chứng minh được thì nó không loại trừ được một chuỗi lỗi tiếp theo. Giống như băng qua sa mạc mà không có la bàn vậy. Tuy nhiên, nhà tiên tri Moses đã từng làm được.”
“Moses thậm chí còn vượt biển.”
“Đó là chuyện cổ tích rồi. Ít nhất tôi cũng chưa nghe nói đến trường hợp ký hiệu sư nào phá được mật mã ở cấp độ này.”
“Vậy anh cho rằng chỉ một lần mã hóa? Một lần chuyển dạng là đủ?”
“Chuyển dạng hai lần thì quá nhiều rủi ro. Nó sẽ triệt tiêu hoàn toàn khả năng xâm nhập bằng phương pháp bắc cầu tạm thời, nhưng phương pháp này hiện tại vẫn là một phép màu khó thực thi. Quá trình chuyển dạng chưa hoàn hảo. Phương pháp chuyển dạng hai lần vẫn còn trong giai đoạn thiết kế.”
“Tôi không nói tới chuyển dạng hai lần”, ông già nói và lại lấy ghim giấy gẩy gẩy da móng tay: lần này ở ngón giữa của bàn tay trái.
“Mà là...?”
“Chuỗi ngẫu nhiên, anh bạn trẻ ạ. Tôi nói đến chuỗi ngẫu nhiên. Tôi muốn anh rửa số và sắp xếp lại theo dạng tình cờ. Vì vậy tôi mới gọi anh. Chỉ rửa số thôi thì gọi người khác cũng được.”
“Ông đánh đố tôi”, tôi nói và vắt chân chữ ngũ. “Ông lấy thông tin này từ đâu ra? Chuỗi số ngẫu nhiên là chuyện tối mật, người ngoài không ai biết cả.”
“Nhưng tôi biết. Tôi có quan hệ với các nhân vật cấp cao trong hệ thống.”
“Thế thì ông hãy dùng đường dây ấy để hỏi lại xem: phương pháp chuỗi số ngẫu nhiên đã bị đình chỉ. Tôi không biết tại sao. Chỉ biết là cấm không được sử dụng nữa. Nếu lộ ra người nào sử dụng thì rút giấy phép là nhẹ nhất.”
Ông già lại chìa cặp tài liệu đựng giấy ủy thác ra. “Anh đọc trang cuối đi. Trong đó nhất định có cả giấy phép sử dụng phương pháp chuỗi số ngẫu nhiên đấy.”
Theo lời ông, tôi lật trang cuối ra đọc kỹ. Được phép sử dụng hệ thống chuỗi số ngẫu nhiên, không nghi ngờ gì cả. Tôi đọc đi đọc lại. Chính xác. Năm chữ ký. Có trời mà biết mấy vị trên kia có những trò ngấm ngầm gì. Bảo người ta đào hố rồi lại lấp đi. Lấp xong rồi lại đào lại. Chỉ khổ mấy quân tốt đen.
Trang 23/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
“Ông cho tôi tất cả các giấy tờ giao nhiệm vụ một bản màu. Nếu xảy ra truyện gì mà không giải trình được thì tôi sẽ bị rắc rối to.”
“Không thành vấn đề”, ông già nói. Anh sẽ được nhận bản sao. Anh không phải lo lắng gì cả. Giấy tờ nghiêm chỉnh và chặt chẽ đến từng dấu phẩy. Thù lao của anh hôm nay tôi trả một nửa, nửa kia trả khi nộp dữ liệu. Được chứ?”
“Rất tốt. Rửa số thì tôi làm ngay ở đây. Số đã rửa rồi thì tôi sẽ đem về để sắp xếp theo dạng ngẫu nhiên ở nhà. Việc này cần mấy bước chuẩn bị. Sau khi hoàn thành các dữ liệu thì tôi lại đem qua đây.”
“Nhưng chậm nhất là ba ngày nữa, vào giữa trưa tôi cần chúng...”
“Đủ thời gian”, tôi nói.
“Nhưng anh không được phép trễ vì bất cứ lý do gì”, ông già nhấn mạnh. “Nếu anh đến chậm thì hậu quả sẽ rất kinh khủng.”
“Gì cơ? Thế giới sẽ sụp đổ hay sao?”, tôi hỏi đùa.
“Xét về mặt nào đó thì đúng đấy”, ông già nói đầy ẩn ý.
“Ông đừng sợ. Tôi chưa trễ hẹn một lần nào hết”, tôi nói. “Nếu được thì cho xin một phích cà phê đen nóng, và nước đá. Và một bữa ăn tối nhẹ để vừa làm vừa ăn. Tôi có cảm giác là sẽ lâu đây.”
Quả thật công việc kéo dài khá lâu. Sắp xếp con số theo thứ tự là một việc tương đối đơn giản, nhưng có nhiều giá trị bậc gắn liền với trường hợp cụ thể, khiến việc tính toán trở nên mệt nhọc hơn tôi nghĩ khi mới ngó qua. Trong khi tính toán, tôi đưa các số vào bán cầu não phải, sau khi chuyển chúng thành ký hiệu khác hẳn thì lại đưa sang bán cầu não trái là nơi tôi biến các ký hiệu nhận được của bán cầu não phải một lần nữa thành các số khác hẳn, trước khi tôi đánh máy viết chúng ra giấy. Việc này gọi là rửa số - cách miêu tả ở trên đã được đơn giản hóa nhiều. Mỗi toán sư có một mật mã riêng. Nó khác dãy số tự nhiên hỗn loạn ở tính chất biểu đồ. Bí quyết nằm trong đường biên hình răng cưa giữa nửa phải và nửa trái của não (tất nhiên đây chỉ là cách phân chia cho dễ giải thích, chứ thực tế không có phân chia phải trái). Vẽ ra biểu đồ trông như sau:
Nói cách khác, nếu hai mảnh răng cưa không khớp nhau hoàn toàn thì không thể biến những con số đã biến chuyển trở lại thành dữ kiện nguyên thủy được. Tuy nhiên giới ký hiệu sư vẫn cố nhận dạng các dữ liệu đánh cắp được bằng cách bắc cầu tạm: chúng tái tạo các giá trị số đã được phân tích thành dạng biểu đồ răng cưa ba chiều. Lúc được, lúc không. Chúng tôi cải tiến kỹ thuật của mình tinh vi hơn thì chúng cũng chế vũ khí chống lại tinh vi hơn. Chúng tôi bảo vệ dữ liệu, bọn chúng đánh cắp dữ liệu. Trò cảnh sát và kẻ cướp kinh điển.
Bọn ký hiệu sư chủ yếu tung các dữ liệu đánh cắp được ra chợ đen và đạt lợi nhuận khổng lồ. Trường hợp tệ nhất là chúng giữ lại các dữ liệu quan trọng nhất, đem sử dụng trong tổ chức riêng của mình để sinh lợi.
Tổ chức chúng tôi được gọi là Hệ thống, tổ chức của ký hiệu sư là Nhà máy. Ban đầu, Hệ thống là tổ hợp của vô số hãng tư nhân, dần dần họ phát triển về tầm cỡ và mang bản chất nửa nhà nước. Về cơ cấu, không khác mấy so với công ty điện thoại Bell Company của Mỹ. Các toán sư
Trang 24/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
hoạt động độc lập trên cơ sở tự quản, giống như cố vấn tài chính hay luật sư. Nhưng họ phải có giấy phép hành nghề do nhà nước cấp và chỉ được nhận đặt hàng của Hệ thống hay các đại lý có chứng chỉ. Đó là một biện pháp bảo vệ để chống bị Nhà máy lạm dụng, ai vi phạm sẽ bị kỷ luật hay rút giấy phép hành nghề. Tôi e là không phải trong trường hợp nào biện pháp này cũng thích hợp. Các toán sư mất giấy phép thường được Nhà máy chiêu mộ, nghĩa là họ biến thành ký hiệu sư hoạt động bí mật.
Tôi không rõ cơ cấu của Nhà máy. Nó khởi nguồn từ một doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và bành trướng nhanh đến chóng mặt. Có người gọi Nhà máy là “mafia dữ liệu”, và quả thực cũng có sự tương đồng với mafia là Nhà máy chỉ duy nhất buôn bán dữ liệu. Nhà máy giám sát có chủ ý các máy tính để đột nhập vào.
Tôi rửa số; trong khi làm tôi uống hết ấm cà phê. Làm một tiếng, nghỉ nửa tiếng – đúng quy định. Làm khác đi thì nửa phải và nửa trái của óc không rập khớp nhau, và giá trị số sẽ bị nhiễu loạn.
Trong các lần nghỉ nửa tiếng tôi nói chuyện với ông già về đủ mọi chuyện trời đất. Nói chuyện, bất kể về đề tài gì, là phương pháp tốt nhất để bộ não mệt mỏi tái tạo sức lao động.
“Những số này là gì vậy?”, tôi hỏi.
“Số đo trong thí nghiệm”, ông già nói. “Kết quả của một năm nghiên cứu. Hình ba chiều thể hiện thể tích của xương sọ và khẩu cái được số hóa liên kết với phân tích ba nhân tố của các âm thanh phát ra. Tôi đã kể ban nãy là tôi mất ba chục năm để nghe được các âm thanh do xương sọ phát ra: nếu tính toán xong xuôi thì chúng ta sẽ đạt trình độ không chỉ thu được âm thanh một cách thụ động, mà còn biết được cơ sở lý thuyết của chúng nữa.”
“Và điều khiển được chúng?”
“Đúng thế”, ông già nói.
“Điều khiển chúng sẽ có ích lợi gì?”
Ông già liếm môi trên và im lặng hồi lâu. “Sẽ có đủ kiểu lợi ích trên đời. Tôi không thể cho anh biết được, nhưng đó là những khả năng mà anh nằm mơ cũng không thấy nổi.”
“Tắt âm thanh đi chẳng hạn?”, tôi hỏi.
“Trúng đích, chính xác, hô hô hô.” Ông già cười khoái trá. “Có thể kết hợp vào tín hiệu vốn có của xương sọ người và tắt âm thanh đi hay chỉnh to lên. Hình dáng hộp sọ mọi người rất khác nhau nên không thể tắt hẳn âm thanh được, nhưng có thể chỉnh cho khẽ hẳn đi. Nói đơn giản là làm cho các sóng âm thanh và sóng phản âm thanh cộng hưởng với nhau. Việc tắt âm thanh là một trong những kết quả nghiên cứu vô hại nhất của tôi.”
Nếu đó là chuyện vô hại thì tôi có thể mường tượng ra các kết quả còn lại sẽ kinh khủng đến chừng nào. Nghĩ đến việc ai cũng có thể tắt hoặc tăng âm thanh là tôi sởn hết cả gai ốc.
“Âm thanh có thể tắt theo hai chiều, chiều nói và chiều nghe”, ông già nói. “Chiều nghe là ví dụ như tiếng nước réo ban nãy, đồng thời ta cũng có thể tắt cả chiều nói. Nói thuộc về hành vi của cá nhân, có thể tắt đến một trăm phần trăm được.”
Trang 25/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
“Ông có muốn công khai các kết quả ấy không?”
“Có mà dở hơi mới làm thế. Không”, ông già phẩy tay. “Một chuyện thú vị như vậy không khi nào tôi lại đưa cho người lạ. Tôi chỉ làm để tự giải trí thôi.” Ông lại cười hô hố. Tôi cũng cười.
Tôi chỉ định đăng thành quả nghiên cứu của mình lên tạp chí chuyên ngành, mà chẳng có ai hứng thú với âm thanh học cả, ông nói. “Còn lũ học giả bình thường thì quá ngu để có thể hiểu luận thuyết của tôi. Thêm nữa là giới hàn lâm có thèm đếm xỉa đến tôi đâu.”
“Giới ký hiệu sư cũng không ngu đâu. Về mặt giải mã thì bọn họ là những thiên tài. Họ đọc các kết quả của ông như đọc một cuốn sách mở ấy chứ.”
“Tôi đã phòng xa rồi. Tôi đăng bài hoàn toàn ở dạng giả thuyết, không kèm dữ liệu, không mô tả tiến trình. Bọn nó sẽ không bao giờ hiểu nổi đâu. Giới khoa học không để ý đến tôi, nhưng có hề gì! Một trăm năm nữa luận thuyết của tôi sẽ được chứng tỏ là đúng, với tôi thế là đủ.”
“Hừm”, tôi thốt lên.
“Vì vậy anh hãy rửa và đảo số đi.”
“Vâng”, tôi nói, “thưa ông.”
Trong giờ tiếp theo tôi tập trung tinh thần tính toán. Rồi đến giờ nghỉ.
“Xin hỏi một câu nữa”, tôi nói.
“Anh hỏi đi”, ông già đáp.
“Về cô gái ở cửa. Đậm người, vận đồ màu hồng...”
“Đó là cháu tôi”, ông già nói. “Con bé rất có năng khiếu, tuy còn trẻ nhưng đã giúp tôi nhiều việc nghiên cứu.”
“Câu hỏi của tôi là: cô ấy bị câm, hay chỉ nói theo cách mà ông đã tắt tiếng đi?”
“Thôi chết”, ông già đập tay lên đầu gối. “Tôi quên béng đi mất! Xong thí nghiệm rồi mà không chỉnh lại bình thường... Chết chết, tôi phải ra làm ngay.”
“Vâng”, tôi nói.
Trang 26/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
Chương 4
Thư Viện
Trung tâm thành phố là một quảng trường hình bán nguyệt phía bắc Cầu Cũ. Nửa kia hình bán nguyệt, nghĩa là phần còn lại của hình tròn, nằm về phía Nam, bên kia sông. Hai hình bán nguyệt nọ có tên là Quảng trường Bắc và Quảng trường Nam, là hai phần của một tổng thể, song người ngoài nhìn vào lại có ấn tượng là chúng khác nhau đến mức đối nghịch. Đứng trên Quảng trường Bắc ta cảm nhận được sức nặng của một bầu không khí huyền bí, tựu như đây là nơi tụ họp sự tĩnh lặng của muôn nẻo thành phố đổ về từ bốn phương trời. Ngược lại thì ở Quảng trường Nam chẳng có gì để cảm nhận. Có chăng chỉ là một cảm giác mơ màng về sự khiếm khuyết tuyệt đối lơ lửng trên quảng trường.
Một tháp đồng hồ mọc giữa Quảng trường Bắc, trông như khoan thẳng vào nền trời. Nói cho đúng thì không thể gọi nó là tháp đồng hồ, mà chỉ là một vật thể có dạng tháp đồng hồ. Và kim đồng hồ đứng im, và riêng như thế đã không hoàn tất được công năng nguyên thủy của mình rồi.
Ngọn tháp xây bằng đá, đáy vuông và nhỏ dần lên cao. Bốn cạnh tháp quay về bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc. Trên đỉnh tháp là bốn mặt đồng hồ, các cây kim chỉ khoảng mười giờ ba lăm và không chuyển động lấy một li. Nhìn những ô cửa sổ nho nhỏ ngay phía dưới mặt đồng hồ thì đoán ra là ngọn tháp rỗng ruột, và người ta mong đợi nhìn thấy một cái thang hay thứ gì tương tự để leo lên, song không sao tìm thấy một lối vào. Ngọn tháp cao sừng sững, người ta phải đi qua Cầu Cũ về phía nam nếu muốn đọc được số trên mặt đồng hồ.
Những ngôi nhà xây bằng đá hay gạch tạo thành nhiều vòng cung bán nguyệt bao quanh Quảng trường Bắc theo hình rẻ quạt. Không ngôi nhà nào có một đặc điểm gọi là đáng nhớ - không một nét trang trí, thậm chí chẳng treo một tấm biển, các cánh cửa chớp đóng im ỉm, và không một bóng người đi ra đi vào. Từa tựa như nhà bưu điện thiếu thư từ hay mỏ than thiếu thợ mỏ hay nhà quàn thiếu xác chết. Cứ mỗi lần đi ngang qua là tôi lại có cảm giác sau những bức tường vây quanh tôi có những người không hề quen biết đang nín thở làm tiếp những công việc mà tôi còn biết ít hơn nữa.
Thư viện nằm trong một góc phố như thế. Một ngôi nhà rất đỗi bình thường xây bằng đá, không khác các ngôi nhà khác về bất cứ phương diện nào. Tuyệt đối không có một dấu hiệu nào, một chi tiết bên ngoài nào chứng tỏ đây là thư viện. Trông bức tường đá rêu phong cũ kỹ, rẻo ô văng hẹp, cửa sổ song sắt và những cánh cửa gỗ nặng nề có thể cho nó là một kho ngũ cốc. Nếu ông gác cổng không phác họa khá chi tiết đường đi thì có lẽ tôi chẳng đời nào tin đó là thư viện.
“Chừng nào ổn định chỗ ăn ở rồi thì cậu nên đến thư viện”, ông gác cổng dặn từ hôm đầu tôi mới đến đây. “Cậu nói với cô quản lý là cậu được thành phố trao nhiệm vụ đọc những giấc mơ xưa. Cô ấy sẽ chỉ cho cậu phần còn lại.”
“Giấc mơ xưa?”, tôi bất giác nhắc lại. “Ông nói giấc mơ xưa nghĩa là gì?”
Ông gác cổng ngừng tay gọt thanh gỗ tròn tròn bằng con dao nhỏ - một cái chêm, cọc gỗ hay Trang 27/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
thứ gì tương tự, rồi thu gọn mớ mùn gỗ vương trên bàn ném vào thùng rác.
“Giấc mơ xưa là giấc mơ xa xưa chứ sao nữa. Thư viện đầy mấy thứ đó. Cậu cứ xem kỹ những gì cậu thích là đủ.”
Ông gác cổng kiểm tra kỹ thanh gỗ tròn đã làm xong, tỏ vẻ hài lòng và đặt nó vào giá sau lưng, cùng với chừng hai chục đồ vật tương tự.
“Cậu có quyền hỏi, nếu muốn, nhưng tôi có trả lời không là quyền tôi”, ông gác cổng nói, hai tay chắp sau gáy. “Và cũng còn một số chuyện mà tôi không thể trả lời cậu được. Tóm lại là từ giờ trở đi cậu sẽ hằng ngày đi thư viện và đọc những giấc mơ xưa. Vì đó là công việc của cậu. Sáu giờ tối cậu đến đó, đọc đến mười, mười một giờ. Cô quản lý lo đồ ăn tối cho cậu. Trong thời gian còn lại cậu muốn làm gì thì tùy. Không có ràng buộc nào cả. Hiểu rồi chứ?”
“Hiểu ạ”, tôi đáp. “Tôi sẽ làm công việc này bao lâu?”
“Bao lâu ư? Tôi không biết. Tôi nghĩ là đến một thời điểm thích hợp”, ông gác cổng nói. Rồi ông rút trong đống gỗ ra một khúc vừa ý và bắt đầu vót.
“Thành phố này nghèo lắm, không có chỗ cho người ăn không ngồi rồi. Mỗi người có vị trí của mình, ai làm việc nấy. Việc của cậu là đọc các giấc mơ xưa ở thư viện. Chắc cậu không nghĩ là đến đây để rong chơi chứ?”
“Tôi đâu ngại công việc. Dù sao cũng hơn là chẳng có việc gì làm”, tôi đáp.
“Thấy chưa”, ông gác cổng nói, mắt vẫn nhìn mũi dao. “Kể từ giờ cậu là ‘Người đọc mơ’. Cậu sẽ không có tên nữa. ‘Người đọc mơ’, đó là tên cậu. Như tên tôi là ‘Người gác cổng’ ấy mà. Hiểu chưa?”
“Hiểu”, tôi đáp.
“Cũng như thành phố này chỉ có một người gác cổng, sẽ chỉ có một người đọc các giấc mơ. Người đọc mơ phải có chức vị. Tôi sẽ ban cho cậu chức vị đó.” Nói đoạn ông lấy một cái đĩa trắng nhỏ và nông từ chạn bát đĩa, đặt lên bàn và đổ dầu vào. Sau đó ông bật diêm châm lửa. Rồi ông lấy trong chạn ra một con dao hình thù cổ quái, rộng bản như dao quệt bơ, hơ mũi dao mười phút trên ngọn lửa. Sau đó ông thổi tắt lửa và đợi lưỡi dao nguội đi.
“Chỉ để đánh dấu cho cậu thôi”, ông gác cổng nói. “Không đau chút nào đâu, cậu không việc gì phải sợ. Thoắt một cái là xong ngay thôi.”
Ông lấy ngón tay vạch mí mắt trên của tôi lên và chọc mũi dao vào đồng tử của tôi. Nhưng, đúng như ông nói, không đau chút nào hết, và cũng lạ lùng là tôi chẳng thấy sợ gì cả. Mũi dao nhẹ nhàng và im lìm lách vào đồng tử của tôi như đâm vào một miếng thạch. Ông lặp lại động tác đó bên mắt trái.
“Khi nào cậu xong việc đọc mơ của mình thì các vết sẹo cũng tự biến mất”, ông gác cổng vừa nói vừa dọn đĩa và dao cất đi. “Có nghĩa là, có thể coi chúng là dấu hiệu nhận dạng của người đọc mơ. Nhưng chừng nào còn mang dấu hiệu này thì cậu hãy tránh xa ánh sáng ban ngày! Mắt cậu bây giờ không được nhìn vào mặt trời, hiểu chưa? Nếu cậu cứ làm thì hình phạt sẽ hiện ra nhãn tiền. Từ giờ cậu chỉ được ra ngoài vào buổi tối hay lúc nào trời nhiều mây. Những hôm có
Trang 28/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
nắng thì cậu phải ở nhà và che phòng cho tối vào.”
Nói xong ông đưa tôi một cặp kính đen và bảo tôi lúc nào cũng phải đeo, trừ khi ngủ. Tôi mất ánh sáng mặt trời như vậy đấy.
Một buổi tối sau đó mấy hôm, rồi tôi cũng đến đứng trước cổng thư viện. Cánh cổng nghiến kèn kẹt khi tôi đẩy ra. Sau cửa là một hành lang dài thẳng tắp. Mọi thứ đầy bụi bặm, không khí tù hãm chắc đã hàng năm trời rồi. Gỗ lát nền lún mòn vẹt ở những chỗ nhiều người đi lại, lớp vữa trát tường có màu vàng xỉn bởi ánh sáng từ bóng đèn điện hắt vào.
Hai bên hành lang là dãy cửa chẳng xích có khóa, trên nắm đấm cửa tích tụ một lớp bụi trắng. Chỉ có tấm cửa mỏng mảnh bằng kính mờ ở cuối hành lang là không khóa. Phía sau cửa có ánh đèn. Tôi gõ mấy lần nhưng không có ai đáp. Tôi bèn xoay nắm cửa kiểu cổ bằng đồng thau; cửa mở nhẹ nhàng vào trong. Không thấy một bóng người. Căn phòng trống tuềnh toàng gợi nhớ đến một phòng đợi tàu quá lớn ở ga – không cửa sổ, không có gì đáng gọi là đồ trang trí. Một cái bàn thô sơ, ba ghế đẩu, bếp lò bằng gang đúc – chấm hết. Ngoài ra còn có một chiếc đồng hồ đứng và quầy sách. Một cái ấm đen sì có lớp tráng men sứt sẹo đặt trên bếp lò phì hơi trắng. Sau quầy sách là một tấm cửa kính mờ như cửa ra vào, và phía sau nó cũng thấy ánh sáng. Tôi lưỡng lự, không rõ có nên gõ cửa ấy không. Rốt cuộc tôi quyết định đợi đến khi có người đi ra.
Trên mặt quầy vương vãi vài cái ghim giấy màu bạc. Tôi cầm một cái lên nghịch chơi, lát sau tôi ra bàn ngồi.
Mười hay mười lăm phút trôi qua. Một cô gái bước ra từ cửa sau quầy, trong tay cầm kéo cắt giấy hay vật gì đó tương tự. Có vẻ như cô ta hơi giật mình khi thấy tôi, vì gò má cô chợt đỏ ửng. “Xin lỗi anh”, cô nói với tôi, “em không biết là có người đến. Lẽ ra anh cứ gõ cửa đi chứ. Suốt buổi em dọn dẹp ở phòng trong. Lắm thứ lộn xộn quá.”
Tôi im lặng nhìn cô một lúc lâu. Tôi linh cảm khuôn mặt cô đánh thức trong tôi một ký ức nào đó. Có gì đó ở người đàn bà này khuấy tung lớp cặn đọng dưới đáy tiềm thức của tôi. Tôi không rõ điều đó có nghĩa gì. Mọi thứ nằm vùi dưới bóng tối xa xăm. “Anh biết đấy, chẳng có ai đến đây nữa. Ở đây chỉ còn những ‘giấc mơ xưa’ thôi, không còn gì khác.”
Tôi khẽ gật đầu, mắt vẫn không rời khuôn mặt cô. Tôi cố đọc ra điều gì – trong mắt cô, trên môi, trên vầng trán cao và trong mái tóc búi ngược ra sau gáy, song tôi càng chìm sâu vào chi tiết thì cảm tưởng bao quát càng vuột khỏi tay tôi và càng nhạt nhòa đi. Tôi đành chịu, nhắm mắt lại.
“Xin lỗi, anh có nhầm nhà không? Ở khu này nhà nào trông cũng giống nhà nào”, cô nói và đặt kéo xuống mặt quầy cạnh các ghim giấy. “Chỉ có người đọc mơ mới được sử dụng thư viện và đọc các giấc mơ xưa. Ngoài người ấy ra không ai được vào nhà này.”
“Tôi đến đây để đọc mơ”, tôi nói. “Đó là nhiệm vụ thành phố trao cho tôi.” “Xin lỗi, nhưng anh có thể bỏ kính xuống được không?”
Tôi bỏ cặp kính đen xuống và quay mặt qua phía cô. Cô nhìn sâu vào mắt tôi, vào đồng tử nhuốm màu xám bạc – dấu hiệu của người đọc mơ. Có cảm giác như ánh mắt của cô xuyên vào tận tâm can tôi.
