"Vùng Đất Nam Bộ Tập X: Tiến Trình Hội Nhập Khu Vực Và Thế Giới 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Vùng Đất Nam Bộ Tập X: Tiến Trình Hội Nhập Khu Vực Và Thế Giới Ebooks Nhóm Zalo Chịu trách nhiệm xuất bản GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP PGS. TS. PHẠM MINH TUẤN Chịu trách nhiệm nội dung ỦY VIÊN HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP - XUẤT BẢN TS. VÕ VĂN BÉ Biên tập nội dung: Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Sửa bản in: Đọc sách mẫu: ThS. NGUYỄN THỊ HẢI BÌNH NGUYỄN KIM THANH ThS. NGUYỄN VIỆT HÀ ThS. PHÙNG MINH TRANG NGUYỄN QUỲNH LAN PHÒNG BIÊN TẬP KỸ THUẬT HỒNG THỊNH TRẦN PHAN BÍCH LIỄU Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 2266-2021/CXBIPH/38-23/CTQG. Số quyết định xuất bản: 450-QĐ/NXBCTQG, ngày 29/6/2021. Nộp lưu chiểu: tháng 7 năm 2021. Mã ISBN: 978-604-57-6923-2. BAN BIÊN SOẠN PGS.TS. VÕ VĂN SEN: Mở đầu, Kết luận, Chương II, Chương III PGS.TS. HÀ MINH HỒNG: Chương II PGS.TS. TRẦN NAM TIẾN: Chương I, Chương II PGS.TS. TRẦN THUẬN: Chương I PGS.TS. PHẠM NGỌC TRÂM: Chương III 5 LỜI NHÀ XUẤT BẢN Vùng đất Nam Bộ với tư cách là một không gian địa lý và địa bàn hành chính thân thuộc, thiêng liêng của người dân đất Việt đã trải qua một quá trình hình thành, phát triển lâu dài, được bồi tụ chủ yếu bởi hai con sông lớn: sông Đồng Nai và sông Mékong. Nơi đây cũng đã từng tồn tại, phát tích của nền văn hóa Óc Eo và các vương quốc Phù Nam, Chân Lạp phát triển huy hoàng rồi suy tàn theo năm tháng. Từ thế kỷ XVII, người Việt từ miền Bắc và miền Trung đã vào đây khai phá, dựng làng, lập ấp cùng với người dân bản địa chinh phục vùng đất hoang vu nhưng rất trù phú này. Đến thế kỷ XVIII, từ tầm nhìn chiến lược và công lao to lớn của các chúa Nguyễn, sau này là vương triều Nguyễn, xác lập, sắp đặt các đơn vị hành chính, vùng đất phương Nam giàu có chính thức thuộc chủ quyền của dân tộc Việt Nam, đến nay đã được hơn 300 năm. Vùng đất Nam Bộ với cương vực như hiện nay bao gồm cả Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ - đồng bằng sông Cửu Long, có 17 tỉnh và hai thành phố trực thuộc Trung ương, diện tích tự nhiên hơn 64.000 km2, dân số hơn 33 triệu người với nhiều tộc người tụ cư sinh sống, gồm các dân tộc ít người bản địa, các dân tộc thiểu số từ Trường Sơn - Tây Nguyên xuống, từ các tỉnh miền núi phía Bắc vào, một số ít người từ các nước khác đến, nhưng chủ yếu là địa bàn của người Kinh, người Hoa, người Khmer, người Chăm. Về mặt địa lý, nhìn từ Bắc vào Nam, Đông Nam Bộ giáp cực Nam Trung Bộ từ tỉnh Ninh Thuận, giáp Trường Sơn - Tây Nguyên từ các tỉnh Lâm Đồng, Đắk Nông; có đường biên giới trên đất liền với Campuchia từ Bình Phước tới Hà Tiên; có đường bờ biển trải dài từ Ninh Thuận tới đất mũi Cà Mau (Biển Đông) và từ mũi Cà Mau đến Hà Tiên (biển Tây - vịnh Thái Lan). Nằm ở ngã ba đường giao thông quốc tế, Nam Bộ có vị trí địa - kinh tế, địa - chính trị cực kỳ quan trọng. 6 VÙNG ĐẤT NAM BỘ X TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI Với tư cách một vùng đất giàu trầm tích văn hóa, đa dạng tộc người, đa tôn giáo, giàu tiềm năng và có vị trí chiến lược trọng yếu, từ lâu Nam Bộ đã là đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong nước và ở nước ngoài, nhiều hội thảo khoa học về vùng đất này đã được tổ chức, nhiều công trình khoa học trên các lĩnh vực đã được công bố, nhưng cho đến nay vẫn thiếu một công trình có tầm vóc, quy mô lớn nghiên cứu toàn diện, liên ngành để có cái nhìn toàn cảnh, sâu sắc, nhiều chiều cạnh về vùng đất phương Nam này. Để đáp ứng yêu cầu đó, chương trình nghiên cứu tổng thể về vùng đất Nam Bộ dưới dạng một đề án khoa học cấp Nhà nước do GS. Phan Huy Lê làm chủ nhiệm, gồm 11 đề tài khoa học đã được Bộ Khoa học và Công nghệ cho phép triển khai từ năm 2008. Từ những đề tài khoa học nghiên cứu cơ bản này, Ban Chủ nhiệm đề án đã tổ hợp lại thành báo cáo tổng quan Quá trình hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ. Sau 4 năm nghiên cứu, toàn bộ đề án đã được Bộ Khoa học và Công nghệ nghiệm thu và đánh giá đây là chương trình khoa học và công nghệ xuất sắc năm 2011. Mặc dù công trình được đánh giá cao, nhưng khi xuất bản thành sách, các tác giả phải tiếp tục bổ sung, sửa chữa, chỉnh lý trong vòng hơn 3 năm - đến giữa năm 2015 mới chuyển giao bản thảo cho Nhà xuất bản. Sau khi tiếp nhận bản thảo, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật đã huy động một đội ngũ đông đảo biên tập viên, họa sĩ, nhân viên kỹ thuật, tổ chức biên tập, đọc duyệt, thiết kế makét, trình bày trong hơn một năm để công trình khoa học lớn này lần đầu tiên đến tay bạn đọc vào cuối năm 2016 đầu năm 2017. Đây là một công trình khoa học nghiên cứu công phu, nghiêm túc, được tiến hành bởi đội ngũ các nhà khoa học trên nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó Ban Chủ nhiệm đề án và chủ biên của từng đề tài là các chuyên gia hàng đầu trong từng giai đoạn lịch sử cũng như trong các lĩnh vực nghiên cứu. Tuy vậy, ở một vài chương trong bộ tổng quan hoặc từng đề tài, chất lượng nghiên cứu và hàm lượng khoa học không giống nhau, có chương, có tập chưa được như kỳ vọng hoặc yêu cầu nghiên cứu đặt ra. Tất nhiên mỗi đề tài khoa học là công trình độc lập, nhưng khi đặt trong một chỉnh thể thì có đề tài không tránh được sơ lược, dàn trải; có đề tài có một số nội dung đã được trình bày ở các đề tài khác. Vì vậy, Nhà xuất bản đã thống nhất với chủ biên đề nghị các tác giả bổ sung, nâng cấp hoặc cắt LỜI NHÀ XUẤT BẢN 7 bỏ những trùng lặp để bộ sách tuân thủ nghiêm ngặt sự thống nhất trong chỉnh thể. Bộ sách về vùng đất Nam Bộ gồm bộ tổng quan, rút gọn: Vùng đất Nam Bộ - Quá trình hình thành và phát triển, 2 tập và một bộ chuyên khảo sâu gồm 10 tập, nghiên cứu khá toàn diện trên nhiều lĩnh vực của vùng đất phương Nam, từ điều kiện tự nhiên, quá trình lịch sử, dân cư, dân tộc, tôn giáo, thiết chế quản lý xã hội, quá trình Nam Bộ hội nhập với khu vực và quốc tế. Khi triển khai nghiên cứu, tên đề án và tên từng đề tài khoa học rất cụ thể và thường khá dài, nhưng khi xuất bản, Nhà xuất bản đã trao đổi với chủ biên thống nhất bộ sách có tên chung là Vùng đất Nam Bộ. Riêng bộ tổng quan Vùng đất Nam Bộ - Quá trình hình thành và phát triển, ngoài Chương mở đầu và Chương kết có 10 chương nội dung, được kết cấu hoàn chỉnh. Nhưng với dung lượng 1.500 trang sách rất khó dung nạp trong một cuốn sách, cho nên chúng tôi chia thành hai tập: tập I gồm Chương mở đầu và sáu chương nội dung, tập II gồm bốn chương nội dung và Chương kết. Riêng Chương kết, các tác giả dành mục cuối cùng để trình bày đề xuất, kiến nghị của Ban Chủ nhiệm đề án với Đảng, Nhà nước và các cơ quan lãnh đạo, quản lý, chúng tôi tách ra làm phần Phụ lục đặt ở cuối sách. Như vậy kết quả nghiên cứu của đề án được công bố thành các cuốn sách sau đây: - Vùng đất Nam Bộ - Quá trình hình thành và phát triển, gồm 2 tập, GS. Phan Huy Lê chủ biên. - Vùng đất Nam Bộ, tập I: Điều kiện tự nhiên, môi trường sinh thái, TS. Trương Thị Kim Chuyên chủ biên. - Vùng đất Nam Bộ, tập II: Từ cội nguồn đến thế kỷ VII, GS. TSKH. Vũ Minh Giang - Nguyễn Việt đồng tác giả. - Vùng đất Nam Bộ, tập III: Từ thế kỷ VII đến thế kỷ XVI, GS. TS. Nguyễn Văn Kim chủ biên. - Vùng đất Nam Bộ, tập IV: Từ đầu thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX, GS. TS. Nguyễn Quang Ngọc chủ biên. - Vùng đất Nam Bộ, tập V: Từ năm 1859 đến năm 1945, PGS. TS. Đoàn Minh Huấn - PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hà đồng chủ biên. 8 VÙNG ĐẤT NAM BỘ X TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI - Vùng đất Nam Bộ, tập VI: Từ năm 1945 đến năm 2010, PGS.TS. Trần Đức Cường chủ biên. - Vùng đất Nam Bộ, tập VII: Đặc trưng tín ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt văn hóa, GS. TS. Ngô Văn Lệ chủ biên. - Vùng đất Nam Bộ, tập VIII: Thiết chế quản lý xã hội, PGS.TS. Vũ Văn Quân chủ biên. - Vùng đất Nam Bộ, tập IX: Tộc người và quan hệ tộc người, TS. Võ Công Nguyện chủ biên. - Vùng đất Nam Bộ, tập X: Tiến trình hội nhập khu vực và thế giới, PGS.TS. Võ Văn Sen chủ biên. Về mặt xuất bản, bộ sách được biên tập, thiết kế, trình bày thống nhất trong từng tập và trong cả bộ sách, được in ấn đẹp, trang trọng. Xuất bản bộ sách này chúng tôi hy vọng cung cấp cho bạn đọc, các nhà nghiên cứu, học viên, sinh viên các học viện, nhà trường và các nhà lãnh đạo, quản lý, các địa phương, đơn vị một khối lượng tri thức lớn, khá đầy đủ, toàn diện và chân xác về vùng đất Nam Bộ, phục vụ cho công tác học tập, nghiên cứu và hoạch định chính sách ở khu vực trọng yếu, năng động này của đất nước. Bộ sách cũng cung cấp cơ sở lịch sử - pháp lý vững chắc phục vụ cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị. Các tác giả và Nhà xuất bản đã nỗ lực rất cao trong nghiên cứu, biên soạn và biên tập - xuất bản, nhưng với khối lượng công việc đồ sộ, bộ sách khó tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, rất mong được bạn đọc góp ý, phê bình. Xin trân trọng giới thiệu bộ sách quý cùng bạn đọc. Tháng 4 năm 2017 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 9 LỜI GIỚI THIỆU Quá trình hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ là một đề án khoa học xã hội cấp nhà nước do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, được thực hiện trong thời gian từ năm 2008 đến năm 2010 và nghiệm thu vào cuối năm 2011. Đề án gồm 11 đề tài: 1- Điều kiện địa lý tự nhiên, môi trường sinh thái tác động đến tiến trình lịch sử và đặc trưng văn hóa vùng đất Nam Bộ do TS. Trương Thị Kim Chuyên, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh làm Chủ nhiệm. 2- Nam Bộ từ cội nguồn đến thế kỷ VII do GS.TSKH. Vũ Minh Giang, Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, Đại học Quốc gia Hà Nội làm Chủ nhiệm. 3- Nam Bộ từ thế kỷ VII đến thế kỷ XVI do PGS.TS. Nguyễn Văn Kim, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội làm Chủ nhiệm. 4- Nam Bộ từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX : Quá trình khai phá và xác lập chủ quyền của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ do GS.TS. Nguyễn Quang Ngọc, Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, Đại học Quốc gia Hà Nội làm Chủ nhiệm. 5- Nam Bộ từ khi Pháp xâm lược Việt Nam đến năm 1945 do PGS.TS. Đoàn Minh Huấn, Học viện Chính trị hành chính khu vực I làm Chủ nhiệm. 6- Nam Bộ từ năm 1945 đến năm 2010 do PGS.TS. Trần Đức Cường, Viện Sử học Việt Nam làm Chủ nhiệm. 7- Đặc trưng tín ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt văn hóa của cư dân Nam Bộ do GS.TS. Ngô Văn Lệ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh làm Chủ nhiệm. 10 VÙNG ĐẤT NAM BỘ X TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI 8- Đặc trưng thiết chế quản lý xã hội ở Nam Bộ do PGS.TS. Vũ Văn Quân, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội làm Chủ nhiệm. 9- Tộc người và quan hệ tộc người ở Nam Bộ - lịch sử và hiện trạng do TS. Võ Công Nguyện, Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ làm Chủ nhiệm. 10- Nam Bộ trong tiến trình hội nhập khu vực và thế giới của Việt Nam do PGS.TS. Võ Văn Sen, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh làm Chủ nhiệm. 11- Nghiên cứu giải pháp nâng cao nhận thức của cán bộ và nhân dân về lịch sử vùng đất Nam Bộ do PGS.TS. Phan Xuân Biên, Viện Nghiên cứu xã hội, Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh làm Chủ nhiệm. Toàn bộ kết quả nghiên cứu của các đề tài được tổng hợp trong một công trình mang tên Quá trình hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ do GS. Phan Huy Lê, Chủ nhiệm đề án, làm Chủ biên. Công trình có một số đề tài nghiên cứu về quá trình lịch sử, nhưng không đơn thuần là lịch sử Nam Bộ. Cùng với các lớp cắt lịch đại theo tiến trình lịch sử, còn có những nghiên cứu trên một số lĩnh vực cơ bản về điều kiện tự nhiên, quan hệ tộc người, thiết chế quản lý xã hội, đời sống văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng, về quá trình xác lập chủ quyền của quốc gia Đại Việt... Trong một số đề tài lịch sử cũng có những yêu cầu làm sáng tỏ một số nội dung quan trọng như đề tài số 2 với yêu cầu nghiên cứu về văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam, đề tài số 4 có yêu cầu nghiên cứu sự xác lập chủ quyền của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ. Đặc biệt từ kết quả nghiên cứu, đề án xác lập một nhận thức mới coi lịch sử vùng đất Nam Bộ không phải bắt đầu khi người Việt vào khai phá từ thế kỷ XVII mà phải ngược về quá khứ xa xưa từ khi con người xuất hiện trên vùng đất phương Nam này. Vùng đất Nam Bộ đã được các nhà khoa học nghiên cứu từ lâu dưới góc độ của nhiều chuyên ngành từ địa chất, địa lý đến khảo cổ học, dân tộc học, nhân học, xã hội học, kinh tế học, văn hóa học và sử học. Đề án một mặt tổng hợp các kết quả nghiên cứu đó, mặt khác nghiên cứu thêm một số nội dung cần thiết nhằm tạo ra một nhận thức tổng hợp về LỜI GIỚI THIỆU 11 toàn bộ quá trình hình thành và phát triển của vùng đất phương Nam này. Đó là cơ sở khoa học để hiểu biết và lý giải những nét độc đáo của không gian lịch sử văn hóa vùng đất Nam Bộ với những trầm tích của nhiều thời kỳ lịch sử, những biến đổi trong cấu trúc tộc người, vai trò và cống hiến của các lớp cư dân - tộc người đã từng sinh sống trên vùng đất này, những đặc trưng về văn hóa, phong cách, lối sống của con người Nam Bộ, quá trình hội nhập của vùng đất Nam Bộ vào lãnh thổ của nước Đại Việt từ thế kỷ XVII-XVIII cho đến cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền và sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước đến ngày nay. Tham gia đề án có hơn một trăm nhà khoa học thuộc một số viện của Viện Khoa học xã hội Việt Nam (nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) và Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, một số khoa và viện của Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và Hội Khoa học lịch sử Việt Nam. Các nhà khoa học tham gia dưới nhiều phương thức như trực tiếp biên soạn, nghiên cứu chuyên đề, điều tra khảo sát điền dã, tham luận trong các hội thảo khoa học. Trong quá trình chuẩn bị xây dựng đề án, Bộ Khoa học và Công nghệ đã phối hợp với Hội Khoa học lịch sử Việt Nam tổ chức ba hội thảo khoa học tại Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Cần Thơ: Văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam (năm 2004), Vùng đất Nam Bộ cho đến cuối thế kỷ XIX (năm 2006), Nam Bộ thời cận đại (năm 2008). Trong quá trình triển khai đề án, Ban chủ nhiệm đề án cùng chủ nhiệm các đề tài còn tổ chức một số hội thảo trao đổi về lịch sử nghiên cứu, phương pháp tiếp cận và một số nội dung cơ bản của đề án như tiến trình lịch sử xã hội, bản sắc văn hóa xã hội. Các bài tham luận trong những hội thảo này đã được Nhà xuất bản Thế giới biên tập và in thành sáu tập1. Kết quả nghiên cứu của Đề án được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật biên tập rất công phu và công bố thành một bộ sách mang tên chung Vùng đất Nam Bộ gồm 11 tập sách. Riêng tập Tổng quan là 1. Văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam, 2008; Lịch sử nghiên cứu và phương pháp tiếp cận, 2008; Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ đến cuối thế kỷ XIX, 2009; Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ thời kỳ cận đại, 2009; Mấy vấn đề tiến trình lịch sử xã hội, 2011; Mấy vấn đề bản sắc văn hóa xã hội, 2011. 12 VÙNG ĐẤT NAM BỘ X TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI Vùng đất Nam Bộ - Quá trình hình thành và phát triển dày đến 1.500 trang chia làm hai tập. So với nội dung của các đề tài có yêu cầu thống nhất lại tên từng tập và sắp xếp lại một số nội dung để tránh trùng lặp. Cách phân tập và bố cục này đã được nói rõ trong Lời Nhà xuất bản. Tập thể các tác giả đã rất cố gắng hoàn thành công trình nghiên cứu nhưng trước một đối tượng nghiên cứu rộng lớn, bao quát nhiều nội dung phong phú, trong đó có những vấn đề mới đang nghiên cứu và thảo luận nên khó tránh khỏi sơ suất. Rất mong nhận được sự quan tâm và đóng góp ý kiến của bạn đọc. Chúng tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành đến Bộ Khoa học và Công nghệ đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc triển khai đề án, cảm ơn Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật đã dày công biên tập và xuất bản toàn bộ công trình khoa học này. . Hà Nội, mùa Hè năm 2016 GS. Phan Huy Lê 13 MỞ ĐẦU Bước vào thập niên 90 của thế kỷ XX, cục diện thế giới có những thay đổi sâu sắc và toàn diện. Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, hòa bình, ổn định, hợp tác để phát triển và ưu tiên cho phát triển kinh tế trở thành xu thế nổi trội. Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, toàn cầu hóa và khu vực hóa phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước càng sâu sắc. Những xu thế đó vừa mở ra cơ hội vừa đòi hỏi các quốc gia tham gia vào các quá trình kinh tế - xã hội trên phạm vi khu vực và thế giới, nhằm tận dụng những điều kiện thuận lợi và không gian cho phát triển, đồng thời đối phó với các thách thức do toàn cầu hóa, khu vực hóa đem lại. Bởi vậy, hội nhập khu vực và thế giới trở thành đòi hỏi khách quan với mọi quốc gia. Trên con đường đổi mới, Việt Nam nhanh chóng nắm bắt xu thế phát triển khách quan này. Việt Nam đã sớm đề ra chính sách, đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước, chủ động hội nhập quốc tế để củng cố môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ hợp tác quốc tế, tận dụng nguồn lực bên ngoài bổ sung cho nội lực, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong quá trình hội nhập với khu vực và thế giới của Việt Nam, các khu vực đều có những đóng góp rất quan trọng. Nam Bộ nằm trong tiểu vùng sông Mékong, ba mặt tiếp giáp biển, ở vào vị trí trung tâm của khu vực Đông Nam Á, thuận lợi cho giao thương quốc tế, nhất là các nước ASEAN, cả trên đất liền lẫn đường biển. Không gian khu vực Nam Bộ được chia thành hai tiểu vùng: Đông Nam Bộ (gồm Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bình Phước, 14 VÙNG ĐẤT NAM BỘ X TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI Tây Ninh, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu) và Tây Nam Bộ (gồm Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bến Tre, Bạc Liêu, Cà Mau, An Giang, Hậu Giang và Kiên Giang). Trong đó, vùng Đông Nam Bộ là địa bàn của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam phát triển mạnh với hạt nhân là tam giác “Thành phố Hồ Chí Minh - Biên Hòa (Đồng Nai) - Bà Rịa - Vũng Tàu” đã đưa khu vực Đông Nam Bộ dẫn đầu cả nước về kinh tế (xét theo GDP bình quân đầu người). Vùng Tây Nam Bộ được xem là vựa lúa lớn nhất cả nước, chiếm hơn 50% diện tích và sản lượng, đóng góp đến 90% sản lượng gạo xuất khẩu. Hệ thống kênh rạch dày đặc của vùng Tây Nam Bộ rất thuận tiện cho giao thông đường thủy và cho nuôi trồng thủy sản. Tây Nam Bộ còn là khu vực tiếp giáp với biển của các nước Đông Nam Á (Singapore, Thái Lan, Malaysia, Philippines, Indonesia), nằm trong khu vực có nhiều đường giao thông hàng hải quốc tế quan trọng, nối Nam Á với Đông Á, châu Úc và các quần đảo ở Thái Bình Dương. Những tiềm năng nói trên cho thấy, Nam Bộ là một vùng đất có điều kiện to lớn để phát triển kinh tế, nguồn lực mạnh mẽ về địa lý, sinh thái và nhân văn không chỉ của cả nước mà còn của cả khu vực. Có vị trí địa lý thuận lợi cộng với sự ưu đãi của thiên nhiên, nên Nam Bộ đã trở thành vùng kinh tế hàng hóa lớn của cả nước, hướng mạnh vào xuất khẩu và tiếp cận tham gia hội nhập khu vực và quốc tế từ rất sớm trong lịch sử. Trên cơ sở đó, việc nghiên cứu vị thế và vai trò của vùng đất Nam Bộ trong tiến trình hội nhập khu vực và thế giới của Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử là điều cần thiết, mang ý nghĩa khoa học và thực tiễn hết sức to lớn. Nam Bộ từ lâu đã được các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu. Nhiều đề tài về Nam Bộ trên các mặt lịch sử, văn hóa, kinh tế, xã hội... đã được nhiều học giả trong và ngoài nước đề cập đến. