🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Vùng Đất Nam Bộ Tập I: Điều Kiện Tự Nhiên, Môi Trường Sinh Thái
Ebooks
Nhóm Zalo
Chịu trách nhiệm xuất bản
GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
PGS. TS. PHẠM MINH TUẤN
Chịu trách nhiệm nội dung
ỦY VIÊN HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP - XUẤT BẢN TS. VÕ VĂN BÉ
Biên tập nội dung:
Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Sửa bản in:
Đọc sách mẫu:
ThS. NGUYỄN THỊ HẢI BÌNH NGUYỄN KIM THANH
NGUYỄN MINH HƯỜNG TRẦN PHAN BÍCH LIỄU ThS. PHÙNG MINH TRANG LÂM THỊ HƯƠNG
PHÒNG BIÊN TẬP KỸ THUẬT NGUYỄN MINH HƯỜNG VIỆT HÀ
Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 2266-2021/CXBIPH/29-23/CTQG. Số quyết định xuất bản: 441-QĐ/NXBCTQG, ngày 29/6/2021. Nộp lưu chiểu: tháng 7 năm 2021.
Mã ISBN: 978-604-57-6914-0.
BAN BIÊN SOẠN
TS. TRƯƠNG THỊ KIM CHUYÊN Mở đầu, Kết luận TS. LÊ XUÂN THUYÊN
ThS. NGUYỄN MỸ PHI LONG Chương I ThS. NGUYỄN BÍCH THU
ThS. ĐẶNG HÒA VĨNH
PGS. LÊ XUÂN DIỆM
PGS.TS. ĐẶNG VĂN THẮNG
PGS.TS. TRẦN THỊ MAI Chương II PGS.TS. ĐOÀN MINH HUẤN
TS. PHÍ NGỌC TUYẾN
ThS. LÊ THỊ VIỆT PHƯƠNG
TS. TRƯƠNG THỊ KIM CHUYÊN
TS. LÊ MINH VĨNH Chương III ThS. HỒ KIM THI
NCV. CHÂU NGỌC THÁI
5
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Vùng đất Nam Bộ với tư cách là một không gian địa lý và địa bàn hành chính thân thuộc, thiêng liêng của người dân đất Việt đã trải qua một quá trình hình thành, phát triển lâu dài, được bồi tụ chủ yếu bởi hai con sông lớn: sông Đồng Nai và sông Mékong. Nơi đây cũng đã từng tồn tại, phát tích của nền văn hóa Óc Eo và các vương quốc Phù Nam, Chân Lạp phát triển huy hoàng rồi suy tàn theo năm tháng.
Từ thế kỷ XVII, người Việt từ miền Bắc và miền Trung đã vào đây khai phá, dựng làng, lập ấp cùng với người dân bản địa chinh phục vùng đất hoang vu nhưng rất trù phú này. Đến thế kỷ XVIII, từ tầm nhìn chiến lược và công lao to lớn của các chúa Nguyễn, sau này là vương triều Nguyễn, xác lập, sắp đặt các đơn vị hành chính, vùng đất phương Nam giàu có chính thức thuộc chủ quyền của dân tộc Việt Nam, đến nay đã được hơn 300 năm.
Vùng đất Nam Bộ với cương vực như hiện nay bao gồm cả Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ - đồng bằng sông Cửu Long, có 17 tỉnh và hai thành phố trực thuộc Trung ương, diện tích tự nhiên hơn 64.000 km2, dân số hơn 33 triệu người với nhiều tộc người tụ cư sinh sống, gồm các dân tộc ít người bản địa, các dân tộc thiểu số từ Trường Sơn - Tây Nguyên xuống, từ các tỉnh miền núi phía Bắc vào, một số ít người từ các nước khác đến, nhưng chủ yếu là địa bàn của người Kinh, người Hoa, người Khmer, người Chăm.
Về mặt địa lý, nhìn từ Bắc vào Nam, Đông Nam Bộ giáp cực Nam Trung Bộ từ tỉnh Ninh Thuận, giáp Trường Sơn - Tây Nguyên từ các tỉnh Lâm Đồng, Đắk Nông; có đường biên giới trên đất liền với Campuchia từ Bình Phước tới Hà Tiên; có đường bờ biển trải dài từ Ninh Thuận tới đất mũi Cà Mau (Biển Đông) và từ mũi Cà Mau đến Hà Tiên (biển Tây - vịnh Thái Lan). Nằm ở ngã ba đường giao thông quốc tế, Nam Bộ có vị trí địa - kinh tế, địa - chính trị cực kỳ quan trọng.
6 VÙNG ĐẤT NAM BỘ I ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
Với tư cách một vùng đất giàu trầm tích văn hóa, đa dạng tộc người, đa tôn giáo, giàu tiềm năng và có vị trí chiến lược trọng yếu, từ lâu Nam Bộ đã là đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong nước và ở nước ngoài, nhiều hội thảo khoa học về vùng đất này đã được tổ chức, nhiều công trình khoa học trên các lĩnh vực đã được công bố, nhưng cho đến nay vẫn thiếu một công trình có tầm vóc, quy mô lớn nghiên cứu toàn diện, liên ngành để có cái nhìn toàn cảnh, sâu sắc, nhiều chiều cạnh về vùng đất phương Nam này.
Để đáp ứng yêu cầu đó, chương trình nghiên cứu tổng thể về vùng đất Nam Bộ dưới dạng một đề án khoa học cấp nhà nước do GS. Phan Huy Lê làm chủ nhiệm, gồm 11 đề tài khoa học đã được Bộ Khoa học và Công nghệ cho phép triển khai từ năm 2008. Từ những đề tài khoa học nghiên cứu cơ bản này, Ban Chủ nhiệm đề án đã tổ hợp lại thành báo cáo tổng quan Quá trình hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ. Sau 4 năm nghiên cứu, toàn bộ đề án đã được Bộ Khoa học và Công nghệ nghiệm thu và đánh giá đây là chương trình khoa học - công nghệ xuất sắc năm 2011.
Mặc dù công trình được đánh giá cao, nhưng khi xuất bản thành sách, các tác giả phải tiếp tục bổ sung, sửa chữa, chỉnh lý trong vòng hơn 3 năm - đến giữa năm 2015 mới chuyển giao bản thảo cho Nhà xuất bản. Sau khi tiếp nhận bản thảo, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật đã huy động một đội ngũ đông đảo biên tập viên, họa sĩ, nhân viên kỹ thuật, tổ chức biên tập, đọc duyệt, thiết kế makét, trình bày trong hơn một năm để công trình khoa học lớn này lần đầu tiên đến tay bạn đọc vào cuối năm 2016 đầu năm 2017.
Đây là một công trình khoa học nghiên cứu công phu, nghiêm túc, được tiến hành bởi đội ngũ các nhà khoa học trên nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó Ban Chủ nhiệm đề án và chủ biên của từng đề tài là các chuyên gia hàng đầu trong từng giai đoạn lịch sử cũng như trong các lĩnh vực nghiên cứu. Tuy vậy, ở một vài chương trong bộ tổng quan hoặc từng đề tài, chất lượng nghiên cứu và hàm lượng khoa học không giống nhau, có chương, có tập chưa được như kỳ vọng hoặc yêu cầu nghiên cứu đặt ra.
Tất nhiên mỗi đề tài khoa học là công trình độc lập, nhưng khi đặt trong một chỉnh thể thì có đề tài không tránh được sơ lược, dàn trải; có đề tài có một số nội dung đã được trình bày ở các đề tài khác. Vì vậy, Nhà xuất bản đã thống nhất với chủ biên đề nghị các tác giả bổ sung, nâng cấp hoặc cắt bỏ những trùng lặp để bộ sách tuân thủ nghiêm ngặt sự thống nhất trong chỉnh thể.
LỜI NHÀ XUẤT BẢN 7
Bộ sách về vùng đất Nam Bộ gồm bộ tổng quan, rút gọn: Vùng đất Nam Bộ - Quá trình hình thành và phát triển, 2 tập và một bộ chuyên khảo sâu gồm 10 tập, nghiên cứu khá toàn diện trên nhiều lĩnh vực của vùng đất phương Nam, từ điều kiện tự nhiên, quá trình lịch sử, dân cư, dân tộc, tôn giáo, thiết chế quản lý xã hội, quá trình Nam Bộ hội nhập với khu vực và quốc tế.
Khi triển khai nghiên cứu, tên đề án và tên từng đề tài khoa học rất cụ thể và thường khá dài, nhưng khi xuất bản, Nhà xuất bản đã trao đổi với chủ biên thống nhất bộ sách có tên chung là Vùng đất Nam Bộ.
Riêng bộ tổng quan Vùng đất Nam Bộ - Quá trình hình thành và phát triển, ngoài Chương mở đầu và Chương kết có 10 chương nội dung, được kết cấu hoàn chỉnh. Nhưng với dung lượng 1.500 trang sách rất khó dung nạp trong một cuốn sách, cho nên chúng tôi chia thành hai tập: tập I gồm Chương mở đầu và sáu chương nội dung, tập II gồm bốn chương nội dung và Chương kết.
Riêng Chương kết, các tác giả dành mục cuối cùng để trình bày đề xuất, kiến nghị của Ban Chủ nhiệm đề án với Đảng, Nhà nước và các cơ quan lãnh đạo, quản lý, chúng tôi tách ra làm thành phần Phụ lục đặt ở cuối sách.
Như vậy kết quả nghiên cứu của đề án được công bố thành các cuốn sách sau đây:
- Vùng đất Nam Bộ - Quá trình hình thành và phát triển, gồm 2 tập, GS. Phan Huy Lê chủ biên.
- Vùng đất Nam Bộ, tập I: Điều kiện tự nhiên, môi trường sinh thái, TS. Trương Thị Kim Chuyên chủ biên.
- Vùng đất Nam Bộ, tập II: Từ cội nguồn đến thế kỷ VII, GS. TSKH. Vũ Minh Giang - Nguyễn Việt đồng tác giả.
- Vùng đất Nam Bộ, tập III: Từ thế kỷ VII đến thế kỷ XVI, GS. TS. Nguyễn Văn Kim chủ biên.
- Vùng đất Nam Bộ, tập IV: Từ đầu thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX, GS. TS. Nguyễn Quang Ngọc chủ biên.
- Vùng đất Nam Bộ, tập V: Từ năm 1859 đến năm 1945, PGS. TS. Đoàn Minh Huấn - PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hà đồng chủ biên.
- Vùng đất Nam Bộ, tập VI: Từ năm 1945 đến năm 2010, PGS. TS. Trần Đức Cường chủ biên.
- Vùng đất Nam Bộ, tập VII: Đặc trưng tín ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt văn hóa, GS. TS. Ngô Văn Lệ chủ biên.
8 VÙNG ĐẤT NAM BỘ I ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
- Vùng đất Nam Bộ, tập VIII: Thiết chế quản lý xã hội, PGS. TS. Vũ Văn Quân chủ biên.
- Vùng đất Nam Bộ, tập IX: Tộc người và quan hệ tộc người, TS. Võ Công Nguyện chủ biên.
- Vùng đất Nam Bộ, tập X: Tiến trình hội nhập khu vực và thế giới, PGS. TS. Võ Văn Sen chủ biên.
Về mặt xuất bản, bộ sách được biên tập, thiết kế, trình bày thống nhất trong từng tập và trong cả bộ sách, được in ấn đẹp, trang trọng. Xuất bản bộ sách này chúng tôi hy vọng cung cấp cho bạn đọc, các nhà nghiên cứu, học viên, sinh viên các học viện, nhà trường và các nhà lãnh đạo, quản lý, các địa phương, đơn vị một khối lượng tri thức lớn, khá đầy đủ, toàn diện và chân xác về vùng đất Nam Bộ, phục vụ cho công tác học tập, nghiên cứu và hoạch định chính sách ở khu vực trọng yếu, năng động này của đất nước. Bộ sách cũng cung cấp cơ sở lịch sử - pháp lý vững chắc phục vụ cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị.
Các tác giả và Nhà xuất bản đã nỗ lực rất cao trong nghiên cứu, biên soạn và biên tập - xuất bản, nhưng với khối lượng công việc đồ sộ, bộ sách khó tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, rất mong được bạn đọc góp ý, phê bình. Xin trân trọng giới thiệu bộ sách quý cùng bạn đọc.
Tháng 4 năm 2017
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
9
LỜI GIỚI THIỆU
Quá trình hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ là một đề án khoa học xã hội cấp nhà nước do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, được thực hiện trong thời gian từ năm 2008 đến năm 2010 và nghiệm thu vào cuối năm 2011. Đề án gồm 11 đề tài:
1- Điều kiện địa lý tự nhiên, môi trường sinh thái tác động đến tiến trình lịch sử và đặc trưng văn hóa vùng đất Nam Bộ do TS. Trương Thị Kim Chuyên, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh làm Chủ nhiệm.
2- Nam Bộ từ cội nguồn đến thế kỷ VII do GS.TSKH. Vũ Minh Giang, Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, Đại học Quốc gia Hà Nội làm Chủ nhiệm.
3- Nam Bộ từ thế kỷ VII đến thế kỷ XVI do PGS.TS. Nguyễn Văn Kim, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội làm Chủ nhiệm.
4- Nam Bộ từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX: Quá trình khai phá và xác lập chủ quyền của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ do GS.TS. Nguyễn Quang Ngọc, Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, Đại học Quốc gia Hà Nội làm Chủ nhiệm.
5- Nam Bộ từ khi Pháp xâm lược Việt Nam đến năm 1945 do PGS.TS. Đoàn Minh Huấn, Học viện Chính trị hành chính khu vực I làm Chủ nhiệm.
6- Nam Bộ từ năm 1945 đến năm 2010 do PGS.TS. Trần Đức Cường, Viện Sử học Việt Nam làm Chủ nhiệm.
7- Đặc trưng tín ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt văn hóa của cư dân Nam Bộ do GS.TS. Ngô Văn Lệ, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh làm Chủ nhiệm.
10 VÙNG ĐẤT NAM BỘ I ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
8- Đặc trưng thiết chế quản lý xã hội ở Nam Bộ do PGS.TS. Vũ Văn Quân, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội làm Chủ nhiệm.
9- Tộc người và quan hệ tộc người ở Nam Bộ - lịch sử và hiện trạng do TS. Võ Công Nguyện, Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ làm Chủ nhiệm.
10- Nam Bộ trong tiến trình hội nhập khu vực và thế giới của Việt Nam do PGS.TS. Võ Văn Sen, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh làm Chủ nhiệm.
11- Nghiên cứu giải pháp nâng cao nhận thức của cán bộ và nhân dân về lịch sử vùng đất Nam Bộ do PGS.TS. Phan Xuân Biên, Viện Nghiên cứu xã hội, Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh làm Chủ nhiệm.
Toàn bộ kết quả nghiên cứu của các đề tài được tổng hợp trong một công trình mang tên Quá trình hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ do GS. Phan Huy Lê, Chủ nhiệm đề án, làm Chủ biên.
Công trình có một số đề tài nghiên cứu về quá trình lịch sử, nhưng không đơn thuần là lịch sử Nam Bộ. Cùng với các lớp cắt lịch đại theo tiến trình lịch sử, còn có những nghiên cứu trên một số lĩnh vực cơ bản về điều kiện tự nhiên, quan hệ tộc người, thiết chế quản lý xã hội, đời sống văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng, về quá trình xác lập chủ quyền của quốc gia Đại Việt... Trong một số đề tài lịch sử cũng có những yêu cầu làm sáng tỏ một số nội dung quan trọng như đề tài số 2 với yêu cầu nghiên cứu về văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam, đề tài số 4 có yêu cầu nghiên cứu sự xác lập chủ quyền của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ. Đặc biệt từ kết quả nghiên cứu, đề án xác lập một nhận thức mới coi lịch sử vùng đất Nam Bộ không phải bắt đầu khi người Việt vào khai phá từ thế kỷ XVII mà phải ngược lên quá khứ xa xưa từ khi con người xuất hiện trên vùng đất phương Nam này.
Vùng đất Nam Bộ đã được các nhà khoa học nghiên cứu từ lâu dưới góc độ của nhiều chuyên ngành từ địa chất, địa lý đến khảo cổ học, dân tộc học, nhân học, xã hội học, kinh tế học, văn hóa học và sử học. Đề án một mặt tổng hợp các kết quả nghiên cứu đó, mặt khác nghiên cứu thêm một số nội dung cần thiết nhằm tạo ra một nhận thức tổng hợp về
LỜI GIỚI THIỆU 11
11
toàn bộ quá trình hình thành và phát triển của vùng đất phương Nam này. Đó là cơ sở khoa học để hiểu biết và lý giải những nét độc đáo của không gian lịch sử văn hóa vùng đất Nam Bộ với những trầm tích của nhiều thời kỳ lịch sử, những biến đổi trong cấu trúc tộc người, vai trò và cống hiến của các lớp cư dân - tộc người đã từng sinh sống trên vùng đất này, những đặc trưng về văn hóa, phong cách, lối sống của con người Nam Bộ, quá trình hội nhập của vùng đất Nam Bộ vào lãnh thổ của nước Đại Việt từ thế kỷ XVII-XVIII cho đến cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền và sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước đến ngày nay.
Tham gia đề án có hơn một trăm nhà khoa học thuộc một số viện của Viện Khoa học xã hội Việt Nam (nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) và Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, một số khoa và viện của Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và Hội Khoa học lịch sử Việt Nam. Các nhà khoa học tham gia dưới nhiều phương thức như trực tiếp biên soạn, nghiên cứu chuyên đề, điều tra khảo sát điền dã, tham luận trong các hội thảo khoa học. Trong quá trình chuẩn bị xây dựng đề án, Bộ Khoa học và Công nghệ đã phối hợp với Hội Khoa học lịch sử Việt Nam tổ chức ba hội thảo khoa học tại Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Cần Thơ: Văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam (năm 2004), Vùng đất Nam Bộ cho đến cuối thế kỷ XIX (năm 2006), Nam Bộ thời cận đại (năm 2008). Trong quá trình triển khai đề án, Ban chủ nhiệm đề án cùng chủ nhiệm các đề tài còn tổ chức một số hội thảo trao đổi về lịch sử nghiên cứu, phương pháp tiếp cận và một số nội dung cơ bản của đề án như tiến trình lịch sử xã hội, bản sắc văn hóa xã hội. Các bài tham luận trong những hội thảo này đã được Nhà xuất bản Thế giới biên tập và in thành sáu tập kỷ yếu1.
Kết quả nghiên cứu của Đề án được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật biên tập rất công phu và công bố thành một bộ sách mang tên chung Vùng đất Nam Bộ gồm 11 tập sách. Riêng tập Tổng quan là
1. Văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam, 2008; Lịch sử nghiên cứu và phương pháp tiếp cận, 2008; Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ đến cuối thế kỷ XIX, 2009; Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ thời kỳ cận đại, 2009; Mấy vấn đề tiến trình lịch sử xã hội, 2011; Mấy vấn đề bản sắc văn hóa xã hội, 2011.