Trang 29/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
“Được rồi. Anh đeo kính lại đi”, cô nói. “Anh uống cà phê nhé?”
“Vâng, cảm ơn”, tôi nói.
Cô đi lấy hai cái tách từ phòng trong, rót cà phê từ ấm ra và ngồi đối diện tôi.
“Em không chuẩn bị gì cho hôm nay cả. Anh cho phép chúng ta ngày mai bắt đầu đọc mơ”, cô nói. “Phòng này có hợp ý anh không? Em có thể mở khóa cho anh dùng một trong những phòng đọc.”
“Anh không muốn phiền em”, tôi đáp. “Em sẽ hỗ trợ anh chứ?”
“Vâng. Nhiệm vụ của em là bảo quản những giấc mơ xưa và giúp người đọc mơ.” “Anh và em đã gặp nhau ở đâu lần nào chưa?”
Cô ngẩng đầu nhìn tôi. Có vẻ như đang lục lọi trong trí nhớ, tìm một gợi ý, nhưng rồi cô bỏ cuộc và lắc đầu. “Anh biết đấy, ký ức ở thành phố này vốn mỏng mảnh và không ổn định. Người ta nhớ được vài chuyện, các chuyện khác thì quên. Anh tha lỗi, nhưng có lẽ em không nhớ ra anh.”
“Không sao”, tôi nói. “Không quan trọng.”
“Nhưng biết đâu em đã gặp anh một lần ở đâu đó rồi cũng nên. Vì em chỉ toàn sống ở đây, và thành phố này cũng nhỏ.”
“Anh mới đến đây được vài hôm.”
“Mới được vài hôm?” Cô ngạc nhiên. “À, thế thì nhất định anh nhầm em với ai đó. Từ khi sinh ra em chưa rời thành phố này lần nào. Có lẽ anh thấy ai đó giống em chăng?”
“Ừ, hình như thế”, tôi nói và chiêu cà phê. “Cũng là chuyện bình thường xảy ra với anh. Đôi khi anh nghĩ rằng mỗi người trong chúng ta ngày xưa đã từng sống ở một nơi khác, từng có một cuộc đời khác. Vì một lý do nào đó, chúng ta đã lú hết và hôm nay sống tiếp mà không hề biết gì về ngày xưa nữa. Đã bao giờ em có ấn tượng như thế chưa?”
“Không”, cô nói. “Anh chỉ tưởng tượng ra thế thôi, vì anh là người đọc mơ mà. Người đọc mơ sống trong một thế giới tư duy và cảm xúc khác hẳn người thường.”
“Có lẽ thế”, tôi nói.
“Thế anh có biết ngày xưa anh ở đâu và làm gì không?”
“Anh không nhớ nổi”, tôi đáp. Rồi tôi ra quầy lấy một cái ghim giấy, ngắm nó một lát. “Nhưng anh có cảm giác rõ ràng có một cái gì đó từng tồn tại. Và cả chuyện anh từng gặp em ở đó nữa.”
Trần phòng thư viện rất cao. Ở đây im lìm như dưới đáy biển. Tôi đưa mắt nhìn vơ vẩn khắp phòng, đầu óc trống rỗng và tay cầm ghim giấy. Cô gái lặng lẽ ngồi uống cà phê ở bàn.
“Anh cũng không rõ tại sao mình lại ở đây”, tôi nói.
Trang 30/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
Tôi nhìn đăm đăm lên trần. Những giọt sáng vàng từ bóng đèn tỏa xuống bắt đầu phình lên và rúm lại. Chắc chắn vì con ngươi tôi bị thương tổn. Ông gác cổng đã biến đổi công năng của mắt tôi để chúng nhìn được những điều đặc biệt.
“Nhất định phải có lý do thì anh mới tới đây, nhưng bây giờ anh không nhớ ra nữa”, tôi nói.
“Thành phố này rất yên tĩnh”, cô nói. “Nếu thứ anh định tìm là sự tĩnh lặng thì chắc chắn anh sẽ thấy hài lòng ở đây.”
“Ừ, có lẽ vậy”, tôi trả lời. “Hôm nay anh làm việc gì ở đây?”
Cô lắc đầu, chậm rãi nhỏm dậy và dọn hai cái tách không đi. “Hôm nay không có gì cho anh làm ở đây cả. Mai ta sẽ bắt đầu công việc. Anh cứ về nhà nghỉ cho khỏe.”
Tôi nhìn lần nữa lên trần, rồi nhìn mặt cô. Không nhầm được, tôi linh cảm khuôn mặt cô gắn chặt với gì đó trong tâm hồn tôi. Và chính cái gì đó đang khẽ lay động tâm hồn tôi. Tôi nhắm mắt và cố sục sạo trong tâm hồn tối tăm mù mịt của mình. Cũng là lúc sự tĩnh lặng trùm xuống người tôi như một lớp bụi mỏng tang.
“Sáu giờ ngày mai anh quay lại”, tôi nói.
“Tạm biệt”, cô đáp.
Rời khỏi thư viện, tôi đứng tựa vào thành Cầu Cũ, lắng nghe tiếng sông chảy rì rào và ngắm nhìn thành phố. Bầy thú đã biến mất. Tất cả chìm trong bóng tối xanh nhợt của chiều tà – tháp đồng hồ, tường thành bao quanh thành phố, dãy nhà ven sông, dãy núi phía bắc nhấp nhô hình lưỡi cưa. Ngoài tiếng nước reo, không một tiếng động nào khác lọt tới tai tôi. Cả những con chim cũng được lệnh bay tới đâu đó rồi thì phải.
Cô ta nói, có lẽ tôi tới đây tìm sự yên tĩnh. Nhưng tôi không thể nào chứng thực được điểm này.
Quanh tôi đã tối mịt, và khi đèn đường ven sông bật lên thì tôi lên đường về phía Đồi Tây, qua những con phố vắng ngắt bóng người.
Trang 31/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
Chương 5
Lập Bảng Tính Toán,
Tiến Hóa, Hứng Tình
Trong khi ông già trở lên để trả lại tiếng nói cho cô cháu gái mà ông đã bỏ lại trong tình trạng câm lặng, tôi vừa uống cà phê vừa lập bảng tính toán.
Tôi thực sự không rõ ông vắng mặt bao lâu. Tôi đặt chế độ báo thức trên đồng hồ đeo tay theo chu kỳ 1 tiếng – 30 phút – 1 tiếng – 30 phút, và theo nhịp đó tôi làm tính – giải lao – làm tính – giải lao. Tôi tắt chế độ hiển thị giờ. Cứ nghĩ tới thì giờ thì sẽ ảnh hưởng đến việc tính toán. Đối với công việc của tôi thì hiện tại đang là mấy giờ chẳng có ý nghĩa gì cả. Khi tôi bắt đầu tính thì công việc bắt đầu, và khi tôi tính xong thì công việc chấm dứt. Chỉ riêng chu kỳ 1 tiếng – 30 phút – 1 tiếng – 30 phút là quan trọng.
Trong lúc ông già đi khỏi, tôi cho là mình đã giải lao hai hay ba lần. Tôi nằm ra sofa và không nghĩ đến chuyện gì nhất định: Rồi đi vệ sinh, tập chống đẩy. Nằm trên cái sofa này rất thoải mái. Không cứng quá, cũng không mềm quá. Vì công việc của mình tôi đi khắp nơi, và đến giờ giải lao là tôi nằm ra, song hiếm khi tìm được một chiếc sofa thoải mái. Thường là những đồ vật thô thiển mà người ta mua về hú họa chẳng suy tính. Ngay cả những sofa đẹp, thoạt trông biết ngay là loại đắt tiền, cũng thường làm ta thất vọng khi duỗi cẳng ra nằm trên đó. Thật khó lý giải tại sao người ta lại vô tâm vô tính đến thế khi chọn mua sofa.
Tôi tin chắc – một trong những định kiến của tôi – rằng sự tinh tế của con người thể hiện trong chính cách chọn sofa. Sofa là một trong những thành trì vững chãi bất khả công phá. Chỉ ai lớn lên cùng những bộ sofa dễ chịu mới biết điều đó. Hệt như khi người ta trưởng thành trong môi trường sách hay hoặc nhạc hay. Một bộ sofa tốt sẽ sinh ra một bộ sofa tốt, một bộ tồi đẻ tiếp ra một bộ tồi. Đời là vậy.
Tôi quen khối người đi ô tô cực kỳ xịn, nhưng ở nhà thì ngồi bộ sofa giỏi lắm là hạng hai hay hạng ba. Họ không đáng để tôi tin. Ô tô đắt thì có giá trị của nó, không phải bàn, nhưng nó vẫn chỉ là một chiếc ô tô đắt tiền mà thôi. Ai có tiền là mua được. Nhưng để mua nổi một bộ sofa tử tế thì cũng cần, nhưng không chỉ tiền là đủ. Không hiểu thấu đáo thế nào là sofa thì người ta không bao giờ mua được sofa thượng hạng.
Không nghi ngờ gì, bộ sofa của ông già mà tôi đang duỗi dài nằm nghỉ là một bộ hạng nhất. Nó khiến tôi cảm tình với ông. Tôi duỗi chân, nhắm mắt, ngẫm nghĩ về ông già có cách nói cười kỳ khôi. Tôi mường tượng ra việc ông tắt âm thanh: không nghi ngờ gì, với kỳ tích này ông thuộc vào hàng ngũ các nhà khoa học đầu bảng. Lấy đâu ra một nhà khoa học bình thường biết bật tắt âm thanh? Một nhà khoa học bình thường thậm chí còn không nghĩ ra điều đó. Với lại, thêm vào đó ông già này còn phải là người tương đối khác đời nữa. Trong giới khoa học vốn không hiếm loại người lập dị và thù nghịch, nhưng ai tiến xa được đến mức xây một phòng thí nghiệm bí mật sâu tít trong lòng đất, lẩn tránh mắt nhìn của thế gian sau một thác nước?
Nếu ông tung kỹ thuật tắt bật âm thanh này ra bán thì chắc chắn sẽ kiếm được bộn tiền. Trước Trang 32/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
tiên là các trang bị âm thanh sẽ biến khỏi mọi phòng hòa nhạc. Người ta sẽ không cần các máy tăng âm khổng lồ nữa. Người ta có thể triệt tiêu mọi tạp âm. Máy bay lắp máy triệt âm sẽ được dân chúng ở cạnh sân bay tưng bừng chào đón. Mặt khác, công nghệ này sẽ được ứng dụng cho vô số mục đích quân sự và hình sự. Người ta sẽ khẩn trương thiết kế các kiểu phi cơ ném bom không tiếng động và súng ống vô thanh. Nhưng cũng sẽ xuất hiện loại bom mà sóng nổ của nó xé nát óc, và kỹ thuật giết người bằng hệ thống âm thanh sẽ ngày càng tinh xảo hơn. Chắc chắn ông già ý thức được điều đó, giữ kín kết quả nghiên cứu của mình, vì vậy ông không phổ biến chúng. Mỗi lúc, ông càng chiếm nhiều cảm tình của tôi hơn.
Tôi đang trong chu kỳ làm việc thứ năm hay thứ sáu thì ông già quay về. Ông xách một giỏ lớn.
“Tôi có cà phê mới pha và mấy cái bánh mì kẹp”, ông nói. “Nhân dưa chuột, giăm bông và phô ma. Hy vọng đúng ý anh.”
“Rất cảm ơn ông. Đúng món tôi thích”, tôi nói.
“Anh có muốn ăn ngay không?”
“Tôi làm hết đợt này đã.”
Khi đồng hồ phát tiếng báo hiệu thì tôi đã rửa được năm trong số bảy danh sách số liệu. Việc đã gần xong. Tôi đứng dậy, vươn vai hết cỡ và vớ lấy chỗ bánh mì kẹp, có lẽ phải nhiều bằng năm, sáu suất ăn ở nhà hàng hay quán ăn nhanh. Tôi lặng lẽ ngồi ăn một mình hết hai phần ba chỗ bánh. Mỗi lần rửa số lâu lâu là tôi rất đói. Tôi đút bánh vào mồm đúng thứ tự: dưa chuột, giăm bông, phô ma, rồi chiêu thêm cà phê nóng cho trôi.
Trong lúc tôi ăn hết ba cái bánh mì thì ông già ăn một cái. Chắc là ông thích dưa chuột: ông tẽ đôi các miếng bánh mì kẹp, thận trọng rắc một lượng muối như nhau rồi ăn hết; nghe có tiếng nhai rào rào rất khẽ. Trông ông già ăn bánh kẹp tôi liên tưởng đến một chú dế có nết ăn uống lịch thiệp.
“Anh ăn đi, cứ thoải mái mà ăn”, ông nói. “Già rồi thì kém ngon miệng đi, làm có chừng mực. Còn người trẻ thì phải chén thoải mái. Chén thoải mái và lên cân thoải mái. Nói chung người ta không thích lên cân và béo, nhưng tôi nói để anh hay lý do là vì người ta béo không đúng cách. Béo không đúng cách thì sinh bệnh và xấu xí. Nhưng béo đúng cách thì khác hẳn. Người ta hưng phấn, tăng hứng thú tình dục, đầu óc sáng suốt. Bây giờ tôi gần như cái que, nhưng hồi còn trẻ tôi cũng béo!” Ông già cười rổn rảng. “Anh thấy bánh kẹp cũng khá đấy chứ?”
“Cực ngon là đằng khác”, tôi khen. Bánh ngon thực sự. Trong chuyện bánh mì kẹp tôi cũng kỹ tính như khi chọn sofa, song đúng là mấy cái bánh này hoàn toàn đạt yêu cầu chất lượng nghiêm ngặt của tôi.
“Cháu gái tôi làm để thết anh đấy!”, ông già nói. “Bánh kẹp là sở trường của nó.” “Bánh rất tuyệt. Chẳng bếp trưởng nào làm hơn được.”
“Thế thì tôi rất vui. Và nếu con bé nghe thấy anh khen cũng sẽ rất vui. Hiếm khi chúng tôi có khách, nó chẳng khi nào có dịp làm các món và nghe ý kiến của người khác. Nó vẫn vào bếp, nhưng khi ăn thì chỉ có hai chúng tôi thôi.”
Trang 33/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
“Hai ông cháu sống một mình?”
“Phải, đã mấy năm nay. Tôi rút lui khỏi thế giới này lâu rồi, và chuyện đó lây sang con bé khiến tôi rất khổ tâm. Nó không bao giờ ra ngoài. Nó thông minh và khỏe mạnh, nhưng không chịu tiếp xúc với mọi người. Khi trẻ thì người ta phải tiếp xúc với xung quanh. Động lực tình dục phải được xử lý đúng hướng. Xét về tình dục thì trông nó hấp dẫn đấy chứ, anh thấy sao?”
“Đúng thế thật, không có gì phải bàn”, tôi nói.
“Hứng thú tình dục là một năng lượng tích cực, chắc chắn là thế. Nếu nó không có van điều chỉnh, nếu nó bị đè nén thì não không làm việc sáng suốt được, và người ta sẽ mất cân bằng cơ thể. Cả ở đàn ông lẫn đàn bà. Đàn bà sẽ bị kinh nguyệt thất thường, và kinh nguyệt thất thường đi đôi với tâm tính bất ổn.
“Ra thế”, tôi nói.
“Con bé phải chóng có một người đàn ông hợp với nó. Tôi tin chắc như vậy, với tư cách là người giám hộ và nhà sinh học.”
“Ông đã chỉnh được âm thanh của cô ấy cho đúng như cũ chưa?”, tôi hỏi để đổi đề tài. Trong lúc làm việc tôi không thích nghe kể về động lực tình dục của người khác cho lắm.
“À, tôi quên không kể cho anh nghe”, ông già nói. “Tất nhiên rồi, âm thanh được phục hồi lại rồi. Tôi cũng phải cảm ơn anh đã nhắc nhở. Không thì chẳng biết con bé sẽ không phát âm được bao lâu nữa. Mỗi lần chui xuống đây là còn lâu tôi mới lên trên kia. Mà sống thiếu âm thanh cũng khó chịu lắm.”
“Đúng thế đấy”, tôi đồng tình.
“Như tôi đã kể, con bé hầu như không có quan hệ xã hội, vì vậy thiếu âm thanh cũng không thiệt thòi gì, nhưng ví dụ khi dùng điện thoại thì sẽ có vấn đề. Đã vài lần tôi gọi điện lên và ngạc nhiên không thấy ai nhấc máy. Tôi đãng trí quá đi mất!”
“Nếu không phát âm thì cô ấy có vấn đề khi đi chợ không?”
“Không, không sao”, ông già nói. “Thế giới ngoài kia có những siêu thị mà không cần nói một lời nào cũng mua hàng được. Rất thoải mái. Nó thích siêu thị, và rất hay đến đó mua hàng. Có thể nói là cuộc sống của nó diễn ra giữa siêu thị và văn phòng.”
“Cô ấy không về nhà sao?”
“Nó thích văn phòng. Ở đấy có bếp và nhà tắm, có thể sống tử tế. Nó về nhà nhiều nhất là mỗi tuần một lần.”
Tôi gật đầu không rõ lý do và uống một ngụm cà phê.
“Nhưng anh đã giao tiếp tốt với nó”, ông già nói. “Anh làm thế nào? Thần giao cách cảm à?”
“Bằng cách đọc môi. Trước đây tôi có theo một khóa học buổi tối về đọc môi. Hồi ấy tôi rỗi rãi không biết làm gì, và tôi nghĩ có thể một lúc nào đấy sẽ có lợi.”
“Đọc môi, à, tất nhiên”, ông già nói và gật gù liên tục. “Đúng là một kỹ thuật lợi hại. Tôi cũng Trang 34/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
biết một chút. Thế nào, ta thử nói chuyện câm một chút xem sao nhé?”
“Không nhất thiết. Tôi thích nói ra tiếng hơn”, tôi vội nói. Hai lần liền trong một ngày thì hơi quá.
“Tất nhiên đọc môi là một kỹ thuật cực kỳ thô sơ, có nhiều khiếm khuyết. Trời tối là không hiểu gì, và luôn luôn phải nhìn vào miệng người kia. Nhưng có thể dùng làm kỹ thuật quá độ cũng được. Anh học môn này, chúng tỏ có tầm nhìn xa trông rộng.”
“Kỹ thuật quá độ?”
“Chính xác”, ông già nói và gật đầu lần nữa. “Nói riêng cho anh biết: thế giới này sẽ hoàn toàn không có tiếng động trong tương lai.”
“Không có tiếng động?”, tôi bất giác hỏi lại.
“Chính xác. Im phăng phắc. Trong quá trình tiến hóa của con người, tiếng nói không chỉ không cần thiết, mà còn gây cản trở nữa. Chẳng chóng thì chày, tiếng nói và âm thanh sẽ mất đi.”
“Ông định nói là”, tôi hỏi, “tiếng chim hót, suối reo, ca nhạc và các tiếng khác sẽ biến mất?” “Chính là ý tôi muốn nói.”
“Thế thì sẽ buồn tẻ và đơn côi lắm.”
“Đó là bản chất của tiến hóa. Tiến hóa bao giờ cũng cay đắng. Và buồn nữa. Không thể có tiến hóa vui vẻ đâu”, ông già nói và đứng dậy đi ra bàn giấy lấy một cái cắt móng tay trong ngăn kéo. Ông quay lại sofa và cắt móng tay, bắt đầu từ ngón cái tay phải và chấm dứt với ngón út tay trái. “Tôi đang trong giai đoạn nghiên cứu và không thể nói cho anh biết một cách chi tiết, như về đại thể thì mọi việc sẽ diễn ra như vậy. Tuy nhiên, anh đừng hé một lời nào ra với bên ngoài. Để cho bọn ký hiệu sư nghe phong thanh được chuyện này là sẽ bắt đầu lắm chuyện đấy.”
“Ông đừng lo. Không ai giữ bí mật tốt hơn các toán sư chúng tôi.”
“Biết được thế là tốt”, ông già nói và lấy một tấm bưu thiếp vun các vụn móng tay đổ vào thùng rác. Rồi ông lấy một bánh mì kẹp dưa chuột, rắc muối và ăn. “Ngon thật, không thể nói khác được.”
“Cháu ông nấu giỏi lắm nhỉ?”, tôi hỏi.
“Không, thật ra thì không, giỏi nhất là bánh mì kẹp thôi. Nói thế không có nghĩa là nó nấu ăn kém, nhưng nghệ thuật bếp núc của nó không so với bánh kẹp được.”
“Làm bánh kẹp phải có một năng khiếu riêng”, tôi nói.
“Đúng thế”, ông già nói. “Đúng thế đấy. Tôi có cảm giác là anh hiểu nó rất rõ. Tôi có thể trao nó cho anh không chút băn khoăn.”
“Trao cho tôi?”, tôi hơi giật mình. “Chỉ vì tôi khen món bánh kẹp của cô ấy?” “Anh không thấy ngon sao?”
“Thậm chí rất ngon”, tôi nói. Và tôi tưởng tượng ra cô gái mũm mĩm, nhưng sơ sơ thôi, không Trang 35/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
để ảnh hưởng đến công việc tính toán của mình. Rồi tôi uống một ngụm cà phê. “Nếu anh hỏi thì tôi nói: anh có một thứ. Hay ngược lại: anh thiếu một thứ. Kết quả là một.” “Đôi khi tôi cũng nghĩ thế về mình”, tôi cởi mở thú thực.
“Chúng tôi, những người làm khoa học, gọi đó là quá trình tiến hóa. Một quá trình bất khả kháng, sớm muộn rồi anh sẽ hiểu ra. Điểm bất khả kháng của tiến hóa là, hừm, anh có biết là gì không?”
“Tôi không biết. Ông hãy khai hóa tôi đi.”
“Là ta không được phép chọn. Tiến hóa nằm cùng danh mục với lũ lụt, tuyết lở, động đất. Trước khi nó xảy ra thì người ta không thể biết, và khi nó xảy ra rồi thì đã muộn.”
“Ra thế”, tôi nói. “Khi nói đến tiến hóa, ông ám chỉ sự mất âm thanh? Tôi sẽ không nói được nữa?”
“Nếu tôi phải nói chính xác thì – không. Vấn đề thực sự không phải là người ta nói được hay không nói được. Đó chỉ là một bước, không hơn không kém.”
“Tôi không hiểu”, tôi nói. Nói chung tôi là một người chân thật. Nếu tôi hiểu thì nói là tôi hiểu, và nếu không hiểu thì cũng nói là không hiểu chứ không nói nước đôi. Tôi cho rằng hầu hết các vấn đề sinh ra từ cách thể hiện không mạch lạc. Nhiều người nói ra không mạch lạc vì họ bất giác, nghĩa là vô ý thức gặp phải vấn đề, tôi tin là vậy và không có một lời giải thích nào khác.
“Thôi ta không nói tiếp chuyện này nữa”, ông già đáp và lại cười theo kiểu rất đặc biệt của mình, làm tôi váng cả tai. “Chúng ta nên giữ chừng mực, mấy thứ quá phức tạp chỉ tổ làm anh rối trí trong khi tính toán.”
Tôi cũng đồng ý và quay về rửa số, vả lại đồng hồ cũng vừa kêu. Ông già lấy một thứ gì đó trong ngăn kéo bàn giấy ra, trong như một cái kẹp gắp than bằng inox, cầm nó vào tay phải và đi đi lại lại trước giá đựng các hộp sọ, gõ vào chỗ này chỗ nọ và lắng nghe. Trông ông như một nghệ sĩ vĩ cầm bậc thầy đứng trước bộ sưu tập các cây đàn Stradivarius, thỉnh thoảng chọn một cây và lấy ngón tay gảy vào dây để thử. Chỉ qua các âm thanh đã có thể thấy, ông già có một tình yêu khác thường đối với các hộp sọ. Mỗi đầu lâu trong bộ sưu tập này đơn giản gọi là “đầu lâu”, nhưng quả thật chúng sinh ra những âm thanh cực kỳ khác nhau. Có cái kêu như cốc whiskey, cái khác nghe như một chậu cây cảnh loại lớn. Và tất cả các đầu lâu ấy đã từng có da thịt phủ lên, chúng đã từng bao bọc những bộ óc có kích thước khác nhau, từng nghĩ đến ăn uống và làm tình. Bây giờ thì tất cả đã tan biến, chỉ còn các âm thanh khác nhau đọng lại. Âm thanh như thủy tinh, chậu cây, ấm trà, như thùng gỗ, ống chì.
Tôi tưởng tượng ra đầu lâu của mình bị lột da róc thịt và hút hết não ra, nằm trên cái giá kia và bị ông già lấy kẹp gắp than gõ vào. Tôi sởn gai ốc. Liệu ông già sẽ nghe thấy gì từ đầu lâu của tôi? Ông sẽ nghe ra những ý nghĩ xa xưa của tôi, hay nghe những gì chẳng liên quan đến ý nghĩ của tôi?
Bản thân cái chết không làm tôi sợ lắm. Như lời Shakespeare: ai chết năm nay thì sang năm khỏi phải chết. Kể ra cũng đơn giản. Nhưng sau khi chết phải làm cái đầu lâu nằm trên giá và bị kẹp gắp than gõ lên thì tôi không khoái lắm. Chỉ nghĩ đến chuyện sau khi chết bị người ta lấy gì
Trang 36/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
trong người ra là tôi đã thấy ngán ngẩm. Cuộc sống không đơn giản, hoàn toàn không đơn giản, nhưng tôi vượt qua ghềnh thác của nó theo kiểu tôi cho là đúng. Và thế là ổn. Như Henry Fonda trong Warlock. Nhưng chết rồi thì tôi muốn ngủ yên. Tôi tin là đã hiểu được các vua Ai Cập, họ nhất định sau khi băng hà phải được chôn trong Kim Tự Tháp.