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có một công trình trong nước cũng như nước ngoài nào đề cập một cách toàn diện và đầy đủ về vị thế và vai trò của Nam Bộ trong tiến trình hội nhập khu vực và thế giới của Việt Nam. MỞ ĐẦU 15 Trong các công trình xuất bản ở nước ngoài liên quan đến đề tài có thể kể đến các công trình như The smaller dragon: A Political History of Vietnam của Joseph Buttinger (1958); Le second empire en Indo - Chine: (Siam - Cambodge - Annam) của Charles Meyniard (1891); Journal of an Embassy to the Court of Siam and Cochichina của John Crawfurd (1828); Chân Lạp phong thổ ký của Châu Đạt Quan, Lê Hương dịch; Xứ Đàng Trong năm 1621 của Cristophoro Borri (1998), Hồng Nhuệ - Nguyễn Khắc Xuyên dịch; Hải ngoại kỷ sự của nhà sư Thích Đại Sán (1963); Histoire du Cambodge của Adhemard Leclere (1914); Histoire et description de la Basse Cochinchine của Aubaret (1863); Relation d’un voyage en Cochinchine en 1778 của Chapman và Berland (1948); Description historique de la Cochinchine của Koffler; Indochine, la colonisation ambigue (1858-1954) của Brocheux (1995); Xứ Đàng Trong - Lịch sử kinh tế, xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18 của Li Tana (1999); L’Empire d’Annam của Ch. Gosselin (1904); A voyage to Cochinchina in the year, 1792 and 1793 của Barrow (1806); La Conquête de la Cochinchine par les Nguyên et le rôle des émigrés chinois của Boudet (1942); De Oost Indische Compagnie en Quinam của Buch (1929); The United States and Vietnam 1787-1941 của Robert Hopkins Miller (1990); Tableau économique du Vietnam au XVIIe et XVIIIe siecle của Nguyễn Thanh Nhã (1970); Les institutions annamites en Basse-Cochinchine avant la conquête francaise của Alfred Schreiner (1902); Những người châu Âu ở nước An Nam của Charles B. Maybon ở (2006)... Nhìn chung, các công trình này phần lớn mô tả về lịch sử Việt Nam nói chung, trong đó có đề cập đến lịch sử vùng đất Nam Bộ trong mối quan hệ với các nước trong khu vực và một số nước phương Tây qua các thời kỳ Đàng Trong, Tây Sơn, triều Nguyễn và Pháp thuộc. Nam Bộ trong thời kỳ từ 1945 đến 1975 có các công trình đáng chú ý như: Foreign Aid, War and Economic Development: South Vietnam, 1955 - 1975 của Douglas C. Dacy (1988); Vietnam, de la guerre Française à la guerre Américaine của Jean Lacouture (1969); America’s Vietnam Policy, the Strategy of Deception của Edward S. Herman và Richard 16 VÙNG ĐẤT NAM BỘ X TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI B. Du Boff (1966)... Tuy nhiên, các công trình này cũng không đề cập trực tiếp, toàn diện đến nội dung của đề tài mà chỉ nêu ra một số gợi ý, định hướng có liên quan. Có thể nói, lịch sử Nam Bộ trước khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam được đề cập khá nhiều. Có thể kể đến các công trình như: Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim (1971); Việt Nam ngoại giao sử của Ưng Trình (1953); Ngoại thương Việt Nam hồi thế kỷ XVII, XVIII và đầu XIX của Thành Thế Vỹ (1961); Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới thời các vua triều Nguyễn của Nguyễn Thế Anh (1971); Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ các thế kỷ XVII, XVIII, XIX (2000) và Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ của Huỳnh Lứa (1987); Nam Bộ - Đất & người, 5 tập (2002-2007), Giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam (1857-1914) của Cao Huy Thuần (2004); Kinh tế thương nghiệp Việt Nam dưới triều Nguyễn của Đỗ Bang (1997); Ngoại giao Việt Nam từ thuở dựng nước đến trước Cách mạng Tháng Tám 1945, Trần Văn Cường (2001); Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh của Trần Văn Giàu (Chủ biên); Việt sử Xứ Đàng Trong (1558-1777) của Phan Khoang (1970); Đất nước Việt Nam qua các đời của Đào Duy Anh (1994); Lịch sử bang giao Việt Nam - Đông Nam Á (trước Công nguyên đến đầu thế kỷ XIX) của Huỳnh Văn Tòng (1993); Lịch sử nội chiến ở Việt Nam từ 1771 đến 1802 của Tạ Chí Đại Trường (1973)... Tuy các công trình có đề cập khá nhiều đến các vấn đề quan hệ đối ngoại, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nam Bộ, nhưng tất cả chỉ được viết dưới dạng những biên khảo chuyên về lịch sử, chưa trình bày toàn diện chuyên về tiến trình hội nhập khu vực và thế giới của Nam Bộ. Đáng chú ý khi nghiên cứu về Nam Bộ là công trình Vương quốc Phù Nam - Lịch sử và văn hóa của Lương Ninh (2005). Công trình này đã đề cập khá nhiều đến lịch sử phát triển và hội nhập của Nam Bộ trong lịch sử. Một tài liệu khác cũng quan trọng, đó là tập kỷ yếu hội thảo Nam Bộ và Nam Trung Bộ - Những vấn đề lịch sử thế kỷ XVII-XIX, xuất bản năm 2002. Tập kỷ yếu tập hợp nhiều bài viết có giá trị liên quan đến đề tài như: "Lịch sử Việt Nam dưới góc nhìn của học giả nước ngoài - MỞ ĐẦU 17 Góp thêm vài tư liệu về giai đoạn lịch sử hình thành chính quyền Gia Định" của Trần Phi Phượng; "Mấy nét về kinh tế thị trường ở miền Tây Nam Bộ từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX" của Lê Kim Hoàng; "Từ buổi đầu, kinh tế Nam Bộ đã gắn liền nội thương với ngoại thương (công cuộc sản xuất và buôn bán ở Nam Bộ)" của Nguyễn Đình Đầu; "Vị trí của Gia Định trong nền kinh tế Đàng Trong thế kỷ XVIII" của Trương Hữu Quýnh... Về vấn đề Nam Bộ trong quan hệ Việt Nam và Campuchia, đã có nhiều công trình và đề tài nghiên cứu nhưng phần lớn đều chỉ dùng để phục vụ nội bộ nên không phổ biến. Đáng chú là các bài viết trong tập kỷ yếu Hội thảo Nam Bộ và Nam Trung Bộ - Những vấn đề lịch sử thế kỷ XVII - XIX có liên quan như: "Vài khía cạnh hành chính - pháp lý trong quá trình thu nhận và quản lý bước đầu vùng đất Gia Định" của Phan Đăng Thanh; "Sự chuyển đổi chủ quyền của vùng Nam Bộ trong các thế kỷ XVI - XVIII" của Phan Văn Hoàng; "Bang giao Việt Nam - Chân Lạp từ thế kỷ XVII đến nửa đầu thế kỷ XIX" của Trần Thị Mai; "Bang giao Việt - Miên thế kỷ XVII - XIX" của Trần Thiều; "Mối quan hệ tay ba Việt Nam - Xiêm La - Cao Miên cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX" của Cao Thị Lan Chi... Các bài viết đã tập trung khẳng định tính pháp lý của Nam Bộ thuộc Việt Nam trong quan hệ với Chân Lạp. Ngoài ra còn có một số bài viết như: "Vấn đề chủ quyền của Việt Nam đối với Nam Bộ nhìn từ góc độ lịch sử và luật pháp quốc tế" của Phan Văn Hoàng trong đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: "Vấn đề người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long" (2004); "Những vấn đề về chủ quyền lãnh thổ giữa Việt Nam và các nước láng giềng" của Lê Minh Nghĩa... Về âm mưu và thủ đoạn của các nước thực dân, đế quốc đối với vùng đất Nam Bộ cũng được các nhà nghiên cứu tập trung khai thác. Đáng chú ý có các công trình: Những thủ đoạn bóc lột của chủ nghĩa đế quốc ở Việt Nam của Nguyễn Khắc Đạm (1957); Kinh tế miền Nam Việt Nam thời kỳ 1955 - 1975 của Đặng Phong (2004); Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở miền Nam Việt Nam (1954 - 1975) của Võ Văn Sen 18 VÙNG ĐẤT NAM BỘ X TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI (1996); 21 năm viện trợ Mỹ ở Việt Nam của Đặng Phong (1991)... Các công trình này đã cơ bản phác họa được những âm mưu, thủ đoạn của các nước thực dân, đế quốc đối với vùng đất Nam Bộ. Về Nam Bộ trong chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975 được đề cập đến trong rất nhiều công trình và bài viết. Đáng chú ý có thể kể đến các công trình: Ngoại giao Việt Nam 1945 - 2000, Nguyễn Đình Bin chủ biên (2002); Ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh của Bộ Ngoại giao (2000): Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp giành độc lập, tự do (1945 - 1975), Nguyễn Phúc Luân chủ biên (2001); Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam 1945 - 1995 của Lưu Văn Lợi 2 tập (1996 - 1998)... Các công trình này cơ bản đã phác họa được toàn cảnh của lịch sử ngoại giao Việt Nam trong giai đoạn 1945 - 1975, trong đó có vấn đề Nam Bộ. Có thể nói, Nam Bộ trong tiến trình hội nhập khu vực và thế giới của Việt Nam từ năm 1975 đến nay là giai đoạn được đề cập nhiều nhất. Các công trình lý luận viết về vấn đề hội nhập khu vực và thế giới của Việt Nam có thể kể đến: Hội nhập kinh tế với vấn đề giữ gìn an ninh quốc gia ở Việt Nam của Nguyễn Quốc Nhật - Nguyễn Văn Ngừng (2001); Hội nhập kinh tế khu vực của một số nước ASEAN của Nguyễn Thị Hiền (2002); Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc của Bộ Ngoại giao (1995); Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp đổi mới (1975-2000), Vũ Dương Huân chủ biên (2002); Những vấn đề lớn của thế giới và quá trình hội nhập, phát triển của nước ta của nhiều tác giả (2004): Quá trình Việt Nam hội nhập khu vực châu Á - Thái Bình Dương theo đường lối đổi mới của Đảng của Đinh Xuân Lý (2003); Toàn cầu hóa và tác động đối với sự hội nhập của Việt Nam của nhiều tác giả (2003); Văn hóa Nam Bộ trong không gian xã hội Đông Nam Á của nhiều tác giả (2000); Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hóa - vấn đề và giải pháp của Phạm Ngọc Trụ (2002); Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Nguyễn Viết Thông (Chủ biên) (2005); Việt Nam trong ASEAN, nhìn lại và hướng tới của nhiều tác giả (2006)... Nhìn chung, các công trình trên MỞ ĐẦU 19 đã giới thiệu được toàn bộ quá trình hội nhập khu vực và thế giới của Việt Nam, đặc biệt là từ năm 1986 đến nay. Bên cạnh đó, đã có một số công trình đề cập đến quá trình hội nhập khu vực và thế giới của vùng đất Nam Bộ như: Những luận cứ khoa học của việc phát triển nguồn nhân lực công nghiệp cho vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, Trương Thị Minh Sâm chủ biên (2003); Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam - Những vấn đề kinh tế - văn hóa - xã hội của nhiều tác giả (2004); Những thành tựu khoa học xã hội và nhân văn ở các tỉnh phía Nam trong thời kỳ đổi mới của nhiều tác giả (2003); Đồng bằng sông Cửu Long - hội nhập và phát triển, Nguyễn Thế Nghĩa chủ biên (2005)... Tuy nhiên, các công trình này cũng chỉ là sự tập hợp các bài viết của nhiều tác giả về Nam Bộ trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Trên cơ sở kế thừa những kết quả nghiên cứu trước, tập sách Tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế tập trung phác họa lại toàn bộ tiến trình giao thoa và tiếp biến văn hóa của vùng đất Nam Bộ qua các thời kỳ lịch sử; qua đó làm rõ vị thế, vai trò của vùng đất Nam Bộ trong tiến trình hội nhập khu vực và thế giới của dân tộc Việt Nam. Trên cơ sở đó, tập sách còn cung cấp những thông tin, luận giải khoa học, dự báo xu hướng phát triển của vùng đất Nam Bộ làm cơ sở khoa học cho các chính sách, biện pháp mới của Đảng và Nhà nước ta trong việc xác định vị thế và vai trò của Nam Bộ trong tiến trình hội nhập khu vực và thế giới của đất nước ta. Từ những kết quả nghiên cứu đạt được, tập sách cũng đưa ra những quan điểm, phương pháp luận để giải quyết vấn đề trên cơ sở đánh giá lại các chính sách và biện pháp kinh tế - xã hội, chính trị, dân tộc đã và đang áp dụng; tiếp tục nêu những kiến nghị cho chính sách, biện pháp mới góp phần thúc đẩy sự phát triển của vùng đất Nam Bộ trong tiến trình hội nhập khu vực và thế giới của Việt Nam. Để hoàn thành tập sách này, chúng tôi xin cảm ơn các cộng tác viên đã tham gia viết chuyên đề cộng tác: GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm, PGS.TS. Nguyễn Minh Hòa, PGS.TS. Phạm Đức Mạnh, 20 VÙNG ĐẤT NAM BỘ X TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI TS. Đào Minh Hồng, TS. Huỳnh Đức Thiện, ThS. Cao Phương Thảo, ThS. Nguyễn Thu Vân, ThS. Lê Thế Tài, ThS. Lưu Văn Quyết, ThS. Nguyễn Thị Phương Hảo, ThS. Nguyễn Thị Ánh Nguyệt, CN. Trần Văn Phương, CN. Lê Thị Dung. Chắc chắn tập sách không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Rất mong bạn đọc góp ý chân thành cho các tác giả để sau này có thể bổ sung và hoàn thiện hơn. 21 Chương I QUAN HỆ GIỮA NAM BỘ VỚI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI ĐẾN CUỐI THẾ KỶ XIX I- NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA ĐIỀU KIỆN ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI ĐẾN TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN LỊCH SỬ, VĂN HÓA VÀ TỘC NGƯỜI CỦA VÙNG ĐẤT NAM BỘ Điều kiện địa lý tự nhiên, môi trường sinh thái có những tác động đến tiến trình hình thành và phát triển của lịch sử, văn hóa và xã hội của mỗi quốc gia - dân tộc hay vùng lãnh thổ. Từ lâu, nhiều nhà dân tộc học và nhân học đã xem các yếu tố môi trường là nguyên nhân của sự khác biệt về chủng tộc. Victor Cousin (1792 - 1867), một nhà triết học người Pháp đã từng tuyên bố rằng: “Hãy cho tôi bản đồ của một đất nước... và tôi cam đoan sẽ nói cho bạn biết rằng, như đã được biết trước, con người của đất nước đó sẽ như thế nào, và vùng đất nào của đất nước đó sẽ đóng vai trò gì trong lịch sử, không phải bởi sự ngẫu nhiên mà là quy luật tất yếu”1. Sự biến đổi của tự nhiên (khí hậu, băng hà và đại dương) đã tạo cho Nam Bộ có ba vùng địa lý khác biệt nhau về địa hình, cảnh quan thiên nhiên và cả hệ sinh thái; nói cách khác, nó đã đưa đến cho Nam Bộ một 1. Stuart Corbridge: Capitalist World Development: A Critique of Radical Development Geography, Rowman & Littlefield, New York, 1986, p.104. 22 VÙNG ĐẤT NAM BỘ X TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI thiên nhiên đa dạng (đồi gò bán bình nguyên, đồng bằng - châu thổ thấp và biển - đảo nổi - chìm) với nhiều hệ sinh thái khác biệt, cách biệt, đối nghịch trong không gian rộng lớn tới cả trăm ngàn kilômét (đất liền, bán đảo, quần đảo và mặt biển). Ta biết rằng, hoạt động núi lửa đã đem lại hai nguồn thổ nhưỡng phì nhiêu cho Đông Nam Bộ, đã làm thay đổi địa hình, địa mạo vùng này, cụ thể là nâng cao thêm mặt đất phía bắc - đông bắc, buộc con sông Mékong cổ từ chảy theo hướng tây bắc - đông nam, ngang qua Đông Nam Bộ, tạo nên những tầng phù sa cổ dày đến mấy trăm mét, đã chuyển dòng theo hướng bắc - nam, mở cửa sông ở phía Giang Thành - Hà Tiên. Bên cạnh đó, hoạt động núi lửa còn làm cho địa hình cổ Đông Nam Bộ bị sụt lún, đứt gãy, đưa đến sự hình thành địa hình các bậc thềm có cao trình cách nhau từ vài chục đến vài trăm mét, lại tạo nên sự phân cách hai vùng địa hình cao Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ mà ranh giới là ở đường rìa tiếp xúc giữa hai loại thềm phù sa cũ và mới ở phía bắc và tây châu thổ sông Cửu Long. Và cũng chính sự đổi dòng của sông Mékong mà với hai dòng sông Tiền (Mékong), sông Hậu (Bassac), phù sa hầu như đổ vào vùng châu thổ mới của nó, đẩy nhanh quá trình hình thành nên tầng phù sa mới tại vùng này, đẩy lùi bờ biển phía đông (diễn ra từ cách ngày nay khoảng 4.000 - 3.000 năm trở về sau)1. Bên cạnh đó, các yếu tố thiên nhiên như mưa lũ, khô hạn, thủy triều biển,... tác động định kỳ theo mùa, theo ngày, luôn thách thức với cuộc sống con người Nam Bộ. Đồng thời, những hiện tượng bất thường của gió chướng cũng làm cho cuộc sống của cư dân gặp nhiều khó khăn. Điều đáng lưu ý là hiểm họa lớn nhất có quy mô toàn cầu, ảnh hưởng trực tiếp đến vùng đất Nam Bộ là sự thay đổi của mực nước biển đại dương. Các nhà nghiên cứu cho rằng, chính sự xâm nhập của nước biển đã từng nhấn chìm cả miền Tây Nam Bộ dưới biển sâu, rồi một lần nữa vào khoảng thế kỷ VII - VIII, làm cho các vùng trũng nội địa ngập mặn, khiến cuộc sống của cư dân vốn là chủ nhân của một nền văn minh phát 1. Xem Lê Xuân Diệm: “Vị thế Nam Bộ thời cổ (Tiếp cận từ cổ địa đến cổ sử)”, trong Mấy vấn đề tiến trình lịch sử xã hội, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2011, tr.23. CHƯƠNG I: QUAN HỆ GIỮA NAM BỘ VỚI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC... 23 triển khá cao lúc bấy giờ phải di tản, cả vùng châu thổ sông Cửu Long trở nên hoang vắng, cây rừng rậm rạp, muông thú đầy đàn,... Có thể nói, quá trình hình thành và phát triển của vùng đất Nam Bộ, xét trên bình diện lịch sử - văn hóa ở những thời kỳ khác nhau, cũng như phạm vi và cấp độ khác nhau, ngoài yếu tố con người, rõ ràng là còn chịu sự tác động, chi phối mạnh mẽ và sâu sắc của các điều kiện địa lý tự nhiên và môi trường sinh thái. Chính sự tác động này đã tạo nên một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của Nam Bộ trong tiến trình lịch sử Việt Nam, cũng như hình thành nên những nét đặc trưng cơ bản của văn hóa Nam Bộ, góp phần làm phong phú thêm cho nền văn hóa Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của các ngành khảo cổ học, cổ nhân học, chủng tộc học, dân tộc học,... trong những thập kỷ gần đây cho thấy, trên các thềm bazan trẻ - phù sa Mékong cổ đã có sự xuất hiện của con người thời Đá cũ vào khoảng 300.000 - 250.000 năm trước đây. Các thời “sau Đá cũ” từ khoảng 5.000 năm, đã có sự phân bố hài hòa giữa đất nước - con người, giữa nền cảnh môi sinh với xã hội thời Đá mới - Kim khí - Sử sớm ở “Miệt vùng đất cũ” từ nhiều thiên niên kỷ trước, với chuỗi phát triển đồng điệu tiến bộ văn hóa ở “mặt tiền” bán đảo Nam Đông Dương từ trước khi những làn sóng ảnh hưởng văn hóa Bà La Môn - Phật giáo du nhập vào vùng đất này. Chủ nhân phức hệ văn hóa “Đất cũ” Nam Bộ đã sáng tạo nên dạng sống truyền thống Đá - Đồng đặc thù Cầu Sắt - Suối Linh và trải qua cả ngàn năm phát triển từ Núi Gốm - Bến Đò - Phước Tân - Cái Vạn - Cù lao Rùa, qua Dốc Chùa - Bưng Bạc - Bưng Thơm, đến đỉnh điểm Suối Chồn - Phú Hòa - Cần Giờ, họ làm chủ “thuật luyện kim”, với kỹ nghệ đồng pha hợp kim “phi Ấn - phi Hoa” và biết nung quặng, luyện rèn đồ sắt từ giữa thiên niên kỷ I trước Công nguyên. Và không ai khác, chính họ là những cư dân đã kiến tạo nên các trung tâm kinh tế - văn hóa từ vùng cao xuống vùng thấp, ven biển trên cơ sở truyền thống hoạt động nông nghiệp của xã hội lúa nương rẫy ở thế đất cao cạnh sông - ven suối tại các lũng đồi đất đỏ - đất xám - đất đọng mùn gley và hình thành 24 VÙNG ĐẤT NAM BỘ X TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI riêng hệ thống tín ngưỡng - nghệ thuật với “thạch cầm” (lithophone) và các “dòng nhạc đá” tự tạo “loại trình diễn” trong lao động nghệ thuật bản địa mà tác giả cho là “xưa nhất thế giới” (Sadorov) như đàn đá Bình Đa (3080 ± 50 BP), Lộc Hòa (3190 ± 75 BP),... Nam Bộ và cả vùng Đông Dương nói chung, như các nhà khoa học thế giới gọi, là “Ngã tư đường của các tộc người và các nền văn minh” (Carrefour de peuples et de civilisations - Olov Robert Thure Janse), “Ngã tư đường của các nền nghệ thuật” (Carrefour des arts - Bernard P. Groslier), cái “mũi nhô” của lục địa châu Á ra Thái Bình Dương, nơi giao tiếp giữa hai đại dương, hai luồng gió đông nam và tây nam, hai dòng hải lưu đông - tây; nơi thuận hợp giao tiếp văn hóa - kinh tế - kỹ thuật, chuyển tải các cảm hứng nghệ thuật - tín ngưỡng từ đất liền châu lục với các đảo cực xa bờ,... Ngay cả cái tên Indochine (tức Đông Dương) cũng do hai từ “Indo” (Ấn Độ), “Chine” (Trung Hoa) hợp lại mà thành, cho thấy Đông Dương là nơi hội tụ của hai nền văn hóa, văn minh lớn của thế giới. Người dân lao động bản xứ tự ngàn xưa đã khai thông, duy trì và tăng cường hoạt động thủy, bộ, sông nước và biển cả, để sớm hội nhập với thế giới qua việc giao lưu và tiếp biến văn hóa với các vùng miền phía bắc (văn hóa Sa Huỳnh, Đông Sơn), xa hơn nữa là Trung Hoa, Ấn Độ và các đảo ở phía nam. Những trống Heger I “kiểu Đồng Nai”, mộ cự thạch Hàng Gòn và chum gỗ chứa di hài thủ lĩnh bản xứ Phú Chánh, các công cụ đá, đồng, những dụng cụ đúc đồng, các nghĩa địa mộ chum “kiểu Xuân Lộc - Cần Giờ” và trống Heger I “kiểu Nam Bộ”,... mà các nhà khảo cổ học tìm thấy được đã chứng minh rõ điều đó. Tất cả những nỗ lực của họ đã tạo nên một cuộc sống sinh động và từng bước hình thành một xã hội “tiền văn minh” phù hợp với điều kiện tự nhiên và môi trường sinh thái đặc thù của vùng đất Nam Bộ bấy giờ. Đó cũng là sự chuẩn bị về tất cả các mặt nhân tài, vật lực cho sự vận động để hình thành một xã hội tiến bộ hơn với những trung tâm có tính chất “đô thị” và hình thành nên một kiểu nhà nước sơ khai “kiểu Nam Bộ - Việt Nam của phương Đông”. CHƯƠNG I: QUAN HỆ GIỮA NAM BỘ VỚI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC... 25 Khi nghiên cứu quá trình hội nhập văn hóa của Nam Bộ, các nhà khoa học đã đi đến khẳng định, văn hóa Đồng Nai (hay phức hợp, phức thể văn hóa), là nền văn hóa thuộc thời đại kim khí ở Nam Bộ, có niên đại khoảng từ 4.000 năm đến khoảng trên dưới 2.000 năm cách ngày nay. Những dấu tích ngoại nhập, hoặc có nguồn gốc ngoại nhập được ghi nhận trong cả ba tổ hợp văn hóa kỹ thuật đá mới, đồng thau, sắt. Ở tổ hợp văn hóa đá mới, có nội hàm gồm hai hệ văn hóa hợp thành, đó là hệ văn hóa Nam Á (được đặc trưng bởi loại công cụ - dụng cụ thường được gọi là dạng có chuôi hoặc có vai). Tổ hợp văn hóa thuộc kỹ thuật đồng thau lại có những sản phẩm mang dáng hình tương tự như sản phẩm văn hóa đồng thau Ban Chiang (đông bắc Thái Lan) và văn hóa Đông Sơn - Việt cổ (trống đồng Đông Sơn muộn; qua đồng Đông Sơn phát triển). Tổ hợp văn hóa kỹ thuật sắt lại có nhiều sản phẩm có xuất sứ từ Trung Bộ Việt Nam (trang sức thủy tinh - đá ngọc), từ Nam Á - Ấn Độ, từ Nam Thái Lan (trang sức hạt chuỗi đá màu, thủy tinh), từ Nam bán đảo Malaysia (mộ cự thạch Hàng Gòn). Như vậy, trên đất Đồng Nai xưa (tức Đông Nam Bộ) trong quá trình 2.000 năm trước Công nguyên, đã có nhiều luồng văn hóa cổ đá mới, đồng thau, sắt,... từ nhiều phương trời gần xa du nhập vào, góp phần làm nên bộ mặt phong phú của nhiều phức hệ văn hóa Đồng Nai, đưa đến sự hình thành trung tâm văn hóa kim khí Đồng Nai tại Nam Bộ, cùng phát triển với các trung tâm văn hóa kim khí khác (văn hóa Đông Sơn, văn hóa Ban Chiang, văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa cự thạch, hải đảo,...)1. Cuộc sống định cư lâu dài của người dân bản xứ với sự tinh tường thung thổ vùng đất này đã giúp họ vượt qua những khó khăn, ngày càng khai thác có hiệu quả hơn những yếu tố thuận lợi mà thiên nhiên ban tặng, cũng như khắc phục những khó khăn, chướng ngại, hình thành nên bản lĩnh để đương đầu với thực tế cuộc sống ngày càng phức tạp hơn. Với vị thế “thoáng mở” của Nam Bộ, vào những thế kỷ đầu Công nguyên, 1. Xem Lê Xuân Diệm: “Vị thế Nam Bộ thời cổ (Tiếp cận từ cổ địa đến cổ sử)”, trong Mấy vấn đề tiến trình lịch sử xã hội, Sđd, tr.17. 