12 VÙNG ĐẤT NAM BỘ I ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
Vùng đất Nam Bộ - Quá trình hình thành và phát triển dày đến 1.500 trang chia làm hai tập. So với nội dung của các đề tài có yêu cầu thống nhất lại tên từng tập và sắp xếp lại một số nội dung để tránh trùng lặp. Cách phân tập và bố cục này đã được nói rõ trong Lời Nhà xuất bản.
Tập thể các tác giả đã rất cố gắng hoàn thành công trình nghiên cứu nhưng trước một đối tượng nghiên cứu rộng lớn, bao quát nhiều nội dung phong phú, trong đó có những vấn đề mới đang nghiên cứu và thảo luận nên khó tránh khỏi sơ suất. Rất mong nhận được sự quan tâm và đóng góp ý kiến của bạn đọc. Chúng tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành đến Bộ Khoa học và Công nghệ đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc triển khai đề án, cảm ơn Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật đã dày công biên tập và xuất bản toàn bộ công trình khoa học này.
Hà Nội, mùa Hè năm 2016
GS. Phan Huy Lê
13
13
MỞ ĐẦU
Nam Bộ bao gồm 19 tỉnh, thành phố, trong đó có cực tăng trưởng kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, hai vùng kinh tế trọng điểm quan trọng của cả nước là Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và Vùng kinh tế trọng điểm Đồng bằng sông Cửu Long. Nam Bộ tiếp giáp với Nam Trung Bộ và địa bàn chiến lược Tây Nguyên, có biên giới tiếp giáp Campuchia, biển Đông và vịnh Thái Lan. Vị trí địa lý này là những điều kiện tiền đề quan trọng cho mối liên hệ mở, tiếp cận và kết nối cả trên đất liền và trên biển với các nước trong khu vực. Hệ thống sông Cửu Long và các sông vùng Đông Nam Bộ gắn kết Nam Bộ với khu vực tiểu vùng sông Mékong, liên quan mật thiết đến 5 nước: Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan, Việt Nam và Trung Quốc.
Do đó, việc nghiên cứu mối quan hệ giữa môi trường và con người Nam Bộ luôn là chủ đề quan tâm trong các nghiên cứu liên ngành và hướng đến phát triển bền vững. Mối quan hệ này lại càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong suốt tiến trình lịch sử của vùng và trong bối cảnh biến đổi khí hậu hiện nay.
Xuất phát từ nhu cầu đó, việc tìm hiểu, phân tích tác động của các yếu tố tự nhiên đến các chủ thể trong tiến trình lịch sử Nam Bộ có ý nghĩa rất lớn, cung cấp một cách nhìn khách quan nhằm:
Thứ nhất là, giải thích được vai trò, cách thức và mức độ của điều kiện địa lý tự nhiên và môi trường sinh thái1 trong những bối cảnh cụ thể, tác động đến các hoạt động, các hành động có liên quan đến văn hóa (hiểu theo nghĩa rộng) của các chủ thể (bao gồm nhà cầm quyền, cộng đồng dân cư, các doanh nghiệp...) trong tiến trình lịch sử.
Thứ hai là, nhận diện được các đặc trưng, thuộc tính, bối cảnh gắn liền với vị thế, chức năng, quyền lực, năng lực, đặc điểm của các chủ thể này.
1. Hiểu theo nghĩa rộng gồm cả vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái.
14 VÙNG ĐẤT NAM BỘ I ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
Thứ ba là, từ những phân tích hành động cụ thể và tác động của các chủ thể trên, thấy được vai trò của tự nhiên, vai trò và sự chuyển đổi của các chủ thể qua các giai đoạn lịch sử, mối quan hệ tương tác của các chủ thể, đặc biệt là các chủ thể chính trong việc khai thác, sử dụng tài nguyên và hình thành các đặc trưng văn hóa.
Thứ tư là, không chỉ là nhìn lại lịch sử phát triển của các yếu tố tự nhiên qua các giai đoạn, vai trò của nó trong tiến trình lịch sử và đặc trưng văn hóa mà còn gợi ý, đặt ra những câu hỏi nghiêm túc về vai trò, hành động, sự tương tác, mối quan hệ của các chủ thể, từng bước tiến đến nâng cao nhận thức và năng lực ứng phó của một số chủ thể trong việc sử dụng các yếu tố tự nhiên trong tương lai, đặc biệt trước những nguy cơ của biến đổi khí hậu và hướng đến phát triển bền vững.
Cụ thể, trong từng giai đoạn lịch sử, sẽ nhận diện điều kiện tự nhiên đã tác động đến các chủ thể như thế nào. Trong mối quan hệ đó, điều kiện tự nhiên có khi đóng vai trò rất quyết định, như một yếu tố, lực lượng duy nhất định hình các hoạt động của con người, của các chủ thể. Trong một số bối cảnh khác, các yếu tố tự nhiên có thể chỉ là nền tảng ban đầu, gợi mở một số hướng sử dụng và khai thác, hoặc chỉ là một trong những căn cứ đầu vào cho các hành động của các chủ thể, chẳng hạn như xây dựng chính sách của nhà cầm quyền.
Trên nền tảng những điều kiện tự nhiên và môi trường sinh thái cụ thể, việc nghiên cứu hành động của nhiều chủ thể qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, gắn liền với bối cảnh khách quan và các thuộc tính chủ quan của họ, sẽ giúp ta lý giải và có cách tiếp cận khách quan trong nhận diện những thay đổi của cảnh quan môi trường, thay vì chỉ phân tích những tác động chung của tự nhiên đến con người một cách chung chung, hoặc dưới góc nhìn duy lý của chỉ riêng một chủ thể, một tổ chức hay của Nhà nước.
Việc phân tích các chủ thể, sự tương tác và mối quan hệ, động thái quyền lực giữa các chủ thể, có liên quan đến quản trị và sử dụng tài nguyên thiên nhiên, từ đó có các cách tiếp cận hướng đến việc kiến tạo hành động môi trường của một số chủ thể, góp phần bảo vệ môi trường và phát triển bền vững hiện nay và trong tương lai.
Công trình nghiên cứu dựa trên cách tiếp cận xem tài nguyên như điều kiện ban đầu, nền tảng, chất liệu; xem các chủ thể như là những tác nhân
15
MỞ ĐẦU
thực hiện các hành động và xem các cảnh quan kinh tế, văn hóa (hay cảnh quan từ việc sử dụng tự nhiên) là các kết quả đầu ra của các hành động đó. Cách tiếp cận này cũng nhìn nhận và lý giải hoạt động sử dụng tự nhiên và đầu ra không gian của nó như là tiến trình của sự tương tác, không chỉ của các chủ thể mà còn là của các không gian ở cấp độ, phạm vi khác nhau. Ví dụ, tầm quan trọng và ảnh hưởng của các chính sách, các quy định của nhà cầm quyền, các hoạt động của doanh nghiệp có thể có tác dụng trong phạm vi một tỉnh, một vùng hay cả một khu vực. Sự cần thiết phải lưu tâm với việc phân tích liên cấp độ cho phép thấy được sự phức tạp của tiến trình tương tác giữa các chủ thể ở các phạm vi cấp độ khác nhau và qua các giai đoạn khác nhau.
Cách tiếp cận này cũng giúp gợi mở thêm những nhân tố, ngoài yếu tố tự nhiên, có liên quan đến sự phát triển của vùng đất. Cụ thể, vị trí địa lý hay vị thế của vùng, về bản chất được xem như là nền tảng, phông màn, chất liệu ban đầu trong quá trình phát triển của vùng. Trên cơ sở “tài nguyên vị thế” này, các chủ sở hữu, các chủ thể quyền lực nhất trong và ngoài vùng, tùy theo những nhận định của họ về tài nguyên này, đã, đang và sẽ có các quyết định hành động khác nhau trong các giai đoạn khác nhau.
Cách tiếp cận này cũng không đi theo học thuyết cho rằng con người có thể thay đổi tất cả. Chúng tôi đồng ý với Jared Diamond, người đã vận dụng quyết định luận môi trường và nhiều cách tiếp cận hiện đại1. Theo đó có năm nguyên nhân chính tác động đến tình trạng phân hóa hoặc diệt vong của các xã hội khác nhau, bao gồm: tổn hại môi trường; thay đổi khí hậu, thời tiết; quan hệ giữa quốc gia đó và các quốc gia thù địch; quan hệ với những quốc gia láng giềng thân cận; cách đối phó của tập thể về mặt chính trị, kinh tế, xã hội trước những khó khăn xảy ra.
Sử dụng cách tiếp cận liên ngành, kết hợp với các dữ liệu về địa chất, khảo cổ học, địa lý học, sử học và các ngành khoa học khác, nghiên cứu này nhằm đảm bảo mô tả, phân tích được bức tranh toàn cảnh về vai trò của các yếu tố tự nhiên trong tiến trình lịch sử và đặc trưng văn hóa. Tuy nhiên, trong điều kiện dữ liệu về vùng Nam Bộ còn rất nhiều khoảng trống cả về thời gian và không gian, sự thiếu vắng của những dữ liệu cụ thể gây khó khăn cho việc phục dựng lại một cách hoàn chỉnh
1. Diamond, J., (Hà Trần dịch): Sụp đổ - Các xã hội đã thất bại hay thành công như thế nào?, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2007.
16 VÙNG ĐẤT NAM BỘ I ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
và chi tiết bức tranh về vai trò của môi trường tự nhiên trong tiến trình lịch sử và đặc trưng văn hóa. Ngoài ra, do việc tồn tại các mối quan hệ đan xen, chồng chéo lên nhau giữa các chủ thể với các yếu tố tự nhiên và giữa các chủ thể với nhau trong sự tương tác với tự nhiên, nên không dễ dàng tìm kiếm được sự xuyên suốt, thống nhất và đồng thuận cao giữa các dữ liệu hay giữa các giải thích, lập luận ở một vài giai đoạn lịch sử. Trong chừng mực nào đó, các lý giải có thể còn bị chi phối bởi các giả định, các ý kiến chủ quan. Tuy nhiên, nghiên cứu đã cố gắng trình bày và hệ thống hóa các dữ liệu và quan điểm, các cách lý giải khác nhau, góp phần tiếp cận được vấn đề từ nhiều góc độ.
Do phụ thuộc vào sự sẵn có của dữ liệu thứ cấp, phạm vi phân tích của nghiên cứu này có thể thay đổi từ cấp độ cả vùng Nam Bộ, Tây Nam Bộ, Đông Nam Bộ hay chỉ một tỉnh, đảo, một vùng dự án cụ thể. Việc phân tích nhằm để minh họa rõ nét hơn vai trò của tự nhiên, vai trò của các chủ thể trong bối cảnh không gian và thời gian cụ thể. Do đó, tùy theo từng thời kỳ và lĩnh vực cụ thể, có thể thiếu những phân tích mang tính bao quát, khái quát cho cả vùng rộng lớn.
Cuốn sách này tập trung vào ba nội dung chính sau đây: Chương I: Quá trình hình thành và phát triển các yếu tố tự nhiên của vùng Nam Bộ.
Chương II: Tác động của điều kiện địa lý tự nhiên, môi trường sinh thái đến tiến trình lịch sử và đặc trưng văn hóa vùng Nam Bộ. Chương III: Nam Bộ trong bối cảnh biến đổi khí hậu.
Nền tảng ban đầu của cuốn sách này là kết quả của đề tài nhánh “Điều kiện tự nhiên, môi trường sinh thái tác động đến tiến trình lịch sử và đặc trưng văn hóa vùng Nam Bộ” trong đề án khoa học xã hội cấp nhà nước “Quá trình hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ”. Do đó, chúng tôi đánh giá cao và chân thành cảm ơn sự đóng góp trí tuệ của các cộng tác viên cùng tham gia thực hiện các chuyên đề của đề tài. Ngoài ra, nhóm tư vấn, bao gồm: TSKH. Phan Liêu, TS. Nguyễn Thị Hậu, TS. Ngô Thanh Loan, TS. Phạm Gia Trân, ThS. Bàng Anh Tuấn, đã đóng góp rất nhiều ý kiến trong quá trình xây dựng đề cương và thực hiện đề tài.
Cuối cùng, chúng tôi xin gửi lời cảm ơn đặc biệt đến GS. Phan Huy Lê, Chủ nhiệm đề án, và PGS. TS. Võ Văn Sen, Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, đã chỉ đạo, tư vấn về mặt khoa học và tạo mọi điều kiện để thực hiện đề tài và xuất bản cuốn sách này.
17
Chương I
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH
VÀ PHÁT TRIỂN CÁC YẾU TỐ TỰ NHIÊN CỦA VÙNG NAM BỘ
I- VỊ TRÍ ĐỊA LÝ VÀ CÁC VẬN ĐỘNG PHÁT TRIỂN TOÀN CẦU
Nam Bộ là vùng lãnh thổ phía Nam của nước ta và theo ranh giới hành chính mới nhất thì đây là địa bàn gồm 19 tỉnh, thành phố: Bình Phước, Tây Ninh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Thành phố Hồ Chí Minh thuộc miền Đông Nam Bộ; Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau thuộc miền Tây Nam Bộ hay còn gọi là đồng bằng sông Cửu Long, với tổng diện tích là 64.162,8 ngàn hécta1. Trên thực tế, Nam Bộ là tên gọi mang hàm ý không gian hành chính (ngay từ thuở ban đầu) hơn là xuất phát từ một khái niệm địa lý tự nhiên. Vì lẽ đó, ranh giới Nam Bộ khá biến động theo thời gian, theo sự phân chia của các hệ thống kinh tế - chính trị khác nhau. Về mặt lịch sử, thì những người dân Việt di cư nhiều vào thời gian từ trước thế kỷ XVII đã đặt nền móng để hòa nhập vùng đất này vào Đất Việt. Tiếp đến, trong thế kỷ XVII, các chúa Nguyễn là những người có công khẳng định cương vực nước ta tới vùng đất Nam Bộ ngày nay. Năm 1698, Chúa Nguyễn Phúc Chu sai Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào
1. Xem Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê năm 2013, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2014, tr.63.
18 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
kinh lược vùng đất này và chính thức thiết lập một hệ thống hành chính thống nhất trong bộ máy cai trị chung cả nước.
Vào lúc đó, ranh giới địa lý toàn vẹn cho Nam Bộ có lẽ cũng khó xác định bởi còn có những cuộc sáp nhập đất đai muộn hơn. Về địa danh, năm 1744, Chúa Nguyễn Phúc Khoát tổ chức lại bộ máy hành chính ở Nam Bộ lúc ấy gồm ba dinh là Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ và trấn Hà Tiên. Dưới thời Vua Minh Mạng năm 1832, vùng này được chia thành sáu tỉnh (nên có tên gọi là Nam Kỳ lục tỉnh hay Lục tỉnh).
Những hình ảnh đầu tiên cho ta nhận biết rõ nhất về không gian vùng Nam Bộ, tuy vẫn còn sơ lược, là từ những bản đồ do người Pháp, người Anh thực hiện. Qua đó, phạm vi Nam Kỳ vào năm 1872 là nhỏ hẹp hơn ở phần phía đông so với phạm vi hành chính Nam Bộ hiện nay. Vào thời điểm đó thì phần Trung Kỳ (An Nam) lấn sâu tới phạm vi Xuyên Mộc, Định Quán, Bình Phước hiện nay. Còn ở phía tây thì Nam Kỳ lấn sâu về phía bắc kênh Vĩnh Tế.
Một số nghiên cứu trước đây về lĩnh vực tự nhiên, như Phân chia địa tầng N-Q và nghiên cứu cấu trúc địa chất đồng bằng Nam Bộ1 thì lấy vùng đồng bằng Nam Bộ giới hạn giữa các tọa độ 8025’30”- 12009’34” vĩ độ Bắc; 103022’55” - 107000’00” kinh độ Đông, có tính chất phân chia theo mảnh bản đồ. Trong khi đó, những tư liệu về môi trường cổ địa lý, nhân sinh cho thấy thế giới tự nhiên ở vùng Nam bán đảo Đông Dương và vùng Đông Nam Á rất biến động theo thời gian cũng như theo không gian. Như vậy sẽ là không thỏa đáng nếu chúng ta xác định một lằn ranh cố định, như phạm vi thuộc 19 tỉnh, thành đã nêu, cho tất cả lĩnh vực nghiên cứu (tự nhiên và xã hội) vốn có những quy luật phát triển riêng. Trong cuốn sách này, không gian phân bố các đặc trưng môi trường tự nhiên được đề cập tới sẽ được trình bày trong một không gian ước định, rộng hơn, gồm vùng châu thổ sông Mékong và vùng thềm cổ - đồi núi thấp trên dưới 200 mét kéo dài qua địa bàn các tỉnh Long An, Tây Ninh,
1. Nguyễn Huy Dũng (chủ biên): Phân chia địa tầng N-Q và nghiên cứu cấu trúc địa chất đồng bằng Nam Bộ, 2004. Lưu trữ tại Liên đoàn Bản đồ Địa chất miền Nam.
CHƯƠNG I: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN... 19
Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu. Các đặc trưng này sẽ còn được đề cập trong không gian địa lý rộng hơn của vùng bán đảo Đông Dương và Đông Nam Á nhằm làm rõ các mối liên kết đặc thù. Về thời gian lịch sử phát triển, các đặc trưng tự nhiên sẽ được đề cập chủ yếu từ đỉnh điểm băng hà cuối cùng cho tới nay.
Sự sống trên trái đất đã có quá trình tiến hóa lâu dài, trải qua nhiều thời kỳ, nhiều biến cố để trở nên thế giới đa dạng như ngày hôm nay. Trong tiến trình đó, mỗi cấu thành tự nhiên, gồm vô cơ và hữu cơ, cùng phát triển không ngừng với những tốc độ, quy mô nhanh chậm khác nhau tuân theo các quy luật riêng. Sự vận động này được khái quát trên biểu đồ dưới đây (hình 1):
Hình 1: Sự vận động các cấu thành tự nhiên theo quy mô khác nhau về thời gian và không gian
Nguồn: Delcourt H.R., Delcourt P.A.: Quaternary Ecology: A paleoecological perspective, Chapman & Hall, 1991.
Theo dòng thời gian, môi trường tự nhiên trên trái đất đã trải qua rất nhiều thay đổi, đáng lưu ý trong giai đoạn Đệ tứ, khoảng hai triệu năm trở lại đây, là giai đoạn quan trọng trong lịch sử sự sống trên trái đất với sự xuất hiện của con người, vốn tiến hóa từ một loài vượn người.