Mấy tiếng sau thì tôi rửa hết số. Tôi không rõ mình đã cần bao nhiêu thời gian vì tôi không nhìn đồng hồ, nhưng dựa vào tình trạng kiệt quệ của mình mà đoán thì chắc là tám, chín tiếng đã trôi qua. Một công việc đáng kể. Tôi nhỏm dậy khỏi sofa, ngáp trẹo quai hàm và làm mấy động tác thư giãn. Cẩm nang toán sư miêu tả ở dạng biểu đồ một số động tác thư giãn cho hai mươi sáu nhóm cơ. Nếu tập thật chuẩn xác theo hướng dẫn thì bộ não sẽ chóng hồi phục, và hồi phục càng nhanh thì người ta càng làm việc tính toán này được lâu hơn. Hệ thống toán sư mới tồn tại chưa đầy mười năm, do đó không ai biết rõ sẽ làm nghề này được bao lâu. Người này nói mười năm, người khác nói hai chục năm. Lại có người quả quyết làm được cả đời. Song cũng có lý thuyết cho rằng sớm muộn thì toán sư sẽ thành cái xác không hồn. Tất cả đều chỉ là phỏng đoán. Cái mà tôi làm được là tận tụy thực hành thư giãn hai mươi sáu nhóm cơ. Chuyện phỏng đoán thì xin nhường cho các nhà phỏng đoán.
Xong bài thư giãn, tôi ngồi xuống sofa, nhắm mắt và từ từ ghép não phải và não trái thành một thể thống nhất. Đó là bước cuối cùng của công việc. Theo đúng cẩm nang.
Ông già đặt lên bàn một cái đầu lâu, trông như của một con chó to. Ông đo thật chính xác bằng thước rút rồi ghi các số đo bằng bút chì lên bản sao chụp đầu lâu.
“Anh xong chưa?”, ông già hỏi.
“Xong”, tôi nói.
“Một núi việc. Cảm ơn anh!”, ông nói.
“Bây giờ tôi về nhà đi ngủ. Mai hoặc ngày kia tôi sẽ đảo dãy số ở nhà và đem kết quả đến cho ông, chậm nhất vào trưa ngày kia. Như thế là ổn chứ?”
“Tuyệt vời, tuyệt vời”, ông già gật đầu. “Nhưng phải tuyệt đối đúng giờ đấy! Anh không được phép trễ hẹn! Hậu quả sẽ rất khủng khiếp.”
“Ông cứ tin tôi”, tôi nói.
“Và anh chú ý đừng để danh sách bị mất cắp. Nếu chúng bị mất thì tôi sẽ bay đầu. Cả anh nữa.”
“Ông đừng lo. Về mặt này thì chúng tôi được đào tạo cực tốt, không ai ăn cắp được số liệu đã rửa đâu.” Tôi lấy trong túi bí mật may lẩn trong túi quần ra một vật trông như ví tiền bằng kim loại dùng để cất các tài liệu quan trọng, cho danh sách dữ liệu vào đó rồi khóa lại. “Chỉ mình tôi mở được khóa này. Nếu người khác thử phá khóa thì tài liệu sẽ bị hủy.”
“Thông minh đấy”, ông già nói.
Tôi cất ví vào túi bí mật trong túi quần.
“Anh có muốn ăn thêm vài chiếc bánh kẹp không? Còn mấy cái nữa đây, trong khi làm việc hầu như tôi không ăn gì, mà để thừa thì phí quá.”
Trang 37/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
Tôi nhận lời mời vì vẫn thấy đói, và ăn hết chỗ bánh còn lại. Bánh kẹp dưa chuột mà ông già thích ăn đã hết, chỉ còn bánh kẹp giăm bông và phô ma. Nhưng do tôi không khoái dưa chuột lắm nên thế là ổn. Ông già rót thêm cà phê.
Tôi mặc lại áo mưa vào, đeo kính bảo hộ và cầm đèn pin đi ngược trở lại con đường ngầm. Lần này ông già không đi cùng.
“Tôi đã dùng sóng âm để đuổi bọn ma đen đi rồi, trước mắt chúng sẽ không quay lại lần nữa đâu”, ông già nói. “Bản thân bọn chúng cũng sợ mò tới đây, chẳng qua là bị lời đường mật của bọn ký hiệu sư gạ gẫm, vì vậy chỉ cần dọa một chút là đủ.”
Tuy nhiên, sau khi biết bọn ma đen hay đồng đảng của chúng có mặt dưới lòng đất này, tôi thấy không thoải mái lắm khi một mình đi xuyên màn đêm. Và càng ngại hơn, khi tôi không biết bọn ma đen thực sự là cái gì, chúng có hình dạng gì, thói quen gì, và phải làm gì để tự vệ khi gặp chúng. Tôi đi trở lại con đường cũ, dọc theo con suối ngầm, tay trái cầm đèn pin, tay phải cầm dao.
Tới chân chiếc thang nhôm dài mà tôi đã trèo xuống lúc đến đây, tôi phát hiện cô nàng béo trong bộ đồ hồng đứng đó và cảm thấy như vừa được giải cứu. Cô lia đèn pin. Khi tôi đến trước mặt, cô nói gì đó nhưng tiếng suối chảy hình như đã được bật trở lại, khiến tiếng nước réo át hết tất cả. Trời tối làm tôi không đọc được cử động môi, vì thế chẳng hiểu cô ta nói gì.
Chúng tôi trèo thang lên trên, lên phía ánh sáng. Tôi trèo trước, cô gái theo sau. Thang dài kinh khủng. Khi trèo xuống, do tối mịt nên tôi cứ trèo mà không thấy sợ. Nhưng bây giờ tôi có thể tưởng tượng ra độ cao sau từng gióng thang một; mồ hôi lạnh túa ra trên mặt và dưới nách tôi. Chắc thang phải cao bằng ba, bốn tầng nhà, thêm vào đó là hơi ẩm làm các gióng thang trơn nhẫy, phải thận trọng từng bước để khỏi trượt chân.
Giữa chừng tôi chỉ muốn nghỉ lấy hơi, nhưng có cô gái thì không dừng lại được, rốt cuộc chúng tôi trèo một lèo hết thang. Nghĩ đến chuyện ba hôm nữa phải đi đường này xuống phòng thí nghiệm là tôi gai cả người, nhưng biết làm sao bây giờ? Tất cả được tính trong số tiền thù lao cả rồi.
Chúng tôi trèo qua tủ tường vào phòng, cô gái đỡ lấy kính và cởi áo choàng cho tôi. Tôi lột ủng ra và đặt đèn pin cạnh đó.
“Công việc xong xuôi rồi chứ ạ?”, cô hỏi. Giọng cô – lần đầu tiên tôi nghe được – mềm mại và trong trẻo.
Tôi nhìn cô và gật đầu. “Nếu chưa xong việc thì tôi đã chưa quay lại. Việc chúng tôi là thế.” “Cảm ơn ông đã nhắc ông tôi bật lại tiếng. May quá. Cả tuần mất tiếng rồi.” “Sao cô không viết ra giấy để báo cho tôi? Tôi sẽ rõ chuyện sớm hơn và đỡ được mấy rắc rối.”
Cô gái im lặng đưa mắt nhìn lên bàn làm việc và chỉnh lại đôi bông tai lớn cho ngay ngắn. “Quy định là quy định”, cô nói.
“Không cho phép bút đàm?”
“Đó cũng là một quy định.”
Trang 38/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
“Ra thế”, tôi nói.
“Tất cả những gì có thể gây ra thoái bộ đều bị cấm.”
“Tôi hiểu”, tôi công nhận. Họ đề phòng.
“Ông bao nhiêu tuổi?”, cô gái hỏi.
“Ba lăm”, tôi nói. “Còn cô?”
“Mười bảy”, cô nói. “Tôi chưa gặp một toán sư bao giờ. Cả ký hiệu sư cũng chưa.” “Cô mới mười bảy tuổi thật à?”
“Tất nhiên. Tôi không bao giờ nói dối. Tôi mười bảy tuổi thật. Nhưng trông tôi già hơn phải không?”
“Vâng”, tôi thật thà nói. “Trông cô như trên hai mươi.”
“Tôi cũng không muốn trông như mười bảy.”
“Cô có đi học không?”
“Tôi không muốn nói chuyện đi học. Ít nhất là không nói hôm nay. Lần sau tôi sẽ nói.” “Okay”, tôi nói. Cô ta có lý do của mình.
“Toán sư là người thế nào?”
“Ngoài công việc thì bất kể là toán sư hay ký hiệu sư, chúng tôi sống rất bình thường, như những người rất bình thường.”
“Có thể những người bình thường thì bình thường nhưng cuộc sống của họ không gọi là cuộc sống được.”
“Hừm, nhận định như thế cũng được”, tôi nói. “Ý tôi muốn nói đến một vỏ ngoài rất bình thường. Chúng tôi đi tàu điện và không có gì đáng chú ý, ăn như mọi người, uống bia – à, rất cảm ơn cô về món bánh kẹp. Rất tuyệt.”
“Thật à?”, mặt cô sáng lên.
“Bánh kẹp thì tôi đã được ăn nhiều rồi, nhưng hiếm khi kiếm được loại ngon như vậy.” “Còn cà phê?”
“Cà phê cũng ngon.”
“Ông có muốn uống một tách nữa ở đây không? Ta có thể hàn huyên một lát.”
“Thôi, cảm ơn”, tôi nói. “Dưới kia tôi đã uống nhiều cà phê lắm rồi, không muốn uống thêm một giọt nào nữa. Với lại tôi muốn về nhà thật nhanh và leo lên giường.”
“Rất tiếc.”
Trang 39/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
“Tôi cũng thấy thế, thật đấy.”
“Thôi được, tôi đưa ông ra thang máy. Đi một mình chắc ông không tìm ra đường đâu, đúng không? Hành lang như ma trận vậy.”
Cô gái cầm trên bàn một vật hình tròn, giống hộp đựng mũ, và trao cho tôi. Tôi nhấc thử trên tay. Trông to nhưng không nặng. Nếu đúng đây là hộp mũ thì chắc cái mũ bên trong khá lớn. Để nắp không bật ra, người ta đã cột vài vòng băng dính.
“Cái gì thế?”
“Quà của ông tôi tặng ông. Về đến nhà ông hãy mở.”
Tôi khẽ lắc hộp. Không có tiếng động.
“Đồ dễ vỡ, ông nên cẩn thận”, cô gái nói.
“Đồ kỷ niệm?”
“Tôi không biết. Về nhà mở ra ông sẽ biết.”
Cô mở chiếc túi màu hồng của mình và đưa tôi một phong bao đựng tờ séc. Số tiền cao hơn tôi chờ đợi. Tôi cho vào ví.
“Giấy biên nhận?”
“Tôi không cần”, cô gái nói.
Chúng tôi rời phòng, đi ngược lại hành lang dài quay về chỗ thang máy, lên bậc, xuống bậc, rẽ hàng nghìn góc. Và như trên đường tới đây, tiếng gõ giày cao gót của cô vang lách cách trong hành lang. Thân hình mũm mĩm của cô bây giờ không làm tôi bối rối nữa. Đi cạnh cô lúc này hầu như tôi quên là cô béo. Có lẽ tôi đã quen dần với diện mạo của cô.
“Ông có gia đình rồi chứ?”, cô hỏi.
“Không”, tôi nói. “Tôi đã từng có, nhưng bây giờ thì thôi rồi.”
“Gia đình tan vỡ khi ông trở thành toán sư chứ gì? Người ta hay kể toán sư không phải là người hợp với cuộc sống gia đình.”
“Không liên quan gì đến chuyện ấy. Toán sư cũng có thể có vợ con chứ, tôi quen khối người như thế. Nhưng thực tế đa số có quan điểm là dễ làm việc hơn khi không có gia đình. Công việc chúng tôi gây áp lực tới hệ thần kinh, đôi khi cũng nguy hiểm, vợ con sẽ là gánh nặng.”
“Trong trường hợp ông thì sao?”
“Tôi trở thành toán sư khi đã ly hôn. Không liên quan gì đến nghề nghiệp cả.”
“Thế à”, cô nói. “Ông thứ lỗi cho những câu hỏi ngớ ngẩn của tôi, nhưng ông là toán sư đầu tiên mà tôi gặp nên tôi muốn biết đủ chuyện.”
“Không sao, cô cứ hỏi đi”, tôi nói.
Trang 40/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
“Tôi nghe nói toán sư xong việc là cực kỳ hứng thú làm tình, có đúng thế không?” “Tôi không biết. Có thể có chuyện ấy. Công việc này tác động đến đủ các dây thần kinh.” “Lúc ấy ông có lên giường với cô gái đầu tiên vớ được không? Hay ông đã có người yêu rồi?” “Tôi không có người yêu”, tôi nói.
“Thế thì ông ngủ với ai? Hay là ông không quan tâm đến tình dục? Hay ông là người đồng tính luyến ái? Hay ông không muốn trả lời?”
“Trật tuốt”, tôi nói. Tôi không phải kiểu người sẵn sàng lôi chuyện đời tư ra kể, song cũng chẳng có gì phải giấu nên tôi sẽ trả lời nghiêm túc cho một câu hỏi nghiêm túc.
“Trong trường hợp ấy thì khi tôi ngủ với người này, khi với người kia.”
“Ông sẽ ngủ với tôi chứ?”
“Với cô thì nhất định không.”
“Tại sao không?”
“Vì nguyên tắc. Ít khi tôi ngủ với người quen. Vì thường là sẽ sinh chuyện rắc rối. Tôi cũng không ngủ với phụ nữ liên quan tới công việc. Nhiệm vụ của tôi là bảo vệ bí mật cho người khác, vì vậy phải có một biên giới rạch ròi.”
“Hay là vì tôi béo và xấu?”
“Thứ nhất là cô không béo đến thế, thứ hai là cô không hề xấu chút nào.”
“Cảm ơn”, cô nói. “Vậy thì ông ngủ với ai? Ông cứ thế bắt chuyện với một phụ nữ nào đó hay sao?”
“Thỉnh thoảng.”
“Hay ông trả tiền người ta?”
“Thỉnh thoảng cũng thế thật.”
“Giả sử tôi nói với ông là tôi ngủ với ông vì tiền, ông có lên giường với tôi không?” “Không”, tôi đáp, “tôi gấp đôi tuổi cô. Sẽ không ổn.”
“Với tôi thì ổn.”
“Có thể. Nhưng tôi không muốn gây thêm vấn đề vì đã có đủ rồi. Nếu có thể, tôi muốn một cuộc sống bình lặng.”
“Ông tôi nói, lần đầu tiên thì đàn ông trên ba mươi tuổi là tốt nhất. Với cả nếu hứng thú tình dục bị đè nén thì tâm lý mất ổn định.”
“Ông cũng kể với tôi thế.”
“Đúng thế không?”
Trang 41/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
“Tôi không biết. Tôi không phải là nhà sinh học”, tôi nói. “Nhưng cảm hứng tình dục ở mỗi người một khác. Tôi nghĩ là không nên khẳng định đơn giản như vậy.”
“Cảm hứng của ông mạnh không?”
“Bình thường, tôi nghĩ vậy”, tôi trả lời sau một thoáng suy nghĩ.
“Tôi không biết của mình ra sao”, cô gái mũm mĩm nói. “Vì vậy tôi muốn thử chuyện này chuyện nọ cho biết.”
Trong lúc tôi nghĩ câu trả lời nào tốt nhất thì chúng tôi ra đến nơi. Thang máy mở ra ngoan ngoãn như một con chó được huấn luyện và đợi tôi bước vào.
“Hẹn đến lần sau”, cô gái nói.
Tôi vào thang, và cửa đóng không một tiếng động. Tôi tựa vào vách inox và thở dài. Trang 42/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
Chương 6
Bóng
Lúc cô thủ thư đặt những giấc mơ xưa lên bàn trước mặt tôi, thoạt tiên tôi không hiểu những giấc mơ đó nằm đâu. Sau khi chằm chằm ngó một hồi lâu, tôi ngẩng lên nhìn cô ta đang đứng bên cạnh. Cô không nói gì, chỉ tiếp tục nhìn xuống những “giấc mơ xưa”. Nhưng trong mắt tôi, thứ đồ vật trên bàn kia chẳng tương thích chút nào với cái tên “giấc mơ xưa”. Tưởng tượng theo tên gọi, tôi đợi nhìn thấy những bút tích cổ xưa hay ít nhất là thứ gì có hình thù mù mờ vô định.
“Giấc mơ xưa đấy”, cô nói.
Giọng cô xa xăm và bâng quơ – có vẻ như không phải định giải thích cho tôi mà tự khẳng định với chính mình. “Nói đúng ra thì chúng nằm trong đó.”
Tôi ngơ ngác gật đầu.
“Anh cầm lên tay đi”, cô nói.
Tôi khẽ nâng nó lên và hết sức đưa mắt dõi tìm những gì có thể gọi là dấu tích của những giấc mơ xưa. Nhưng có nhìn chăm chú đến đâu thì tôi cũng không nhận ra một căn cứ gì. Nó vẫn là đầu lâu của một con thú. Không lớn lắm. Trông như bị phơi nắng lâu ngày, vì mặt ngoài xương đã mất màu sắc ban đầu, khô khốc và bạc thếch. Hàm răng nhô hẳn ra hơi hé mở, tựa như bị hóa đá đúng lúc định mở miệng kể chuyện. Hai hố mắt nhỏ đã rỗng ruột từ lâu và hướng vào một khoảng hư vô sâu thẳm.
Chiếc đầu lâu nhẹ bỗng một cách thiếu tự nhiên; dường như nó đã mất hết sự tồn tại vật chất. Tôi không mường tượng được nó đã từng chứa một sự sống kiểu gì. Tất cả những gì thuộc về nhục thể, toàn bộ ký ức, mọi cảm giác ấm nóng đã tan biến. Chính giữa trán có một vết lõm nhỏ, sờ thấy ram ráp. Tôi lấy ngón tay kiểm tra nó một hồi lâu và đi đến kết luận, có thể đó là dấu tích của một chiếc sừng bị gãy rời.
“Đây là đầu lâu một trong những con thú một sừng của thành phố, đúng không?”, tôi nhìn cô thủ thư.
Cô gật đầu. “Những giấc mơ xưa được cho vào đầu lâu và trám kín lại”, cô khẽ nói. “Và anh sẽ đọc chúng ra?”
“Đó là việc của người đọc mơ”, cô nói.
“Và anh sẽ làm gì với những giấc mơ xưa ấy?”
“Chẳng làm gì cả. Anh chỉ phải đọc chúng ra thôi.”
“Thế thì anh chịu”, tôi nói. “Đọc các giấc mơ xưa, chuyện ấy thì anh rõ rồi. Nhưng sau đó chẳng làm gì với chúng cả thì anh không hiểu nổi. Vì điều đó chứng tỏ công việc này vô nghĩa. Làm việc thì phải có mục đích nào đó chứ! Ví dụ, lưu lại các giấc mơ xưa bằng cách nào đó, hay sắp
Trang 43/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
xếp theo một trật tự nhất định, hoặc phân loại...”
Cô lắc đầu. “Ý nghĩa gì thì em cũng không giải thích cho anh được. Có thể trong lúc làm việc anh sẽ tự ngộ ra. Nhưng điều đó không quan trọng, và ý nghĩa ấy không hề liên quan đến thực chất công việc của anh.”
Tôi đặt chiếc đầu lâu trở lại bàn và ngắm nghía nó từ xa. Sự tĩnh lặng sâu thẳm bao quanh nó dày đặc khiến người ta bất giác nghĩ đến hư vô. Không, ngược lại – sự tĩnh lặng ấy không đến từ ngoại cảnh, có vẻ như nó tỏa từ bên trong đầu lâu ra như sương khói. Dù thế nào chăng nữa – đó là một sự tĩnh lặng bất thường. Tôi tin là vì thế mà chiếc đầu lâu gắn chặt với tâm điểm của địa cầu. Nó câm lặng đăm đắm hướng ánh mắt rỗng tuếch tới một điểm trong hư vô.
Tôi càng nhìn lâu thì càng khó tưởng tượng ra nó có chuyện gì đáng đem ra kể. Cũng có vẻ như nó nằm trong một bầu không khí buồn thảm nào đó, nhưng ngay cả tôi cũng không gọi nổi tên của nỗi buồn đó ra được. Tôi không tìm ra chữ thích hợp.
“Thôi được, anh sẽ đọc”, tôi vừa nói vừa cầm đầu lâu lên và thử đoán trọng lượng. “Chắc cũng chẳng có lựa chọn nào khác.”
Với một nụ cười như gió thoảng, cô đỡ cái đầu lâu khỏi tay tôi, cẩn thận lau lớp bụi lưu cữu bằng hai chiếc khăn và đặt lại xuống bàn, bây giờ trông nó còn nhợt nhạt hơn cả nhợt nhạt.
“Vâng, giờ thì em muốn giải thích cho anh cách đọc các giấc mơ”, cô nói. “Tất nhiên là em chỉ nói thôi, vì em không thực sự có khả năng đọc. Chỉ mình anh đọc được thôi. Anh chú ý này. Trước tiên anh quay đầu lâu ra phía trước, thế này này, rồi đặt nhẹ hai tay vào gần chỗ thái dương.”
Cô thủ thư áp tay vào hai bên đầu lâu và nhìn tôi vẻ dò xét.
“Sau đó anh nhìn thẳng vào trán. Không nhìn chăm chú, mà chỉ nhẹ nhàng hướng ánh mắt êm dịu đến đó thôi. Nhưng không bao giờ được ngoảnh mặt đi. Ngay cả khi rất chói mắt thì anh cũng không được phép ngoảnh đi.”
“Chói mắt?”
“Vâng. Anh nhìn vào đầu lâu một lúc thì nó bắt đầu nóng bỏng lên và phát tia bức xạ. Anh chỉ cần nhẹ nhàng dò ngón tay theo tia sáng này là nhất định sẽ đọc được các giấc mơ.”
Tôi cố gắng ghi lại trong đầu các bước làm việc theo đúng thứ tự như cô thủ thư vừa giải thích. Tất nhiên tôi không thể tưởng tượng ra những tia sáng mà cô nhắc đến như thế nào, và cảm giác động chạm vào chúng sẽ ra sao, nhưng trước tiên thì cứ ghi nhớ các bước tiến hành đã. Trong lúc ngắm những ngón tay thanh mảnh của cô đặt trên chiếc đầu lâu, bất chợt một ảo giác tái ngộ chế ngự tâm trí tôi. Tôi đã nhìn thấy cái đầu lâu này ở đâu rồi thì phải? Với màu mốc thếch như bị hầm kỹ, với vết lõm trên trán – hình ảnh này làm tôi rung động hệt như lúc thấy mặt cô thủ thư lần đầu. Song tôi không rõ có phải đó là những mảnh vỡ của ký ức thật, hay chỉ là sự đánh lừa giác quan bởi những cảm thụ về địa điểm và thời gian bị nhiễu loạn đột ngột.
“Anh làm sao thế?”, cô hỏi.
Tôi lắc đầu. “Không có gì. Anh chỉ đang mải suy nghĩ một lát. Anh nghĩ là đã nắm được cách Trang 44/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
làm việc rồi. Chỉ còn phải làm thử nữa thôi.”
“Chúng ta ăn tối trước đã”, cô nói. “Em nghĩ, nếu anh bắt tay vào làm là không còn thì giờ ăn nữa đâu.”
Cô bưng một nồi thức ăn từ góc bếp ở phòng trong ra và đặt nó lên lò sưởi cho nóng. Xúp rau với hành và khoai tây. Khi xúp bắt đầu lục bục sôi, cô múc ra hai đĩa và bưng ra bàn cùng bánh mì hạt dẻ.
Chúng tôi ngồi đối diện nhau và im lặng xúc ăn. Một bữa ăn đạm bạc, với những gia vị tôi chưa thấy bao giờ, nhưng không đến nỗi dở. Ăn xong người tôi ấm lên dễ chịu. Sau bữa ăn có trà. Một loại trà xanh pha loãng, ngăm ngăm vị đắng của thảo dược.
Đọc mơ mệt hơn những gì tôi tưởng tượng sau khi nghe những chỉ dẫn của cô thủ thư. Những tia sáng mỏng tang, và tôi tập trung tinh thần vào đầu ngón tay đến mấy cũng rất khó lần theo được ma trận rối rắm. Tuy vậy giờ đây tôi đã nhận rõ ở đầu ngón tay sự hiện diện của những giấc mơ xưa. Nó như một cơn sóng trào, như một cơn lũ hình ảnh không dứt. Tuy nhiên tôi chưa lọc ra được những thông tin mạch lạc. Tôi chỉ có thể cầm chắc là những giấc mơ đang tồn tại ở đây.
Rốt cuộc sau khi đã đọc xong hai giấc mơ thì đã quá mười giờ. Tôi trả lại đầu lâu đã nhẹ đi mất hai giấc mơ, bỏ kính xuống và chậm chạp dụi cặp mắt cay sè.
“Mệt quá phải không?”, cô thủ thư hỏi tôi.
“Ừ, hơi mệt”, tôi đáp. “Mắt anh không chịu nghe lời gì cả. Nếu anh nhìn lâu lâu thì mắt anh bắt được tia sáng của giấc mơ, nhưng anh lại thấy đau phía sau đầu. Không ghê gớm lắm, nhưng tầm nhìn bị nhòa đi và anh không thể cố định ánh mắt vào một điểm nữa.”
“Ban đầu thì ai cũng thế”, cô nói. “Thoạt tiên mắt không chịu nghe lời, và đọc rất khó nhọc. Nhưng anh đừng lo, dần dần mắt sẽ quen đi. Ta nên bắt đầu từ từ thôi.”
“Thế thì lý tưởng”, tôi nói.
Cô đem các giấc mơ xưa trả lại kho lưu trữ và chuẩn bị ra về. Cô mở cửa lò, lấy một cái xẻng con xúc than hồng đổ vào một xô cát.
“Đừng để cái mệt nhọc xâm chiếm tâm hồn”, cô nói. “Mẹ em hay nói câu ấy. Người ta có thể tự hành hạ thể xác, nhưng phải giữ cho tâm hồn vẹn toàn.”
“Một lời khuyên tốt”, tôi nói.
