🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Vùng Đất Nam Bộ Tập II: Từ Cội Nguồn Đến Thế Kỷ VII Ebooks Nhóm Zalo Chịu trách nhiệm xuất bản GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP PGS. TS. PHẠM MINH TUẤN Chịu trách nhiệm nội dung ỦY VIÊN HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP - XUẤT BẢN TS. VÕ VĂN BÉ Biên tập nội dung: Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Sửa bản in: Đọc sách mẫu: ThS. NGUYỄN THỊ HẢI BÌNH TRIỆU THỊ LỮ TRẦN PHAN BÍCH LIỄU ThS. PHÙNG MINH TRANG HOÀNG MINH TÁM PHÒNG BIÊN TẬP KỸ THUẬT HƯƠNG GIANG VIỆT HÀ Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 2266-2021/CXBIPH/30-23/CTQG. Số quyết định xuất bản: 442-QĐ/NXBCTQG, ngày 29/6/2021. Nộp lưu chiểu: tháng 7 năm 2021. Mã ISBN: 978-604-57-6915-7. 5 LỜI NHÀ XUẤT BẢN Vùng đất Nam Bộ với tư cách là một không gian địa lý và địa bàn hành chính thân thuộc, thiêng liêng của người dân đất Việt đã trải qua một quá trình hình thành, phát triển lâu dài, được bồi tụ chủ yếu bởi hai con sông lớn: sông Đồng Nai và sông Mê Kông. Nơi đây cũng đã từng tồn tại, phát tích của nền văn hóa Óc Eo và các vương quốc Phù Nam, Chân Lạp phát triển huy hoàng rồi suy tàn theo năm tháng. Từ thế kỷ XVII, người Việt từ miền Bắc và miền Trung đã vào đây khai phá, dựng làng, lập ấp cùng với người dân bản địa chinh phục vùng đất hoang vu nhưng rất trù phú này. Đến thế kỷ XVIII, từ tầm nhìn chiến lược và công lao to lớn của các chúa Nguyễn, sau này là vương triều Nguyễn, xác lập, sắp đặt các đơn vị hành chính, vùng đất phương Nam giàu có chính thức thuộc chủ quyền của dân tộc Việt Nam, đến nay đã được hơn 300 năm. Vùng đất Nam Bộ với cương vực như hiện nay bao gồm cả Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ - đồng bằng sông Cửu Long, có 17 tỉnh và hai thành phố trực thuộc Trung ương, diện tích tự nhiên hơn 64.000 km2, dân số hơn 33 triệu người với nhiều tộc người tụ cư sinh sống, gồm các dân tộc ít người bản địa, các dân tộc thiểu số từ Trường Sơn - Tây Nguyên xuống, từ các tỉnh miền núi phía Bắc vào, một số ít người từ các nước khác đến, nhưng chủ yếu là địa bàn của người Kinh, người Hoa, người Khmer, người Chăm. Về mặt địa lý, nhìn từ Bắc vào Nam, Đông Nam Bộ giáp cực Nam Trung Bộ từ tỉnh Ninh Thuận, giáp Trường Sơn - Tây Nguyên từ các tỉnh Lâm Đồng, Đắk Nông; có đường biên giới trên đất liền với Campuchia từ Bình Phước tới Hà Tiên; có đường bờ biển trải dài từ Ninh Thuận tới đất mũi Cà Mau (Biển Đông) và từ mũi Cà Mau đến Hà Tiên (biển Tây - vịnh Thái Lan). Nằm ở ngã ba đường giao thông quốc tế, Nam Bộ có vị trí địa - kinh tế, địa - chính trị cực kỳ quan trọng. 6 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II TỪ CỘI NGUỒN ĐẾN THẾ KỶ VII Với tư cách một vùng đất giàu trầm tích văn hóa, đa dạng tộc người, đa tôn giáo, giàu tiềm năng và có vị trí chiến lược trọng yếu, từ lâu Nam Bộ đã là đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong nước và ở nước ngoài, nhiều hội thảo khoa học về vùng đất này đã được tổ chức, nhiều công trình khoa học trên các lĩnh vực đã được công bố, nhưng cho đến nay vẫn thiếu một công trình có tầm vóc, quy mô lớn nghiên cứu toàn diện, liên ngành để có cái nhìn toàn cảnh, sâu sắc, nhiều chiều cạnh về vùng đất phương Nam này. Để đáp ứng yêu cầu đó, chương trình nghiên cứu tổng thể về vùng đất Nam Bộ dưới dạng một đề án khoa học cấp nhà nước do GS. Phan Huy Lê làm chủ nhiệm, gồm 11 đề tài khoa học đã được Bộ Khoa học và Công nghệ cho phép triển khai từ năm 2008. Từ những đề tài khoa học nghiên cứu cơ bản này, Ban Chủ nhiệm đề án đã tổ hợp lại thành báo cáo tổng quan Quá trình hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ. Sau 4 năm nghiên cứu, toàn bộ đề án đã được Bộ Khoa học và Công nghệ nghiệm thu và đánh giá đây là chương trình khoa học - công nghệ xuất sắc năm 2011. Mặc dù công trình được đánh giá cao, nhưng khi xuất bản thành sách, các tác giả phải tiếp tục bổ sung, sửa chữa, chỉnh lý trong vòng hơn 3 năm - đến giữa năm 2015 mới chuyển giao bản thảo cho Nhà xuất bản. Sau khi tiếp nhận bản thảo, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật đã huy động một đội ngũ đông đảo biên tập viên, họa sĩ, nhân viên kỹ thuật, tổ chức biên tập, đọc duyệt, thiết kế makét, trình bày trong hơn một năm để công trình khoa học lớn này lần đầu tiên đến tay bạn đọc vào cuối năm 2016 đầu năm 2017. Đây là một công trình khoa học nghiên cứu công phu, nghiêm túc, được tiến hành bởi đội ngũ các nhà khoa học trên nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó Ban Chủ nhiệm đề án và chủ biên của từng đề tài là các chuyên gia hàng đầu trong từng giai đoạn lịch sử cũng như trong các lĩnh vực nghiên cứu. Tuy vậy, ở một vài chương trong bộ tổng quan hoặc từng đề tài, chất lượng nghiên cứu và hàm lượng khoa học không giống nhau, có chương, có tập chưa được như kỳ vọng hoặc yêu cầu nghiên cứu đặt ra. Tất nhiên mỗi đề tài khoa học là công trình độc lập, nhưng khi đặt trong một chỉnh thể thì có đề tài không tránh được sơ lược, dàn trải; có đề tài có một số nội dung đã được trình bày ở các đề tài khác. Vì vậy, Nhà xuất bản đã thống nhất với chủ biên đề nghị các tác giả bổ sung, nâng cấp hoặc cắt bỏ những trùng lặp để bộ sách tuân thủ nghiêm ngặt sự thống nhất trong chỉnh thể. LỜI NHÀ XUẤT BẢN 7 Bộ sách về vùng đất Nam Bộ gồm bộ tổng quan, rút gọn: Vùng đất Nam Bộ - Quá trình hình thành và phát triển, 2 tập và một bộ chuyên khảo sâu gồm 10 tập, nghiên cứu khá toàn diện trên nhiều lĩnh vực của vùng đất phương Nam, từ điều kiện tự nhiên, quá trình lịch sử, dân cư, dân tộc, tôn giáo, thiết chế quản lý xã hội, quá trình Nam Bộ hội nhập với khu vực và quốc tế. Khi triển khai nghiên cứu, tên đề án và tên từng đề tài khoa học rất cụ thể và thường khá dài, nhưng khi xuất bản, Nhà xuất bản đã trao đổi với chủ biên thống nhất bộ sách có tên chung là Vùng đất Nam Bộ. Riêng bộ tổng quan Vùng đất Nam Bộ - Quá trình hình thành và phát triển, ngoài Chương mở đầu và Chương kết có 10 chương nội dung, được kết cấu hoàn chỉnh. Nhưng với dung lượng 1.500 trang sách rất khó dung nạp trong một cuốn sách, cho nên chúng tôi chia thành hai tập: tập I gồm Chương mở đầu và sáu chương nội dung, tập II gồm bốn chương nội dung và Chương kết. Riêng Chương kết, các tác giả dành mục cuối cùng để trình bày đề xuất, kiến nghị của Ban Chủ nhiệm đề án với Đảng, Nhà nước và các cơ quan lãnh đạo, quản lý, chúng tôi tách ra làm phần Phụ lục đặt ở cuối sách. Như vậy kết quả nghiên cứu của đề án được công bố thành các cuốn sách sau đây: - Vùng đất Nam Bộ - Quá trình hình thành và phát triển, gồm 2 tập, GS. Phan Huy Lê chủ biên. - Vùng đất Nam Bộ, tập I: Điều kiện tự nhiên, môi trường sinh thái, TS. Trương Thị Kim Chuyên chủ biên. - Vùng đất Nam Bộ, tập II: Từ cội nguồn đến thế kỷ VII, GS. TSKH. Vũ Minh Giang - Nguyễn Việt đồng tác giả. - Vùng đất Nam Bộ, tập III: Từ thế kỷ VII đến thế kỷ XVI, GS. TS. Nguyễn Văn Kim chủ biên. - Vùng đất Nam Bộ, tập IV: Từ đầu thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX, GS. TS. Nguyễn Quang Ngọc chủ biên. - Vùng đất Nam Bộ, tập V: Từ năm 1859 đến năm 1945, PGS. TS. Đoàn Minh Huấn - PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hà đồng chủ biên. - Vùng đất Nam Bộ, tập VI: Từ năm 1945 đến năm 2010, PGS. TS. Trần Đức Cường chủ biên. - Vùng đất Nam Bộ, tập VII: Đặc trưng tín ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt văn hóa, GS. TS. Ngô Văn Lệ chủ biên. 8 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II TỪ CỘI NGUỒN ĐẾN THẾ KỶ VII - Vùng đất Nam Bộ, tập VIII: Thiết chế quản lý xã hội, PGS. TS. Vũ Văn Quân chủ biên. - Vùng đất Nam Bộ, tập IX: Tộc người và quan hệ tộc người, TS. Võ Công Nguyện chủ biên. - Vùng đất Nam Bộ, tập X: Tiến trình hội nhập khu vực và thế giới, PGS. TS. Võ Văn Sen chủ biên. Về mặt xuất bản, bộ sách được biên tập, thiết kế, trình bày thống nhất trong từng tập và trong cả bộ sách, được in ấn đẹp, trang trọng. Xuất bản bộ sách này chúng tôi hy vọng cung cấp cho bạn đọc, các nhà nghiên cứu, học viên, sinh viên các học viện, nhà trường và các nhà lãnh đạo, quản lý, các địa phương, đơn vị một khối lượng tri thức lớn, khá đầy đủ, toàn diện và chân xác về vùng đất Nam Bộ, phục vụ cho công tác học tập, nghiên cứu và hoạch định chính sách ở khu vực trọng yếu, năng động này của đất nước. Bộ sách cũng cung cấp cơ sở lịch sử - pháp lý vững chắc phục vụ cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị. Các tác giả và Nhà xuất bản đã nỗ lực rất cao trong nghiên cứu, biên soạn và biên tập - xuất bản, nhưng với khối lượng công việc đồ sộ, bộ sách khó tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, rất mong được bạn đọc góp ý, phê bình. Xin trân trọng giới thiệu bộ sách quý cùng bạn đọc. Tháng 4 năm 2017 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 9 LỜI GIỚI THIỆU Quá trình hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ là một đề án khoa học xã hội cấp nhà nước do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, được thực hiện trong thời gian từ năm 2008 đến năm 2010 và nghiệm thu vào cuối năm 2011. Đề án gồm 11 đề tài: 1- Điều kiện địa lý tự nhiên, môi trường sinh thái tác động đến tiến trình lịch sử và đặc trưng văn hóa vùng đất Nam Bộ do TS. Trương Thị Kim Chuyên, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh làm Chủ nhiệm. 2- Nam Bộ từ cội nguồn đến thế kỷ VII do GS. TSKH. Vũ Minh Giang, Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, Đại học Quốc gia Hà Nội làm Chủ nhiệm. 3- Nam Bộ từ thế kỷ VII đến thế kỷ XVI do PGS. TS. Nguyễn Văn Kim, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội làm Chủ nhiệm. 4- Nam Bộ từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX: Quá trình khai phá và xác lập chủ quyền của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ do GS. TS. Nguyễn Quang Ngọc, Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, Đại học Quốc gia Hà Nội làm Chủ nhiệm. 5- Nam Bộ từ khi Pháp xâm lược Việt Nam đến năm 1945 do PGS.TS. Đoàn Minh Huấn, Học viện Chính trị hành chính khu vực I làm Chủ nhiệm. 6- Nam Bộ từ năm 1945 đến năm 2010 do PGS. TS. Trần Đức Cường, Viện Sử học Việt Nam làm Chủ nhiệm. 7- Đặc trưng tín ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt văn hóa của cư dân Nam Bộ do GS. TS. Ngô Văn Lệ, Trường Đại học Khoa học xã 10 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II TỪ CỘI NGUỒN ĐẾN THẾ KỶ VII hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh làm Chủ nhiệm. 8- Đặc trưng thiết chế quản lý xã hội ở Nam Bộ do PGS. TS. Vũ Văn Quân, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội làm Chủ nhiệm. 9- Tộc người và quan hệ tộc người ở Nam Bộ - lịch sử và hiện trạng do TS. Võ Công Nguyện, Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ làm Chủ nhiệm. 10- Nam Bộ trong tiến trình hội nhập khu vực và thế giới của Việt Nam do PGS. TS. Võ Văn Sen, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh làm Chủ nhiệm. 11- Nghiên cứu giải pháp nâng cao nhận thức của cán bộ và nhân dân về lịch sử vùng đất Nam Bộ do PGS. TS. Phan Xuân Biên, Viện Nghiên cứu xã hội, Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh làm Chủ nhiệm. Toàn bộ kết quả nghiên cứu của các đề tài được tổng hợp trong một công trình mang tên Quá trình hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ do GS. Phan Huy Lê, Chủ nhiệm đề án, làm Chủ biên. Công trình có một số đề tài nghiên cứu về quá trình lịch sử, nhưng không đơn thuần là lịch sử Nam Bộ. Cùng với các lớp cắt lịch đại theo tiến trình lịch sử, còn có những nghiên cứu trên một số lĩnh vực cơ bản về điều kiện tự nhiên, quan hệ tộc người, thiết chế quản lý xã hội, đời sống văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng, về quá trình xác lập chủ quyền của quốc gia Đại Việt... Trong một số đề tài lịch sử cũng có những yêu cầu làm sáng tỏ một số nội dung quan trọng như đề tài số 2 với yêu cầu nghiên cứu về văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam, đề tài số 4 có yêu cầu nghiên cứu sự xác lập chủ quyền của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ. Đặc biệt từ kết quả nghiên cứu, đề án xác lập một nhận thức mới coi lịch sử vùng đất Nam Bộ không phải bắt đầu khi người Việt vào khai phá từ thế kỷ XVII mà phải ngược về quá khứ xa xưa từ khi con người xuất hiện trên vùng đất phương Nam này. Vùng đất Nam Bộ đã được các nhà khoa học nghiên cứu từ lâu dưới góc độ của nhiều chuyên ngành từ địa chất, địa lý đến khảo cổ học, dân tộc học, nhân học, xã hội học, kinh tế học, văn hóa học và sử học. Đề án LỜI GIỚI THIỆU 11 một mặt tổng hợp các kết quả nghiên cứu đó, mặt khác nghiên cứu thêm một số nội dung cần thiết nhằm tạo ra một nhận thức tổng hợp về toàn bộ quá trình hình thành và phát triển của vùng đất phương Nam này. Đó là cơ sở khoa học để hiểu biết và lý giải những nét độc đáo của không gian lịch sử văn hóa vùng đất Nam Bộ với những trầm tích của nhiều thời kỳ lịch sử, những biến đổi trong cấu trúc tộc người, vai trò và cống hiến của các lớp cư dân - tộc người đã từng sinh sống trên vùng đất này, những đặc trưng về văn hóa, phong cách, lối sống của con người Nam Bộ, quá trình hội nhập của vùng đất Nam Bộ vào lãnh thổ của nước Đại Việt từ thế kỷ XVII-XVIII cho đến cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền và sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước đến ngày nay. Tham gia đề án có hơn một trăm nhà khoa học thuộc một số viện của Viện Khoa học xã hội Việt Nam (nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) và Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, một số khoa và viện của Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và Hội Khoa học lịch sử Việt Nam. Các nhà khoa học tham gia dưới nhiều phương thức như trực tiếp biên soạn, nghiên cứu chuyên đề, điều tra khảo sát điền dã, tham luận trong các hội thảo khoa học. Trong quá trình chuẩn bị xây dựng đề án, Bộ Khoa học và Công nghệ đã phối hợp với Hội Khoa học lịch sử Việt Nam tổ chức ba hội thảo khoa học tại Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Cần Thơ: Văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam (năm 2004), Vùng đất Nam Bộ cho đến cuối thế kỷ XIX (năm 2006), Nam Bộ thời cận đại (năm 2008). Trong quá trình triển khai đề án, Ban chủ nhiệm đề án cùng chủ nhiệm các đề tài còn tổ chức một số hội thảo trao đổi về lịch sử nghiên cứu, phương pháp tiếp cận và một số nội dung cơ bản của đề án như tiến trình lịch sử xã hội, bản sắc văn hóa xã hội. Các bài tham luận trong những hội thảo này đã được Nhà xuất bản Thế giới biên tập và in thành sáu tập kỷ yếu1. 1. Văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam, 2008; Lịch sử nghiên cứu và phương pháp tiếp cận, 2008; Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ đến cuối thế kỷ XIX, 2009; Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ thời kỳ cận đại, 2009; Mấy vấn đề tiến trình lịch sử xã hội, 2011; Mấy vấn đề bản sắc văn hóa xã hội, 2011. 