20 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
Hình 2: Bằng chứng biến đổi khí hậu, các giai đoạn băng hà, không gian băng hà và những thay đổi tương ứng về nhiệt độ, bức xạ
Nguồn: Delcourt H.R., Delcourt P.A.: Quaternary Ecology: A paleoecological perspective, Chapman & Hall, 1991.
CHƯƠNG I: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN... 21
Cảnh quan chung trong giai đoạn này được đánh giá là khá ổn định, về cơ bản là gần giống với hiện tại. Nhưng những nghiên cứu gần đây cho chúng ta nhiều thông tin rất mới mẻ về sự phát triển tự nhiên khá sôi động trong thời gian tuy rất ngắn này so với lịch sử trái đất. Đó là xen kẽ những giai đoạn băng hà khô lạnh dài hàng chục ngàn năm và những giai đoạn khí hậu nóng ẩm được cho là có liên quan tới những vận động thiên văn do Milankovich phát hiện đầu tiên, theo chu kỳ dài 19, 23, 41, 100 và 413 ngàn năm, đã ảnh hưởng lớn tới môi trường tự nhiên trên bề mặt trái đất1. Vào giai đoạn băng hà phát triển, do lượng nước bị đông thành băng vĩnh cửu làm giảm lượng nước tuần hoàn về đại dương mà thể tích nước đại dương giảm đi nên mực nước biển bị hạ thấp, có thể vài trăm mét so với mực nước hiện tại (hình 3). Vì lẽ đó, cả phần thềm lục địa hiện tại trên cả địa cầu đã phơi ra ngoài không khí, nhiều vùng biển nông bị thu hẹp lại, hoặc khô cạn, như vịnh Thái Lan đã là bình nguyên khi mà mực nước biển vào 20 ngàn năm trước thấp hơn hiện nay tới khoảng 120 mét.
Khi phông nhiệt độ toàn cầu tăng làm tăng tan chảy thể tích khối băng vĩnh cửu, lượng nước đổ về đại dương tăng lên làm mực nước đại dương dâng lên. Mực nước thay đổi, dâng lên hoặc hạ xuống, và đường bờ biển cũng dịch chuyển tương ứng theo, hay là các giai đoạn biển tiến, biển thoái có tính toàn cầu. Nhưng khi mực nước đại dương ít thay đổi, tùy theo cấu tạo địa chất địa phương mà còn gây ra diễn biến mực nước dâng - hạ cục bộ. Có thời gian, biển đã lấn trên châu thổ Mékong tới gần thành phố Phnom Penh hiện nay. Thay đổi khí hậu (hình 2) tác động rất lớn tới sinh quyển, sự phân bố và tiến hóa các sinh vật trên cạn và dưới nước, sinh vật chịu khô hay ưa nước... Vì lý do đó đã diễn ra những đợt di cư rất lớn của các tập đoàn sinh vật theo phạm vi co dãn các đới khí hậu và mực nước, đường bờ biển.
1. Xem Smith D.G.: Milankovich cyclicity and the stratigraphic record - a review, Terra nova, 1989, vol. 1, No 5, p. 402-404.
22 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
Sự tan băng nhanh làm thay đổi trường trọng lực trên vỏ trái đất còn gây hiệu ứng xiphôn kéo theo các dịch chuyển nâng - hạ trên các mảng địa chất giữa các vùng vĩ độ thấp (như vùng Đông Nam Á) và vĩ độ cao1 và thay đổi địa hình - địa mạo có quy mô lớn đều có liên quan tới tốc độ tan chảy băng hà2.
Hình 3: Gia tăng mực nước biển ở một số khu vực trên thế giới từ sau băng hà cuối Pleistocen
Ngàn năm về trước
Nguồn: www.thefreedictionary.com
1. Grossman E.E., Fletcher III C.H., Richmond. B.M.: The Holocene sea-level highstand in the equatorial Pacific: Analysis of the insular paleosea-level database, Coral Reefs, 1998, vol.17, p.309-327.
2. Quidelleur X., Hildenbrand A., Samper A.: Causal link between Quaternary paleoclimatic changes and volcanic islands evolution, Geophys, Res. Lett, 2008, vol.35, L02303. doi: 10.1029/2007GL031849.
CHƯƠNG I: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN... 23
Khu vực Nam Bộ trải dài trên vùng hạ du và châu thổ của hai hệ thống sông Sài Gòn - Đồng Nai và Mékong, vì vậy, đặc trưng môi trường tự nhiên ở đây và sự phát triển của nó đều gắn liền ít nhiều với lịch sử các con sông này và cả trong mối liên kết thống nhất trong không gian địa lý rộng hơn của vùng bán đảo Đông Dương và Đông Nam Á. Về thời gian, các đặc trưng tự nhiên sẽ được đề cập chủ yếu từ đỉnh điểm băng hà cuối cùng cho tới nay.
II- ĐỊA CHẤT
1. Địa chất khu vực
Vùng nghiên cứu là một bộ phận của vỏ lục địa Đông Nam Á, có bề dày thay đổi trên 30 km và mỏng dần còn 25-30 km ở dưới thềm lục địa1. Những hoạt động tạo sơn ở bán đảo Đông Dương, sự hình thành biển Đông và vùng đất liền lân cận là hậu quả vận động của mảng kiến tạo Ấn Độ với mảng Á - Âu cùng vi mảng Phillípin. Sự vận động nghịch nhau giữa các mảng kiến tạo đã gây dập vỡ và hình thành các khối và bị tách rời bởi các phay kiến tạo lớn. Trong đó, do ảnh hưởng chi phối trường ứng suất tạo bởi sự vận động của mảng kiến tạo Ấn Độ vào mảng Á - Âu2 mà các phay kiến tạo, địa hào, địa lũy lớn đều có hướng phát triển là tây bắc - đông nam (hình 4).
Địa hình hiện tại cơ bản đã được ổn định từ cuối đại Trung Sinh (Mezozoi) sau khi biển Đông được hình thành do sự tách dãn, kéo trượt các khối, dưới tác động ảnh hưởng di chuyển của vi mảng Ấn Độ ép vào mảng lục địa Á - Âu. Các vận động này đã tạo nên các đới tách trượt và dãn, hay là các địa hình võng thấp cục bộ, mà theo đó đã phát triển các hệ thống sông lớn như sông Hồng, sông Mékong, sông Chao Praya,
1. Xem Phan Văn Quýnh, Vũ Ngọc Hải, Nguyễn Nghiêm Minh, Võ Năng Lạc, Văn Đức Chương: Tiến hóa vỏ lục địa Việt Nam và sinh khoáng, tạp chí Các khoa học về trái đất, số 3, 1986, tr.97-103.
2. Xem Huchon P., Le Pichon X., Rangin C.: Indochina Peninsula and the collision of India and Eurasia, Geology, 1994, vol. 22, p. 27-30.
24 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
sông Irrawady. Các sông này đều bắt nguồn từ sườn phía đông nam của cao nguyên Tây Tạng, có nóc nhà thế giới - đỉnh Himalaya.
Hình 4: Sơ đồ vận động kiến tạo ở châu Á
Khởi đầu giới Kainozoi, các cấu tạo địa chất nền khu vực Đông Nam Á và hoạt động kiến tạo chính được Rangin và cộng sự đề cập1. Hoạt hóa macma - kiến tạo Kainozoi muộn đã tạo nên đai núi lửa rìa lục địa bao quanh biển Đông. Những hoạt động kiến tạo này vẫn còn tiếp diễn, và vì vậy, vùng Đông Nam Á là nơi có nhiều điểm nóng về cấu trúc địa chất với những cơn địa chấn lớn và phun trào núi lửa xảy ra thường xuyên. Trong giai đoạn Đệ tứ đã có nhiều loạt phun trào bazan
1. Xem Rangin C., Huchon P., Le Pichon X., Bellon H., Hoe N.D., Lepvrier C., Roques D., Quynh P.V.: Cenozoic deformation of Central and South Vietnam: Evidences for superposed tectonic regimes, Tectonophysics, 1993, vol. 251, Issues 1-4, p. 179-196.
CHƯƠNG I: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN... 25
lớn ở khu vực nam bán đảo Đông Dương bao gồm ở vùng Hạ Lào, Tây Nguyên, và phân bố theo trục kéo dài từ Bà Rịa - Xuân Lộc qua Bình Phước tới Kompong Cham (Campuchia)1. Các dòng chảy bazan phát triển theo hướng bao lấy sườn phía bắc của châu thổ Mékong và phân cắt lưu vực sông Sài Gòn - Đồng Nai. Hoạt động này tắt dần và dư âm còn kéo dài tới ngày nay với bằng chứng là những đợt phun trào quy mô nhỏ tại Hòn Tro trên vùng biển Phan Thiết.
Ở vùng lân cận lãnh thổ Việt Nam vẫn còn nhiều hoạt động phun trào, như trên dải Cadamon (Tây Campuchia)2, với quy mô nhỏ. Nhưng ở nhiều nơi xa hơn thì đã có những hoạt động phun trào rất mạnh. Kỷ lục là vụ núi lửa Toba (Sumatra) phun cách nay 73.500 năm tạo ra đám bụi khí có khối lượng tới 109 tấn, cao 27-37km bao trùm lên khí quyển đã tạo nên “mùa đông núi lửa” trên phạm vi toàn cầu bởi đám tro bụi này đã làm giảm bức xạ mặt trời, làm nhiệt độ khí quyển hạ thấp 3-50C trong nhiều năm, đã góp phần thúc đẩy khí hậu trái đất đi sớm hơn vào giai đoạn băng hà3.
Trong bối cảnh kiến tạo địa chất chung nêu trên thì ở khu vực Nam Bộ và kề cận đã hình thành những cấu trúc cơ bản, gồm: hai đới tách giãn - lún chìm chạy theo hướng tây bắc - đông nam, theo trục châu thổ Mékong và trục dọc vịnh Thái Lan tạo nên hai bồn trũng là bồn trũng Cửu Long và bồn trũng vịnh Thái Lan. Trũng Cửu Long phát triển từ vùng thềm lục địa theo hướng tây bắc vào sâu trong lãnh thổ Campuchia. Trên thềm lục địa biển Đông, trũng Cửu Long phát triển lệch về hướng đông4.
1. Xem: - Carbonnel J.P: Le Quaternaire Cambodgien: Structure et stratigraphie, ORSTOM, 1972, 252p.
- Phạm Văn Phúc: Mối liên quan giữa các động đất trong những năm vừa qua tại vùng biển Nam Trung Bộ nước ta với các hoạt động núi lửa tại đây, Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển, số 2, 2008, tr. 52-66.
2. Xem Carbonnel J.P: Le Quaternaire Cambodgien: Structure et stratigraphie, ORSTOM, 1972, 252p.
3. Xem Rampino M. R., Self S.: Volcanic winter and accelerated glaciation following the Toba super-eruption, 1992, Nature 359.
4. Le Van Khy: The structure of the Mekong trough, International Geology Review, 1986, vol. 28, No 1, p. 87-95.
26 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
Quá trình lắng đọng vật liệu lâu dài trong các bồn trũng này đã tạo nên các lớp trầm tích bở rời, có nơi dày tới hàng ngàn mét. Tổng bề dày trầm tích Kainozoi ở phần sâu nhất các bồn trũng Cửu Long và bồn trũng vịnh Thái Lan cũng tới hơn 7 ngàn mét1 trên nền các cấu trúc tách giãn - lún chìm đã nêu. Ngoài hai bồn trầm tích Đệ tứ nói trên, các hoạt động tân kiến tạo và ngoại sinh cũng góp phần hình thành các bồn trầm tích quy mô nhỏ hơn trong các miền đồi núi uốn nếp, như bồn trầm tích Tánh Linh trong lưu vực sông La Ngà. Chúng được thể hiện là những phân bố trầm tích Neogen và Đệ tứ tương đối cô lập giữa các đá cổ Paleozoi hay Mezozoi trong sơ đồ địa chất (hình 5).
Cấu trúc võng dưới đồng bằng Nam Bộ thể hiện rõ qua tài liệu khoan địa chất của Liên đoàn Bản đồ Địa chất miền Nam, cụ thể là đá gốc trước Kainozoi được gặp ở độ sâu 167 mét trong lỗ khoan LK816 (Thủ Đức), ở 330 mét trong lỗ khoan LK812 (Nhà Bè) thuộc vùng rìa châu thổ. Trong khi đó, nhiều lỗ khoan sâu xấp xỉ 500 mét ở vùng trục châu thổ, như lỗ khoan LK17 (Cần Thơ), LK214a (Vĩnh Long), LK31 (Mỹ Tho) thì đều chưa gặp các đá gốc này.
Đối nghịch với hai cấu trúc tách giãn - lún chìm là cấu trúc nâng, gồm: uốn nếp - địa lũy nâng dần ở cánh phía bắc của đới Đà Lạt vốn có vai trò như là khâu nối với địa khối Kon Tum có biên độ nâng tổng quát tân kiến tạo đạt trên 3 ngàn mét với vòm cao nhất là đỉnh Ngọc Linh2. Ở cánh phía nam là phần gờ nâng Khorat - Natuna hình thành do sự nén ép bởi hai đới tách giãn - lún chìm kể trên. Dấu tích của gờ nâng Khorat - Natuna là dải núi Cardamon ở phía tây Campuchia và nối tiếp về phía nam bởi các cụm Bảy Núi, Hòn Chông, Hòn Đất, các đảo ven biển. Trong đó có các đảo lớn là Phú Quốc, Hòn Sơn, Hòn Khoai.
Vận động tạo sơn tồn dư vào kỷ Đệ tam cùng hoạt động macma đã tạo nên gờ ngăn cách giữa bồn trầm tích sông Mékong và bồn trầm tích
1. Xem Lê Việt Triều: Các nhân tố chính liên quan đến kiến trúc và chế độ động lực Kainozoi khu vực biển Đông, Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006, t.XXII, No 2A, tr.107-124.
2. Xem Lê Xuân Hồng, Lê Thị Kim Thoa: Địa mạo bờ biển Việt Nam, Nxb. Khoa học tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội, 2007.
CHƯƠNG I: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN... 27
Hình 5: Cấu trúc địa chất Paleogen bán đảo Đông Dương
1- Trầm tích Mz thuộc cao nguyên Corat; 2- Bồn Oligocen-Miocene Thái Lan; 3- Bồn trung tâm tuổi Mz và Eocene; 4- Thành tạo Paleozoi trung tâm Việt Nam; 5- Địa khối Kon Tum; 6- Thành tạo Indosini (Mz) thuộc bloc Shan Thai; 7- Trầm tích Neogen và trầm tích không phân chia ở tây Thái Lan và bắc Malaysia; 8- Các đứt gãy chính; 9a- Đứt gãy chưa được phân chia; 9b- Đứt gãy thuận; 10a- Chuyển dịch dạng Strike-slip do chế độ động lực nén cực đại theo hướng đông tây; 10b- Chế độ giãn theo hướng đông tây; 11a- Đới trượt đầu Đệ tứ; 11b- Đới trượt trước Trias.
28 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
sông Đồng Nai1, và làm phân dị móng đá dạng bậc như bàn phím piano bên dưới châu thổ sông Mékong2.
Hoạt động tân kiến tạo là những hoạt động nội sinh diễn ra trong kỷ Đệ tứ tới nay và đã gây sụt lún, thay đổi mực xâm thực dọc theo các thung lũng sông và để lại các thềm sông có biên độ khác nhau. Theo Saurin3, ở khu vực Nam Việt Nam và miền Đông Campuchia có bốn bậc địa hình chính và sau này được Carbonnel4 đề xuất sắp xếp theo trật tự tuổi sớm - muộn là:
- Thềm + 100m, tuổi > 650 ngàn năm;
- Thềm + 40m, tuổi muộn sau 650 ngàn năm;
- Thềm + 20m, tuổi (?);
- Thềm +10 đến +2m, tuổi (?).
Các hoạt động nâng - hạ tân kiến tạo còn để lại các dấu vết trên bề mặt đất, như là loạt đá xâm nhập, phun trào dọc địa hào ở Sré Ambel, Pailin (Campuchia)5.
Quá trình kiến sinh vỏ lục địa mới đã tạo nên nền lục địa trong khu vực Nam biển Đông - vịnh Thái Lan được đặt tên là Sundaland. Theo Tjia6, cấu trúc địa chất của Sundaland khá ổn định và có tốc độ nâng kiến tạo vỏ <0,1mm/năm.
Hoạt động nâng tân kiến tạo tiếp diễn ở cánh Bắc (Đông Nam Bộ và đông bắc Campuchia) với các loạt phun trào bazan theo khe nứt và phun trào trung tâm (phun nổ), tạo nên trùm phủ bazan N-Q trên dải
1. Xem Saurin E.: Le substratum de Saigon et la formation du delta du Mêkông, C.R. Som. Séances Soc Géol, France, 1964, p. 306-308.
2. Xem Carbonnel J.P: Le Quaternaire Cambodgien: Structure et stratigraphie, ORSTOM, 1972, 252p.
3. Saurin E.: Etudes géologiques sur L’ Indochine du Sud-Est (sud Annam, Cochinchine, Cambodge oriental), Bull.serv.geol, Indochine, 1935, vol. XXII, 420 p. 4, 5. Carbonnel J.P: Le Quaternaire Cambodgien: Structure et stratigraphie, ORSTOM, 1972, 252p.
6. Tjia, H.D.: Sea-level changes in the tectonically stable Malay - Thai Peninsula, Quaternary International, 1996, vol. 31, p. 95-101.
CHƯƠNG I: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN... 29
rộng. Các lớp phủ bazan dày vài chục mét tới hơn 100 mét. Các hoạt động tách giãn - lún chìm liên tục theo địa hào nằm theo trục châu thổ Mékong đã kéo theo những phun trào bazan này ở vùng miền Đông Nam Bộ1. Trong Neogen - Đệ tứ ít nhất đã có sáu loạt phun trào bazan lớn ở vùng Nam Tây Nguyên và Đông Nam Bộ2. Gần đây nhất đã có bốn đợt phun trào ngầm dưới đáy biển khu vực Hòn Tro (hình 6) được ghi nhận vào các năm: 1880-1882, 1923, 1928 và 1978.
Hình 6: Vị trí Hòn Tro ngoài khơi Phan Thiết
1. Fan Pow-Foong: Tectonic patterns and Cenozoic basalts in the western magin of the South China sea, AAPG, 1994, vol. 78/7, p. 1141-1142.
2. Đỗ Công Dự: Về những kết quả nghiên cứu đá bazan ở miền Nam Việt Nam qua công tác đo vẽ bản đồ địa chất 1:50.000 và các nghiên cứu khác, Báo cáo tại Hội nghị Địa chất - Tài nguyên - Môi trường Việt Nam, Liên đoàn Bản đồ Địa chất miền Nam, 2000.