26 VÙNG ĐẤT NAM BỘ X TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI khi “cuộc gặp gỡ lịch sử vĩ đại” diễn ra ở Nam Bộ (và nhiều vùng đất - đảo ở Đông Nam Á) giữa cư dân bản địa, chủ nhân văn hóa Đồng Nai tiền - sơ sử với lớp người ngoại nhập mang truyền thống văn minh Ấn Độ1 đã diễn ra một sự thay đổi lớn lao trong cuộc sống của người dân nơi đây. Một diễn trình văn hóa - lịch sử gắn kết các yếu tố nội sinh (văn hóa và cư dân bản địa) với các yếu tố ngoại sinh để tạo nên một nền văn hóa mới mà giai đoạn đầu gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của vương quốc Phù Nam mà Louis Malleret gọi là “Văn hóa Óc Eo”, nhiều học giả khác gọi là “Văn hóa Óc Eo - Phù Nam”. Nam Bộ, hay nói rộng ra là “đất tổ của Phù Nam”2, được các học giả phương Tây xem là phần lãnh thổ của Phù Nam biển (Maritime state of Funan) và khu di tích Óc Eo - Ba Thê (An Giang) được nhìn nhận là đầu mối quan trọng hàng đầu trên con đường mậu dịch, con đường giao lưu kinh tế, văn hóa trên biển giữa phương Đông (Trung Quốc) và phương Tây (Ấn Độ - Trung Cận Đông, La Mã). Sức sống của văn hóa Óc Eo thật mãnh liệt. Ngay cả sau khi vương quốc Phù Nam tan rã (khoảng giữa thế kỷ VII), các thế lực chính trị - quốc gia mới hình thành (Chân Lạp, Xích Thổ, Đồ-la-bạt-đế tứ,...); rồi Nam Bộ bị nhấn chìm trong nước biển dâng,... nhưng văn hóa Óc Eo vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển trong điều kiện tự nhiên và xã hội mới - Chân Lạp, dưới tên gọi là “Hậu Óc Eo”. Các nhà khoa học nhận định rằng, do hoàn cảnh lịch sử chi phối, các di tích ở đây thường có niên đại chủ yếu từ sau thế kỷ VII đến thế kỷ XI, tiếp nối truyền thống văn hóa Óc Eo, những di tích có niên đại muộn rất hiếm hoi bởi vai trò của vùng đất mờ dần khi nền văn minh Angkor tỏa sáng. Nguyên nhân sự vắng mặt của các di tích được xây dựng có niên đại muộn có nhiều cách lý giải, trong đó nguyên nhân chủ yếu là sự biến đổi của khí hậu sau đợt biển tiến Flandrian cuối cùng đã nhấn chìm toàn bộ vùng đồng bằng thấp của hạ lưu sông Mékong dưới 1. Theo cách nói của PGS. Lê Xuân Diệm. 2. Chữ dùng của P. Dupont, 1955. CHƯƠNG I: QUAN HỆ GIỮA NAM BỘ VỚI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC... 27 1m nước biển vào thế kỷ VI - VII1. Ta biết rằng, từ năm 50 trước Công nguyên đến năm 550 sau Công nguyên, mực nước biển ở vùng Nam Bộ thấp hơn mực nước biển ngày nay khoảng 0,5m. Từ năm 550 đến năm 1150 nước biển dâng cao hơn mực nước biển ngày nay khoảng 1m nên đã nhấn chìm phần lớn vùng đất này. Vùng đất Nam Bộ bị ngập chìm trong nước biển, nhiều vùng đất ở đây trở thành đầm lầy thấp trũng, bị bỏ hoang hóa trong thời gian dài. Chủ nhân vùng đất, một bộ phận trở thành những nhóm người sinh sống biệt lập dần rơi vào tình trạng kém phát triển, một số nhóm người rút về sinh sống trên các vùng đất cao Bảy Núi, Tịnh Biên, Tri Tôn, Đông Nam Bộ, hay xa hơn là vùng đệm cao nguyên Lâm Đồng, bỏ lại sau lưng một nền văn minh dần tàn lụi. Tình trạng hoang hóa đó kéo dài mãi đến thế kỷ XVIII, như Lê Quý Đôn đã viết: đất Đồng Nai từ các cửa biển Cần Giờ, Soài Lạp, cửa Đại, cửa Tiểu toàn là rừng rậm hàng mấy nghìn dặm...; hay như sau này Phan Huy Chú phản ánh: đất Đồng Nai từ Đại Hải môn và Tiểu Hải môn ở tính trạch Sài Gòn trở vào toàn là rừng rậm đến hơn mấy nghìn dặm... Sự can thiệp của tự nhiên như đã nêu, khiến cho vùng đất này bị gián đoạn về mặt khảo cổ. Kết quả nghiên cứu cho thấy, trên vùng đất Nam Bộ trước khi người Việt vào khai phá, những di tích có niên đại từ thế kỷ VIII trở đi thường rất ít, và càng ít hơn vào những thế kỷ X - XIII. Bởi, như đã nói, vào thế kỷ VI, khi mực nước biển dâng cao, những nhóm người Phù Nam bắt đầu có sự phân tán, những di tích xây dựng tại vùng đất trũng mất vai trò và dần trở thành phế tích; chỉ có những di tích được xây dựng trên vùng đất cao mới được duy trì, tiếp tục tồn tại. Sự kế thừa của Chân Lạp tiếp nối Phù Nam diễn ra trong bối cảnh có sự can thiệp của tự nhiên khi vùng đất trũng (Nam Bộ) của Phù Nam đã rơi vào cảnh ngập lụt cho nên địa dư Chân Lạp khó liên quan 1. Xem Lê Đình Phụng: “Bản đồ phân bố các di tích kiến trúc thế kỷ VII - XVI (Thời kỳ Chân Lạp?) tại đồng bằng Nam Bộ”, trong Mấy vấn đề tiến trình lịch sử xã hội, Sđd, tr.185-216. 28 VÙNG ĐẤT NAM BỘ X TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI đến vùng đất này. Sau thế kỷ VIII, nước Chân Lạp lại chia làm hai: Lục Chân Lạp và Thủy Chân Lạp. Lục Chân Lạp ở trên vùng đất cao, vẫn giữ được sự ổn định, cử sứ thần sang nhà Đường vào các năm 717, 753, 771, 779; còn Thủy Chân Lạp bước vào thời kỳ tản quyền, cho đến nay chưa rõ tên một ông vua nào hay chính quyền nào. Châu Đạt Quan khi đến Chân Lạp cho biết nước này có đến chín nước chư hầu chịu ảnh hưởng của Chân Lạp, làng nào cũng có điện thờ hoặc tháp thờ. Vùng đất này lại chịu hai lần cướp phá của người Java vào các năm 774, 778. Chính vì thế, khi nghiên cứu đã có ý kiến cho rằng, “Thật là rất nhầm nếu hiểu Thủy Chân Lạp là đất Phù Nam cũ, là đồng bằng sông Cửu Long, bởi vì thực ra Thủy Chân Lạp chủ yếu là vùng trung lưu sông Mékong mà trung tâm là Sambhupura ở Sambor, Kompong Cham là một thời phân tán tản quyền. Những dấu tích Khmer trên khắp đồng bằng sông Cửu Long có trước năm 802 là không đáng kể”1. Thế kỷ XIV - XV, vương triều Ayuthaya (Xiêm La) thường đem quân tấn công Chân Lạp và đến năm 1595, Chân Lạp lệ thuộc hoàn toàn vào Xiêm La. Dưới sự thống trị của Xiêm, những phong tục, tập quán cũ của người Khmer, nhất là nghệ thuật Angkor và truyền thống đạo Hindu, Phật giáo Đại thừa được thay thế bằng tinh thần Phật giáo Tiểu thừa Thái - Khmer. Chính người Thái đã biến xứ sở của nền nghệ thuật đền tháp Angkor kiêu hãnh hơn 500 năm trở thành một đất nước “chùa tháp” theo kiểu của người Thái. Một bộ phận người Khmer, vì những lý do khác nhau, đã di cư đến vùng đất Nam Bộ ngày nay để sinh sống (ở miền tây sông Hậu, vào khoảng cuối thế kỷ XVI). Buổi đầu lập nghiệp ở Nam Bộ, họ đã khai phá trở lại vùng đất phía tây sông Hậu, trên địa bàn các thế đất không ngập nước, theo mục tiêu giới hạn “tự cung, tự cấp” là chính. Với sự có mặt của người Khmer ở Nam Bộ, nét văn hóa mới hình thành lan tỏa và định hình nhanh chóng. Sự hiện diện cho đến ngày nay của những ngôi chùa cổ theo hệ phái Tiểu thừa 1. Lương Ninh: Vương quốc Phù Nam: Lịch sử và văn hóa, Viện Văn hóa và Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2005, tr.27. CHƯƠNG I: QUAN HỆ GIỮA NAM BỘ VỚI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC... 29 Phật giáo đã cho thấy sự tồn tại của một loại hình văn hóa Thái - Khmer ở Nam Bộ1. Nếu ở Chân Lạp văn hóa Thái - Khmer mang đậm sắc thái Phật giáo Tiểu thừa, thì trên vùng đất Nam Bộ, người Khmer đã bổ sung thành tố văn hóa mới: tôn thờ “Thần Đá” (Neak Ta), tức là “Thần Đất”, “Thần Xứ sở” hoặc “Thần Thổ địa”. Một loại tín ngưỡng dân gian mới xuất hiện mà các nhà nghiên cứu văn hóa cho là có hàm ý ghi dấu công lao “mở đất” của các thế hệ người Khmer trên đất Nam Bộ, về sau được người Việt tiếp nhận và biến đổi thành tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ. Quá trình hình thành văn hóa Thái - Khmer cũng là thời kỳ các chúa Nguyễn từng bước tích hợp vùng đất Nam Bộ vào với Đại Việt và ra sức khai phá vùng đất này trở thành chỗ dựa vững chắc cho cả Đàng Trong. Với ưu thế về mặt tự nhiên, Nam Bộ đã nhanh chóng trở thành một vùng đất màu mỡ và năng động để hội nhập vào luồng thương mại quốc tế Đông - Tây mà các chúa Nguyễn ra sức khai thác. Những trung tâm kinh tế thương mại sầm uất lần lượt hình thành, nhất là khi có sự tham gia tích cực của một bộ phận người Hoa từ Trung Quốc di cư sang (lực lượng của Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch sau một thời gian hoạt động chống lại triều đình Mãn Thanh (trong phong trào “Bài Thanh phục Minh”) không thành, chạy sang nước ta xin tỵ nạn, được chúa Nguyễn đưa vào khai phá vùng đất phía Nam). Những Nông Nại Đại Phố (tức Cù Lao Phố), Mỹ Tho Đại Phố, phố thị Hà Tiên,... đã làm thay đổi bộ mặt cho vùng đất “mới mẻ” này. Cuối thế kỷ XVIII, do sự biến đổi về mặt tự nhiên, một số dòng sông trở nên cạn dần, tàu thuyền vào ra khó khăn, nên một số trung tâm thương mại không còn điều kiện hoạt động như trước mà lụi dần, như trường hợp Nông Nại Đại Phố. Cũng chính thời gian này, phong trào Tây Sơn phát triển mạnh mẽ, chúa Nguyễn không còn đủ sức để giữ vững đất Gia Định, buộc phải cầu cứu Xiêm La. Trong lực lượng quân Xiêm có không ít binh lính Chân Lạp được đưa sang. Nguyễn Ánh thất bại, 1. Theo cách gọi của PGS. Lê Xuân Diệm. 30 VÙNG ĐẤT NAM BỘ X TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI quân Xiêm tan tác, một bộ phận tàn quân Xiêm và Chân Lạp lưu lại cùng những cư dân Khmer trước đó tạo dựng cuộc sống trên vùng đất này. Văn hóa Nam Bộ có những biến đổi trên cơ sở có sự tham gia của người Việt và người Hoa. Cuộc sống cộng cư khá yên lành của ba tộc người Việt - Hoa - Khmer đã diễn ra quá trình giao thoa mạnh mẽ để tạo nên sắc thái mới của văn hóa Nam Bộ, cùng với sự đan xen, bàng bạc của văn hóa phương Tây. Những thành tố văn hóa đó được thể hiện rõ nét trong ngôn ngữ, âm nhạc; trong các loại hình nghệ thuật; trong sinh hoạt thường nhật và đặc biệt là trong việc thờ phụng, tế lễ. Theo các thư tịch cổ, người Việt có mặt ở đất Nam Bộ vào khoảng thế kỷ XVII, trong một bối cảnh địa chính trị phức tạp, Chân Lạp bị Xiêm La thôn tính, thống trị. Vùng đất Thủy Chân Lạp lúc ấy (Nam Bộ sau này) còn quá hoang vu và trũng thấp. Sự quản lý lỏng lẻo của triều đình Chân Lạp và điều kiện tự nhiên nơi đây trở thành cơ hội cho lưu dân Việt có được cuộc sống định cư. Và rồi, năm 1620, cuộc hôn nhân giữa Quốc vương Chân Lạp Chey Chettha II với Công nữ Ngọc Vạn - con gái Chúa Nguyễn Phúc Nguyên, đã tạo tiền đề quan trọng cho sự bảo hộ của Đại Việt (Đàng Trong) đối với Chân Lạp, đẩy lùi ảnh hưởng của Xiêm La. Đây cũng chính là sự khởi đầu cho quá trình tích hợp vùng đất Nam Bộ về với Đàng Trong của các chúa Nguyễn. Sự có mặt của người Việt trên vùng đất Nam Bộ ngày càng đông, đặc biệt từ sau sự kiện 1698, khi Chưởng cơ Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh dinh, lấy Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lập xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn. Thổ nhưỡng nơi đây (đất phù sa trũng lầy) phù hợp với cây lúa nước - loại hình canh tác sở trường của nông dân Việt ở miền Bắc, miền Trung, nên đã có sức thu hút người Việt đến đây làm ăn. Họ nhanh chóng trở thành lực lượng chủ lực và chẳng bao lâu đã trở thành chủ thể của cả vùng đất Gia Định, Nam Kỳ lục tỉnh sau này. Với vai trò chủ đạo của người Việt, văn hóa Nam Bộ đã mang một sắc thái mới. Yếu tố Việt trong văn hóa Nam Bộ nổi trội lên với sức CHƯƠNG I: QUAN HỆ GIỮA NAM BỘ VỚI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC... 31 sống mãnh liệt và không ngừng được “cách tân” để trở thành một trong những nét đặc trưng của văn hóa Nam Bộ. Quá trình này diễn ra trong hai thế kỷ rưỡi, từ đầu thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX. Nó song hành cùng với quá trình “mở cõi” của ông cha - một quá trình xác lập chủ quyền, trấn giữ biên cương, ngăn chặn mưu đồ xâm lược của vương quốc Xiêm La và ra sức “bảo hộ” nước láng giềng Chân Lạp; đồng thời ưu tiên hàng đầu cho công cuộc khai phá, mở mang ruộng đồng, phát triển nông nghiệp. Người Việt đã tạo dựng nền nông nghiệp mang sắc thái mới trên vùng đất này (quảng canh và đa canh: lúa gạo, lâm sản, thủy sản, rau quả,...), và cùng với nó là nền văn hóa nông nghiệp lúa nước (văn hóa nông nghiệp gồm hai thành phần sản phẩm lúa gạo - “văn minh kênh rạch” và cây trái - “văn minh miệt vườn”). Một nền nông nghiệp ngay từ đầu đã thoát ly khỏi đặc tính tự cung tự cấp, hướng tới mục tiêu chiến lược là làm ra sản phẩm cung ứng cho quốc phòng, cho dân sinh và cho thị trường (nội địa và bên ngoài)1. Văn hóa kinh doanh đã được cộng đồng người Hoa xây dựng và phát triển trên nền tảng nền nông nghiệp không ngừng lớn mạnh của cộng đồng người Việt đã tạo ra một mạng lưới thị trường liên hoàn trong nội địa; đồng thời họ liên kết thị trường nội địa với hệ thống giao thương hải ngoại, hợp thành thương trường rộng lớn của thế giới phương Đông, mà Nam Bộ bấy giờ là trung tâm, có nguồn hàng dồi dào lại nằm ở “ngã tư đường” nên làm chức năng trung chuyển hàng hóa của thương trường rộng lớn đó. Nét đặc thù của văn hóa Nam Bộ thể hiện trước hết là sự thoáng mở trong cả kinh tế lẫn cấu trúc xã hội. Một nền kinh tế không chỉ trọng nông mà còn trọng thương nên kinh tế hàng hóa sớm có điều kiện phát triển; một xã hội với tinh thần “tứ hải giai huynh đệ”, “trọng nghĩa khinh tài”, một xã hội tôn vinh các vị “tiền hiền, hậu hiền” có công khai nghiệp. Văn hóa Phật giáo cũng được mở rộng ra với sự khôi 1. Xem Lê Xuân Diệm: “Vị thế Nam Bộ thời cổ (Tiếp cận từ cổ địa đến cổ sử)”, trong Mấy vấn đề tiến trình lịch sử xã hội, Sđd, tr.20. 32 VÙNG ĐẤT NAM BỘ X TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI phục truyền thống Phật giáo Đại thừa, với các vị Bồ tát “cứu khổ cứu nạn” cho dân lành. Trên nền tảng đó mà cách tân dần để rồi xuất hiện các hệ phái Phật giáo gắn với đặc tính của người dân Nam Bộ, như Phật giáo Bửu Sơn - Kỳ Hương với vị giáo chủ là Phật Thầy Tây An. Phật giáo dòng Lâm Tế từ Quảng Đông truyền sang được người dân Nam Bộ tiếp nhận và dần dần trở thành Phật giáo “chính thống” ở Nam Bộ. Các tín ngưỡng dân gian cũng mở rộng dần ra trên tinh thần giao thoa văn hóa. Người Hoa theo đạo Phật nhưng những ngôi “chùa” (thực chất là miếu thờ) của họ lại chủ yếu thờ Quan Công, Thiên Hậu (thi thoảng cũng có thờ Phật, nhưng không phải là vị thần chủ), các vị nhân thần đã phò trì cho họ trong quá trình di cư gian khổ, hiểm nguy và ngay cả trong thời kỳ định cư, xây dựng cuộc sống nơi “đất khách quê người”, cùng với việc thờ Thần Tài, Thổ Địa, Ông Bổn, Ngũ Hành Nương Nương,... Các tín ngưỡng này đã được người Việt tiếp thu để trở thành một nét văn hóa phổ biến ở Nam Bộ. Và như đã nói ở trên, tín ngưỡng “Neak Ta” của người Khmer cũng trở thành tín ngưỡng phổ biến của người Việt dưới hình thức thờ Bà Chúa Xứ - một dạng tín ngưỡng dân gian mang màu sắc đạo giáo nguyên thủy,... Có thể nói, suốt tiến trình lịch sử mấy ngàn năm của Nam Bộ, kể từ lúc có con người sinh sống, là cả một quá trình hội nhập, giao lưu, tích hợp và tiếp biến để trở thành phức thể văn hóa, trong đó yếu tố ngoại nhập ngày càng được gia tăng và làm giàu thêm cho văn hóa Nam Bộ. Yếu tố nội sinh luôn đóng vai trò chủ đạo trong sự định hình văn hóa của vùng đất, trong đó có sự tiếp nối từ văn hóa Đồng Nai đến Óc Eo, qua Khmer rồi Đại Việt, Đại Nam như một dòng chảy. Đặc biệt, từ khi người Việt đóng vai trò chủ thể của văn hóa Nam Bộ, vị thế của vùng đất này cũng như của cả đất nước nhanh chóng được nâng lên và tầm ảnh hưởng được mở rộng ra trong khu vực và trên thế giới. “Nam Bộ thật rõ ràng là vùng đất đã từng hội tụ nhiều lớp cư dân, nhiều nhóm tộc người (Nam Á, Nam Đảo, Phù Nam, Chân Lạp - Khmer, Việt - Đại Việt - Đại Nam, Hoa - Hoa Nam, Minh,...) với những thân phận khác nhau, hoàn cảnh lịch sử khác nhau. Họ đã đưa đến Nam Bộ CHƯƠNG I: QUAN HỆ GIỮA NAM BỘ VỚI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC... 33 những truyền thống văn hóa khác nhau (phương Đông, phương Tây) và đã cùng “chung lưng đấu cật” dựng nên nền văn hóa lớn mang sắc thái chung, được gọi là văn hóa truyền thống Nam Bộ (Việt Nam), có nội hàm gồm hai thực thể lớn hợp thành. Đó là văn hóa nông nghiệp đa canh và văn hóa thị trường đa dạng, họ đã trải qua những thời kỳ, những bước thăng trầm. Trong đó, có hai thời kỳ mà họ đưa Nam Bộ lên vị thế kinh tế chính trị mạnh và phát triển nhất trong thế giới Đông Nam Á, đó là thời dựng nước Phù Nam và thời “mở cõi - dựng nghiệp” Đại Việt - Đại Nam”1. II- QUAN HỆ GIỮA NAM BỘ VỚI NỀN VĂN HÓA VÀ CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC THỜI TIỀN SỬ ĐẾN VƯƠNG QUỐC PHÙ NAM 1. Nam Bộ dưới thời kỳ vương quốc Phù Nam và Chân Lạp Quá trình hình thành, phát triển và suy vong của vương quốc Phù Nam được Phó Giáo sư Lê Xuân Diệm gọi là “Thời kỳ thứ hai” - thời kỳ “khai phá - dựng nước”, diễn ra từ những thế kỷ đầu Công nguyên, thời kỳ mà các vùng lãnh thổ ở Đông Nam Á, các xã hội “tiền nhà nước” của các cộng đồng dân cư vùng này, trong đó có Nam Bộ, phải đối mặt với nhiều thách thức mới, nhưng cũng có nhiều thời cơ mới để phát triển. Từ trước thế kỷ V trước Công nguyên, các dân tộc ở Đông Nam Á đã từng tiếp xúc và trao đổi sản phẩm với các thương nhân Ấn Độ. Thế kỷ III trước Công nguyên, miền Nam Ấn có nhiều biến động về chính trị và tôn giáo. Đạo Phật rất phát triển và giới tăng lữ hệ phái Hinayana (Tiểu thừa) đã không quản ngại gian nguy, đem giáo lý nhà Phật truyền đến những vùng đất xa xôi. Họ theo chân các thương đoàn đưa đạo Phật đến vùng ven núi Hymalaya và xuống đến Myanmar bằng đường bộ. Theo đường thủy, họ đã đem giáo lý của Đức Phật đến các dân tộc Môn ở lưu vực các con sông Irrawaddy, Saluen, Ménam và đến tận châu thổ sông Mékong. 