“Nhưng thú thực là em hoàn toàn không biết nó thực sự là gì, tâm hồn ấy mà, nó có ý nghĩa chính xác là gì, người ta sử dụng nó ra sao và nhằm mục đích gì. Đối với em đó chỉ là một tên gọi.”
“Người ta không sử dụng tâm hồn”, tôi nói. “Nó cứ thế tồn tại thôi. Như gió trời. Em chỉ việc cảm nhận được nó.”
Cô đóng cửa lò, đem cái ấm tráng men và cốc chén vào phòng trong để rửa. Rồi cô choàng lên người chiếc áo khoác vải thô màu xanh. Màu xanh xỉn, như xé ra đã lâu từ một mảnh trời, song
Trang 45/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
không còn gợi nhớ chút nào đến xuất xứ nữa. Nhưng cô vẫn đứng mãi trước lò than đã tắt, đắm chìm trong suy nghĩ.
Chợt như vừa sực nhớ ra điều gì định hỏi tôi, cô nói: “Anh từ nơi khác đến đây à?” “Ừ”, tôi đáp.
“Từ nơi nào đến?”
“Anh không nhớ được gì hết”, tôi nói. “Thực sự không nhớ gì, xin lỗi. Khi người ta lấy cái bóng của anh đi, chắc là anh cũng mất nốt ký ức về thế giới cũ ấy. Chỉ biết là nơi ấy xa lắm, rất xa.”
“Nhưng anh biết tâm hồn là gì phải không?” “Em nghĩ là anh biết”, cô nói. “Mẹ em cũng có tâm hồn. Mẹ biến mất khi em lên bảy. Nhất định là mẹ cũng có tâm hồn giống như anh.”
“Mẹ em biến mất?”
“Vâng, mẹ biến mất. Nhưng ta chấm dứt nhé. Ở đây nói về những người biến mất là gặp điềm rủi đấy. Anh kể về thành phố ngày xưa của anh thì hơn. Nhất định anh còn nhớ vài chuyện gì đó chứ?”
“Có hai chuyện”, tôi nói. “Thứ nhất là, thành phố ngày xưa anh ở không có tường thành vây quanh, và thứ hai, tất cả mọi người đều có bóng.”
Đúng, tất cả chúng tôi đều có bóng. Khi tới thành phố này, tôi phải nộp nó cho ông gác cổng.
“Cậu không được đem nó vào thành phố”, ông gác cổng nói. “Hoặc cậu từ bỏ nó, hoặc cậu quay trở lại, chọn một trong hai.”
Tôi từ bỏ bóng của mình.
Ông gác cổng bảo tôi đứng ra một chỗ trống, cạnh cổng. Mặt trời lúc ba giờ vẽ bóng tôi sắc cạnh trên nền đất.
“Đứng yên”, ông gác cổng nói. Ông rút dao trong túi ra, đâm sâu mũi dao sắc lẹm vào đường biên giữa bóng đen và đất rồi rạch đi rạch lại để chinh phục bóng đen được tách ra dễ dàng khỏi nền đất.
Bóng đen run rẩy một chút như định kháng cự. Nhưng bị bóc khỏi nền đất rồi thì cuối cùng nó kiệt sức ngã xoài ra ghế băng. Hình bóng tách khỏi cơ thể trông thảm hại và yếu ớt hơn nhiều so với tưởng tượng của tôi.
Ông gác cổng đút dao vào vỏ, và hai chúng tôi ngắm bóng đen một chốc nữa.
“Xét cho cùng cũng chỉ là một vật kỳ dị, đúng không?”, ông gác cổng nói. “Hoàn toàn vô dụng, cái bóng này, chỉ tổ vướng cẳng.”
Tôi nói với bóng: “Xin lỗi, nhưng đúng là tôi phải bỏ cậu lại một thời gian. Tuy không muốn nhưng trong tình cảnh này thì tôi không có lựa chọn nào khác. Cậu chịu cô đơn vài bữa được chứ?”
“Vài bữa – nghĩa là sao, bao lâu nữa?”, bóng đen hỏi.
Trang 46/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
Tôi thú thực là không biết.
“Liệu cậu sau này có hối hận không?”, bóng đen khẽ nói. “Tuy tôi không rõ hoàn cảnh này lắm, nhưng tách bóng khỏi người liệu có điên rồ không? Rất sai lầm. Cả chốn này là một sai lầm – đó là ý tôi. Con người không thể sống thiếu bóng của mình, và thiếu con người thì bóng cũng không tồn tại. Mặc dù vậy, bây giờ chúng ta đã tách nhau, cậu sống, còn tôi đang ở đây. Có gì đó không ổn! Cậu có nghĩ thế không?” Bóng đen lắc đầu. “Tôi không thích không khí ở đây, nó khác hẳn những nơi khác. Nó không có ích lợi gì đến cậu và cả đến tôi. Vì sao cậu bỏ rơi tôi?”
Nhưng đã muộn, nói nữa phỏng có ích gì. Bóng đã bị tách khỏi thân thể tôi rồi. “Chắc chỉ tạm thời ít lâu thôi, không kéo dài mãi đâu. Mình sẽ đoàn tụ trở lại thôi”, tôi nói.
Bóng đen khe khẽ thở dài và nhìn tôi với cặp mắt đẫm lệ. Mặt trời ba giờ chiều thiêu đốt cả hai chúng tôi. Tôi không có bóng, bóng không có người.
“Nếu mà được như thế...”, bóng nói. “Tôi có cảm giác không lành. Chúng mình hãy chuồn đi vào dịp sớm nhất và quay về nơi xuất phát nhé? Chỉ hai chúng mình thôi.”
“Chúng mình không quay về được. Giá mà tôi biết được cách nào. Mà cậu cũng không biết, đúng không nào?”
“Hiện tại thì không. Nhưng tôi sẽ tìm được cách, có chết cũng cam. Tôi muốn hai chúng mình thỉnh thoảng gặp nhau để bàn chuyện. Cậu sẽ về thăm tôi chứ?”
Tôi gật đầu, đặt tay lên vai bóng một thoáng rồi quay về chỗ ông gác cổng. Trong lúc tôi trò chuyện với cái bóng, ông thu dọn những hòn đá vương vãi trên quảng trường và ném trở lại những chỗ không vướng chân ai. Lúc tôi tới gần, ông chùi bụi trắng bám ở bàn tay lên tay áo và khoác cánh tay hộ pháp lên vai tôi. Tôi không chắc đó có phải là một cử chỉ thân thiện hay ông chỉ muốn cho tôi thấy sức lực phi thường của mình.
“Tôi sẽ chăm sóc bóng của cậu”, ông nói. “Mỗi ngày cho ăn ba bữa và cho ra ngoài dạo chơi một lần. Cậu không có lý do gì để phải lo lắng cả.”
“Tôi có thỉnh thoảng được về thăm nó không?”
“Hừm, để xem đã”, ông gác cổng nói. “Nếu thời gian và hoàn cảnh thuận tiện, và tôi đồng ý thì cậu được thăm nó.”
“Còn nếu tôi muốn có lại bóng của mình thì phải làm gì?”
“Thì ra cậu chưa hiểu rõ các quy định ở đây”, ông gác cổng nói, tay vẫn khoác trên vai tôi. “Ở thành phố này không ai được phép có bóng, và ai đã ở đây thì không bao giờ được đi khỏi nữa. Cũng có nghĩa là câu hỏi của cậu hoàn toàn vô nghĩa.”
Thế là tôi mất bóng mình.
Lúc rời khỏi thư viện tôi xin phép được đưa cô thủ thư về nhà.
“Ồ, không cần thiết đâu”, cô nói. “Em không sợ trời tối, với lại anh cũng sống ở khu khác.” “Nhưng anh muốn tiễn em về”, tôi khăng khăng. “Anh thấy chộn rộn thế nào ấy, về nhà thì anh
Trang 47/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
cũng chẳng ngủ được ngay.”
Chúng tôi qua Cầu Cũ đi về phía nam. Trời vừa chớm xuân, và làn gió còn khá lạnh quét qua thảm cỏ trên bãi cát bồi giữa sông. Ánh trăng trần trụi khiến đá trải đường sáng lấp loáng. Hơi ẩm màu đục đè nặng trên mặt đất. Cô thủ thư tháo dải buộc tóc, túm mớ tóc xõa ra bằng một tay, kéo ra phía trước và nhét xuống dưới ve áo măng tô.
“Tóc em đẹp lắm”, tôi nói.
“Cảm ơn anh”, cô nói.
“Đã có ai khen em như thế chưa?”
“Không. Chưa bao giờ. Anh là người đầu tiên đấy.”
“Em cảm thấy thế nào khi được khen?”
“Em không biết”, cô nói và nhìn vào mắt tôi, tay đút trong túi măng tô. “Tuy em nghe anh khen tóc em, nhưng thực ra đó không phải là ý chính, đúng không? Tóc em đã gợi lên trong anh một ý khác, và anh đang muốn nói ý ấy ra.”
“Không, không. Anh chỉ nói về tóc em.”
Cô nhìn lên trời như tìm gì đó bị rơi mất và mỉm cười. “Xin lỗi anh. Em chỉ không hiểu cách anh nói chuyện thôi.”
“Không sao, rồi em sẽ quen dần”, tôi nói.
Cô thủ thư sống ở khu công nhân, một khu nhà tàn tạ phía tây nam khuôn viên nhà máy. Toàn bộ khuôn viên nhà máy là một khu đất cô quạnh, gần như chết rồi. Cả con kênh lớn ngày xưa ăm ắp nước trong vắt để chờ tàu hàng và sàn lan đi lại, bây giờ cũng đóng hết các cửa lạch. Vài đoạn cạn kiệt nhìn thấy cả đáy. Lớp bùn khô trắng hiện ra như xác chết nhăn nheo của những con vật khổng lồ thời đồ đá. Bên bờ có những bậc thang đá rộng để bốc dỡ hàng, nhưng bây giờ chúng không được sử dụng nữa, cỏ lác đác hàng thước cắm rễ xuyên vào những kẽ nứt. Chai lọ và các bộ phận máy hoen gỉ chòi ra trên mặt bùn, cạnh đấy là một chiếc thuyền gỗ nông choèn đang mục rữa dần.
Các xưởng máy bỏ hoang kéo dài dọc kênh và những lạch ngang. Cổng khóa, kính cửa sổ tan hoang, tường đầy cây leo, tay vịn cầu thang cứu hỏa hoen gỉ, khắp nơi đầy cỏ dại.
Sau những dãy nhà xưởng là khu công nhân. Toàn những dãy nhà năm tầng tàn tạ. Ngày xưa đó là các căn hộ chung cư lịch sự cho người lắm tiền, cô thủ thư kể, nhưng thời thế đổi thay, dần dần người ta ngăn thành các căn hộ nhỏ và cực nhỏ cho công nhân nghèo kiết xác. Bây giờ họ cũng chẳng còn là công nhân nữa, vì nhà máy đã đóng cửa gần hết. Người ta không cần tay nghề của công nhân nữa, chỉ đôi khi có nhu cầu thì họ nhận được vài việc lẻ tẻ của thành phố. Cha cô cũng là một trong những công nhân ấy.
Chúng tôi đi qua một cầu đá ngắn, không tay vịn, vắt ngang con lạch cuối cùng; thẳng phía trước là tòa nhà nơi cô thủ thư ở. Các tòa nhà nối nhau bằng những khoang thang, trông như thang mây dùng trong lúc công thành thời Trung Cổ.
Trang 48/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
Đã gần nửa đêm. Hầu hết các cửa sổ tối đèn. Cô nắm tay dắt tôi đi nhanh qua các ngõ nhỏ rối rắm, tựa như kéo tôi trốn khỏi tầm mắt của một con ác điểu khổng lồ ăn thịt người. Rốt cuộc cô dừng chân trước một tòa nhà và chúc tôi ngủ ngon.
“Tạm biệt”, tôi nói.
Tôi ngược lên sườn Đồi Tây đi về hướng nhà mình.
Trang 49/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
Chương 7
Đầu Lâu, Lauren Bacall,
Thư Viện Thành Phố
Tôi đón taxi về nhà. Bên ngoài đã tối, đường phố đông nghịt người vào giờ tan tầm. Trời mưa phùn, tôi đợi mãi mới bắt được taxi.
Thường là tôi cân nhắc kỹ càng nếu muốn đi taxi. Vì tôi luôn để ít nhất hai taxi trống chạy qua để tránh mọi nguy hiểm. Bọn ký hiệu sư có các taxi giả hiệu, thỉnh thoảng người ta vẫn nghe chuyện chúng đón khách là toán sư vừa đi làm về và đưa họ đi mất. Có thể chỉ là lời đồn thổi. Cả tôi lẫn các đồng nghiệp chưa vấp phải chuyện ấy bao giờ. Nhưng cẩn thận không bao giờ thừa.
Vì lý do đó, bình thường tôi luôn đi tàu điện ngầm, hay xe buýt, nhưng lần này tôi cực kỳ mệt và buồn ngủ, đã thế trời lại mưa, nghĩ đến tàu xe lèn chặt người đã thấy ớn; vậy là tôi cố công tìm taxi. Trên đường đi tôi suýt ngủ gật mấy lần, phải cố cưỡng lại: về đến nhà thì tha hồ ngủ bao lâu cũng được. Ở đây không được ngủ quên! Ngủ trên xe rất nguy hiểm!
Tôi tập trung nghe tường thuật bóng chày trên radio. Do không thạo môn bóng chày chuyên nghiệp nên tôi ủng hộ đội bóng đang tấn công và ghét đội phòng thủ. Đội của tôi đang bị dẫn 3:1. Cho đến khi taxi đỗ trước nhà tôi thì tỉ số đã là 4:1. Tôi trả tiền, cặp hộp đựng mũ dưới nách và ra khỏi xe trong tình trạng buồn ngủ ngất ngư. Mưa đã gần tạnh.
Hộp thư của tôi trống trơn. Máy ghi âm cũng không có tin nhắn. Có vẻ như chẳng ai cần tôi. Càng tốt. Tôi cũng chẳng cần ai. Tôi lấy đá trong tủ lạnh, pha một cốc whiskey lớn với đá và một ít soda. Rồi tôi cởi quần áo chui lên giường, ngồi dựa vào tường và nhâm nhi whiskey. Tôi biết chỉ trong chốc lát là sẽ ngủ quay ra ngay nhưng không muốn bỏ lỡ nghi thức ngọt ngào khi đi làm về. Đó là mấy phút đồng hồ yêu thích nhất của tôi sau khi lên giường, là khoảng thời gian ngắn ngủi mà cơn buồn ngủ rình quật ngã tôi. Tôi đem theo chút đồ uống, nghe nhạc, đọc sách. Tôi yêu mấy phút ấy như người khác yêu mặt trời lặn hay không khí trong lành.
Tôi uống cạn nửa cốc whiskey thì điện thoại đổ chuông. Điện thoại nằm trên chiếc bàn tròn cách giường chừng ba thước. Đã lên giường là tôi không muốn trèo xuống nữa, vì vậy tôi chỉ ngó qua phía điện thoại đang réo chuông. Mười ba, mười bốn hồi chuông, nhưng tôi không bận tâm. Trong các phim hoạt hình ngày xưa có cảnh máy điện thoại run lên bần bật với mỗi hồi chuông, nhưng thực tế tất nhiên không thế. Máy trên bàn không rung, chỉ đổ chuông. Tôi vừa uống whiskey vừa quan sát.
Cạnh điện thoại là ví tiền, dao và hộp mũ. Tôi chợt nhớ là có lẽ nên mở hộp ngay. Có thể phải cho đồ trong đó vào tủ lạnh, hay có thứ gì còn sống hoặc rất quan trọng, nhưng tôi đã quá mệt để nhỏm dậy. Nếu đúng thế thì người ta đã nhắc nhở tôi khi đưa quà. Khi điện thoại ngừng chuông, tôi uống một hơi hết chỗ rượu còn lại, tắt đèn đầu giường và nhắm mắt. Đúng thời điểm đó, giấc ngủ chụp lên tôi như một cái lưới lớn màu đen, cứ như nó đã rình sẵn. Tôi còn kịp nghĩ: thây kệ tất cả.
Trang 50/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
Lúc tôi thức dậy thì xung quanh lờ mờ tối. Đồng hồ chỉ 6 giờ 15, không rõ là sáng sớm hay tối. Tôi mặc quần đi ra phía trước và nhìn ra căn hộ hàng xóm. Tờ báo buổi sáng nằm trước cửa, nghĩa là đang sáng sớm. Những lúc thế này mới thấy mua báo dài hạn có lợi. Có thể tôi cũng sẽ đặt mua một tờ.
Tôi đã ngủ chừng mười tiếng. Cơ thể tôi cần nghỉ thêm, vì do cả ngày hôm nay không có việc gì nên lẽ ra tôi lại đi nằm cũng được, nhưng tôi quyết định không ngủ nữa. Không mấy khi có được cảm giác tuyệt vời khi thức dậy cùng ánh nắng mới mẻ và tinh khôi. Tôi tắm thật kỹ và cạo râu. Sau đó là hai mươi phút thể dục như thường lệ và ăn sáng bằng những đồ còn trong nhà. Tủ lạnh đã gần trống lại phải chất vào cho đầy thôi. Tôi ra bàn bếp ngồi, vừa uống nước cam vừa lấy bút chì viết ra những thứ cần mua lên một tờ giấy vuông. Một không đủ, tôi dùng hai tờ. Giờ này siêu thị chưa mở, do đó tôi quyết định sẽ ăn trưa ngoài phố rồi sau đó đi mua đồ.
Tôi ném quần áo bẩn trong giỏ nhà tắm vào máy giặt. Trong lúc cọ đôi giày tennis trong bồn rửa tay, tôi chợt nhớ đến món quà bí hiểm của ông già. Tôi để lại chiếc giày phải đang cọ dở, lau khô tay bằng khăn lau bát, đi vào phòng ngủ và nhấc hộp lên. Trước sau thì nó vẫn nhẹ so với kích thước. Một kiểu nhẹ làm người ta không yên tâm. Nó nhẹ hơn mức được phép nhẹ. Trong đầu tôi lóe đèn cảnh báo. Một giác trực giác nghề nghiệp chứ không có cơ sở cụ thể nào cả.
Tôi nhìn quanh phòng. Im lặng lạ lùng. Im lặng như đã tắt mọi âm thanh. Tôi đằng hắng – nghe đúng tiếng đằng hắng. Tôi bật dao ra và khẽ gõ sống dao vài lần lên bàn: nghe đúng tiếng gõ thật sự. Sau khi làm quen với thế giới không âm thanh, một thời gian dài người ta sẽ nghi ngại không tin vào sự yên tĩnh. Rồi tôi mở cửa ban công. Tiếng động của xe cộ và tiếng chim líu lo tràn vào. Tiến hóa kiểu gì thì tùy, thế giới này phải có những tiếng động của nó.
Tôi cẩn thật cắt băng dính để khỏi làm hỏng đồ bên trong. Trên cùng là giấy báo vò nhàu. Tôi vuốt thẳng một tờ và đọc; trong đó không có gì đáng để ý, chỉ là một tờ báo rất bình thường, số ra trước đây ba tuần – tờ Mainichi Shimbun. Tôi lấy trong bếp ra một túi đựng rác và ném báo vào. Hộp đựng mũ được nhồi chặt bằng mười bốn số báo, báo của hai tuần. Toàn là tờ Mainichi. Dưới đó là những mẩu vật liệu chèn bằng xốp mềm, dài bằng ngón tay trẻ con. Tôi lấy cả hai tay hót chúng khỏi hộp và vứt vào túi rác. Trong hộp có gì thì tôi không biết, nhưng gói ghém quá mất công. Khi vứt ra được nửa chỗ vật liệu xốp, một vật gì đó gói trong giấy báo lộ ra. Tôi đã bắt đầu ngán ngẩm. Tôi vào bếp lấy một lon Coca-Cola trong tủ lạnh, ngồi xuống giường và từ từ uống cạn. Sau đó tôi cắt móng tay bằng dao. Ngoài thềm xuất hiện một con chim có lông yếm màu đen, tiếng hót khàn khàn. Như mọi khi, nó mổ hết chỗ ruột bánh mì mà tôi rải lên bàn. Một buổi sớm mai thanh bình.
Rốt cuộc tôi tập trung tâm trí quay lại bàn và lấy đồ vật gói giấy báo ra. Mấy vòng băng dính quấn xung quanh khiến nó trông như một tác phẩm nghệ thuật hiện đại. Nó có dạng một quả dưa hấu thuôn dài và trọng lượng hầu như không đáng kể. Tôi dọn dao và hộp khỏi bàn để lấy chỗ rộng rãi rồi cẩn trọng bóc băng dính và giấy báo. Một cái đầu lâu động vật.
Giỏi, tôi nghĩ, giỏi lắm. Chẳng lẽ ông già nghĩ rằng tôi sẽ vui sướng khi được tặng một cái đầu lâu? Muốn nghĩ xuôi nghĩ ngược thế nào thì tùy, đem cái đầu lâu động vật làm quà tặng là không bình thường.
Cái đầu lâu trông giống của ngựa, nhưng nhỏ hơn nhiều. Ít nhất là kiến thức động vật học của Trang 51/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
tôi đủ cho thấy chắc chắn nó phải từng nằm trên vai một động vật có vú không to lắm, một loài ăn cỏ họ móng guốc với cái đầu thuôn dài. Tôi gọi tên mấy con ấy ra. Nai, dê, cừu, hoẵng, tuần lộc, lừa... Dĩ nhiên còn nhiều nữa, nhưng tôi không nghĩ ra.
Trước tiên thì tôi cứ đặt nó lên trên ti vi. Không phải một vị trí thích hợp lắm, nhưng tôi không biết chỗ nào tử tế hơn. Ở nhà Hemingway chắc nó sẽ được đặt lên lò sưởi cạnh mấy cái đầu tuần lộc của ông ấy, nhưng trong nhà tôi tất nhiên không có lò sưởi đốt củi. Tôi cũng không có kệ tủ, thậm chí chẳng có tủ đựng giày. Do vậy ti vi là nơi duy nhất để tôi đặt đầu lâu của một con vật không rõ tên lên trên.
Khi đổ nốt chỗ xốp chèn ở đáy hộp vào túi rác, tôi phát hiện ra một gói dài dài bọc giấy báo. Tôi mở gói – thì ra là cái kẹp gắp than inox giống như cái kẹp của ông già dùng để gõ đầu lâu. Tôi cầm nó lên tay để ngắm cho kỹ. Không như đầu lâu, cái kẹp cầm khá nặng tay và tạo cảm giác nghiêm trang như cây gậy chỉ huy bằng ngà voi của Furtwangler khi chỉ huy dàn nhạc giao hưởng Berlin.
Không đừng được: tôi ra ti vi và gõ nhẹ lên trán đầu lâu. Một tiếng rung trầm đục như tiếng gừ gừ qua mũi một con chó lớn. Tôi thì lại đợi một tiếng “coong” hay “cạch” sắc lạnh nên hơi bất ngờ nhưng cũng chẳng bất ngờ đến nỗi thấy gì bất ổn ở âm thanh này. Cái đầu lâu này phát tiếng động như một cái đầu lâu, có gì phải bận tâm. Phê phán gì thì cũng không thay đổi được tiếng động lạ tai ấy, và tự tiếng động lạ tai ấy cũng chẳng muốn thay đổi.
Cuối cùng thì tôi cũng ngán nhìn và gõ đầu lâu. Tôi rời ti vi ra ngồi ở giường, đặt điện thoại lên lòng và gọi đại lý chính thức của Hệ thống để biết các lịch hẹn sắp tới. Đại diện của tôi bắt máy và nói là bốn hôm nữa sẽ có việc, liệu tôi có nhận không. Vâng, tôi nói. Thoạt tiên tôi định xin xác nhận quyền được đảo dãy số để tránh những phiền nhiễu có thể xảy ra, nhưng không muốn phải giải thích dài dòng nên lại thôi. Giấy tờ nghiêm chỉnh, thù lao cũng tử tế. Vả lại, ông già đã bỏ qua khâu đại lý vì lý do bảo mật. Không có nguyên cớ gì để làm cho mọi thứ phức tạp thêm.
Cũng nói thêm là tôi không ưa đại diện của mình lắm. Đó là một anh chàng chừng ba mươi tuổi, cao, gầy, dạng người tin rằng tự mình mới có quyền duyệt cấp phép cho mọi hành động. Và nếu có thể thì tôi tránh sa vào tình huống phải nói chuyện dài với anh ta.
Xong các vụ hành chính, tôi đặt máy xuống và ra ngồi sofa trong phòng khách. Tôi mở một lon bia và xem phim Key Largo của Humphrey Bogart trên video. Tôi rất thích Lauren Bacall trong Key Largo. Cô cũng diễn rất cừ trong The Big Sleep, dĩ nhiên, nhưng trong Key Largo cô đã thành một tượng đài.
Nhìn lên màn hình song mắt tôi bất giác cứ hất lên phía đầu lâu. Đơn giản là tôi không thể tập trung xem phim như mọi khi. Và tôi ngừng băng video ở đoạn xảy ra cơn cuồng phong, không xem phần còn lại nữa. Thay vào đó là vừa uống bia tôi vừa ngắm đầu lâu. Càng nhìn tôi càng thấy nó thân thuộc. Nhưng vì sao thân thuộc thì tôi cũng không nghĩ ra được. Tôi lấy một cái T Shirt trong ngăn kéo trùm lên đầu lâu rồi xem tiếp phim Key Largo. Giờ thì tôi lại tập trung xem Lauren Bacall được.