30 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
Chỉ trong thời gian từ năm 2005 đến năm 2006, trên khu vực ven bờ Nam Bộ đã ghi nhận có tới 27 địa chấn cấp 2,4 - 4,8 độ richter. Với những hoạt động tân kiến tạo tích cực và phun trào trẻ khá phổ biến trong khu vực, nên vùng miền Đông Nam Bộ được coi là một trong những điểm nóng về kiến tạo (hình 7).
Hình 7: Điểm nóng kiến tạo Đông Nam Bộ trên sơ đồ kiến tạo
Nguồn: Debelmas J., Mascle G.: Les grandes structures géologique, Masson, 1994, 299p.
Phun trào bazan á kiềm giai đoạn muộn (N-Q) đã góp phần làm bằng phẳng hơn địa hình vốn bị phân dị do hoạt động tạo sơn trước đó với sự hình thành các dải đồi núi thấp, các bậc thang địa hình lớn có bề mặt khá thoải và rộng. Các lớp phủ bazan rộng lớn phổ biến ở Di Linh -
Đức Trọng, Xuân Lộc, Lộc Ninh, Kompong Cham. Hoạt động macma ở cánh phía nam trục châu thổ sông Mékong thì có quy mô nhỏ hơn, với những dấu hiệu ghi nhận trong địa tầng Mezozoi ở tờ bản đồ địa chất tỷ
CHƯƠNG I: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN... 31
lệ 1/200.0001 hay là các dải bazan hẹp trong địa hào ở Sré Ambel, Pailin và đá xâm nhập granit trong dải núi Cardamon, theo tài liệu của Carbonnel2. Cấu trúc địa chất của nền Sundaland kéo dài từ phần Nam châu thổ sông Mékong tới đảo Borneo thì khá ổn định với khuynh hướng nâng kiến tạo vỏ đã góp phần tạo nền nước nông cho châu thổ Mékong hiện đại phát triển nhanh sau này.
Song song với quá trình địa chất nội sinh thì các quá trình ngoại sinh, bao gồm xói mòn, xâm thực, tích tụ, phong hóa hóa học, cũng là động lực quan trọng làm biến đổi nhanh diện mạo bề mặt đất. Cường độ các hoạt động này có liên quan tới chế độ khí hậu, chu kỳ băng hà hay chu kỳ Milankovich, đặc biệt là liên quan tới gió mùa và sự thay đổi mực nước biển vốn diễn ra trên phạm vi toàn cầu như đã trình bày ở trên, trong các hình 2 và 3. Tuy nhiên, trong xu thế diễn biến chung ở phạm vi toàn cầu thì các quá trình ngoại sinh cũng có thể mạnh hơn hay yếu hơn trên phạm vi khu vực bởi còn do ảnh hưởng chi phối của các yếu tố địa phương.
Chính sự đan xen các quá trình địa chất nội sinh và ngoại sinh đã làm cho lịch sử địa chất nói chung và lịch sử địa chất khu vực nói riêng càng phức tạp.
Nhìn chung trong thời gian hàng chục ngàn năm trước, thì xói mòn, xâm thực, phong hóa hóa học diễn ra khá tập trung ở vùng địa hình cao ở miền Đông Nam Bộ, từ Đức Hòa (Long An) và xa hơn lên tới vùng Tây Nguyên, Nam Trung Bộ, đã để lại dấu vết là những tầng phong hóa dày hay rãnh xâm thực sâu. Trong điều kiện phong hóa yếu, ta chỉ gặp dấu vết loang lổ màu nâu đỏ trên nền trầm tích, còn khi mức độ phong hóa cao hơn thì ta gặp kết von, các khung mạng đá ong hay
1. Bản đồ Địa chất và Khoáng sản: tờ Phú Quốc - Hà Tiên, Cục Địa chất Việt Nam, 1996.
2. Carbonnel J.P: Le Quaternaire Cambodgien: Structure et stratigraphie, ORSTOM, 1972, 252p.
32 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
Hình 8a: Vùng Đông Nam Á vào thời gian cách nay khoảng 21 ngàn năm
Nguồn: Sathiamurthy E., Voris H.K.: Maps of Holocen Sea Level Transgression and Submerged Lakes on the Sunda Shelf, The Natural History Journal of Chulalongkorn University, Supplement 2, 2006, p.1-44.
CHƯƠNG I: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN... 33
Hình 8b: Cấu trúc trầm tích nền đáy biển trên biểu đồ địa chấn1
các mảng đan kết cứng tạo bởi hydroxyt sắt2. Trên lãnh thổ Campuchia, Carbonnel3 đã xác định một số thời kỳ gián đoạn trầm tích gắn liền với quá trình xâm thực rất mạnh diễn ra từ thời kỳ Pleistocen sớm tới thời kỳ Holocen. Nghiên cứu các địa tầng trầm tích ở miền Đông Nam Bộ, Trần Nghi và Phạm Văn Cự4 phát hiện các bề mặt phong hóa tương ứng với tuổi trầm tích Pleistocen sớm, trung, muộn. Trong địa tầng đồng bằng Nam Bộ, các bề mặt bất chỉnh hợp với những biểu hiện trầm tích
1- Kết quả khảo sát của tàu Sonne, tuyến SO187 (chưa công bố), Chương trình hợp tác nghiên cứu khoa học về tương tác biển - lục địa do Quỹ DFG - Bộ Khoa học và Công nghệ thực hiện, 2006-2009.
- Bề mặt bình nguyên cổ tương ứng với bề mặt trầm tích Pleistocen trên biểu đồ.
2. Tardy Y.: Petrologie des latérites et des sols tropicaux, Masson, 1993, 459 p. 3. Carbonnel J.P: Le Quaternaire Cambodgien: Structure et stratigraphie, ORSTOM, 1972, 252p.
4. Trần Nghi, Phạm Văn Cự: “Đặc điểm trầm tích và lịch sử phát triển địa chất kỷ thứ tư vùng rìa phía bắc đồng bằng sông Cửu Long”, tạp chí Các khoa học về trái đất, 1990, t.13, tr.40-45.
34 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
bị phong hóa ở mức độ khác nhau được dùng làm cơ sở phân chia địa tầng trên đồng bằng Nam Bộ1. Các loạt phun trào bazan nhỏ trong thời gian này cũng góp phần làm đa dạng hơn bề mặt địa hình, tạo thêm các thung lũng nhỏ giữa trùm phủ và chóp núi lửa cổ hơn. Thuộc loạt phun trào này, trong thung lũng sông Lá Buông (Đồng Nai), lớp đá bazan olivine kiềm có bề dày 5-25 mét phủ lên tầng cuội sỏi lẫn thân cây hóa than có tuổi C14 là 35.900 ± 2.800 năm, và mùn thực vật trong lớp trầm tích phủ vỏ bazan này thì có tuổi C14 là 4.500 ± 800 năm. Một số nghiên cứu trong thung lũng Tánh Linh cho thấy sự thay đổi tính chất dòng chảy sông La Ngà trong giai đoạn 12,5 - 9,7 ngàn năm có liên quan tới hoạt động tân kiến tạo.
Trong khi đó ở vùng Tây Nam Bộ, quá trình lắng đọng trầm tích từ dòng sông Mékong cổ và sông Đồng Nai cổ chiếm ưu thế trên nền cấu trúc võng và hình thành nên các tầng trầm tích dạng châu thổ - cửa sông, sông hồ chồng xếp lên nhau.
Nhìn xa về quá khứ, từ khoảng 20 ngàn năm trước, vào đỉnh điểm giai đoạn băng hà cuối cùng thì mực nước biển lúc đó đã thấp hơn hiện tại khoảng 120 mét và diện tích bề mặt biển Đông bị thu hẹp gần 1/3 so với hiện nay. Đường bờ biển xa hàng trăm kilômét so với hiện tại; cả vùng Nam Bộ và thềm lục địa hiện nay cũng như vịnh Thái Lan đã là một bình nguyên rộng lớn cao hơn mực nước biển lúc đó tới hơn 100 mét, nối liền với thềm lục địa Sunda và cả bán đảo Mã Lai cùng các đảo Borneo và Sumatra (hình 8a). Biểu đồ địa chấn, hình 102, cho phép xác định dấu tích dòng chảy sông Mékong cổ và cửa sông đã ở xa hơn về
1. Nguyễn Ngọc Hoa và cộng sự: Báo cáo thuyết minh đo vẽ địa chất và tìm kiếm khoáng sản nhóm tờ đồng bằng Nam Bộ, tỷ lệ 1/200.000, 1990. Lưu trữ tại Liên đoàn Bản đồ Địa chất miền Nam.
2. Nguyễn Tiến Hải, Nguyễn Huy Phúc, Phạm Thị Tươi: Hệ thống sông cổ Mê Công - Đồng Nai cuối Pleistocen muộn trên thềm lục địa Vũng Tàu - Bình Thuận, trong tuyển tập Các công trình nghiên cứu địa chất và địa vật lý biển, Nxb. Khoa học và công nghệ, Hà Nội, 2007.
CHƯƠNG I: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN... 35
phía biển Đông, cách đường bờ biển hiện nay tới 4-5 trăm kilômét, và có thung lũng sông lớn với bề rộng vài ngàn mét và đáy sâu 30 - 60 mét1. Liên kết địa tầng trong các lõi khoan và băng địa chấn (hình 8b) cho thấy bề mặt bình nguyên - đồng bằng ven biển này khá bằng phẳng là kết quả một quá trình san bằng một vùng đồi thấp với cấu trúc uốn nếp nhẹ. Trong vịnh Thái Lan, cũng phát hiện thấy nhiều lòng sông cổ, sâu 20-30 mét, trên bề mặt aluvi cổ2.
Trong bối cảnh tự nhiên đó thì sự xuất hiện của con người là một sự kiện nổi bật, khi tổ tiên loài người vượt ra khỏi châu Phi khoảng 62 - 95 ngàn năm trước3 và đã có mặt ở bán đảo Đông Dương khoảng 46 ngàn năm trước4, và ở Nam Bộ thì di chỉ người tiền sử khá phổ biến ở Đồng Nai. Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên qua các diễn biến địa chất, địa mạo tới cổ khí hậu từ giai đoạn băng hà cuối là rất đáng quan tâm, bởi theo Gignoux và cộng sự5 thì dân cư vùng Đông Nam Á đã tăng lên rất
1. Nguyễn Tiến Hải, Nguyễn Huy Phúc, Phạm Thị Tươi: Hệ thống sông cổ Mê Công - Đồng Nai cuối Pleistocen muộn trên thềm lục địa Vũng Tàu - Bình Thuận, trong tuyển tập Các công trình nghiên cứu địa chất và địa vật lý biển, Sđd.
2. Charan Achalabhuti: Natural gas deposits of gulf of Thailand, In Energy recources of the pacific region, Halbouty M. (ed), AAPG, 1981, No. 12. 3. Qiaomei Fu, Alissa Mittnik, Philip L.F. Johnson, Kirsten Bos, Martina Lari, Ruth Bollongino, Chengkai Sun, Liane Giemsch, Ralf Schmitz, Joachim Burger, Anna Maria Ronchitelli, Fabio Martini, Renata G. Cremonesi, Jiří Svoboda, Peter Bauer, David Caramelli, Sergi Castellano, David Reich, Svante Pääbo, Johannes Krause: A Revised Timescale for Human Evolution Based on Ancient Mitochondrial Genomes, Current Biology, 2013, vol. 23, p. 553-559.
4. Fabrice Demeter, Laura L. Shackelford, Anne-Marie Bacon, Philippe Duringer, Kira Westaway, Thongsa Sayavongkhamdy, José Braga, Phonephanh Sichanthongtip, Phimmasaeng Khamdalavong, Jean-Luc Ponche, Hong Wang, Craig Lundstrom, Elise Patole-Edoumba, and Anne-Marie Karpoff: Anatomically modern human in Southeast Asia (Laos) by 46 ka, Proceedings of the National Academy of Sciences, August 20, 2012 DOI: 10.1073/pnas.1208104109.
5. Gignoux C.R, Hennb B.M., Mountain J. L.: Rapid, global demographic expansions after the origins of agriculture, PNAS, 2011, vol. 108, No 15, p. 6044-6049.
36 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
nhanh trong thời kỳ Holocen, đặc biệt là từ khoảng 4 ngàn năm trước, cùng với sự xuất hiện hoạt động trồng trọt, mà chủ yếu là trồng lúa nước trên các châu thổ1. Theo đó, chúng ta sẽ xem xét tập trung các quá trình hình thành châu thổ vốn chiếm hơn một nửa diện tích khu vực nghiên cứu và là cái nôi quan trọng của nền văn minh lúa nước ở Đông Nam Á.
2. Cổ khí hậu và diễn biến mực nước biển
Cổ khí hậu và diễn biến mực nước biển là các vận động tự nhiên quan trọng, chi phối tới quá trình hình thành các cấu tạo địa chất lớn, như châu thổ, đồng bằng ven biển, bờ biển, v.v..
Tổng hợp kết quả của nhiều tác giả2, ta có thể thấy có các thời kỳ khí hậu khá tương phản từ sau thời kỳ băng hà cuối cùng là:
- Thời kỳ từ 22 - 13 ngàn năm trước, chuyển từ khô lạnh sang ấm và ẩm dần.
1. Xiaoqiang Li, John Dodson, Jie Zhou, Xinying Zhou: Increases of population and expansion of rice agriculture in Asia, and anthropogenic methane emissions since 5000 BP, Quaternary International, 2009, vol. 202, p. 41-50.
2. - Horton B.P., Gibbard P.L., Milne G.M., Morley R.J., Purintavaragul C., Stargardt J.M.: Holocene sea levels and palaeoenvironments, Malay-Thai Peninsula, Southeast Asia, The Holocen, 2005, vol. 15, issus 8, p. 1199-1213.
- Maxwell A. L.: Holocen monsoon changes inferred from lake sediment pollen and carbonate records, northeastern Cambodia, Quaternary Research, 2001, vol. 56, p. 390-400.
- Mingram J., Schettler G., Nowaczyk N., Xiangjun Luo, Houyuan Lu, Jiaqi Liu, Negendank J.F.W.: The Huguang maar lake - a high-resolution record of palaeoenvironmental and palaeoclimatic changes over the last 78,000 years from South China, Quaternary International, 2004, vol. 122, p. 85-107.
- Page S.E., Wust R.A.J., Weiss D., Reiley J.O., Shotyk W., Limin S.H.: A record of late Pleistocene and Holocen carbon accumulation and climate change from an equatorial peat bog (Kalimantan, Indonesia): implication for past, present and future carbon dynamics, Journal of Quaternary science, 2004, vol. 19, p. 625-635.
- White J.C., Penny D., Kealhofer L., Maloney B.: Vegetation changes from the late Pleistocene through the Holocen from three areas of archaeological significance in Thai Land, Quaternary International, 2004, vol. 113, p. 111-132.
CHƯƠNG I: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN... 37
- Thời kỳ từ 13 - 9 ngàn năm trước, gia tăng hoạt động gió mùa tây nam, cùng hơi ẩm.
- Thời kỳ từ 9 - 5,3 ngàn năm trước, hoạt động gió mùa tiếp tục gia tăng cùng với sự tương phản mùa càng lớn, khí hậu ẩm ướt với sự góp phần bổ sung của nguồn hơi ẩm từ vịnh Thái Lan.
- Thời kỳ từ 5,3 - 2,5 ngàn năm trước, khí hậu trở lại khô hạn, với đỉnh điểm khoảng 4 ngàn năm trước, rồi chuyển sang ẩm và tương phản mùa trở lại rõ nét hơn vào cuối giai đoạn này.
- Thời kỳ từ 2,5 ngàn năm trước đến nay, khí hậu gió mùa gia tăng trở lại, khí hậu trở nên ẩm ướt rõ nét từ khoảng vài thế kỷ sau công nguyên. Trong các thời kỳ trên vẫn còn có các biến động với thời gian ngắn hơn, kéo dài vài trăm năm, như Young Dry, Little Ice Age. Theo kết quả nghiên cứu đồng vị oxy δ18O trong các thạch nhũ, chế độ gió mùa bị suy yếu đi vào khoảng 8,22-8,08 ngàn năm trước do đột biến khí hậu toàn cầu1. Đã có ba thời kỳ khí hậu tương đối ẩm và lạnh vào thời gian 200- 600 năm, 800-1.150 năm và 1.400-1.650 năm sau công nguyên ở vùng Tibet, thượng nguồn sông Mékong2 và đều liên quan tới biến động của gió mùa tây nam. Qua nghiên cứu vòng tăng trưởng của cây ở vùng núi Bidup, Tiến sĩ Buckley và cộng sự cho rằng Đông Nam Á đã trải qua bốn đợt khô hạn dài và trong đó có giai đoạn từ năm 1415 đến năm 1439 có thể liên quan tới sự sụp đổ của văn minh Angkor3.
Từ cuối thời kỳ Pleistocen, khí hậu nói chung dần trở nên nóng ẩm (hình 2) cộng thêm với lượng hơi ẩm bổ sung do biển Đông và vịnh Thái Lan mở rộng ra (hình 9 và hình 11), và hoạt động gió mùa mạnh lên đã góp phần làm tăng đáng kể lượng mưa trên các lưu vực sông.
1. Cheng H., Fleitmann D., Edwards R.LWang ., X.F., Dykoski C.A., Auler A.S., Mangini A., Wang Y.J., Kong X.G., Burns S.J., Matter A.: Timing of the 8.2ka cooling event inferred from δ18 O records of three stalagmites from Brazil, China and Oman, Geophysical Research Abstracts, 2006, vol.8, 03128.
2. Bao Yang, Achim Bräuning, Zhibao Dong, Ziying Zhang, Jiao Keqing: Late Holocen monsoonal temperate glacier fluctuations on the Tibetan Plateau, Global and Planetary Change, 2008, vol. 60, p. 126-140.
3. http://english.cri.cn.htm.
38 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
Điều này thúc đẩy quá trình xói mòn, hậu quả là lượng bùn cát tải theo các sông đổ ra biển và lắng đọng ở ven bờ cũng gia tăng. Dao động mực nước biển sau thời kỳ băng hà cuối cùng đã làm không gian đất liền ở Nam Bộ và vùng kề cận đã thay đổi đầy ấn tượng. Đặc biệt nổi bật là đất liền bị thu hẹp lại do biển tiến nhanh, do mực nước biển dâng và tiếp theo là đất liền lại tái mở rộng với sự hình thành châu thổ sông. Theo Stanley và Warne1, trong giai đoạn Holocen khi mà mực nước biển dâng chậm dần trên toàn cầu từ khoảng 7 ngàn năm về trước, và lượng vật liệu bùn cát tăng lên là những điều kiện thuận lợi cho sự tích tụ và tạo nên các châu thổ tại các cửa sông lớn trên thế giới.