12 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II TỪ CỘI NGUỒN ĐẾN THẾ KỶ VII Kết quả nghiên cứu của Đề án được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật biên tập rất công phu và công bố thành một bộ sách mang tên chung Vùng đất Nam Bộ gồm 11 tập sách. Riêng tập Tổng quan là Vùng đất Nam Bộ - Quá trình hình thành và phát triển dày đến 1.500 trang chia làm hai tập. So với nội dung của các đề tài có yêu cầu thống nhất lại tên từng tập và sắp xếp lại một số nội dung để tránh trùng lặp. Cách phân tập và bố cục này đã được nói rõ trong Lời Nhà xuất bản. Tập thể các tác giả đã rất cố gắng hoàn thành công trình nghiên cứu nhưng trước một đối tượng nghiên cứu rộng lớn, bao quát nhiều nội dung phong phú, trong đó có những vấn đề mới đang nghiên cứu và thảo luận nên khó tránh khỏi sơ suất. Rất mong nhận được sự quan tâm và đóng góp ý kiến của bạn đọc. Chúng tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành đến Bộ Khoa học và Công nghệ đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc triển khai đề án, cảm ơn Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật đã dày công biên tập và xuất bản toàn bộ công trình khoa học này. Hà Nội, mùa Hè năm 2016 GS. Phan Huy Lê 13 MỞ ĐẦU Nam Bộ là vùng đất có lịch sử khai phá và phát triển đa tuyến với nhiều biến động và xáo trộn. Xét từ phương diện văn hóa, đây là vùng đất có vị trí giao thoa, với những quá trình tộc người hết sức đa dạng, phong phú và vì vậy, cũng vô cùng phức tạp. So với các vùng khác trong cả nước, Nam Bộ là nơi có tỷ lệ tín đồ theo tôn giáo trên tổng dân số cao nhất và cũng là nơi có nhiều loại hình tôn giáo, tín ngưỡng vào bậc nhất. Ngoài những tôn giáo và tín ngưỡng giống như các vùng khác, còn có Cao đài, Hòa hảo, đạo Dừa, Bửu sơn Kỳ hương, Hồi giáo... Đây là vùng kinh tế lớn, năng động, đóng góp lớn trong GDP của cả nước. Nhưng cũng do tăng trưởng kinh tế mạnh mà Nam Bộ cũng đang diễn ra khá nhanh quá trình phân hóa giàu nghèo dẫn tới những nguy cơ tiềm ẩn cho ổn định xã hội, nhất là trong bối cảnh phức tạp về dân tộc và tôn giáo. Nhìn từ góc độ địa - chính trị, Nam Bộ là một vùng đất trọng yếu. Cùng với Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ là vùng luôn thu hút sự quan tâm của các cấp lãnh đạo và các cơ quan có trách nhiệm. Mặc dù cho đến nay đã có không ít những công trình nghiên cứu về Nam Bộ, nhưng có một thực tế dễ nhận thấy là những kết quả thu được chưa đáp ứng yêu cầu nhận thức khoa học về vùng đất này. Như một cầu nối giữa hai nền văn minh lớn là Trung Hoa và Ấn Độ, Nam Bộ chịu tác động đến đâu, và quan trọng hơn có vai trò gì trong việc nối kết hai nền văn minh ấy, thậm chí có đóng góp gì cho những giá trị văn minh nhân loại là những điều cần được làm sáng tỏ thêm. Nam Bộ còn là vùng đất chuyển tiếp giữa hai vùng hải đảo và lục địa trong khu 14 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II TỪ CỘI NGUỒN ĐẾN THẾ KỶ VII vực Đông Nam Á. Đặc điểm địa văn hóa này có ý nghĩa thế nào đối với đặc trưng văn hóa của khu vực và bản sắc của chính văn hóa Nam Bộ nói riêng, văn hóa Việt Nam nói chung cũng cần phải được nghiên cứu thêm. Việc nghiên cứu sâu sắc Nam Bộ còn góp phần làm rõ các giai đoạn lịch sử, đóng góp của các cộng đồng cư dân trong quá trình khai phá và phát triển vùng đất, qua đó khẳng định chủ quyền Việt Nam trên vùng đất này, bác bỏ có căn cứ khoa học những luận điệu xuyên tạc, kích động và lôi kéo ly khai. Vì vậy kết quả nghiên cứu của đề tài này sẽ có những đóng góp thiết thực phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước và bảo vệ an ninh quốc gia. Tuy nhiên, nằm trong hệ thống các đề tài thuộc đề án khoa học cấp Nhà nước Quá trình hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ, nội dung được trình bày trong tập sách này chỉ giới hạn trong khung thời gian từ thời tiền sử đến thế kỷ VII, thời điểm Nhà nước Phù Nam bị Chân Lạp đánh bại. Quyển sách có niên đại sớm nhất đề cập đến Phù Nam là Dị vật chí của Dương Phù thời Đông Hán (25 - 220). Đến thời Tam Quốc (220 - 280), Phù Nam đã thiết lập quan hệ bang giao với nước Ngô. Theo Ngô thư thì vào tháng chạp năm Xích Ô thứ sáu (243), vua Phù Nam là Phạm Chiên sai sứ dâng nhạc sĩ và phương vật. Sau đó, khi đánh chiếm Giao Châu và Cửu Chân, vua Ngô đã sai người đến các nước phương Nam, vua các nước Phù Nam, Lâm Ấp và Minh Đường đều sai sứ dâng cống1. Sau đó, sách Lương thư còn cho biết Tôn Quyền nước Ngô đã sai Tuyên Hóa tòng sự Chu Ứng và Trung lang Khang Thái đi sứ các nước phía Nam, trong đó có Phù Nam. Sau khi đi sứ về, Khang Thái có viết quyển Phù Nam thổ tục, còn gọi là Phù Nam truyện. Các sách có niên đại muộn hơn vào các thế kỷ VI - VII như Trần thư, Tùy thư, Thông điển, Tân Đường thư... đều có chép khá tỷ mỷ về Phù Nam. 1. Xem Ngô thư, quyển 47 (Ngô chủ truyện), tờ 31. MỞ ĐẦU 15 Như vậy, nguồn sử liệu thư tịch của Trung Quốc không chỉ ghi nhận sự tồn tại của Vương quốc Phù Nam ở vùng đất tương ứng với vùng đất Nam Bộ, mà còn ghi nhận các mối quan hệ rộng và liên hệ rất thường xuyên của vương quốc này với các triều đại phong kiến Trung Quốc. Tuy nhiên, trong một thời gian dài nền văn minh cổ đại của cư dân Nam Bộ chỉ được biết đến qua các thư tịch cổ nên không tránh khỏi những suy đoán mơ hồ. Tính chất độc đáo và có phần bí hiểm của lịch sử Nam Bộ đã thu hút sự quan tâm của nhiều học giả châu Âu khi họ biết tới vùng đất này. Một trong những công trình nghiên cứu sớm là các tác phẩm Les peuples orientaux connus des anciens Chinois (Các dân tộc phương Đông thời cổ được Trung Quốc biết đến) của Louis Léon de Rosny (Paris, 1886). Đặc biệt là hai công trình của P. Pelliot tập trung nghiên cứu Vương quốc Phù Nam (Le Fou-Nan, BEFEO, vol. 3, 1903) và của E. Aymonier (Le Cambodge, Paris, 1903). Đến năm 1968, G. Cœdès đã tập hợp các công trình nghiên cứu của mình và kết quả nghiên cứu của nhiều học giả khác để xuất bản ở Honolulu một cuốn sách nổi tiếng: The Indianized States of Southeast Asian. Đây là công trình tổng hợp khá đầy đủ và hệ thống lịch sử các nhà nước Đông Nam Á cổ đại, trong đó Phù Nam, Chân Lạp và Chămpa được tác giả đặc biệt chú trọng. Ngay từ những công trình nghiên cứu đầu tiên, một số nhà nghiên cứu đã nhận thấy tính chất bản địa sơ khởi của vùng đất Nam Bộ không hoàn toàn trùng lặp với những gì đã thể hiện rõ ràng từ thời Angkor. Khá nhiều học giả, trong đó có cả P. Pelliot cho rằng chủ nhân lập quốc Phù Nam là cư dân đồng bằng ven biển có thể thuộc nhóm ngôn ngữ Đa Đảo (Polynésien). Những người Chân Lạp - được coi như thủy tổ của tộc Khmer là những cư dân có nguồn gốc lục địa. Lịch sử nghiên cứu vùng đất Nam Bộ dựa trên thư tịch, bi ký và truyền thuyết đã được bổ sung bằng nghiên cứu điền dã khảo cổ của một số nhà khoa học Pháp kể từ cuối thế kỷ XIX và nở rộ vào thập niên 30 - 40 của thế kỷ XX. Những phát hiện và khai quật khảo cổ học tiền 16 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II TỪ CỘI NGUỒN ĐẾN THẾ KỶ VII sử và lịch sử chủ yếu diễn ra ở vùng miền Đông Nam Bộ với những địa điểm như Cù Lao Rùa (Cartailhac, Grossin 1902, Jodin 1910, Malleret và Janse 1937), Gò Đá (Holbe, 1889), và các di tích ở vùng thượng Vàm Cỏ (các huyện Đức Hòa, Đức Huệ, Cần Giuộc) do P. Levy, J.Y. Claeys, H. Parmentier, Louis Malleret tiến hành trong những năm 1930-1940. Điều cần được nhấn mạnh ở đây là việc ứng dụng các không ảnh quân sự trong việc khảo sát dấu vết hoạt động và cư trú của người xưa của các nhà khoa học Pháp đã mở ra một triển vọng đầy hứa hẹn khám phá vùng đất ngập nước của đồng bằng Nam Bộ (Paris, 1930). Có lẽ những phát hiện khảo cổ trong thời kỳ này và nhất là việc nghiên cứu không ảnh đã đưa Louis Malleret đến với chương trình nghiên cứu lớn và hệ thống về văn hóa Óc Eo chỉ một vài năm trước khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai, tại vùng Tứ giác Long Xuyên (Transbassac) và mở rộng sang vùng Đồng Tháp, Vàm Cỏ (Cisbassac). Năm 1944, nhà khảo cổ học người Pháp Louis Malleret đã tiến hành một cuộc khai quật có ý nghĩa lịch sử ở địa điểm Óc Eo1. Nhiều di tích kiến trúc và hiện vật quý đã được phát hiện. Những di vật tìm thấy trong di chỉ này và những di chỉ khác thuộc văn hóa Óc Eo đã được chứng minh chính là di tích vật chất của nước Phù Nam2. Niên đại các di chỉ thuộc văn hóa Óc Eo phù hợp với thời kỳ tồn tại của quốc gia Phù Nam được phản ánh trong các sử liệu chữ viết. Công trình nhiều tập của 1. Óc Eo: Tên một cánh đồng gần núi Ba Thê (nay thuộc địa phận xã Vọng Thê, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang). Theo nhân dân địa phương, địa danh này trong tiếng Khmer có thể đọc là O KEO, có nghĩa là một vùng trũng (O) phát ra ánh sáng lóng lánh như thủy tinh (KEO). Sở dĩ cánh đồng này được đặt tên như vậy vì cư dân địa phương thường thấy ở đây những ánh sáng lạ phát ra vào ban đêm mà không hiểu vì sao. 2. Xem Malleret, L. : L’Archéologie du Delta du Mékong, 4 tập: Tập I: L’Exploration archéologique et les fouilles d’Oc Eo, Paris, 1959. Tập II: La Civilisation matérielle d’Oc Eo, Paris, 1960. Tập III: La Culture du Fou Nan, Paris,1962. Tập IV: Le Cisbassac, Paris, 1963. MỞ ĐẦU 17 Louis Malleret: L’Archéologie du Delta du Mékong chẳng những đã công bố những kết quả nghiên cứu, phát hiện của cuộc điền dã năm 1943- 1944 của tác giả mà còn hệ thống khá đầy đủ những phát hiện nghiên cứu trước đó trong những vùng có liên quan. Có thể nói công cuộc nghiên cứu của Louis Malleret đã mở ra một chương mới trong nghiên cứu lịch sử đồng bằng Nam Bộ, trong đó chủ yếu là lịch sử văn hóa Óc Eo - Phù Nam. Điểm mấu chốt nhất trong nghiên cứu của Louis Malleret là việc ông phát hiện, khai quật hệ thống hào lũy và kiến trúc gạch đá ở gò Óc Eo và hệ thống kênh rạch cổ nối các di tích đương thời. Hệ thống hào lũy Óc Eo do Louis Malleret phát hiện cho thấy một thành lũy cảng thị cổ có hình chữ nhật rộng 1.500m x 3.000m. Hệ thống cảng thị này có nhiều dấu vết kiến trúc gạch đá ở bên trong và các kiến trúc gạch đá vệ tinh được nối với nhau bằng mạng lưới kênh mương cổ. Trong đó, con mương dài nhất tới 80km nối Óc Eo với Angkor Borei (Takeo, Campuchia). Cùng với hệ thống hào lũy, kênh mương cảng thị, kiến trúc đền đài, Louis Malleret còn thu thập và khai quật được hàng ngàn tiêu bản hiện vật Óc Eo - Phù Nam như hạt chuỗi đồ trang sức bằng vàng, bạc, đá quý, tượng thần, Phật bằng đá, đồng, các cấu kiện kiến trúc gạch, ngói và nhiều đồ gốm, đá, gỗ gia dụng... tạo cơ sở để nhận thức sâu hơn về những gì liên quan đến Vương quốc Phù Nam được nhắc đến một cách mờ ảo trong thư tịch và bi ký. Công cuộc nghiên cứu về Óc Eo - Phù Nam bị chững lại do những khó khăn chung của thế giới thời kỳ hậu thế chiến rồi lại đến chiến tranh Đông Dương kéo dài đến tận năm 1975. Cố gắng của các nhà khoa học cho vùng đất này về phương diện nghiên cứu khảo cổ, lịch sử trong thời kỳ 1945 - 1975 thật hết sức ít ỏi. Lê Hương có làm một khảo cứu về Sử liệu Phù Nam (Sài Gòn, 1972) thực tế là gần như biên dịch và hiệu đính lại các công trình của L. Finot, G. Cœdès, Maspero... về thư tịch và bi ký liên quan. Một vài điền dã của Fontaine, Hoàng Thị Thân... ở Xuân Lộc, Hàng Gòn, Dầu Giây, Cù Lao Rùa, Phú Hòa 18 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II TỪ CỘI NGUỒN ĐẾN THẾ KỶ VII dường như chỉ đủ như những thăm dò khảo cổ học mang tính chỉ dẫn ở vùng đất đỏ bazan Đồng Nai, Bình Dương chứ chưa mang lại những nhận thức đột biến về tiền - sơ sử Nam Bộ. Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng (1975), nhóm các nhà khảo cổ học chuyên nghiệp Việt Nam đã được hình thành ở Thành phố Hồ Chí Minh dưới tên Trung tâm Khảo cổ học thuộc Viện Khoa học xã hội miền Nam. Khoa Sử với chuyên ban Khảo cổ học cũng hình thành ở Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn tại thành phố này. Đồng thời, các bảo tàng địa phương cũng được ra đời với đội ngũ cán bộ có trình độ khảo cổ, lịch sử, văn hóa đại học và trên đại học. Đó là cơ sở để lý giải cho hàng chục di tích khảo cổ học tiền - sơ sử được phát hiện, khai quật hằng năm kể từ sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng. Kinh nghiệm nghiên cứu thời tiền - sơ sử dựa trên khảo cổ học ở miền Bắc đã được áp dụng và kết quả là các nhà khoa học Việt Nam đã xác lập được khung niên đại tương đối của tiến trình tiền sử muộn và sơ sử Nam Bộ, từ khoảng 5.000 năm trở lại đây. Việc tập trung nghiên cứu khảo cổ học ở Nam Bộ từ đó đến nay nói chung rõ ràng nhằm vào hai trọng tâm chính: hệ thống văn hóa tiền sử Đông Nam Bộ và văn hóa Óc Eo. Tại miền Đông Nam Bộ, ngoại trừ những phát hiện về “thời đại đá cũ” còn gây nhiều tranh luận thì chuỗi phát triển tiền sử muộn, từ hậu kỳ đá mới trở đi thể hiện quá trình định cư ổn định và một tiến trình phát triển văn hóa khá rõ ràng cho đến thời đại sắt và thâm nhập thời kỳ vương quốc cảng thị Óc Eo - Phù Nam. Việc đặt tên cho từng giai đoạn phát triển văn hóa ít nhiều có khác biệt giữa các nhà nghiên cứu, nhưng sự thống nhất thể hiện trong việc phân kỳ: Hậu đá mới (hay thời đồng đá) từ 4.500 - 3.500 năm (Cầu Sắt, An Sơn, Bình Đa...). Thời đại đồng thau từ 3.500 - 2.500 năm (Cù Lao Rùa, Cái Vạn, Dốc Chùa...). Thời đại đồ sắt và quá trình tiền Óc Eo từ 2.500 năm cho đến thế kỷ I - II sau Công nguyên (Phú Hòa, Hàng Gòn, Giồng Cá Vồ...). Văn hóa Óc Eo được tập trung nghiên cứu ngay từ khi mới ra đời Trung tâm Khảo cổ học miền Nam. Giai đoạn đầu được tổng kết vào MỞ ĐẦU 19 năm 1995. Trong 20 năm ròng, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã tiến hành nghiên cứu phúc tra lại hầu hết các địa điểm Louis Malleret đã nhắc đến, đồng thời phát hiện khai quật hàng loạt địa điểm khảo cổ học Óc Eo mới. Tuy nhiên vẫn chưa tạo được bước tiến rõ rệt trong nhận thức về lịch sử Óc Eo - Phù Nam, nhưng chính quá trình nghiên cứu này đã làm hình thành một khái niệm hoàn chỉnh về “Khảo cổ học Phù Nam - Óc Eo” ở Việt Nam và trên thế giới. Từ sau năm 1995, nghiên cứu về văn hóa Óc Eo - Phù Nam ở Việt Nam tiến thêm một bước rất quan trọng nhờ những nghiên cứu khảo cổ học phối hợp giữa các nhà khảo cổ học Việt Nam với Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp*1 (do Pierre-Yves Manguin làm đại diện) từ năm 1997 đến năm 2002. Chương trình nghiên cứu này đã ứng dụng những phương pháp khoa học khảo cổ tiên tiến nhất, nhờ đó các giai đoạn phát triển của văn hóa Óc Eo - Phù Nam được chứng minh một cách rõ ràng và thuyết phục. Chương trình nghiên cứu Nam Bộ của Viện Khảo cổ học (1998- 2000) và một số chương trình nhỏ lẻ hơn của các nhà khảo cổ học Nhật Bản, Đức cũng làm sáng dần từng mảng vấn đề của văn minh Phù Nam. Hội thảo khoa học chuyên đề về Văn hóa Óc Eo và Vương quốc Phù Nam nhân kỷ niệm 60 năm nghiên cứu tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12-2004, đã bước đầu tổng kết thành tựu nghiên cứu về văn minh Óc Eo - Phù Nam của toàn thể giới khoa học Việt Nam tính đến thời điểm đó. Năm 2006, Nhà xuất bản Thế giới cho ra mắt bạn đọc cuốn sách Lược sử vùng đất Nam Bộ do GS.TSKH. Vũ Minh Giang chủ biên đã bước đầu tập hợp những nhận thức khoa học mới nhất về lịch sử vùng đất Nam Bộ, đặc biệt là vấn đề chủ nhân của Vương quốc Phù Nam. Sau đó Đề án khoa học xã hội cấp Nhà nước về Quá trình hình thành và * Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp: tiếng Pháp - École française d’Extrême - Orient, viết tắt là EFEO (BT). 20 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II TỪ CỘI NGUỒN ĐẾN THẾ KỶ VII phát triển vùng đất Nam Bộ do GS. Phan Huy Lê - Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam chủ trì đã được triển khai từ năm 2006. Kết quả nghiên cứu của Đề án này đã đưa công cuộc nghiên cứu Óc Eo - Phù Nam nói riêng và cả vùng đất Nam Bộ nói chung lên một tầm cao mới nhờ phương pháp tiếp cận đa ngành, đa chiều và hệ thống hóa. Văn hóa Óc Eo - Phù Nam không chỉ là một hiện tượng lịch sử xảy ra trong lãnh thổ Việt Nam hiện tại mà phân bố rộng ra các vùng khác nhau của Đông Nam Á. Sự tiến bộ của khảo cổ học khu vực và thế giới tại những địa điểm Phù Nam ở ngoài Việt Nam, như Angkor Borei, Khao Sam Kaeo, Ban Don Ta Phet... đã góp phần sáng tỏ nhiều điều cho quá trình nghiên cứu lịch sử Nam Bộ. Trong số các công trình nghiên cứu cần phải nhắc đến cố gắng của nhóm đề tài khảo cổ học hạ lưu sông Mê Kông (LMP) do nữ khảo cổ học người Mỹ là Mariem Stark chủ trì với sự tập trung có kết quả vào khai quật nghiên cứu Angkor Borei (Campuchia) từ 1996-2001. Nghiên cứu của nhóm đề tài khảo cổ học hạ lưu sông Mê Kông đã chứng minh quá trình cư trú tiền Phù Nam ở Angkor Borei từ 2.500 năm trước và sự hình thành một thành lũy Phù Nam như một kinh đô có thể đã xảy ra vào khoảng giữa thiên niên kỷ 1 sau Công nguyên. Hệ thống kênh mương và sự xuất hiện của gạch cũng được nhóm đề tài khảo cổ học hạ lưu sông Mê Kông tập trung phân tích niên đại AMS và nhiệt huỳnh quang. Cho dù kết quả còn nhiều thảo luận, nhưng có một điều chắc chắn là gạch ngói và kênh đào giao thông đó đã đích thực là kết quả hoạt động của thời kỳ Phù Nam. Có thể nói, chính Chương trình nghiên cứu của nhóm đề tài khảo cổ học hạ lưu sông Mê Kông (1996-2001) và Chương trình nghiên cứu phối hợp của Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp và các nhà khảo cổ học Việt Nam (1997-2002) đã góp những nhận thức mới rất cơ bản về văn hóa Óc Eo - Phù Nam. Một nghiên cứu rất quan trọng khác có liên quan đến Phù Nam đó là những khai quật do nhà khảo cổ học người Pháp là Belline chủ trì tại vùng eo Kra (nam Thái Lan), trong đó Khao Sam Kaeo là địa điểm MỞ ĐẦU 21 khảo cổ học đáng chú ý nhất. Kết quả nghiên cứu ở Khao Sam Kaeo cho thấy quá trình hình thành cảng thị quốc tế cũng như quá trình Ấn Độ hóa về mặt kinh tế, văn hóa ở đây đã diễn ra từ nửa sau thiên niên kỷ 1 trước Công nguyên. Điều đó chỉ ra con đường ra đời văn hóa Óc Eo - Phù Nam có thể là sự phát triển mở rộng từ những tiểu quốc cảng thị Ấn Độ hóa trước như Khao Sam Kaeo và sau đó, khi Phù Nam phát triển lại trở thành một cảng thị lệ thuộc, bị chi phối bởi đế chế Phù Nam hùng mạnh. Tuy vậy, thực tế nghiên cứu về tiền - sơ sử Nam Bộ và văn hóa Óc Eo - Phù Nam cho đến nay cũng chỉ rõ ra những điểm cần phải giải quyết trong thời gian tới đây. Đó là việc phát hiện và khai quật những địa điểm hay hệ thống địa điểm chuẩn với sự đầu tư ứng dụng các phương pháp nghiên cứu phân tích tiên tiến nhất nhằm tiếp tục hoàn thiện khung phân kỳ chi tiết cho tiến trình lịch sử Óc Eo - Phù Nam. Bên cạnh đó cần thay đổi phương pháp khai quật để có thể khai thác được nhiều nguồn thông tin khảo cổ học có giá trị trong việc phục dựng lại bức tranh toàn diện về con người, đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của văn