1. Lê Xuân Diệm: “Vị thế Nam Bộ thời cổ (Tiếp cận từ cổ địa đến cổ sử)”, trong Mấy vấn đề tiến trình lịch sử xã hội, Sđd, tr.20. 34 VÙNG ĐẤT NAM BỘ X TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI Bấy giờ, các thương nhân theo Ấn giáo cũng mang tinh thần tín ngưỡng của họ đi khắp các vùng miền mà họ đến buôn bán làm ăn. Chính họ là những người đầu tiên tạo được những dấu ấn Ấn giáo sâu sắc tại vùng đất Đông Nam Á, nơi mà Phật giáo cũng ra sức tạo được ảnh hưởng cho mình. Cùng với sự tác động, ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ, quá trình hình thành và phát triển của Phù Nam còn chịu sự chi phối của văn hóa Trung Hoa. Văn minh chính trị Ấn, Trung đã có mặt trong sự hình thành vương quốc Phù Nam và văn hóa Óc Eo. Đông Nam Á vào thời kỳ này là vùng địa chính trị, địa kinh tế, vừa nóng bỏng vừa năng động và là vùng hội nhập nhiều tộc người mới, nhiều truyền thống văn hóa mới. Với vị trí cầu nối giữa phương Đông và phương Tây, Nam Bộ trở thành miền đất hứa cho những người từ các nơi đến đây lập nghiệp. Những phát hiện khảo cổ cho thấy Đông Nam Bộ trước đó là trung tâm kinh tế, văn hóa của cả vùng Nam Bộ, giờ châu thổ sông Cửu Long, ba mặt giáp biển, lại trở thành trung tâm kinh tế, văn hóa phát triển mạnh nhất, năng động nhất, không chỉ của Nam Bộ mà của chung toàn khu vực Nam Đông Dương. Cộng đồng cư dân văn hóa Đồng Nai thuở trước đã tiến xuống châu thổ mới, bắt đầu công cuộc khai phá, đào kênh, rẽ rạch, dựng nhà sàn, làm ruộng nước,... và họ đã cùng lớp người ngoại nhập có nguồn gốc tộc người khác nhau, ngôn ngữ khác nhau, văn hóa khác nhau, thân phận khác nhau, khởi dựng nên một xã hội mới, nền văn hóa mới, văn hóa đó được khảo cổ học gọi là văn hóa Óc Eo, nền văn hóa mà không ít nhà nghiên cứu đã đồng nhất với văn hóa của nước Phù Nam. Sự hình thành và phát triển của vương quốc Phù Nam đã được phản ánh khá sinh động trong các nguồn thư tịch cổ, đặc biệt là thư tịch Trung Hoa. Nghiên cứu kỹ các nguồn thư tịch này, kết hợp với bi ký cổ, và từ quan điểm trên đây, Giáo sư Phan Huy Lê đã xây dựng nên một phổ hệ thủ lĩnh/vua Phù Nam suốt từ buổi đầu lập quốc (thế kỷ I) đến khi vương quốc Phù Nam sụp đổ hoàn toàn (thế kỷ VII). CHƯƠNG I: QUAN HỆ GIỮA NAM BỘ VỚI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC... 35 D. G. E. Hall thì cho rằng vùng định cư ban đầu của vương quốc Phù Nam nằm dọc theo sông Mékong từ Châu Đốc đến Phnom Penh và sau đó phát triển thành một đại cường quốc đầu tiên của lịch sử Đông Nam Á1. Còn theo David P. Chandler thì trung tâm của Phù Nam ở vào phía nam và đông của Phnom Penh hiện nay2. Các thư tịch cổ Trung Hoa mô tả vị trí của nước Phù Nam như sau: "Nước Phù Nam ở phía nam xứ Nhật Nam, trong một cái vịnh ở phía tây biển lớn... một con sông lớn chảy từ hướng tây và đổ ra biển"3. "Nước Phù Nam rộng hơn 3.000 dặm. Đất từ trên cao đổ xuống và rất bằng phẳng”4. "Nước Phù Nam ở cách phía tây nước Lâm Ấp hơn 3.000 dặm, nằm trong một vịnh lớn ở ngoài biển, đất rộng hơn 3.000 dặm”5. "Và người ta có thể tới nước đó bằng đường bộ hoặc đường thủy"6. Còn các nhà nghiên cứu ngày nay gần như đã có sự gần gũi trong nhận định về vị trí vương quốc và kinh đô của đất nước Phù Nam. Những thông tin từ thư tịch cổ Trung Hoa được giải thích rằng, nước Phù Nam ở phía nam bán đảo Đông Dương, phía nam quận Nhật Nam (phần đất phía nam của nước Nam Việt cũ) và phía tây Lâm Ấp (từ dưới Quảng Nam trở vào). Phương vị phía nam và phía tây được định theo bóng mặt trời từ điểm quan sát. Vịnh phía tây biển lớn chỉ có thể là vịnh Thái Lan ngày nay. Con sông lớn chảy từ hướng tây và đổ ra biển; con sông chảy từ mạn tây bắc về hướng đông rồi đổ ra biển tương ứng với dòng chảy của phần hạ lưu sông Mékong. Đất từ trên cao đổ xuống và rất bằng phẳng là thế đất châu thổ (đổ từ cao nguyên xuống và rất bằng phẳng), đó cũng là hình ảnh của châu thổ hạ lưu sông Mékong, bao gồm khu 1. Xem D. G. E. Hall: Lịch sử Đông Nam Á, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, tr.50-64. 2. Xem David P. Chandler: A history of Cambodia, Bangkok, 1993, tr.20. 3. Nam Tề thư, q. 54, tờ 4. 4. Lương thư, q. 54, tờ 2, mặt sau. 5. Tấn thư, q. 97, tờ 7, mặt sau. 6. Lịch Đạo Nguyên: Thủy kinh chú, q.36, tờ 29. Theo sách này thì Phù Nam cách Lâm Ấp đến 4.000 dặm. 36 VÙNG ĐẤT NAM BỘ X TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI vực dòng chảy của sông Hậu, sông Tiền, sông Vàm Cỏ, sông Đồng Nai và sông Sài Gòn. Khi mới hình thành nhà nước sơ khai (với truyền thuyết về quan hệ hôn nhân của Liễu Diệp - Hỗn Điền), Phù Nam là một cộng đồng cư dân ven biển mà Hỗn Điền dùng thuyền vượt biển đến và cuộc tiếp xúc cũng diễn ra ở vùng ven biển, chắc thuộc hạ lưu sông Mékong (Cửu Long). Hỗn Điền lên làm vua Phù Nam, cùng Liễu Diệp sinh được bảy người con "chia nước làm bảy ấp, cho các con cai trị" (Lương thư) hay "sinh con rồi chia làm vua của bảy ấp" (Nam sử). Sau đó, một người con là Hỗn Bàn Huống dùng kế ly gián để các ấp nghi ngờ đánh lẫn nhau và cuối cùng thôn tính tất cả. Hỗn Bàn Huống lại cho con cháu mình cai trị các ấp, gọi là "tiểu vương". Như vậy, trong hai đời vua Hỗn Điền và Hỗn Bàn Huống, Phù Nam là một nhóm gồm một số tiểu quốc, vừa có vua đứng đầu Phù Nam, vừa có tiểu vương cai trị các tiểu quốc mà vua/ vương ở đây còn mang nặng tính thủ lĩnh. Đây là mô hình nhà nước sơ khai thường thấy trong lịch sử cổ đại nhiều nước ở Đông Nam Á và một số khu vực trên thế giới. Trong đời vua thứ tư là Hỗn Bàn Bàn, "chính sự trong nước giao cho Đại tướng Phạm Man trông coi" (Nam sử). Có thể coi đây là bước củng cố và tăng cường sức mạnh của nhà nước trung ương, xây dựng một vương quốc thống nhất, dĩ nhiên hiểu theo nghĩa tương đối. Sau khi Hỗn Bàn Bàn chết, Phạm Man được người trong nước cử làm vua. Từ đời Vua Phạm Man (khoảng đầu thế kỷ III), Phù Nam bắt đầu mở rộng chinh chiến, đánh chiếm nhiều nước, bắt họ thần phục và Phạm Man tự xưng là Phù Nam Đại vương. Thư tịch Trung Hoa gọi các nước bị đế chế Phù Nam thôn tính là "thuộc quốc" hay "nước kimi" hoặc "chi nhánh". Hiện nay, chúng ta hầu như chưa có tư liệu để hiểu về tổ chức quản lý của đế chế Phù Nam, nhưng qua các từ "thuộc quốc", "kimi", "chi nhánh" thì có thể nghĩ đến một đế chế bao gồm những nước bị chinh phục hay thần phục ở mức độ lệ thuộc và ràng buộc khác nhau với nước tôn chủ. Phân biệt nước hay CHƯƠNG I: QUAN HỆ GIỮA NAM BỘ VỚI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC... 37 vương quốc Phù Nam với đế chế Phù Nam trong lịch sử Phù Nam là rất quan trọng khi xem xét về phạm vi lãnh thổ cũng như quá trình lịch sử và địa bàn trung tâm của văn hóa Óc Eo cùng mức độ ảnh hưởng, lan tỏa của nền văn hóa này. Từ thế kỷ III đến đầu thế kỷ VI, nhất là dưới các đời vua Phạm Chiên, Phạm Tầm, Thiên Trúc Chiên Đàn (Chandra), Kiều Trần Như (Kaundynia II), Trì Lê Đà Bạt Ma (Sri Indravarman), Đồ Tà Bạt Ma (Jayavarman), các vua Phù Nam lo tiến hành nhiều cải cách, "tu sửa pháp độ", "thay đổi pháp độ trong nước theo quy chế nước Thiên Trúc", tức theo mô hình Ấn Độ, phát triển kinh tế, mở mang văn hóa, đồng thời thiết lập quan hệ bang giao với các nước, nhất là với Trung Hoa, Ấn Độ,... Vua Thiên Trúc Chiên Đàn và Kiều Trần Như là hai vua người Ấn Độ dòng Bà La Môn. Phù Nam tiếp tục phát triển và tồn tại như một đế chế mạnh trong khu vực. Vua Đồ Tà Bạt Ma được Hoàng đế Trung Hoa phong làm An Nam tướng quân Phù Nam vương. Trong thời thịnh đạt, phạm vi của đế chế Phù Nam mở rộng trên một địa bàn to lớn của vùng Đông Nam Á lục địa, bao gồm vùng hạ lưu và trung lưu sông Mékong, kéo sang vùng hạ lưu và có thể một phần trung lưu sông Ménam và xuống đến bán đảo Mã Lai1. Theo thư tịch cổ Trung Quốc, đế chế Phù Nam gồm đến hơn 10 nước, trong đó có ghi tên một số nước: Đốn Tốn (hay Điển Tôn), Khuất Đô Côn, Cửu Trĩ (có lẽ cũng là Câu Lợi hay Đầu Câu Lợi tức Takola/Takkola), Kim Lân,... Chưa rõ vào thời điểm cụ thể nào, có thể vào đời Tùy (581 - 619), hai nước Xích Thổ, Chân Lạp cũng trở thành thuộc quốc của Phù Nam2. Vị trí địa lý trong bối cảnh giao thương khu vực trong những thế kỷ đầu Công nguyên cùng với năng lực của cộng đồng cư dân thành thạo sông nước đã một thời đưa Phù Nam lên địa vị một nước rồi một đế chế 1. Xem Lương Ninh: Vương quốc Phù Nam - Lịch sử và văn hóa, Viện Văn hóa và Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2005. 2. Có thể tham khảo bản đồ đế chế Phù Nam của Jan M. Pluvier trong Historical Atlas of South - East Asia (Atlas lịch sử Đông Nam Á), Nxb. E.J.Brill, Leiden - New York - Köln, 1995. 38 VÙNG ĐẤT NAM BỘ X TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI cường thịnh của Đông Nam Á. Trong đế chế rộng lớn đó, cơ sở và trung tâm là vương quốc Phù Nam nằm trên đất hạ lưu sông Mékong, chủ yếu là Nam Bộ, có lan rộng một phần lên phía bắc. Kinh đô của Phù Nam, theo thư tịch cổ Trung Quốc, là thành Đặc Mục1. Tên thành và vị trí của thành Đặc Mục là một vấn đề tranh cãi lâu nay. Có người xác định là Ba Phnom, có người cho là Angkor Borei. Tuy nhiên, so với Ba Phnom thì Angkor Borei có nhiều căn cứ là kinh đô của Phù Nam hơn, nhưng đó là kinh đô theo ghi chép của Tân Đường thư, tức vào thời kỳ cuối. Trong lịch sử Phù Nam, kinh đô có thể đã thay đổi vị trí, và trước Đặc Mục, có thể kinh đô Phù Nam ở vào một vị trí khác. Song, dẫu có thay đổi bao nhiêu lần đi nữa thì một điều chắc chắn là đô thị - cảng Óc Eo vẫn luôn giữ vai trò trung tâm kinh tế - văn hóa quan trọng và là trung tâm mậu dịch quốc tế lớn nhất của Phù Nam2. Văn hóa Phù Nam nổi bật lên tính cách của một nền văn hóa biển và văn hóa thương mại. Đành rằng, cảng thị Óc Eo đã hình thành từ một xã hội nông nghiệp lúa nước; nông nghiệp trồng lúa nước vùng đầm lầy giữ vai trò cung cấp lương thực cho cộng đồng cư dân, vùng núi phía đông bắc cung cấp lâm thổ sản, nhưng Phù Nam trở nên giàu mạnh là từ kinh tế biển và thương mại. Từ đầu Công nguyên đến thế kỷ V, con đường mậu dịch trên biển nối liền Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương men theo ven biển từ Trung Hoa qua ven biển Champa, Phù Nam, bán đảo Mã Lai rồi chuyển bộ qua eo Kra gọi là Takola và tiếp tục con đường ven biển qua các nước Nam Á đến Tây Á và từ đó nối với thế giới Địa Trung Hải. Phù Nam nằm trên vị trí cực kỳ thuận lợi của hải trình Đông - Tây này. Đế chế Phù Nam lại khống chế và kiểm soát toàn bộ con đường buôn bán ven biển qua bán đảo Mã Lai, bao gồm lưu vực sông Mékong, sông Ménam 1. Tân Đường thư, q. 222. 2. Xem Phan Huy Lê: “Qua di tích văn hóa Óc Eo và thư tịch cổ thử nhận diện nước Phù Nam”, trong Hội Khoa học lịch sử Việt Nam:Văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam, Kỷ yếu hội thảo khoa học nhân 60 năm phát hiện văn hóa Óc Eo (1944 - 2004), Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2004, tr.204 - 218. CHƯƠNG I: QUAN HỆ GIỮA NAM BỘ VỚI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC... 39 và bán đảo Mã Lai. Đô thị - cảng Ba Thê - Óc Eo sớm trở thành trung tâm mậu dịch quốc tế của Phù Nam và cả vùng Đông Nam Á lục địa. Trung tâm này không những là nơi giao dịch, mua bán giữa Phù Nam với nước ngoài mà còn là địa điểm dừng chân để lấy nước và mua sắm lương thực, thực phẩm của các con thuyền trên hải trình thương mại quốc tế. Thặng dư nông phẩm, sản phẩm rừng, biển và thủ công nghiệp đã tạo điều kiện cho sự phát triển nhanh chóng của thương nghiệp nội địa cũng như với bên ngoài. Bằng chứng đáng tin cậy của nền thương nghiệp Óc Eo là nhiều loại đồng tiền bằng bạc, đồng, kẽm. Có những đồng được cắt tư, cắt tám để làm tiền lẻ. Trước năm 1945, L. Malleret tìm thấy tại Óc Eo 15 đồng tiền và mảnh cắt tiền tại Nền Chùa, Đá Nổi, Kè Một và Gò Hàng. Những đồng tiền này không phải chỉ có ở châu thổ sông Cửu Long mà còn được tìm thấy tại các vùng đất ven vịnh Thái Lan, ở Myanmar và bán đảo Mã Lai. Sách Lương Tứ công tử ký (khoảng đầu thế kỷ VI) chép: “Một chiếc thuyền lớn của Phù Nam đến từ miền Tây Ấn Độ rao bán một cái kính bằng pha lê xanh, đường kính một bộ năm ngón, nặng 40 cân...”1. Điều này cho thấy cả một dòng thương nghiệp nối liền Óc Eo với Ấn Độ Dương bằng đường thủy thông qua vịnh Thái Lan và có thể cả bằng đường bộ theo đường nội địa. Ngoài đồng tiền, những quả cân nhỏ bằng kẽm và những con dấu (kiểu bản địa, kiểu Ấn Độ và cả kiểu La Mã, Hy Lạp) cũng là bằng chứng của một nền kinh tế thị trường mang tính quốc tế. Một chi tiết đáng lưu ý là có những đồng tiền được xem là loại tiền Phù Nam, có kiểu cách Địa Trung Hải. Những đồng tiền này có chất lượng thấp, chỉ dùng trong buôn bán nội địa nhưng lại rất phong phú về số lượng, phạm vi phân bố và hình dáng. Ở thời gian này, nó vượt xa hơn hẳn tất cả các nơi khác trên thế giới (ngoài Địa Trung Hải), điều đó phản ánh trình độ phát triển cao của mậu dịch quốc tế cũng như vị trí quốc tế của Phù Nam, mà những nơi tìm thấy loại tiền cổ này 1. Thái Bình ngự lãm, q. 808, tờ 15, mặt sau. 40 VÙNG ĐẤT NAM BỘ X TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI cũng chính là một phần trong giới hạn của Phù Nam, của xứ Kim Lân (Suvarna-bhumi) và của nước Đốn Tốn - thuộc quốc của Phù Nam mà Lương thư đã ghi chép. Các kết quả nghiên cứu cho thấy, vị trí của Phù Nam trên thương trường Đông Nam Á đã được “chuẩn bị” từ lâu. Các cư dân ven biển của châu thổ sông Mékong đã tiếp xúc với thương nhân bên ngoài từ nhiều thế kỷ trước Công nguyên. Các tàu thuyền của những người nói tiếng Malayo - Polynésien xuất phát từ Đông Nam Á đã tiến sang phía tây đến tận bờ biển châu Phi và phía bắc đến tận Trung Hoa. Họ đem bán những sản phẩm rất được ưa chuộng trên thị trường Ấn Độ như gia vị, hương liệu và trên thị trường Trung Hoa như xà cừ, đồi mồi, ngọc trai, san hô, mật và sáp ong, tổ yến,... Vào những thế kỷ II và III, miền Nam Sumatra trở thành một nơi hội tụ các luồng thương mại trong vùng biển Java. Từ đó, người Mã Lai lại chuyển hàng đến Óc Eo để gia nhập vào thị trường quốc tế1. Phù Nam được biết đến trong lịch sử như một cường quốc thương nghiệp từ giữa thế kỷ III đến đầu thế kỷ VI. Những chinh phục quân sự ở bán đảo Mã Lai đã hỗ trợ việc kiểm soát các lộ giao thương giữa Ấn Độ và vùng Đông Nam Á, cả đường thủy lẫn đường bộ. Vai trò cường quốc kinh tế của Phù Nam dần dần suy yếu từ khi trung tâm thương mại trong vùng được chuyển từ Óc Eo qua vùng eo biển Malacca ở phía nam bán đảo Mã Lai từ cuối thế kỷ V trở về sau. Các thư tịch cổ Trung Hoa cho biết, khoảng đầu thế kỷ V, Vua Trì Lê Đà Bạt Ma và các triều đại kế tiếp đã có quan hệ ngoại giao và thương mại với Trung Hoa. Sách Phù Nam truyện của Kháng Thái cũng phản ánh việc người Ấn Độ sang mua bán ở Phù Nam, kể cho vua Phù Nam là Phạm Chiên nghe về đất nước và con người Ấn Độ. Vua Phù Nam cũng cử phái bộ đến Ấn Độ thăm viếng và xem xét tình hình,... Việc 1. Xem Cao Xuân Phổ: “Óc Eo trong sự phát triển thương mại ở Đông Nam Á”, trong Văn hóa Óc Eo và các văn hóa cổ ở đồng bằng Cửu Long, Long Xuyên, 1984, tr.232-238; O.W.Wolters: Early Indonesian Commerce, a study of the origins of Srivijaya, Cornell University Press, Ithaca, New York, 1967. CHƯƠNG I: QUAN HỆ GIỮA NAM BỘ VỚI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC... 41 qua lại giao hảo và thông thương giữa Ấn Độ và Phù Nam càng trở nên mật thiết. Các sứ bộ Phù Nam cũng được cử sang Trung Hoa dưới thời Đông Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương, Đường,... để triều cống và xúc tiến thương mại giữa hai nước. Có thể nói, trong nhiều thế kỷ (từ giữa thế kỷ III đến giữa thế kỷ VII), việc buôn bán giữa Phù Nam với Trung Hoa có phần thuận lợi và phát đạt. Trong quá trình tồn tại, Phù Nam đã bang giao với nhiều nước ở cả phương Đông lẫn phương Tây. Năm 243, dưới thời Tam quốc, vua Phù Nam là Phạm Chiên đã cử phái bộ sang giao hảo với triều đình nhà Đông Ngô. Khoảng những năm từ 245 đến 250, dưới thời Tôn Quyền, triều đình nhà Đông Ngô phái Khang Thái (chức Trung lang) và Chu Ứng (chức Tuyên hóa tùng sự) đi sứ Phù Nam. Theo Lương thư, hai sứ giả Trung Hoa này đã gặp sứ giả Ấn Độ Trần Tống cùng phái đoàn Phù Nam vừa từ Ấn Độ trở về và đã hỏi han cặn kẽ về xứ sở và phong tục của nước Ấn Độ. Sách Phù Nam truyện của Khang Thái có viết: “Khi xưa, dưới thời Phạm Chiên, có một người nước Đàm Dương tên Gia Tường Lê từ Ấn Độ, đi từng chặng đường đã đến mua bán ở Phù Nam. Người ấy kể với Vua Phạm Chiên về những tập quán, vẻ huy hoàng và sự trù phú của Ấn Độ”1. Sau đó, Vua Phạm Chiên đã sai Tô Vật đi sứ sang Ấn Độ. Tô Vật và phái bộ xuống thuyền ở Đầu Câu Lợi2 đi đến cửa sông Hằng (sông Gange), đi ngược dòng sông đến tận triều đình Murunda. Quốc vương cho người đưa phái bộ đi thăm thú trong nước, và khi ra về, ông đã gửi tặng vua Phù Nam bốn con ngựa của xứ Nguyệt Chi (Indo - Scythe) và cho một người Ấn tên là Trần Tống tháp tùng phái bộ về đến Phù Nam. Thư tịch cho biết, cuộc hành trình này kéo dài đến 4 - 5 năm, khi đi thuộc triều đại Phạm Chiên, khi về thuộc triều đại Phạm Tầm. 1. Lịch Đạo Nguyên: Thủy kinh chú, q. 1, tờ 11, mặt sau. 2. Đầu Câu Lợi tức Takkola trên bờ biển phía tây bán đảo Mã Lai. 42 VÙNG ĐẤT NAM BỘ X TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI Sau những sứ bộ đầu tiên của Phù Nam và Đông Ngô, sự bang giao giữa Phù Nam và phía nam Trung Hoa diễn tiến đều đặn. Thời Tấn (266 - 420), Phù Nam ba lần cử sứ bộ sang thăm vào các năm 268, 285, 287. Những cuộc viếng thăm này đã có tác động thúc đẩy nền thương nghiệp hàng hải giữa hai phía, nhất là sau khi nhà Tấn thống nhất Trung Hoa, cũng như sự gia tăng nhu cầu của phương Bắc đối với sản vật và xa xỉ phẩm từ các nước phía Nam. Trong thời gian này, năm 357, Vua Chiên Đàn phái sứ bộ đem theo một tờ biểu và voi thuần sang cống triều đình nhà Tấn. Tấn Mục Đế không nhận lễ vật, ra chiếu chỉ trả lại1. Trì Lê Đà Bạt Ma nối ngôi đã tiếp tục đẩy mạnh quan hệ bang giao và thương mại với Trung Hoa. Tống thư cho biết, các sứ bộ Phù Nam sang triều cống nhà Tống những phẩm vật địa phương vào các năm 434, 435, 438. Trước đó có một sự kiện xảy ra, khoảng năm 431 - 432, nước Lâm Ấp muốn đánh chiếm đất Giao Châu, ngỏ ý mượn quân của Phù Nam, nhưng Phù Nam đã khước từ đề nghị của Lâm Ấp2. Vào cuối thời Tống, Đồ Tà Bạt Ma cử các thương gia sang Quảng Châu buôn bán. Năm 484, dưới triều Nam Tề (479 - 501), vua Phù Nam ủy nhiệm hòa thượng Ấn Độ là Sakya Nagasena (Sa Kỳ Na Già Tiên) đi sứ sang Nam Tề dâng tặng một số lễ vật và một bản thỉnh cầu dài với lời lẽ nhún nhường. Vua Nam Tề đã trả lời một cách khéo léo3. Sau khi nhà Nam Tề kết thúc, nhà Lương thành lập (502 - 556), năm 503, Đồ Tà Bạt Ma lại phái sứ bộ sang dâng cống phẩm. Nhân dịp này, vua Lương phong cho 1. Chiếu chỉ viết: “Ngày xưa các đấng tiên vương đôi khi cho rằng cầm thú lạ ở các nước phương xa mang tới là nguyên nhân gây ra những điều không lành cho dân chúng (...), có thể trả chúng về xứ (...). Tổn phí cho các thú vật như thế không phải là nhỏ, không nên gửi qua nữa” (Tấn thư, q. 8, tờ 4, mặt sau; q. 97, tờ 7, mặt sau; Lương thư, q.54, tờ 2-5). Sự từ chối này là một trường hợp bất thường, có lẽ thái độ đó của Tấn vương xuất phát từ chỗ vua Phù Nam là Chiên Đàn là người soán ngôi, chưa được công nhận về mặt ngoại giao. 2. Tống thư, q. 5, tờ 5 - 6; q. 97, tờ 1 - 2; Nam Tề thư, q. 58, tờ 4,... 