Hình 9: Trường gió mùa tây nam2
1. Stanley D.J., Warne A.G.: Worldwide initiation of Holocene marine deltas by deceleration of sea-level rise, Science, 1994, vol. 265, p.228-231. 2. Theo Maxwell: Holocene monsoon changes inferred from lake sediment pollen and carbonate records, northeastern Cambodia, Quaternary Research, 2001, vol.56, p.390-400.
CHƯƠNG I: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN... 39
Sau đỉnh điểm băng hà, khí hậu ấm dần, quá trình tan băng vùng cực làm cho mực nước biển dâng lên nhanh, khoảng 15 mét/1.000 năm, tương ứng với nhịp băng tan lớn quy mô toàn cầu được xác định vào khoảng 11,3 ngàn năm trước. Quá trình nước biển dâng toàn cầu đã diễn ra khá phức tạp và chưa được xác định rõ hoàn toàn. Như riêng một vụ tan vỡ khối băng Laurentide ở Bắc Mỹ vào khoảng 8,2 ngàn năm trước đã làm mực nước các đại dương tăng đột biến và kéo dài mấy thế kỷ1.
Khí hậu nóng ẩm gây mưa nhiều làm cho hoạt động xói mòn trên các lưu vực tăng lên so với giai đoạn trước đó. Ở vùng địa hình cao và có độ dốc lớn của miền Đông Nam Bộ, quá trình xâm thực, rửa trôi thường kéo theo những dòng lũ bùn, trượt lở bồi lấp các bồn trũng. Như trong thung lũng Tánh Linh, ta thường gặp các lớp vật liệu thô gồm tảng lăn, cuội mài tròn lẫn cát bột sét ở phần chân các vách lộ dọc bờ sông suối, là dấu vết rất đặc trưng cho các đợt lũ lớn. Có nơi, bề dày trầm tích tăng lên rất nhanh (hơn 13 mét chỉ trong khoảng 800 năm). Đồng thời, cũng xuất hiện các vùng đất ngập nước (đầm, hồ) trong những địa hình trũng.
Quá trình xâm thực theo chiều thẳng đứng kế thừa từ giai đoạn trước đó vẫn còn khá mạnh do mực xâm thực cơ sở vẫn còn rất thấp, và tiếp tục tạo nên những thung lũng sâu và rộng, tương phản là các địa hình đồi thấp. Các thung lũng xâm thực này là những máng dẫn nước biển xâm nhập sâu vào nội địa ở thời gian muộn hơn. Những dấu tích địa hình này còn rất phổ biến ở vùng miền Đông Nam Bộ từ Củ Chi - Tây Ninh tới Bà Rịa. Các địa hình thấp, như thung lũng sông suối sẽ được bồi lấp dần ở giai đoạn tiếp theo bởi phù sa trẻ.
Còn ở miền Tây Nam Bộ, quá trình lún chìm cộng với hoạt động xâm thực của sông Cửu Long cổ tạo nên thung lũng sông khá rộng, bị vùi lấp sâu dưới lớp phù sa mới. Theo tài liệu địa chấn và khoan, ta thấy
1. Kendall R.A., Mitrovica J.X., Milne G. A., Tömqvist T. E., Yongxiang Li: The sea-level fingerprint of th 8.2 ka climate event, Geology, 2008, vol. 36, p. 423-426.
40 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
dòng chảy sông Mékong đã tạo một thung lũng xâm thực có bề ngang khoảng 30 km ở vị trí ngang thành phố Phnom Penh, và nó rộng hơn 40 km ở giữa Tân Châu - Châu Đốc, hơn 60 km ở ngang tuyến Long Xuyên - Tam Nông. Thung lũng này kéo dài về hướng đông qua khu vực Vĩnh Long, Bến Tre. Tại Bến Tre, Đồng Tháp, Vĩnh Long1 đã phát hiện một máng xâm thực cổ cắt sâu hơn 50 m vào đồng bằng aluvi cổ và được lấp đầy bởi trầm tích phễu cửa sông ngay từ cuối Pleistocen.
Hình 10: Mạng lưới sông cổ trên thềm lục địa ở Nam Bộ từ kết quả địa chấn
1. - Nguyen Van Lap, Ta Thi Kim Oanh: Depositional facies and radiocarbon ages from DT1 core in the Mekong river delta: evidence of incised-valley filling in Holocene transgression, tạp chí Khoa học và Công nghệ biển, t.8, số 1, 2008, tr. 24-34.
- Ta T. K. O., Nguyen V. L., Tateishi M., Kobayashi I., Tanabe S., Saito Y.: Holocene delta evolution and sediment discharge of the Mekong River, southern Vietnam, Quaternary Science Reviews, 2002, vol. 21, Issues 16 - 17, p. 1807-1819.
- Ta T.K.O., Nguyen V.L., Tateishi M., Kobayashi I., Saito Y.: - Sedimentary facies, diatom and foraminifer assemblages in a late Pleistocene - Holocene incised valley sequence from the Mekong River Delta, Bentre Province, Southern Vietnam: the BT2 core, Journal of Asian Earth Sciences, 2001, vol. 20, Issue 1, p. 83-94.
CHƯƠNG I: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN... 41
Từ phần ngoài của thềm đồng bằng aluvi cổ trên thềm lục địa hiện nay, mực nước biển dâng tăng tốc lên rất nhanh từ khoảng -120 m lên -20 m (từ khoảng 21 - 9 ngàn năm về trước, hình 3) đã làm chìm ngập nhanh vùng bình nguyên này. Quá trình bờ biển lùi và mực nước dâng không liên tục đã để lại những dấu ấn là các cồn cát ven biển và trầm tích châu thổ. Một trong những gián đoạn này có tuổi 13.750 ± 280 năm ở mực nước sâu 50 - 70 m trên thềm lục địa ngoài khơi phía đông Bà Rịa - Vũng Tàu1. Quanh Côn Đảo tới phía đông Hòn Khoai ta gặp những dải cồn cát cao trên dưới 5 m ở mức nước sâu 25 - 30 m là dấu vết tích tụ xói mòn do sóng và gió ở vùng ven bờ trước đây vào giai đoạn đầu Holocen, tương ứng mực nước biển khoảng 9 ngàn năm trước.
Dòng chảy sông lúc này vẫn còn tương đối yếu trong tương tác sông/biển và hình thái cửa sông lúc đó chủ yếu là dạng phễu, dòng bùn cát cũng không đủ lớn để hình thành các châu thổ. Biển lấn rất nhanh trong thời kỳ này, bởi tốc độ gia tăng mực nước biển toàn cầu vào lúc đó là lớn nhất và lấn nhanh hơn theo các cửa sông vốn là nơi địa hình còn bị lún hạ. Ở phía tây, bề mặt địa hình cổ bắt đầu chìm ngập từ khoảng thời gian cách ngày nay 12 ngàn năm và hình thành nên vịnh Thái Lan ngăn cách Nam bán đảo Đông Dương với bán đảo Mã Lai và quần đảo Indo.
Mực nước biển đã có thể đạt tới mức đỉnh cao hơn mực nước hiện tại tới hơn 2 mét vào thời gian khoảng 6 - 4 ngàn năm2. Theo Nguyễn
1. Astrakhov A.S., Markov Yu.D., Trinh The Hieu: The Mekong river influence on Later Quaternary sidementation in the South China Sea, Lithology and Mineral Resources, 1989, No 3, p. 112-128.
2. - Horton B.P., Gibbard P.L., Milne G.M., Morley R.J., Purintavaragul C., Stargardt J.M.: Holocene sea levels and palaeoenvironments, Malay-Thai Peninsula, Southeast Asia, The Holocene, 2005, vol. 15, issus 8, p. 1199-1213.
- Tamura T., Saito Y., Sieng S., Ben B., Kong M., Choup S., Tsukawaki S.: Depositional facies and radiocarbon ages of a drill core from the Mekong River lowland near Phnom Penh, Cambodia: Evidence for tidal sedimentation at the time of Holocene maximum flooding, Journal of Asian Earth Sciences, 2007, vol. 29, issues 5-6, p. 585-592.
42 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
Văn Lập và cộng sự1 thì thời điểm này có lẽ sớm hơn và vào khoảng 8 ngàn năm trước. Khi đó bình nguyên - đồng bằng aluvi cổ trở thành thềm lục địa khá nông, dưới khoảng 20-30 mét nước. Khi mực nước biển gần đạt mức đỉnh thì tốc độ dâng nước chậm lại, nhưng biển lại tiến rất nhanh trên bề mặt khá bằng phẳng của đồng bằng aluvi cổ, theo thế hình cung từ Vũng Tàu qua rìa nội thành Thành phố Hồ Chí Minh, ngược lên theo trũng Vàm Cỏ Đông, qua vùng Mộc Hóa - Vĩnh Hưng - Tân Hồng rồi đổ ngược lên phía Phnom Penh. Ở phía tây, đường bờ men theo rìa thềm bao quanh dải Cardamon vòng qua vùng Bảy Núi, Thoại Sơn và ngược về phía bắc Hà Tiên. Biển đã lấn sâu theo các thung lũng xâm thực nên hình thái đường bờ biển lúc đó rất khúc khuỷu với nhiều vịnh nông cắt sâu vào nội địa, và biển đã lan tới khu vực phía nam thành phố Phnom Penh vào khoảng 9 ngàn năm trước2 (!), các đầm lầy mặn chứa các vỉa than bùn (dấu hiệu mực nước biển dâng gần đến đỉnh điểm) thì đã tồn tại ở đây từ 8 - 7,2 ngàn năm trước. Tương tự, nước biển cũng đã tràn ngập vùng địa hình trũng tạo nên vịnh Thái Lan ngày nay và đường bờ biển cùng với thảm rừng ngập mặn cũng lấn sâu hơn về phía thượng nguồn sông Chao Phraya, vào giai đoạn 8-7 ngàn năm trước, cách thành phố Bangkok hiện nay tới khoảng 60 km3. Mực nước biển dâng cao dần và cửa sông lùi sâu về nội địa đã để lại lớp trầm tích hỗn hợp vùng ven biển như đầm phá, cửa sông... lấp đầy dần những thung lũng xâm thực.
1. Van Lap Nguyen, Thi Kim Oanh Ta, Yoshiki Saito: Early Holocene initiation of the Mêkông River delta, Vietnam, and the response to Holocene sea-level changes detected from DT1 core analyses, Sedimentary Geology, 2010, vol. 230, p. 146-155.
2. Tamura T., Saito Y., Sieng S., Ben B., Kong M., Choup S., Tsukawaki S.: Depositional facies and radiocarbon ages of a drill core from the Mêkông River lowland near Phnom Penh, Cambodia: Evidence for tidal sedimentation at the time of Holocene maximum flooding, Journal of Asian Earth Sciences, 2007, vol. 29, issues 5-6, p. 585-592.
3. Tanabe S., Saito Y., Sato Y., Suzuki Y., Sinsakul S., Tiyapairach S., Chaimanee N.: Stratigraphy and Holocene evolution of mud-dominated Chao Phraya delta, Thailand, Quaternary Science Reviews, 2003, vol. 22, p. 789-807.
CHƯƠNG I: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN... 43
Khi mực nước biển dâng cực đại (cao hơn hiện tại khoảng 2-3 m), thì chỉ còn những gò đất cao của thềm aluvi cổ, như nội thành Thành phố Hồ Chí Minh, Nhơn Trạch, Thủ Đức, Củ Chi, Đức Hòa, Vĩnh Hưng, Tân Hồng, và các khối núi sót như Bảy Núi, núi Tróc, các núi nhỏ ở vùng Hòn Đất - Hà Tiên là không bị ngập. Tốc độ nước biển dâng chậm dần tạo điều kiện hình thành một số bãi biển và để lại dấu vết là các dải cát trên thềm phù sa cổ sót lại trong vùng Đồng Tháp Mười hay Tứ giác Long Xuyên1. Nước dâng chậm cũng thuận lợi cho rừng ngập mặn chiếm lĩnh các vùng bờ hay những đầm vịnh nước nông. Khoảng 7 - 8 ngàn năm trước, rừng ngập mặn phát triển tạo ra các vùng đất ngập nước rộng lớn trên nền địa hình khá bằng ở ven biển, từ Vũng Tàu tới Phú Quốc. Rừng ngập mặn đã để lại dấu vết là nhiều lớp than bùn, hoặc sét giàu hữu cơ dày mỏng khác nhau phủ lên bề mặt aluvi cổ. Tàn tích rừng ngập mặn gần Mộc Hóa có tuổi là 7.820 năm2 và một lớp than bùn khác có tuổi là 6.570±210 năm3. Ở phần phía tây, một lớp than bùn của rừng ngập mặn cổ cũng phủ lên bề mặt trầm tích Pleistocen ở khu vực Nền Chùa (bắc Rạch Giá) có tuổi trong khoảng 7.030±40
1. - Hồ Chín (Chủ biên): Phần địa chất trầm tích Đệ tứ trong Dự án “Điều tra, đánh giá diễn biến sản xuất nông nghiệp - tài nguyên - môi trường sau 10 năm khai thác (1987-1998) để định hướng phát triển hiệu quả và bền vững kinh tế - xã hội vùng Tứ giác Long Xuyên”, Trung tâm Khoa học tự nhiên và Công nghệ quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 9-1999.
- Hồ Chín (Chủ biên): Phần Địa chất trầm tích Đệ tứ trong Dự án “Điều tra, đánh giá diễn biến tự nhiên - kinh tế - xã hội vùng Đồng Tháp Mười sau 10 năm khai thác (1985-1995)”, Trung tâm Khoa học tự nhiên và Công nghệ quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 9-1997.
2. Le Duc An: Stratigraphy and types of sedimentation of Holocene deposits in the Mêkông delta, Proceeding of Joint research Meeting on Delta in Vietnam, Hanoi 12-14 January 2004.
3. Hoang Ngoc Ky: The quaternary geology of the Mekong lower plain and islands in southern Vietnam, Proceeding of the workshop on correlation of quaternary succession in south, east and southeast Asia, (ed) Narong Thiramongkol, 1988.
44 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
tới 6.850± 40 năm1. Nghiên cứu của Nguyễn Hữu Chiếm2 ở khu vực Tịnh Biên cũng cho thấy sự có mặt trầm tích than bùn của thực vật ngập mặn phủ trực tiếp lên bề mặt trầm tích Pleistocen. Nhưng ở vùng giữa sông Tiền và sông Hậu, trầm tích than bùn thì khá hạn chế3, tuy phấn hoa của rừng ngập mặn cũng phổ biến trong trầm tích ở khu vực này4. Có lẽ chế độ thủy động lực tương đối mạnh trong cửa sông hình phễu ít thích hợp cho sự tích lũy tàn tích của rừng ngập mặn ở những nơi này. Từ Vũng Tàu trở ra, rừng ngập mặn cũng chỉ giới hạn trong các cửa sông nhỏ hay các vịnh tương đối kín. Những bằng chứng trên cho thấy quá trình biển dâng diễn ra tương đối chậm dần là điều kiện cho thảm rừng ngập mặn phát triển phổ biến ở nền đất ngập nông.
Sự phát triển của rừng ngập mặn trong khu vực có thể còn sớm hơn và mở rộng từ những phần thấp hơn trên thềm Sunda. Đáng chú ý là rừng ngập mặn là những chỉ báo tin cậy về giai đoạn mực nước biển biến động chậm5. Theo dữ liệu của Van de Kaars6 thì rừng ngập mặn đã xuất hiện khoảng 10.500 năm trước ở ven đảo Halmahera (Indonesia), và khoảng 8.420-8.190 năm trước trong hồ nước lợ Thal Noi (Thái Lan) bên bờ vịnh Thái Lan7. Các lớp than bùn của rừng
1. Le Xuan Thuyen, Bui Thi Luan: Holocene development of the Mêkông river delta in the western margin, Proceeding international conference on Delta: Geological modeling and Management Ho Chi Minh city, 2005.
2, 4. Nguyen Huu Chiem: Geo-pedological study of the Mêkông delta. Southeast Asian Studies, 1993, vol. 31, No 2, p.158-186.
3. Nguyen Van Lap, Ta Thi Kim Oanh: Depositional facies and radiocarbon ages from DT1 core in the Mêkông river delta: evidence of incised-valley filling in Holocene transgression, Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển, T8, số 1, 2008, tr. 24-34.
5. Engelhart S.E., Horton B.P., Roberts D. H., Bryant C. L., Corbett D. R.: Mangrove pollen of Indonesia and its suitability as a sea-level indicator, Marine Geology, 2007, vol. 242, p. 65-81.
6. Xem Maloney B.K.: Evidence for the younger dryas climatic event in Southeast Asia, Quaternary Science Reviews, 1995, vol. 14, p. 949-958.
7. Horton B.P., Gibbard P.L., Milne G.M., Morley R.J., Purintavaragul C., Stargardt J.M.: Holocene sea levels and palaeoenvironments, Malay-Thai Peninsula, Southeast Asia, The Holocene, 2005, vol. 15, issus 8, p. 1199-1213.
CHƯƠNG I: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN... 45
ngập mặn nói chung được hình thành trong những thời kỳ mực nước biển ít biến động1, không vượt quá 10 mm/năm2. Các trầm tích than bùn có nhiều tuổi khác nhau (5.800±180, 6.300±240, 5.200±350, 7.100±300 năm) trong vùng bờ lân cận3 cho thấy trong xu hướng mực nước biển dâng chung thì vẫn có lúc nó dừng tương đối ở địa điểm hay cao trình nào đó, tương ứng với các mốc thời gian này, ở ven bờ vịnh Thái Lan và biển Đông. Trên đây là bằng chứng cho thấy tốc độ nước biển dâng đã chậm dần và có những giai đoạn nhanh chậm khác nhau.
Ảnh hưởng gió - dòng chảy ven bờ đưa vật liệu thô, chủ yếu là cát, từ vùng núi đá ở dọc bờ phía Bắc, từ Vũng Tàu trở ra, và tạo nên nhiều dải cồn cát cổ. Tương ứng với mực nước biển dâng, các dải cồn cát này bị san bằng và các dải cồn cát trẻ hơn được hình thành ở vị trí cao hơn và xa hơn vào nội địa. Kết quả khảo sát gần đây cho thấy ở vùng thềm trong và rìa châu thổ sông Mékong, nền đáy biển nhiều nơi bị bóc mòn khá mạnh, không có dấu vết trầm tích từ khi biển tiến.
Trên thềm lục địa đang bị tràn ngập thì các rạn san hô cũng dần xuất hiện ở vùng nước trong xa bờ, quanh các đảo Côn Đảo, Phú Quốc, và chúng nâng cao dần theo mức nước.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu nêu trên, biển Đông đã là một biển nhiệt đới nông, kín được mở rộng dần trong quá trình mực nước biển dâng và vì vậy mà chế độ hải văn phát triển theo mùa cũng trở nên rõ nét hơn.