Tôi ra khỏi nhà lúc mười một giờ, ở siêu thị gần ga tôi lấy mọi thực phẩm vớ được, mua vang đỏ, nước khoáng và nước cam trong hiệu đồ uống. Tôi lấy áo vest và hai tấm ga trải giường ở tiệm giặt là, vào một hiệu văn phòng phẩm mua bút bi, phong bì và giấy viết thư, mua ở cửa hàng đồ gia dụng một viên đá mài tốt nhất có bán. Trong hiệu sách tôi lấy hai cuốn tạp chí, rồi đi mua
Trang 52/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
bóng đèn và cassette ghi âm ở cửa hàng đồ điện, một cuốn phim Polaroid trong hiệu ảnh. Cuối cùng tôi còn vào cửa hàng bán đĩa hát để mua vài đĩa. Băng sau trên xe tôi chặt cứng những túi hàng. Hình như tôi có thú vui đi mua bán bẩm sinh. Mỗi lần vào thành phố là tôi cắm cúi khuân hàng núi đồ lặt vặt như một con sóc trước khi vào tiết đông.
Tôi có ô tô chỉ để đi mua hàng. Có lần tôi mua nhiều đến nỗi không xách hết túi, và thế là tôi mua xe. Tay xách các túi hàng, tôi đi tới hiệu xe cũ đã mấy lần để ý. Ở đó quả thật có đủ các loại xe. Tôi không thích ô tô lắm và cũng không thạo thông tin, vì vậy tôi nói đơn giản: “Tôi tìm một cái xe, xe nào cũng được, chỉ đừng to quá.”
Ông bán xe đứng tuổi rút ra một quyển catalog và chỉ cho tôi xem xe này xe nọ, nhưng tôi không muốn xem catalog và nói cho ông rõ là tôi chỉ cần một cái ô tô đi chợ. Tôi không muốn lên đường cao tốc, không chở bạn gái đi dạo, cũng không đưa gia đình đi du lịch. Tôi không cần xe công suất lớn, máy lạnh, đài đĩa stereo, cửa sổ mái, lốp mùa đông. Loại xe tôi muốn phải là loại nhỏ gọn, ít khí thải độc hại, nổ khẽ, bền. Nếu có màu lam đậm thì càng tốt.
Ông khuyên tôi mua một chiếc xe Nhật nhỏ màu vàng. Màu này tôi không thích lắm, nhưng xe đi không tồi và bán kính vòng cua nhỏ. Trông cũng dễ thương, không trang bị gì thừa so với nhu cầu của tôi, và rẻ, vì mẫu xe này đã ngừng sản xuất.
“Một cái ô tô, không hơn không kém!”, ông bán xe đứng tuổi nói. “Lắm thứ trang trí lắp thêm, tôi nói để anh biết, đúng là người ta điên cả rồi.”
“Rất đúng ý tôi”, tôi nói.
Và thế là tôi có ô tô đi chợ. Nó hầu như không bao giờ được dùng vào mục đích nào khác.
Mua hàng xong xuôi, tôi đậu xe vào bãi đỗ của một nhà hàng. Tôi gọi bia, gỏi tôm trộn với hành. Tôi im lặng ngồi ăn một mình. Tôm quá lạnh và hành thì héo. Tôi ngó quanh nhưng không thấy người nào gọi cô bồi bàn lại để phàn nàn hay ném bát đĩa xuống đất cả. Vậy thì tôi cũng chẳng nói gì và ăn hết. Người ta chỉ thất vọng khi trước đó đã từng hy vọng.
Nhìn qua cửa sổ có thể thấy đường cao tốc nội đô. Ô tô đủ màu đủ kiểu đi qua. Tôi nhìn chúng và lại nghĩ đến ông già đã trao việc cho tôi hôm qua và cô cháu gái mũm mĩm của ông. Dù có thiện chí đến mấy, tôi vẫn thấy họ sống trong một thế giới điên rồ, vượt qua hẳn khả năng đồng cảm của tôi. Cái thang máy ngu xuẩn, hang động khổng lồ sau tủ tường, ma đen, tắt âm thanh – tất cả đều điên rồ. Và lại còn tặng tôi một cái đầu lâu lúc chia tay nữa chứ.
Tôi tận dụng mấy phút rỗi rãi buồn tẻ đợi cà phê để nhớ lại từng chi tiết của cô gái mũm mĩm. Đôi bông tai vuông, bộ đồ hồng, giày cao gót, bắp chân và gáy nung núc thịt, khuôn mặt – tất cả. Tôi nhớ tương đối rõ các chi tiết này, nhưng bức tranh tổng thể ghép lại từ các chi tiết ấy thì lại mờ nhạt không ngờ. Có lẽ vì dạo này tôi không ngủ với cô gái nào mũm mĩm cả. Vì thế tôi không thể tưởng tượng ra một cơ thể phụ nữ béo.
Tôi chấm dứt tưởng tượng cảnh cô đang trần truồng, trả tiền và rời nhà hàng. Tôi đi bộ đến thư viện thành phố gần đó, hỏi cô gái trẻ mảnh khảnh tóc dài ngồi ở quầy thông tin: “Cô có sách về đầu lâu động vật có vú không?”
Cô ta đang cắm cúi vào một cuốn sách loại bỏ túi nhưng vẫn ngẩng lên nhìn tôi: “Anh cần gì ạ?” Trang 53/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
“Sách-về-đầu-lâu-động-vật-có-vú”, tôi nhắc lại, nhấn rõ từng chữ một.
“Đầu lâu động vật có vú”, cô gái nói, giọng như hát. Nghe như cô ngâm thơ vậy. Tựa như một thi sĩ giới thiệu cho độc giả đầu đề một bài thơ mà ông sắp trình diễn. Tôi thầm hỏi, liệu cô ta có nhắc lại mọi câu hỏi của khách theo kiểu này không.
Lịch sử nhà hát múa rối chẳng hạn.
Hay Thái Cực Quyền đại cương.
Nếu có bài thơ nào mang đầu đề như trên thì hẳn thú vị lắm, tôi nghĩ.
Cô suy nghĩ một lát, cắn răng vào môi dưới. “Phiền anh chờ một chút, tôi sẽ tìm”, cô vừa nói vừa xoay ghế ngay tại bàn và nhấn phím máy tính viết gõ Động vật có vú. Trên màn hình xuất hiện khoảng hai chục đầu sách. Cô dùng bút cảm ứng xóa đi hai phần ba, cho vào bộ nhớ phần còn lại và viết thêm chữ xương. Cô chừa lại hai trong số bảy, tám đầu sách vừa hiện ra rồi chuyển chúng sang các đầu đề đã cất trong bộ nhớ. Thư viện thay đổi ghê gớm thật. Thời mà phiếu kiểm tra còn găm trong túi giấy dán sau sách đã xa xôi như một giấc mơ xưa. Hồi còn bé, tôi thích xem giấy in ngày tháng trên phiếu kiểm tra.
Trong lúc cô thành thạo lướt ngón tay trên bàn phím máy tính, tôi ngắm tấm lưng thon và mái tóc dài của cô. Tôi không chắc chắn có thích cô hay không. Một cô gái xinh xắn, thân thiện, rõ ràng là cũng sáng dạ và nói như ngâm thơ. Dường như chẳng có lý do gì để tôi không thích cô cả.
Cô ấn phím in và trao cho tôi tờ in màn hình. “Anh có thể chọn một trong chín đầu sách sau đây”, cô nói.
1. VỀ ĐỘNG VẬT CÓ VÚ
2. TRANH VÀ ẢNH ĐỘNG VẬT CÓ VÚ
3. BỘ XƯƠNG ĐỘNG VẬT CÓ VÚ
4. LỊCH SỬ ĐỘNG VẬT CÓ VÚ
5. TÔI, MỘT ĐỘNG VẬT CÓ VÚ
6. GIẢI PHẪU ĐỘNG VẬT CÓ VÚ
7. NÃO ĐỘNG VẬT CÓ VÚ
8. XƯƠNG ĐỘNG VẬT
9. NHỮNG BỘ XƯƠNG TỰ KỂ.
Thẻ của tôi được mượn ba cuốn. Tôi lấy các số 2, 3 và 8. Hai đầu đề Tôi, một động vật có vú và Những bộ xương tự kể có vẻ thú vị, nhưng rõ ràng không liên quan trực tiếp đến dự án đang làm, tôi hoãn đến lần sau sẽ mượn về.
“Rất tiếc là cuốn Tranh và ảnh động vật có vú chỉ được dùng tại thư viện, không thể mượn về”, cô nói và gãi lên thái dương bằng bút bi.
Trang 54/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
“Việc này rất quan trọng. Tôi nhất định sẽ trả sách vào sáng mai”, tôi khẩn khoản. “Tôi xin hứa.”
“Loạt sách tranh ảnh rất được ưa thích, nếu có ai biết là tôi cho mượn về thì sẽ phiền lắm.” “Một ngày thôi, không ai biết được đâu.”
Cô gái lưỡng lự, cắn đầu lưỡi đỏ hồng đáng yêu giữa hai hàm răng.
“Được, tôi cho mượn. Nhưng chỉ một lần này thôi đấy. Và đề nghị anh đúng chín rưỡi sáng mai đem trả!”
“Cảm ơn”, tôi nói.
“Không có gì”, cô nói.
“Tôi có thể làm gì để tỏ lòng biết ơn cô không?”
“Bên kia đường có hiệu kem Baskin-Robbins, anh mua cho tôi một ốc quế đúp, dưới là hạt dẻ, trên là mô ca. Anh có nhớ hết không?”
“Một ốc quế đúp, kem hạt dẻ và mô ca.”
Tôi rời thư viện, đi qua hiệu kem Baskin-Robbins.
Lúc tôi quay lại thì cô gái chưa tìm được hết sách tôi cần, tôi cầm ốc quế trong tay trái và đợi ở quầy thông tin. Hai ông già ngồi đọc báo trên ghế băng lúc thì nhìn tôi, lúc nhìn suất kem một cách tò mò. May mà kem lạnh cứng, còn lâu mới chảy. Vừa đợi vừa cầm kem trong tay mà không được ăn, tôi thấy hơi sốt ruột, như được mời đến mà không ai tiếp.
Quyển sách bỏ túi mà cô gái đọc dở nằm trên mặt bàn như một con thỏ con ngủ quên, lưng vồng lên. Đó là tiểu sử H. G. Wells, tập hai, Time Travallers. Không phải sách của thư viện, chắc là của riêng. Bên cạnh đó là ba cây bút chì vót nhọn chỉn chu. Và bảy hay tám cái ghim giấy. Tại sao đến đâu tôi cũng thấy ghim giấy nằm vương vãi, lạ thật!
Có thể chúng đột nhiên sinh sôi nảy nở vì một lý do nào đó. Hoặc một sự tình cờ được tôi để ý đến quá mức thông thường. Không, đúng là có gì đó bất thường. Như có một bàn tay bí mật điều khiển, tôi cứ đến đâu là lại thấy ở đó ghim giấy nằm lung tung ở một vị trí nổi bật. Trong đầu tôi lóe đèn báo động. Dạo này đèn lóe hơi nhiều – khi thấy đầu lâu, khi thấy ghim giấy. Tôi cảm giác có một mối liên quan, song cố gắng mấy cũng không tưởng tượng ra đầu lâu liên quan gì đến ghim giấy.
Ngay sau đó cô gái tóc dài quay lại với ba quyển sách trên tay. Cô đưa sách cho tôi và cầm kem, ngồi về ngăn của mình và ăn, đầu cúi về phía trước không để ai nhìn thấy từ bên ngoài. Tôi nhìn từ trên xuống: gáy cô lồ lộ rất đẹp.
“Cảm ơn anh”, cô nói.
“Tôi cũng cảm ơn cô”, tôi nói. “À này, cô cần ghim giấy làm gì vậy?”
“Ghim giấy”, cô nhắc lại như hát. “Tôi cần ghim giấy để kẹp các tờ giấy lại với nhau. Anh biết ghim giấy là gì chứ? Ở đâu chả có, ai cũng dùng.”
Trang 55/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
Cô nói đúng, dĩ nhiên. Tôi cảm ơn, cầm sách và ra về. Ở đâu chả có ghim giấy. Bỏ ra một nghìn yên là mua được ghim giấy trữ đủ dùng cả đời. Ừ, tại sao không! Tôi đỗ ở cửa hàng văn phòng phẩm và mua một nghìn yên ghim giấy. Rồi tôi về nhà.
Về đến nhà tôi xếp thực phẩm vào tủ lạnh. Thịt và cá tôi cuốn vào nylon, đồ đông lạnh cho vào ngăn đá. Tôi cho cả bánh mì và cà phê vào ngăn lạnh sâu. Đậu phụ ngâm vào bát nước. Bia thì xếp vào ngăn mát, rau củ xếp ra phía trước. Tôi treo áo vét vào tủ, đặt nước rửa chén lên giá. Sau đó tôi rải bừa mấy cái ghim giấy trên nóc ti vi cạnh chiếc đầu lâu.
Một sự sắp đặt kỳ quái.
Kỳ quái như đặt gối bông cạnh nước đá hay lọ mực bên xà lách. Tôi đi ra ban công để ngắm từ xa, nhưng ấn tượng đó không đổi. Đầu lâu và ghim giấy không có gì liên quan cả. Nhưng nhất định phải có một sự ràng buộc bí mật mà tôi không biết – hoặc tôi đã biết mà không nhớ lại.
Tôi ngồi lên giường và nhìn đăm đăm vào những đồ vật trên ti vi một hồi lâu. Song tôi không thể nhớ lại một điều gì. Chỉ thời gian là cứ trôi đi. Một chiếc xe cấp cứu đi qua gần nhà, sau đó là một xe phát thanh cổ động của cánh hữu. Tôi thèm whiskey nhưng cố nhịn. Tôi cần cái đầu sáng suốt để suy nghĩ một lát đã. Mấy phút sau chiếc xe của cánh hữu lại đi đúng đường cũ một lần nữa. Chắc họ đi lạc. Phố xá ở khu này khá rối rắm.
Rốt cuộc tôi phẩy tay đứng dậy, ra ngồi ở bàn bếp và lật xem mấy cuốn sách vừa mượn của thư viện. Trước tiên tôi tìm ra tất cả các động vật có vú ăn cỏ cỡ trung, sau đó tôi xem bộ xương của chúng. Thì ra động vật có vú ăn cỏ cỡ trung đông hơn tôi tưởng cực nhiều. Riêng loài hươu đã có hơn ba chục nhánh được liệt kê.
Tôi lấy đầu lâu trên nóc ti vi đặt lên mặt bàn và so sánh nó với từng hình minh họa. Sau một tiếng tôi đã so sánh với chín mươi ba hình vẽ đầu lâu khác nhau; không hình nào giống cái đầu lâu trên bàn bếp. Thế thì tôi cũng bó tay. Tôi gập ba quyển sách lại, chồng lên nhau ở mép bàn, vươn vai đứng dậy. Chịu thôi.
Tôi bỏ cuộc, nằm lăn ra giường. Trong khi đang xem phim The Quiet Man của John Ford thì có tiếng chuông ở cửa. Qua lỗ nhòm tôi thấy một người đàn ông đứng tuổi mặc đồng phục của công ty cung cấp khí đốt Tokyo. Tôi để nguyên xích cửa, chỉ mở hé một khe nhỏ và hỏi ông ta cần gì.
“Kiểm tra định kỳ đường ống khí đốt”, ông ta nói.
“Đợi chút”, tôi nói và lấy con dao trên bàn phòng ngủ đút vào túi rồi mới mở cửa. Vừa tháng trước người ta đã kiểm tra độ kín của ống dẫn khí đốt rồi cơ mà. Thêm nữa là người đàn ông này có vẻ thiếu tự nhiên.
Tôi làm ra vẻ bất cần và xem phim tiếp. Trước tiên người đàn ông kiểm tra đường khí đốt trong nhà tắm bằng một chiếc máy trông như máy đo huyết áp, sau đó ra bếp. Cái đầu lâu vẫn nằm trên bàn bếp. Tôi để ti vi chạy tiếp và rón rén đi ra bếp; đúng như tôi nghĩ, gã đang đút cái đầu lâu vào một túi nylon đen. Tôi bật dao, nhảy một bước vào bếp, vòng tay kẹp cổ và chặn lưỡi dao đúng mũi gã đàn ông. Gã cuống cuồng thả rơi túi nylon xuống bàn.
“Tôi không có ý xấu”, gã run rẩy thanh minh. “Tôi nhìn thấy cái ấy và muốn lấy. Tôi chợt nổi Trang 56/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
máu tham. Tha lỗi cho tôi!”
“Quên đi!”, tôi cười khẩy. Một người của công ty khí đốt nhìn thấy cái đầu lâu trên bàn, nổi máu tham, muốn lấy – đã ai nghe thấy chuyện vô lý như thế chưa? “Khai thật ra, hay tao cắt cổ mày!”, tôi nói. Một câu nói dối trắng trợn, chỉ riêng gã là không ý thức được.
“Được rồi, được rồi, đừng làm gì tôi, tôi khai hết”, gã rền rĩ. “Người ta đã trả tiền để tôi đến đây ăn cắp nó. Hai người bắt chuyện với tôi ngoài phố, hỏi tôi có muốn kiếm ít tiền không, và cho tôi năm chục nghìn yên. Khi nào nộp cái đầu lâu thì tôi sẽ được thêm năm chục nghìn nữa. Tôi không muốn tí nào, nhưng một trong hai đứa trông như người khổng lồ. Thật đấy. Xin ông đừng giết tôi. Tôi có hai đứa con gái học trung học.”
“Cả hai học trung học?”
“Vâng. Lớp Mười và Mười hai.”
“Thật hả”, tôi hỏi. “Trường nào?”
“Đứa lớn học trường Shimura của thành phố, đứa nhỏ học trường Futaba ở Yotsuya”, gã nói. Sự kết hợp này cọc cạch đến nỗi chỉ có thể là sự thật. Tôi thấy tin gã được.
Cẩn thận chặn tiếp dao vào cổ gã, tôi nhón ví của gã từ túi quần sau ra xem. 67.000 yên, trong đó 50.000 yên là tiền mười nghìn mới cứng. Thẻ nhân viên của công ty khí đốt Tokyo, và một tấm hình màu chụp gia đình. Hai đứa con gái mặc kimono đại lễ. Cũng chẳng thuộc loại xinh đẹp gì. Do vóc người hai đứa như nhau nên khó nói đứa nào học trường Shimura và đứa nào học Futaba. Ngoài ra trong ví còn tấm vé tháng tuyến Sugamo-Shinanomachi. Gã đàn ông trông cũng không nguy hiểm nên tôi gập dao lại và thả hắn ra.
“Thôi, cút khỏi đây ngay!”, tôi nói và trả hắn ví.
“Cảm ơn ông”, gã nói. “Nhưng bây giờ thì sao? Tôi đã cầm tiền rồi, mà lại quay về tay trắng.”
Tôi cũng không rõ, tôi nói. Bọn ký hiệu sư – tôi đoán chúng là bọn ký hiệu sư – tùy tình thế mà có thể làm mọi trò. Và chúng ra tay rất có ý thức, để không ai dễ nhận ra thói quen hoạt động của chúng. Có thể chúng sẽ chọc mù mắt gã đàn ông. Cũng có thể chúng cảm ơn gã đã cố gắng và đưa nốt năm chục nghìn yên còn lại. Không ai đoán được.
“Một đứa trông như người khổng lồ, phải không?”, tôi hỏi.
“Vâng, to như voi. Còn đứa kia lùn tịt. Chưa tới mét rưỡi. Ăn mặc bảnh. Nói chung là một cặp đôi đáng sợ.”
Tôi chỉ cho gã cách đi từ bãi đỗ xe ra cửa sau. Cửa sau nhà này là một lối đi hẹp, từ ngoài khó nhìn thấy. Nếu gã gặp may thì không bị hay đứa kia phát hiện.
“Tôi rất biết ơn ông”, gã đàn ông thở phào. “Tôi được phép tin là ông sẽ không báo cho công ty tôi biết chứ?”
Tôi gật đầu. Rồi tống gã ra cửa, khóa lại và móc xích vào. Sau đó tôi ngồi vào bàn bếp, đặt con dao đã gập lưỡi lên bàn và lấy đầu lâu ra khỏi túi nylon. Ít nhất thì đã rõ một chuyện: bọn ký hiệu sư rình kiếm chiếc đầu lâu này, nghĩa là nó phải có ý nghĩa nào đó đối với chúng.
Trang 57/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
Hiện tại tôi và các ký hiệu sư đang ngang sức. Tôi có cái đầu lâu nhưng không biết ý nghĩa của nó. Bọn ký hiệu sư thì biết ý nghĩa – hoặc đoán được – nhưng lại không có đầu lâu. Một đều. Giờ thì tôi có thể lựa chọn giữa hai cách tiến hành. Cách thứ nhất là bắt liên lạc với Hệ thống, giải thích cho họ rõ vấn đề và yêu cầu được bảo vệ chống bọn ký hiệu sư hoặc chuyển đầu lâu vào nơi an toàn. Cách thứ hai: tôi liên hệ với cô gái mũm mĩm và bảo cô cho tôi biết ý nghĩa của cái đầu lâu. Trong hoàn cảnh hiện tại mà lôi Hệ thống vào cuộc thì tôi thấy không ổn. Hầu như chắc chắn người ta sẽ có ý định tiến hành kiểm tra tôi, rất phiền. Đơn giản là tôi không ưa các tổ chức cồng kềnh. Họ không linh hoạt, bất cứ việc gì cũng tốn thì giờ và công sức. Đơn giản là trên đời này khá đông kẻ ngu xuẩn.
Tuy nhiên cũng không thể liên hệ với cô gái béo: tôi không biết số điện thoại ở văn phòng cô. Tôi có thể tìm thẳng đến cô, nhưng bây giờ ra khỏi nhà thì khá nguy hiểm, vả lại dễ đoán là người ta không đơn giản để tôi bước vào tòa nhà văn phòng canh gác cẩn mật nọ.
Vậy là tôi quyết định không làm gì cả.
Tôi cầm kẹp gắp than inox gõ nhẹ lên đầu lâu lần nữa. Vẫn tiếng động như ban nãy. Nghe buồn bã thế nào ấy. Tựa như con thú lạ này còn sống. Nó còn sống và thở dài.
Vì sao đầu lâu phát ra tiếng động kỳ lạ này? Tôi cầm nó lên ngắm thật kỹ. Rồi tôi lấy kẹp gõ nhẹ lên lần nữa. Vẫn tiếng động cũ, nhưng nếu nghe thật chăm chú thì tôi cảm thấy âm thanh ấy dường như chỉ phát ra từ một điểm nhất định.
Tôi gõ đến lúc khoanh vùng được điểm đó. Tiếng động đến từ một vết lõm trên trán, đường kính khoảng hai phân. Tôi dùng một ngón tay khẽ sờ lên. Vết lõm nhám hơn xương xung quanh. Tựa như có gì bị bẻ ra khỏi vị trí này. Gì đó – cái sừng chẳng hạn...
Một cái sừng?
Nếu đúng thế thì tôi đang có đầu lâu một con thú một sừng trong tay. Tôi giở lại quyển Tranh và ảnh động vật có vú và tìm các động vật chỉ có một sừng. Không có, kiếm mãi cũng không thấy. Cùng lắm là có con tê giác, nhưng cả kích thước lẫn hình hộp sọ đều không đúng.
Tôi lấy đá trong tủ lạnh và pha một cốc Old Crow – tôi phải uống một chút. Đã sắp hết ngày, tôi thấy một cốc whiskey là hợp lý. Sau đó tôi ăn măng tây đóng hộp. Tôi rất khoái măng tây trắng. Xong món măng tây rồi ăn hai lát bánh mì gối kẹp hào xông khói. Sau đó lại một cốc whiskey.
Quyết định thực dụng của tôi: cái đầu lâu này ngày xưa thuộc về một con kỳ lân. Ngoài ra thì tôi cũng tắc tị.
Tôi có một cái đầu kỳ lân trong tay.
Được đấy, tôi nghĩ, được đấy chứ. Vì sao lại liên tục xảy ra những chuyện kỳ quái thế này? Và tại sao xảy ra với chính tôi? Tôi là một toán sư có tính thực tế và công tác độc lập, không hơn không kém. Tôi không nhiều kỳ vọng quá mức mà cũng chẳng tham lam. Tôi không có gia đình, không có bạn bè, không có người yêu.
Tôi là một người cố dành dụm càng nhiều càng tốt và sau quãng đời toán sư sẽ sống một cảnh hưu trí bình lặng, học đàn vi ô lông xen chẳng hạn, hoặc tiếng Hy Lạp. Vì sao chính tôi lại bị dây dưa với những trò ngớ ngẩn như kỳ lân và tắt âm thanh?
Trang 58/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
Tôi uống hết cốc whiskey thứ hai, vào phòng ngủ, tìm trong danh bạ số điện thoại của thư viện thành phố, quay số và xin gặp quầy thông tin. Mười giây sau, cô gái tóc dài cầm máy.
“Tranh và ảnh động vật có vú”, tôi nói.
“Cảm ơn anh mua kem”, cô nói.
“Chuyện nhỏ ấy mà”, tôi nói. “À, tôi có một nguyện vọng nữa, được không?” “Tùy xem nguyện vọng gì đã”, cô nói.
“Cô có thể tìm hộ tôi xem có tài liệu gì về kỳ lân không?”
“Thú-một-sừng?”, cô lặp lại.
“Đòi hỏi quá nhiều chăng?”
Im lặng. Có lẽ cô gái đang cắn lên môi dưới.
“Anh muốn biết gì về thú một sừng?”
“Tất cả”, tôi nói.
“Anh nghe đây, bây giờ là năm giờ kém mười, thư viện sắp đóng cửa và có rất nhiều việc phải làm. Bây giờ tôi không làm được. Vì sao anh không tới đây sáng mai, khi thư viện vừa mở cửa? Anh có thể tìm bao nhiêu tài liệu cũng được, về một sừng một siếc gì đó thì tùy.”
“Việc này cực kỳ khẩn cấp và cực kỳ quan trọng.”
“Ra thế, quan trọng đến mức nào?”
“Quá trình tiến hóa phụ thuộc vào nó.”