hóa Óc Eo - Phù Nam, từ đó góp tư liệu chân xác vào việc phục dựng lại lịch sử vương quốc và đế chế Phù Nam. Việc rà soát lại một cách khoa học hơn khối tài liệu thư tịch, bi ký cần dựa trên các văn bản gốc và sử dụng các phương pháp phân tích hiện đại, trong đó tiếp cận ngôn ngữ học lịch sử, địa danh học lịch sử có vai trò rất quan trọng. Để đạt được những mục tiêu đã đặt ra, các tác giả cuốn sách này đã vận dụng triệt để các phương pháp nghiên cứu liên ngành dựa trên những tiếp cận cơ bản của khoa học lịch sử và khảo cổ học để phân tích xử lý các nguồn tư liệu phong phú, đa dạng về vùng đất Nam Bộ. Những thủ pháp phân tích lịch đại và đồng đại được áp dụng rộng rãi để tái hiện lại quá khứ nhằm đảm bảo tính logic của các kết luận và nhận định. Tiếp cận khu vực học được sử dụng như một phương pháp chủ đạo cho công trình trên cơ sở coi Nam Bộ là một không gian văn hóa, trong 22 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II TỪ CỘI NGUỒN ĐẾN THẾ KỶ VII đó liên tục diễn ra các quan hệ tương tác giữa con người với điều kiện tự nhiên, môi trường sinh thái, giữa các tộc người có truyền thống khác nhau và các lớp cư dân đến vùng đất này sớm muộn khác nhau. Ưu thế của phương pháp này là có thể tái hiện được bức tranh toàn cảnh, giúp ta có được nhận thức tổng hợp về vùng đất Nam Bộ. Phương pháp so sánh văn hóa được sử dụng trong công trình để tìm ra những đặc trưng riêng có của Nam Bộ trong tương quan so sánh với các vùng đất khác, đồng thời cũng giúp tìm ra những nét tương đồng của văn hóa Nam Bộ với các dạng thức văn hóa khác trên đất Việt Nam và rộng ra là của cả khu vực Đông Nam Á. Trong đó, tiếp cận vùng văn hóa cũng được sử dụng như một phương cách phân lập các không gian để thuận tiện cho việc nghiên cứu so sánh. Một trong những nguồn tư liệu được sử dụng phổ biến để nghiên cứu giai đoạn lịch sử này là các di tích và hiện vật nên các phương pháp khảo cổ học được khai thác triệt để. Trong một số trường hợp, phương pháp phân tích định lượng cũng được áp dụng, kể cả những phương pháp đòi hỏi các thiết bị hiện đại như đồng vị phóng xạ Carbon C14 (dùng để xác định niên đại), hoặc đồng vị bền Oxy O18 (dùng để phân tích một số trạng thái cổ khí hậu)... Mặc dù đã hết sức cố gắng, nhưng đây là một đề tài khó và rất nhiều vấn đề khoa học vẫn cần được tiếp tục nghiên cứu nên trong quá trình hoàn thành cuốn sách, các tác giả khó tránh khỏi những khiếm khuyết và hạn chế. Rất mong nhận được sự góp ý của các nhà khoa học. 23 Chương I NHẬN DIỆN KHÁI LƯỢC VỀ VÙNG ĐẤT NAM BỘ TỪ CỘI NGUỒN ĐẾN THẾ KỶ VII I- ĐỒNG BẰNG NAM BỘ TỪ GÓC NHÌN ĐỊA LÝ NHÂN VĂN 1. Vùng văn hóa địa lý tiền sử đồng bằng Nam Bộ Bước sang thế kỷ XXI, lý thuyết “vùng văn hóa” được sử dụng khá phổ biến trong các công trình khảo cứu lịch sử văn hóa khu vực. Lịch sử của từng vùng từ đó không phải chỉ là những mạch thời gian biểu trưng bởi những sự kiện đơn tuyến mà được trải rộng gắn bó với những tác nhân không gian, môi trường. Đối tượng nghiên cứu trong công trình này nhằm vào một vùng địa lý cụ thể mang tên chung là đồng bằng Nam Bộ1. Các tác giả công trình nghiên cứu này, vì thế, đã sử dụng cách tiếp cận “vùng văn hóa” để giải quyết vấn đề tiền sử Nam Bộ2. Nói đến Nam Bộ là nói đến một phần của thực thể lãnh thổ quốc gia Việt Nam. Bởi từ lâu, trong khi phân vùng lãnh thổ, khái niệm Bắc, 1. Vùng đất Nam Bộ trong sách này bao gồm toàn bộ đồng bằng Nam Bộ với viền thềm cao bao bọc liền sát ở phía bắc, đông bắc đồng bằng, trong phạm vi lãnh thổ biên giới quốc gia Việt Nam hiện nay. Vì tính chất địa lý chủ đạo của vùng này là đồng bằng nên nhiều chỗ chúng tôi sử dụng khái niệm đồng bằng Nam Bộ với nghĩa tương đương vùng đất Nam Bộ. 2. Xem Ngô Đức Thịnh: Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2005, tr.64. 24 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II TỪ CỘI NGUỒN ĐẾN THẾ KỶ VII Trung và Nam Bộ đã trở nên quen thuộc và được chấp nhận đối với một vùng lãnh thổ quốc gia trải dài trên 15 vĩ độ bắc địa cầu theo trục bắc nam. Tuy nhiên, Nam Bộ vẫn còn là một khái niệm rất chung và nhiều khi bị ảnh hưởng bởi những định danh lãnh thổ “ba kỳ” dưới thời thực dân Pháp đô hộ. Khái niệm Nam Bộ lại không phù hợp với lịch sử biến đổi văn hóa vùng tương ứng có nguồn gốc sâu xa từ khi hình thành những “vùng văn hóa thời tiền sử”. Nói đến một “vùng văn hóa thời tiền sử” là muốn nhấn mạnh đến thời gian hoạt động của con người ở một vùng địa lý cụ thể trước khi vùng đó hình thành các thể chế quản lý xã hội theo kiểu nhà nước. Vùng văn hóa lịch sử mà chúng ta sẽ bàn đến trong toàn bộ cuốn sách này chính là vùng văn hóa nền tảng để sau đó phát sinh ra văn minh Óc Eo và Nhà nước Phù Nam. Vùng văn hóa đó, xét trên khía cạnh địa lý nhân văn, gắn liền với quá trình hình thành (bởi thiên nhiên) và khai thác (bởi con người) các đồng bằng cổ trên phạm vi đồng bằng Nam Bộ hiện nay, bắt đầu từ thời điểm biển tiến Flandrian1 đạt đỉnh cao nhất và dừng lại (khoảng 6.000 - 4.000 năm trước), thành tạo nên những vũng vịnh sâu trong lục địa và thoái dần (khoảng 4.000 - 3.500 năm trước), làm xuất lộ những cánh đồng phù sa Mê Kông duyên hải đầu tiên có tuổi địa chất Holocene muộn. 1. Trên thế giới đã trải qua thời kỳ băng hà toàn cầu đạt đỉnh cực lạnh vào 18.000 năm trước. Khi đó mực nước biển ở các đại dương tụt xuống mức từ 120 đến 150m dưới mực nước biển hiện tại. Sau đó là thời kỳ khí hậu trái đất ấm dần, băng tan và mực nước biển tăng dần lên đến độ cao trung bình 4-6m trên mực nước biển hiện tại, các nhà khoa học đặt tên đợt biển tiến này là Flandrian. Niên đại C14 đo ở các ngấn biển Flandrian để lại cho thấy mực nước biển đạt mức cao nhất ở khoảng 6.000 năm trước và dừng lại trong khoảng 2.000 năm ở mức cao đó. Từ khoảng 4.000 năm, biển bắt đầu rút, hạ thấp dần độ cao, làm xuất lộ những cánh đồng phù sa ven biển trên vùng đất trầm tích biển ngập trước đó. Kết quả nghiên cứu dao động mực nước biển ở Việt Nam cho thấy ngoài những khác biệt nhỏ mang tính địa phương, nước ta không nằm ngoài quy luật chung đó của thế giới. CHƯƠNG I: NHẬN DIỆN KHÁI LƯỢC VỀ VÙNG ĐẤT NAM BỘ... 25 Chính viền chân núi thuộc sơn khối nam - đông nam Tây Nguyên bắt đầu từ vùng núi Bà Rịa - Vũng Tàu kéo qua Đồng Nai, Tây Ninh, Bình Dương, Long An, bị khoét đứt ở nứt gãy lòng chảo Bassac1 (cửa sông Mê Kông thời biển tiến Flandrian) rồi lại trồi lên ở rặng Ta Keo, Tri Tôn, Ba Thê (An Giang) đã tạo nên ranh giới cao cố định bao bọc đồng bằng Nam Bộ hiện tại. Trong lịch sử, tùy thuộc tốc độ bồi đắp phù sa của các sông Mê Kông, Vàm Cỏ, Sài Gòn, Đồng Nai và nhịp dềnh, lui của biển mà phạm vi phân bố của các rẻo đồng hay doi cồn phù sa cổ trải rộng đến đâu. Khái niệm đồng bằng Nam Bộ Như vậy, trong toàn cảnh bức tranh vùng văn hóa lịch sử đồng bằng Nam Bộ, chúng ta sẽ chứng kiến hoạt động của những cư dân 1. Bassac là tên gọi bằng tiếng Pháp phiên âm từ tiếng địa phương Ba Thắc, chỉ vùng đất cổ được coi như lưu vực vùng cuống nền nhánh sông Mê Kông và sông Ba Thắc gối giữa biên giới Campuchia và Việt Nam ở vùng Châu Đốc. Hai dòng Mê Kông, Ba Thắc chạy song song và có rất nhiều nhánh đan chéo chia nối hai đường nước, khiến chúng ở vùng lãnh thổ đồng bằng Nam Bộ được coi như phần chi lưu Hạ Mê Kông đổ ra biển trong quan niệm Cửu Long từ trước đến nay. Trong đó, nhánh Ba Thắc trở thành dòng Hậu Giang. Dòng Bassac (Ba Thắc, hay Hậu Giang) trên đất nước ta tách thành ba nhánh lớn đi qua các tỉnh Kiên Giang, An Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng ra các cửa biển: Ba Thắc, Định An và Tranh Đề (hiện tại cửa Ba Thắc đang trong xu hướng cạn dần). Transbassac: Thuật từ quốc tế chỉ vùng chuyển từ Bassac ra biển, trong thực tế chỉ là nửa tây đồng bằng Nam Bộ tính từ sông Hậu hất ra biển bao gồm các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau. Nửa còn lại được Louis Malleret gọi là Cisbassac (bên kia Bassac) bao gồm vùng đồng bằng thành tạo bởi phù sa sông Tiền và các sông khác, như sông Vàm Cỏ, sông Sài Gòn, sông Bé và sông Đồng Nai. Vì thế, dù không thật chính xác, khái niệm Transbassac đôi khi được hiểu tương ứng với đồng bằng thành tạo bởi chín (cửu) nhánh cửa sông Mê Kông như phạm vi của thuật từ “đồng bằng Cửu Long”. Vịnh Transbassac cổ, vì thế trở thành thuật từ mở giống như cách các nhà nghiên cứu địa chất gọi tên “vịnh Hà Nội” vào thời biển tiến Flandrian (Holocene trung). Theo đó, vịnh Transbassac là vịnh biển ngập trên diện tích đồng bằng Nam Bộ nói chung, khi mực nước biển đạt biên độ cao nhất ở khoảng 5-6m cao hơn so với mực nước biển hiện tại. 26 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II TỪ CỘI NGUỒN ĐẾN THẾ KỶ VII tiền sử hậu kỳ đá mới trên rìa vịnh Transbassac-Cisbassac ở những đồng bằng chân núi hay doi cồn phù sa cổ có độ cao trên 6 mét so với mặt biển và sự triển khai mở rộng của họ cũng như sự du nhập của những cư dân vùng khác vào để khai thác đồng bằng phù sa trẻ Nam Bộ khi biển từ từ rút. Và như vậy, đồng bằng Nam Bộ trong khái niệm này không phải chỉ là đồng bằng Cửu Long hay đồng bằng Hạ Mê Kông (Low Mekong Delta) mà còn bao gồm cả phần đồng bằng thấp thành tạo do phù sa sông Vàm Cỏ, sông Sài Gòn và cửa sông Đồng Nai. Tính chất chung của một vùng thấp ngập chịu tác động trực tiếp của biển đã tạo nên đặc trưng vùng địa lý văn hóa chung của đồng bằng Nam Bộ, cho dù đồng bằng đó nổi lên nhờ phù sa của con sông nào. Tất nhiên mỗi vùng đồng bằng đều ít nhiều chịu ảnh hưởng cả về độ phì nhiêu thổ nhưỡng lẫn về mặt văn hóa do các yếu tố địa lý nhân văn phía thượng nguồn mang lại. Các đợt biển tiến Nghiên cứu gần đây nhất của các nhà địa chất cho biết kể từ khi biển tiến Flandrian rút vào khoảng 4.000 năm trước cho đến khi xuất hiện văn minh Óc Eo thì vùng đồng bằng vịnh Transbassac còn chịu một lần biển tiến nhỏ nữa diễn ra vào khoảng 3.000 năm trước, đạt mức +3m. Đợt biển tiến này được ghi nhận ở Bắc Bộ với tên gọi “thời điểm Đan Nê” do các nhà khảo cổ học phát hiện hiện tượng cư trú trên núi và dấu tích nhuyễn thể biển trên núi sâu trong lục địa đồng bằng Thanh Hóa, Ninh Bình1. Sau đó mực nước biển lại hạ thấp dần 1. Xem Liêu Kim Sanh: “Hải xâm và hải thoái xưa ảnh hưởng tới vùng đồng bằng sông Cửu Long”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Văn hóa Óc Eo” lần thứ nhất, 1994; Nguyễn Văn Lập, T.K.O. Ta, M. Tateishi: “Late Holocene depositional environments and coastal evolution of the Me Kong River Delta, Southern Vietnam”, bài đăng trên Journal of Asian Earth Science, vol. 18, 2000, pp.427-439; Nguyễn Việt: “Suy nghĩ quanh “Giai đoạn Đan Nê””, bài in trong Những phát hiện mới khảo cổ học, năm 1979, tr.102-104. CHƯƠNG I: NHẬN DIỆN KHÁI LƯỢC VỀ VÙNG ĐẤT NAM BỘ... 27 Hình 1: Bản đồ địa hình Nam Bộ (theo Andreas Reinecke, 2012) 28 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II TỪ CỘI NGUỒN ĐẾN THẾ KỶ VII đến dưới mức hiện nay chừng 1m (trong khoảng 2.800 - 2.150 năm trước). Biển lại dềnh lên mức + 0,4m vào khoảng 2.000 năm rồi tụt xuống -0,5m vào khoảng 1.900 - 1.600 năm trước. Sự biến động của mực nước đại dương đã ảnh hưởng trực tiếp đến độ khô ráo hay ngập, nhiễm mặn của loại hình đồng bằng trẻ, rộng như đồng bằng Nam Bộ. Chính điều này đã tạo ra nét khác biệt đáng kể với các vùng văn hóa tiền sử khác trong khu vực. Nhìn chung có ba dạng địa hình chính có liên quan đến cuộc sống cư dân tiền sử muộn khu vực này: Thứ nhất là, hệ thống đất doi cao có nền địa chất Cánh tân (Pleistocene) ven rìa chân các khối núi và hệ thống cồn cao ven các dòng sông cổ ở độ cao trên 6m so với mặt biển hiện tại. Đây là vùng phân bố phù sa cổ hình thành trước và trong thời kỳ biển tiến Flandrian. Thứ hai là, hệ thống cồn, giồng, doi cao trên 3m dưới 6m so với mặt biển hiện tại hình thành sau khi biển thoái nhịp đầu tiên (4.000 - 3.500 năm trước). Hệ thống này xuất hiện phổ biến ở rìa phía bắc giáp biên giới Campuchia của đồng bằng Nam Bộ. Trong một số văn liệu mô tả dân tộc học, văn hóa học từ vùng này trở lên còn được gọi là “miệt cao”, “miệt thượng”, “miệt trên”. Thứ ba là, hệ thống giồng, cồn, doi cao trong khoảng 2 - 3m phân bố từ cửa sông Sài Gòn qua Mỹ Tho, Bến Tre vòng xuống Kiên Giang kéo lên Hà Tiên xuất hiện trước 2.000 năm nay, kết quả lắng đọng của đợt biển tiến 3.000 năm và bồi đắp phù sa sau biển thoái đó, vùng này còn được gọi là “miệt thấp”, “miệt dưới”... Chúng tôi sẽ phân tích tiến trình cư trú tiền sử thể hiện qua phát hiện khảo cổ học trên các loại hình địa lý trên kỹ hơn ở phần sau. 2. Đồng bằng Nam Bộ trong quan hệ với các vùng văn hóa địa lý tiền sử khác Sử dụng khái niệm địa lý nhân văn (human geography) cho đồng bằng Nam Bộ là nhằm mô tả vùng văn hóa theo tính động của nó. Biến đổi địa chất, địa lý tự nhiên thường là biến đổi theo thời gian, nhưng CHƯƠNG I: NHẬN DIỆN KHÁI LƯỢC VỀ VÙNG ĐẤT NAM BỘ... 29 biến động địa lý nhân văn là những biến động còn mang cả tính không gian. Có nghĩa rằng, chính hoạt động của con người trong vùng đất đó đã chẳng những góp phần làm thay đổi cảnh quan môi trường, mà còn có thể mở rộng những cảnh quan môi trường nhân tạo đó sang những vùng địa lý nhân văn khác. Vì thế, trong chuyên mục này chúng ta sẽ thử khảo sát mối quan hệ mở trong thời tiền sử giữa vùng địa lý nhân văn đồng bằng Nam Bộ với các vùng khác xung quanh, và bằng cách đó sẽ giúp xác định giới hạn tính riêng của vùng văn hóa mà chúng ta đang khảo sát. Như đã sơ bộ nói ở phần trên, rìa bắc và tây bắc đồng bằng Nam Bộ được giới hạn bởi các thềm cao thuộc khối nền nam Đông Dương. Trầm tích biển đã từng xuất lộ ở đây đều thuộc những đợt biển tiến thời Cánh tân và trước đó. Sự phân biệt với trầm tích Toàn tân do biển tiến Holocene Trung mang lại ở vùng này giúp chỉ ra viền rìa cao ven vịnh Transbassac-Cisbassac. Bản đồ của nhóm các nhà địa chất do Nguyễn Văn Lập đứng đầu xây dựng vào năm 2000 cho thấy: khoảng 4.500 năm trước bắt đầu hình thành các đồng bằng châu thổ đầu tiên trong phạm vi vịnh này. Đó là vùng đất thuộc Tứ giác Long Xuyên và vùng Đồng Tháp - Long An, kết quả quá trình hai ngàn năm lắng đọng trầm tích phù sa cửa vịnh biển cổ Transbassac-Cisbassac1. Đây chính là nền sống khởi nguồn cho các hoạt động văn hóa tiền sử muộn dẫn đến xuất hiện văn minh Óc Eo sau này. Trong công trình nghiên cứu này, vùng đất nền khởi nguồn đó được gọi là đồng bằng Nam Bộ cổ I. Lòng chảo Mê Kông chia khối nền trên thành hai nửa: nửa phía tây nam là đồng bằng tích tụ phù sa Mê Kông thông qua hệ nhánh Hậu Giang (Bassac- Ba Thắc), dựa quanh thềm chân khối núi Hà Tiên - 1. Xem Nguyễn Văn Lập, T.K.O. Ta, M. Tateishi: “Late Holocene depositional environments and coastal evolution of the Me Kong River Delta, Southern Vietnam”, bài đăng trên Journal of Asian Earth Science, vol. 18, 2000, pp.427-439. 