1. Blasco, F., P. Saenger, et al.: Mangroves as indicators of coastal change, Catena, 1996, vol. 27, p. 167-178.
2. Kiyoshi Fujimoto, Toyohiko Miyagi, Takao Kikuchi and Toshio Kawana: Mangrove habitat formation and response to Holocene sea-level changes on Korsrae Island, Micronesia, Mangroves and salt Marshes, 1996, vol.1, No 1, p. 47-57.
3. Niran Chaimanee, Sermsak Tiyapun, Phisit Dheeradilok: Correlation of Holocene sediments along the coastal plain of Thailand and peninsular Malaysia, Proceeding of meeting of IGCP -296.
46 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
Hình 11a: Hình thái đất liền ở khu vực Đông Nam Á tương ứng theo mực nước biển vào thời điểm 21 ngàn năm trước
Hình 11b: Hình thái đất liền ở khu vực Đông Nam Á tương ứng theo mực nước biển khoảng 4,2 ngàn năm trước
Nguồn: Verstappen, H. Th.: The effect of climatic change on southeast Asian geomorphology, Journal of Quaternary Science, 1997, vol. 12, issue 5, p.413-418.
CHƯƠNG I: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN... 47
Liên quan tới vật liệu trầm tích, nghiên cứu thành phần khoáng vật sét để xác định nguồn gốc vật liệu của Zhifei Liu và cộng sự1 cho thấy trầm tích trên thềm lục địa Nam biển Đông đều có nguồn gốc từ cao nguyên Tây Tạng và lưu vực sông Mékong đưa về. Tuy nhiên, trong những thời đoạn ngắn, khi mà trầm tích từ xa về có hạn chế, thì nguồn vật liệu gần (do tái trầm tích từ các lưu vực nhỏ kề cận) sẽ chiếm ưu thế trong lớp trầm tích2. Hoạt động nhân sinh trên lưu vực sông Mékong đã tạo nên “cảnh quan xói mòn - eroded landscape”3 cũng ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của châu thổ ở vùng cửa sông.
Sông Mékong có sức tải bùn cát khá cao, vì cường độ xói mòn trên lưu vực sông Mékong thuộc hàng khá lớn trong số các sông lớn trên thế giới, tới hơn 200 tấn/km2 (hình 12) và phần lớn vật liệu xói mòn này được lấy từ vùng trung và hạ lưu vực thuộc trung hạ Lào trở xuống.
Trong tổng lượng bùn cát trong một năm đổ vào biển Đông hiện nay vào khoảng 460 triệu tấn, thì có tới gần 1/2 là do phù sa sông Mékong đóng góp4; còn theo tính toán của Orton và Reading5 thì khối lượng này khoảng 160 triệu tấn/năm. So sánh các đặc điểm hình thái - động lực sông, Orton và Reading đã minh giải vật liệu bùn cát của sông Mékong thuộc nhóm vật liệu hạt mịn luôn chiếm ưu thế. Kết quả khoan sâu
1. Zhifei Liu, Colin C., Trentesaux A., Blamart D., Bassinot F., Siani G., Sicre M.A.: Erosional history of the eastern Tibetan Plateau since 190 kyr ago: clay mineralogical and geochemical investigations from the southwestern South China Sea, Marine Geology, 2004, vol. 209, p. 1-18.
2. Steinke T., Hanebuth T. J.J., Vogt C., Stattegger K.: Sea level induced variations in clay mineral composition in the southwestern South China Sea over the past 17,000 yr, Marine Geology, 2008, vol. 250, p. 199-210.
3. Dearing J. A.: Landscape change and resilience theory: a palaeoenvironmental assessment from Yunnan, SW China, The Holocene, 2008, vol. 18, p. 117-127. 4. Schönfed J., Dudrass H-R.: Hemipelagic sediment accumulation rates in the south China sea related to late quaternary sea-level changes, Quaternary research, 1993, vol. 40, p. 368-379.
5. Orton G.J., Reading H.G.: Variability of deltaic processes in term of sediment supply, whith particular emphasis on grain size, Sedimentology, 1993, vol. 40, p. 475-512.
48 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
trên đồng bằng cũng cho thấy các lớp trầm tích chủ yếu là hạt mịn: sét, sét - bột - cát trung. Điều này cho thấy sức tải lượng bùn cát của sông Mékong nói chung ít biến đổi theo thời gian, các khoáng vật sét chiếm ưu thế là hydromica, kaolinit và smectit.
Hình 12: Phân bố nguồn vật liệu xói mòn theo cao độ và diện tích tương ứng trên lưu vực sông Mékong và các sông lớn cùng bắt nguồn từ Tây Tạng
Nguồn: Lisitzin A. P.: Trầm tích hình thành trong các đại dương (ΟСАДКООБРАЗОВАНИЕ В ОКЕАНАХ), Nxb. Khoa học - Hayka, Hà Nội, 1974.
Vào khoảng 7 ngàn năm trước, mực nước biển đã ổn định ở gần so với mực nước hiện nay, và đường bờ biển đã lùi tới giới hạn thì tại vị trí châu thổ sông Mékong hiện nay là vùng nước khá nông, sâu trung bình chỉ khoảng 20 - 30 m (tuy có những thung lũng xâm thực sâu hơn 70 m1, nên châu thổ sông Mékong có điều kiện bồi lấn, mở rộng diện
1. Thi Kim Oanh Ta, Van Lap Nguyen, M. Tateishi, I. Kobayashi, Y. Saito: Sedimentary facies, diatom and foraminifer assemblages in a late Pleistocene - Holocene incised-valley sequence from the Mêkông river delta, Bentre Province, Southern Vietnam: the BT2 core, Journal of Asian Earth Sciences, 2001, vol. 20, Issue 1, p. 83-94.
CHƯƠNG I: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN... 49
tích nhanh hơn so với những châu thổ khác có nguồn tải bùn cát tương đương1.
Trên đây đã nêu khái quát điều kiện cơ bản để hình thành nên các châu thổ nói chung và ở Nam Bộ nói riêng. Đó là: thứ nhất, mực nước biển dâng chậm, hoặc tương đối ổn định như từ khoảng 8 ngàn năm trở lại đây; thứ hai, có nguồn bùn cát dồi dào do sông lớn đưa về (sông Mékong); thứ ba, có không gian trầm tích thuận lợi (thềm lục địa nông); thứ tư, có chế độ hải văn ven bờ tương đối ôn hòa.
Tuy nhiên, trên thực tế thì sông Mékong có lưu vực và lưu lượng lớn gấp hơn chục lần so với sông Đồng Nai nên lượng bùn cát cũng lớn gần tương ứng, vì vậy mà sự phát triển của châu thổ sông Mékong lấn át tích tụ trầm tích ở cửa sông Đồng Nai. Mỗi hệ thống sông sẽ tạo nên các châu thổ riêng biệt, nhưng trên thực tế, chúng ta chưa đủ dữ liệu để phân chia ranh giới rõ ràng ở phần ảnh hưởng triều của châu thổ sông Mékong và châu thổ của riêng sông Sài Gòn - Đồng Nai. Trong văn liệu địa chất gần nhất2 thì gộp toàn vùng này là đồng bằng Nam Bộ.
Từ Vũng Tàu trở ra, địa hình thềm lại khá dốc, các sông đều ngắn với lượng phù sa tương đối nhỏ nên không có điều kiện hình thành các châu thổ ở cửa sông. Đường bờ biển ở đây thì tương đối ổn định từ thời gian mực nước biển dâng cực đại cho đến nay, với các cồn cát cao tới vài chục mét tựa lên nền đá móng xuất lộ ở nhiều nơi như các mũi đất nhô ra biển. Dọc bờ biển khúc khuỷu đã hình thành nhiều dải cát như các mũi cát bao các mũi đá nhô ra biển và tạo nên các vịnh - đầm phá.
1. Orton G.J., Reading H.G.: Variability of deltaic processes in term of sediment supply, whith particular emphasis on grain size, Sedimentology, 1993, vol. 40, p. 475-512.
2. Xem Nguyễn Ngọc Hoa và cộng sự: Báo cáo thuyết minh đo vẽ địa chất và tìm kiếm khoáng sản nhóm tờ đồng bằng Nam Bộ, tỷ lệ 1/200.000. Lưu trữ tại Liên đoàn Bản đồ Địa chất miền Nam, 1990.
50 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
3. Châu thổ sông Mékong và sông Đồng Nai
Châu thổ sông Mékong là một trong mười châu thổ lớn trên thế giới và có diện tích hơn 49,1 ngàn km2 1. Thượng nguồn châu thổ sông Mékong, hay điểm khởi nguồn châu thổ, ở khoảng lân cận khu vực Phnom Penh2, cách bờ biển hiện tại (theo nhánh Bassac- sông Hậu) hơn 300 km.
Hình 13: Các dạng châu thổ theo tác động chi phối bởi các yếu tố: sông, sóng và thủy triều
1. Ericson J.P., Vörösmarty C.J., Dingman S.L., Ward L.G., Meybeck M.: Effective sea-level rise and deltas: Causes of change and human dimension implications, Global and Planetary Change, 2006, vol. 50, p. 63-82.
2. Gagliano S. M., McIntire W. G.: Reports on the Mêkông river delta, Technical Report No 57, Luisiana State University, 1968.
CHƯƠNG I: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN... 51
Theo phân loại ban đầu về châu thổ của Galloway1 và được Syvitski2 chi tiết hóa hơn (hình 13) thì châu thổ sông Mékong hiện nay thuộc dạng châu thổ hình thành dưới tác động hỗn hợp do sóng và thủy triều. Tạ Thị Kim Oanh và cộng sự3 thì cho rằng châu thổ sông Mékong đã chuyển từ dạng châu thổ ảnh hưởng thủy triều sang dạng châu thổ ảnh hưởng tác động hỗn hợp sóng và thủy triều vào thời gian cách ngày nay khoảng 3 ngàn năm. Tuy nhiên, chi tiết về sự chuyển tiếp hình thái phát triển mới của châu thổ sông Mékong vào thời điểm nào thì vẫn còn đang được tìm hiểu, vì đây là vấn đề phức tạp, bởi theo Schumm4 thì đổi hay tách dòng của sông đều liên quan tới nhiều yếu tố địa chất địa mạo sông, như: lòng dẫn, kích thước thung lũng, địa hình lưu vực, dòng chảy cổ theo thời gian thế kỷ tới thiên niên kỷ. Riêng châu thổ sông Đồng Nai thì ảnh hưởng của thủy triều rõ hơn với mạng lưới lạch triều đan xen dày đặc ở khu vực Cần Giờ và kéo dài hàng chục kilômét ngược lên thượng lưu. Cả hai vùng cửa sông của các sông này cùng đổ ra thềm lục địa nông và ở khá gần nhau, nên bùn cát từ hai sông đổ ra cùng hòa lẫn, cùng bồi đắp nên một châu thổ hầu như thống nhất.
Gagliano và McIntire5 khái quát các phần cấu tạo châu thổ sông Mékong và sông Đồng Nai theo như hình 14:
Theo hình 14, các phần cấu tạo châu thổ sông Mékong và sông Đồng Nai gồm:
- Thung lũng sông (alluvial valley);
1. Galloway W.E.: Process framework for describing the morphologic and stratigraphic evolution of deltaic depositional systems, in Deltas, 1975, p. 87-98, Houston Geological society, (ed) Broussard M.L.
2. Syvitski J.P.M.: Delta at risk, Sustain Sci, 2008, vol.3, p. 23-32.
3. Ta, T.K.O., et al.: Sediment facies and late Holocene progradation of the Mêkông river delta in Bentre province, southern Vietnam: an example of evolution from a tide-dominated to a tide- and wave-dominated delta, Sedimentary Geology 152 (3-4), 2002, p.313-325.
4. Schumm S.A.: Fluvial Geomorphology in river mechanics, In River Morphology, (ed) Schumm S.A., Dowden, Hutchinson & Ross, Inc. 5. Gagliano S. M., McIntire W. G.: Reports on The Mêkông River Delta, Technical Report, No 57, Luisiana State University, 1968.
52 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
Hình 14: Các phần cấu tạo châu thổ sông Mékong và sông Đồng Nai
Nguồn: Gagliano S.M., McIntire W.G.: Reports on the Mêkông river delta, Technical Report No 57, Luisiana State University, 1968.
- Đồng bằng châu thổ (deltaic plain):
+ Thượng lưu châu thổ (upper deltaic plain)
+ Hạ lưu châu thổ (lower deltaic plain)
+ Đồng bằng rìa và bồn rìa (marginal plain, marginal basin) + Châu thổ ngầm (subaqueous delta).
Sự phân chia này chưa thật sự chính xác, nhưng hệ thống phân chia có thể chấp nhận, nếu có chỉnh sửa, bổ sung thêm. Theo Kolb và Dornbusch1 thì phần lớn phần hạ lưu châu thổ trong sơ đồ của
1. Kolb C.R., Dornbusch W.K.: The Mississippi and Mêkông deltas - A comparison, in deltas, models for exploration, ed Mc Broussaid, Houston Geological Society, 1975, p. 193-207.
CHƯƠNG I: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN... 53
Gagliano và McIntire là một đồng bằng giồng cát (chenier plain). Trầm tích lắng đọng trên châu thổ này có thành phần chủ yếu là cát bột sét, dẻo mềm tới chảy nhão, độ ẩm cao. Bề dày lớp trầm tích châu thổ tăng dần từ phần thung lũng sông tới vùng thượng lưu châu thổ (khu vực Cần Thơ - Bến Tre - Mỹ Tho) từ trung bình dày vài mét tới có chỗ hơn 30 mét, và bề dày lại giảm tới vùng cửa sông và vát mỏng dần ở rìa châu thổ ngầm.
a) Sự hình thành châu thổ sông Mékong
Trên khu vực Biển Hồ ngày nay đã hình thành một số hồ nước ngọt từ hơn 5,5 ngàn năm trước nhưng chưa nối với sông Mékong1. Kết quả khảo sát đáy Biển Hồ2 lại cho thấy khối lượng vật liệu hạt thô tăng rất có ý nghĩa trong lớp trầm tích có tuổi ở khoảng 5 ngàn năm, có lẽ hoạt động gia tăng xâm thực - dòng chảy trong quá khứ đã xảy ra trong phạm vi hẹp ở đây (?) hay do lũ từ sông Mékong bắt đầu đổ vào vùng trũng này. Sông Mékong đã tạo nên một đồng bằng châu thổ thực thụ từ phía nam Phnôm Pênh (Campuchia) hiện nay từ khoảng 6,3 ngàn năm về trước3, khi mà mực nước biển đã dâng chậm dần và ở gần đỉnh4. Như vậy là sự lớn dần của châu thổ sông đã dần tạo nên một
1. Tsukawaki S, Sieng Sotham and members of Tonle Sap 21 programme. Formation of the Present Natural Environment on Lake Tonle Sap and the Lower Course of the Mêkông River System in Cambodia - Geological History of Cambodia during the last 20,000 years. Proceeding First International Symposium on Evaluation of Mechanisms Sustaining the biodiversity in Lake Tonle Sap, Cambodia, December, 2005.
2. Penny D., Cook G., Sok Saing Im: Long-term rates of sediment accumulation in the Tonle Sap, Cambodia: a threat to ecosystem health?, J. Paleolimnol, 2005, vol.33, p.95-103.
3. Tamura T., Saito Y., Sotham Sieng, Bunnarin Ben, Meng Kong, Im Sim, Sokuntheara Choup, Akiba F.: Initiation of the Mêkông river delta at 8 ka: evidence from the sedimentary succession in the Cambodian lowland, Quaternary Science Reviews, 2009, vol. 28, issues 3-4, p. 327-344.
4. Van Lap Nguyen, Thi Kim Oanh Ta, Yoshiki Saito: Early Holocene initiation of the Mêkông river delta, Vietnam, and the response to Holocene sea-level changes detected from DT1 core analyses, Sedimentary Geology, 2010, vol. 230, p. 146-155.
54 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
“nút chặn” dồn, hay gây dềnh nước đổ ngược vào vùng Biển Hồ. Châu thổ càng mở rộng thì vấn đề tiêu nước sẽ bị cản trở và kéo theo sự xuất hiện ngập lụt theo mùa.
Mực nước cao, sóng và thủy triều mạnh gây dồn nước sông Mékong vào vùng trũng tây Siêm Riệp, qua sông Tonle Sap, và Biển Hồ càng mở rộng. Các tài liệu nghiên cứu1 cho thấy hệ thống này đã hình thành cách ngày nay khoảng 5,3 ngàn năm. Từ đó, Biển Hồ trở thành một kho nước lớn tham gia điều tiết dòng chảy hạ lưu sông Mékong. Trong giai đoạn ban đầu, quy mô diện tích châu thổ còn nhỏ hẹp, mang hình thái chủ yếu là châu thổ ảnh hưởng thủy triều theo như định nghĩa phân loại châu thổ của Galloway2. Khác với một số châu thổ lớn khác, có sự đổi hướng các thùy châu thổ - ứng với các giai đoạn phát triển, như châu thổ sông Mississippi3, thì trục châu thổ sông Mékong - hướng các dòng chảy hầu như luôn giữ theo hướng tây bắc - đông nam, như trong các thời kỳ quá khứ trước đây4, có lẽ được quy định bởi không gian trầm tích theo xu hướng lún chìm chung của vùng trục châu thổ và hình thái lòng chảo của bề mặt đồng bằng aluvi cổ phát triển theo hướng này trong quá trình xâm thực trước biển tiến Holocen.
Cho tới giữa thời kỳ Holocen, khoảng 5 ngàn năm trước, thì ở phía nam Phnom Penh, ở cửa sông Mékong lúc đó mới là thùy châu thổ nhỏ.
1. - Carbonnel J.P: Le Quaternaire Cambodgien: Structure et stratigraphie, ORSTOM, 1972, 252p.
- Tsukawaki S., Sieng Sotham and members of Tonle Sap 21 programme. Formation of the Present Natural Environment on Lake Tonle Sap and the Lower Course of the Mêkông River System in Cambodia - Geological History of Cambodia during the last 20,000 years. Proceeding First International Symposium on Evaluation of Mechanisms Sustaining the biodiversity in Lake Tonle Sap, Cambodia, December, 2005.
2. Galloway W.E.: Process framework for describing the morphologic and stratigraphic evolution of deltaic depositional systems, in Deltas, 1975, p. 87-98, Houston Geological society, (ed) Broussard M.L.