“Quá-trình-tiến-hóa?”, cô nhắc lại, giờ đã có vẻ giật mình. “Anh không định nói đến quá trình tiến hóa diễn ra trong hơn cả một triệu năm đấy chứ? Xin lỗi, nếu tôi hiểu nhầm, nhưng tôi không rõ tại sao lại khẩn cấp đến mức không đợi thêm được một ngày.”
“Có quá trình tiến hóa cần một triệu năm và có quá trình tiến hóa diễn ra trong ba tiếng đồng hồ. Tôi không giải thích qua điện thoại được. Cô hãy tin tôi. Việc này cực kỳ quan trọng. Bước phát triển tiếp theo của nhân loại phụ thuộc vào nó.”
“Như trong phim 2010: A Space Odyssey?”
“Chính xác”, tôi nói. Tôi đã xem phim này trên video không nhớ bao lần. Cô không nói gì một hồi lâu.
“Cô đang phân vân liệu tôi có phải là một kẻ kỳ quặc hay thiểu năng, đúng không?” “Anh đã hiểu đúng ý tôi”, cô nói.
“Tôi không điên”, tôi nói. “Có thể không ít thì nhiều tôi là một người lập dị và ngang ngạnh. Cũng có người ghét tôi, nhưng chưa ai bảo là tôi điên.”
Trang 59/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
“Được rồi, được rồi, anh nói không như một người điên. Có vẻ anh cũng không hẳn là một người xấu, ngoài ra anh còn mua kem cho tôi nữa. Thôi được. Sáu rưỡi. Ta gặp nhau trong tiệm cà phê cạnh thư viện. Tôi sẽ đem sách theo. Thế được chưa?”
“Tiếc rằng sự việc lại không đơn giản thế. Tôi không thể đi vào chi tiết, nhưng bây giờ tôi không thể ra khỏi nhà. Xin lỗi cô, nhưng...”
“Ý anh là...”, cô ngập ngừng. Tôi nghe cô lấy móng tay gõ lên răng cửa. “Anh đòi tôi đem sách đến nhà anh chứ gì. Bây giờ thì anh điên thật rồi.”
“Một ý tưởng vĩ đại”, tôi ngượng ngập nói. “Tuy vậy, tất nhiên, tôi không đòi, tôi chỉ hỏi thôi.” “Anh hỏi hơi quá quắt đấy.”
“Tôi biết, tôi biết. Nhưng cô không thể tin được chuyện gì đang xảy ra đâu.”
Lại im lặng một hồi lâu. Cô im lặng chứ không phải âm thanh bị tắt đi, có thể nhận ra điều đó qua tiếng nhạc văng vẳng phía sau. Giai điệu Annie Lowly thông báo thư viện đã đến giờ đóng cửa.
“Tôi làm việc ở thư viện này đã năm năm rồi, nhưng tôi chưa gặp một khách mượn sách nào trơ tráo như anh”, cô nói. “Đòi mang sách đến tận nhà. Ngay lần đầu! Anh có thấy như thế là quá quắt không?”
“Có, tôi cũng thấy thế. Tôi rất áy náy. Tôi biết đây là một ngoại lệ lớn, nhưng tôi không có sự lựa chọn nào khác.”
“Tôi không rõ tại sao mình lại nhận làm việc này nữa. Đi đường nào đến nhà anh đây?” Trang 60/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
Chương 8
Ông Đại Tá
“Tôi sợ là cậu không lấy lại cái bóng của mình được đâu”, ông đại tá vừa nói vừa nhâm nhi cà phê. Như đa số những người quen ra lệnh cho người khác bao năm trời, ông nói trong tư thế cứng nhắc, cằm vươn ra. Nhưng ông không phải người hãnh tiến hoặc nhiễu sự. Duy chỉ thời gian phục vụ trong quân đội đã đem lại cho ông tư thế cứng nhắc, cuộc sống theo quy chế và vô vàn kỷ niệm. Ông là hàng xóm lý tưởng của tôi. Thân thiện, rất trầm lặng và chơi cờ giỏi.
“Ông gác cổng nói đúng đấy”, ông đại tá già nói tiếp. “Cả về lý thuyết lẫn thực tế hiện nay không có cách nào để cậu nhận lại bóng mình đâu. Chừng nào cậu ở đây thì không được phép có bóng, và cậu chẳng bao giờ được phép rời khỏi thành phố nữa. Nói theo thuật ngữ quân sự thì đây là một ổ phục kích. Người ta có thể đặt chân vào, nhưng không bước ra được nữa. Chừng nào bức tường còn bao quanh thành phố.”
“Nhưng tôi đâu có nghĩ rằng bị mất bóng vĩnh viễn. Tôi tưởng đó chỉ là một biện pháp nhất thời. Và cũng chẳng ai chỉ dẫn cho tôi biết!”
“Ở đây không ai chỉ dẫn cho ai về bất cứ việc gì”, ông đại tá nói. “Thành phố này có những quy định chỉ riêng nó có, không quan tâm đến ai biết gì hoặc không biết gì. Đáng tiếc, nhưng không thể khác.”
“Thế bây giờ bóng tôi ra sao?”
“Chả sao cả. Nó cứ tồn tại thôi. Cho đến chết. Từ hôm ấy cậu đã thấy nó chưa?” “Không. Tôi đến đó mấy lần nhưng ông gác cổng không cho, ông nói là vì lý do an ninh.”
“Chà, thế thì đành chịu thôi”, ông đại tá lắc đầu. “Ông gác cổng phụ trách canh giữ bóng và một mình chịu trách nhiệm đó. Tôi không làm gì giúp cậu được. Như cậu biết đấy, ông gác cổng là một người khó tính và nghiệt ngã, không chịu nghe ai bao giờ. Cậu chỉ có thể kiên nhẫn đợi đến khi ông ấy đổi ý.”
“Tôi đang làm thế đây”, tôi nói. “Nhưng ông ấy có gì phải lo ngại cơ chứ?”
Ông đại tá uống cạn cốc cà phê, đặt cốc lên đĩa và rút khăn tay ra lau miệng. Chiếc khăn cũng sờn nát như bộ đồ ông mặc trên người, nhưng chỉn chu và sạch sẽ không chê được.
“Ông ấy ngại cậu và bóng của cậu nhập làm một. Và nếu thế thì ông ấy lại phải làm thủ tục này lại từ đầu.” Nói đoạn ông quay về với bàn cờ của mình. Xét về quân cờ và nước đi thì bàn cờ ở đây hơi khác những gì tôi vẫn quen, do đó hầu như ván nào ông đại tá cũng thắng.
“Rất tiếc là khỉ của tôi thịt thầy tế của cậu.”
“Không sao”, tôi nói và đẩy quân tường thành không cho quân khỉ lùi. Thế cờ đã rõ ràng, hầu như chắc chắn là ông được, nhưng ông không lấy làm đắc thắng và vung gươm hạ thủ tôi, mà
Trang 61/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
vẫn thận trọng đi từng nước. Ông không kỳ vọng thắng người khác mà chỉ sát hạch khả năng của mình.
“Tách khỏi bóng của mình và để nó chết, quả cũng cay đắng”, ông nói và đẩy kỵ sĩ sang cạnh, khéo léo chen giữa tường thành và Vua. Thực tế là Vua của tôi hở. Ba nước nữa là tôi bị chiếu bí. “Cay đắng cho bất kỳ ai, tôi ngày xưa cũng thế. Và nó khác với khi một đứa trẻ bị mất bóng và để nó chết, vì đứa trẻ chưa biết gì và chưa quen bóng của mình lắm, nhưng khi người ta đã có tuổi thì không đơn giản, tôi nói cho cậu biết. Bóng của tôi chết khi tôi 65. Ở tuổi ấy người ta có biết bao kỷ niệm chung.”
“Sau khi bị tách ra, bóng sống được bao lâu nữa?”
“Phụ thuộc vào bóng”, ông nói. “Có bóng khỏe và bóng không khỏe lắm. Nhưng bóng tách ra không thọ lâu ở thành phố này. Khí hậu ở đây không hợp. Mùa đông dài và lạnh. Có lẽ không bóng nào sống đến mùa xuân năm sau.”
Tôi ngắm tình thế trên bàn cờ một lát và chịu thua.
“Cậu còn có thể đi năm nước để thoát thế bị chiếu”, ông đại tá nói. “Không bõ công hay sao? Trong năm nước ấy người ta có quyền hy vọng đối thủ mắc sai lầm. Nước cuối cùng mới quyết định thua hay được.”
“Để tôi thử.”
Trong lúc tôi ngẫm nghĩ, ông ra cửa sổ, lấy ngón tay vạch tấm màn nặng ra và nhòm qua khe hẹp ấy.
“Mấy tuần này sẽ là thời gian khốn khó nhất của cậu ở đây. Như việc mọc răng vậy. Răng sữa rụng rồi, răng mới thì chưa mọc. Cậu hiểu ý tôi nói gì chứ?”
“Ý ông là bóng tôi tuy đã bị tách ra nhưng chưa chết?”
“Chính xác”, ông nói và gật đầu. “Tôi còn nhớ rõ. Người ta chưa tìm thấy được sự cân bằng giữa cái đã qua và cái chưa đến. Do đó người ta không đồng thuận với chính mình. Nhưng khi răng mới đã nhú ra thì người ta quên răng cũ thôi.”
“Nghĩa là khi tâm hồn biến mất?”
Ông đại tá không trả lời câu này.
“Xin lỗi vì tôi hỏi nhiều như vậy”, tôi nói. “Nhưng tôi hầu như chẳng biết gì về thành phố cả. Mọi thứ ở đây đều làm tôi rối trí. Thành phố được tổ chức ra sao, tại sao cần tường thành cao thế, lý do gì ngày nào cũng thả súc vật ra rồi lại dồn vào, những giấc mơ xưa là gì – muôn vàn câu đố kỳ bí. Và ông là người duy nhất để tôi hỏi!”
“Không phải cái gì tôi cũng biết cặn kẽ”, ông khẽ nói. “Ngoài ra, có những chuyện mà tôi không giải thích đơn giản cho cậu hiểu được, và có những chuyện tôi không được phép cho cậu biết. Nhưng thực sự là cậu không cần phải lo lắng. Về khía cạnh nào đó thì thành phố này công bằng. Những gì cậu nhất thiết phải có và phải biết thì người ta sẽ trao cho cậu, đúng tuần tự. Và cậu là người có trách nhiệm học hỏi kỹ lưỡng mọi thứ. Đây là một thành phố hoàn hảo, cậu hiểu chưa? Hoàn hảo nghĩa là cái gì cũng có. Nhưng chừng nào người ta không thực sự thấu thị thì
Trang 62/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
cũng chẳng có gì cả. Hư vô hoàn hảo. Cậu hãy ghi lòng tạc dạ! Những gì người khác dạy cậu thì vẫn là của người khác – chỉ cái gì cậu tự học hỏi được mới đọng lại trong tâm trí cậu. Chỉ có thế cậu mới tiến được. Vậy thì mở mắt ra, dỏng tai lên, bắt đầu óc hoạt động và cố hiểu ý nghĩa những gì ở thành phố này trao cho cậu. Và nếu cậu có tâm hồn – hãy sử dụng nó chừng nào cậu còn có nó. Đó là tất cả những gì tôi có thể khuyên cậu.”
Khi ánh huy hoàng đã tàn tạ của khu công nhân, nơi cô thủ thư sống, chìm vào bóng tối thì khu công chức ở mạn tây nam thành phố cũng chuẩn bị vĩnh viễn mất nốt màu sắc của nó trong ánh nắng khô rang – do mưa xuân tẩy bợt màu, nắng hè nung đốt và gió đông cứa như dao. Dọc triền dốc thoai thoải bát ngát được gọi là “Đồi Tây”, từng dãy nhà trắng hai tầng liền kề nhau. Đó là các ngôi nhà công vụ, khởi thủy dành cho ba gia đình chung một nhà, tuy nhiên chỉ có phần cửa ra vào xây nhô ra là chung nhau. Tất cả quét màu trắng: lớp ván ốp ngoài bằng gỗ tuyết tùng, cửa đi, cửa sổ, hàng hiên – nhìn đâu cũng chỉ thấy một màu trắng. Đồi Tây hiện ra trong mọi cấp độ của màu trắng, từ màu trắng mới quét sáng lóa thiếu tự nhiên và trắng ố vàng do bị nắng thiêu hằng ngày cho đến một thứ trắng không đáng được gọi tên ấy vì đã bị gió mưa làm cho tàn tạ - tất cả mọi sắc độ trắng ấy có mặt dọc theo những đường rải sỏi chạy quanh đồi. Nhà ở đây không có hàng rào. Chỉ thấy các luống hoa chạy dài trước hiên rộng chừng một thước được chăm chút chu đáo. Hoa nghệ tây, hoa păng xê và cúc vạn thỏ nở vào tiết xuân, cúc tây vào mùa thu. Tới mùa hoa nở, các ngôi nhà trông giống nhà hoang một cách kỳ lạ.
Nghe nói ngày xưa đây từng là một khu “cao cấp” xứng với cái tên ấy. Vì hôm nay, nếu lang thang đi qua khu này ta vẫn cảm thấy hồn phách của một thời đã qua. Cứ như vẫn có trẻ nô đùa ngoài phố, có tiếng dương cầm và mùi thơm của bữa tối lãng đãng trong không khí. Tôi cảm thấy có thể sờ tận tay được vào những ký ức đó, dường như bước xuyên được nhiều cánh cửa trong suốt dẫn đến quá khứ.
Như tên của khu này cho thấy, ngày xưa các công chức sống ở đây. Không phải công chức cao cấp, cũng chẳng phải loại lẹt đẹt, mà là tầm trung, những người phải có chút cố gắng mới giữ được mức sống giản dị của mình.
Nhưng giờ đây không ai trong số họ còn ở đây nữa. Tôi không rõ họ biến đi đâu.
Thế chỗ họ là đám quân nhân đã về hưu. Họ bỏ lại bóng và sống cuộc đời cô đơn của mình trên Đồi Tây – ai lo phận nấy, như những vỏ kén rỗng dính trên tường nhà. Họ chẳng có gì để chăm chút trong cuộc đời này nữa. Cứ mỗi nhà có sáu đến chín người già ở.
Ông gác cổng phân cho tôi một trong những căn hộ công vụ ấy làm nơi trú ngụ. Trong nhà ấy, ngoài ông đại tá còn có hai thiếu tá, hai thượng úy và một hạ sĩ. Viên hạ sĩ làm bếp và mọi việc vặt khác cho tất cả. Như vẫn trong quân đội. Mấy ông già này không gia đình; giữa những công tác chuẩn bị chiến tranh, đánh nhau và tái thiết, giữa phong trào cách mạng và phản cách mạng không còn thì giờ nào nữa mà lập gia đình.
Họ dậy sớm và ăn sáng vội vã theo thói quen để rồi sau đó lao vào các việc thường nhật, tuy chẳng ai ra lệnh. Người thì lấy bay cạo sơn cũ trên đoạn tường nhà nào đó, người thì nhổ cỏ dại ngoài vườn, người khác sửa đồ gỗ hoặc đẩy xe cút kít xuống chân đồi lĩnh khẩu phần thực phẩm cho cả nhà. Sau khi xong việc buổi sáng, các ông già tụ họp trong ánh nắng chiều và phiêu diêu với kỷ niệm.
Tôi được phân một phòng hướng đông ở tầng hai. Tầm nhìn ra ngoài không tốt vì bị một quả Trang 63/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
đồi chắn phía trước, tuy vậy tôi vẫn còn thấy được một khúc sông và tháp đồng hồ.
Hình như căn phòng bị bỏ không từ lâu, tường đầy những vết ố sẫm màu, cửa sổ bám đầy bụi. Rèm cửa dày có mùi ẩm mốc. Ván sàn đôi chỗ sứt sẹo và nghiến cọt kẹt theo mỗi bước đi.
Sáng sớm, ông đại tá vào ăn sáng chung với tôi. Buổi chiều hai người ngồi trong căn phòng kéo rèm lén lút đánh cờ. Chiều nắng rực rỡ mà ngồi đánh cờ thì rõ là chẳng cách nào cho tiêu hết thời gian.
“Trời đẹp mà thanh niên như cậu phải ngồi trong một phòng cớm nắng thì ngắn nhỉ”, ông đại tá nói.
“Tôi cũng thấy thế.”
“Tôi thì lại thấy tuyệt vời, rốt cuộc tôi đã có một bạn chơi cờ. Vì những người kia không thích nữa.”
“Vì sao ông bỏ bóng mình đi?”
Ông già đăm đăm ngó xuống các ngón tay mình tắm trong ánh nắng xiên qua kẽ cửa sổ mở hé, nhưng rồi cũng rời ngay cửa sổ để quay về ngồi bên bàn đối diện tôi. “Hừm”, ông nói. “Có lẽ vì tôi đã bảo vệ thành phố này rất lâu. Chắc tôi nghĩ, nếu tôi rời bỏ thành phố thì đời tôi cũng mất ý nghĩa. Cho đến giờ thì tôi không bận tâm gì nữa, tuy vậy...”
“Đã có lần nào ông hối hận đã bỏ bóng mình đi không?”
“Không. Tôi không bao giờ hối hận bất cứ gì”, ông già nói và lắc đầu quầy quậy. “Không một lần duy nhất nào. Tôi cũng chẳng biết hối hận bao giờ.”
Tôi ăn quân khỉ của ông và có chỗ cho Vua di chuyển.
“Nước ấy khá lắm”, ông già nói. “Cậu để tường thành chắn hết, và Vua lại có chỗ. Nhưng bây giờ kỵ sĩ của tôi cũng di chuyển được.”
Trong lúc ông ngẫm nghĩ nước tiếp theo, tôi đi đun nước pha cà phê. Sẽ còn vô số những buổi chiều như thế này, tôi tự nhủ. Ở thành phố này, giữa những bức tường cao vòi vọi, mi sẽ không còn lựa chọn nào nữa.
Trang 64/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
Chương 9
Ngon Miệng, Thất Vọng,
Leningrad
Trong khi đợi cô gái, tôi chuẩn bị một bữa tối đơn giản. Tôi nghiền mơ muối làm nước xốt chua ngọt trộn gỏi, chiên cá mòi, đậu phụ và khoai lang, luộc thịt bò thái lát với củ cần tây. Còn chút thì giờ, tôi luộc đậu với gừng để ăn với nước xốt vừng. Kết quả không để nỗi nào. Trong khi nấu tôi uống một lon bia, rồi tôi lăn ra giường nghe đĩa và nhìn lên trần nhà.
Quá bảy giờ và bên ngoài đã tối, nhưng cô gái vẫn chưa thấy đâu. Có thể cô đã nghĩ lại. Thậm chí tôi cũng chẳng dám trách cô. Cô đến mới lạ.
Đang tìm một đĩa nhạc mới thì tôi nghe tiếng chuông. Tôi nhòm qua lỗ quan sát: cô gái ở thư viện đứng trước cửa, tay cầm sách. Tôi hé cửa, để nguyên xích chằng và hỏi cô có còn thấy ai ở ngoài hành lang không.
“Không, không có ai”, cô nói.
Tôi gỡ xích và mời cô vào nhà, đóng ngay cửa lại và xoay chìa khóa.
“Thơm quá”, cô nói và hít hà. “Tôi có được phép vào bếp không?”
“Cứ tự nhiên, xin mời. Cô có thấy ai đáng chú ý ở trước nhà không, công nhân xây dựng chẳng hạn? Hoặc có người nào ngồi trong xe đang đỗ?”
“Không, không có ai”, cô nói và đặt hai cuốn sách cô đem đến xuống bàn, ra bếp mở hết các vung ra. “Anh đã nấu tất cả các món này à?”
“Dĩ nhiên”, tôi nói. “Nếu cô đói thì xin mời cùng ăn. Cũng chẳng có gì đặc biệt đâu.” “Sao anh nói thế? Mấy món này tôi thích lắm.”
Tôi dọn thức ăn ra bàn và hài lòng ngắm cô ăn hết món nọ đến món kia. Thấy người ta ăn say sưa như thế thì cũng bõ công nấu. Tôi rán đậu phụ to lửa và rắc cải cay lên để nhắm với whiskey. Cô gái không nói một lời khi ăn. Tôi mời rượu, nhưng cô từ chối.
“Cho tôi xin ít đậu phụ được không?”, cô nói. Tôi đẩy chỗ đậu phụ còn lại sang cho cô và chỉ uống chay whiskey.
“Hãy còn cơm và mơ muối đấy, xúp miso nấu cũng chóng thôi”, tôi nói đề phòng cô ăn không được thoải mái.
“Thế thì tuyệt quá”, cô nói.
Tôi nhanh tay đun ngước xuýt, cho rong biển, hành lá vào làm một nồi súp miso, bưng ra cùng với cơm và mơ muối. Trong nháy mắt cô làm hết trơn. Cuối cùng trên bàn chỉ còn chỏng chơ
Trang 65/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
mấy hạt mơ. Cô thốt lên mãn nguyện: “Cảm ơn anh, ngon quá!”
Chưa bao giờ tôi chứng kiến một cô gái thon thả và xinh xắn như cô mà lại có một sức ăn đáng nể như vậy. Quả là một thành tích lớn. Sau khi cô ăn xong, tôi chỉ ngồi đó nhìn cô một lúc lâu, nửa vì khâm phục, nửa cũng vì sửng sốt không biết nói gì.
“Lúc nào cô cũng ăn nhiều thế à?”, tôi hỏi thẳng thừng.
“Tất nhiên. Đại khái như hôm nay”, cô nói, không đổi nét mặt.
“Và cô không bị béo?”
“Tôi bị giãn bao tử”, cô nói. “Ăn mấy cũng được, không bao giờ lên cân.”
“Nhưng sẽ tốn tiền đi chợ chứ?”, tôi hỏi. Chả gì thì mình cô đã đánh sạch bữa tối và cả suất trưa mai của tôi nữa.
“Chứ sao nữa!”, cô nói. “Gần như toàn bộ lương tháng của tôi chỉ để mua thức ăn đấy.”
Tôi mời cô rượu lần nữa. Cô xin một lon bia. Tôi lấy bia từ tủ lạnh và cẩn thận ném thêm hai nắm xúc xích vào chảo rán. Bụng bảo dạ, chắc nàng cũng đầu hàng thôi. Nhưng tôi chưa kịp ăn hai cái, chỗ còn lại cô ăn tất. Sự ngon miệng của cô quét sạch mọi thực phẩm như một khẩu đại liên phạt phăng bụi cây. Trước mắt tôi, khoản dự trữ cho một tuần bay veo.
Tôi bưng tiếp cho cô salad khoai tây làm sẵn mà tôi đã cho thêm rong biển và cá thu. Món này cô chiêu xuống với lon bia thứ hai.
“Giờ thì tôi ổn rồi!”, cô nói. Tôi mới chỉ nhấp ly whiskey thứ ba và hầu như chưa chạm đũa. Mải say mê ngắm cô ăn, tôi hầu như quên cả đói.
“Tôi còn một bánh kem sô cô la để tráng miệng nữa”, tôi nói. Dĩ nhiên là cô không lắc đầu. Tôi thích nấu, nhưng ăn thì như mèo. Chỉ nhìn đồ ăn là tôi đã thấy lợm giọng.
Có lẽ đó là lý do khiến tôi không cương lên được. Từ 1964 là năm Nhật Bản đăng cai tổ chức Thế vận hội Olympic, chưa bao giờ xảy ra chuyện đến phút quyết định mà tôi không cương lên được.
“Anh đừng bận tâm, thực sự là không có gì ghê gớm đâu”, cô an ủi tôi. Sau món tráng miệng chúng tôi uống whiskey và bia, nghe vài đĩa nhạc rồi chui vào giường. Tôi đã ngủ với rất nhiều phụ nữ, nhưng trong số đó không có cô nào làm thủ thư. Tôi đoán cô lên giường với tôi vì được tôi thết đãi tử tế. Tuy nhiên, như đã nói, anh bạn nhỏ của tôi không chiến đấu được. Nghĩ đến lượng thực phẩm mà cô nhồi vào bao tử và hiện đang được nghiền bóp là đoạn dưới của tôi cứ thế nguội ngắt.
Cô rúc tấm thân trần truồng vào người tôi và lấy ngón tay giữa miết lên miết xuống chừng mười phân trên mỏ ác tôi. “Ai cũng có lần bị, anh không việc gì phải bận tâm nhiều.”
Nhưng cô càng xoa dịu tôi bao nhiêu thì đầu óc tôi càng quay cuồng bấy nhiêu quanh thực tế là dương vật tôi không cương lên được. Tôi đã có lần đọc ở đâu đó là dương vật trong trạng thái bình thường trông thẩm mỹ hơn lúc cương, nhưng đó chỉ là một an ủi yếu ớt.
“Anh ngủ với phụ nữ lần cuối là khi nào?”
Trang 66/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
Tôi lọ mọ lục lọi trong trí nhớ một hồi. “Gượm đã, ờ, cách đây hai tuần”, tôi nói. “Và lần đó ổn chứ?”
“Dĩ nhiên”, tôi nói. Dạo này dường như ai cũng quan tâm đến đời sống tình dục của tôi. Có lẽ đây là mốt mới chăng.
“Cô ấy là bạn gái anh?”
“Gái gọi. Gọi điện đến.”
“Mỗi lần anh ngủ với cô gái loại ấy... anh có cảm giác mình làm một điều gì xấu xa không?” “Hừm... không.”
“Từ tối ấy đến giờ anh có thủ dâm không?”
“Không”, tôi nói. Trong mười bốn ngày qua tôi bận bù đầu, đến tận hôm nay mới có thì giờ để lấy cái áo vest đắt tiền từ hiệu giặt là về. Đào đâu ra thì giờ mà thủ dâm?
Cô lắng nghe tôi kể và gật đầu đầy thuyết phục. “Có lẽ vì thế đấy?”
“Vì anh không thủ dâm?”
“Vớ vẩn, đồ ngốc ạ”, cô nói. “Tất nhiên là vì công việc! Anh đã tối tăm mặt mũi vì công việc, đúng không?”