30 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II TỪ CỘI NGUỒN ĐẾN THẾ KỶ VII Tri Tôn - Ba Thê, lan tỏa thành Tứ giác Long Xuyên. Nửa phía đông dựa trên tích tụ trầm tích từ khối nền Pleistocene thuộc các tỉnh Đồng Tháp, Long An, Tây Ninh (Việt Nam) và Prey Veng, Svay Rieng (Campuchia) với sự tham gia chuyển tải của cả hệ nhánh sông Tiền thuộc Mê Kông lẫn hệ thống sông Vàm Cỏ (Đông và Tây). Đây chính là vùng mà Louis Malleret gọi bằng cái tên Pháp Cisbassac. Có thể nói, chính sự ngăn cách này đã tạo ra những khác biệt mang tính tiểu vùng địa lý nhân văn của hệ đồng bằng Nam Bộ cổ I. Chúng tôi sử dụng tên gọi “Tứ giác Long Xuyên” để định danh cho nửa phía tây và đề xuất sử dụng tên gọi Thượng Đồng Tháp - Long An cho khối phía đông. Sự xác lập hai tiểu vùng địa lý nhân văn ngay từ buổi đầu cư trú tiền sử muộn ở đồng bằng Nam Bộ giúp chúng ta nhận ra những mối quan hệ mở sớm có, từ đồng bằng cổ này, về phía tây nam với thế giới Nam Á và Đông Nam Á hải đảo thông qua vịnh Xiêm của khối phía tây và mối quan hệ về phía tây bắc với thế giới Đông Nam Á lục địa thông qua nhóm văn hóa tiền sử Đồng Nai - Cò Rạt. II- SƠ LƯỢC TIẾN TRÌNH THÀNH TẠO ĐỊA CHẤT KHU VỰC 1. Toàn cảnh chung nền địa chất đồng bằng Nam Bộ trong giai đoạn cực đỉnh băng hà cuối cùng (LGM) Nghiên cứu lịch sử địa lý trái đất, các nhà khoa học xác nhận chu kỳ băng hà mang tính toàn cầu gần nhất diễn ra vào khoảng 25 - 15 ngàn năm trước với cực đỉnh rơi vào khoảng trên dưới 18.000 năm cách ngày nay. Người ta đặt tên cho đợt băng hà này là băng hà Wurme và thường dùng ký hiệu LGM (Last Glaciation Maximun) để ghi nhận thời điểm cực đỉnh băng hà cuối cùng ở 18.000 năm trước, khi mực nước biển trung bình tụt xuống độ -120m so với ngày nay. Có nghĩa rằng băng bắt đầu tan sau niên điểm cực đỉnh này để dẫn đến một thời kỳ biển tiến mang tên Flandrian dâng từ mức -120m lên đến mức cực đại đạt trung bình +6m so với mực nước biển hiện tại. Đợt băng hà CHƯƠNG I: NHẬN DIỆN KHÁI LƯỢC VỀ VÙNG ĐẤT NAM BỘ... 31 này có liên quan rất mật thiết với lịch sử nhân loại, bởi lẽ nó xảy ra vào thời điểm mà ở nhiều vùng trên thế giới, con người hiện đại (homo sapiens) đã hình thành và phát triển đến giai đoạn cuối của thời đại đá cũ. Hiện tượng băng hà đã khiến mực nước biển ở vào thời điểm cực đỉnh băng hà cuối cùng 18.000 năm tụt xuống code -120 đến -150m. Thềm lục địa mở rộng cho phép gắn liền các khối lục hay quần đảo với nhau, tạo ra khả năng di cư và trao đổi văn hóa rộng trên thế giới. Tình trạng này tồn tại kéo dài hàng nghìn năm và biến đổi chậm chạp trong vòng hàng chục ngàn năm. Toàn bộ nước ta cũng không nằm ngoài hiện tượng địa chất - khí hậu này. Mà chủ nhân nền văn hóa Hòa Bình là những chứng nhân trong suốt hàng chục ngàn năm đó. Tuy nhiên, do phạm vi của cuốn sách này chỉ nhằm vào chuỗi phát triển tiền sử muộn dẫn đến hình thành văn minh Óc Eo, nên chúng tôi chỉ muốn đi sâu vào thời kỳ hình thành đồng bằng Nam Bộ sau biển tiến Flandrian. Trước hết xin nhấn mạnh ở đây một thực tế là quá trình chuyển dịch mực nước biển do băng tan diễn ra vô cùng chậm chạp chứ không phải như các cơn lũ lục địa do mùa mưa gây ra. Nhiều người đã hiểu lầm hai hiện tượng này, dẫn đến những lý giải khoa học sai lầm, rằng biển tiến đã gây ra hiện tượng thu hẹp nhanh chóng diện tích sống, tạo ra sức ép dân số tiền sử, dẫn đến những cuộc nhảy vọt văn hóa: nông nghiệp và nhà nước. Trong thực tế, mức độ dao động mực nước biển trong thời kỳ biển tiến Flandrian chỉ đạt trung bình 1cm/năm, tức 1m cho 100 năm và 10m cho 1.000 năm. Trong đó có những chu kỳ ngắn đạt tốc độ cao nhất tới 2 - 5cm/năm. Cuộc biển dâng từ độ sâu -120m lên đến mức như ngày nay đã diễn ra trong suốt gần 10 ngàn năm. Ở Việt Nam, theo kết quả nghiên cứu niên đại qua các mũi khoan ở đồng bằng sông Hồng thì khoảng 8.000 năm trước, mực nước biển mới đạt độ cao trên dưới code “0”, và 2.000 năm sau, tức ở khoảng 6.000 năm, 32 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II TỪ CỘI NGUỒN ĐẾN THẾ KỶ VII mực nước biển mới đạt đến độ cao nhất +6m. Tốc độ tăng trung bình hằng năm chỉ là 3cm/năm và theo độ dốc đương thời của đồng bằng sông Hồng, thì mỗi năm biển lấn sâu vào đất liền trung bình 10 - 25m. Với những biến động “rùa” như vậy, chúng ta có thể nói rằng “biển tiến” hay “biển thoái” là hiện tượng “không dễ nhận biết” đối với cư dân tiền sử. Những ghi nhận dưới dạng “Đại Hồng thủy” hay “Sơn tinh Thủy tinh” phải được giải thích bằng những biến động mang tính đột biến của “sóng thần” hay sạt lở gây lũ lụt lớn, phần lớn có nguyên nhân do động đất gây ra. Tuy nhiên, cho dù với nhịp độ không dễ nhận biết của biển tiến thì tác động do nhiễm mặn đối với trồng trọt lúa nước hay khai thác lúa trời là điều không thể tránh được và hoàn toàn có thể nhận biết đối với cư dân tiền sử sinh sống ở những đồng bằng ven biển. Nhưng chúng tôi hoàn toàn phủ nhận việc sử dụng các hiện tượng khí hậu dài lâu như biển tiến, biển thoái để giải thích các sự kiện, hiện tượng xã hội nhất thời. Như vậy, vào thời điểm băng hà cực đỉnh, biển còn cách xa đường bờ hiện tại khoảng 100km thì đồng bằng Nam Bộ là một lòng chảo lớn đang trong quá trình tích tụ phù sa Mê Kông. Khả năng tồn tại những đồng bằng phù sa cổ tại đây là một hiện thực. Trầm tích của đồng bằng phù sa cổ có tuổi Pleistocene này xuất lộ với độ cao 3 - 5m ở rìa phía bắc đồng bằng các tỉnh Kiên Giang, An Giang, Đồng Tháp, Long An thoải dần với độ dốc 0,01%, tức 10 km/1m ra biển. Mũi khoan địa chất ghi nhận chúng ở độ sâu -2m đến -5m tại Tứ giác Long Xuyên và vùng Đồng Tháp, -10m đến -15m ở bán đảo Cà Mau1. Đồng bằng cổ Pleistocene đó còn mở rộng ra hết thềm lục địa hiện tại. Tuy nhiên có rất ít khả năng tồn tại hoạt động của cư dân thời đại đá cũ trên các 1. Xem Nguyễn Văn Lập, Tạ Thị Kim Oanh: “Những kết quả nghiên cứu tướng trầm tích Holocene ở đồng bằng Nam Bộ và ý nghĩa cổ địa lý”, bài in trong Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ đến cuối thế kỷ XIX, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2000, tr.23. CHƯƠNG I: NHẬN DIỆN KHÁI LƯỢC VỀ VÙNG ĐẤT NAM BỘ... 33 đồng bằng như vậy. Một trong những nguyên nhân đó là sự hiếm, thiếu nguồn nguyên liệu đá gốc và đá cuội có thể làm công cụ1. Trên một nền cổ bằng phẳng sẵn có như vậy, khi biển tiến Flandrian tác động đến vùng này, đã khiến đẩy nhanh tốc độ lắng đọng phù sa Mê Kông trong môi trường biển nông và làm hình thành rất nhanh chóng diện tích đồng bằng phù sa khi biển thoái. 2. Các giai đoạn thành tạo nền sống của cư dân tiền sử Nam Bộ Như đã trình bày ở phần trên, do tính chất nền khá bằng phẳng, độ dốc không lớn, đồng bằng Nam Bộ rất “mẫn cảm” với dao động mực nước biển. Mạng lưới sông ngòi chằng chịt đã đan hòa rất mật thiết hai yếu tố biển và lục địa thông qua hệ nước lũ từ lục địa đẩy ra và nước triều từ biển trồi vào. Ở đồng bằng này, khái niệm ven biển (duyên hải) và lục địa chỉ là tương đối. Trong mùa mưa lũ, nước ngọt lục địa hòa trộn với nước triều biển tạo nên một diện rộng môi trường nước ngọt lợ giúp phát triển thảm thực vật và côn trùng, thủy sản ven bờ. Trái lại, mùa khô, triều cường đưa nước mặn theo các dòng sông vào sâu trong lục địa gây nhiều bất lợi cho môi trường sống của con người. Trải qua hàng ngàn năm, thiên nhiên đã thuần hóa ra những giống loài đặc hữu, trong đó những giống lúa chịu mặn, những vựa thủy sản kéo theo bãi chim trở nên rất phổ biến trong vùng. 1. Thành phần thạch học của trầm tích đồng bằng phù sa cổ Pleistocene đồng bằng Nam Bộ là khá mịn, với độ hạt mịn chứa sỏi vụn kích thước 2-10mm. Đó là kết quả một chặng chuyển tải quá dài vật liệu thô từ thượng nguồn Mê Kông. Tình trạng này khác hẳn với đồng bằng Bắc Bộ, khi dòng sông Hồng tiếp nhận trực tiếp từ nhánh chính cũng như từ các chi lưu sông Đà, sông Lô, sông Chảy một lượng lớn vật liệu thô đổ trực tiếp vào hố trũng Bắc Bộ. Kết quả các mũi khoan ở đồng bằng Bắc Bộ cho thấy lớp cuội sông độ lớn từ 50 - 200mm có tuổi Pleistocene phủ dày hàng chục mét trên hầu khắp diện tích đồng bằng Bắc Bộ trước khi xuất hiện trầm tích phù sa và trầm tích biển Holocene. Hiện tượng phân bố dày đặc di tích công cụ cuội sông mang tên văn hóa Sơn Vi ở các đồi gò ven rìa đồng bằng Bắc Bộ thậm chí trong lòng đồng bằng cao Bắc Bộ (Đông Anh, Hà Nội) góp phần lý giải hiện tượng gắn bó hoạt động của cư dân nguyên thủy với nguồn nguyên liệu công cụ. 34 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II TỪ CỘI NGUỒN ĐẾN THẾ KỶ VII Dựa trên kết quả nghiên cứu hiện tại, nhiều nhà địa chất môi trường đã phát hiện bốn giai đoạn bờ biển tương ứng với bốn nhịp biển tiến - thoái đã diễn ra trên đồng bằng Nam Bộ trong thời Toàn tân (Holocene). Nhịp biển tiến cao nhất chính là cực đỉnh của biển tiến Flandrian mà chúng tôi đã nói nhiều ở các phần trên. Nhịp biển tiến này, theo Liêu Kim Sanh, đạt đỉnh cao nhất +4m vào khoảng 5.850 năm trước, sau đó lùi dần đến mức +3m vào 4.900 năm và +2m vào 4.300 năm1. Tốc độ rất chậm, trung bình chỉ đạt 1 - 2mm/năm. Với tốc độ như vậy thì việc khai thác đồng bằng cổ Nam Bộ code trung bình 3-5m không bị nhiễm mặn chỉ có thể xảy ra từ giữa thiên niên kỷ 3 trước Công nguyên. Điều này phù hợp với việc xác định dấu hiệu cư trú sớm nhất trong vùng bằng đồng vị phóng xạ Carbon C14 tại địa điểm khảo cổ học An Sơn đều từ 4.500 năm trở về sau2. Trong khoảng 3.600 - 3.100 năm trước, biển lùi xa nhất, dưới mức hiện nay -0,8m. Đây là thời kỳ đồng bằng Nam Bộ vừa thoát khỏi chế độ vịnh biển nông, được bồi đắp mạnh bằng phù sa sông Mê Kông, nhưng điều kiện đất còn lầy lội và nhiễm mặn, chỉ có thể tiếp tục phát triển lối sống giồng, cồn khai thác lúa nước ngọt trên các doi đồng cao. Tuy nhiên, nếu như sự mở rộng khai thác đồng bằng cao của cư dân đồng bằng sông Hồng và sông Mã rất rõ nét thì trái lại chúng ta hiện còn thiếu những bằng chứng khảo cổ học cho công cuộc khai thác đồng bằng Nam Bộ vào thời kỳ này. Có lẽ sự phát triển dân cư thời này vẫn chủ yếu ở khu vực đồng bằng cổ ven rìa trước đó. Tại rìa phía bắc, tuyến sông Vàm Cỏ, bên cạnh làng cổ An Sơn xuất hiện thêm những điểm cư trú khác như Lộc Giang, Giồng Trôm, Gò Cao Su. Địa điểm Rạch Núi có lẽ là một trong số hiếm hoi di tích kề sát biển trên đồng bằng Nam Bộ 1. Xem Liêu Kim Sanh: “Hải xâm và hải thoái xưa ảnh hưởng tới vùng đồng bằng sông Cửu Long”, bài in trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Văn hóa Óc Eo” lần thứ nhất, 1994. 2. Xem Bellwood, P. và nnk: Report on the Archaeologica. Excavation at An Son, An Ninh Tay commune, Duc Hoa district, Long An province, Southern Vietnam (tài liệu nội bộ chưa công bố), 2010. CHƯƠNG I: NHẬN DIỆN KHÁI LƯỢC VỀ VÙNG ĐẤT NAM BỘ... 35 thời kỳ biển rút này. Ở rìa phía tây bắc xuất hiện những di tích ven sông và trên cù lao, như Bến Đò, Cù Lao Rùa. Phía cực đông của đồng bằng Nam Bộ, nơi tiếp giáp giữa thềm cao Đồng Nai với duyên hải cổ tồn tại loạt di tích cồn sông như Bình Đa và di tích đầm lầy có cột nhà sàn như Bưng Bạc, Cái Lăng, Cái Vạn... Có thể dễ dàng nhận ra xu hướng phát triển dân cư ở vùng rìa nửa phía bắc - đông bắc của đồng bằng Nam Bộ mạnh mẽ và rõ nét hơn nhiều so với vùng rìa phía tây nam. Nhịp biển tiến thứ hai được xác định xảy ra vào khoảng 3.100 - 2.800 năm trước, đạt độ cao cực đại +3m vào khoảng 2.900 năm. Đợt biển tiến này hầu như không ảnh hưởng đáng kể đến cuộc sống của dân cư trên các đồng bằng phù sa cổ. Dấu ấn thức ăn nhuyễn thể biển ken dày đặc ở địa điểm Rạch Núi ghi nhận đợt biển tiến này. Tại Tứ giác Long Xuyên thời gian này, xuất hiện nhóm cư dân đầu tiên tại Gò Cây Tung với dấu tích văn hóa khá nghèo nàn, nhưng là dấu hiệu rất quan trọng ghi nhận thời điểm con người bắt đầu tập trung khai thác vùng đất lúa phì nhiêu này. Khoảng thời gian tiếp theo, từ 2.800 đến 2.150 năm trước là thời kỳ biển thoái đạt độ lùi cực đại -1m vào khoảng 2.500 năm. Đây chính là thời gian chín muồi cho sự bùng nổ khai thác đồng bằng đất lúa Nam Bộ dựa trên các giồng đất cao song song với bờ biển. Đường bờ biển lúc này được các nhà địa chất xác định đến tận Bạc Liêu - Sóc Trăng - Bến Tre - Mỹ Tho1. Số lượng di tích xuất hiện vào khoảng nửa sau thiên niên kỷ 1 trước Công nguyên ngày càng nhiều hơn trên đồng bằng trũng trẻ cả ở nửa Tứ giác Long Xuyên lẫn nửa Đồng Tháp - Long An. Đợt biển nhích tiếp theo diễn ra trong khoảng 2.150 - 1.900 năm cách ngày nay với biên độ không đáng kể, chỉ đạt mức cực đại 0,4m ở khoảng 2.000 năm trước. Sau đó biển thoái trong suốt khoảng thời gian 1. Xem Nguyễn Văn Lập, T. K. O. Ta, M. Tateishi: “Late Holocene depositional environments and coastal evolution of the Me Kong River Delta, Southern Vietnam”, bài đăng trên Journal of Asian Earth Science, vol. 18, 2000. 36 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II TỪ CỘI NGUỒN ĐẾN THẾ KỶ VII từ 1.900 đến 1.600 năm trước, với cực đỉnh -0,5m. Đó chính là thời điểm xuất hiện và phát triển văn hóa Óc Eo. III- PHÁC DỰNG TIẾN TRÌNH ĐỊA LÝ NHÂN VĂN 1. Sự hiện diện các công cụ kiểu đá cũ bên rìa bắc đồng bằng Nam Bộ Như đã đề cập ở trên, khả năng tồn tại những nền văn hóa đá cũ ở đồng bằng Nam Bộ là rất ít, chính vì đây không phải là địa bàn phân bố các nguồn nguyên liệu công cụ đá tiền sử sớm. Tại phần thềm rìa phía bắc đồng bằng, các nhà khảo cổ học đã phát hiện một số dấu tích chứa công cụ mang dáng dấp thời đại đồ đá cũ. Dựa trên kinh nghiệm nghiên cứu về thời đại đá cũ, chúng tôi thấy cần hết sức thận trọng với những kết luận liên quan đến tiền sử học khi phát hiện những loại hình di tích đó. Lý do là ở chỗ, kỹ thuật chế tác công cụ đá nguyên thủy tồn tại dai dẳng đến tận hiện nay, vì thế một tổ hợp công cụ đá nguyên thủy chỉ phản ánh tính thời gian đáng tin cậy của chúng thông qua địa tầng chứa chúng có thể định tuổi chắc chắn hoặc thông qua mối quan hệ hữu cơ của chúng với các hiện tượng đá cũ khác kèm theo, như bếp lửa, tàn tích thức ăn, dấu tích cư trú...1. Phát hiện những công cụ kiểu dáng đá cũ ở Nam Bộ hiện phân bố chủ yếu ở vùng rìa thềm cao Đồng Nai - Bình Dương - Tây Ninh. Vị trí địa lý khu vực này nhìn chung rất thuận lợi cho cư trú và khai thác thức ăn thời tiền sử. Đơn cử trường hợp ở Vườn Dũ (xã Tân Mỹ, 1. Những phát hiện gần đây về một số di tích thời đại kim khí, trong đó công cụ kiểu đá cũ nằm lẫn trong tầng văn hóa hoặc tạo thành một lớp riêng biệt ở trực tiếp bên dưới tầng văn hóa thời đại kim khí, như ở Nghĩa Lập, Thành Dền (Phú Thọ), Bản Ngạt (Thanh Hóa), Sập Việt (Yên Bái), Lung Leng (Kon Tum) cũng như hàng chục di tích tương tự mới phát hiện ở Sơn La... hé mở khả năng có thể chứng minh sự tồn tại của phương thức săn bắt, hái lượm và sử dụng công cụ cuội nguyên thủy trong vùng đến tận trước khi những người trồng lúa hậu kỳ đá mới... sơ kỳ kim khí đến chung sống. CHƯƠNG I: NHẬN DIỆN KHÁI LƯỢC VỀ VÙNG ĐẤT NAM BỘ... 37 huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, toạ độ 11o04’00” vĩ tuyến Bắc - 106o49’41” kinh tuyến Đông). Đây là một thềm phù sa cổ, bên trên bề mặt có một tầng lũ tích chứa nhiều cuội sông. Phù sa Holocene phủ trực tiếp lên tầng cuội này tạo nên tầng đất nền của thảm thực vật hiện tại. Tại đây các nhà khảo cổ học đã phát hiện một số viên cuội thạch anh và mảnh tước được gia công ghè đẽo1. Về mặt hình dáng, những hiện vật này trông khá giống những công cụ tối cổ mà cư dân thời đại đá cũ để lại cách nay từ nhiều vạn năm. Nguyên liệu cuội và cấu trúc địa tầng cũng khá giống phát hiện đá cũ ở Kota Tampan (Malaysia). Thêm nữa, đây cũng là vùng phát hiện nhiều dấu tích hoạt động của cư dân tiền sử muộn như Cù Lao Rùa, Mỹ Lộc... Hoạt động kiếm sống của cư dân nguyên thủy ở vùng này là điều dễ hiểu, nhưng thật không dễ dàng khẳng định bất kỳ một khung niên đại đá cũ nào (ví dụ Sơn Vi hay Kota Tampan cách nay khoảng 30.000 năm) cho những công cụ được phát hiện lẻ tẻ này. Những công cụ cuội thạch anh ghè đẽo thô sơ tương tự Vườn Dũ đã phát hiện được ở tầng sinh thổ hay thậm chí xen lẫn trong tầng văn hóa đá mới - kim khí ở di tích Lung Leng (Kon Tum). Điều này gợi ý có sự tiếp liền về mặt thời gian giữa lối sống chủ yếu dựa trên săn bắt, hái lượm, sử dụng công cụ kiểu đá cũ với lối sống của cư dân nông nghiệp sử dụng đồ gốm, đồ đá mài và kim loại ở Tây Nguyên vào khoảng 4.000 - 3.000 năm trước. Hiện tượng tương tự hoàn toàn có thể diễn ra ở huyện Tân Uyên (Bình Dương). Điều ấy có nghĩa rằng, hiện tượng sử dụng công cụ kiểu đá cũ như Vườn Dũ có thể có niên đại rất cổ xưa, thậm chí hàng chục vạn năm trước nhưng cũng có thể tồn tại kéo dài đến tận gần đây. Công cụ kiểu đá cũ như vậy còn được thông báo phát hiện nhiều ở các đồi gò bazan đất đỏ thuộc tỉnh Đồng Nai, như Bình Lộc (Cầu Sắt), 1. Xem Lê Trung Khá, Nguyễn Văn Long: “Về những hiện vật thời đại đá cũ mới tìm được ở Vườn Dũ (sông Bé) và Gia Tân (Đồng Nai)”, bài đăng trên tạp chí Khảo cổ học, số 4, 1977, tr.4-7; Xem Bùi Chí Hoàng, Nguyễn Khánh Trung Kiên, Nguyễn Khải Quỳnh: Báo cáo khai quật di tích Mỹ Lộc (Tân Uyên - Bình Dương). Tư liệu Khảo cổ Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ, 2006. 38 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II TỪ CỘI NGUỒN ĐẾN THẾ KỶ VII Hình 2: Một số hiện vật được cho là “đá cũ” ở Lung Leng Bình Xuân, Dầu Giây 2, Hàng Gòn 6, Hàng Gòn 9, Đồi 275, Gia Tân, Núi Cẩm Tiên, Núi Đất, Phú Quý, Suối Đá (Xuân Lộc)...1. Đặc điểm chung của hệ thống di tích này là công cụ kiểu đá cũ đều làm từ đá bazan, nguyên liệu phổ biến tại địa phương, và tất cả đều là những phát hiện đơn lẻ không đi kèm một địa tầng đá cũ thực sự. Một số trường hợp (như ở Bình Lộc) công cụ đá cũ nằm lẫn với tầng văn hóa chứa hiện vật của thời đại kim khí. Việc đưa nhóm công cụ này vào phạm trù nghiên cứu thời đại đồ đá cũ dựa trên những “tiêu chí” phát hiện còn chưa vững chắc ở miền Bắc Việt Nam cũng như ở Đông Nam Á đương 1. Xem Lê Xuân Diệm, Phạm Quang Sơn và Bùi Chí Hoàng: Khảo cổ học Đồng Nai, Nxb. Đồng Nai, 1991, tr.33-52. CHƯƠNG I: NHẬN DIỆN KHÁI LƯỢC VỀ VÙNG ĐẤT NAM BỘ... 39 Hình 3: Một số hiện vật đậm dấu ấn kỹ thuật đá cũ phát hiện trong địa điểm công xưởng đá mới thôn Tám (Đắk Lắk). (Ảnh: Bảo tàng Phạm Huy Thông) 40 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II TỪ CỘI NGUỒN ĐẾN THẾ KỶ VII Hình 4: Một số công cụ cuội thời đá cũ ở châu Á đã được định tuổi bằng các phương pháp vật lý: Hình từ trái sang phải, từ trên xuống dưới: 1, 2 - Akihabayashi (Nhật Bản), 37.000 năm, 3, 4 - Kota Tampan (Malaysia), 70.000 năm và 5 - Bách Sắc (Quảng Tây, Trung Quốc), 800.000 năm. (Ảnh: Nguyễn Việt sưu tầm và chụp lại) CHƯƠNG I: NHẬN DIỆN KHÁI LƯỢC VỀ VÙNG ĐẤT NAM BỘ... 41 thời, như Núi Đọ (Thanh Hóa)1 là không chắc chắn. Do đó, sẽ là quá vội vàng khi chỉ dựa vào kiểu dáng thô sơ của những công cụ đá phát hiện đơn lẻ để kết luận một niên đại cụ thể cho chúng. Những phát hiện đó chỉ đủ chắc chắn để chứng minh rằng đã từng tồn tại ở đây những hoạt động kiếm sống của cư dân tiền sử mà thôi. Việc phát hiện bằng chứng chắc chắn về cư trú của cư dân trước đá mới tại Lung Leng (Kon Tum) cùng với những phát hiện lẻ tẻ ở các thềm phù sa cổ Cánh tân ven rìa phía bắc đồng bằng Nam Bộ cho thấy khả năng tồn tại khá phổ biến những cư dân săn bắt, hái lượm sử dụng công cụ đá ghè đẽo thô sơ trên vùng rìa cao xung quanh vùng trũng đồng bằng Nam Bộ. Những làng xóm thời đại đá mới và kim khí phát triển sau đó trên vùng đất này, không loại trừ là di duệ của một bộ phận nào đó từ những người săn bắt, hái lượm sớm hơn đó. 2. Sự xuất hiện các làng lúa sớm đầu tiên ở ven rìa cao đồng bằng Nam Bộ Những phát hiện khảo cổ học ở An Sơn (Long An)2 trong nhiều năm qua đã cung cấp cho chúng ta diện mạo khá rõ nét về sự hiện 1. Nơi phát hiện rất nhiều công cụ kiểu đá cũ bằng đá bazan ở Thanh Hóa. Dưới ảnh hưởng của chuyên gia khảo cổ học người Liên Xô là Boriscopski, nhiều nhà nghiên cứu đã coi đây là một địa điểm sơ kỳ đá cũ điển hình. Những phát hiện công xưởng chế tác đá bazan muộn hơn ở xung quanh như Cồn Chân Tiên, Đông Khối cho phép chứng minh Núi Đọ chỉ là nơi khai thác đá nguyên liệu cho các xưởng chế tác đá công cụ thời hậu kỳ đá mới ở quanh đó. Công cụ ghè đẽo thô, lớn và các mảnh tước lớn ở Núi Đọ chỉ là sản phẩm của một xưởng sơ chế đá nguyên liệu trước khi vận chuyển chúng về các làng nông nghiệp xung quanh. 