3. Syvitski J.P.M.: Delta at risk, Sustain Sci, 2008, vol.3, p. 23-32
4. Morgan J.P.: Depositional processes in deltaic environment, Amer.Ass.Petrol. Geol., Bull, 1967, vol. 51, p.475.
CHƯƠNG I: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN... 55
Dưới ảnh hưởng của thủy triều châu thổ phát triển theo trục hai nhánh sông Mékong và Bassac. Tốc độ trầm tích không lớn1 cho thấy sự phát triển của châu thổ sông Mékong và tiến trình ngập lụt vào lúc đó còn khá khiêm tốn. Mực nước biển tương đối ổn định lúc đó đã thúc đẩy quá trình phát triển thùy châu thổ từ những cồn cửa sông cũng như là sự phân nhánh tạo nên dòng Mékong và dòng Bassac. Thùy châu thổ này tiếp tục lan tỏa dần vượt quá khu vực Châu Đốc, và có thể gần tới phạm vi thành phố Long Xuyên và qua thị trấn Hồng Ngự. Ở hai bên sườn châu thổ là vùng Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên lúc đó vẫn là vùng đất ngập nước ven biển với thảm rừng ngập mặn thống trị nên phấn hoa rừng ngập mặn chiếm ưu thế trong phổ phấn trong trầm tích đầm lầy mặn ở những nơi này2. Tại một vị trí khá sâu trong nội địa, dấu vết của rừng ngập mặn còn gặp trong lớp trầm tích ứng với thời gian từ 3.700 năm tới 1.500 năm trước tại Angkor Borei3 hay tại vị trí gần Châu Đốc4 ta cũng thấy phấn hoa rừng ngập mặn phân bố liên tục trong trầm tích Holocen và thậm chí cho tới lớp đất cách mặt đất dưới 0,3m.
1. Tamura T., Saito Y., Sieng S., Ben B., Kong M., Choup S., Tsukawaki S.: Depositional facies and radiocarbon ages of a drill core from the Mêkông River lowland near Phnom Penh, Cambodia: Evidence for tidal sedimentation at the time of Holocene maximum flooding, Journal of Asian Earth Sciences, 2007, vol. 29, issues 5-6, p. 585-592.
2. Hồ Chín (chủ biên): Phần Địa chất trầm tích Đệ tứ trong Dự án “Điều tra, đánh giá diễn biến sản xuất nông nghiệp - tài nguyên - môi trường sau 10 năm khai thác (1987-1998) để định hướng phát triển hiệu quả và bền vững kinh tế - xã hội vùng Tứ giác Long Xuyên”, Sđd.
- Hồ Chín (chủ biên): Phần Địa chất trầm tích Đệ tứ trong Dự án “Điều tra, đánh giá diễn biến tự nhiên - kinh tế - xã hội vùng Đồng Tháp Mười sau 10 năm khai thác (1985-1995)”, Sđd.
3. Bishop P., Penny D., Stark M., Scott M.: A 3.5 ka record of paleoenvironments and human occupation at Angkor Borei, Mêkông Delta, southern Cambodia, Geoarchaeology, 2003, vol. 18, issue 3, p. 359-393.
4. Nguyen Huu Chiem: Geo-pedological study of the Mêkông delta. Southeast Asian Studies, 1993, vol. 31, No 2, p.158-186.
56 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
Vào gần cuối thời kỳ Holocen giữa bắt đầu có những dấu hiệu biến đổi khí hậu khu vực kéo theo sự thay đổi hình thái phát triển châu thổ. Chế độ hải văn ven bờ với sóng hướng đông bắc ưu thế đã trở nên mạnh lên làm gia tăng cường độ xâm thực bờ, làm đường bờ thu lại vào nội địa và hình thành loạt giồng cát cổ ở Cai Lậy và Tân Hiệp (Tiền Giang) mà trong quá khứ cao hơn 4m. Theo mô tả của Fontaine1 thì ta có thể thấy là giồng cát ở Cai Lậy được hình thành trong điều kiện động lực biển khá mạnh. Sóng biển đã xâm thực nền đáy, lôi kéo các vật liệu là mảnh vụn thô của sinh vật biển sống bám đáy, như ốc và sinh vật sống ở vùng nước trong xa bờ như san hô, thậm chí có cả một ít cuội sỏi thạch anh có lẽ là của trầm tích đồng bằng aluvi cổ. Vật liệu này được sóng gió đôn lên thành giồng cát ven biển, và tuổi các tàn tích này khoảng 4.550±110 năm2. Dấu vết đường bờ biển lúc đó là sự nối tiếp các giồng Cai Lậy, Tân Hiệp. Liên kết với các kết quả khảo sát3 và tổng hợp được4 thì ta có thể rút ra nhận định là đường bờ biển cổ là đường bờ biển lùi đã bao lấy vùng đầm lầy mặn ở phía sau hiện là vùng trũng Đồng Tháp Mười. Ở gần với giồng Cai Lậy là giồng Nhị Quý, nhưng giồng cát này có lẽ đã hình thành ở giai đoạn muộn hơn khi hoạt động của sông Mékong thay đổi và sẽ được nêu ở dưới đây.
Còn một số tranh luận liên quan tới đường bờ biển cổ ở vùng Tứ giác Long Xuyên. Một số tác giả đoán định các ám tiêu vỏ sò ở gần núi Tróc có tuổi là 5.993±150 năm5 là dấu vết của đường bờ biển cổ. Tuy nhiên, khảo sát gần đây tại di chỉ Óc Eo gần đó thì có ý kiến khác cho là
1, 3. Fontaine H.: Trace d’ un ancient rivage marine à Cai-Lậy (Sud Viet Nam), Archives Géologiques du Vietnam, 1970, No 13.
2. Fontaine H., Delibrias.: Niveaux marins pendant le Quaternaire au Vietnam, Extrait des archives Géologiques du Vietnam, 1974, No 17.
4. Hồ Chín (chủ biên): Phần Địa chất trầm tích Đệ tứ trong Dự án “Điều tra, đánh giá diễn biến tự nhiên - kinh tế - xã hội vùng Đồng Tháp Mười sau 10 năm khai thác (1985-1995)”, Sđd.
5. Hoang Ngoc Ky: The quaternary geology of the Mêkông lower plain and islands in southern Vietnam, Proceeding of the workshop on correlation of quaternary succession in south, east and southeast Asia, (ed) Narong Thiramongkol, 1988.
CHƯƠNG I: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN... 57
các ám tiêu vỏ sò này có thể là một tích tụ nguồn gốc nhân sinh1. Nhưng có thể nói là bờ biển cổ đã có lúc nằm không xa vị trí này vì trầm tích đầm lầy mặn phát triển khá liên tục với nhiều vỉa than bùn của rừng ngập mặn cổ nằm lộ thiên ở khu vực đồng Hà Tiên. Do điều kiện trầm tích chậm nên đầm lầy mặn rất phát triển ở Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên và vì vậy mà ở đây các tầng đất phèn có bề dày tương đối lớn (>3m), khác biệt với đất phèn hình thành muộn hơn ở vùng ven biển hiện nay (có tốc độ trầm tích cao)2.
Tiếp sau giai đoạn đường bờ biển lùi tương đối ngắn tương ứng với sự hình thành các giồng cát đã nêu thì châu thổ sông Mékong phát triển từ dạng châu thổ ảnh hưởng thủy triều sang dạng châu thổ ảnh hưởng hỗn hợp sóng và triều vào khoảng cuối thời kỳ Holocen giữa (Q22-3)3. Nguồn vật liệu phù sa gia tăng từ khoảng 3 ngàn năm trước4 đã tạo điều kiện cho châu thổ sông Mékong lấn nhanh về phía biển, ở khoảng giữa Cần Thơ và Tiền Giang. Một phần bùn cát đưa ra cửa sông được dòng ven bờ đưa về phía nam bồi đắp dần phần Bắc của bán đảo Cà Mau. Theo tài liệu5 thì trầm tích rìa châu thổ đã có mặt ở đây từ khoảng
1. Lê Xuân Thuyên, Bùi Thị Luận: “Ám tiêu vỏ sò ở đồng bằng sông Cửu Long”, Báo cáo Hội nghị Địa chất - Tài nguyên - Môi trường Việt Nam, Liên đoàn Bản đồ Địa chất miền Nam.
2. Brinkman R., Nguyen Bao Ve, Tran Kim Tinh, Do Phuoc Hau, Van Mensvoot: Sulfidic materials in the western Mêkông delta, Vietnam, Catena, 1993, vol. 20, p. 317-331.
3. - Le Duc An: Stratigraphy and types of sedimentation of Holocene deposits in the Mêkông delta, Proceeding of Joint research Meeting on Delta in Vietnam, Hanoi, 12-14 January 2004.
- Ta T. K. O., Nguyen V. L., Tateishi M., Kobayashi I., Tanabe S., Saito Y.: Holocene delta evolution and sediment discharge of the Mêkông river, southern Vietnam, Quaternary Science Reviews, 2002, vol. 21, issues 16 - 17, p. 1807-1819.
4. Ta T. K. O., Nguyen V. L., Tateishi M., Kobayashi I., Tanabe S., Saito Y.: Holocene delta evolution and sediment discharge of the Mêkông river, southern Vietnam, Quaternary Science Reviews, 2002, vol. 21, issues 16 - 17, p. 1807-1819.
5. Nguyen Van Lap, Ta Thi Kim Oanh, Tateishi M., Kobayashi I., Umitsu M., Saito Y.: Late quaternary depositional sequences in the Mêkông river delta, Vietnam, http://www.megadelta.ecnu.edu.cn/main/upload/Text%20Lap%20(1).pdf.
58 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
4 ngàn năm trước tại vùng Gò Quao và gần thành phố Cà Mau hiện nay. Tốc độ lắng đọng trầm tích ở đây khá cao, tới vài mét trong một thế kỷ đã tạo nên nền ngập nước tương đối nông.
Nhìn chung, những biến động tăng/giảm hay phát triển có tính nhịp điệu của châu thổ ảnh hưởng sóng1 có thể tóm lược như sau: khi nguồn phù sa phong phú và chế độ hải văn động lực yếu thì hình thành các bãi triều lớn, vật liệu giảm thì hình thành các đầm lầy mặn; khi chế độ động lực biển mạnh lên và nguồn bùn cát giảm thì kéo theo sự xâm thực bờ và hình thành các giồng cát. Ở xa vùng cửa sông là vùng Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên thì ảnh hưởng môi trường biển vẫn còn chiếm ưu thế, vì vậy mà tàn tích thực vật rừng ngập mặn, phấn hoa của chúng vẫn chiếm tỷ lệ cao ngay trong các lớp trầm tích nông, ở gần mặt đất.
Tiếp theo từ đầu thời kỳ Holocen muộn, vật liệu phù sa trở nên phong phú hơn ở vùng nước ven bờ châu thổ. Độ đục tăng đã làm hạn chế sự phát triển của sinh vật đáy và có lẽ đây là lý do mà chưa tìm thấy trong các giồng cát quy mô nhỏ hơn, như trong giồng Nhị Quý2; tương tự ở giồng Nổi (thị xã Bến Tre) là giồng cát pha, chưa tìm thấy dấu vết sò ốc biển3. Vào lúc này, một lượng phù sa được tải theo dòng ven bờ về phía tây bồi đắp nên dải đất nhỏ hẹp dọc bờ từ Rạch Sỏi tới Hòn Đất bao lấy sườn phía nam đầm lầy mặn phía tây Tứ giác Long Xuyên. Lớp trầm tích mới này phủ lên lớp vỏ sò biển có tuổi 4,3 ngàn năm4.
1. Le Xuan Thuyen: La zone sud du delta du Mékong: sedimentation actuelle et evolution récente, Thèse de doctorat, Université de Bordeaux I, 1996, 224p. 2. Fontaine H.: Trace d`un ancient rivage marine à Cai-Lậy (Sud Viet Nam), Archives Géologiques du Vietnam, 1970, No 13.
3. Trần Anh Dũng, Lại Văn Tới, Vũ Thế Long, Phan Bình Nguyên: “Khai quật giồng Nổi (Bến Tre) lần thứ ba”, trong Những phát hiện mới về khảo cổ học, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006, tr.749-753.
4. Le Xuan Thuyen, Bui Thi Luan: Holocen development of the Mêkông river delta in the western margin, Proceeding international conference on Delta: Geological modeling and Management Ho Chi Minh city, 2005.
CHƯƠNG I: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN... 59
Trong những nhịp phát triển mở rộng châu thổ sông Mékong, có những khoảng dừng ngắn ở một số nơi, và đây là lúc hình thành các tầng đất cổ ở những nơi ít ngập hoặc địa hình nhô cao tương đối, như dấu vết lớp đất cổ này phát hiện ở gần Tân An có tuổi là 2.700±200 năm1. Tại di chỉ Óc Eo (Thoại Sơn), các lớp đất cổ có biểu hiện phong hóa yếu là nền bên dưới các tầng văn hóa Óc Eo2 cũng có tuổi vào khoảng thời gian này.
Sự phân chia hai nhánh sông chính ra các nhánh phụ (các cửa sông) đã diễn ra như thế nào trong tiến trình mở rộng châu thổ sông Mékong là câu hỏi có ý nghĩa liên quan tới sự phát triển của châu thổ và môi trường tự nhiên liên quan.
Khởi đầu khi hình thành châu thổ thì sông Mékong đã tách thành hai nhánh chính và qua thời gian nó đã tách nhập thành nhiều cửa đổ ra biển Đông. Trong giai đoạn cuối thời kỳ Holocen giữa, dòng vật liệu thô dồi dào đã tạo nên các cồn bãi cửa sông là các vỉa cát dày thuộc trầm tích bãi triều cửa sông mà ta thấy trong nhiều lỗ khoan do Liên đoàn Bản đồ Địa chất miền Nam khảo sát ở khu vực Sa Đéc, Vĩnh Long -
Chợ Lách. Trên nền đáy biển nông ở vùng tiền châu thổ với các lớp cát dày vốn kém ổn định thì dòng chảy sông dễ dàng đổi hướng hay phân nhánh trước những biến động thủy động lực ven bờ gia tăng. Những tác nhân thay đổi mạng dòng chảy sông trên một châu thổ được Douglas (2009)3 bàn luận chi tiết. Thực tế, sự khác biệt lớn về tốc độ trầm tích và
1. Fontaine H., Delibrias.: Niveaux marins pendant le Quaternaire au Vietnam, Extrait des archives Géologiques du Vietnam, 1974, No 17.
2. - Mission Archeologie du delta du Mekong, Rapport d’activites 1997- 2000, EFEO.
- Mission Archeologie du delta du Mekong, Rapport preliminaire Campagne 2002, EFEO.
3. Douglas J.J.: Conceptual framework for assessing the response of delta channel networks to Holocene sea level rise, Quaternary Science Reviews (in press), 2009, vol. 28, issues 17-18, p.1786-1800.
60 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
vật liệu qua tài liệu khoan từ bắc Sa Đéc tới Vĩnh Long và Trà Cú1 cho thấy những biến động trầm tích - địa mạo ở đây có lẽ liên quan tới các cồn cửa sông hình thành lúc bấy giờ ở quanh khu vực giữa thành phố Cần Thơ - Vĩnh Long, theo đó, ta có thể suy đoán sự phân nhánh dòng chảy Bassac và Mékong thành các cửa đổ ra biển đã bắt đầu từ giai đoạn 3.800 - 3.500 năm trước. Cũng từ sau thời điểm này đã bắt đầu hình thành vùng đồng bằng giồng cát ven biển kéo dài từ Gò Công tới Bạc Liêu ngày nay.
Tuy nhiên, sự phát triển các nhánh sông, cửa sông theo hướng đông, đông - nam, chỉ giới hạn trong khoảng giữa trục Cửa Tiểu ở phía bắc và trục sông Hậu - cửa Tranh Đề ở phía nam, trong phạm vi thung lũng xâm thực cổ đã nêu ở trên.
Thực tế là chế độ dòng chảy sông Mékong đã biến đổi theo hướng trở nên mạnh hơn bởi nguồn mưa trong lưu vực tăng lên, như đã nêu, từ nửa sau thiên niên kỷ trước công nguyên. Đã xuất hiện những chu kỳ lũ lụt lớn và gây tràn bờ, và kể cả làm thay đổi hình thái dòng chảy. Khi lưu lượng dòng chảy tăng thì lượng bùn cát tải về vùng cửa sông cũng tăng lên, gây bồi tụ, cản trở dòng chảy tiêu thoát và hậu quả là quy mô ngập lụt tăng cũng như thúc đẩy khuynh hướng đổi dòng (đóng lại hay mở thêm cửa sông mới). Khuynh hướng tách dòng thời gian gần đây đã giảm dần do sự điều tiết động lực dòng chảy trong hệ thống sông - hồ - đồng lũ trên châu thổ trong bối cảnh dao động mực nước biển không đáng kể trong thời kỳ Holocen muộn.
Khi lưu lượng dòng chảy tăng kéo theo gia tăng năng lượng dòng chảy. Trong trường hợp lòng dẫn có dạng uốn khúc, thì lúc đó nó sẽ
1. - Nguyen Van Lap, Ta Thi Kim Oanh, Tateishi M., Kobayashi I., Umitsu M., Saito Y.: Late quaternary depositional sequences in the Mekong river delta, Vietnam, in: Chen, Z.Y., Saito, Y., Goodbred, S.L.J. (Eds): Mega - Deltas of Asia, China Ocean Press, Beijing, 2005, pp.121-127.
- Ta T. K. O., Nguyen V. L., Tateishi M., Kobayashi I., Tanabe S., Saito Y.: Holocene delta evolution and sediment discharge of the Mekong river, southern Vietnam, Quaternary Science Reviews, 2002, vol. 21, issues 16 - 17, p. 1807-1819.
CHƯƠNG I: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN... 61
bị nắn lại (cướp dòng) trở nên thẳng hay dạng dải và để lại dấu vết là những hồ móng ngựa và đê sông cổ dạng vòng cung rất phổ biến trên đoạn từ Phnom Penh tới Châu Đốc và Tân Châu.
Năng lượng dòng chảy được thể hiện qua công thức tổng quát sau đây1:
Ω = γQs, trong đó Ω là năng lượng dòng chảy, γ là khối lượng riêng của nước, Q là lưu lượng dòng chảy, s là độ dốc mực nước. Trên châu thổ, khi độ dốc không lớn, thì sự gia tăng lưu lượng là tác nhân chính gây hiện tượng nước lũ dâng tràn bờ và kiểm soát quy mô, độ sâu ngập và thời gian ngập. Quá trình này tập trung ở phần thượng châu thổ, và dọc theo bờ sông rạch thì ta cũng gặp các lớp trầm tích đê sông2 vốn hình thành trong quá trình lũ tràn bờ. Trầm tích đê sông này có khuynh hướng dày hơn ở thượng châu thổ3.
Nhưng khi xuôi về cửa sông thì ảnh hưởng của thủy triều đã lấn át hoàn toàn vai trò dòng chảy sông. Vì vậy, ta không còn thấy rõ các lớp trầm tích đê sông dọc bờ mà ta gặp các cù lao dạng thuôn dài rất đặc trưng của vùng ảnh hưởng thủy triều. Ra ngoài cửa sông thì đầu dưới các cù lao thường có dạng trùy mở theo phương đường bờ biển do còn chịu ảnh hưởng của trường sóng ven bờ.