“Ừ, hôm kia anh đã không ngủ hăm sáu tiếng liền.”
“Anh làm việc gì?”
“Ngành máy tính”, tôi nói. Tôi toàn trả lời như thế khi bị hỏi về nghề nghiệp. Thứ nhất là cũng chẳng sai, và thứ hai là hầu hết mọi người chẳng hiểu mấy về máy tính để hỏi tiếp.
“Anh bị ức chế vì làm việc trí não trong một quãng thời gian dài, vì vậy tạm thời bị trục trặc. Hoàn toàn bình thường.”
“Ra thế”, tôi nói. Có lẽ cô có lý. Tình trạng kiệt sức của tôi cộng với tất cả các sự kiện bất thường trong hai ngày vừa qua, và mới rồi là sự ngong miệng khủng khiếp đến sởn tóc gáy của cô mà tôi buộc phải mục sở thị đã khiến tôi tạm thời liệt dương. Có thể lắm.
“Anh áp tai vào bụng em mà xem”, cô nói. Và lật chăn ra.
Cô có một cơ thể đẹp, nhẵn nhụi, thon thả, không đâu ra một gam mỡ thừa. Ngực cô cũng không quá to. Nghe lời cô, tôi áp tai lên phần bụng phẳng lì giữa vú và rốn cô. Như một phép lạ, bụng cô chứa nhiều thức ăn như vậy mà vẫn chẳng vồng lên tẹo nào. Da cô mỏng, mềm và ấm.
“Anh nghe thấy gì không?”, cô hỏi.
Tôi nín thở lắng nghe. Nhưng ngoài tiếng mạch máu đập khe khẽ thì tôi chẳng nghe thấy gì. Chỉ có cảm tưởng như khi nằm trong một khu rừng im ắng và lắng nghe tiếng rìu chặt gỗ xa
Trang 67/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
xăm.
“Chẳng nghe thấy gì cả”, tôi nói.
“Anh không nghe dạ dày làm việc à?”, cô nói. “Nó đang tiêu hóa đấy.”
“Anh cũng không biết tường tận, nhưng anh nghĩ là quá trình tiêu hóa không gây ra tiếng động lớn. Dịch vị có tác dụng phân hủy, thế thôi. Tất nhiên có cả một ít nhu động nữa, nhưng chắc chắn không ầm ĩ lên đâu.”
“Có thể, nhưng cảm giác của em thì rất rõ là dạ dày đang làm việc cật lực. Anh nghe kỹ lần nữa đi.”
Tôi vừa tập trung cao độ vào bên tai áp trên bụng cô vừa ngắm phần bụng dưới và đám lông mu xoăn ngược lên. Nhưng không hề thấy tiếng gì từ dạ dày. Chỉ có tiếng mạch đập sau những khoảng cách đều đặn. Trong The Enemy Below cũng có một cảnh như thế. Bí mật như chiếc tàu ngầm do Curd Furgens chỉ huy, dạ dày khổng lồ của cô tiến hành tiêu hóa dưới vành tai tôi đang chăm chú theo dõi.
Tôi thôi nghe, nhấc đầu khỏi bụng cô, ngả ra gối và quàng tay ôm cô. Tóc cô thơm ngát. “Anh có nước tonic không?”, cô hỏi.
“Trong tủ lạnh”, tôi nói.
“Em muốn uống vodka pha tonic, được không?”
“Tất nhiên.”
“Anh có muốn uống gì không?”
“Giống em.”
Cô trèo khỏi giường và khỏa thân đi vào bếp. Trong khi cô pha hai cốc vodka với tonic, tôi đi chọn ca sĩ ưa thích nhất, Johnny Mathis, đĩa Teach Me Toninght. Rồi ư ử ngân theo trên đường về giường. Tôi và dương vật dặt dẹo của tôi và Johnny Mathis.
“Anh bao nhiêu tuổi?”, cô hỏi khi mang đồ uống về giường.
“Ba lăm”, tôi nói. “Độc thân. Ngày xưa lắm rồi đã từng có gia đình. Không con cái. Không người yêu.”
“Em hăm chín. Năm tháng nữa thì tròn ba mươi.”
Tôi nhìn cô lần nữa. Chắc không bao giờ tôi nghĩ rằng cô suýt soát ba mươi.
“Trông em trẻ hơn, nhưng em đúng hăm chín thật!”, cô nói. “Này anh, có phải thật ra anh là cầu thủ bóng chày không?”
Tôi giật mình suýt làm sóng cả cốc vodka tonic vừa đặt lên môi. “Bóng chày?”, tôi nói. “Anh bỏ chơi bóng chày mười lăm năm nay rồi. Sao em nghĩ thế?”
“Em cứ nghĩ là đã có lần thấy anh trong ti vi. Mà em thì chỉ xem Chương trình bóng chày và Trang 68/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
thời sự thôi. Hay anh có việc gì bên thời sự?”
“Anh chưa có mặt trong bản tin thời sự bao giờ.”
“Quảng cáo?”
“Không”, tôi nói.
“Thế thì phải có ai đó trông giống anh... ít nhất thì trông anh cũng không như thợ máy tính”, cô nói. “Tiến hóa, kỳ lân, và những chuyện tương tự, cũng không sao, nhưng trong túi quần có dao bấm!”
Cô chỉ vào quần tôi vứt dưới sàn nhà. Một đầu dao ló ra khỏi túi quần.
“Việc của anh liên quan đến xử lý dữ liệu sinh học, công nghệ sinh học. Liên quan đến lợi nhuận công nghiệp. Dạo này người ta chuyên đi ăn cắp dữ liệu của nhau, vì vậy anh phải cẩn trọng.”
“Ra thế”, cô nói, nhưng vẻ mặt không hoàn toàn thuyết phục. “Ta bỏ qua đi. Nói chuyện thú một sừng thì hơn. Đó là lý do chính để anh gọi em, phải không?”
Tôi gật đầu, đặt hai cốc đã uống cạn xuống đất. Cô nhặt hai quyển sách ở đầu giường. Một quyển mang đầu đề Khảo cổ động vật của tác giả Burtland Cooper, quyển kia là Về những sinh thể ảo của Jorge Luis Borges.
“Trước khi đến đây em đã đọc lướt qua cả hai quyển. Tóm gọn lại, quyển này (cô cầm Về những sinh thể ảo lên) nói về thú một sừng như một sản phẩm của trí tưởng tượng, đại khái như con rồng hay nàng tiên cá, trong khi quyển này (cô giơ Khảo cổ động vật lên) đại diện cho một khía cạnh khoa học, lấy xuất phát điểm là không ai dám bảo thú một sừng chưa bao giờ tồn tại. Về chính con kỳ lân thì tiếc là cả hai quyển đều không nói được gì nhiều. Thậm chí quá ít, nếu so với các mô tả về rồng và các chú lùn. Nguyên nhân theo em có thể thú một sừng là một sinh vật rất trầm lặng... Thư viện chúng em không còn tài liệu gì hơn, thật tiếc.”
“Thế là hoàn toàn đủ rồi. Quan trọng là anh đã nắm được đại ý. Rất cảm ơn em!” Cô đưa tôi cả hai quyển.
“Em có thể tóm tắt cho anh những gì viết trong đó không?”, tôi nói. “Truyền miệng dễ nắm tổng quát hơn.”
Cô gật đầu, giở ngay quyển Về những sinh thể ảo ra. “Nói về ý nghĩa của rồng thì ta cũng mù mờ như về ý nghĩa của vũ trụ vậy”, cô đọc. “Đó là lời tựa.”
“Không tồi”, tôi nói.
Cô lật một trang gần cuối đã được đánh dấu trước. “Điểm đầu tiên người ta phải nhớ là có hai giống kỳ lân. Giống thứ nhất là giống châu Âu, bắt nguồn từ Hy Lạp, giống thứ hai từ Trung Hoa. Chúng khác nhau ở bề ngoài, và cũng được con người ghi nhận trên hai phương cách hoàn toàn khác nhau. Chẳng hạn người Hy Lạp miêu tả kỳ lân như sau:
‘Mình ngựa, đầu hươu, chân voi, đuôi giống lợn đực. Tiếng hí của kỳ lân trầm, trán mọc một cái sừng đen, dài khoảng chín chục phân. Truyền rằng không thể bắt được con thú này.’
Trang 69/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
Ngược lại, kỳ lân Trung Hoa được miêu tả như sau:
‘Thân hươu, đuôi bò, móng ngựa. Sừng mọc ở trán, khá ngắn, và bằng thịt. Lông trên lưng có năm màu, còn bụng chỉ có màu nâu hoặc vàng.’
Khá khác biệt, anh có thấy thế không?”
“Đúng đấy”, tôi nói.
“Không chỉ bề ngoài, mà về bản chất của thú một sừng và ý nghĩa người ta gán cho nó cũng khác nhau hoàn toàn giữa phương Đông và phương Tây. Ở phương Tây người ta thú một sừng là một con vật rất dữ và hiếu chiến. Chả gì thì nó cũng có sừng dài đến chín chục phân, nghĩa là suýt soát một thước. Theo Leonardo da Vinci, chỉ có một cách để bắt được nó, đó là phải biết lợi dụng khoái cảm nồng nàn của nó. Người ta đặt một trinh nữ trước mặt nó, và sự đam mê khiến nó quên tấn công để rồi gục đầu vào lòng thiếu nữ ấy; thế thì sẽ bắt được nó. Cái sừng có ý nghĩa gì, chắc anh đã hiểu?”
“Anh có thể đoán được.”
“Còn kỳ lân Trung Hoa thì lại là một con vật linh thiêng, đem lại may mắn, thuộc về bộ Tứ Linh cùng với Long, Phượng và Quy, và nó đứng hàng cao nhất trong ba trăm sáu lăm sinh vật đi bộ dưới đất. Kỳ lân là một con vật cực kỳ hiền lành, thậm chí nó còn chú ý lúc chạy để đừng giẫm lên một sinh vật bé bỏng nào, và chỉ ăn cỏ khô chứ không bao giờ đụng đến cỏ tươi. Nó sống lâu chừng một nghìn năm và sự hiện diện của nó báo hiệu một đại hiền triết chào đời. Thân mẫu của Khổng Tử chẳng hạn, bà mang thai khi nhìn thấy kỳ lân.
‘Bảy mươi năm sau, thợ săn hạ được một con kỳ lân, thấy sừng của nó còn vương một mảnh từ dải lụa mà mẹ Khổng Tử đã thắt vào. Khổng Tử ngắm con kỳ lân và khóc, vì Ngài cảm nhận được ý nghĩa trong cái chết của con vật huyền bí vô tội này, và vì quá khứ của Người nằm trong dải lụa ấy.’
Anh thấy có lý thú không? Vào thế kỷ mười ba, kỳ lân lại tái xuất hiện lần nữa trong lịch sử Trung Hoa. Quân đội Thành Cát Tư Hãn ngày đó đang lập kế hoạch đánh Ấn Độ. Một nhóm thám thính chạm trán giữa sa mạc một con kỳ lân. Nó có đầu ngựa với một sừng giữa trán, bộ lông xanh lá cây, mình hươu và nói tiếng người: Đã đến lúc Đại Hãn của các ngươi nên quay trở về đất mình.
‘Một trong các đại thần người Hán của Thành Cát Tư Hãn được vời đến tham vấn, và ông nói, đây là “Giác thụy” – một chi đặc biệt của kỳ lân. “Từ bốn trăm năm nay, đại quân chiến đấu trên đất phương Tây”, ông nói. “Trời ghét cảnh đầu rơi máu chảy nên đã đưa Giác thụy ra cảnh báo chúng ta. Hãy vì trời mà gìn giữ sơn hà; chính điều đó sẽ đem lại sung sướng vô biên.” Và Thành Cát Tư Hãn gạt bỏ mọi kế hoạch đánh chiếm.’
Phương Đông và phương Tây có quan điểm khác biệt đến thế về cùng một con vật. Đối với phương Đông nó là yên ổn và hòa bình, còn phương Tây nhìn thấy trong nó sự hung hãn và nhục cảm. Nhưng dù thế nào đi nữa, thú một sừng là một con vật hư cấu, và chính vì bản chất hư cấu ấy mà người ta gán cho nó những ý nghĩa trọng đại tùy theo ý thích.”
“Thực sự không có loại thú một sừng nào hay sao?”
Trang 70/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
“Trong giống cá heo có một loài tên là kỳ lân biển, nhưng kỳ thực nó không mang một cái sừng, mà chỉ là một cái răng hàm trên mọc trên đầu, dài chừng hai thước rưỡi, thẳng tắp và xoắn ốc quanh trục. Tuy vậy kì lân biển là một loài động vật có vú đặc biệt sống dưới biển, thời Trung Cổ có lẽ người ta không bao giờ nhìn thấy. Trong các giống loài vô cùng phong phú của động vật có vú từng xuất hiện và lại biến mất hồi Đại Trung sinh có không ít con trông giống kỳ lân. Ví dụ như trong đoạn này...” Cô cầm cuốn Khảo cổ động vật lên và giở tới một trang ở phần ba cuối sách. “Có hai loài nhai lại sống ở lục địa Bắc Mỹ hồi Đại Trung sinh, nghĩa là vào khoảng hai mươi triệu năm trước. Hình bên trái là con cyntetokerus, bên phải là con curanokerus, cả hai con đều có ba sừng, nhưng trong đó một sừng đứng riêng hẳn.”
Tôi cầm lấy quyển sách để xem minh họa. Cyntetokerus trông như lai giống giữa một con ngựa nhỏ và hươu, nó có hai sừng như bò và một sừng dài trên mõm, đầu tẽ hình chữ Y. So với nó thì hộp sọ của curanokerus tròn hơn, nó mang cặp sừng như hươu, nhưng còn thêm một cái sừng dài, nhọn, chĩa ra phía sau, đầu uốn cong. Cả hai con thú trông khá buồn cười một cách khó tả.
“Cuối cùng thì các giống vật ấy có số sừng lẻ hầu như tuyệt chủng gần hết”, cô nói và lấy lại sách. “Động vật có một sừng hay số sừng lẻ, nếu ta xét riêng động vật có vú, một là cực hiếm, hai là ngoại lệ tiến hóa, hoặc nói ngược lại, chúng là những đứa con hoang của lịch sử phát triển. Ngoài mảng động vật có vú ra, ví dụ như loài khủng long, cũng có động vật ba sừng, nhưng đó là ngoại lệ tuyệt đối. Cái sừng, xét cho cùng, là một vũ khí lợi hại, nhưng ba cái thì thừa. Anh hãy tưởng tượng ra cái dĩa: càng nhiều răng thì chọc càng khó. Và khi một trong các sừng chạm phải vật cứng thì xét riêng về cơ học có thể không sừng nào đâm vào đối thủ được cả. Khi con thú ba sừng của chúng ta phải chống lại nhiều kẻ tấn công thì rất khó xiên vào một con rồi lại rút sừng ra để quay sang con khác.”
“Trở lực lớn hơn, mất thời gian hơn”, tôi nói.
“Chính xác”, cô nói và ấn ba ngón tay vào ngực tôi. “Đó là nhược điểm của nhiều sừng. Định lý số một: một hay hai sừng sẽ hữu hiệu hơn ba sừng hoặc nhiều hơn. Giờ thì ta xét đến nhược điểm của loài một sừng. Nhưng có lẽ trước đó em cho anh thấy tại sao hai sừng lại cần thiết. Lợi thế đầu tiên là phù hợp với sự đối xứng phải-trái của cơ thể con vật. Mô hình hành vi của mọi động vật đều dựa trên sự cân bằng phải-trái, đồng nghĩa với việc chia lực sang hai nửa. Mũi và vòi có hai lỗ, và thực tế là mồm cũng hoạt động theo hai nửa đối xứng phải-trái. Rốn thì chỉ là một, song đó là một cơ quan bị thoái hóa.”
“Dương vật thì sao?”
“Dương vật và âm hộ hợp thành một đôi. Như bánh mì và xúc xích.”
“Ra thế”, tôi nói. Ra thế đấy.
“Quan trọng hàng đầu là mắt. Cả khi tấn công lẫn phòng thủ, đôi mắt là bộ chỉ huy, do vậy sừng càng gần mắt càng tốt. Ví dụ điển hình nhất là con tê giác. Về nguyên tắc, nó là thú một sừng, nhưng cận thị nặng. Nguyên nhân vì nó chỉ có một sừng. Một dạng quái thai. Dù có nhược điểm ấy nó vẫn sống sót đến hôm nay vì nó là loài ăn cỏ và có lớp giáp kiên cố. Hầu như nó không cần tự vệ. Về mặt này và cũng về hình thể, tê giác giống như khủng long ba sừng. Thú một sừng thì, như ta thấy trong ảnh, rõ ràng không thuộc vào nhóm này. Nó không có giáp bọc, nó hoàn toàn... nói thế nào nhỉ...”
Trang 71/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
“Yếm thế”, tôi nói.
“Đúng thế. Như một con nai. Nếu lại còn cận thị nữa thì cầm bằng cái chết. Khứu giác và thính giác có thể phát triển đến mấy cũng vô dụng, một khi bị cắt đường tháo chạy thì thú một sừng hết đời. Tấn công một con thú một sừng cũng dễ như dùng súng bắn tỉa siêu hạng để hạ một con vịt què. Một nhược điểm nữa của thú một sừng là, nếu sừng hỏi thì toi. Tựa như đi ô tô qua sa mạc mà không đem lốp dự trữ vậy. Anh hiểu ý em chứ?”
“Hiểu.”
“Thêm một điểm yếu nữa: khó lấy đà để húc. Anh hãy tưởng tượng ra răng cửa và răng hàm. Rất khó đợp mạnh bằng răng hàm, phải không? Như em đã nhắc đến, đó là vấn đề của sự cân bằng. Người ta cần trọng lượng dồn vào tứ chi, càng bơm nhiều sức vào đó thì toàn cơ thể càng ổn địn. Giờ thì anh hiểu tại sao cấu trúc thú một sừng nhiều khiếm khuyết rồi chứ?”
“Hoàn toàn rõ rồi”, tôi nói. “Em biết cách giải thích rất giỏi.”
Mặt cô rạng rỡ. Cô miết ngón tay lên ngực tôi. “Nhưng đó chưa là tất cả. Về lý thuyết, thú một sừng luôn có một tình huống rất khó thoát khỏi họa diệt chủng và tiếp tục sống sót. Đó là điểm quan trọng nhất. Tình huống nào, anh có biết không?”
“Nó không có kẻ thù tự nhiên”, tôi nói.
“Tuyệt vời”, cô nói và thưởng luôn một nụ hôn. “Được, vậy anh hãy cho em biết một điều kiện để tránh được kẻ thù tự nhiên.”
“Môi trường sống của thú một sừng phải được cách biệt, không để các loài vật khác xâm nhập vào”, tôi nói. “Ví dụ như trên một cao nguyên, như trong Thế giới đã mất của Conan Doyle, hay dưới một thung sâu. Hoặc được vách đá thật cao vây quanh, như dưới đáy của miệng núi lửa.”
“Khá lắm”, cô nói và gõ ngón tay vào vùng tim tôi. “Hiện nay có những ghi chép về việc phát hiện một chiếc đầu lâu thú một sừng, và hiện trường có các điều kiện đúng như anh nói.”
Bất giác tôi nghẹn cổ một cách vô thức, tôi đã tiến gần tâm điểm của sự kiện.
“Chiếc đầu lâu ấy được tìm thấy hồi 1917 ở mặt trận Nga. Vào tháng Chín. Một tháng trước khi nổ ra Cách mạng tháng Mười, trong Chiến tranh Thế giới thứ Nhất. Dưới thời nội các Kersenski. Ngay trước khi phái Bolsevich ra tay hành động. Một người lính ở mặt trận Ucraina bắt được chiếc đầu lâu trong khi đào công sự. Anh ta cho là một cái đầu lâu bò hay tuần lộc gì đó và quẳng đi. Thiếu chút nữa thì nó lại tiếp tục bị chôn vùi trong bóng đêm lịch sử, nếu không có một viên đại úy đi qua. Viên sĩ quan này chỉ huy đơn vị của anh lính nọ và là nghiên cứu sinh ngành sinh học tại Đại học Tổng hợp Petrograd. Anh ta đem đầu lâu về hầm mình để nghiên cứu kỹ lưỡng và phát hiện ra nó khác tất cả những đầu lâu động vật mà anh đã từng thấy. Anh báo tin đó ngay cho trưởng khoa Sinh học ở Đại học Tổng hợp Petrograd và xin cử một toán chuyên gia, nhưng họ không bao giờ xuất hiện. Cũng chẳng lạ: nước Nga ngày ấy đang đảo điên, mặt trận thiếu lương thực, đạn dược, thuốc men, lính tráng làm binh biến khắp nơi, quả không phải là điều kiện để một toán chuyên gia tới đó nghiên cứu. Và nếu có đến chăng nữa thì họ cũng chẳng có đầu óc và thì giờ để nghiên cứu cẩn thận. Quân Nga đang thua liểng xiểng hết trận này đến trận khác, hỏa tuyến ngày càng bị đẩy lùi về phía sau, và quân Đức tràn tới lấp chỗ
Trang 72/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
trống ngay.”
“Viên đại úy thì sao?”
“Tháng Mười một năm đó người ta treo cổ anh ta lên cột điện báo. Từ Ucraina đến Matxcơva người ta trồng san sát các cột ấy để duy trì liên lạc, hầu hết các sĩ quan nguồn gốc tư sản đều bị treo cổ lên đó. Viên đại úy cũng chung số phận, mặc dù chỉ là một nghiên cứu sinh và không dính dáng gì đến chính trị cả.”
Tôi hình dung ra bình nguyên Nga bao la với dãy cột điện báo, dưới mỗi cột treo cổ một sĩ quan.
“Nhưng ngay trước khi phe Bolsevich giành được chính quyền, anh ta đã kịp trao đầu lâu cho một người lính đáng tin cậy được chuyển về tuyến sau vì trúng thương, gợi ý sẽ thưởng cho anh ta một khoản hậu hĩnh nếu đem về nộp cho một giáo sư ở Đại học Tổng hợp Petrograd. Sau khi rời bệnh xá, mãi đến tháng Hai năm sau người lính mới đến được trường, nhưng vào thời điểm ấy trường đã bị đóng cửa. Sinh viên đang hăm hở làm cách mạng, đa số giáo sư đã trốn hay bị sa thải, chẳng ai nghĩ ngôi trường sẽ được mở lại nữa. Người lính quyết sau này sẽ kiếm tiền với cái đầu lâu và gửi nhờ ở nhà anh rể là thợ may yên ngựa ở Petrograd, sau đó đi ba trăm cây số về quê. Vì những lý do mà em không biết, anh ta không bao giờ quay lại Petrograd lần thứ hai, vì vậy mọi người cũng quên luôn chiếc đầu lâu nằm trong kho của xưởng da.
Năm 1935 nó lại ra ánh sáng, khi Petrograd được đổi tên thành Leningrad. Lenin đã mất, Trotsky lưu vong, quyền hành trong tay Stalin. Trong thành phố ít ai còn đi ngựa, ông thợ bán nửa diện tích nhà xưởng đi và mở cửa hiệu bán trang bị khúc côn cầu trong phần nhà sót lại.”
“Khúc côn cầu?”, tôi hỏi. “Ở Liên Xô của thập niên ba mươi?”
“Em làm sao biết được? Trong sách nói thế. Nhưng Leningrad thời hậu cách mạng khá hiện đại, tại sao không có người chơi khúc côn cầu?”
“Thôi được”, tôi nói.
“Dù sao đi nữa, ông thợ da phải dọn kho và mở cái hộp mà ông em rể gửi lại từ năm 1918. Trên cùng là bức thư gửi cho vị giáo sư ở Đại học Tổng hợp Petrograd, trong đó nhờ thưởng xứng đáng cho người chuyển thư. Tất nhiên ông thợ da đến Đại học Tổng hợp – bấy giờ đã mang tên Đại học Tổng hợp Leningrad, tất nhiên – và xin vào gặp giáo sư. Ông này lại là người Do Thái và đã bị đày đi Siberia sau khi Trotsky bị hạ bệ. Giờ thì ông thợ da chẳng còn ai để xin trả công nữa, bụng bảo dạ, cứ giữ nó lại cho hậu thế thì cũng chẳng được xu nào, và tìm một ông giáo sư sinh học khác, kể ngọn ngành câu chuyện rồi trao lại cho trường cái đầu lâu để được vài đồng như bố thí.”
“Ít nhất thì sau mười tám năm, cái đầu lâu cũng đến được trường đại học”, tôi nói.
“Anh để em kể xong đã”, cô nói. “Ông giáo sư này xoay ngang xoay dọc và săm soi cái đầu lâu cho đến khi rút ra kết luận hệt như viên đại úy trước đó mười tám năm – không thể xếp con vật này vào một loài đã biết hoặc ít nhất được dự đoán là đã từng tồn tại. Hình dáng đầu lâu thì tương ứng nhất với hươu, xem hàm răng thì biết nó là loài móng guốc ăn cỏ, hai má có vẻ dày hơn hươu. Khác biệt rõ nhất giữa loài này với hươu, không nghi ngờ gì, là cái sừng mọc giữa trán. Nói ngắn gọn, đó là một con thú một sừng.”
Trang 73/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
“Nghĩa là sừng còn dính trên hộp sọ?”
“Vâng, sừng vẫn còn. Tất nhiên không ở dạng ban đầu, chỉ còn một mẩu gốc thôi. Dài khoảng ba phân, phần còn lại đã gãy nhưng mẩu gốc cho phép phỏng đoán là sừng phải dài đến hai mươi phân và thẳng, như sừng linh dương. Đường kính đáy gốc sừng, anh đợi chút, là hai phân.”
“Hai phân”, tôi lặp lại. Đường kính của vết lõm trên cái đầu lâu ông già đưa tôi đo đúng hai phân.