3. Nam Tề thư, q. 58, tờ 4. CHƯƠNG I: QUAN HỆ GIỮA NAM BỘ VỚI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC... 43 Đồ Tà Bạt Ma tước An Nam tướng quân Phù Nam vương. Các sứ bộ tiếp tục được cử sang Trung Hoa vào các năm 511, 514. Thời Lưu Đà Bạt Ma (Rudravarman), hoạt động ngoại giao và thương mại giữa Phù Nam và Trung Hoa vẫn được duy trì. Vị vua này tiếp tục cử phái bộ sang Trung Hoa vào những năm 517, 519, 520, 530, 535 và 539. Đây cũng là thời kỳ Phật giáo phát triển mạnh trên vùng đất Phù Nam. Đạo Phật ở Phù Nam phát triển đến mức “Phù Nam đã trở thành một trung tâm Phật giáo lớn nhất Đông Nam Á” trong thời bấy giờ. Phật giáo từ đây đã có ảnh hưởng đến miền Nam Trung Quốc. Khoảng năm 535 - 545, triều đình nhà Lương đã cử một sứ bộ đến Phù Nam xin nhà vua cho sưu tầm kinh Phật và thỉnh cầu gửi các cao tăng sang giảng dạy Phật pháp ở Trung Hoa. Vua Phù Nam phái hòa thượng Ấn Độ là Paramartha (hay Gunarathna) lúc đó đang hành đạo ở Phù Nam mang theo 240 bộ kinh đến triều đình Trung Hoa vào năm 5461. Theo Tân Đường thư, dưới thời các vua Đường Cao Tổ (618 - 626) và Đường Thái Tông (627 - 649), Phù Nam vẫn còn gửi các sứ bộ sang Trung Hoa, nhưng không ghi rõ do vua nào phái đến và họ đến từ đâu2. Về sự sụp đổ của Phù Nam, qua nhiều nguồn sử liệu, có thể khẳng định, sự sụp đổ của Phù Nam trước hết là do Chân Lạp tấn công tiêu diệt. Tùy thư Trung Hoa xác định rõ: “nước Chân Lạp nằm về phía tây nam nước Lâm Ấp, nguyên là một nước chư hầu của Phù Nam”3. Cụ thể hơn, vị trí của nước Chân Lạp là vùng rừng núi Bassac ở trung du sông Mékong (miền Nam nước Lào ngày nay). Bhavavarman - cháu của vua Phù Nam Lưu Đà Bạt Ma (Rudravarman) - cưới một nàng công chúa Chân Lạp và sau đó trở thành vua nước này4. 1. G. Coedès: The Indianized States of Southeast Asia, University of Hawaii Press, Honolulu, 1968, p.60; W. Pachow: “The Voyage of Buddhist Missions to South - East Asia and the Far East”, Journal of the Greater India Society, XVII, 1-2, 1958, pp.9-12. 2. Nhiều người cho là đến từ Na Phất Na, vì lúc này, kinh đô Đặc Mục (Naravaranagara) của Phù Nam nằm trong sự quản lý của Chân Lạp. 3. Tùy thư, q. 82, tờ 3, mặt trước. 4. Sách Thông chí, q. 198, tập 18. 44 VÙNG ĐẤT NAM BỘ X TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI Cuộc hôn nhân với công chúa Chân Lạp đã đem lại cho Bhavavarman sức mạnh. Ông đã giải phóng Chân Lạp khỏi sự lệ thuộc vào Phù Nam. Chân Lạp trở thành một quốc gia độc lập và điều quan trọng là, chính họ đã tự “giải phóng dân bản địa khỏi xiềng xích của triều cống”. Điều đó cũng có nghĩa rằng, từ khoảng giữa thế kỷ VI, Chân Lạp không những đã dần thoát ra khỏi sự cương tỏa của Phù Nam mà còn “ngày càng tăng quyền lực ở đất nước” và bắt đầu tấn công trở lại Phù Nam. Song, các nhà nghiên cứu cho rằng, việc Lưu Đà Bạt Ma (Rudravarman) giết anh cả mình là Thái tử Gunavarman để cướp ngôi là nguồn gốc sâu xa dẫn đến sự suy tàn của Phù Nam. Khoảng năm 550, một người tay chân của Thái tử Gunavarman đem quân chống lại Rudravarman, chiếm kinh đô Vyadhapura (Đặc Mục), rồi lên làm vua1. Sau đó, Bhavavarman, được em là Chitrasena giúp sức, từ Chân lạp đem quân tiến chiếm kinh đô Đặc Mục. Vua Phù Nam phải chạy xuống phía Nam, lập triều đình “lưu vong” tại Na Phất Na2. Bhavavarman hợp nhất Phù Nam với Chân Lạp. Sự kiện này được Tân Đường thư ghi lại: “Vua Phù Nam đóng đô ở Đặc Mục. Đột nhiên thành bị quân Chân Lạp đánh phá, nhà vua phải bôn tẩu về phía Nam đến thành Na Phất Na”3 (Naravaranagara, theo Giáo sư Lương Ninh thì đây có thể là vùng đô thị - cảng Ba Thê - Óc Eo)4. Bằng những chứng cứ khoa học từ cuộc khai quật khảo cổ, G. Malleret kết luận: Óc Eo đã vấp phải “một sự tàn phá đột ngột”. Ông cho biết, “cuộc khai quật của chúng tôi đã phát lộ những thảm cát đứt đoạn chứa những tàn tích của nghề kim hoàn, như những nồi nấu còn dính vẩy vàng, đá thử, thoi vàng, đồ trang sức làm dở, những mảnh vụn của xưởng thợ bị sụp đổ, cho thấy 1. Không thấy ghi tên trong các thư tịch cổ Trung Hoa. 2. Vùng Angkor Borei. Gần đây có người cho là khu Óc Eo. 3. Tân Đường thư, q. 222 hạ, tờ 2, mặt trước. 4. Xem Lương Ninh: Vương quốc Phù Nam - Lịch sử và văn hóa, Sđd. CHƯƠNG I: QUAN HỆ GIỮA NAM BỘ VỚI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC... 45 như có một sự tàn phá đột ngột, thô bạo, hoàn toàn không phải một sự suy thoái từ từ”1. Năm 600, Chitrasena nối ngôi anh, làm vua Chân Lạp, tiếp tục mở rộng lãnh thổ. Năm 615, Chitrasena mất, con là Isanavarman lên làm vua. Khoảng năm 630, Isanavarman chiếm Na Phất Na. Nước Phù Nam kết thúc sự tồn tại. Sự kiện này cũng được ghi lại trong Tùy thư: “Họ vua là Sát Lỵ (Ksatrya), tên là Trì Đà Tư Na (Chitrasena), tổ tiên ông đã dần hồi phát triển quyền lực của xứ sở. Trì Đà Tư Na đánh chiếm Phù Nam và khuất phục nước đó”2. Sách Cao Miên quốc khảo (Khảo về nước Cao Miên) cũng đã thừa nhận: từ một thuộc quốc của Phù Nam, bằng chiến tranh xâm lược, Chân Lạp đã hoàn toàn thôn tính Phù Nam trong thế kỷ thứ VII3. Bắt đầu từ Tùy thư (soạn năm 636) viết về triều Tùy đã không thấy chép mục Phù Nam nữa mà trong Liệt truyện Nam Man chỉ có ghi bốn nước là Lâm Ấp, Xích Thổ, Chân Lạp và Bà Lợi. Như vậy, sau một thời gian cầm cự, đến đầu thế kỷ VII, sự tồn tại của Phù Nam với tư cách một quốc gia độc lập, một đế chế hùng mạnh có ảnh hưởng không chỉ với khu vực Đông Nam Á mà còn tạo được dấu ấn đối với nhiều nước trên thế giới chấm dứt. Khi phân tích nguyên nhân của sự suy yếu dẫn đến sụp đổ của đế chế Phù Nam, ngoài yếu tố chính trị - quân sự, các nhà nghiên cứu còn chỉ ra những nguyên nhân từ trong mối quan hệ giữa đế chế với các 1. L. Malleret: “L’ Archeologie du delta du Mekong”, Tome III: La Culture du Fou-Nan, L’École Française d’ Extrême - Orient, XLIII, Paris, 1962, pp.4-5. 2. Tùy thư, q. 82, tờ 3, mặt trước. 3. Theo PGS.TS. Trần Đức Cường thì đến thế kỷ thứ VII, lợi dụng lúc nước Phù Nam suy yếu, nước Bhavacura (người Trung Quốc gọi là Chân Lạp) được hình thành từ một thuộc quốc của Phù Nam (có địa bàn ở vùng đông bắc Campuchia hiện nay), xâm chiếm Phù Nam. Cho đến lúc đó, người Chân Lạp mới đặt chân đến vùng đất Nam Bộ. Sau khi nước Phù Nam bị Chân Lạp thôn tính, có bốn quốc vương Phù Nam còn giữ được một số vùng ở miền Tây Nam Bộ hiện nay tìm cách khôi phục quốc gia đã bị mất, nhưng không thành. Mãi đến năm 649, triều đại Phù Nam mới thực sự chấm dứt. 46 VÙNG ĐẤT NAM BỘ X TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI quốc gia “thân thuộc”. Mô hình tổ chức của đế chế Phù Nam chủ yếu dựa trên quan hệ thần phục dưới những hình thức và mức độ khác nhau với nước tôn chủ. Phạm vi đế chế khống chế con đường thông thương hàng hải của vùng Đông Nam Á lục địa nên dưới sự chi phối của Phù Nam có nền mậu dịch quốc tế mạnh, các nước thành viên đều được chia lợi trong xuất khẩu các lâm thổ sản và các sản phẩm thủ công cũng như trong nhập khẩu và buôn bán các hàng hóa nước ngoài. Nhưng do quan hệ thần phục lỏng lẻo nên mỗi khi các nước thành viên phát triển và lớn mạnh thì các mâu thuẫn trong nội bộ đế chế sẽ phát sinh và làm suy yếu đế chế. Hơn nữa, vương quốc Phù Nam tuy có hạm đội mạnh trong thời gian chinh phục thành lập đế chế, nhưng trên cơ sở kinh tế thương mại, việc phòng thủ không được chăm lo, thậm chí có lúc mời người nước ngoài vào làm vua. Cơ chế quản lý và vận hành của đế chế Phù Nam mang nặng tính chất liên kết kinh doanh, thương mại, rất linh hoạt nhưng cũng rất lỏng lẻo. Ngoài ra, bối cảnh mậu dịch khu vực từ thế kỷ V cũng có những chuyển biến bất lợi cho vị thế thương mại của Phù Nam. Do sự phát triển của nghề hàng hải và kinh tế các nước trong khu vực Đông Nam Á lục địa và hải đảo, hải trình qua eo biển Kra chuyển dần xuống phía nam qua eo biển Malacca (Maleka) và Sunda. Từ thế kỷ VI, hải trình này càng ngày càng giữ vai trò chi phối trên con đường biển từ Thái Bình Dương sang Ấn Độ Dương, từ Trung Quốc qua Đông Nam Á sang Ấn Độ. Nền mậu dịch đối ngoại của Phù Nam bị ảnh hưởng nghiêm trọng, làm suy yếu nền kinh tế của vương quốc và cả đế chế nói chung1. Và theo một số nhà địa chất học, trong giai đoạn Holocène muộn, có một đợt biển tiến quy mô nhỏ ở vùng đồng bằng Nam Bộ, gọi là biển tiến Holocène IV khoảng từ giữa thế kỷ IV đến giữa thế kỷ XII mà vào giữa thế kỷ VII mức nước cao trung bình là 0,8 m. Chính đợt biển tiến 1. Xem Phan Huy Lê: “Qua di tích văn hóa Óc Eo và thư tịch cổ thử nhận diện nước Phù Nam”, trong Văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam, Sđd, tr.229-239. CHƯƠNG I: QUAN HỆ GIỮA NAM BỘ VỚI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC... 47 này là một nhân tố thiên nhiên ảnh hưởng đến sự tồn vong của nước Phù Nam1. Việc Chân Lạp thôn tính Phù Nam vào cuối thế kỷ VI, đầu thế kỷ VII (550 - 630) đã mở ra một thời kỳ mới cho Chân Lạp: thời kỳ Chân Lạp - Tiền Angkor (675 - 685). Danh từ Chân Lạp (Tchenla) xuất hiện trong khoảng thời gian từ năm 618 - 649 khi địa danh Phù Nam đã biến mất, là tên gọi của các sử gia Trung Quốc về vương quốc này2. Theo thư tịch cổ Trung Quốc, Chân Lạp còn có tên là Cát Miệt (Đường thư)3 hoặc là Chiêm Lạp (Tống sử), đến triều Nguyên, Minh lại gọi là Chân Lạp (Minh sử). Giới quý tộc thượng lưu Chân Lạp đã thừa hưởng những gì mà người Phù Nam tạo dựng được trong bảy thế kỷ. Họ tiếp thu những thành tựu văn hóa của người Phù Nam để lại (văn hóa Óc Eo), để rồi hình thành nên phức hợp văn hóa mới mà các nhà nghiên cứu gọi là “Văn hóa hậu Óc Eo”. Vương quốc Phù Nam chấm dứt sự tồn tại vào đầu thế kỷ VII. Nhưng lịch sử Phù Nam cùng với di sản văn hóa Óc Eo trên vùng đồng bằng sông Cửu Long là một dòng chảy góp phần tạo thành của lịch sử, văn hóa Việt Nam mà dòng chủ lưu là văn hóa Đông Sơn - Văn Lang, Âu Lạc4. Vào đầu thế kỷ VIII, sau những mâu thuẫn trong nội bộ tập đoàn thống trị dẫn đến xung đột, Chân Lạp bị chia làm hai vùng với hai thế lực cát cứ. Đường thư chép: “Sau năm Thần Long (niên hiệu vua Đường Trung Tông (705 - 710) chia làm hai nước. Phía Bắc nhiều núi đồi và thung lũng gọi là Lục Chân Lạp, phía Nam có biển bao bọc và có nhiều ao hồ gọi là Thủy Chân Lạp. Đất đai của Thủy Chân Lạp khoảng 1. Xem H. Fontaine - G. Delibrias: “Niveaux marins pendant le Quaternaire au Vietnam (Sea levels during the Quaternary in Vietnam)”, Extrait des Archives Géologiques du Viet-Nam, No. 17, 1974, pp.35-44. 2. Cho đến nay vẫn chưa hiểu ý nghĩa của danh từ này vì không có một chữ Phạn nào phát âm giống tiếng Chân Lạp cả (Xem Lê Hương: Sử Cao Miên, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1970, tr.46 - 47). 3. Theo Hà Văn Tấn: Cát Miệt là phiên âm tên của Khmer. 4. Xem Phan Huy Lê: “Qua di tích văn hóa Óc Eo và thư tịch cổ thử nhận diện nước Phù Nam”, trong Văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam, Sđd, tr.229-239. 48 VÙNG ĐẤT NAM BỘ X TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI 800 dặm. Nhà vua đóng ở kinh thành Bà La Đề Bạt (Baladityapura). Lục Chân Lạp còn gọi là Văn Đan hay là Bà Lâu, đất đai rộng khoảng 700 dặm”. Theo Mã Đoan Lâm, người đời Tống chép trong sách Văn hiến thông khảo thì nửa phía Bắc vùng đồi núi và thung lũng gọi là Lục Chân Lạp, nửa phía Nam có biển bao quanh và đầm lầy gọi là Thủy Chân Lạp. Thế kỷ VIII là thời gian diễn ra nhiều biến động đối với lịch sử Chân Lạp. Đất nước đã làm sụp đổ đế chế Phù Nam, tiêu diệt đến cùng vương quốc Phù Nam vào đầu thế kỷ VII, đến đây đã trở nên suy yếu và một lần nữa trở thành vương quốc phụ thuộc vào nước khác. Đến khoảng thế kỷ VIII, có một hiểm họa lớn xảy ra ở vùng lãnh thổ được gọi là Chân Lạp, gồm cả Nam Bộ, theo văn hiệu do Abou Zaya Hassan (năm 916), người đồng hương của thương nhân Sulayman, ghi lại thì bấy giờ đội quân cướp biển người Java đã xâm nhập vào châu thổ sông Mékong, lên đến thành Cambhupura, đốt thành, vây hãm cung điện, bắt vua Chân Lạp, chặt đầu và đem về Java; Chân Lạp phải thần phục Java, mỗi sáng phải quay mặt về vương quốc Java, cúi đầu tận đất để bái lễ. Chắc hẳn, vào thời gian đó cả vùng châu thổ sông Cửu Long bị tàn phá bởi quân cướp biển Java, nhiều khu quần cư và kiến trúc đền đài, đền tháp trên giồng cát biển, trên thềm phù sa cổ ven sông đã bị đập phá, trở thành phế tích cho đến tận ngày nay1. Mãi đến đầu thế kỷ IX, Chân Lạp mới thực sự khôi phục lại nền độc lập của mình. Các nhà nghiên cứu cho biết, năm 767, người Côn Lôn (chủ các đảo phía Nam nói chung) và người Đồ Bà (Java) đã vào đánh phá tại Giao Châu, nhưng thất bại, phải rút ra biển. Năm 774, quân Java đã đánh phá Champa2. Năm 787, quân đội Java cưỡi chiến thuyền sang đánh vào đền Bhadradhipatisvara ở phía tây thành Virapura (gần Phan Rang). Chân Lạp hầu như đã trở thành một nước phụ thuộc 1. Lê Xuân Diệm: “Vị thế Nam Bộ thời cổ (Tiếp cận từ cổ địa đến cổ sử)”, trong Mấy vấn đề tiến trình lịch sử xã hội, Sđd, tr.20-73. 2. Sự kiện này được ghi trên tấm bia ở Tháp Bà (Ponagar) Nha Trang: “... Tàn bạo như thần chết, đi thuyền đến đốt phá ngôi đền”. CHƯƠNG I: QUAN HỆ GIỮA NAM BỘ VỚI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC... 49 của Virapura vào thế kỷ VIII1. Cuối thế kỷ VIII, thế lực của triều đại Sailendra suy thoái trầm trọng. Lợi dụng thời cơ đó, vào đầu thế kỷ IX, Jayavarman II, hoàng tử Chân Lạp, dòng dõi Phù Nam đang lưu vong tại Java, đã trở về giải phóng Chân Lạp khỏi ách lệ thuộc của Srivijaya, thống nhất Thủy Chân Lạp và Lục Chân Lạp (năm 802), sáng lập vương triều Angkor. Sau khi khôi phục được độc lập, từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XII là thời kỳ phát triển rực rỡ của Chân Lạp. Ngay từ đầu thế kỷ X, Chân Lạp đã bước vào giai đoạn củng cố, khôi phục thế lực của mình và đây cũng là thời kỳ nảy nở của văn minh Angkor. Tuy nhiên, cũng chính trong thời gian này, vương quốc Srivijaya ở Sumatra đã kiểm soát được các eo biển trong vùng, trở thành một thế lực hàng hải mạnh mẽ. Sang thế kỷ XI, Chân Lạp phát triển ảnh hưởng của mình đối với các nước trong khu vực. Dưới triều Vua Suryavarman (1002 - 1050), Chân Lạp đã bành trướng thế lực về phía tây đến tận thung lũng Ménam (Thái Lan). Thế kỷ XII, dưới triều Vua Suryavarman II (1113 - 1145), Angkor đã phát triển thế lực tới đỉnh cao chinh phục. Sử cũ cho biết, năm 1128, vua Tống phong cho Suryavarman II làm Quốc vương Chân Lạp. Đây là thời kỳ Chân Lạp triển khai xây dựng công trình Angkor Wat. Sau thời kỳ phát triển rực rỡ, đến cuối thế kỷ XII, những tranh chấp nội bộ đã khiến vương quốc Angkor suy vong. Năm 1149, Chân Lạp đã chiếm đóng phía Bắc Champa cùng thành Vijaya nhưng đến năm 1177, quân Champa lại tiến vào chiếm đóng Angkor. Một điều đáng lưu ý là trong suốt thời gian dài là chủ nhân của vùng đất Phù Nam cũ, về sau tương ứng với Thủy Chân Lạp, triều đình Chân Lạp đã không thể hiện khả năng khai thác “cái bí tàng” của đất trời Nam Bộ, không phát huy được những gì mà người Phù Nam tạo dựng nên 1. Nguồn gốc của sự chuyển biến đó được một tác giả Arập ghi chép lại vào đầu thế kỷ X (Theo Huỳnh Lứa: “Về những nguyên nhân dẫn đến sự suy yếu và diệt vong của vương quốc Phù Nam”, trong Văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam, Sđd, tr.348-351). 50 VÙNG ĐẤT NAM BỘ X TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI trong nhiều thế kỷ trước đó, thậm chí còn làm cho nó ngày càng suy tàn đến cùng kiệt. Thực tế lịch sử cho thấy, từ sau khi vương quốc Phù Nam bị Chân Lạp thôn tính, phần lớn vùng đất Nam Bộ ngày nay không được triều đình Chân Lạp quan tâm và không thực thi quyền lực của mình (như xây dựng tổ chức chính quyền, quản lý đất đai và cư dân cũng như tổ chức sản xuất,...) trên địa bàn đã xâm chiếm được của vương quốc Phù Nam. Họ chủ yếu lo tổ chức những cuộc chiến tranh xâm lược và chủ trương tập trung phát triển ở vùng trung tâm truyền thống của người Khmer ở khu vực Biển Hồ, trung lưu sông Mékong,... Có thể nói, trong suốt gần 10 thế kỷ, một phần lớn lãnh thổ của vương quốc Phù Nam không được Chân Lạp để ý đến và trở nên hoang vắng với rừng rậm bạt ngàn và chằm phá, sình lầy mênh mông. Kết quả khảo cổ học cho thấy trong gần 10 thế kỷ (VII - XVI), dấu ấn của người Khmer trên vùng đất Nam Bộ hết sức mờ nhạt1. Thế kỷ XIII, Châu Đạt Quan, người Trung Quốc (tác giả sách Chân Lạp phong thổ ký), đã đến vùng đất Nam Bộ ngày nay đúng vào thời điểm đế quốc Angkor phát triển cực thịnh nhất, nhưng ông vẫn chỉ thấy toàn là cây mây cao vút, cổ thụ, cát vàng, lau sậy trắng và "xa hơn tầm mắt chỉ toàn là cỏ kê đầy dẫy. Hàng trăm hàng ngàn trâu rừng tựu họp từng bầy"2. Mãi đến ba thế kỷ sau, kể từ ngày Châu Đạt Quan có mặt ở đây, cảnh quan miền đất này cũng không có gì thay đổi, vẫn hoang vu, rậm rạp, sình lầy, là nơi trú ngụ của côn trùng và muông thú. Thậm chí cho đến nửa sau thế kỷ XVIII, trong tác phẩm Phủ biên tạp lục, tác giả Lê Quý Đôn còn cho biết: "Ở phủ Gia Định, đất Đồng Nai, từ các cửa biển Cần Giờ, Lôi Lạp, cửa Đại, cửa Tiểu trở vào, toàn là rừng rậm hàng nghìn dặm”3. 1. Xem Huỳnh Lứa: “Về những nguyên nhân dẫn đến sự suy yếu và diệt vong của vương quốc Phù Nam”, trong Văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam, Sđd. 2. Châu Đạt Quan: Chân Lạp phong thổ ký, Nxb. Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 2007, tr.73. 3. Lê Quý Đôn: Toàn tập, tập 1: Phủ biên tạp lục, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977, tr.243. CHƯƠNG I: QUAN HỆ GIỮA NAM BỘ VỚI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC... 51 Các sử gia cho rằng, miền hoang địa gần như vô chủ ấy, thực sự được đánh thức khi lớp lưu dân người Việt đầu tiên đặt chân đến, vào khoảng đầu thế kỷ XVII. Nguồn sử liệu biên niên của nước ta như Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, Đại Nam thực lục (Tiền biên); Đại Nam liệt truyện, Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn,... cũng như biên niên sử Khmer và một số tài liệu khác cho biết quá trình khai phá và mở mang miền đất Nam Bộ ngày nay của cư dân Việt diễn ra từ rất sớm. 2. Văn hóa Óc Eo - Dấu ấn của sự giao lưu, hội nhập Khi nghiên cứu về văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam, đã có không ít người đồng nhất giữa văn hóa Óc Eo với văn hóa Phù Nam. Vì vậy, việc đầu tiên là phải làm rõ nội hàm của hai nền văn hóa đó, dù chỉ mang tính tương đối. Những kết quả khai quật khảo cổ học từ trước đến nay đã cho thấy, văn hóa Óc Eo phân bố trên một phạm vi rộng lớn thuộc vùng hạ lưu sông Mékong. Nhiều di tích kiến trúc, cảng thị, mộ táng cùng một khối lượng di vật cực kỳ đồ sộ cho phép thấy rõ trình độ phát triển cao và những đặc điểm của nền văn hóa này. Tuy nhiên, để xác định rõ mối tương quan giữa “văn hóa Óc Eo”, “văn hóa Phù Nam” và vương quốc Phù Nam, cần phải căn cứ vào hai yếu tố không gian và thời gian tồn tại của mỗi đối tượng nghiên cứu. Về mặt thời gian, căn cứ vào kết quả xác định niên đại bằng phương pháp phóng xạ đồng vị (C14), những di tích thuộc văn hóa Óc Eo tồn tại từ thế kỷ I cho đến thế kỷ IX, trong khi đó, thời gian tồn tại của vương quốc Phù Nam từ thế kỷ I đến thế kỷ VII. Do đó, khái niệm “văn hóa Phù Nam” được sử dụng như là “văn hóa Óc Eo” của Phù Nam chỉ tính đến thế kỷ VII. Từ thế kỷ VII đến thế kỷ IX, “văn hóa Óc Eo” không thuộc phạm trù “văn hóa Phù Nam”. Về mặt không gian, Phù Nam từ một vương quốc ở thế kỷ I, đến thế kỷ III đã phát triển lên thành một đế chế ở Đông Nam Á với phạm vi rộng lớn hơn rất nhiều so với địa bàn trung tâm của vương quốc 52 VÙNG ĐẤT NAM BỘ X TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI Phù Nam và so với địa bàn phân bố của văn hóa Óc Eo. Vì vậy, có thể xem “văn hóa Óc Eo” là văn hóa của vương quốc hay quốc gia Phù Nam, chứ không thể là văn hóa của toàn bộ đế chế Phù Nam. Tất nhiên, trong quá trình tồn tại của đế chế (từ thế kỷ III đến thế kỷ VII), và dưới sự chi phối của Phù Nam, các thuộc quốc đã tiếp nhận những ảnh hưởng và du nhập một số sản phẩm của nước tôn chủ, nghĩa là cũng mang những yếu tố của văn hóa Phù Nam, tức văn hóa Óc Eo1. Kết quả nghiên cứu cho biết, văn hóa Óc Eo có địa bàn phân bố chủ yếu là miền Tây Nam Bộ ngày nay, mật độ tập trung là ở những vùng đất có địa hình thấp trũng: Tứ giác Long Xuyên, Rừng U Minh, Ô Môn - Phụng Hiệp, Đồng Tháp Mười và vùng duyên hải ngập mặn Cần Giờ - Nhơn Trạch - Tân Thành. Những di tích văn hóa Óc Eo trong các vùng đất này2 có diện tích rộng khoảng vài chục hécta đến cả trăm hécta, chúng được liên kết với nhau bằng những đường nước cổ tự nhiên, nhân tạo hợp thành một không gian xã hội có bố cục chặt chẽ nhưng lại thoáng mở về phía biển lẫn phía nội địa. Xét về nội hàm thì “văn hóa Óc Eo” là sản phẩm văn hóa vật chất thuộc bộ phận biển Phù Nam - Ấn Độ hóa, nền văn hóa có cội nguồn kết gắn với truyền thống văn hóa đồng - đá và kim khí bản địa. Nghĩa là, 1. Các nhà khảo cổ học quốc tế cũng đã phát hiện một số di vật Óc Eo hay chịu ảnh hưởng văn hóa Óc Eo tại một số địa điểm trong phạm vi đế chế Phù Nam như ở Pong Tuk, U Thong vùng hạ lưu sông Ménam, vùng Chumpon gần eo Kra trên bán đảo Mã Lai... và coi đó là những yếu tố của văn hóa Phù Nam/ văn hóa Óc Eo. (Theo Phan Huy Lê: “Qua di tích văn hóa Óc Eo và thư tịch cổ thử nhận diện nước Phù Nam”, trong Văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam, Sđd, tr.229-239). 