2. An Sơn là tên gọi một địa điểm khảo cổ học nằm trên gò Chùa Đất thuộc ấp Ninh Sơn, xã An Ninh Tây, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An (tọa độ 10o59’19” vĩ tuyến Bắc - 106o17’41” kinh tuyến Đông), thuộc phạm vi vùng rìa cao thượng nguồn sông Vàm Cỏ Đông. Trước đây các học giả người Pháp đã quan tâm đến di tích kiến trúc tôn giáo Óc Eo trên đỉnh gò. Nhưng tầng văn hóa của cư dân trồng lúa tiền sử bên dưới chỉ được nghiên cứu qua những cuộc khai quật năm 1977, 1997, 2004 và 2010. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện ở đây nhiều tầng cư trú và khu mộ táng tiền sử, niên đại C14 trải dài từ 4.500 - 3.000 năm cách ngày nay. Chúng ta sẽ trở lại cụ thể hơn với di tích quan trọng này trong chương sau. 42 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II TỪ CỘI NGUỒN ĐẾN THẾ KỶ VII tồn của những cư dân nông nghiệp trồng lúa sớm vào loại nhất trong vùng đồng bằng Nam Bộ. Nhờ nghiên cứu An Sơn như một “địa điểm chuẩn”, chúng ta dễ dàng nhận ra một bình tuyến An Sơn đương thời với bộ công cụ rìu đá mài toàn thân hình thang dài, có vai và đồ gốm đặc trưng có chân đế vành khăn, xương đất trộn trấu lúa, áo miết láng và trang trí hoa văn khắc vạch, chấm rải, lăn răng miệng sò với những đồ án tam giác và móc câu rất tiêu biểu. Địa điểm Lộc Giang cách An Sơn không xa chính là một làng hậu kỳ đá mới nằm cùng bình tuyến đó. Với thời điểm phát sinh vào khoảng 4.500 năm trước, hiện tại chưa có làng trồng lúa đá mới nào có niên đại C14 sớm hơn An Sơn trong phạm vi đồng bằng Nam Bộ, thậm chí ở cả Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ. Hiện tượng xuất hiện những làng trồng lúa sớm như An Sơn trở thành một hiện tượng mới khá đặc trưng cho các đồng bằng châu thổ lớn của Đông Nam Á lục địa. Chúng ta có thể đặt An Sơn trong một bình tuyến chung hậu kỳ đá mới của Đông Nam Á lục địa, trong đó có thể phân thành hai nhịp sớm muộn khác nhau tương ứng với niên đại trước 4.000 năm và từ 4.000 - 3.500 năm trước. Tại đồng bằng Nam Bộ, sự khác biệt diện tích nền khô ráo của hai giai đoạn này là không đáng kể, trừ sự mở rộng thêm chút ít lưỡi phù sa của Tứ giác Long Xuyên theo hướng đông nam. Bình tuyến này có thể so sánh với những dạng hình di tích Mả Đống, Phùng Nguyên, Đồng Vông ở châu thổ sông Hồng, với Hoa Lộc, Cồn Chân Tiên ở lưu vực sông Mã, với Thạch Lạc, Bàu Tró, Cồn Nền ở miền Bắc Trung Bộ, với Xóm Cồn ở Nam Trung Bộ, với hệ thống văn hóa Cầu Sắt, Bến Đò, Cù Lao Rùa ở Đồng Nai, với Samrong Sen ở Campuchia, với Non Nok Tha, Ban Chiang, Ban Phac Top ở Đông Bắc Thái Lan, với Non Pa Wai, Ban Tha Kea, Khok Phanom Di, Ban Kao... ở đồng bằng Chao Phraya (Thái Lan). Ở vào giai đoạn muộn, bên cạnh việc tăng số lượng di tích khảo cổ được phát hiện, bình tuyến An Sơn còn đánh dấu sự nở rộ một CHƯƠNG I: NHẬN DIỆN KHÁI LƯỢC VỀ VÙNG ĐẤT NAM BỘ... 43 loạt di tích công xưởng chế tác công cụ đá ở vùng rìa Đồng Nai và Bình Dương như Bình Đa, Hàng Ông Đại, Hàng Ông Đụng. Hiện tượng này đánh dấu hai sự kiện quan trọng của xã hội tiền sử vùng. Một là sự khẳng định tồn tại khả năng dư thừa lương thực đủ cho phép tách một lực lượng lao động xã hội ra khỏi ngành sản xuất lương thực (food production) trực tiếp tạo ra một lĩnh vực sản xuất chuyên hóa tham gia gián tiếp vào quá trình sản xuất lương thực (non-food production)1. Hai là đánh dấu sự xuất hiện mạng kinh tế - xã hội nguyên thủy với mức ổn định cao thông qua hoạt động trao đổi những vật dụng mang tính “có thể ràng buộc”2. Tính “có thể ràng buộc” chỉ thể hiện được ở nền sản xuất lương thực và nền sản xuất công cụ sản xuất chứ không thể hiện ở nền sản xuất đồ trang sức hay vật liệu tiêu dùng (gốm, đan lát...). Những hiện tượng tiền sử muộn diễn ra tiếp theo ở thiên niên kỷ 2 trước Công nguyên gắn bó mật thiết với bình tuyến bùng phát hậu kỳ đá mới đó. Vì thế, sẽ không hiểu được tiến trình dẫn đến hiện tượng văn minh Óc Eo - Phù Nam nếu không nắm chắc những diễn trình văn hóa trên đồng bằng Nam Bộ bắt đầu từ sự xuất hiện An Sơn. 1. Tiến trình tiền sử nhân loại chiếm hơn 90% thời gian con người tồn tại chủ yếu thông qua hoạt động kiếm sống. Khái niệm food production không phải chỉ giới hạn khi con người kiếm ăn thông qua sản xuất lương thực (nông nghiệp, chăn nuôi), mà mở rộng hơn ra mọi hành vi, hoạt động nhằm có thức ăn nuôi sống bản thân, cộng đồng (săn bắt, hái lượm củ quả, côn trùng, thu nhặt nhuyễn thể, đánh cá...). Hoàn toàn không thấy bằng chứng phân công chuyên hóa lao động xã hội trong các xã hội sống dựa chủ yếu vào các hoạt động phi nông nghiệp hay xã hội nông nghiệp củ quả. Chỉ ở những xã hội sống dựa trên những nguồn ngũ cốc quảng canh mới cho phép tích trữ dư thừa lương thực, tiền đề vật chất cho việc tách một bộ phận lao động xã hội khỏi sản xuất lương thực. 2. Trong nền kinh tế nguyên thủy thì những công cụ đá hay kim loại mà nguồn nguyên liệu hay kỹ thuật chế tác mang tính đặc hữu, cũng giống như giống cây, con thuần hóa trong các xã hội nông nghiệp sớm thuộc về những vật dụng trao đổi “có tính ràng buộc” cao. Chính việc trao đổi các loại vật dụng này đã góp phần quan trọng tạo nên “mạng kinh tế - xã hội nguyên thủy”. 44 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II TỪ CỘI NGUỒN ĐẾN THẾ KỶ VII Hình 5: Phân bố các di tích hậu kỳ thời đá mới (chấm tròn màu đỏ) trên phạm vi Nam Bộ cao (miền Đông) và Nam Bộ thấp (miền Tây). (Bản vẽ của Andreas Reinecke, 2012) Hình 6: Phân bố các di tích thời đại đồng thau (chấm tròn màu vàng) ở Nam Bộ. (Bản vẽ của Andreas Reinecke, 2012) CHƯƠNG I: NHẬN DIỆN KHÁI LƯỢC VỀ VÙNG ĐẤT NAM BỘ... 45 Hình 7: Phân bố các di tích thời đại sắt sớm (chấm tròn màu xanh) ở Nam Bộ. (Bản vẽ của Andreas Reinecke, 2012) 46 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II TỪ CỘI NGUỒN ĐẾN THẾ KỶ VII Hình 8: Sọ người An Sơn Hình 9: Mộ táng An Sơn CHƯƠNG I: NHẬN DIỆN KHÁI LƯỢC VỀ VÙNG ĐẤT NAM BỘ... 47 Hình 10: Gốm lễ nghi An Sơn 48 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II TỪ CỘI NGUỒN ĐẾN THẾ KỶ VII 3. Nền tảng văn hóa tiền Óc Eo sớm (pre Oc Eo)1 Trong chuỗi văn hóa tiếp liền sau bình tuyến An Sơn (khoảng 3.000 - 2.500 năm cách ngày nay) cho thấy chiều hướng chuyển dịch rõ ràng từ vùng văn hóa thềm cao phía bắc và tây bắc xuống phía nam theo vành đai thềm cao hơn ở rìa phía tây đồng bằng Nam Bộ. Động lực của cuộc chuyển dịch đó nhằm hướng đến những vùng đất lúa thuận lợi đang mở rộng từng ngày nhờ biển thoái. Đáng chú ý nhất trong giai đoạn này là sự mở rộng khai thác đất lúa trũng ven đầm lầy và hạ lưu sông ở cả ba rìa có liên quan chặt chẽ với đồng bằng Nam Bộ. a) Đầm lầy ven biển cửa các con sông Đồng Nai, Sài Gòn, Vàm Cỏ Khu vực đầm lầy cửa sông Đồng Nai, Sài Gòn, Vàm Cỏ là khu vực phát triển văn hóa sôi động nhất ven rìa đồng bằng Nam Bộ giai đoạn này. Vào khoảng thời gian 3.000 - 2.500 năm cách ngày nay, bề mặt cạn ráo tương đối của đồng bằng Nam Bộ đã đạt được 2/3 diện tích như ngày nay. Cửa sông Vàm Cỏ, Sài Gòn, Đồng Nai vì thế cũng lùi vào trong, tụ ở vịnh cổ Sài Gòn. Nói cách khác, chính phù sa của ba con sông này đã tạo nên cù lao Sài Gòn khổng lồ bao gồm đất của các quận phía đông nam Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Tuy nói là cạn ráo nhưng cần hiểu đúng là bề mặt đồng bằng Nam Bộ lúc này nói chung 1. Chúng tôi dùng thuật ngữ tiền Óc Eo (pre Oc Eo) cho hệ thống di tích thuộc khoảng nửa đầu thiên niên kỷ 1 trước Công nguyên ở đồng bằng Nam Bộ. Những di tích tiếp liền văn hóa Óc Eo và có dấu hiệu tham gia trực tiếp vào quá trình hình thành văn hóa Óc Eo được coi như những di tích thuộc thời kỳ cận Óc Eo (proto Oc Eo). Tuy nhiên, do việc phân chia nhỏ hơn thời kỳ tiền sử diễn ra trước Óc Eo thành hai giai đoạn tiền, cận còn rất mới mẻ, có thể gây nên ít nhiều hiểu lầm, nên trong công trình nghiên cứu này chúng tôi vẫn duy trì khái niệm tiền Óc Eo với hai khoảng thời gian sớm (nửa đầu thiên niên kỷ 1 trước Công nguyên) và muộn (nửa sau thiên niên kỷ 1 trước Công nguyên) mà tạm thời chưa dùng khái niệm cận Óc Eo. CHƯƠNG I: NHẬN DIỆN KHÁI LƯỢC VỀ VÙNG ĐẤT NAM BỘ... 49 Hình 11: Bản đồ các di tích khảo cổ học tiền Óc Eo ở các thềm cao đồng bằng và ven biển Nam Bộ 1. - An Sơn, 2. - Rạch Núi, 3. - Lò Gạch, 4. - Gò Xoài, 5. - Gò Ô Chùa, 6. - Giồng Nổi, 7. - Đa Kai, 8. - Cù Lao Rùa, 9. - Suối Chồn, 10. - Hàng Gòn 9, 11. - Dốc Chùa, 12. - Phú Sơn, 13. - Phú Ngãi, 14. - Tân Phong, 15. - Tân Hội, 16. - Phú Đức, 17. - Nhơn Thành, 18. - Gò Hàng, 19. - Hào Nghĩa, 20. - Mỹ Nghĩa, 21. - An Thủy, 22. - Óc Eo, 23. - Giồng Cá Vò, 24. - Cái Vạn, 25. - Cái Lăng, 26. - Bưng Thơm, Campuchia, 27. - Chi Peang, 28. - Krek, 29. - Village, 30. - Prohear (Theo Andreas Reinecke, 2012) cao hơn mực nước biển trung bình 1m đến 5m chia làm ba mức khác nhau: 1 - 3m, 3 - 5m và trên 5m. Đây là thời kỳ vùng đất có bề mặt 1 - 3m được tập trung khai thác bên cạnh sự tồn tại tiếp tục của các làng tiền sử ở độ cao hơn. Việc khai thác khu vực đồng bằng thấp 1 - 3m thường để lại dấu tích cư trú và mộ táng trên các doi, cồn dọc sông hay giồng đất có hình vành trăng khuyết song song với bờ biển, hoặc thậm 50 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II TỪ CỘI NGUỒN ĐẾN THẾ KỶ VII chí ngay trong đầm lầy cửa sông ven biển. Những dạng di tích như Cù Lao Rùa, Bà Lụa, Rạch Núi, Cái Lăng, Cái Vạn, Bưng Bạc... được coi như tiêu biểu cho loại hình cư trú này. Chúng tôi muốn nhấn mạnh những di tích này, bởi họ là tiền nhân của công cuộc chinh phục đồng bằng lầy trũng Nam Bộ và tiền nhân của những cảng thị sớm trong khu vực này ở thời kỳ tiền Óc Eo muộn tiếp sau. Hình 12: Một hiện vật gốm độc đáo phát hiện trong văn hóa Cần Giờ (Thành phố Hồ Chí Minh) được xếp vào loại hình văn hóa tiền Óc Eo CHƯƠNG I: NHẬN DIỆN KHÁI LƯỢC VỀ VÙNG ĐẤT NAM BỘ... 51 b) Vùng thượng Đồng Tháp - Long An Khu vực cư trú tiền Óc Eo đáng chú ý nữa là vùng hữu ngạn thượng Tiền Giang (Hồng Ngự, Đồng Tháp) và thượng nguồn Vàm Cỏ Tây (Long An). Một trong những di tích tiền sử được nghiên cứu cơ bản nhất ở vùng này trong giai đoạn tiền Óc Eo là di tích Gò Ô Chùa (xã Hưng Điền A, huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An, tọa độ 10o00’23” vĩ tuyến Bắc -105o46’22” kinh tuyến Đông). Niên đại C14 xác nhận dấu tích con người cư trú sớm nhất ở đây lên đến gần 3.000 năm trước và kéo dài đến tận sau Công nguyên1. Tài liệu khảo sát cổ địa lý cho thấy đây là di tích cồn doi sông cổ. Nếu tính từ nền sinh thổ cư trú đầu tiên thì mặt cồn doi cổ này vào 3.000 năm trước chỉ cao hơn mực nước biển hiện tại 2-3m, tức là nó chỉ vừa được thành tạo sau khi biển rút (sau 3.500 năm cách ngày nay). Có một số dấu hiệu (gốm trộn trấu, miết láng) cho thấy có thể chủ nhân Gò Ô Chùa đến từ vùng thượng nguồn Vàm Cỏ Đông trong số di duệ của chủ nhân bình tuyến An Sơn2. Đặc điểm tiêu biểu nhất của Gò Ô Chùa là hàng vạn mảnh chân trụ gốm có giá đỡ ba chạc phân bố trong tầng văn hóa. Những trụ gốm này cao trung bình khoảng 25 - 30cm, đường kính thân trung bình 3 - 5cm, phần ba chạc chĩa ra dài khoảng 7 - 10cm. Chạc gốm này đa phần làm bằng gốm độ nung thấp, xương đất sét trộn trấu thô, kỹ thuật chế tác và hoa văn đơn giản khiến nhiều nhà nghiên cứu cho rằng chúng chỉ là chân đế “phụ kiện” của một xưởng sản xuất muối hay đế đỡ khi nung gốm. 1. Xem Reinecke, A.: IPPA Conference paper, Hanoi, 2009. 2. Phân tích đồng vị O18 trong thành phần tentium cao răng của 37 bộ xương khai quật ở Gò Ô Chùa, các nhà nhân học người Đức đã phát hiện 7 cá thể từng trưởng thành trong một vùng có độ cao 200m trở lên so với mặt biển, trong số đa phần còn lại sinh trưởng ở chính Gò Ô Chùa (độ cao 3 - 5m so với mặt biển). Vì lý do nào đó họ đã gia nhập cộng đồng dân cư tiền sử Gò Ô Chùa (Reinecke, A.: Personal information, 2007). 52 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II TỪ CỘI NGUỒN ĐẾN THẾ KỶ VII Theo Andreas Reinecke, người khai quật Gò Ô Chùa thì ở đây có hai giai đoạn phát triển văn hóa khá rõ rệt: giai đoạn sớm là hoạt động của những người nấu muối (từ 900 - 400 năm trước Công nguyên). Giai đoạn sau là chủ nhân khu mộ táng sống ở lớp trên. Những người ở giai đoạn muộn này đã không làm muối nữa1. Cách phân chia này của Andreas Reinecke tương đối trùng với cách phân kỳ của chúng tôi ở đồng bằng Nam Bộ, ở đó, giai đoạn sớm tương ứng với thời kỳ tiền Óc Eo sớm và giai đoạn muộn tương đương thời kỳ tiền Óc Eo muộn. 1. Xem Reinecke, A.: “Early Evidences of Salt-Making in Vietnam: Archaeological Finds, Historical Records and Traditional Methods”, bài in trong Salt Archaeology in China, vol.2, chủ biên Li Shui Cheng và Lothar von Frankenhaus, Peking, 2010, p.137. Nhiều nhà nghiên cứu còn nghi ngờ kết luận về nghề làm muối ở Gò Ô Chùa của Andreas Reinecke. Tuy vậy, với số lượng tập trung rất nhiều chân chạc gốm làm giá đỡ, chắc chắn ở Gò Ô Chùa đã tồn tại một dạng xưởng (workshop) chuyên biệt. CHƯƠNG I: NHẬN DIỆN KHÁI LƯỢC VỀ VÙNG ĐẤT NAM BỘ... 53 Hình 13: Chạc gốm và dấu in trấu phản ánh nghề làm muối và trồng lúa ở Gò Ô Chùa (Ảnh: Bảo tàng Phạm Huy Thông) 54 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II TỪ CỘI NGUỒN ĐẾN THẾ KỶ VII Những cuộc điều tra khảo cổ học mở rộng đã phát hiện nhiều di tích đồng đại với Gò Ô Chùa trong cùng khu vực như Rạch Rừng, Gò Cao Su, Lò Gạch... chứng tỏ sự mở rộng cư trú của bình tuyến Gò Ô Chùa sớm ở trong khu vực. Đây là một nhóm di tích rất quan trọng đối với sự phát triển hệ thống văn hóa cận Óc Eo ở vùng Đồng Tháp và Long An, đại biểu cho tiền thân nhóm loại hình phía đông của văn minh Óc Eo sau này. c) Chân núi Tri Tôn - Ba Thê thuộc Tứ giác Long Xuyên Dấu vết con người hoạt động sớm nhất ở vùng này mới hiện biết ở địa điểm Gò Cây Tung (An Giang). Đây là dạng cư trú bám chân núi. Nhóm cư dân cổ đến đây vào khoảng 3.000 năm trước đã lập làng trên một gò cao ven sông cổ chảy giữa hai khối núi Tịnh Biên. Vào thời điểm này Tứ giác Long Xuyên cơ bản còn lầy lội và chua mặn. Vùng đất khô ráo chính là chân rìa hệ núi Tri Tôn này. Những phát hiện đầu tiên ở Gò Cây Tung là dựa trên dấu tích kiến trúc tôn giáo mang phong cách văn hóa Óc Eo sau Công nguyên. Lớp kiến trúc này phủ lên trên một tầng văn hóa cổ hơn và gần đây dấu tích cư trú ở các tầng văn hóa sớm hơn đó mới được các nhà khảo cổ học quan tâm làm rõ1. So sánh với những di tích cùng thời ở vùng thượng Vàm Cỏ hay vùng hạ lưu sông Sài Gòn, Đồng Nai thì với số lượng không thật nhiều công cụ đá, đồ gốm ít trang trí hoa văn, vắng bóng dấu vết kim loại cho phép chúng ta đánh giá xuất phát điểm về mặt văn hóa vật chất của nhóm cư dân Gò Cây Tung ở thời điểm gần 3.000 năm trước còn ở mức tương đối kém phát triển. Về mặt mật độ dân cư thông qua số lượng di tích, thì việc vẫn chưa phát hiện được thêm di tích nào khác cùng thời với Gò Cây Tung càng khẳng định hiện tượng phát triển không thật đồng 1. Xem Phạm Đức Mạnh và Đỗ Ngọc Chiến: “Những vết tích văn hóa nguyên thủy ở Gò Cây Tung (An Giang) qua lần đào thứ ba”, bài in trong Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ ba, Hà Nội, tháng 12-2008. CHƯƠNG I: NHẬN DIỆN KHÁI LƯỢC VỀ VÙNG ĐẤT NAM BỘ... 55 nhịp của vùng đất này so với các khu vực khác của đồng bằng Nam Bộ. Mặc dù vậy, hiện tượng cư trú sớm ở Gò Cây Tung đã đánh dấu thời điểm quan trọng mở đầu cho tiến trình khai thác vựa lúa tự nhiên của Tứ giác Long Xuyên, tạo nên nền tảng kinh tế, dân số cho việc đậu hạt Óc Eo sau này. Theo kết quả điều tra nghiên cứu khảo cổ học cho đến nay ở cả Việt Nam lẫn Campuchia thì Gò Cây Tung còn đại diện cho lớp cư trú sớm nhất của cả vùng Bassac, bao gồm cả hệ thềm núi Takeo - Tri Tôn - Ba Thê, đất khởi nguồn của Vương quốc Phù Nam cũng như của cả đế chế Phù Nam. Dưới lớp kiến trúc gạch ở Gò Cây Tung có một tầng cư trú dày rõ ràng là trước Óc Eo với những hiện vật phong phú, bao gồm đồ gốm văn thừng có vẽ màu, hơn 40 chiếc rìu đá cùng với các bàn mài, chày nghiền... Điều đáng chú ý là ở đây đã tìm thấy loại rìu đá có hình tứ giác (chứ không gặp rìu có vai) và có một gờ nổi ở giữa lưỡi. Loại rìu này gần giống loại “bôn có mỏ” (beaked adze) được tìm thấy ở Malaysia và Indonesia. Tuy bôn có mỏ kiểu Malaysia khác bôn có mỏ ở Indonesia, nhưng khu vực phân bố của các kiểu bôn có mỏ đã được xác định là vùng phân bố của cư dân nói tiếng Mã Lai - Đa Đảo (Malayo - Polynésien) hay Nam Đảo (Austronésien). Những đồ gốm ở Gò Cây Tung cũng có miệng, có nhiều gờ, rất giống với những hiện vật đã được tìm thấy ở Malaysia1. 