“Petrow – tên ông giáo sư – đi ngay Ucraina với một nhóm trợ lý và nghiên cứu sinh, tổ chức khảo cứu tại địa điểm phát hiện đầu lâu. Tuy không tìm được một đầu lâu thứ hai, nhưng ông lại phát hiện ra một số thực trạng lý thú ở khu vực này. Vùng đồi núi cao trung bình này có tên gọi chung là cao nguyên Voltafil, một trong số những trọng điểm chiến lược hiếm hoi giữa các bình nguyên đơn điệu ở miền Tây Ucraina. Vì vậy trong Chiến tranh Thế giới thứ Nhất, quân Đức và Áo đã có những cuộc giao tranh dai dẳng với quân Nga để giành nhau từng tấc đất. Và trong Chiến tranh Thế giới thứ Hai bom đạn của cả hai phe tàn phá đến biến dạng các quả đồi – nhưng đó là chuyện về sau này. Điểm thu hút sự chú ý của giáo sư Petrow là xương động vật khai quật được ở đây rất khác biệt với các loài động vật địa phương. Từ đó ông lập một giả thuyết, xưa kia đây không phải là cao nguyên, mà có dạng thung lũng với núi bao quanh và là nơi có một số dạng sinh thể đặc biệt sinh sống. Cái mà anh gọi ngắn gọn là thế giới đã mất ấy.”
“Miệng núi lửa?”
“Đúng thế. Một cao nguyên nằm giữa những vách đá dốc đứng. Trải qua hàng trăm nghìn năm, đá lở xuống bồi thành những quả đồi bình thường, và chính trong quá trình ấy, xa cách mọi vận động tiến hóa và mọi kẻ thù tự nhiên, con thú một sừng đã lặng lẽ sống. Cao nguyên có nhiều nguồn nước phong phú, đất đai màu mỡ, về lý thuyết thì giả thuyết này hoàn toàn có cơ sở. Giáo sư Petrow đệ lên Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô một luận án với nhan đề ‘Nghiên cứu các hình thái sinh học ở cao nguyên Voltafil’, với sáu mươi ba minh chứng về trắc địa, sinh học và động vật học cũng như về kỳ lân. Hồi đó là tháng Tám 1936.
Kết quả thật đáng buồn. Không ai thèm quan tâm. Thêm vào đó là Đại học Tổng hợp Matxcơva đang chành chọc với Đại học Tổng hợp Leningrad giành vị trí hàn lâm đầu tàu và cánh Leningrad đang mất đất, vì vậy những công trình nghiên cứu kiểu ‘phi biện chứng’ bị quẳng vào sọt rác. Nhưng không ai dám phủ nhận sự tồn tại của thú một sừng: vì nó không phải là giả thuyết, mà hiển hiện hai năm rõ mười. Vậy là một loạt chuyên viên nghiên cứu cái đầu lâu một năm liền, cho đến khi họ buộc phải đi đến kết luận rằng đây không phải là đồ rởm, mà là sương sọ của một con thú một sừng, chuyện rõ như ban ngày. Cuối cùng thì một tiểu ban trong Viện Hàn lâm Khoa học tuyên bố, đây là đầu lâu của một con hươu có dị tật, chẳng có ý nghĩa gì về lịch sử tiến hóa, vô giá trị để trở thành đề tài nghiên cứu khoa học. Họ gửi về Đại học Tổng hợp Leningrad trả cho giáo sư Petrow. Chấm hết.
Giáo sư Petrow thì kiên tâm đợi gió xoay chiều, mong có ngày kết quả nghiên cứu khoa học của ông được công nhận, nhưng rồi hy vọng này cũng tắt ngóm với sự kiện Đức tấn công Liên Xô năm 1941. Petrow qua đời năm 1943 trong tuyệt vọng. Chiếc đầu lâu bị thất tán năm 1941 trong trận giao tranh ở Leningrad. Trường Đại học Tổng hợp bị san thành bình địa bởi đạn Đức và bom Nga, nói gì đến chuyện đi tìm một cái đầu lâu thú vật. Đó là thời điểm mà bằng chứng
Trang 74/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
duy nhất về sự tồn tại của thú một sừng tan thành mây khói.”
“Nghĩa là không còn bằng chứng nào cả?”
“Không, ngoài các hình ảnh.”
“Hình ảnh?”
“Vâng, ảnh chụp đầu lâu. Giáo sư Petrow đã chụp gần một trăm bức. Một số đã thoát khỏi khói lửa chiến tranh và nghe nói là nằm trong kho lưu trữ của Đại học Tổng hợp Leningrad. Đây là một trong những bức ảnh ấy.”
Cô trao sách cho tôi, và tôi nhìn bức hình cô chỉ cho. Tương đối mờ, nhưng đủ nhận ra hình đầu lâu. Nó nằm trên mặt bàn phủ khăn trắng, cạnh một đồng hồ đeo tay để so sánh kích thước. Một khoanh tròn trắng vẽ lên giữa đầu lâu đánh dấu vị trí gốc sừng. Không nghi ngờ gì, đây là một đầu lâu cùng kiểu với đồ vật mà ông già cho tôi. Giống tuyệt đối – ngoài chuyện tiêu bản của tôi thiếu sừng. Tôi nhìn lên chiếc đầu lâu trên nóc ti vi. Nhìn từ xa, chiếc đầu lâu phủ T-Shirt trông như con mèo ngủ. Tôi suy tính có nên cho cô biết tôi đang sở hữu cái đầu lâu ấy, nhưng rốt cuộc lại thôi. Một bí mật càng bí mật hơn nếu ít người biết.
“Chiếc đầu lâu ấy có thực sự bị phá hủy trong chiến tranh?”, tôi hỏi.
“Ai biết được”, cô vừa nói vừa lấy ngón tay xoắn lọn tóc trên trán. “Trong sách nói, chiến sự rất ác liệt, từng khu phố của Leningrad lần lượt bị san bằng, và khu phố của trường đại học thuộc những vị trí bị tàn phá nặng nhất. Dĩ nhiên không thể loại trừ khả năng giáo sư Petrow đã đem nó đi giấu trước khi chiến sự nổ ra, hoặc bọn Đức lấy làm chiến lợi phẩm... Dù thế nào thì từ đó trở đi không ai nhìn thấy nó nữa.”
Tôi xem bức hình lần nữa rồi gấp sách lại, đặt ra đầu giường. Tôi suy nghĩ một hồi, liệu chiếc đầu lâu trên nóc ti vi kia có chính là tiêu bản mà người ta từng cất giữ ở Leningrad, hay của một con thú một sừng khác được khai quật ở nơi nào khác. Đơn giản nhất là hỏi trực tiếp ông già, ông đã sở hữu nó từ lâu. Và vì sao ông đem tặng tôi. Đằng nào thì tôi cũng phải đến tìm ông lần nữa để nộp các kết quả đã xáo trộn thành chuỗi số ngẫu nhiên, khi ấy tôi sẽ hỏi ông. Cho đến lúc đó thì vắt óc làm gì cho mệt.
Trong lúc tôi ngẫm nghĩ và nhìn lên trần nhà, cô gái đặt đầu lên ngực tôi và rúc sát vào tôi. Tôi vòng tay ôm cô. Sau khi gấp lại Chương về thú một sừng, tôi thấy trong người khỏe khoắn hơn một chút, tuy rằng tâm trạng ấy không lây sang dương vật. Dường như không để ý nó cương hay không, cô vẽ bằng ngón tay cơ man những họa tiết vẩn vơ lên bụng tôi.
Trang 75/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
Chương 10
Tường Thành
Vào một chiều nhiều mây, khi tôi đến túp lều của ông gác cổng thì bóng tôi đang mải giúp ông sửa chiếc xe cút kít. Họ đẩy nó ra bãi trống, tách những tấm ván cũ ở đáy và bên thành ra để thay mới. Ông gác cổng thành thạo bào ván trong khi bóng lấy búa đóng đinh. Có lẽ thể trạng của nó không thay đổi mấy từ khi chúng tôi tách khỏi nhau. Ít nhất là về cơ bắp thì không, nhưng các cử động của nó có vẻ hơi gượng, và quanh mắt xuất hiện những nếp nhăn phiền não.
Khi tôi lại gần, cả hai dừng tay ngẩng lên.
“Có chuyện gì?”, ông gác cổng hỏi.
“Tôi muốn nói chuyện một phút với ông”, tôi nói.
“Tôi sắp xong rồi, cứ vào nhà đi, tôi vào ngay”, ông gác cổng nói, mắt vẫn nhìn xuống tấm ván đang bào. Bóng nhìn thoáng về phía tôi rồi lập tức quay lại làm việc. Hình như nó giận tôi lắm.
Tôi đi vào nhà, ngồi ở bàn đợi ông gác cổng. Mặt bàn bừa bộn như mọi khi. Ông gác cổng chỉ dọn dẹp khi sắp mài dao. Chén đĩa bẩn, tẩu thuốc, bột cà phê và vỏ bào – mọi thứ ngổn ngang bừa bãi. Chỉ có những con dao trên giá là thành hàng thành lối.
Mãi vẫn không thấy ông gác cổng vào. Tôi tì cùi tay vào lưng ghế và ngán ngẩm ngó lên trần. Ở thành phố này người ta luôn có quá nhiều thì giờ. Nhiều phát điên lên được. Và người ta tự động nghĩ ra nhiều cách đặc biệt để giết thời gian.
Bên ngoài vẫn vang tiếng bào và đóng đinh.
Rồi thì cửa cũng mở ra – nhưng người đi vào không phải là ông gác cổng, mà là bóng tôi. “Tôi không có nhiều thì giờ”, bóng nói khi đi ngang mặt tôi, “tôi chỉ vào kho lấy đinh.” Bóng biến sau cánh cửa cuối phòng, lấy hộp đinh ra.
“Nghe này”, bóng nói trong khi kiểm tra độ dài của đinh trong hộp. “Thứ nhất: cậu vẽ bản đồ thành phố, nhưng không theo các dữ kiện người khác đưa cho, mà cậu phải tự đi khắp nơi và vẽ những gì mắt cậu nhìn thấy lên giấy. Tất cả. Không bỏ bất cứ chi tiết nhỏ nhất nào.”
“Thế thì lâu lắm”, tôi nói.
“Cho cậu thời gian đến hết mùa thu. Rồi cậu đem đến đây cho tôi”, bóng hấp tấp nói. “Thứ hai: tôi cần chú thích đi kèm. Cậu phải ghi chép thật chính xác vị trí của tường thành, Rừng Đông, điểm chảy vào và chảy ra của sông. Xong, rõ chưa?”
Nói xong bóng đã lại biến qua cửa, không nhìn tôi lấy một lần. Khi bóng ra khỏi, tôi nhẩm lại những gì bóng nói: vị trí tường thành, Rừng Đông, điểm sông chảy vào và chảy ra. Vẽ bản đồ là một sáng kiến khá hay. Tôi sẽ làm quen cả thành phố và dùng thời gian một cách có ý nghĩa.
Trang 76/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
Nhưng thích nhất là tôi vẫn được bóng tin tưởng.
Một lúc sau ông gác cổng vào. Ông lấy khăn lau mồ hôi và tay bẩn rồi ngồi phịch xuống ghế đối diện.
“Nào, có chuyện gì?”
“Tôi muốn đến thăm bóng.”
Ông gác cổng gật gù vài lần, nhồi tẩu thuốc và đánh diêm châm.
“Bây giờ thì chưa được”, ông nói. “Rất tiếc vì còn sớm quá. Cậu phải đợi tới khi ngày ngắn đi. Lúc ấy thì không sao.” Trong khi nói chuyện, ông bẻ gập que diêm tàn và ném nó vào cái đĩa trên bàn. “Cũng tốt hơn cho cậu, cứ tin tôi. Cứ thân thiện với bóng nhiều quá chỉ tổ đẻ ra lắm vấn đề. Tôi đã chứng kiến khối chuyện rồi. Tôi nói vậy là muốn tốt cho cậu thôi, hãy kiên nhẫn một ít lâu nữa.”
Tôi chỉ im lặng gật đầu. Đằng nào ông cũng chẳng chiều tôi, và tôi thì cũng chớp nhoáng bắt liên lạc được với bóng. Giờ thì tôi có thể yên tâm đợi ông gác cổng cho mình một cơ hội mới.
Ông nhỏm dậy đi ra bồn rửa mặt và uống liền mấy cốc sứ to đầy nước.
“Công việc vẫn ổn chứ?”
“Cũng tạm. Tôi đang làm quen dần.”
“Thấy chưa”, ông gác cổng nói. “Cái chính là phải làm việc cho tử tế. Nhàn cư vi bất thiện.” Tôi nghe tiếng bóng đóng đinh bên ngoài.
“Ta đi dạo một lát nào”, ông gác cổng nói. “Tôi chỉ cho cậu xem cái này.”
Tôi theo ông ra ngoài. Bóng của tôi ngồi trên xe và đóng đinh mấy tấm ván cuối cùng lên thành xe. Từ trục xe và bánh, cái xe bây giờ mới tinh.
Ông gác cổng đi chéo qua quảng trường, đưa tôi đến dưới một tháp canh cạnh tường thành. Trời chiều ngột ngạt, mây đen từ phía tây kéo đến. Áo ông gác cổng dính bết mồ hôi trên cơ thể hộ pháp của ông và bốc mùi chua lòm.
“Thế này mới gọi là tường thành chứ”, ông gác cổng đập tay mấy lần lên tường như âu yếm vỗ một con ngựa. “Cao bảy thước và bao quanh toàn thành phố. Chỉ có chim chóc mới vượt qua nổi. Không có lối nào ra vào trừ cổng thành kia. Ngày xưa còn có Cửa Đông, bây giờ xây bít lại rồi. Tường xây bằng gạch sành, nhưng không phải gạch thường, nhìn đây này! Không ai có thể phá hỏng hay chỉ cào xước được nó. Kể cả thần công, động đất hay cuồng phong!”
Ông vừa nói vừa nhặt một thanh gỗ dưới đất và rút dao ra đẽo. Dao ăn vào gỗ như cắt giấy, chẳng mấy chốc đã hiện hình một cái chêm.
“Cậu xem đây”, ông gác cổng nói. “Không có mạch vữa giữa các viên gạch – loại gạch này không cần thứ đó, người ta đặt khít nhau đến mức không còn chỗ cho một sợi tóc.” Ông lấy đầu nhọn của chêm gỗ quét dọc mạch nối, nhưng không ấn vào được lấy một li. Ông vứt nó đi, cạo mũi dao lên gạch. Không để lại một vết xước nào, chỉ có tiếng kin kít chói tai. Ông ngắm mũi
Trang 77/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
dao và đút trở lại vào vỏ.
“Không người nào và không thứ gì có thể để lại một vết xước trên tường thành. Cũng không ai trèo lên nổi. Vì sao? Vì đây là một tường thành hoàn hảo. Cậu hãy ghi nhớ. Không ai ra được khỏi đây. Có ý nghĩ ngu xuẩn nào trong đầu thì quẳng nó đi.”
Ông đặt bàn tay hộ pháp lên vai tôi.
“Tôi cũng biết là không đơn giản cho cậu, nhưng nói cho cùng thì ai ai cũng phải trải qua một lần. Cậu cũng thế. Nhưng sau đó đến sự siêu thoát, Không còn trăn trở, không ngờ vực, không đau khổ - tất cả biến mất trong nháy mắt và trở nên vô nghĩa. Đây là chốn tận cùng thế giới. Thế giới chấm dứt ở đây, không còn đường nào đi tiếp nữa. Cả cậu cũng không đi đâu được nữa”, ông vỗ vai tôi lần nữa.
Trên đường về, khoảng đến giữa Cầu Cũ, tôi tựa lên thành cầu và ngắm dòng nước, ngẫm nghĩ lời ông gác cổng.
Tận cùng thế giới.
Nhưng tại sao tôi đã quay lưng lại với quá khứ và đến chốn tận cùng thế giới này? Tôi cố hết sức mà không nhớ lại được các tình huống, ý nghĩa và mục đích. Một cái gì đó, một thế lực nào đó đã đưa tôi tới chốn này. Một thế lực vô nghĩa và hùng mạnh nào đó. Vì nó mà tôi mất bóng mình và trí nhớ của mình, và đang sắp mất cả tâm hồn.
Dưới chân tôi nước chảy róc rách. Cây liễu trên bãi cát bồi rủ cành chấm xuống nước và thanh thản đung đưa trong dòng chảy. Nước sạch và trong vắt. Ở một quãng lặng dưới chân vách đá có thể thấy cá. Nhờ ngắm sông trôi mà tôi lấy lại được sự yên tĩnh nội tâm. Một sự cứu rỗi luôn kiến hiệu.
Có một cầu thang từ cầu xuống bãi bồi. Dưới bóng liễu là một chiếc ghế băng, cạnh đó thường có vài con vật uể oải nằm nghỉ. Tôi hay trèo xuống đó và đem cho chúng mấy mẩu bánh mì nhét trong túi quần. Thoạt tiên chúng nhát, nhưng rồi chúng lại vươn cổ ra và ăn bánh mì trên tay tôi. Cũng chỉ những con thật già và thật nhỏ mới ăn trên tay tôi.
Mùa thu càng dài, một nỗi buồn nào đó càng ngập đầy mắt chúng, những đôi mắt trông như hồ thẳm. Tán lá đổi màu và cây cỏ héo khô báo cho những con vật sắp bắt đầu một thời kỳ đói nghiệt ngã lê thê. Và như ông già tiên đoán, cả tôi cũng đứng trước một thời kỳ nghiệt ngã lê thê.
Trang 78/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
Chương 11
Mặc Quần Áo, Hỗn Độn
Kim đồng hồ chỉ chín rưỡi, cô gái dạy thu áo quần vương vãi trên nền nhà và chậm rãi mặc vào. Tôi nằm chống một tay lên giường và ngắm cô qua khóe mắt. Không một động tác thừa và uyển chuyển như con mèo, cô mặc từng thứ một, nhẹ nhàng, im lặng. Cô kéo khóa váy lên, từ từ cài khuy áo từ trên xuống, sau đó ngồi xuống mép giường và đi tất. Rồi cô hôn lên má tôi. Nhiều phụ nữ có cách cởi quần áo vô cùng quyến rũ, nhưng phụ nữ có cách mặc quần áo cũng quyến rũ như thế thì hiếm hơn. Khi cô mặc xong và lấy tay vuốt mái tóc dài ra phía sau, không khí trong phòng như thay đổi/
“Cảm ơn anh mời ăn”, cô nói.
“Anh cảm ơn em mới phải”, tôi nói.
“Bao giờ anh cũng nấu nhiều như thế à?”, cô hỏi.
“Nếu không quá bận”, tôi nói. “Khi nào bận việc thì anh không nấu. Anh ăn những gì còn trong bếp hoặc ra nhà hàng.”
Cô ngồi xuống ghế, lấy thuốc lá trong túi ra, châm một điếu. “Em hầu như không bao giờ tự nấu cho mình. Em không thích làm bếp. Với lại chỉ nghĩ đến lúc về nhà sau bảy giờ tối và phải nấu một đống đồ rồi ăn sạch chỗ ấy là em đã ngán tận cổ. Lúc ấy có cảm giác là người ta chỉ sống để ăn thôi, anh có thấy thế không?”
Tôi nói, nghe cũng có lý.
Trong khi tôi mặc quần áo, cô lấy một cuốn sổ tay trong túi ra và viết gì đó bằng bút bi, xé trang sổ ra đưa tôi. “Số điện thoại của em”, cô nói. “Nếu anh muốn gặp em hay có nhiều đồ ăn hay bất cứ chuyện gì thì gọi em. Em sẽ đến.”
Khi cô đi khỏi nhà với ba quyển sách thư viện về động vật có vú, căn phòng đột nhiên im ắng lạ thường, im ắng đến khó chịu. Tôi đi ra trước ti vi, lấy T-Shirt xuống và ngắm nghía chiếc đầu lâu thú một sừng lần nữa. Và tôi có cảm tưởng rằng nó chính là chiếc đầu lâu bí ẩn mà viên đại úy bộ binh xấu số ở mặt trận Ucraina nhặt được, cho dù không hề có một minh chứng nhỏ nhoi nào. Tôi càng ngắm lâu thì càng tin chắc vào một dạng nghiệp chướng bao phủ quanh nó. Có thể do tôi vừa nghe xong câu chuyện nên tưởng tượng ra quá nhiều chăng. Không có chủ ý rõ rệt, tôi nhấc chiếc kẹp bằng thép lên và gõ nhẹ vào cái đầu lâu.
Sau đó tôi rửa cốc chén và lau bàn bếp. Đã đến lúc lập dãy số ngẫu nhiên. Để không bị quấy rầy, tôi bật máy trả lời điện thoại, cắt chuông cửa và tắt hết ánh sáng trong nhà, chỉ bật mỗi đèn cây trong bếp. Công việc này đòi hỏi phải tập trung cao độ ít nhất hai tiếng liền.
Mã số cho danh mục ngẫu nhiên của tôi là “Tận cùng thế giới”. “Tận cùng thế giới là tiên đề của một kịch bản mang tính cá nhân sâu sắc, trên cơ sở kịch bản này, tôi tiến hành chuyển hoán các số đã được sửa sang ngôn ngữ máy tính. Tất nhiên, “kịch bản” này không giống chút nào những
Trang 79/311 http://motsach.info
Xứ Sở Diệu Kỳ Tạn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới Haruki Murakami
thứ ta vẫn thấy trên ti vi hay ở nhà hát. Mọi chuyện xảy ra hỗn độn, không theo một mạch truyện nào. Cái tên “kịch bản” chẳng có gì khác một danh hiệu đặt tạm vì lý do tiện lợi. Nội dung vở này là gì thì tôi không rõ, người ta không báo cho tôi biết. Tôi chỉ biết đầu đề là “Tận cùng thế giới”. Không biết gì hơn.
Các nhà khoa học của Hệ thống đã ấn định kịch bản này. Sau một năm học khóa dự bị và đỗ kỳ sát hạch toán sư cuối cùng, người ta đã cho tôi vào máy đông lạnh hai tuần. Trong thời gian này, họ khám nghiệm các sóng não của tôi, tách ra một thứ có thể gọi là “lõi ý thức hệ” và biến nó thành vở kịch mã số để tạo ra các dữ liệu tình cờ, sau đó cấy lại vào não. Qua đó ý thức hệ của tôi hoàn toàn biến thành một cơ cấu kép. Một mặt thì tổng ý thức hệ tồn tại như một sự hỗn độn, mặt khác thì lõi ý thức hệ cấy vào đó – như hạt trong quả mơ muối – tồn tại trong dạng hỗn độn tích nén.
Nhưng người ta không cho tôi biết hạt nhân ý thức hệ mang nội dung gì.
“Anh không việc gì phải biết”, họ nói. “Khi có nhu cầu, anh có thể kích hoạt lõi đó. Vì kịch bản mã hóa ‘Tận cùng thế giới’ là chính anh. Song anh không được phép biết nội dung vở kịch. Tất cả diễn ra ngay trong một đại dương đầy hỗn độn, và anh ngoi ra khỏi đó với hai bàn tay trắng. Chính sự thiếu vắng đó của ý thức hệ là cái chúng tôi cần. Anh hiểu chứ?”
“Tôi hiểu”, tôi nói.
Sau đó họ dạy tôi cách xáo trộn dữ liệu. Việc này phải làm một mình, trong đêm, bụng không no và không đói. Nghe ba lần liền một âm tiết đã định trước. Bằng cách đó tôi có thể kích hoạt kịch bản “Tận cùng thế giới”. Khi đã kích hoạt rồi, ý thức hệ của tôi sẽ chìm vào hỗn độn. Chìm trong sự hỗn độn ấy, tôi ngồi xáo trộn dữ kiện, làm xong thì “Tận cùng thế giới” bị giải trừ và tôi lại thoát khỏi sự hỗn độn. Việc xáo dữ kiện cũng hoàn thành, và tôi cũng không nhớ gì nữa. Khi sắp xếp dữ liệu đã xáo trộn lại cho đúng tình trạng ban đầu thì đơn giản là làm mọi thứ theo chiều đảo ngược. Âm tiết cũng được đảo ngược.
Đó là Chương trình người ta đã cấy vào tôi. Tôi chỉ hoạt động như một đường hầm dẫn đến cõi vô thức. Tất cả diễn biến thông qua một mình tôi. Vì vậy khi xáo dữ liệu tôi luôn có cảm giác yếm thế và phải phơi mình cho mọi công kích. Khác với lúc rửa số. Rửa số thì mất thì giờ và mệt, nhưng trong khi làm việc tôi có thể tự hào về mình vì việc này đòi hỏi sự tập trung sử dụng toàn bộ khả năng của tôi.
Ngược lại, công tác xáo dữ liệu hoàn toàn không dính dáng gì đến khả năng hay có gì đáng tự hào cả. Tôi bị sử dụng. Ai đó sử dụng ý thức hệ của tôi – cái ý thức hệ mà tôi không nhận biết – để xử lý một cái gì đó mà tôi cũng không nhìn thấy. Có cảm giác là khi xáo dữ liệu kỳ thực tôi không được gọi mình là toán sư nữa.
Tất nhiên tôi không có quyền ấn định phương pháp tính toán như mình muốn. Người ta cấp cho tôi hai giấy phép, một cho rửa số và một cho xáo số. Và họ ấn định cách tiến hành công việc. Nếu tôi không thích thì phải đổi nghề. Tôi đâu muốn thế. Trừ phi có vấn đề gì xích mích với Hệ thống và phải ra đi, hầu như không có nghề nào khác cho phép ta phát triển khả năng một cách tự do và độc lập như nghề này, và thu nhập cũng xứng đáng. Sau mười lăm năm có một khoản tiết kiệm đủ để sống phần đời còn lại một cách vô ưu. Vì mục đích ấy, tôi luôn đăng ký tham gia các kỳ sát hạch mà nghe tỷ lệ trượt đã thấy choáng, và đỗ hết. Vì mục đích ấy, tôi đã cắn răng qua các khóa đào tạo nghiệt ngã.
Trang 80/311 http://motsach.info
"""