2. Những di tích văn hóa Óc Eo ở Nam Bộ từ thế kỷ I đến đầu thế kỷ VII: - Di tích cư trú: Óc Eo - Ba Thê, Nền Chùa, Cạnh Đền, Gò Hàng, Gò Tháp Mười. - Di tích kiến trúc: Gò Chiêu Liêu, Gò Ông Tùng, Cây Gáo 1, Cây Gáo 2, Nền Chùa, Gò Cây Trôm, Gò Tháp Mười, Gò Xoài, Gò Cây Thị, Gò Cây Thị B, Gò Thành, Linh Sơn Nam, Gò Đồn. - Di tích mộ táng: Nền Chùa, Óc Eo, Đá Nổi, Cạnh Đền, Gò Tháp, Gò Thành, Thành Mới, Đồng Bơ. CHƯƠNG I: QUAN HỆ GIỮA NAM BỘ VỚI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC... 53 văn hóa Óc Eo có nội hàm văn hóa vật thể đa dạng hơn, phong phú hơn và phát triển ở trình độ cao hơn so với văn hóa tiền Óc Eo. Cư dân Phù Nam đã biến những gì tiền nhân để lại thành tài sản vô giá, làm hành trang cho sự thăng tiến của mình. Vào những thế kỷ đầu Công nguyên, văn hóa Óc Eo đã hình thành bằng sự kế thừa phát triển những yếu tố nội sinh đó và sự tiếp thu những yếu tố văn hóa mới qua những dòng giao lưu của thời đại. Theo L. Malleret, trong nền văn hóa Óc Eo tồn tại cả những yếu tố văn hóa bản địa lẫn các yếu tố văn hóa du nhập từ bên ngoài. Giáo sư Hà Văn Tấn cũng đã nhận định: Trước hết, chúng ta có thể nhận ra rằng thành thị Óc Eo không phải đã mọc lên trên một vùng hoang vắng không dân cư, mà khu vực này đã là một điểm tụ cư từ rất sớm, ít ra là từ hậu kỳ đá mới hay sơ kỳ thời đại kim khí. Những chiếc rìu hay bôn bằng đá, có vai hoặc tứ giác, tìm thấy ở Óc Eo và các địa điểm như Đá Nổi, Núi Sập đã cho biết điều đó. Chính yếu tố truyền thống đó đã làm nên sức mạnh giúp người Phù Nam vượt qua khó khăn, và trong 10 thế kỷ đầu Công nguyên, các cộng đồng cư dân cổ ở vùng châu thổ sông Mékong đã trải qua nhiều thăng trầm và biến động trong lịch sử, nhưng nền kiến trúc ở Nam Bộ vẫn phát triển một cách liên tục. Sức sống bền bỉ và mãnh liệt đó hẳn đã bắt nguồn từ những truyền thống xa xưa trong quá khứ và một bản lĩnh sinh tồn khác thường của người dân châu thổ. L. Malleret đã hoàn toàn có lý khi cho rằng, tính chất nổi bật của văn hóa Óc Eo là hai khái niệm quan trọng: một là, sự lâu dài của địa điểm cư trú thể hiện ở lớp phế thải của đồ dùng và thức ăn rất dày, ở tầng nền kiến trúc bằng gạch, được gia cố chắc chắn, ở những phiến đá granit bề mặt rộng 3 x 3 m, dày 0,15m, chưa rõ làm nền hay làm tường1; và hai là, sự đa dạng rất lớn của tính chất các hiện vật của nguồn gốc, người sử dụng và cả thời đại của nó. Ở đây có cả dụng cụ ba thời: đá, đồng và sắt. Nó có những công trình chống áp lực thủy triều, bằng những vật liệu nặng, chắc chắn, có dáng vẻ một đô thị, có một nền văn 1. Xem Lương Ninh: “Nam Bộ Việt Nam - từ thời tiền sử và sơ sử”, trong Văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam, Sđd, tr.146. 54 VÙNG ĐẤT NAM BỘ X TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI hóa làm nền cho nó, “cho ta nghĩ tới một xã hội, một thiết chế có tổ chức, chứ không phải một thương điếm, một thời”1. Tuy nhiên, phải thấy rằng, Óc Eo - Phù Nam tồn tại và phát triển trong một bối cảnh chung của khu vực và trong chiều hướng giao lưu thế giới diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Thực tế cho thấy, từ nhiều thế kỷ trước Công nguyên, các dân tộc vùng Đông Nam Á đã biết sử dụng sức kéo của động vật (voi, trâu) và sức đẩy của gió (thuyền buồm); họ đã nắm được những đặc điểm lý tính của kim loại và phản ứng hóa học tác động vào sự nóng chảy của đồng đỏ. Họ đã nắm được quy luật gió mùa, chu kỳ mặt trăng, mặt trời trong năm. Từ hơn 300 năm trước Công nguyên, họ đã làm quen với văn minh Ấn Độ và Địa Trung Hải qua sự tiếp xúc với những thương nhân người Ấn, người Ả Rập, người La Mã, ngoài khơi Thái Lan và Ấn Độ Dương2. Vào thời đại Óc Eo, khi sản xuất nông nghiệp đã phát triển đến một mức có thể nuôi sống những người không trực tiếp sản xuất lương thực, đã kéo theo sự phát triển mạnh mẽ của thủ công nghiệp (tất nhiên trong điều điều kiện tồn tại của nó là tay nghề khéo, nguyên liệu và thị trường). Trên cơ sở thặng dư nông phẩm và sản phẩm thủ công nghiệp phong phú, thương nghiệp nội địa cũng như việc trao đổi buôn bán với bên ngoài đã phát triển nhanh chóng. Các cư dân ven biển ở châu thổ sông Mékong đã tiếp xúc với các thương nhân bên ngoài từ nhiều thế kỷ trước đó. Các tàu thuyền của những người nói tiếng Malayo - Polynésien xuất phát từ Đông Nam Á đã đi sang phía tây, đến tận bờ biển châu Phi và phía Bắc đến tận Trung Hoa. Họ đem bán những sản phẩm rất được 1. L. Malleret: Khảo cổ học đồng bằng sông Cửu Long (L’ Archeologie du delta du Mekong), Paris, 1963, t.IV, tr.331. Sau khi khai quật di chỉ Óc Eo vào năm 1944, do biến động chính trị ở Đông Dương, Malleret phải về Pháp, ông xử lý các thông tin có được từ cuộc khai quật và biên soạn bộ sách Khảo cổ học đồng bằng sông Cửu Long (L’ Archeologie du delta du Mekong), gồm 4 tập, xuất bản từ năm 1959 đến 1963. Trong đó, tập I (năm 1959) có nhan đề Sự khám phá khảo cổ học và những cuộc khai quật Óc Eo, 473 trang và 47 trang bản vẽ; tập II (năm 1960) có nhan đề Nền văn minh vật chất Óc Eo, 397 trang và 152 trang bản vẽ; tập III (năm 1962) có nhan đề Nền văn hóa Phù Nam, 500 trang và 101 trang bản vẽ; tập IV (năm 1963) có nhan đề: Khảo cổ học bên này sông Bassac, 280 trang. 2. Xem Phan Huy Lê: “Qua di tích Óc Eo và thư tịch cổ thử nhận diện nước Phù Nam”, trong Văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam, Sđd, tr.229-239. CHƯƠNG I: QUAN HỆ GIỮA NAM BỘ VỚI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC... 55 ưa chuộng trên thị trường Trung Hoa như xà cừ, đồi mồi, ngọc trai, san hô, mật và sáp ong, tổ yến... Giáo sư Phan Huy Lê cho rằng, có lẽ các cộng đồng ở vùng châu thổ đã quen trao đổi sản phẩm với các thương nhân từ lâu trước khi bước vào đời sống định cư và thời kỳ hình thành các thị trấn. Từ đó, tư tưởng lợi nhuận và tính hữu hiệu của thương mại đã hình thành ở họ, làm cơ sở cho nền thương mại đặc biệt phát triển vào thời đại Óc Eo. Các loại tiền tệ, con dấu và hàng hóa của các nước như tượng đồng và một số gốm Ấn Độ, gương đồng thời Hậu Hán (23 - 220), tượng Phật bằng đồng thời Bắc Ngụy (386 - 535), hình các hoàng đế La Mã Antoninus Pius (138 - 161) và Marcus Aurelius (161 - 180) chạm trên vàng,... tìm thấy trong những di tích Óc Eo cho thấy địa bàn giao lưu của các cư dân cổ ở đây là rất rộng lớn1. Là một cảng thị lớn nhất Đông Nam Á đồng thời là thương cảng quốc tế, Óc Eo có đủ những điều kiện cần thiết để trở thành một trung tâm kinh tế, văn hóa lớn với cả một hệ thống bao gồm "những điểm quần cư và đô thị, những trung tâm chính trị - tôn giáo và văn hóa, hải cảng cùng với những điểm sản xuất thủ công - buôn bán và những vùng công nghiệp. Óc Eo được biết đến nay là một trung tâm quan trọng nhất của hệ thống miền tây sông Hậu và cũng có thể nói là lớn nhất khu vực Đông Nam Á”2. Từ trung tâm này, văn hóa Óc Eo đã lan tỏa bởi sức sống, sức sáng tạo của nó ra các vương quốc láng giềng. Sức mạnh kinh tế, chính trị của Phù Nam cũng tạo môi trường thuận lợi nhất định cho việc mở rộng phạm vi ảnh hưởng của nền văn hóa này. Từ miền Tây sông Hậu, văn hóa Óc Eo đã từng bước hội nhập và cùng chia sẻ nhiều đặc tính chung riêng với các nền văn hóa khu vực cũng đang dần hình thành ở Đông Nam Á3. Như đã nói ở phần trên, chữ viết xuất hiện ở vùng châu thổ sông Mékong vào khoảng đầu Công nguyên là một sản phẩm của sự giao lưu 1. Xem Phan Huy Lê: “Qua di tích văn hóa Óc Eo và thư tịch cổ thử nhận diện nước Phù Nam” trong Văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam, Sđd, tr.229-239. 2. Lương Ninh: “Văn hóa Óc Eo và văn hóa Phù Nam”, tạp chí Khảo cổ học, số 3, 1992, tr.24. 3. Xem Nguyễn Văn Kim: “Óc Eo - Phù Nam: Vị thế lịch sử và các mối quan hệ khu vực”, tạp chí Khoa học - KHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội, số 1 (T.XXI), 2005, tr.42-57. 56 VÙNG ĐẤT NAM BỘ X TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI văn hóa do các thương nhân, các tu sĩ Phật giáo và Ấn Độ giáo đem đến. Văn tự tìm thấy trên những di vật và minh văn từ những di tích Óc Eo là loại chữ Phạn cổ. Đây là loại văn tự uyên bác chỉ dùng trong giới tăng lữ và quý tộc cung đình. Sự phổ biến của những minh văn chữ Phạn từ thế kỷ VI trở về sau cùng với sự hình thành những khu thị tứ rộng lớn như Óc Eo, Bảy Núi (An Giang), Gò Tháp (Đồng Tháp), Nền Chùa, Cạnh Đền (Kiên Giang), Bình Tả, Gò Gòn, Gò Hàng (Long An), Lưu Cừ (Trà Vinh), Cây Gáo, Đồng Bơ, Bàu Thành, Nam Cát Tiên (Đồng Nai), Gò Tháp, Thanh Điền (Tây Ninh), Gò Cây Mai, Trường đua Phú Thọ (Thành phố Hồ Chí Minh),... là những bằng chứng đáng tin cậy của một xã hội có tổ chức, có một trình độ kinh tế và văn hóa tương đối cao vào thời cổ đại. Sự truyền bá của Phật giáo và Ấn Độ giáo là một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển của kiến trúc chùa chiền, đền thờ, mộ táng, trong một xã hội mà thặng dư nông phẩm và sự tích lũy của cải đã đạt đến mức độ nhất định. Mật độ của những di tích kiến trúc và mộ táng với hàng trăm lá vàng chôn theo là những biểu hiện cụ thể của một giai đoạn phát triển mang tính thời đại, mà những cơ sở kinh tế và xã hội đã được hình thành từ hàng ngàn năm trước đó1. Như vậy, yếu tố bản địa là nền tảng, song cái tạo nên nét đặc sắc của văn hóa Óc Eo lại chính là sự tiếp biến những yếu tố ngoại sinh, nhất là văn hóa Ấn Độ. Trong văn hóa Óc Eo, sản phẩm ngoại nhập hoặc có nguồn gốc ngoại nhập cũng đa dạng hơn, cấp độ cao hơn và từ nhiều hướng tới. Phổ biến nhất và đậm nét nhất, cấp độ cao hơn là văn hóa cổ Ấn Độ, mà cụ thể là văn hóa Bà La Môn mới và Phật giáo Tiểu thừa - Đại thừa2. Điều đó chứng tỏ Phù Nam đã có quan hệ giao lưu rộng rãi với thế giới Đông Á, Nam Á và cả Tây Á, La Mã, trong đó ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ sâu đậm nhất. Trong phổ hệ vua Phù Nam, ngoài Hỗn Điền trong thời hình thành nhà nước sơ khai, còn 1. Xem Phan Huy Lê: “Qua di tích văn hóa Óc Eo và thư tịch cổ thử nhận diện nước Phù Nam”, trong Văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam, Sđd, tr.229-239. 2. Xem Lê Xuân Diệm: “Vị thế Nam Bộ thời cổ (Tiếp cận từ cổ địa đến cổ sử)”, trong Mấy vấn đề tiến trình lịch sử xã hội, Sđd, tr.20-73. CHƯƠNG I: QUAN HỆ GIỮA NAM BỘ VỚI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC... 57 có hai vua người Ấn Độ theo Bà La Môn là Thiên Trúc Chiên Đàn và Kiều Trần Như. Đạo Bà La Môn, Hinđu, Phật giáo đã giữ vai trò chi phối trong đời sống tinh thần và tâm linh của cư dân Phù Nam. Thiết chế chính trị cũng cải cách theo mô hình Ấn Độ. Điều đó thể hiện rõ nét qua các di tích kiến trúc tôn giáo; các pho tượng Hindu giáo, Phật giáo; các vật phẩm trang sức cao cấp bằng vàng, bạc, thiếc, đá quý, thủy tinh; những đồ gốm gắn liền với sinh hoạt tôn giáo; văn tự cổ Ấn Độ (Pallava, Brahmi); các thể chế chính trị, tôn giáo; các kỹ thuật công nghệ Ấn Độ,...1. Khi nghiên cứu về vị thế lịch sử và các mối quan hệ khu vực của Óc Eo - Phù Nam, từ cách tiếp cận địa - văn hóa, trên cơ sở phân tích mối quan hệ giữa biển và lục địa, nhà nghiên cứu Nhật Bản Sakurai Yumio cho rằng, Đông Nam Á đã sớm hình thành những cấu trúc riêng biệt. Khoảng trước thế kỷ thứ X, Phù Nam và Srivijaya - Sailendra là những trung tâm liên thế giới, có vị trí nổi bật ở Đông Nam Á, là nơi giao lưu giữa hai thế giới phương Đông và phương Tây đồng thời là trung điểm nối kết của các trung tâm liên vùng với thị trường thế giới2. Nhưng, trước những tác động và biến thiên của lịch sử, cấu trúc đó luôn biến 1. Về văn hóa Óc Eo, L. Malleret đã công bố những con số thống kê thật đáng kinh ngạc: 1.311 hiện vật bằng vàng nặng 1.120 grs, 1.062 hạt ngọc và đá quý, trong đó có 779 hiện vật lấy từ khai quật khảo cổ học và 9.283 thu trong dân. Ngoài ra số hiện vật bằng đồng, sắt, thiếc, gỗ, đá lên đến hàng ngàn, số hiện vật gốm với rất nhiều chủng loại phải kể đến hàng vạn. 2. Xem Sakurai Yumio: “Thử phác dựng cấu trúc lịch sử của khu vực Đông Nam Á thông qua mối liên hệ giữa biển và lục địa”; GS.TSKH. Vũ Minh Giang dịch, tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 4 (25), 1996, tr.41. Trong công trình này, theo quan điểm khu vực học, tác giả đã phân định cấu trúc lịch sử Đông Nam Á bao gồm: 1- Trung tâm liên thế giới, là nơi giao lưu giữa hai thế giới giữa phương Đông và phương Tây, đồng thời là nơi gặp gỡ của những trung tâm liên vùng với thị trường thế giới; 2- Trung tâm liên vùng, là nơi thu gom và phân phối hàng hóa với chức năng trung chuyển giữa trung tâm liên thế giới với các vùng; 3- Trung tâm vùng, là nơi thu gom và phân phối hàng hóa với chức năng trung chuyển giữa các vùng với các địa phương; 4- Trung tâm địa phương, là cầu nối thu gom hàng hóa với trung tâm vùng chủ yếu là phục vụ địa phương. (Xem thêm Anthony Reid: Southeast Asia in the Age of Commerce 1450 - 1680, Yale University Press, 1988). 58 VÙNG ĐẤT NAM BỘ X TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI đổi. Vào thời đại thương mại thế giới (Commercial Age 1450 - 1680) từ các trung tâm vùng, Ayutthaya và Batavia đã sớm vươn lên trở thành trung tâm liên thế giới thay thế vị trí của Srivijaya và trước đó là Phù Nam... Trên thực tế, vị thế trung tâm liên thế giới của Phù Nam còn tỏa rạng trên cả phương diện văn hóa và tôn giáo. Đồng hành và theo chân các thương nhân, các tu sĩ đạo Bà La Môn và sư tăng Phật giáo cũng đã đến Phù Nam và một số tiểu quốc khác ở Đông Nam Á. Họ không chỉ là những nhà truyền giáo mà còn tham gia nhiều hoạt động xã hội khác. Như vậy, “Phù Nam là vương quốc truyền bá văn minh Ấn Độ vào Đông Nam Á và có thể coi là trung tâm liên thế giới đầu tiên của khu vực đồng thời là nơi nối thông mạng lưới riêng vốn có của Đông Nam Á với thế giới bên ngoài”1. Trong quan hệ giao thương, không những mang hàng hóa bán ra ngoài, Phù Nam đã nhập về nhiều loại hàng hóa của thương nhân Đông Nam Á như vàng, đồng, chì, thiếc, đá quý từ bán đảo Mã Lai hoặc của các cư dân vùng cao để cung cấp cho các xưởng chế tác. Tại đây, người ta đã tìm thấy “một kho hạt thủy tinh” nhiều màu sắc và cả loại thủy tinh trong suốt, hết sức quý giá là “bích lưu ly”. Chắc hẳn thời bấy giờ, người Óc Eo còn nhập đá quý từ Ấn Độ, Thái Lan và nguyên liệu thủy tinh thì nhập từ Ấn Độ hoặc khu vực Trung Cận Đông. Các pho sách cổ tiếng Tamil và một số tác phẩm văn học La Mã những thế kỷ đầu sau Công nguyên đã cho biết nhiều thông tin quý giá về một số địa danh vốn là thương cảng cổ phát triển phồn thịnh dọc theo vùng bờ biển Nam Ấn. Trong số đó, cảng Arikamedu gần kề với cảng Pondichery đã sớm trở thành một trung tâm sản xuất các chuỗi hạt, vật phẩm trang trí bằng kim loại, đá quý và cảng này đã đóng vai trò cầu nối giữa Ấn Độ và Đông Nam Á2. “Không nghi ngờ gì nữa một số hiện vật tìm thấy ở 1. Sakurai Yumio: “Thử phác dựng cấu trúc lịch sử của khu vực Đông Nam Á thông qua mối liên hệ giữa biển và lục địa”, tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 4 (25), 1996, tr.43. 2. Xem Nguyễn Văn Kim: “Óc Eo - Phù Nam: Vị thế lịch sử và các mối quan hệ khu vực”, Tlđd. CHƯƠNG I: QUAN HỆ GIỮA NAM BỘ VỚI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC... 59 Đông Nam Á là từ Arikamedu và các khu vực khác ở dải bờ biển Ấn Độ đưa tới”1. Bên cạnh những sản phẩm mang “màu sắc Ấn Độ”, còn có những sản phẩm đến từ nền văn hóa Hy-La (các đồng tiền La Mã làm thành huy chương (huy chương Hoàng đế Antonius Pius (138 - 161), Marcus Aurelius (161 - 180), các vật trang sức bằng tinh thể thạch anh có khắc hình mang biểu tượng thần hoặc lễ nghi thời La Mã); văn hóa Ba Tư (đèn đồng), văn hóa Latin, văn hóa Nguyệt Chi,... Văn hóa Hán (phương Nam và phương Bắc) cũng có mặt trong văn hóa Óc Eo (tượng Phật, gương đồng Hậu Hán); văn hóa các vùng lãnh thổ ở Đông Nam Á lục địa cũng có mặt ở Nam Bộ thời bấy giờ như những đồng tiền kẽm được gọi chung là tiền Phù Nam (présumé Funan). Các loại sản phẩm trên (ngoại nhập, phỏng ngoại nhập hoặc được “Óc Eo - Phù Nam” hóa) đã góp phần tạo nên bước phát triển mới, đưa Nam Bộ trở thành đỉnh cao văn hóa, thành trung tâm kinh tế, chính trị của khu vực Nam Đông Dương - Đông Nam Á. Cùng với các thương nhân Óc Eo, mạng lưới thương mại khu vực đang được hình thành ở Đông Nam Á cũng có vai trò quan trọng trong việc cung cấp hàng hóa cho thị trường quốc tế. Mối quan hệ đó luôn diễn ra trong sự tương tác đa chiều. Trong ý nghĩa đó, các cảng của Phù Nam không chỉ là nơi tụ hội của thương nhân Ấn Độ, Đông Nam Á mà chính thương nhân Phù Nam cũng đến Trung Quốc để trao đổi hàng hóa từ Địa Trung Hải, Ấn Độ, Trung Đông và châu Phi. Thương nhân Đông Nam Á, trong đó chắc chắn có vai trò quan trọng của thương nhân Phù Nam, chính là người có công khai mở quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ, phát triển kinh tế khu vực Nam Ấn và có thể họ cũng đã cử thuyền đến Ấn Độ, vùng vịnh Ba Tư và châu Phi để trao đổi hàng hóa hoặc buôn bán2. 1. Karashima Noburu: “Hoạt động thương mại của Ấn Độ ở Đông Nam Á thời cổ trung đại”, (Nguyễn Văn Kim dịch), tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 3 (280), 1995, tr.69. 