1. Có một thời gian dài trước Chiến tranh thế giới thứ hai, nhiều nhà nhân học sử dụng công cụ đá như những chỉ dẫn quan trọng cho phân vùng văn hóa. Một công trình nghiên cứu phân vùng văn hóa rìu đá mài ở Đông Nam Á khá nổi tiếng là của R. Duff năm 1970 (Stone Adzes of Southeast Asia, Canterbury Museum Bulletin, No 3), trong đó có nhắc đến loại hình bôn mũi nhọn khá độc đáo ở Đông Á và Đông Nam Á (trong phân loại khảo cổ, người ta dùng thuật ngữ rìu để chỉ công cụ đá mà lưỡi sắc được tạo bởi cạnh vát đều từ hai bên, trong khi đó bôn tạo lưỡi sắc chỉ từ một phía kết hợp với phía kia được để thẳng đứng, tương tự lưỡi bào thợ mộc hiện nay). Loại bôn mũi nhọn này có đặc trưng là phần lưỡi mài vát được tạo bởi hai nửa mài khác nhau mà phần tiếp giáp giữa hai phần này tạo thành một gờ cao ở chính giữa lưỡi bôn trông giống hình mỏ chim. Vì thế người ta còn đặt cho loại hình bôn này cái tên: bôn có mỏ. Đây có thể là một loại hình vũ khí của thủ lĩnh hơn là một công cụ lao động đơn thuần. 56 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II TỪ CỘI NGUỒN ĐẾN THẾ KỶ VII Nghiên cứu so sánh, nhiều nhà nghiên cứu nhận ra những yếu tố đan xen văn hóa đã xuất hiện trong tổ hợp di vật sớm ở Gò Cây Tung. Loại hình gốm đen miết bóng và gốm phủ áo màu hoặc có khoanh vệt màu từng thấy trong gốm đồng đại ở Gò Ô Chùa và sớm hơn trong gốm An Sơn thuộc vùng thượng Vàm Cỏ. Chất liệu công cụ đá mà cấu trúc gồm những hạt sạn đen quánh được cho là khá gần gũi với nguồn nguyên liệu đá của các xưởng Bình Dương, Đồng Nai. Đặc biệt chiếc rìu lưỡi mài vát tạo mỏ và chiếc rìu tùy táng thân tròn phảng phất phong cách hải đảo từ phía Indonesia, Malaysia. Có thể nói Gò Tây Tung như một di tích đại diện sớm cho sự đan quện giữa khối văn hóa tiền sử phát triển ở phía bắc, tây bắc đồng bằng Nam Bộ với khối văn hóa hải đảo. Đây chính là một dấu hiệu quan trọng góp phần lý giải bản chất của cuộc phối hợp Hỗn Điền - Liễu Diệp trong cuộc nảy nở Phù Nam sau này. Cùng với di chỉ Gò Cây Tung, những di vật và mộ táng được phát hiện ở các di chỉ khác như Lộc Giang (An Giang), Long Bửu, gò Cao Su (Long An), giồng Phệt, giồng Cá Vồ (huyện Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh)... đều góp phần khẳng định Óc Eo là một nền văn hóa có nguồn gốc bản địa, có quan hệ mật thiết với văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung mà chủ nhân của nền văn hóa này đã được khẳng định là những cư dân Mã Lai - Đa Đảo. Về mặt nhân chủng, từ năm 1944, Louis Malleret và Bouscarde đã phát hiện ở Rạch Giá một di tích khác thuộc văn hóa Óc Eo. Cùng với nhiều đồ gốm giống hệt như những đồ vật tìm thấy ở chính di chỉ Óc Eo, người ta còn tìm thấy 6 sọ người cùng với nhiều xương tay chân. Theo giám định của nhà nhân chủng học E. Génet Varcin thì tất cả những sọ người này đều thuộc giống người tiền Mã Lai (Protomalais), giống với loại hình chủng tộc của những cư dân Thượng nói tiếng Mã Lai - Đa Đảo ở Tây Nguyên. Gần đây, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã tìm thấy hàng trăm ngôi mộ và di cốt người nhưng có rất ít hộp sọ nguyên vẹn có thể đo đạc chỉ số để xác định thành phần nhân chủng. Riêng ở di chỉ Gò Tháp (Đồng Tháp) và Óc Eo (An Giang) tìm thấy 2 sọ cổ mang đặc điểm nhân chủng tiền Mã Lai. CHƯƠNG I: NHẬN DIỆN KHÁI LƯỢC VỀ VÙNG ĐẤT NAM BỘ... 57 Việc phát hiện nhiều chứng tích của giai đoạn văn hóa tiền Óc Eo trên đất Nam Bộ, chứng tỏ đây là một nền văn hóa có nguồn gốc bản địa mà trung tâm là vùng đất Nam Bộ và có quan hệ giao lưu rộng rãi với thế giới bên ngoài. Bên cạnh quan hệ thường xuyên với các vùng lân cận, dấu tích vật chất cho thấy sự liên hệ khá mật thiết với Trung Quốc, Ấn Độ, Tây Á và Địa Trung Hải. 4. Văn minh Óc Eo và Vương quốc Phù Nam Trong việc nghiên cứu những nền văn minh “biến mất” (the lost civilization) không gì hiệu nghiệm bằng khảo cổ học. Sẽ không có nền văn minh thật nào lại có thể biến mất hoàn toàn. Kết quả phục hồi lại những mất mát của một nền văn minh cổ xưa phụ thuộc rất nhiều vào năng lực phát hiện, sàng lọc và xử lý tư liệu của ngành khảo cổ học hiện đại. Phù Nam là một nền văn minh đã mất. Thoạt đầu, vào cuối thế kỷ XIX, người ta phát hiện được dấu vết của nó nhờ kho tàng thư Trung Hoa cổ đại và một số hiếm hoi bi ký còn xuất lộ trên mặt đất1. Trong nửa đầu thế kỷ XX, các nhà khoa học Pháp bắt đầu để tâm tìm kiếm những chứng tích vật chất của nền văn minh bị lãng quên này, như dấu tích đền đài, tượng, bi ký và kênh mương cổ. Đọng lại của thời kỳ tìm kiếm này là công cuộc nghiên cứu điền dã và khai quật khảo cổ học tương đối hệ thống của chuyên gia khảo cổ học mỹ thuật người Pháp, Giám đốc Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp là Louis Malleret vào năm 1944 tại vùng Óc Eo - Ba Thê2. Có lẽ chính Louis Malleret là người đã tạo ra một niềm tin hoàn chỉnh vào sự tồn tại có thật của nền văn minh Phù Nam và định hướng thuyết phục cho 1. Xem Ma Tuan Lin: Ethnographie des peuples étrangères à la Chine... Paris, 1883. Xem Léonde Dosny: Les peuples orientaux connus des anciens Chinois, 1886. Xem Pelliot, P.: “Le Fou Nan”, bài in trong BEFEO, vol. 3, Hanoi, 1903, pp.248-327. 2. Xem Malleret, Louis: L’Archéologie du Delta du Mékong, 4 Vol., Publications d’EFEO, Paris, 1959, 1960, 1962, 1963. 58 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II TỪ CỘI NGUỒN ĐẾN THẾ KỶ VII một cách tiếp cận hữu hiệu nhất để phục dựng lại nền văn minh đã mất đó bằng khảo cổ học. a) Văn hóa Óc Eo và Nhà nước Phù Nam Trước đây khi nói đến văn hóa Óc Eo người ta bị ảnh hưởng rất nhiều bởi công trình nghiên cứu của Louis Malleret. Không rõ chủ đích ban đầu của dự án nghiên cứu khai quật Óc Eo của Louis Malleret xuất phát từ ước nguyện truy tìm cơ sở vật chất của Vương quốc Phù Nam mà từ đầu thế kỷ nhiều học giả Pháp, dựa vào bi ký và thư tịch Trung Hoa đã từng gợi ý, hay là dựa vào phát hiện kỳ thú của Paris về hệ thống kênh mương và viền lũy cổ thông qua không ảnh quân sự từ đầu những năm 1930 và những phát hiện ngẫu nhiên của người dân trong vùng về những mảnh vàng, hạt chuỗi thủy tinh các loại, tiền cổ, tượng thần và những công trình kiến trúc gạch lạ giữa vùng đồng hoang quanh năm ngập nước. Nhưng dù xuất phát từ chủ đích nào, thì công trình nghiên cứu của Louis Malleret cũng đã đưa ra ánh sáng một cách hệ thống nhất kể từ trước đó, về sự tồn tại thực sự của các dẫn liệu khảo cổ liên kết hữu cơ với nhau trong một khoảng thời gian từ những thế kỷ đầu Công nguyên cho đến thế kỷ VI - VII mà ông gói ghém chúng trong phạm trù “nền văn minh vật chất Óc Eo”1 - một nền văn hóa theo quan niệm thuật ngữ khảo cổ học2. 1. Nguyên văn tiếng Pháp: La Civilisation Matérielle d’Oc-Eo. Tên gọi Óc Eo xuất phát từ địa danh chỉ một cồn gò nổi trên cánh đồng phía đông nam hòn núi Ba Thê thuộc huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang hiện nay. Louis Malleret đã tiến hành điều tra nghiên cứu khai quật hệ thống kiến trúc gạch tại gò này vào những năm 1942-1944, sau đó mở rộng nghiên cứu ra toàn vùng. Ông đã đề xuất Óc Eo làm tên gọi cho nền văn minh vật chất gắn bó chặt chẽ với Vương quốc Phù Nam được thư tịch và bi ký nhắc đến. Xem thêm Louis Malleret: L’Archéologie du Delta du Mékong, Publications d’EFEO, Vol. XLIII. 2. Nhấn mạnh một tập hợp di vật, di tích, hiện tượng khảo cổ học liên kết hữu cơ với nhau trong một khoảng thời gian và không gian cụ thể. CHƯƠNG I: NHẬN DIỆN KHÁI LƯỢC VỀ VÙNG ĐẤT NAM BỘ... 59 Có hai yếu tố xã hội đã bật lên từ khối dữ kiện khảo cổ rất hỗn độn đó: 1- Bằng chứng của giao lưu thương mại quốc tế đường biển thông qua tính đa dạng, nhiều nguồn gốc xa của tập hợp di vật (đồ trang sức, đồ lễ nghi, tượng thần, tiền các loại...) trong đó nổi lên ưu thế của đồ vật đến từ các vùng biển phía tây mang đậm màu sắc văn hóa Ấn Độ hoặc Ấn Độ hóa. 2- Bằng chứng của kiến trúc (gạch, ngói, đền tháp...) của sự tôn thờ thần Phật có nguồn gốc từ Ấn Độ (tượng thần, Phật, các biểu trưng Yoni - Linga). Những dữ kiện khảo cổ này đã chắp cánh cho bi ký, sử liệu Trung Hoa về huyền thoại ra đời nước Phù Nam từ thủ lĩnh Hỗn Điền (nam tính, ngoài biển vào) chinh phục rồi hôn nhân với thủ lĩnh Liễu Diệp (nữ tính, bản địa, núi, đất liền), tạo ra khớp nối giữa tài liệu khảo cổ học và tư liệu sử học. Chính từ đó làm nảy sinh lần đầu tiên trong lịch sử nghiên cứu Phù Nam mối liên hệ song sinh: Văn hóa khảo cổ Óc Eo với hiện tượng nhà nước Phù Nam. Hiện tượng này cũng có phần nào giống với việc khớp nối song hành giữa nền văn hóa đồng thau Đông Sơn với nhà nước Văn Lang - Âu Lạc ở vùng phía Bắc Việt Nam. Tất nhiên vào thời điểm Louis Malleret nghiên cứu văn hóa Óc Eo, ông không có điều kiện để nhận biết ra một cách cụ thể tiến trình nào đã dẫn đến Óc Eo, tức những dữ kiện khảo cổ mà ngày nay chúng ta gọi là tiền Óc Eo. Kinh nghiệm nghiên cứu các quá trình hình thành văn minh trên thế giới ngày nay đều chỉ rõ việc phải giải thích trước hết nguồn gốc nội sinh, tức những nền tảng kinh tế, văn hóa bản địa. Trong vùng Đông Nam Á, mô hình nghiên cứu ở đồng bằng sông Mê Nam và Chao Phraya (Thái Lan) từ hơn 30 năm nay của các nhà khảo cổ học Thái Lan và quốc tế đã giúp làm rõ các yếu tố nội sinh và tác động từ bên ngoài vào quá trình nảy sinh văn minh nhà nước khu vực. Tại Việt Nam, kinh nghiệm nghiên cứu về Văn Lang, Âu Lạc ở vùng miền Bắc cũng cho những bài học quý báu trong việc chứng minh quá trình vận động nội sinh và những tác động ngoại sinh. Tất nhiên mọi 60 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II TỪ CỘI NGUỒN ĐẾN THẾ KỶ VII con đường đi đến văn minh đều không hoàn toàn giống nhau. Nhưng tiếp cận bằng cách đong lường chính xác các yếu tố nội, ngoại sinh sẽ giúp nhìn chính xác hơn bản chất mỗi nền văn hóa, văn minh. Khác với thời Louis Malleret, thời kỳ khảo cổ học còn chịu ảnh hưởng nặng của khảo cổ học mỹ thuật, khảo cổ học tôn giáo, tức chỉ chú trọng vào hiện vật và so sánh quan hệ hiện vật, ngày nay khảo cổ học tiếp cận vấn đề trong quan hệ đa chiều. Nhờ đó, một trong những nguyên nhân khiến nghiên cứu Óc Eo có thể đi xa hơn đó việc phát hiện và nghiên cứu khảo cổ học trước Óc Eo. Một trong những ví dụ điển hình nhất đó là công cuộc phát hiện, khai quật và nghiên cứu địa điểm Gò Cây Tung. Như đã tóm lược ở các phần trên, di tích tiền sử sớm nhất hiện biết ở trong vùng văn hóa xung quanh cảng thị Óc Eo (gọi chung là Tứ giác Long Xuyên) là địa điểm Gò Cây Tung. Địa điểm này được Viện Khảo cổ học khai quật hai lần năm 1993, 1995 và gần đây được Bảo tàng trường Đại học Khoa học xã hội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh khai quật lần thứ ba, thứ tư (năm 2007, 2008). Bộ di vật ở các lớp văn hóa tiền - sơ sử gồm rìu đá mài và các loại đồ đựng gốm thô. Chưa trực tiếp thấy dấu vết kim loại. Niên đại C14 lớp dưới tập trung trong khoảng 900 - 700 năm trước Công nguyên. Phủ lên trên lớp cư trú tiền sử này là kiến trúc gạch đá thời hậu Phù Nam thế kỷ IX - X. Lớp cư trú tiền sử Gò Cây Tung khẳng định công cuộc khai thác đồng bằng miền Tây sông Hậu diễn ra từ 3.000 năm trước. Chúng tạo thành nền tảng vật chất cho sự bùng nổ cư trú ở nửa sau thiên niên kỷ 1 trước Công nguyên tại vùng này. Và chính hiện tượng đó trở thành nền tảng kinh tế, văn hóa trực tiếp cho sự ra đời cảng thị Óc Eo trong thời giao lưu thương mại Đông Nam Á bùng phát vào khoảng trước, sau Công nguyên. Tuy nhiên, nếu so sánh với các vùng xung quanh, trước hết là với vùng miền Đông Nam Bộ, gần nhất là những di tích tiền sử muộn thuộc tỉnh Long An như An Sơn, Gò Ô Chùa, Gò Cao Su, Lộc Chánh và các di tích thuộc văn hóa Đồng Nai, Cần Giờ thì nhóm di tích tiền sử An Giang khá nghèo nàn, đến nỗi nếu không có cú hích của thương mại CHƯƠNG I: NHẬN DIỆN KHÁI LƯỢC VỀ VÙNG ĐẤT NAM BỘ... 61 biển thì tiến trình văn minh hóa ở đây sẽ diễn ra khá chậm chạp và lâu dài. Nhưng tại Óc Eo, chúng ta chỉ có thể công nhận rằng “cảng thị” và Nhà nước Phù Nam không phải từ trên trời rơi xuống. Những hạt giống văn minh đã được đưa đến đây và đất nước, con người Óc Eo với nền trồng lúa năng suất cao, đã đủ chín muồi để biến chúng thành rừng văn minh thực sự1. Nghiên cứu các di tích thời kỳ cận Óc Eo ở ngay trên địa bàn Tứ giác Long Xuyên cho thấy rõ một quá trình tiếp xúc với các yếu tố văn hóa mới lạ diễn ra ít nhất cũng từ thế kỷ I trước Công nguyên. Hiện tượng một làng thuần mới như Gò Tư Trâm xuất hiện từ thế kỷ I trước Công nguyên phản ánh mối giao lưu này không chỉ dừng ở mức trao đổi, buôn bán mà có thể còn ở mức độ cao hơn, với sự hiện diện của những nhóm cư dân mới mang thuần các yếu tố văn hóa ảnh hưởng Ấn Độ từ phía tây đến. Như vậy, cuộc vận động văn hóa kết hợp từ những tác nhân thương mại, tôn giáo (không loại trừ cả di dân cục bộ từ phía tây theo chân các thương thuyền) với hệ thống làng xóm trồng lúa cận Óc Eo kéo dài chừng vài ba thế kỷ trước khi xuất hiện một cảng thị giàu có ở thế kỷ II có thể coi là giai đoạn đầu của văn hóa Óc Eo với niên điểm có thể đẩy lên tới vài thế kỷ trước Công nguyên. Đó là thời kỳ xuất hiện nhanh chóng hệ thống làng xóm nhà sàn trồng lúa trong khoảng thế kỷ I - II Tr.CN đến thế kỷ I - II xung quanh cảng thị Óc Eo (bình tuyến Giồng Xoài - Gò Tư Trâm). Sự xuất hiện cảng thị Óc Eo với hệ thống kênh mương lớn, kiến trúc tôn giáo gạch ngói và các đồ kim loại hiếm quý ở những thế kỷ II - III 1. Nhìn về cuộc lấn biển mở rộng đất lúa của cư dân đồng bằng sông Hồng ta thấy sức bật của Đông Sơn chủ yếu dựa trên đà phát triển liên tục từ Phùng Nguyên. Cư dân Gò Mun từ khoảng bình tuyến 3.000 năm đã có ít nhất 500 năm luyện kim và hàng ngàn năm sử dụng rìu mài toàn thân và đồ trang sức đá quý trước đó. Mật độ dân số Đông Sơn vào khoảng 300 năm trước Công nguyên đã phủ gần như kín các đồng bằng khô cạn đương thời. Người Đông Sơn quả thực đã đứng trước ngưỡng cửa văn minh trước khi có những cú hích từ bên ngoài. 62 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II TỪ CỘI NGUỒN ĐẾN THẾ KỶ VII rõ ràng đã đánh dấu giai đoạn phát triển của nền văn hóa này với sự ra đời bộ máy quản lý xã hội mang tính nhà nước thần quyền. Từ đó, vốn là một vùng phát triển kém hơn so với những vùng khác ở Đông Nam Bộ và chân cao nguyên Đồng Nai, nhờ thương mại quốc tế, Óc Eo vươn lên trở thành thế lực “thủ lĩnh” toàn vùng. Cuộc chinh phục các nhóm còn lại ở cả miền Đông Nam Bộ lẫn rộng hơn sang các thành thị tiểu quốc ven bờ vịnh Xiêm đã đưa Óc Eo trở thành đế chế Phù Nam hùng mạnh từ thế kỷ III - IV đến thế kỷ VI. Khi nói đến văn hóa Óc Eo là người ta muốn nhấn mạnh hơn đến ý nghĩa khảo cổ học, tức các dấu tích vật chất, còn khi nói đến Vương quốc Phù Nam là người ta muốn nhấn mạnh đến hiện tượng lịch sử diễn ra trong một khoảng thời gian tồn tại của nền văn hóa Óc Eo. Ở đây chúng tôi muốn dành ít dòng để giải thích mối quan hệ giữa hai phạm trù thuật ngữ này. Tên Phù Nam lần đầu được nhắc đến trong sách Dị vật chí của Dương Phù đời Đông Hán. Sau đó không đầy một thế kỷ, sự giao lưu trực tiếp giữa thương nhân và sứ giả Phù Nam với chính quyền Giao Châu khi đó thuộc nhà Ngô đã ghi nhận trong chính sử (Tam Quốc chí, Ngô thư) sự tồn tại có thực về một thế lực thống trị đại diện cho khối dân cư, xã hội đồng bằng Nam Bộ được mệnh danh là “vua” Phù Nam muộn nhất cũng từ năm 225 sau Công nguyên1. Từ đó cho đến đầu đời nhà Đường, tên nước Phù Nam vẫn được nhắc đến trong chính sử các triều đại nổi lên ở Nam Trung Hoa với mức độ đậm, nhạt khác nhau phản ánh quan hệ dày, thưa giữa hai nước. Trong đó đặc biệt sôi động là vào thế kỷ III (nhà Ngô) và thế kỷ VI (nhà Lương, Trần). Khoảng thế kỷ VII tên nước và sứ giả Chân Lạp xuất hiện trong Tùy thư và Đường thư thay thế dần sự trở nên thưa thớt khi nói đến Phù Nam. Dựa trên khối tư liệu Trung Hoa này, các học giả châu Âu là những người đầu tiên khởi xướng việc nghiên cứu, tìm tòi về Vương quốc Phù Nam từ cuối thế kỷ XIX, đầu 1. Xem Hà Văn Tấn: Phù Nam và Óc Eo: Ở đâu? Khi nào? và Ai? Tài liệu chưa công bố. CHƯƠNG I: NHẬN DIỆN KHÁI LƯỢC VỀ VÙNG ĐẤT NAM BỘ... 63 thế kỷ XX1. Công cuộc nghiên cứu này được bổ sung thêm nguồn tư liệu bi ký sớm bằng chữ Phạn phát hiện rải rác ở miền Nam Việt Nam và Campuchia. Theo đó, Vương quốc Phù Nam được áng chừng trong phạm vi hạ lưu sông Mê Kông, chủ yếu gồm đồng bằng Nam Bộ và một phần biên giới đông nam Campuchia, tồn tại trong khoảng thời gian từ thế kỷ II đến thế kỷ VII. Vì thế, hầu hết các nhà nghiên cứu đã nhất trí cao khi gắn sự kiện nước Phù Nam với văn hóa Óc Eo. Người đầu tiên và cũng là người góp nhiều công sức trong việc gắn bó hiện tượng khảo cổ học Óc Eo với hiện tượng lịch sử Phù Nam chính là Louis Malleret. Trong chuỗi công trình bốn tập của mình về Khảo cổ học châu thổ Mê Kông (L’Archéologie du Delta du Mékong), Louis Malleret đã có ý thức xây dựng một tập riêng (tập 3) gồm 500 trang nội dung và phần phụ lục với 101 bản ảnh nhan đề La Culture du Fou Nan (Văn hóa Phù Nam), trong đó ông đã lấy những chứng cứ khảo cổ từ khối văn minh vật chất Óc Eo để minh họa cho sự tồn tại và trình độ văn hóa của xã hội Phù Nam. Cũng dựa vào những chứng cứ vật chất đó, Louis Malleret mở rộng so sánh để khớp nối với những dữ kiện thư tịch, bi ký nhằm làm rõ phạm vi phân bố và mối quan hệ giữa khối tư liệu vật chất Óc Eo với hiện tượng Phù Nam, trong một không gian văn hóa lịch sử khu vực rộng hơn. Cho đến nay, những thành tựu nghiên cứu mới, đặc biệt trong lĩnh vực khảo cổ học càng cho phép làm rõ hơn mối quan hệ giữa văn hóa Óc Eo và hiện tượng Vương quốc Phù Nam, đặc biệt trên hai lĩnh vực: nguồn cội của văn hóa Óc Eo, Vương quốc Phù Nam và diện mạo văn hóa vật chất, tinh thần của vương quốc này. b) Sự tàn lụi của văn hóa Óc Eo và bộ máy nhà nước Phù Nam Khảo cổ học nhận ra sự vắng bóng rõ rệt các di tích cư trú Óc Eo trong vùng đồng bằng Nam Bộ kể từ sau thế kỷ VI - VII, khi mà theo tài 1. Xem Ma Tuan Lin: Ethnographie des peuples étrangères à la Chine... Paris, 1883. Xem Léon de Rosny: Les peuples orientaux connus des anciens Chinois, 1886. Xem Pelliot, P.: “Le Fou Nan”, bài in trong BEFEO, Vol. 3, Hanoi, 1903, pp.248-327. 64 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II TỪ CỘI NGUỒN ĐẾN THẾ KỶ VII liệu thư tịch Trung Hoa và bi ký, những vị vua Phù Nam cuối cùng đã phải nhường chỗ cho vua Chân Lạp cai trị. Tại đây, trên nhiều vùng đồi gò cao vẫn tồn tại hệ thống kiến trúc tôn giáo, mộ táng sau Óc Eo, cho thấy sự chuyển đổi trong văn hóa vật chất nói chung lẫn trong tôn giáo, kiến trúc không thật sự rõ rệt sau khi Nhà nước Phù Nam chuyển giao quyền lực về tay những quý tộc Chân Lạp. Điều này phản ánh tính chất chuyển giao quyền lực diễn ra trong nội bộ một chính thể văn hóa Phù Nam bao trùm trước đó. Điều mà thư tịch và bi ký đã hé mở, vua Chân Lạp, người đánh đuổi các vua đương nhiệm Phù Nam, vốn dòng dõi từ hoàng tộc Phù Nam. Sự vắng bóng các di tích cư trú, công xưởng Óc Eo kéo theo sự hoang hóa kéo dài của đồng bằng Nam Bộ cho đến tận thế kỷ XVII phù hợp với dấu hiệu đợt biển tiến với biên độ dâng của mực nước biển lên khoảng 0,80m so với hiện nay từ thế kỷ V - VI đến thế kỷ XII - XIII. Hiện tượng trở nên hoang hóa vùng đồng bằng Nam Bộ kể từ sau khi Phù Nam mất vào tay Chân Lạp có thể do ba nguyên nhân chính dưới đây: 1- Sự suy giảm vị trí cảng thị trung tâm của Óc Eo vào thế kỷ VI - VII. Thời kỳ phát triển của Vương quốc Phù Nam cũng chính là thời kỳ phát triển sôi động nhiều cảng thị địa phương ở ven bờ tây, đông bán đảo Mã Lai cũng như miền Trung Việt Nam, khiến ưu thế độc quyền của Óc Eo bị cạnh tranh. Sử sách ghi nhận những cố gắng quân sự của bộ máy nhà nước Phù Nam trấn trị các tiểu quốc khác trên biển, chính là nhằm giành quyền độc tôn cảng thị của mình. Đây có thể coi như nguyên nhân chính dẫn đến suy yếu Nhà nước Phù Nam kéo theo sự nghèo nàn của cả vùng. Bởi vì chính sự phồn vinh của văn hóa Óc Eo bắt nguồn từ sự xuất hiện yếu tố cảng thị quốc tế. 2- Sự lớn mạnh đủ sức áp đảo, tiếm quyền của thế lực tiểu quốc Chân Lạp ở vùng cao nguyên Korat - Vatphu, nơi nắm giữ nguồn quặng, hương liệu, lâm, thổ sản chính cung cấp cho các cảng thị trong vùng. 3- Sự nhiễm mặn do nước biển dâng làm giảm diện tích, năng suất lương thực lúa - thế mạnh chính của đồng bằng Nam Bộ đương thời. Những vấn đề này sẽ được trình bày sâu hơn trong các chương sau. 65 Chương II TIỀN SỬ ĐỒNG BẰNG NAM BỘ I- HOẠT ĐỘNG KIẾM SỐNG CỦA CƯ DÂN TIỀN SỬ TRÊN VÙNG ĐẤT NAM BỘ 1. Những gợi ý từ hiện tượng Lung Leng (Việt Nam) và Kota Tampan (Malaysia) đối với nghiên cứu tiền sử đồng bằng Nam Bộ Cho đến nay chưa phát hiện được di chỉ cư trú thời đại đá cũ nào ở vùng Nam Bộ, ngoại trừ những thông báo phát hiện lẻ tẻ di vật kiểu đá cũ (palaeolithic-like) ở Bình Dương, Đồng Nai, Lâm Đồng chứ chưa thấy một tổng thể các yếu tố cấu thành một di tích đá cũ đáng tin cậy, như địa tầng có công cụ và các tàn tích thức ăn, bếp lửa hay xương cốt người... để có thể giúp định vị tương đối chắc chắn khoảng thời gian hoạt động của nhóm cư dân đá cũ cụ thể. Bởi lẽ, lịch sử nhân loại dường như cũng bắt đầu với sự mở ra thời đại đá cũ, tức từ khi những người vượn Đông Phi đầu tiên dùng cuội làm công cụ kiếm sống cách ngày nay có thể tới 5 triệu năm. Tình trạng sử dụng công cụ đá ghè đẽo - đặc trưng kỹ thuật cơ bản định danh thời đá cũ, tồn tại cho đến tận gần đây ở một số nhóm cư dân nguyên thủy sống biệt lập ở châu Phi, châu Đại Dương... và trong thực tiễn khảo cổ học, thời đá cũ của một số nhóm cư dân Jomon Nhật Bản hay cư dân văn hóa Hòa Bình ở Việt Nam, Thái Lan, Malaysia vẫn còn kéo dài đến tận ba, bốn ngàn năm cách ngày nay. Vì thế, như đã nhấn mạnh ở chương trên đây, phát hiện công cụ kiểu đá cũ chỉ có thể giúp xác nhận tình trạng hiện tồn của kỹ thuật nguyên 66 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II TỪ CỘI NGUỒN ĐẾN THẾ KỶ VII thủy chứ không đảm bảo xác nhận tuổi, cho dù là tuổi tương đối của chúng. Công trình này nhằm làm rõ những vấn đề tiền sử - sơ sử của đồng bằng Nam Bộ, vì thế chủ chương chọn hai địa điểm đá cũ ngoài trời có địa tầng tương đối cụ thể ở phía bắc Lung Leng (Kon Tum, Việt Nam) và phía nam Kota (Tampan, Malaysia) để phác họa một phần bức tranh tiền sử sớm khu vực. Nói cách khác, chưa có cơ sở để nói về thời đại đá cũ ở Nam Bộ, nhưng từ những di tích cụ thể đã được nghiên cứu có thể đưa ra những gợi ý về thời kỳ này ở Nam Bộ. a) Hiện tượng đá cũ ở Lung Leng (Kon Tum) Nghiên cứu tiền sử Tây Nguyên được bắt đầu từ khá sớm, cùng với chương trình khai thác thuộc địa của chính quyền thực dân Pháp hồi đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, dưới thời thực dân, chưa bao giờ đó là những chương trình điều tra, nghiên cứu cơ bản, mà chỉ là những phát hiện, công bố đơn lẻ, ngẫu nhiên như những hoạt động “bên lề” của chương trình khai thác thuộc địa mà thôi. Vì thế, cho đến trước khi giải phóng miền Nam năm 1975, tiền sử Tây Nguyên vẫn còn là một bức chấm phá rất thưa thớt và mờ nhạt. Trong đó nổi bật nhất là những phát hiện rìu đá mài quanh vùng Biển Hồ, ghi nhận những hoạt động của cư dân tiền sử trên vùng đất trù phú nhưng còn rất thưa dân và chậm phát triển này1. Sau kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, những cuộc điều tra cơ bản khảo cổ học ở Tây Nguyên đã được xúc tiến. Nhưng chính chủ trương tiến hành xây dựng các hệ thống thủy điện ở Tây Nguyên mới thực sự là đòn bẩy thúc đẩy rầm rộ công cuộc điều tra, khai quật khảo cổ học ở Tây Nguyên. Trong đó tiêu biểu nhất là cuộc khai quật giải phóng mặt bằng hàng vạn mét vuông lòng hồ thủy điện Yaly tại 1. Xem Lafont, P.-B.: “Note sur un site néolithique de la province de Plei Ku”, bài in trong BEFEO, 1956, vol. XLVIII, fasc 1, pp.233-248. CHƯƠNG II: TIỀN SỬ ĐỒNG BẰNG NAM BỘ 67 khu vực Lung Leng (huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum). Điểm liên quan đến phần viết này là phát hiện của các nhà khảo cổ về một hệ thống công cụ cuội nguyên thủy nằm trên bề mặt tầng sinh thổ hoặc đôi khi xen lẫn với di vật tầng văn hóa thời hậu đá mới - kim khí tại một số hố khai quật ở Lung Leng. Di tích khảo cổ học Lung Leng vốn là một gò cao hình mu rùa nằm bên cạnh sông Sê San. Vị trí cư trú thuận lợi đã biến nơi đây thành điểm dừng chân của những người săn bắt, hái lượm thời đại đồ đá cũ, mà bộ công cụ gồm hàng trăm tiêu bản làm từ cuội sông, ghè đẽo một cách thô sơ để lại trong tầng đất nền laterit cổ nơi đây là những bằng chứng không thể chối cãi. Tổ hợp công cụ ghè đẽo nói trên đã phát triển đến giai đoạn muộn của lối sống nguyên thuỷ, thể hiện ở những công cụ cuội khá phát triển như rìu mài lưỡi, phiến cuội tròn có khoan thủng, tương ứng với những di vật của các nhóm săn bắt, hái lượm thời Toàn tân ở Nam Trung Quốc, Bắc Việt Nam và cũng giống bộ công cụ đá gần đây của những thổ dân Papua vùng châu Đại Dương. Hiện tượng tồn tại những nhóm săn bắt, hái lượm sử dụng công cụ cuội sông rất thô sơ trên các triền đồi gò rừng khắp Đông Nam Á là một hiện tượng phổ biến và trải qua thời gian rất dài. Đặc điểm chung của công cụ cuội khá dễ nhận là việc lựa chọn từ các nguồn cuội sông có sẵn trong vùng sinh sống để ghè đẽo làm công cụ. Loại cuội sông thường thấy nhất là cuội thạch anh quartzit. Những hòn cuội dẹt, bầu dục vừa tay được ghè bẻ bằng một vài nhát đập khá đơn giản để tạo ra một rìa lưỡi hay đầu nhọn sắc giúp cho việc chặt hay đào bới kiếm ăn1. 1. Dạng công cụ tương tự như vậy được phát hiện có niên đại cổ nhất trong khu vực Đông Nam Á cổ đại là ở Bách Sắc (Quảng Tây, Trung Quốc). Những hiện vật khai quật trên đồi Baidu huyện Tiandong thuộc lòng chảo Bách Sắc rất giống công cụ cuội sông mà chúng ta vẫn quen gọi là văn hóa Sơn Vi. Thoạt đầu, bằng phương pháp phân loại loại hình, đa số các nhà khảo cổ học cho rằng chúng tồn tại trong khoảng 15 - 30 ngàn năm trước. Nhưng gần đây, niên đại giám định bằng khoa học tự nhiên đã xác 68 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II TỪ CỘI NGUỒN ĐẾN THẾ KỶ VII Như đã đề cập đến ở phần trên, hiện tượng lớp cư dân thời đại hậu đá mới - kim khí để lại dấu tích văn hóa ở bên trên hoặc xen lẫn với di tích kiểu đá cũ ở Lung Leng rất giống với hiện tượng đã khai quật được ở Bản Ngạt (Cẩm Thủy, Thanh Hóa) gần đây, năm 20061. Tình trạng trên cũng được ghi nhận rất rõ tại hang Xóm Trại - một di tích hang động đá cũ ở huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình, nơi người tiền sử đầu tiên đến cư trú từ 20 nghìn năm cách ngày nay. Dấu tích đồ gốm và rìu mài toàn thân kiểu Mán Bạc - Đông Khối (loại hình văn hóa 3.500 - 3.200 năm ở đồng bằng Thanh Hóa và Ninh Bình) đan nhận chúng gắn liền với đời sống săn bắt, hái lượm của cư dân nguyên thủy sống cách chúng ta ngày nay hơn 800.000 năm (Xie Guangmiao: The Prehistoric Archaeology in Guangxi, Báo cáo khoa học tại Viện Khảo cổ học, Hà Nội, tháng 11-2008). Những công cụ tương tự đã được phát hiện và khai quật nhiều lần trên bề mặt cũng như trong địa tầng ở Kota Tampan (miền Tây Malaysia) đã được xác định niên đại thông qua tro núi lửa cho thấy chủ nhân bộ công cụ cuội ghè đó là những người săn bắt, hái lượm sống trước chúng ta hơn 30.000 năm. Tuy vậy, gần đây, tại miền Đông Ấn Độ, các nhà khảo cổ học đã phát hiện một sưu tập công cụ cuội thạch anh rất nguyên thủy tồn tại lẫn với công cụ cuội mài lưỡi và một số yếu tố khá muộn, phản ánh sự giao tiếp của những nhóm cư dân nguyên thủy với những người chăn nuôi du mục sống cách ngày nay không xa. Hiện tượng tồn tại kéo dài những nhóm cư dân nguyên thủy đã được khoa học quan sát ở rất nhiều châu lục như châu Phi, châu Đại Dương, châu Mỹ trước khi làn sóng thực dân tác động làm biến đổi lối sống của họ cho thấy sự phát triển không đồng đều là một đặc điểm phổ biến của thời tiền sử. 1. Trong hố khai quật tại Bản Ngạt, các nhà khảo cổ ghi nhận hệ thống công cụ đá cũ tiêu biểu làm bằng cuội thạch anh nằm rải rác trên nền sinh thổ, tức là bề mặt nền cư trú đầu tiên của nhóm cư dân thời đại đồng thau cách đây 3.000 năm. Một số trường hợp công cụ cuội kiểu đá cũ đó nằm cùng tổ hợp di vật thời đại đồ đồng với tư cách như một hiện vật đang được sử dụng đương thời. Hiện tượng này đã khiến nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đã có sự cư trú đan xen, chồng chéo một thời giữa những nhóm cư dân trồng lúa đồng bằng Thanh Hóa với những nhóm săn bắt, hái lượm miền núi phía tây Thanh Hóa. Trong trường hợp ở Bản Ngạt, có thể những người trồng lúa đồng bằng thuộc giai đoạn Quỳ Chử - Đông Sơn đã mở rộng địa bàn hoạt động lên vùng núi Cẩm Thuỷ và đã tiếp xúc hoặc đã sử dụng nơi cư trú của nhóm săn bắt, hái lượm nguyên thủy ở Bản Ngạt, biến nơi đây thành làng trồng lúa. CHƯƠNG II: TIỀN SỬ ĐỒNG BẰNG NAM BỘ 69 xen chặt chẽ với công cụ cuội thô và vỏ ốc thức ăn của người văn hóa Hòa Bình sống tại hang này. Sự có mặt của những người trồng lúa của bình tuyến Mán Bạc - Đông Khối đã góp phần làm chuyển biến lối sống hang động, phụ thuộc thức ăn thiên nhiên của cư dân Xóm Trại xưa, làm xuất hiện những làng trồng lúa đầu tiên trong khu vực. Khi hiện tượng này được đưa ra thảo luận tại Hội nghị Khảo cổ học năm 2007, nhiều nhà khoa học đã cung cấp thêm nhiều dẫn chứng khác tương tự, như trường hợp ở di chỉ Sập Việt (Yên Bái), Thành Dền (Phú Thọ), Làng Vạc (Nghệ An)... Theo chúng tôi, hiện tượng tồn tại bộ di vật đá cũ ở Lung Leng cũng có thể góp thêm chứng cứ về sự thay đổi lối sống nguyên thủy với bộ công cụ cuội ghè đẽo bằng lối sống nông nghiệp thô sơ với rìu mài toàn thân, đồ gốm và sử dụng kim loại, diễn ra khoảng 3.000 - 4.000 năm cách ngày nay tại đây. Phát hiện nhóm công cụ kiểu đá cũ bằng đá cuội ở Đạh Đờn, bằng đá bazan ở Đạh Bnâm Huôi, Hồ Tuyền Lâm gần đây ở Lâm Đồng chứng tỏ lối sống săn bắt, hái lượm tồn tại phổ biến và kéo dài trong điều kiện địa hình đồi núi ở Tây Nguyên. Cho đến tận gần đây, dù các thời đại đều ít nhiều ghi ấn dấu vết của mình trên vùng đất này, nhưng về cơ bản đây vẫn là một vùng đất chậm phát triển, lưu tồn nhiều giá trị văn hóa nguyên thủy và là nơi dừng chân lý tưởng của những nhóm người từng gặp phải bất lợi sau những biến động xã hội lớn. b) Trường hợp Kota Tampan (Malaysia) Trên danh nghĩa địa điểm đá cũ Kota Tampan nằm ở Penang (Tây Malaysia), nhưng thực tế nếu tính theo đường chim bay thì khoảng cách từ trung tâm đồng bằng Cửu Long đến đây (theo hướng tây nam) cũng bằng khoảng cách (theo hướng bắc) đến địa điểm Lung Leng (khoảng 600-700km). Kota Tampan là tên một quả đồi mà từ trước Chiến tranh thế giới thứ hai, một số nhà khảo cổ học người Anh đã 70 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II TỪ CỘI NGUỒN ĐẾN THẾ KỶ VII từng phát hiện nhiều công cụ cuội ghè đẽo nguyên thủy. Gần đây, các nhà khảo cổ học Malaysia đã tiến hành khảo sát, khai quật tương đối hệ thống di tích này và xây dựng tại đây một bảo tàng ngoài trời về thời đại đá cũ ở miền Tây Malaysia. Điểm đáng nói nhất ở địa điểm này là địa tầng chứa công cụ và những cơ sở giúp xác định niên đại cho hoạt động của cư dân nguyên thủy chủ nhân bộ công cụ đó tại vùng này. Tầng cuội sông cổ do lũ tích hình thành có độ dày trung bình 50 - 80cm chạy dài phủ hầu khắp bề mặt quả đồi. Tầng cuội đó hiện chìm dưới mặt đất khoảng gần 1 mét và nhờ đó đã giúp bảo tồn tính nguyên trạng của di tích đá cũ. Tình trạng dải cuội chứa công cụ này của Kota Tampan khá giống tình trạng của địa điểm Vườn Dũ ở Bình Dương nước ta. Tức là hoạt động của cư dân nguyên thủy đã khai thác cuội xuất lộ tự nhiên làm công cụ ngay trên bề mặt các tầng cuội sông sẵn có. Vì thế chúng ta có thể dựa vào kinh nghiệm của Kota Tampan để nghiên cứu lại địa điểm Vườn Dũ ở lưu vực Đồng Nai và phát hiện những địa điểm tương tự ở vùng lưu vực sông Hiếu (xã Nghĩa Đàn, huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An). Công cụ cuội tìm được ở Kota Tampan về cơ bản khá gần gũi cả về chất liệu lẫn loại hình với công cụ kiểu Sơn Vi miền Bắc Việt Nam. Tại Kota Tampan, các tàn tích xương cốt người và động vật cũng không có, nhưng điều khác biệt cơ bản chính ở điều kiện bảo tồn của chúng trong một địa tầng tự nhiên khá nguyên vẹn. Thời kỳ hoạt động của cư dân nguyên thủy ở đây lại ngẫu nhiên trùng với hoạt động núi lửa trong vùng mà các nhà khoa học địa chất có thể định được tuổi nhờ tro bụi của chúng. Vì thế, việc nghiên cứu tỉ mỉ mối quan hệ giữa các lớp bụi núi lửa với địa tầng chứa công cụ đã giúp các nhà khảo cổ học Malaysia giới hạn tuổi của bộ công cụ cuội Kota Tampan trong khoảng 34.000 năm cách ngày nay. Và như vậy, cùng với hiện tượng công cụ cuội kiểu Sơn Vi tại Bách Sắc (Trung Quốc) được xác định tuổi tới 800.000 năm CHƯƠNG II: TIỀN SỬ ĐỒNG BẰNG NAM BỘ 71 và trường hợp Kota Tampan với tuổi 34.000 năm đã cảnh báo chúng ta về phương pháp luận trong việc định tuổi từng sưu tập công cụ cuội ghè đẽo phát hiện trên bề mặt, không có địa tầng. 2. Đồng bằng Nam Bộ và vấn đề nguyên liệu chế tác công cụ kiểu đá cũ Cho đến nay vẫn chưa có phát hiện khảo cổ học nào về thời đại đá cũ trong phạm vi đồng bằng Nam Bộ. Địa điểm đã phát hiện công cụ kiểu đá cũ gần đồng bằng nhất là ở rìa thềm cao phía tây bắc, hạ lưu sông Đồng Nai. Đó là địa điểm Vườn Dũ (Bình Dương). Theo công bố gần đây nhất1 thì các nhà khảo cổ vẫn đặt di tích Vườn Dũ vào phạm trù nghiên cứu thời đại đá cũ hậu kỳ, tương tự hiện tượng Sơn Vi ngoài trời ở miền Bắc Việt Nam. Di tích này nằm trên thềm phù sa cổ hữu ngạn sông Đồng Nai, ở độ cao từ 12 đến 14m so với mặt biển hiện tại (tọa độ 11o04’00” vĩ tuyến Bắc - 106o49’41” kinh tuyến Đông). Địa điểm này được phát hiện từ năm 1976 và được điều tra thăm dò năm 19782. Cho đến nay số công cụ cuội mà mảnh tước thu thập được tại đây là hơn 20 tiêu bản. Chúng phân bố trên bề mặt và lẫn trong lớp cuội sông xuất lộ trên mặt thềm phù sa cổ rải rác trong vùng mang tên Vườn Dũ I, II và III. Đáng tiếc cho đến nay vẫn chưa có một cuộc khai quật quy mô nào được tiến hành tại đây, như cách đã được làm ở Kota Tampan (Malaysia), khiến cho phát hiện này dần đi vào quên lãng. Về phía vùng thềm cao Đồng Nai, số lượng di vật đá kiểu đá cũ xuất hiện nhiều hơn và nhiều khi đan xen trong một vùng địa lý có 1. Xem Bùi Chí Hoàng, Nguyễn Văn Quốc và Nguyễn Khánh Trung Kiên: Khảo cổ học Bình Dương - từ Tiền sử đến Sơ sử, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2010, tr.47. 