2. Xem Nguyễn Văn Kim: “Óc Eo - Phù Nam: Vị thế lịch sử và các mối quan hệ khu vực”, Tlđd. 60 VÙNG ĐẤT NAM BỘ X TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI Cuộc khai quật khảo cổ học Óc Eo có quy mô vào loại lớn và đã phát lộ một thành thị cổ, một trung tâm thương mại quốc tế có trình độ phát triển kinh tế, văn hóa và giao lưu vào hàng cao nhất thế giới trong 5 - 6 thế kỷ đầu Công nguyên. Nhiều di tích thuộc văn hóa Óc Eo lần lượt được khai quật và trong phạm vi mỗi di tích, ngoài các di tích kiến trúc nhà sàn dựng trên cọc gỗ nằm dọc bờ kênh, bờ lung, thông thường có các di chỉ liên quan đến các hoạt động của nghề thủ công chuyên hóa (ngày nay gọi là nghề kim hoàn) và những phế tích kiến trúc tôn giáo Hindu bằng gạch đá - cát - đất sét kết hợp. Đấy là những dấu tích cụ thể cho biết các di tích này là những khu dân cư đa tính chất, đa chức năng (sinh hoạt đời thường, sản xuất thủ công, sinh hoạt tôn giáo,...). Các học giả phương Tây cho rằng, đó là những khu dân cư ở dạng bán nông thôn, bán đô thị, hoặc dạng “á đô thị”, đô thị, thị cảng hoặc cảng thị, cảng quốc tế. Từ đó, văn hóa Óc Eo được nhìn nhận là văn hóa mang tính đô thị hoặc là văn hóa đô thị, xã hội Phù Nam được nhìn nhận thuộc phạm trù xã hội văn minh, và như vậy, Nam Bộ lúc bấy giờ hẳn đã có tổ chức nhà nước đầu tiên. Trên bia ký ở Gò Tháp (Đồng Tháp Mười) hoặc phụ cận đều có ghi tên vài nhân vật như Jayavarman, Gunavarman, Rudravarman có vị thế như một vương gia của đất nước mà thư tịch Trung Hoa gọi là Phù Nam. Trên bi ký cùng thời cũng thấy ghi các đơn vị hành chính dưới các tên Nagara, Pura,... Rõ ràng xã hội Phù Nam tồn tại trên nền tảng của văn hóa Óc Eo đã có tổ chức hành chính, có người đứng đầu cai quản điều hành được gọi là “vua”, và có cơ chế điều hành theo thể chế kiểu Mandala mà thư tịch Trung Hoa gọi là “quân - tướng”, thuộc dạng một nhà nước sơ kỳ1. Xã hội đô thị Óc Eo - xã hội Phù Nam có tổ chức chặt chẽ nhưng lại thoáng mở. Trong nhiều di tích thuộc văn hóa này không chỉ có sản phẩm tại chỗ mà còn có sản phẩm ngoại nhập rất đa dạng đến từ nhiều nguồn khác nhau, thuộc nhiều truyền thống văn hóa khác nhau (cả 1. Xem Lê Xuân Diệm: “Vị thế Nam Bộ thời cổ (Tiếp cận từ cổ địa đến cổ sử)”, trong Mấy vấn đề tiến trình lịch sử xã hội, Sđd, tr.20-73. CHƯƠNG I: QUAN HỆ GIỮA NAM BỘ VỚI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC... 61 phương Đông lẫn phương Tây). Như vậy, văn hóa Óc Eo đã có tầm lan tỏa rộng, trong đó, khu di tích Óc Eo (Thoại Sơn - An Giang) được các học giả phương Tây nhìn nhận là thương cảng lớn nhất Đông Nam Á lúc bấy giờ. Nó được ví như “thương cảng Venice (Ý) ở phương Đông”. Những khám phá khảo cổ học ở di tích này cũng cho thấy đây là di tích có quy mô rộng lớn, có nhiều kiến trúc tôn giáo đồ sộ, và đặc biệt có lượng di vật lớn nhất, phong phú nhất so với các di tích khảo cổ cùng thời ở Đông Nam Á. Từ những kết quả nghiên cứu trên đây, ta có thể nói rằng, văn hóa Óc Eo đích thực là phạm trù của nền văn minh đô thị mang màu sắc Ấn Độ. Nó nổi bật lên tính cách của một nền văn hóa biển và văn hóa thương mại. Do vị trí giao tiếp đặc biệt, Phù Nam đã trở thành một trung tâm liên thế giới trong một thời gian dài. Những di vật Óc Eo kể trên đã phần nào cho thấy văn hóa - xã hội Óc Eo đã có vị thế quan trọng đối với các quốc gia gần và xa, vị thế ấy không chỉ thể hiện ở sức thu hút lớn, ở tầm lan tỏa của nó mà chủ yếu là ở thế và lực của con người, của xã hội Óc Eo, hay nói cách khác, là của xã hội - con người Nam Bộ lúc bấy giờ (hoặc chính xác là Tây Nam Bộ và châu thổ sông Cửu Long). Bấy giờ, theo các học giả phương Tây, thiên nhiên và đặc điểm sinh thái có rất nhiều biểu hiện tương đồng với những miêu tả trong Lương thư (Sử nhà Lương thế kỷ VI) về lãnh thổ của nước Phù Nam. Ngoài ra, ở di tích Gò Tháp (Đồng Tháp) và trong địa phận tỉnh Preiveng - Takev (Campuchia) đã phát hiện những bi ký khắc ghi bằng Phạn ngữ tên một số nhân vật mà thư tịch cổ Trung Hoa coi là các vị vua của nước Phù Nam. Hơn nữa, niên đại của văn hóa Óc Eo và niên đại tồn vong của Phù Nam có phần khá phù hợp,... Từ đấy, người ta đã coi văn hóa Óc Eo là sản phẩm vật chất của văn minh Phù Nam, vùng hạ lưu châu thổ sông Mékong là “đất tổ” của Phù Nam, thậm chí khu di tích Óc Eo được suy đoán là kinh đô Phù Nam có tên là Na Phất Na, là kinh đô sau cùng của nước Phù Nam1. 1. Xem Lê Xuân Diệm: “Vị thế Nam Bộ thời cổ (Tiếp cận từ cổ địa đến cổ sử)”, trong Mấy vấn đề tiến trình lịch sử xã hội, Sđd, tr.20-73. 62 VÙNG ĐẤT NAM BỘ X TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI Quan hệ Óc Eo với Phù Nam, giữa văn hóa với lịch sử có thống nhất, có khác biệt. Có thể coi văn hóa Óc Eo là sản phẩm của văn minh Phù Nam, nhưng chỉ có thể coi là thuộc vùng lãnh thổ Phù Nam biển, và xã hội Phù Nam gắn với vùng thiên nhiên Nam Bộ là chủ yếu, nếu mở rộng ra, chỉ có thể đến vùng lãnh thổ thuộc hạ lưu sông Mékong, mạn đông nam Campuchia. Trong khi đó, cương giới lãnh thổ của Phù Nam thời đế chế lớn rộng không chỉ có Nam Bộ mà có nhiều triều quốc thân thuộc như Bàn Ban, Cầu Trì, Dầu - Câu Lợi, Khuất Đô Côn, Tư Khiển, Chân Lạp,... có khác biệt về văn hóa tộc người (văn hóa tiền Môn, văn hóa Môn cổ nước Đốn Tốn, văn hóa Chân Lạp cổ). Văn hóa Óc Eo - Phù Nam được nhìn nhận là sản phẩm văn hóa của Phù Nam, ảnh hưởng của nó có lan rộng, tuy nhiên, những dấu tích của nó không hoặc chưa trở thành thành tố chủ đạo trong các nền văn hóa khác (thuộc phạm vi ảnh hưởng của đế chế Phù Nam). Cuộc chinh phục của Phạm Chiên (thế kỷ thứ III) được coi là sự bành trướng mạnh nhất, rộng lớn nhất của Phù Nam đến với các cộng đồng cư dân trên bán đảo Nam Đông Dương, đưa đến sự hình thành nên đế chế Phù Nam gồm nhiều tiểu quốc “thân thuộc” (không phải chư hầu). Điều đó được ghi chép trong thư tịch, nhưng lại không được thể hiện ở dấu tích văn hóa vật thể trong lòng đất. Tóm lại, trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, vương quốc Phù Nam - đế chế Phù Nam luôn là một điểm sáng. Xét về mặt địa - kinh tế cũng như địa - văn hóa, với luồng thương mại quốc tế Đông - Tây, và sự giao lưu văn hóa thế giới, Phù Nam luôn đứng ở vị thế trung tâm - một trung tâm vùng, trung tâm liên thế giới. Cảng thị Óc Eo được xem là trung tâm vừa đóng vai trò tập hợp, cung cấp, vừa với chức năng trung chuyển hàng hóa cho các nước trong khu vực cũng như thế giới. Văn hóa Óc Eo - xã hội Phù Nam từ những khám phá khảo cổ học đã hiện lên như một thực thể văn hóa xã hội, tồn tại từ thế kỷ I đến thế kỷ VII sau Công nguyên. Giữa văn hóa Óc Eo và văn hóa Phù Nam có những điểm tương thích, đó chính là sự hình thành và phát triển của một xã hội văn minh, một quốc gia hùng mạnh mang màu sắc Ấn Độ về thể chế CHƯƠNG I: QUAN HỆ GIỮA NAM BỘ VỚI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC... 63 và văn hóa, có thương trường rộng lớn, có vị thế kinh tế chính trị hàng đầu trong khu vực. Đến thế kỷ VII, vào năm Vũ Đức (Đường Cao Tổ, 618 - 626) cụ thể là năm 621, và năm Trinh Quán (Đường Thái Tông, 627 - 649), các sứ thần cuối cùng của Phù Nam từ Na Phất Na sang triều cống Trung Hoa được xem là những mốc cuối cùng cho sự tồn tại của vương triều Phù Nam. Tuy nhiên, đó chỉ là sự sụp đổ về chính trị, còn con người - văn hóa, xã hội Phù Nam tiếp tục đứng trước thách thức mới, vận hội mới. Nam Bộ, “đất tổ” của Phù Nam đã từng nắm giữ vị thế hạt nhân của Phù Nam, là động lực cho Phù Nam phát triển, là địa bàn trực tiếp bị ảnh hưởng bởi những hiểm họa do con người và thiên nhiên gây nên. Nói đúng hơn, vương quốc Phù Nam và cả đế chế Phù Nam rộng lớn bị phân rã do những tác động chính trị - quân sự nội vùng, do hoạt động thương nghiệp quốc tế, và do tác động của thiên nhiên (biển tiến). Phù Nam phân rã, nhưng văn hóa Óc Eo không bị lụi tàn, sụp đổ. Nó được kế thừa dưới nhiều dạng thức trên các vùng lãnh thổ khác nhau ở các quốc gia mới xuất hiện trên chính trường1. III- QUAN HỆ GIỮA NAM BỘ THỜI CÁC CHÚA NGUYỄN VÀ TÂY SƠN VỚI KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI 1. Chính sách của các chúa Nguyễn trong việc phát triển kinh tế - giao thương ở Nam Bộ Từ thế kỷ XVII, các chúa Nguyễn thực hiện sách lược “Nam tiến”, mở rộng bờ cõi về phương Nam với thời gian khoảng một thế kỷ rưỡi, mở đầu bằng việc gả con gái cho Quốc vương Chân Lạp vào năm 1620 cho đến năm 1757, cơ bản hoàn thành. Nước Đại Việt đến đây đã có một địa hình tương đối hoàn chỉnh như hiện nay. Đây là thời kỳ có nhiều biến động lớn về chính trị, nhiều đổi thay lớn về xã hội của đất nước. Cục diện “Trịnh - Nguyễn phân tranh” (từ 1. Xem Lê Xuân Diệm: “Vị thế Nam Bộ thời cổ (Tiếp cận từ cổ địa đến cổ sử)”, trong Mấy vấn đề tiến trình lịch sử xã hội, Sđd, tr.20-73. 64 VÙNG ĐẤT NAM BỘ X TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI năm 1627 đến năm 1672) làm cho tình hình đất nước trở nên phức tạp, tiềm lực quốc gia ngày càng suy yếu. Cuộc chiến tranh không phân thắng bại đó đã dẫn đến kết cục lấy sông Gianh làm giới tuyến phân cách hai miền đất nước: Đàng Ngoài và Đàng Trong. Nguyễn Hoàng từ ngày vào trấn thủ Thuận Hóa (1558), với lời gợi ý của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, đã cùng con cháu quyết định mở mang vùng đất mới tạo lập vương quốc riêng. Ông cho lập đồn điền, mở phố chợ, đưa Hội An thành thương cảng quốc tế. Từ đấy tạo thế đối trọng với xứ Đàng Ngoài, đồng thời tạo chỗ dựa cho sách lược “Nam tiến”, mở rộng lãnh thổ xứ Đàng Trong1. Bằng việc khai chiếm và tích hợp phần đất còn lại của vương quốc Champa, Nguyễn Hoàng đã mở đầu công cuộc Nam tiến, lập phủ Phú Yên (1611) ở phía nam đèo Cả đến Đại Lãnh. Năm 1697, phủ Bình Thuận được lập, đưa biên giới phía nam xứ Đàng Trong đến sát vùng đất được coi là thuộc ảnh hưởng của Chân Lạp thời bấy giờ. Đến đây, thế và lực của Đàng Trong đã mạnh lên rất nhiều. Cũng trong khoảng thời gian đó, các chúa Nguyễn đã có những toan tính cho công cuộc mở rộng bờ cõi đến vùng đất Nam Bộ. Bấy giờ, trên chính trường Đông Dương cũng diễn ra nhiều cuộc đụng độ chính trị - quân sự khốc liệt. Trước sự lớn mạnh của “vương quốc” Đàng Trong, các vương quốc trong khu vực (bán đảo Đông Dương, đông nam hải đảo) buộc phải trù liệu đối sách về các mặt. Trong đó, hai vương quốc Chân Lạp và Ayuthaya (sau đổi thành Xiêm - Thái Lan) là hai quốc gia có quan hệ trực tiếp hoặc về lãnh thổ hoặc về vị thế chính trị. Bối cảnh đó đặt ra cho các chúa Nguyễn hai vấn đề lớn: Vùng đất Nam Bộ mà các vị nhắm đến đang nằm trong sự quản lý (chí ít cũng về mặt danh nghĩa) của Chân Lạp, mà Chân Lạp đang chịu sự khống chế của Xiêm La; vấn đề Nam tiến tất không tránh khỏi sự đụng chạm 1. Theo Lê Xuân Diệm: “Vị thế Nam Bộ thời cổ (Tiếp cận từ cổ địa đến cổ sử)”, trong Mấy vấn đề tiến trình lịch sử xã hội, Sđd, tr.20-73. CHƯƠNG I: QUAN HỆ GIỮA NAM BỘ VỚI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC... 65 với Xiêm, trong khi Đàng Trong vẫn chưa có sự chuẩn bị đầy đủ về cả chính trị lẫn kinh tế cho sự đối đầu với Xiêm1. Chúa Nguyễn chủ trương dùng chính sách đối ngoại linh hoạt, lúc mềm dẻo - nghĩa tình, lúc cứng rắn - pháp lý để bảo hộ Chân Lạp, ngăn chặn sự bành trướng của Xiêm. Nhờ vậy đã gặt hái được thành công trong việc mở cõi về phía Nam. Kết quả cuối cùng là ngăn chặn được sự tấn công xâm lược của Xiêm, bảo vệ Chân Lạp, đồng thời bằng sự tự nguyện, chủ động của các đời vua Chân Lạp, chủ quyền trên toàn vùng Nam Bộ từng bước chuyển giao cho chính quyền Chúa Nguyễn. Năm 1620, Nguyễn Phúc Nguyên (tức Chúa Sãi) gả Công nữ Ngọc Vạn cho Quốc vương Chân Lạp Chey Chettha II. Từ đó, một sứ quân thường trực được đặt tại Kinh đô Oudong của Chân Lạp, đồng thời Chúa Nguyễn Phúc Nguyên còn hỗ trợ về mặt quốc phòng để Chân Lạp bảo vệ đất nước bằng cách chuẩn bị vũ khí thường xuyên và cả mộ binh giúp vua Chân Lạp, lại cung cấp chiến thuyền và quân sĩ để Chân Lạp đối phó với nước Xiêm. Nhờ vậy mà Chân Lạp đã hai lần (vào các năm 1621; đầu 1622 và 1623) đẩy lùi các cuộc tấn công xâm lược của quân Xiêm. Năm 1623, Chúa Sãi còn gửi sứ bộ mang nhiều vật phẩm đến Oudong để tưởng thưởng người thắng trận của Chân Lạp, và thắt chặt 1. Về kinh tế, Đàng Trong thế kỷ XVII nguồn dự trữ lương thực không thực dồi dào, thậm chí không đủ cung ứng cho lượng dân số ngày càng tăng, cho các hoạt động quốc phòng. Đến cuối thế kỷ XVII, Đàng Trong còn phải nhập lúa gạo từ Xiêm và cả từ Chân Lạp, trong khi đó châu thổ sông Cửu Long lại chưa thể khai khẩn, tuy tiềm năng nông nghiệp là rất lớn. Về vị thế chính trị của các chúa Nguyễn, nếu nhìn trên bình diện các quốc gia phương Đông, rõ ràng với danh hiệu “Chúa” rồi tự xưng “Vương”, song trước sau vẫn chỉ là công thần của nhà Lê, của nước Đại Việt. Trên chính trường quốc tế, chúa Nguyễn dù có thực lực, nhưng trước sau vẫn chưa có “thực danh” (chưa được triều đình Trung Hoa thừa nhận chính thức), đó là một trở ngại tiềm ẩn, về cả đối nội cũng như đối ngoại của chúa Nguyễn. (Theo Lê Xuân Diệm: “Vị thế Nam Bộ thời cổ (Tiếp cận từ cổ địa đến cổ sử)”, trong Mấy vấn đề tiến trình lịch sử xã hội, Sđd, tr.20-73). 66 VÙNG ĐẤT NAM BỘ X TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI hơn mối quan hệ tình nghĩa giữa Chân Lạp và Đàng Trong. Nhân đó, Chúa Nguyễn ngỏ ý mượn Prei Nokor (Chợ Lớn), Kas Krobei (Sài Gòn), đặt trạm thu thuế “thương chinh”... Quốc vương Chân Lạp - “phò mã” của chúa Nguyễn - đã thỏa mãn yêu cầu đó bằng một văn thư chính thức gửi đến Chúa Sãi. Bấy giờ, mối quan hệ Chân Lạp - chúa Nguyễn diễn ra trong tinh thần hòa hiếu, tin cậy lẫn nhau, cùng nhau ngăn chặn những âm mưu xâm lược của Xiêm La. Sau khi Vua Chey Chettha II qua đời, chính trường Chân Lạp lâm vào tình trạng mất ổn định. Trong khoảng thời gian đó, Đại Việt diễn ra cuộc chiến giữa hai tập đoàn Trịnh - Nguyễn (1627 - 1672), các chúa Nguyễn xứ Đàng Trong phải tập trung quân lực, tài lực để đối phó với quân Trịnh ở phía Bắc. Vậy mà trước yêu cầu của Chân Lạp, năm 1658, chúa Nguyễn vẫn đưa quân vào Chân Lạp giải quyết khủng hoảng trong nội bộ hoàng gia của nước này. Các chúa Nguyễn đã có nhiều nỗ lực trong việc nâng cao uy thế chính trị - quân sự của mình trên chính trường Đông Dương. Một mặt đã đặt được nền tảng cần thiết cho công cuộc mở cõi trên vùng đất Nam Bộ. Đó là việc mở ra không gian rộng lớn để những người Việt, người Hoa được tự do vào đất Chân Lạp làm ăn, sinh sống trong điều kiện thuận lợi; mặt khác, còn tạo được ảnh hưởng đối với chính quyền Chân Lạp mà cụ thể là đặt được đại diện ngoại giao của mình tại Kinh đô Oudong, lập đồn đinh ở Tân Mỹ, lập nha thư ở Tân Thuận, Mộc Hóa,... Năm 1679, Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch cùng binh lính và gia nhân đến xin tị nạn, được chúa Nguyễn tiếp nhận và đưa vào khai phá vùng Biên Hòa, Mỹ Tho. Một lần nữa, bằng lợi thế chính trị của mình, chúa Nguyễn đã yêu cầu chính quyền Chân Lạp chấp nhận cho những người Hoa vào sinh sống ở trên phạm vi mình cai quản một cách hợp pháp và đây cũng chính là một bước chuẩn bị để chúa Nguyễn có được vùng đất còn lại ở Nam Bộ - vùng đồng bằng sông Cửu Long. Năm 1698, chúa Nguyễn cử Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược phía Nam và ông đã hoàn tất công việc lớn là lấy đất Nông Nại đặt làm phủ CHƯƠNG I: QUAN HỆ GIỮA NAM BỘ VỚI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC... 67 Gia Định, lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lập xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, mỗi dinh đặt chức lưu thư, cai bạ và ký lục để cai trị. Điều đó có nghĩa là chúa Nguyễn đã xác lập tổ chức chính quyền của Đại Việt trên khoảng phân nửa diện tích miền Đông Nam Bộ. Từ đầu thế kỷ XVIII trở đi, công cuộc mở cõi có phần phức tạp hơn. Chúa Nguyễn phải giải quyết tốt hơn mối quan hệ “tay ba” giữa Đại Việt - Chân Lạp - Xiêm La, vốn ngày càng căng thẳng hơn khi nội bộ Chân Lạp thường xuyên chia rẽ, và có lúc lực lượng thân Xiêm giành được ưu thế. Nhưng cũng chính sự phức tạp đó, đã đưa chúa Nguyễn đến sự thành công trong việc mở cõi. Sự tranh chấp quyền lực trong nội bộ Chân Lạp đã khiến thế lực chống Xiêm dựa vào chúa Nguyễn, và với vị thế chính trị - quân sự hơn hẳn Xiêm, các chúa Nguyễn đã có được một phần đất còn lại do các quốc vương Chân Lạp làm quà tạ ơn. Đến năm 1757, cơ bản toàn bộ vùng đất Nam Bộ thuộc về chúa Nguyễn. Từ cuối thế kỷ XVII, khi chúa Nguyễn bắt đầu xác lập chủ quyền của Đại Việt trên vùng đất Nam Bộ bằng việc dựng dinh Trấn Biên và Phiên Trấn, cũng là thời điểm khởi đầu cho việc thiết lập từng bước hệ thống quản lý hành chính trên vùng đất này. Song hành với sự mở rộng chủ quyền trên những vùng đất còn lại đến Hà Tiên, Mỹ Tho, là cả một quá trình tổ chức bộ máy cai trị của chính quyền họ Nguyễn trên toàn khu vực Nam Bộ, đưa nó vào hệ thống chính quyền Đàng Trong. Mặc dù vẫn nằm trong khuôn khổ của Đàng Trong, song việc tổ chức bộ máy hành chính ở Nam Bộ vẫn mang những nét đặc thù, thậm chí rất riêng. Hệ thống quản lý ở các địa phương Nam Bộ được tổ chức dưới nhiều dạng thức khác nhau: hành chính, bán hành chính, phi hành chính, và nhiều khi thật khó phân định rạch ròi. Nhìn chung, đó là một thiết chế quản lý chưa thật chặt chẽ và thiếu sự thống nhất. Chính quyền chúa Nguyễn tập trung quản lý trên ba lĩnh vực mà trước tiên là dân cư, thuế khóa và ruộng đất, chủ yếu là nhằm dồn sức cho những cuộc chiến vốn đã kéo dài nhiều thế kỷ; trong khi những vấn 68 VÙNG ĐẤT NAM BỘ X TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI đề về tổ chức xây dựng, quốc kế dân sinh chưa được chú trọng nhiều. Thêm nữa, tính chất quân sự đậm nét vừa là một đặc trưng nổi trội, vừa là nhân tố không thể tách rời trong hệ thống quản lý của chính quyền Đàng Trong và Nam Bộ1. Có thể nói rằng, các chúa Nguyễn đã góp phần to lớn bằng những chủ trương, chính sách cụ thể và tích cực để biến một vùng đất hoang sơ, đầy muỗi mòng và thú dữ, thành một vùng môi sinh thuận lợi, đất đai màu mỡ, ruộng đồng cò bay thẳng cánh. Chỉ trong vòng hai thế kỷ, họ Nguyễn đã biến một vùng đất từ Sài Gòn trở vào, vẫn toàn là rừng rậm đến mấy ngàn dặm, đất nhiều khe suối (có thể hiểu là kinh rạch), đường thủy như mắc cửi, không thể đi đường bộ được thành một vùng trù phú, một vựa lúa của cả nước, một hình thái kinh tế mang đầy tính năng động và sáng tạo của người Việt Nam. Và chỉ trong một thời gian ngắn, ở Nam Bộ đã hình thành nên các thị trấn sầm uất, các trung tâm buôn bán lớn, tạo nên sự chuyển mình mạnh mẽ của một phương thức sản xuất vốn năng động hơn so với Đàng Ngoài. Do sản xuất hàng hóa phát triển và việc buôn bán sớm thành một hoạt động kinh tế sôi nổi, trong thế kỷ XVIII, ở vùng này đã xuất hiện nhiều thị tứ, nhiều tụ điểm buôn bán sầm uất, trong đó có một số nhanh chóng trở thành những trung tâm thương mại và giao dịch quốc tế nổi tiếng như thương cảng Nông Nại Đại Phố, thương cảng Mỹ Tho Đại Phố, thương cảng Mang Khảm (Hà Tiên), thương cảng Bãi Xàu, thương cảng Sài Côn (Chợ Lớn ngày nay),... Ngoài các thương cảng và thị tứ nói trên, một mạng lưới các chợ đã sớm hình thành từ những nơi thị tứ đến các vùng nông thôn, nhất là ở những giao điểm các trục lộ đường thủy, đường bộ, ở các bến đò,... Nói chung là ở những chỗ giao thông thuận tiện và đông người qua lại. Chợ ở Nam Bộ có nhiều loại hình: chợ trên bến dưới thuyền, chợ của những ghe buôn nhóm họp ở một giao lộ 1. Xem Phạm Đức Anh: “Quá trình thiết lập và tổ chức bộ máy quản lý nhà nước ở Nam Bộ dưới thời các chúa Nguyễn”, trong Mấy vấn đề tiến trình lịch sử xã hội, Sđd, tr.405. CHƯƠNG I: QUAN HỆ GIỮA NAM BỘ VỚI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC... 69 đường thủy, chợ cố định trên đất liền, chợ lưu động bằng các ghe buôn bách hóa,... Các chợ này dùng làm nơi trao đổi buôn bán các loại hàng hóa, trong đó có nhiều chợ hình thành rất sớm và khá trù mật như chợ Đồng Nai, chợ Bến Cá, chợ Đồng Sử, chợ Lò, chợ Bàn Lân, chợ Dầu Miệt, chợ Thủ Đức, chợ Đò, chợ Bà Rịa, chợ Đồng Môn, chợ Lò Thiếc,... thuộc trấn Phiên An; các chợ sông Tranh, Cù Úc, Hàng Xoi, Kỳ Hôn, Cái Bè,... thuộc trấn Định Tường; các chợ Long Hồ, Ba Vát, Mỹ Lồng, Trà Vinh, Sa Đéc, Nha Mân, Bãi Xàu,... thuộc trấn Vĩnh Thanh; các chợ Mỹ Đức, Rạch Giá, Hoàng Giang,... thuộc trấn Hà Tiên. Ở các phố thị, các chợ ở miền Nam cũng như miền Bắc nơi nào cũng đầy ắp các mặt hàng nông, lâm, thủy sản chưa qua chế biến hoặc đã qua chế biến. Sách Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang lập ấp ở Nam Kỳ lục tỉnh của Nguyễn Đình Đầu đã giới thiệu một số thị trấn, trung tâm buôn bán tiêu biểu ở Nam Bộ như đô hội Gia Định, phố thị Sài Gòn, Nông Nại Đại Phố, phố thị Mỹ Tho, phố thị Hà Tiên,... - Gia Định - Bến Nghé: Hai huyện Bình Dương, Tân Long (tức nội thành Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay) dân cư trù mật, chợ phố liên lạc, nhà tường, nhà ngói liên tiếp nhau. Nhiều người thạo nói tiếng Phước Kiến, Quảng Đông, Triều Châu, Hải Nam, Tây Dương, Tiêm La. Tàu ghe Hải Dương đến buôn bán qua lại, cột buồm liên lạc, hàng hóa đủ cả trăm thước, xưng làm đại đô hội ở Gia Định, cả nước không đâu sánh bằng. - Chợ Sài Gòn, tức Chợ Lớn sau này: Cách phía nam trấn 12 dặm. Đường sá ngang dọc như chữ điền. Phố xá liên tiếp sát mái nhau, người Tàu và người ta ở chung, dài 3 dặm. Hàng hóa trong các phố bày bán có: gấm đoạn, đồ sứ, giấy bút, châu báu, sách vở, thuốc thang, trà bột,... Những hóa vật ở Nam Bắc theo đường sông, đường biển chở đến không thiếu món nào... - Nông Nại Đại Phố: Ở đầu phía tây cù lao Đại Phố (Biên Hòa) lúc đầu khai thác (1679), chiêu tập người buôn nước Tàu đến kiến thiết phố xá, mái ngói tường vôi, lầu cao quán rộng, dọc theo bờ sông 70 VÙNG ĐẤT NAM BỘ X TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI liên lạc tới 5 dặm, chia vạch làm ba đường phố... Kẻ buôn tụ tập, ghe thuyền lớn ở biển và ở sông đến neo đậu, có những xà lan liên tiếp nhau, ấy là một chỗ đại đô hội, những nhà buôn bán to lớn ở đây là nhiều hơn cả. - Phố chợ Mỹ Tho: Khoảng năm Kỷ Tỵ (1679), chúa Nguyễn cho viên quan tên là Văn Trinh đưa nhóm Dương Ngạn Địch cả binh biền và ghe thuyền đến đóng dinh trại ở Mỹ Tho, rồi dựng nhà cửa, tụ tập người Kinh kết thành chòm xóm... Phía nam trụ sở là phố thị lớn Mỹ Tho, nhà ngói cột chạm, đình cao chùa rộng, ghe thuyền ở các ngả sông biển đến đậu đông đúc, làm thành một đại đô hội rất phồn hoa huyên náo. - Chợ trấn Hà Tiên: Ở phía đông ngó xuống bến hồ, nơi bến có làm trại cá, phía bắc có miếu Hội đồng, có xưởng đóng tàu, chia khu ngang dọc, lấy đường lớn làm giới hạn,... Đường nối tiếp giáp, phố xá liên lạc, người Việt, người Tàu, người Cao Miên, người Bồ Đà đều theo chủng loại cư trú, ghe thuyền ở sông biển qua lại nơi đây không dứt, thật là một đại đô hội ở nơi góc biển vậy. Ngoài những trung tâm phố thị trên đây, ở đồng bằng sông Cửu Long ngày nay, bấy giờ có những chợ buôn bán khá nổi tiếng khác như chợ Lương Phú ở Định Tường, chuyên bán thóc gạo; chợ Hưng Lợi ở phía nam sông Bảo Định; chợ Long Hồ lập từ năm 1732, phố xá dài 5 dặm hàng hóa đủ cả trăm món; chợ Sa Đéc nằm dọc theo bờ sông dài 5 dặm bán hàng lụa hoặc dầu rái mây tre trăm thức hàng hóa tốt đẹp trông vui vẻ, thật là thắng địa phồn hoa vậy1. Một Nam Bộ “sáng sủa”, một môi sinh xã hội mới mẻ được tạo nên từ bàn tay của người lao động (mà người Việt đóng vai trò chủ đạo, người Hoa góp phần to lớn) và trí tuệ của những người lãnh đạo quốc gia. Đến đầu thế kỷ XIX, Nam Bộ không chỉ có “nhất thóc, nhì cau” mà đã có một nền kinh tế khá vững vàng với cả nông nghiệp, 1. Xem Nguyễn Đình Đầu: Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang lập ấp ở Nam Kỳ lục tỉnh, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1992, tr.66-70. CHƯƠNG I: QUAN HỆ GIỮA NAM BỘ VỚI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC... 71 công nghiệp lẫn thương nghiệp ngày một tăng trưởng nhanh chóng. Thương nghiệp bao gồm cả nội thương lẫn ngoại thương cùng phát triển, tạo nên sự năng động, hơn hẳn so với xã hội Đàng Ngoài. Quan hệ với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới ngày càng được mở rộng hơn trước. Với chính sách thúc đẩy công cuộc khẩn hoang của các chúa Nguyễn và vua Nguyễn, vùng đất hoang sơ của Thủy Chân Lạp xưa đã sớm trở thành vùng Nam Bộ trù phú. Sự lớn mạnh của “vương quốc” Đàng Trong, đúng vào lúc Xiêm La thường xuyên tấn công xâm lược Chân Lạp, đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc xác lập chủ quyền của người Việt trên vùng đất Nam Bộ ngày nay. Lãnh thổ Đại Việt không ngừng được mở rộng và kéo dài xuống phía Nam tạo dựng lên một cơ đồ vững chãi về chính trị. Nông, công, thương nghiệp phát triển phồn vinh. Tất cả đã góp phần tăng cường nội lực, phát huy tốt ngoại lực, tạo nên sức mạnh tổng hợp, khiến các nước láng giềng phải kiêng nể. Thông qua buôn bán thương mại, các chúa Nguyễn đã được cung cấp một lượng lớn vũ khí hiện đại cho quân đội Đàng Trong từ các thương nhân nước ngoài, đặc biệt là Nhật Bản và Bồ Đào Nha để cản bước tấn công của chúa Trịnh, đập tan các cuộc tấn công của các lực lượng bên ngoài vào khu vực Đàng Trong. Uy danh của chúa Nguyễn lan truyền nhanh chóng làm cho các nước trong khu vực cũng như các nước phương Tây (qua các đoàn thuyền buôn) phải dè chừng. Từ thế kỷ XVII, châu thổ sông Hồng không còn là trung tâm độc nhất về văn minh của người Việt nữa.Trung tâm Phú Xuân hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của Thăng Long. Sự lớn mạnh của Đàng Trong đã đẩy dần trọng tâm chính trị, văn hóa, kinh tế của đất nước về phương Nam. Thông qua những chính sách tích cực góp phần thúc đẩy công cuộc khai khẩn đất hoang, mở rộng quan hệ buôn bán với các nước trong khu vực và trên thế giới, các chúa Nguyễn đã tạo điều kiện cho nền kinh tế Đàng Trong (cả thương nghiệp lẫn nông nghiệp) phát triển, làm cho 72 VÙNG ĐẤT NAM BỘ X TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI đời sống của nhân dân được nâng lên, xứ Đàng Trong có sự chuyển biến mạnh mẽ so với nền kinh tế ngày càng lạc hậu của Đàng Ngoài. Từ đầu thế kỷ XVI, nông nghiệp Đàng Trong đã phát triển khá thuận lợi. Vùng đất Thuận - Quảng bình quân một mẫu thu được khoảng 90 đến 120 gánh lúa. Cuộc sống của người dân có khá lên, như giáo sĩ Borri đã nhận xét: “Ở đây, mỗi năm có ba vụ lúa, đầy đủ và dồi dào đến nỗi không ai phải lam lũ, vất vả để sinh sống, ai cũng sung túc”1. Thế kỷ XVII - XVIII, đồng bằng sông Cửu Long ngày nay đã là vựa lúa của xứ Đàng Trong với năng suất đạt gấp tới 100, 200, 300 lần so với những vùng đất khác như Lê Quý Đôn đã viết. Về thương nghiệp, các chúa Nguyễn đã nhạy bén khai thác những lợi thế được tạo nên từ luồng thương mại thế giới vào thế kỷ XVII - đầu thế kỷ XVIII để biến Đàng Trong thành một “thị trường” hết sức năng động. Sự mở cửa của các chúa Nguyễn đã tạo điều kiện cho thương nghiệp phát triển. Các hải cảng mọc lên khắp các cửa biển từ Thanh Hà (Phú Xuân) vào đến Nam Bộ để tập trung trao đổi và mua bán hàng hóa. Một loạt đô thị, thương cảng ra đời thu hút nhiều thuyền buôn và thương gia nước ngoài, kể cả các công ty tư bản phương Tây như Hà Lan, Anh, Pháp,... trong đó nổi lên các cảng thị Thanh Hà (Thừa Thiên Huế), Hội An (Quảng Nam), Nước Mặn (Bình Định), Vũng Lấm (Phú Yên), Gia Định (Thành phố Hồ Chí Minh), Cù Lao Phố (Đồng Nai), Mỹ Tho (Tiền Giang), Hà Tiên (Kiên Giang),... Chính các cảng thị này đã tạo nên sắc thái mới cho nền kinh tế đất nước nói chung, Đàng Trong nói riêng, tạo điều kiện cho sự xuất hiện mầm mống kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam, tạo nên hướng đi mới trong việc phát triển kinh tế hàng hóa, tiền tệ. Nguyễn Hoàng (Đoan Quận công, tức Chúa Tiên, 1558 - 1613), Nguyễn Phúc Nguyên (Thụy Quận công, tức Chúa Sãi, 1613 - 1635), Nguyễn Phúc Lan (Nhân Quận công, tức Chúa Thượng, 1635 - 1648), 1. Cristophoro Borri: Xứ Đàng Trong năm 1621, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1998, tr.91. CHƯƠNG I: QUAN HỆ GIỮA NAM BỘ VỚI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC... 73 Nguyễn Phúc Tần, (Dũng Quận công, tức Chúa Hiền, 1648 - 1687),... là những người có công lớn trong sự nghiệp khai phá và biến đổi môi sinh trên vùng đất mới. Từ việc xác lập quyền lực cũng như tạo ra được một nguồn lực to lớn, các chúa Nguyễn đã tạo nên một quan niệm, bước đi mới trong lịch sử dân tộc, vốn là một nước có nền kinh tế tiểu nông tự cấp tự túc kém phát triển. Với nền kinh tế nội địa, chúa Nguyễn không thi hành chính sách độc quyền như ở Đàng Ngoài mà còn khuyến khích mọi người tham gia buôn bán. Điều này tạo ra một tầng lớp thương nhân người Việt đông đảo hơn nhiều so với trước đó, bao gồm những tiểu thương, tiểu chủ, tầng lớp mại biện, các chủ cửa hàng đến cả tầng lớp không chuyên như quan lại, thậm chí cả chúa Nguyễn. Chính sách khuyến khích buôn bán của các chúa Nguyễn cũng đã góp phần làm thay đổi quan niệm coi thường buôn bán của người dân, khuyến khích người dân tham gia trao đổi buôn bán. Họ là người điều khiển thị trường thông qua các chính sách. Những người có vốn, mua hàng hóa tích trữ đợi đến mùa mậu dịch bán cho thương nhân nước ngoài. Một số có vốn lớn cho vay với lãi suất cao. Chính sách thu thuế ban đầu của các chúa Nguyễn là rất khoan dân, vì muốn kinh tế phát triển, tạo điều kiện cho buôn bán được thông thương, hàng hóa được lưu thông, nên mức thuế thu của các chúa Nguyễn đối với hoạt động kinh tế cũng rất nhẹ nhàng, không nặng nề lắm, thậm chí trong buổi ban đầu khai hoang, mới hình thành buôn bán thông thương thì các chúa Nguyễn chưa đề ra biện pháp thu thuế, nếu có thì cũng thu rất là ít và tùy ý người nộp chứ chưa bắt ép định ra mức thu, cũng chính vì vậy mà nó đã tạo được động lực phát triển cho người dân tham gia ngày càng đông vào hoạt động buôn bán, để từ đó làm cho nền kinh tế Nam Bộ cũng như kinh tế của cả Đàng Trong ngày càng thêm khởi sắc. Một giáo sĩ người Pháp tên là Chevreuil tới thăm Colompe (tức Phnom Penh, Nam Vang) hồi năm 1665 đã thấy hai làng An Nam nằm bên kia sông, cộng số người được độ 500,...; ở thôn quê thì làm ruộng, gần phố chợ thì buôn bán, làm thủ công hay chuyên chở ghe 74 VÙNG ĐẤT NAM BỘ X TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI thuyền, kể hàng mấy ngàn người. Điều này chứng tỏ cư dân Việt đã bắt đầu xuất hiện thói quen làm ăn buôn bán bên cạnh việc chăm lo làm nông nghiệp. Với điều kiện thiên nhiên ưu đãi, là vùng đất “lắm thóc nhiều cau”, sản vật phong phú, đa dạng cùng với những điều kiện thông thương thuận lợi, nên từ rất sớm cư dân Nam Bộ đã biết tận dụng những ưu đãi này để phát triển hoạt động giao thương buôn bán. Trước hết là các hoạt động buôn bán ở trong vùng với nhau. Như chúng ta đã biết, với đặc điểm địa hình là vùng sông nước nên các hoạt động giao lưu buôn bán ở khu vực Nam Bộ chủ yếu là dùng các ghe thuyền để tiến hành các hoạt động thương mại với nhau. Do nhu cầu phát triển của kinh tế hàng hóa trong nước và tác động của luồng thương mại quốc tế cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII, Đàng Trong đã có bước phát triển đáng kể, biểu hiện bằng sự mở rộng mạng lưới chợ ở các địa phương. Sự phong phú của lượng hàng hóa trao đổi đã là cơ sở cho hoạt động giao lưu buôn bán thêm thuận lợi, và có tính bền vững lâu dài. Sự phát triển của kinh tế hàng hóa ở thời kỳ này thể hiện rõ sự hình thành và phát triển những luồng buôn bán giữa các địa phương ở miền xuôi và miền ngược, ở những vùng giàu có, tài nguyên nhiều, sản vật núi rừng với vùng đồng bằng chuyên sản xuất lúa gạo và những sản phẩm thủ công nghiệp nổi tiếng,... tạo nên mối liên hệ kinh tế giữa các miền trong nước. Trên cơ sở một nền nông nghiệp lúa nước khá phát triển, và nhất là dựa trên cơ sở chế độ tư hữu về ruộng đất, nền nông nghiệp của Nam Bộ, ngay từ sớm, đã mang tính chất sản xuất hàng hóa. Lê Quý Đôn đã nói lên điều đó: “Họ Nguyễn... chiêu mộ những dân có vật lực ở xứ Quảng Nam các phủ Điện Bàn, Quảng Ngãi, Quy Nhơn cho dời tới ở đây, phát chặt mở mang, hết thảy thành bằng phẳng, đất nước màu mở, cho dân tự chiếm, trồng cau và làm nhà cửa. Lại thu con trai, con gái người Mọi ở các đầu nguồn, đem bán làm nô tì (người đen, tóc quăn là người Mọi thực, giá tiền 20 quan; hơi trắng, giá tiền chỉ hơn 10 quan), CHƯƠNG I: QUAN HỆ GIỮA NAM BỘ VỚI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC... 75 cho tự lấy nhau, sinh đẻ nuôi nấng thành người, cày ruộng làm nghề nghiệp, do đó mà thóc rất nhiều”1. Giáo sư Phan Huy Lê đã nhận xét: Thời kỳ từ cuối thế kỷ XVI đến năm 1836, vùng Đồng Nai - Gia Định chỉ có chế độ tư hữu ruộng đất và sở hữu ruộng đất này. Đấy là một kết cấu kinh tế - xã hội khác với vùng khác; và chính nó đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế hàng hóa làm thay đổi nhanh chóng bộ mặt kinh tế của Đồng Nai - Gia Định. Nguyễn Đình Đầu cũng có ý kiến tương tự: “... (việc) tư nhân chiếm hữu ruộng đất triệt để và (việc) ruộng đất lần hồi tập trung trong tay một thiểu số người giàu đã tạo cho xã hội miền Nam, rõ ràng, có tình trạng tiền tư bản chủ nghĩa”; mà “dấu hiệu của sự hình thành chủ nghĩa tư bản là tình hình sản xuất hàng hóa đã tới mức cao”2. Có thể nói, sở hữu đất đai tư nhân, nhất là việc tập trung ruộng đất trong tay các địa chủ lớn đã giúp cho những người này nắm được một số lượng nông sản to lớn và lượng nông sản đó được đưa ra thị trường. Nó thực sự trở thành hàng hóa. Đó là một sự đột biến của vùng đất mới, bởi trước kia, sản xuất lúa gạo chỉ để tự cung cấp, ít nơi và ít khi có thừa đem bán mà nay tại miền Nam lúa gạo dư thừa phải đem bán trong và ngoài nước lấy tiền để trang trải cho cuộc sống gia đình. Điều này cũng đã được Lê Quý Đôn mô tả trong Phủ biên tạp lục: tại phủ Gia Định, thì thóc gạo không xiết kể, khách Bắc buôn bán quen khen không ngớt3. Sách Quốc triều chính biên toát yếu còn cho biết thêm, tháng 6-1789, Nguyễn Ánh cho phép các thương gia Trung Hoa đến mua gạo ở Gia Định; đổi lại, họ mang sắt, gang, lưu huỳnh, vốn là những nguyên liệu để chế tạo vũ khí, tới bán4... Vào những năm 90 của thế kỷ XVIII, hằng năm có khoảng 12.000 tấn thóc gạo 1, 3. Xem Lê Quý Đôn: Toàn tập, tập 1: Phủ biên tạp lục, Sđd, tr.345, 337. 2. Nguyễn Đình Đầu: Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang lập ấp ở Nam Kỳ lục tỉnh, Sđd, tr.278. 4. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Quốc triều chính biên toát yếu, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1998, tr.29. 76 VÙNG ĐẤT NAM BỘ X TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI đã được bán ra nước ngoài bởi các thương gia Trung Hoa1 và Nguyễn Ánh còn dùng thóc gạo để lập quan hệ chính trị - ngoại giao với một số nước, như Trung Hoa, Siam (Xiêm La), Philippines, Ấn Độ, Batavia (Jakarta, Indonesia ngày nay), Malacca (Singapore)... Các tác giả của sách Đại Nam thực lục cũng thừa nhận: “Những người Minh Hương theo Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên đã vào Mỹ Tho, Bàn Lân (thuộc Gia Định và Định Tường) vỡ đất hoang, dựng phố xá; thuyền buôn người Thanh và các nước Tây Dương, Nhật Bản, Chà Và đi lại tấp nập”2. Điểm buôn bán thóc gạo thường là các cửa biển như cửa Cần Giờ, Xoài Rạp (nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh), cửa Tiểu (nay thuộc tỉnh Tiền Giang), cửa Đại (nay thuộc tỉnh Bến Tre). Tại những địa điểm trên, người ta đã trông thấy buồm thuyền mành đậu xúm xít kề nhau, tấp nập tại bến. Theo Lê Quý Đôn thì giá thóc lúc bấy giờ cứ 1 tiền (tức 10 đồng) đong được 16 đấu thóc, 1 quan tiền đong được 300 bát đồng của nhà nước (tức 30 bát của địa phương). Nhìn chung, giá thóc ở Nam Bộ rất rẻ, các nơi khác chưa từng có. Điều kiện tự nhiên thuận lợi cũng góp phần hình thành nơi đây “miệt vườn” với những vườn cây trái sum suê, đặc biệt là những vườn cau sai trái. Lục tỉnh sớm nổi tiếng là vùng “nhất thóc, nhì cau”, trong đó, hai tỉnh Vĩnh Long và Định Tường là nơi trồng nhiều cau hơn cả. Bấy giờ ở Định Tường đã hình thành những khu vườn chuyên canh cau. Trịnh Hoài Đức nói rõ: “Ở hai huyện Kiến Hưng, Kiến Đăng, vườn cau sum suê, cau tươi, cau phơi, nhà nào cũng có, chất ở sân, chứa trong lẫm để bán cho các khách xa gần”3. Tác giả sách Gia Định Thành thông chí 1. Dẫn theo Trần Ngọc Định: “Chế độ sở hữu ruộng đất lớn ở Nam Bộ thời Pháp thống trị”, tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 132, 1970, tr.83. 2. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2002, t.I, tr.91. 3. Trịnh Hoài Đức: Gia Định Thành thông chí, Đỗ Mộng Khương - Nguyễn Ngọc Tỉnh dịch, Đào Duy Anh hiệu đính và chú thích, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1998, tr.48. CHƯƠNG I: QUAN HỆ GIỮA NAM BỘ VỚI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC... 77 cũng cho biết thêm, ở chợ An Bình (chợ Cái Bè), “nhiều nhà giàu có mua chứa quả cau để chuyển bán cho các nhà buôn ở Sài Gòn”1. Cau là một mặt hàng nông nghiệp bán rất chạy trên thị trường. Hồi nửa sau thế kỷ XVIII, cau không chỉ để tiêu dùng nội địa mà còn được xuất khẩu. Cau từ chợ An Bình được xuất sang Cao Miên, rồi sau đó qua Xiêm La và nhiều nước khác,... Có thể nói, miệt vườn ở Tiền Giang, đã nhanh nhạy đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Người nông dân đã “chuyên canh hóa” nghề vườn, để rồi “thương mại hóa” trái cau nhằm tăng giá trị của loại nông sản này. Có lẽ vì thế mà trong Gia Định Thành thông chí, Trịnh Hoài Đức dành hẳn một mục “viên” (vườn) để nói về cây cau. Sau thóc gạo, cau là mặt hàng nông sản đứng hàng thứ hai được tiêu thụ mạnh trên thị trường. Christophoro Borri, một giáo sĩ người Italia đã sống tại Đàng Trong từ năm 1618 đến năm 1622, viết lại trong hồi ký của mình như sau: “Cau là nguồn lợi lớn ở xứ này, có vườn cau thì cũng như ở xứ chúng ta có ruộng nho và ruộng ô liu vậy”2. Li Tana khi nghiên cứu tình hình kinh tế Đàng Trong cũng đã kết luận “... lúa và cau là hai mặt hàng chủ lực của Tiền Giang được buôn bán trên thị trường. Thóc gạo Tiền Giang nói riêng, vùng Gia Định nói chung, trở thành hàng hóa, được bán đi khắp nơi sớm nhất là từ đầu thế kỷ XVIII”3. Theo Lê Quý Đôn thì dân các địa phương miền Đồng Nai - Gia Định thường không hái cau. Họ để cho trái cau tự già rũ ở trên cây, sau đó họ chỉ lượm nhặt hạt cau đem xuống bán cho các khách buôn người Tàu4. Các thương nhân này thu mua cau đem về Quảng Đông bán cho người ta ăn thay thứ trà phù (chè trầu). Ta biết rằng, hạt cau với hàm 1. Trịnh Hoài Đức: Gia Định Thành thông chí, Đỗ Mộng Khương - Nguyễn Ngọc Tỉnh dịch, Đào Duy Anh hiệu đính và chú thích, Sđd, tr.44. 2. Cristophoro Borri: Xứ Đàng Trong năm 1621, Sđd, tr.27. 3. Li Tana: Xứ Đàng Trong - Lịch sử kinh tế, xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1999, tr.123. 4. Xem Lê Quý Đôn: Toàn tập, tập 1: Phủ biên tạp lục, Sđd, tr.346. 78 VÙNG ĐẤT NAM BỘ X TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI lượng ta lanh cao, rất cần cho công nghiệp nhuộm và thuộc da đang phát triển mạnh ở châu Âu hồi thế kỷ XVIII, nên cau là một mặt hàng được các thương nhân châu Âu mua với khối lượng lớn1. Tác giả Lê Văn Năm khi đề cập đến sản xuất hàng hóa và thương nghiệp Nam Bộ thế kỷ XVII - XIX đã cung cấp một chi tiết thú vị về vấn đề này: Năm 1799, Olivier, một người Pháp đánh thuê cho Nguyễn Ánh, chở một thuyền cau sang bán tại Malacca2. Không chỉ có gạo và cau, Mỹ Tho và đồng bằng sông Cửu Long nói chung còn có những mặt hàng khác để trao đổi. Trong Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn ghi lại trường hợp Trùm Châm - người Bắc Bố Chính mặc cả thành giá thì người bán hàng tự sai người nhà khuân hàng xuống thuyền. Một tiền quý thì mua được 16 đấu thóc, mỗi đấu bằng 3 bát bằng miệng của Hộ phiên, thành 30 bát quan đồng. Một quan tiền được 300 bát quan đồng. Giá thóc rẻ, chưa nơi nào được như thế. Gạo nếp, gạo tẻ đều trắng dẻo, tôm cá rất to, béo, ăn không hết. Dân địa phương thường nấu qua rồi phơi khô để bán”3. Nghĩa là bên cạnh việc bán thóc gạo và hạt cau khô, người Gia Định còn nuôi tôm, đánh bắt và làm tôm khô để bán cho các nơi khác. Cá khô và mắm cũng nhiều và trở thành một trong những mặt hàng bán chạy trên thị trường, nhất là Sài Gòn. Sách Gia Định Thành thông chí cung cấp thêm những thông tin về những mặt hàng ngoài cau và lúa: Chợ Thanh Sơn “có chợ quán trù mật, dân cư chuyên nghiệp cày ruộng, dệt cửi, ghe thuyền tới lui, thành một đô hội”; chợ An Bình, tục gọi là chợ Cái Bè, cũng “chợ búa trù mật, nhiều nhà giàu có mua chứa quả cau để chuyển bán cho các nhà buôn ở Sài Gòn, lại đóng nhiều ghe lán (so với ghe lồng thì lớn và dài hơn, trên che mui dài từ đầu mũi đến cuối lái, dưới thì làm sàn, để 1. Xem Thạch Phương - Đoàn Tứ (Chủ biên): Địa chí Bến Tre, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991, tr.343. 2. Xem Lê Văn Năm: “Sản xuất hàng hóa và thương nghiệp Nam Bộ thế kỷ XVII - nửa đầu thế kỷ XIX”, tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 5+6,1988, tr.82. 3. Lê Quý Đôn: Toàn tập, tập 1: Phủ biên tạp lục, Sđd, tr.124. """