2. Xem Lê Trung Khá: “Những công cụ đá cũ mới phát hiện ở miền Đông Nam Bộ”, bài in trong Những phát hiện về khảo cổ học miền Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, tr.23-50. 72 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II TỪ CỘI NGUỒN ĐẾN THẾ KỶ VII mật độ dày đặc di tích thời đại đá mới và kim khí1. Trong một số trường hợp, chúng được phát hiện cùng với các hiện vật thời đại đá mới hay thời kim khí, tương tự tình trạng ở Lung Leng (Kon Tum). Việc xác định di tích thời đại đá cũ ở Bình Dương cũng như ở Đồng Nai thực chất còn nặng tính phỏng đoán dựa trên so sánh loại hình kỹ thuật chứ chưa hề có bất kể chứng cứ địa tầng hay kết quả niên đại bằng các phương pháp khoa học tự nhiên nào. Do đó, trong các cuốn sách hoặc giáo trình viết về khảo cổ học thời tiền sử Nam Bộ nói chung, phần thời đại đá cũ được trình bày khá chung chung và mang tính hình thức, thiếu thuyết phục. Điều đó không chứng tỏ rằng đây là vùng hoàn toàn vắng bóng hoạt động của cư dân thời đá cũ mà chỉ lưu ý xác nhận một sự thực rằng cho đến nay chúng ta vẫn chưa có một địa điểm thời đại đá cũ chuẩn xác nào ở vùng Nam Bộ, chí ít cũng như trường hợp ở Lung Leng (Kon Tum). Như phần trên chúng tôi đã đưa ra một lý giải cho hiện tượng thiếu vắng di tích đá cũ ở vùng đồng bằng Nam Bộ dựa trên việc hiếm các bãi cuội sông đủ lớn thuận tiện cho việc chế tác công cụ. Điều này chắc hẳn chỉ đúng với khu vực đồng bằng nhận nước từ hệ thống sông Cửu Long, do lưu lượng phù sa lũ tích tại đây có kích cỡ hạt khá khiêm tốn. Trong khi đó, thảng hoặc ở lưu vực sông Vàm Cỏ Đông và sông Đồng Nai người ta đã phát hiện được một số tầng cuội cổ đôi khi xuất lộ trên bề mặt bị bào mòn hoặc đứt gãy. Ví như dải cuội chạy dài từ Vườn Dũ đến Mỹ Lộc phía hữu ngạn sông Đồng Nai thuộc địa phận tỉnh Bình Dương. Việc thiếu hiếm nguồn đá chế tác công cụ là đặc điểm dễ thấy và có ảnh hưởng nhất đến quá trình phát triển tiền sử sớm ở đồng bằng Nam Bộ. Về mặt lý thuyết, phân bố cư trú tiền sử sớm của con người phụ thuộc chặt chẽ vào ba yếu tố chính: 1- Vùng đạt sự cân bằng ổn định của 1. Xem Lê Xuân Diệm, Phạm Quang Sơn và Bùi Chí Hoàng: Khảo cổ học Đồng Nai, Nxb. Đồng Nai, 1991, tr.31-52. CHƯƠNG II: TIỀN SỬ ĐỒNG BẰNG NAM BỘ 73 thức ăn thiên nhiên quanh năm, 2- Vùng đảm bảo có đủ nguồn nguyên liệu cần thiết phục vụ cuộc sống kiếm ăn nguyên thủy (đá, tre, gỗ, xương động vật ăn cỏ), 3- Vùng đủ điều kiện tránh cho con người những nguy hại từ thời tiết, khí hậu (vùng có nhiều hang động, vùng không bị bão tố, sóng thần, sa mạc hay băng tuyết) và môi trường tự nhiên, xã hội (côn trùng gây bệnh, thú dữ và đối thủ nguy hiểm từ các cộng đồng người khác). Xét trên các khía cạnh đó, thì vùng đồng bằng Nam Bộ, cả trong thời kỳ mở rộng cực đại gần nhất (18.000 - 15.000 năm trước), khi biển ở xa cách bờ hiện tại trên dưới 200km, nâng tổng diện tích đồng bằng lên gấp hơn 5 lần so với ngày nay, vẫn luôn là một vùng sông ngòi dày đặc, phù sa tươi tốt, có đủ điều kiện phát triển nguồn sống tự nhiên cho con người. Đó cũng là vùng không bị đe dọa bởi các yếu tố môi trường có hại. Tuy nhiên, hiện tượng vắng bóng dấu tích hoạt động của con người thời đại đá cũ ở đây hoàn toàn là do thiếu vắng điều kiện thứ hai, tức không đảm bảo dễ dàng có nguồn nguyên liệu đá công cụ. Trong phạm trù thời đại đá cũ, nguồn nguyên liệu đá thông dụng nhất để làm công cụ là những loại đá có độ hạt mịn, gắn kết bền vững tồn tại dưới dạng đá cuội lăn hoặc đá khối gốc, trong đó những vỉa, bãi cuội lăn có kích thước trung bình 15 x 10 x 5cm thường được coi như điều kiện lý tưởng nhất cho mục đích công cụ của những người săn bắt, hái lượm thời đại đá cũ. Các bãi cuội như vậy thường hình thành trong quá trình lũ tích, rửa trôi từ các vùng đá khối gốc. Theo một quan sát thực nghiệm sơn khối bazan Kim Bôi và vùng thung lũng cuội Mường Vang (Hòa Bình) thì phân bố của dạng cuội như vậy, trong điều kiện độ dốc trung bình 30 - 35%, từ vùng đá khối gốc theo các nhánh thượng nguồn sông Bưởi đến đồng bằng bãi cuội là khoảng 5km. Bãi cuội trong điều kiện đồng bằng, với độ dốc 5 - 10% có thể trải theo các dòng sông trên một diện tích rộng có bán kính tới 50km (ví dụ theo sông Bưởi tới vùng Đa Bút, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa). Trong một số trường hợp lưu lượng nước mạnh, độ dốc cao như sông Hồng, cuội có kích thước như 74 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II TỪ CỘI NGUỒN ĐẾN THẾ KỶ VII trên chỉ phân bố ở vùng rìa đồng bằng cao thuộc một phần khu vực Hà Nội hiện nay. Tại đồng bằng Nam Bộ, hầu như hoàn toàn vắng bóng dấu vết đá gốc có thể làm công cụ cũng như các tầng dải cuội trên lưu vực bồi đắp bởi sông Mê Kông. Cuội nhỏ dưới dạng sạn sỏi (trung bình dưới 1cm) chỉ xuất hiện ở vùng đồng bằng phía đông bắc do bồi đắp của các dòng sông Vàm Cỏ, Đồng Nai, Sài Gòn1. Những vỉa cuội có kích thước công cụ (15 x 10 x 5cm) hoặc nhỏ hơn, chỉ xuất hiện thưa thớt ở vùng thềm trung du các con sông vùng cao phía bắc - đông bắc của đồng bằng như sông Bé, sông Đồng Nai nhưng khá hiếm ở lưu vực sông Vàm Cỏ. Điều kiện địa chất nói trên góp phần lý giải sự vắng bóng thời đại đá cũ trên khu vực đồng bằng Nam Bộ. Tuy vậy, dựa trên kết quả khai quật ở Lung Leng (Kon Tum) và Kota Tampan (Malaysia) và những phát hiện lẻ tẻ khác trên vùng rìa phía bắc sát nách đồng bằng Nam Bộ, chúng ta hoàn toàn có quyền tin rằng, trước khi xuất hiện những làng xóm trồng lúa sớm hậu kỳ đá mới, đã từng có những hoạt động săn bắt, hái lượm nguyên thủy khá sôi nổi ở rìa cao phía bắc và phía đông bắc khu vực. 3. Vấn đề lương thực trước nông nghiệp trồng lúa Nguồn cung cấp thức ăn cho cư dân Việt cổ trước khi xuất hiện nghề lúa quảng canh chủ yếu khai thác trong tự nhiên và từ những hình thái trồng trọt các loại cây ăn được không phải là ngũ cốc, ví như các loại khoai (khoai sọ, củ từ), trám, hạt dẻ, chuối... Trong khung cảnh khảo cổ học, các hạt như trám, dẻ... đã từng thấy nhiều trong trầm tích Hoabinhian ở miền Bắc Việt Nam. Còn đối với các loài cho bột như khoai, củ hay các loại quả ăn được như chuối... chỉ là đoán 1. Xem Trần Nghi và nnk: “Đặc điểm tướng đá - cổ địa lý và lịch sử phát triển địa chất Pliocen - Đệ tứ thềm lục địa Đông Nam Việt Nam”, bài in trong 60 năm địa chất Việt Nam - Tuyển tập báo cáo Hội nghị khoa học, Hà Nội, tháng 10-2005, tr.140-153. CHƯƠNG II: TIỀN SỬ ĐỒNG BẰNG NAM BỘ 75 định dựa trên tài liệu dân tộc học so sánh. Kết quả nghiên cứu starch1 trên các công cụ chế biến chưa được triển khai ở Việt Nam. Trong thực tế, thông qua tài liệu dân tộc học, chúng ta hiếm thấy một nhóm cư dân sống dựa hoàn toàn chỉ vào một nền kinh tế trồng trọt những cây không ngũ cốc. Ngay cả trong những nhóm cư dân thực hành hệ thống nông nghiệp củ khá hệ thống như người Papua ở châu Đại Dương thì bản thân nền kinh tế đó đều phải gắn với một nguồn cung cấp lương thực tự nhiên khác do săn bắt, hái lượm bổ sung thêm. Nông nghiệp ngũ cốc mới thực sự tạo ra bước nhảy vọt của xã hội loài người. Chỉ ngũ cốc mới cho phép thực hành quảng canh, tích trữ lâu ngày và nhờ đó tạo ra khả năng sản sinh ra giá trị “thặng dư” nguyên thủy - cơ sở để kích thích sản xuất và phân chia lao động. Nền sản xuất ngũ cốc không chỉ được minh chứng bằng sự có mặt những hạt ngũ cốc mà cần cả một hệ thống bảo quản, chế biến ngũ cốc. Khác với các loại hình lương thực khác, ngũ cốc đòi hỏi một quá trình chế biến phức tạp trước khi có thể trở thành đồ ăn cho con người. Việc sản xuất một lượng ngũ cốc đủ đáp ứng nhu cầu lương thực không thể là những hoạt động đơn lẻ của một cá thể hay của một đơn vị gia đình. Vì vậy, sự tồn tại một nền sản xuất lương thực ngũ cốc luôn gắn với sự định cư làng xóm với một diện tích đất lúa nhất định. Nông nghiệp ngũ cốc ở Việt Nam chỉ có thể xuất hiện với bình tuyến Phùng Nguyên ở phía bắc và với bình tuyến An Sơn ở phía nam. Trước đó, ở những nền văn hóa trước Phùng Nguyên, như Đa Bút, Quỳnh Văn chúng ta khó tìm được bằng chứng của một nền kinh tế ngũ cốc. Địa điểm Gò Trũng là nơi khai quật được số lượng đáng kể chày và bàn nghiền có thể sử dụng cho chế biến ngũ cốc. Tuy nhiên, nếu chứng minh được thực sự cối, chày đó dùng chế biến ngũ cốc thì 1. Starch là các phân tử tinh bột thực vật. Việc sử dụng các loại củ, hạt có tinh bột của người tiền sử thường để lại dấu tích ở kẽ các công cụ gia công, chế biến như các bàn đập hạt, quả, hòn nghiền, chày giã củ, hạt... Ngành nghiên cứu tinh bột để lại trên các dụng cụ tiền sử như vậy cho phép chỉ ra xu hướng thức ăn tinh bột thực vật của các nhóm săn bắt, hái lượm. 76 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II TỪ CỘI NGUỒN ĐẾN THẾ KỶ VII tàn tích thức ăn thu được trong tầng văn hóa vẫn phản ánh nguồn sống chính của Gò Trũng dựa vào thiên nhiên (cá và nhuyễn thể biển). Bên cạnh việc vẫn lấy khai thác lương thực từ nguồn thức ăn sẵn có trong thiên nhiên, có thể nghĩ rằng đã có thể tồn tại những dạng thức hoạt động nhằm chăm trồng một số cây hữu dụng có điều kiện (nhu cầu hằng ngày: sợi, gia vị, thuốc...)1. Trong thời tiền sử sớm, horticulture là một loại hình kinh tế phụ mang tính tùy tiện và không hệ thống. Hầu như việc trồng chăm cây con này không có ý nghĩa gì đối với việc cung cấp lương thực cho con người. Nhưng chính thông qua việc chăm trồng đó, loài người đã nhận thức được bản chất quá trình sinh tồn phát triển của giống loài - nền tảng nhận thức quan trọng hàng đầu của việc tiến hành trồng trọt các loại cây lương thực sau này. Trong lịch sử nhân loại thì những kiểu địa hình đồng bằng phù sa hạ lưu thường xuyên ngập lụt như đồng bằng Nam Bộ chỉ có thể trở thành những trung tâm văn minh nhà nước sớm, hệ quả của quá trình phát triển nông nghiệp ngũ cốc, thương mại và tụ cư. Những dạng địa hình đó chưa bao giờ là nơi trở thành cái nôi phát sinh nông nghiệp. Chính tình trạng phì nhiêu đến độ lúa không trồng vẫn mọc đã khiến đồng bằng này có một thời trì trệ kéo dài trong thời tiền sử. Tuy nhiên, chúng ta đã không tìm được bằng chứng con người khai thác đồng bằng lúa tự nhiên này cho đến trước thời hậu kỳ đá mới. 1. Trong cuộc sống tiền sử sớm vẫn nảy sinh những nhu cầu chuyên biệt hằng ngày, trong đó sản phẩm của một số loài thực vật không phải bất kể lúc nào cũng phải rời bỏ nơi cư trú để đi xa tìm kiếm. Những sản phẩm phục vụ các nhu cầu chuyên biệt có thể là những loại cây gia vị có chức năng cân bằng khẩu vị hay chữa bệnh, hoặc những cây cho sợi giúp việc tu chỉnh, níu buộc lại công cụ hay vật dụng... Giới nghiên cứu dân tộc thực vật học cổ xếp chúng vào nhóm “cây hữu dụng” (using plants, industrial plants). Rất có thể một số loại cây như vậy đã được người tiền sử Hoà Bình trồng hoặc chăm sóc từ rất sớm một cách không hệ thống ngay gần sát nơi cư trú của mình, ví dụ cây gai cho sợi buộc, cây ớt, cây tre... cũng như một số cây cho thuốc trị cảm, đau bụng, bong gân, sai khớp... Những cây này cần cho bất cứ nhóm cư dân tiền sử nào. Thay vì mỗi khi cần phải đi tìm thì họ để chúng ở gần nơi ở của mình. Cũng có nhà nghiên cứu xếp chúng vào cái gọi là Horticulture (trồng vườn). CHƯƠNG II: TIỀN SỬ ĐỒNG BẰNG NAM BỘ 77 Sự xuất hiện làng trồng lúa hậu kỳ đá mới như An Sơn ở thượng lưu sông Vàm Cỏ Đông với niên đại khởi đầu thuộc bình tuyến những người trồng lúa sớm nhất trong cả khu vực Đông Nam Á (4.500 - 4.000 năm trước)1 là sự khởi đầu cho chuỗi phát triển văn hóa sản xuất lúa lương thực rất đáng chú ý của đồng bằng Nam Bộ. Dấu tích trấu lúa trộn trong đất làm gốm phát hiện ở những tầng sớm được xác định thuộc loại lúa trồng mang đặc trưng genetic của loài Orisa sativa japonica2. Mãi cho đến thời kỳ trước, sau Công nguyên, các mẫu lúa thu thập được vẫn chiếm tỷ lệ khá cao là các loài lúa trời hoang hoặc bán hoang dại3. Hiện tượng này không có gì lạ, bởi cho đến tận gần đây vẫn tồn tại nhiều vùng cư dân sống bằng khai thác lúa hoang ở đồng bằng của những người lấy chiến lược sản xuất lương thực làm chính và những người còn một phần đưa tay chấp nhận sự hào phóng của thiên nhiên. Bên cạnh sự khác biệt về di sản văn hóa giữa hai nhóm cư dân đại diện ở Transbassac và Cisbassac (đông và tây đồng bằng Nam Bộ) kể trên chúng ta còn nhận ra dấu hiệu ưu đãi của thiên nhiên có chiều hướng mở rộng hơn đối với khu vực Tứ giác Long Xuyên, nhất là kể từ nửa sau thiên niên kỷ 1 trước Công nguyên, đánh dấu bởi sự phát triển mật độ dân cư khá nhanh thông qua tăng trưởng số lượng di tích cư trú khảo cổ học. Tuy nhiên, cần phải phân tích xem xu hướng tăng dân cư đồng bằng đó là xu hướng tăng trưởng của sản xuất nông nghiệp trồng lúa hay là tăng trưởng của khai thác lúa tự nhiên. Dựa vào phân tích bộ công cụ đá còn khá nghèo nàn (một phần do thiếu nguyên liệu) trong vùng Tứ giác Long Xuyên cũng như tình trạng sử dụng lúa trời còn khá cao (thông qua kết quả giám định dấu tích lúa) chúng tôi nhận thấy cho 1. Xem Bellwood, P.: Premier Report of the Excavation at An Son (Long An, Southern Vietnam), 2010, tài liệu nội bộ. Xem thêm Bellwood, P.: First Farmers - The Origins of Early Agricultural Societies, Blackwell, 2005. 2. Xem Bellwood, P.: Personal information, ngày 25-7-2010. 3. Xem Nguyễn Xuân Hiển: “Archaeological Rice Remains in Vietnam”, bài in trong Southeast Asian Archaeology - EASEAA Conference Proceeding, Leiden, 1998. 78 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II TỪ CỘI NGUỒN ĐẾN THẾ KỶ VII đến trước khi bùng phát văn hóa Óc Eo, nền kinh tế khai thác lúa tự nhiên vẫn chiếm vị trí quan trọng. Kinh tế trồng lúa hẳn mới chỉ dừng ở phạm vi các triền cao ven chân núi hoặc các doi sông, cồn sông. Trong trường hợp đó, công cuộc khai đào kênh mương trị thủy chỉ giới hạn trong phạm vi từng làng liên quan đến giới hạn trồng lúa quanh làng mà thôi. Hệ thống kênh rạch tự nhiên hoặc khai đào chắc chắn chỉ có quy mô hẹp phục vụ công việc vận chuyển lúa trời ở những cánh đồng hoang xa làng. Tuy nhiên, như đã phân tích ở Chương I, trong lát cắt thời gian nửa sau thiên niên kỷ 1 trước Công nguyên, hiện tượng làng nghề chuyên hóa gia tăng rõ rệt ở khu vực đồng bằng cao và thấp phía đông Nam Bộ, thể hiện đầu tiên ở bốn lĩnh vực dễ nhận thấy: nghề gốm, nghề chế tác công cụ đá, chế tác đồ đồng và nghề làm sợi dệt vải. Những dấu hiệu làng nghề này đều tỏ ra khá mờ nhạt ở khu vực phía tây đồng bằng Nam Bộ. Rất có thể đã tồn tại ở hai nửa đông, tây một “mạng xã hội” xuất phát trước hết từ nhu cầu trao đổi sản phẩm: một bên là lương thực lúa và một bên là các sản phẩm làng nghề. II- NHỮNG LÀNG TRỒNG LÚA ĐẦU TIÊN 1. Địa điểm khảo cổ học An Sơn và những làng trồng lúa đầu tiên Địa điểm khảo cổ học An Sơn lấy tên thôn An Sơn, ấp Ninh Sơn xã An Ninh Tây, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An (tọa độ 10o59’19” vĩ tuyến Bắc - 106o17’41” kinh tuyến Đông). Từ những năm 1938, một số nhà nghiên cứu người Pháp đã đến điều tra, thám sát khảo cổ học ở di tích này1. Khi đó An Sơn được chú ý đến bởi dấu tích kiến trúc tôn giáo phong cách hậu Óc Eo xuất lộ trên bề mặt quả gò có tên là Gò Chùa Đất (ngôi chùa nhỏ trên đỉnh gò có tên tự là Phước Trường). 1. Đó là Paul Levy và Louis Malleret, xem Cahiers EFEO, No 15, 2è trim, 1938, p.7. Cũng được ghi chép trong Malleret, L.: L’Archéologie du Delta du Mékong, vol. 4, pp.94-95.