1. Knighton D.: Fluvial forms and processes: a new perspective, Arnold publisher, 1998.
2. - Hồ Chín (chủ biên): Phần Địa chất trầm tích Đệ tứ trong Dự án “Điều tra, đánh giá diễn biến sản xuất nông nghiệp - tài nguyên - môi trường sau 10 năm khai thác (1987-1998) để định hướng phát triển hiệu quả và bền vững kinh tế - xã hội vùng Tứ giác Long Xuyên”, Sđd.
- Hồ Chín (chủ biên): Phần Địa chất trầm tích Đệ tứ trong Dự án “Điều tra, đánh giá diễn biến tự nhiên - kinh tế - xã hội vùng Đồng Tháp Mười sau 10 năm khai thác (1985-1995), Sđd.
3. Tamura T., Saito Y., Sotham Sieng, Bunnarin Ben, Meng Kong, Im Sim, Sokuntheara Choup, Akiba F.: Initiation of the Mêkông river delta at 8 ka: evidence from the sedimentary succession in the Cambodian lowland, Quaternary Science Reviews, 2009, vol. 28, issues 3-4, p. 327-344.
62 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
b) Châu thổ sông Mékong thời kỳ Holocen muộn
Diễn biến mực nước tương đối ổn định trong thời kỳ Holocen muộn tạo điều kiện cho châu thổ phát triển nhanh theo phương ngang. Chế độ thủy triều biển Đông thuận lợi cho việc rút nước ra phía đông, đồng thời tải bùn cát của sông Mékong tăng lên đã góp phần làm châu thổ phát triển rất nhanh về hướng đông. Tới khoảng đầu công nguyên thì đường bờ biển đã vượt quá khu vực thành phố Cần Thơ, thành phố Mỹ Tho. Điều này được minh chứng bởi các di chỉ văn hóa Óc Eo được phát hiện ở Minh Thành (Cần Thơ), giồng Nổi (Bến Tre), và vỏ ốc biển trong giồng cát Trà Vinh có tuổi là 2.500±70 năm1. Tới khoảng thế kỷ XII-XIII thì bờ biển đã tiến tới vị trí gần đường bờ hiện tại và ở đây ta gặp nhiều di chỉ thuộc nền văn hóa hậu Óc Eo và Angkor dọc theo đới này, như Bãi Xàu (Sóc Trăng), Trà Cú (Trà Vinh) tới cửa sông Soài Rạp2. Sông Mékong đã chảy ra nhiều cửa, tuy số lượng thì ta vẫn chưa rõ, nhưng chỉ với mô tả của Châu Đạt Quan3 vào thế kỷ XIII thì thấy có rất nhiều cửa sông. Cửa sông mở mới hay đóng lại có thể diễn ra rất nhanh, như thực tế trong hơn một thế kỷ qua thì số cửa sông đã giảm đi không còn chín cửa như trong lịch sử đã nêu. Qua mô tả của Châu Đạt Quan4 vì có nhiều bãi cạn nên thuyền chỉ có thể đi vào cửa thứ tư. Như vậy có thể do luồng lạch biến đổi nhanh theo chế độ mùa như hiện tại chúng ta đang chứng kiến chăng?
Ở vùng ven biển, kéo dài từ Gò Công qua Giồng Trôm, Trà Vinh, Sóc Trăng tới Bạc Liêu là đồng bằng giồng cát ven biển, có địa hình tương đối cao hơn so với vùng đồng lũ nội địa (Đồng Tháp Mười và Tứ
1. Nguyễn Ngọc Hoa và cộng sự: Báo cáo thuyết minh đo vẽ địa chất và tìm kiếm khoáng sản nhóm tờ đồng bằng Nam Bộ, tỷ lệ 1/200.000, 1990. Lưu trữ tại Liên đoàn Bản đồ Địa chất miền Nam.
2. Bùi Phát Diệm, Đào Linh Côn, Vương Thu Hồng: Khảo cổ học Long An: những thế kỷ đầu Công nguyên, Bảo tàng Long An, 2001.
3. Xem Châu Đạt Quan: Chân Lạp phong thổ ký, Nxb. Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2007.
4. Châu Đạt Quan: Chân Lạp phong thổ ký, Sđd.
CHƯƠNG I: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN... 63
giác Long Xuyên). Sự hình thành đồng bằng mới này đã làm cho khả năng tràn thoát nước lũ trên châu thổ ra biển bị giảm đi và dẫn đến mở rộng quá trình ngập lũ (thời gian và độ sâu ngập) trên hai vùng đồng lũ đã nêu. Cũng trên hai đồng lũ này, từ vật liệu rửa trôi từ các gò sót, thềm phù sa cổ đã hình thành các yếm tích tụ viền quanh chân sườn các gò sót này và được mô tả là lũ tích (proluvi có tuổi Q2)1. Mạng lưới lạch triều góp phần tiêu nước từ hai đồng lũ này ra biển. Ở Đồng Tháp Mười có lạch triều lớn vẫn còn hoạt động mạnh là sông Vàm Cỏ.
Ở vùng Tứ giác Long Xuyên, các lạch triều này có thể đã len lỏi tới tận phía bắc Châu Đốc, và đưa nước mặn theo mùa tới đây. Vì thế ở đây còn có phấn hoa rừng ngập mặn trong trầm tích ở cách mặt đất khá nông2 và trong tầng trầm tích có tuổi cách nay chỉ khoảng 1,5 ngàn năm tại Angkor Borei3. Trên cánh đồng Hà Tiên còn gặp lớp than bùn lộ thiên phủ trực tiếp lên lớp trầm tích cổ (Pleistocen). Đây là những bằng chứng cho thấy từ giai đoạn nước biển dâng cao trong Holocen giữa cho tới ngày nay thì vùng phía tây Tứ giác Long Xuyên đã luôn là một vùng đầm lầy rừng ngập mặn rộng lớn và mới chuyển sang được ngọt hóa gần đây.
Đáng lưu ý trong giai đoạn này là sự hình thành đồng bằng giồng cát ven biển gồm trật tự là các phẳng giữa giồng, hay đầm lầy mặn bao quanh các giồng cát hình cánh cung kéo dài chạy song song với hướng
1. - Hồ Chín (chủ biên): Phần Địa chất trầm tích Đệ tứ trong Dự án “Điều tra, đánh giá diễn biến sản xuất nông nghiệp - tài nguyên - môi trường sau 10 năm khai thác (1987-1998) để định hướng phát triển hiệu quả và bền vững kinh tế - xã hội vùng Tứ giác Long Xuyên”, Sđd.
- Hồ Chín (chủ biên): Phần Địa chất trầm tích Đệ tứ trong Dự án “Điều tra, đánh giá diễn biến tự nhiên - kinh tế - xã hội vùng Đồng Tháp Mười sau 10 năm khai thác (1985-1995)”, Sđd.
2. Nguyen Huu Chiem: Geo-pedological study of the Mêkông delta, Southeast Asian Studies, 1993, vol. 31, No 2, p.158-186.
3. Bishop P., Penny D., Stark M., Scott M.: A 3.5 ka record of paleoenvironments and human occupation at Angkor Borei, Mêkông Delta, southern Cambodia, Geoarchaeology, 2003, vol. 18, issue 3, p. 359-393.
64 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
bờ biển. Trật tự này phản ánh sự phát triển vùng hạ lưu châu thổ được điều tiết bởi những chu kỳ hoạt động mạnh - yếu của chế độ hải văn ven bờ. Các giồng cát kéo dài xuôi về hướng tây nam còn thể hiện hoạt động lấn át của động lực sóng và dòng chảy ven bờ, dâng nước vào mùa gió mùa đông bắc so với mùa gió mùa tây nam. Đây là cơ chế chung của quá trình thành tạo nên các đồng bằng giồng cát1.
Ở phía tây nam châu thổ, vùng bán đảo Cà Mau lúc ban đầu vẫn còn nhỏ hẹp thì đã mở rộng rất nhanh. Thảm rừng ngập nước ở U Minh hay Năm Căn thì mới hình thành chưa tới 1 ngàn năm, với đáy than bùn dưới rừng U Minh có tuổi là 902 ± 64 năm2, và nền đất ở độ sâu 0,7 mét tại Năm Căn có tuổi là 500 năm3. Đồng bằng giồng cát ở vùng cửa sông Cửu Long lấn liên tục ra phía biển cũng tác động thay đổi tới chế độ triều ở vùng nước nông ven bờ, làm sự lệch pha giữa chế độ bán nhật triều ở bờ phía đông và nhật triều ở phía vịnh Thái Lan càng trở nên rõ nét hơn. Sự lệch pha này nghiêng về ưu thế của triều biển Đông, cùng các hoạt động gió mùa đã hình thành nên dòng tổng hợp đẩy bùn cát khi thoát ra khỏi các cửa sông Cửu Long lại được tiếp tục di đẩy dọc bờ về hướng tây nam. Nhờ vậy mà bán đảo Cà Mau được mở rộng về phía tây nam cũng như bồi đắp cao dần lên4. Diễn biến dòng di đẩy ven bờ có quan hệ mật thiết với những nhịp điệu phát triển của đồng bằng giồng cát như đã nêu ở trên. Nhìn chung, tốc độ lấn biển ở bán đảo Cà Mau khá nhanh từ khoảng 2,5 ngàn năm trước tới nay, và những gờ nâng
1. Otvos E.G.: Beach ridges - definition and significance, Geomorphology, 2000, vol. 32, issues 1-2, p. 83-108.
2. Hoang Ngoc Ky: The quaternary geology of the Mêkông lower plain and islands in southern Vietnam, Proceeding of the workshop on correlation of quaternary succession in south, east and southeast Asia, (ed) Narong Thiramongkol, 1988.
3. Phan Nguyên Hồng và Lê Đức An (chủ biên): Bước đầu nghiên cứu đặc điểm môi trường và vấn đề sử dụng bãi bồi ven biển huyện Ngọc Hiển - Minh Hải, Ủy ban Khoa học nhà nước, Hà Nội, 1992.
4. Le Xuan Thuyen: La zone sud du delta du Mékong: sedimentation actuelle et evolution récente, Thèse de doctorat, Université de Bordeaux I, 1996, 224p.
CHƯƠNG I: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN... 65
như ở Thới Bình hình thành khoảng 1,3 ngàn năm trước thì liên quan tới những giai đoạn có nguồn vật liệu bùn cát gia tăng lên1. Dọc bờ vịnh Thái Lan, sự bồi lấn biển có tính chu kỳ được thể hiện là sự xen kẹp các đồng bằng thủy triều với các trũng là vịnh hay đầm lầy mặn được ngọt hóa dần. Điển hình là các trũng U Minh Thượng và U Minh Hạ mà trầm tích lót đáy có tuổi là 902 năm2, và tương ứng với thời gian khép kín trũng lầy nội địa này3. Trong giai đoạn này, những biến động khí hậu khô hạn ngắn hạn đã để lại dấu vết là tích tụ tinh thể thạch cao khá lớn trong tầng đất phèn ở một số nơi tại Thới Bình (Cà Mau). Dọc bờ biển, ứng với những giai đoạn được cung cấp nhiều bùn cát thì sẽ hình thành những gờ, dải bùn sét bao lấy các trũng lầy nội địa. Do trầm tích nhanh nên trên những dải gờ, dải bùn sét này hình thành loại đất phù sa mặn, không chứa vật liệu sinh phèn4. Do mực nước biển ít biến đổi và châu thổ phát triển nhanh theo phương ngang nên trên vùng ven rìa châu thổ chỉ hình thành các trũng ngập nông, và tại đây sẽ chỉ hình thành đất phèn có tầng vật liệu sinh phèn tương đối mỏng5.
Từ những dẫn liệu nêu trên, ta thấy rằng, sự ưu thế của gió mùa đông bắc trước gió mùa tây nam đã góp phần làm cho châu thổ mở rộng
1, 3. Le Xuan Thuyen: La zone sud du delta du Mékong: sedimentation actuelle et evolution récente, Thèse de doctorat, Université de Bordeaux I, 1996, 224p. 2. Hoang Ngoc Ky: The quaternary geology of the Mêkông lower plain and islands in southern Vietnam, Proceeding of the workshop on correlation of quaternary succession in south, east and southeast Asia, (ed) Narong Thiramongkol, 1988. 4. - Dent D.L., Pons L.J.: A world perspective on acide sulphate soils, Geoderma, 1995, vol. 67. p. 263-276.
- Nguyen Bao Ve: Soil map of Trans Bassac area, Vietnam soil survey, University of Can Tho and Wageningen Agricultural University, 1990. 5. - Brinkman R., Nguyen Bao Ve, Tran Kim Tinh, Do Phuoc Hau, Van Mensvoot: Sulfidic materials in the western Mêkông delta, Vietnam, Catena, 1993, vol. 20, p. 317-331.
- Nguyen Huu Chiem: Geo-pedological study of the Mêkông delta, Southeast Asian Studies, 1993, vol. 31, No 2, p.158-186.
66 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
nhanh về phía tây nam, tạo nên vùng bán đảo Cà Mau ngày nay. Đây là vùng đất trẻ hình thành muộn hơn 2 ngàn năm1 nên cũng phù hợp với sự thiếu vắng các di chỉ khảo cổ thuộc văn hóa Phù Nam và tiền Angkor ở đây.
Ngập lụt là đặc trưng quan trọng ở đồng bằng Nam Bộ. Khi châu thổ càng mở rộng thì khả năng tiêu thoát nước ra biển vào mùa lũ cũng giảm đi do đường tiêu nước càng dài thêm và cộng thêm ảnh hưởng của thủy triều. Đồng thời, sự hình thành đồng bằng giồng cát ven biển có địa hình tương đối cao cũng cản trở dòng chảy tràn, hậu quả là gây dồn ứ nước vào mùa lũ và gia tăng quá trình ngập lũ về thời gian và độ sâu ngập. Những lý do này đã gây nên hiện tượng nước sông dâng tràn bờ vào mùa lũ và xuất hiện vùng đồng ngập lũ theo mùa ở phần trung và kéo dài qua thượng châu thổ.
Người cổ Phù Nam sống trên nhà sàn ở nhiều nơi trong vùng Đồng Tháp Mười2 và họ di trú lên vùng đất cao hơn sau này đã phản ánh phần nào tình hình ngập lụt gia tăng trên vùng Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên từ khoảng hơn 2 ngàn năm trước. Quá trình lún tự nhiên do biến dạng dẻo (subsidence) của nền châu thổ mềm yếu cũng góp phần mở rộng hay duy trì đồng ngập lũ trên châu thổ.
Ở phía bắc Châu Đốc, đồng ngập lũ đã hiện diện ở đây từ hơn 4,5 ngàn năm trước và kéo dài cho tới phía nam thành phố Phnom Penh. Nhưng tốc độ trầm tích trên đồng lũ này chỉ thực sự tăng lên đáng kể vào thời gian muộn hơn, từ khoảng 2 ngàn năm trước, cho thấy tính chất ngập lụt đã thực sự gia tăng ở phần thượng lưu châu thổ từ khoảng thời gian này cho tới ngày nay và phạm vi ngập lụt cũng đã có khuynh hướng mở rộng từ thượng nguồn về hạ nguồn.
1. Le Xuan Thuyen: La zone sud du delta du Mékong: sedimentation actuelle et evolution récente, Thèse de doctorat, Université de Bordeaux I, 1996, 224p. 2. Bùi Phát Diệm, Đào Linh Côn, Vương Thu Hồng: Khảo cổ học Long An: những thế kỷ đầu Công nguyên, Bảo tàng Long An, 2001.
CHƯƠNG I: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN... 67
c) Quá trình phát triển đường bờ trong giai đoạn hiện đại Trước đây, nhiều ý kiến cho rằng tốc độ lấn biển ở đồng bằng sông Cửu Long là rất cao. Nhưng nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy nhiều vùng bờ biển phía đông châu thổ đang ở trong tình trạng bị xâm thực1, nhiều nơi là rất mạnh với tốc độ tới 50 mét/năm, và có tới vài ngàn mét trong hơn một thế kỷ qua. Chỉ có khu vực nhỏ quanh mũi Cà Mau thì đang tiếp tục bồi lấn ra biển, nhưng đây là vấn đề cục bộ do nguồn vật liệu bị bào xói ở phần bờ phía đông gần đó đưa tới2. Đường bờ phía đông châu thổ, đoạn từ Vũng Tàu tới mũi Cà Mau là khá biến động, xen kẽ tình trạng bồi tụ và xói lở theo mùa. Từ mũi Cà Mau tới Rạch Giá, có khuynh hướng bồi tụ chậm. Đoạn bờ từ Rạch Giá tới Hà Tiên là tương đối ổn định từ khoảng 2 ngàn năm qua.
Khu vực cửa sông Sài Gòn - Đồng Nai vào thời kỳ này cũng phát triển nhanh, nhưng vẫn là châu thổ ảnh hưởng thủy triều. Khu vực Cần Giờ đã tiến xa ra biển so với vùng bờ hiện nay, nhưng dải cồn cát Long Hòa - Cần Thạnh được hình thành vào thời gian gần đây (hơn một ngàn năm) do chế độ động lực biển gia tăng làm đường bờ biển đang lùi cục bộ, và quá trình bồi tụ nhiều hơn ở phần trong nội địa, sau đường bờ thì lại làm các cửa sông hẹp lại3.
Biển xâm thực, bờ biển bị lùi dần đang diễn ra với quy mô lớn trong hiện tại và tương lai, ở dọc bờ biển từ mũi Cà Mau trở ra bờ biển miền Trung Việt Nam với những trọng điểm, như: Lộc An (Bà Rịa), Cần Giờ (Thành phố Hồ Chí Minh), Gò Công Đông (Tiền Giang), Duyên Hải
1. Nguyễn Địch Dỹ (Chủ biên): Báo cáo Đề tài KC 09.06/06-10, 2010. 2. Lê Xuân Thuyên (Chủ biên): Điều tra tiềm năng và đề xuất phương hướng khai thác bền vững các nguồn tài nguyên vùng cửa sông và ven biển huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau, Lưu trữ tại Sở Khoa học công nghệ tỉnh Cà Mau, 2008. 3. - Lê Xuân Thuyên, Schwarzer K., Bùi Thị Luận, Richlefs K.: Quá trình phát triển trầm tích trong rừng ngập mặn Cần Giờ, Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006, t.XXII, No 2A, tr.107-124.
68 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
(Trà Vinh), Đông Hải (Bạc Liêu) và Ngọc Hiển - Đầm Dơi (Cà Mau). Tình trạng xen kẽ giữa bồi tụ và xói mòn theo mùa, theo khu vực là kết quả tương tác của nhiều quá trình, với nguyên nhân rất phức tạp, từ phạm vi rộng trên lưu vực sông với sự thay đổi lượng bùn cát về hạ lưu, tới chế độ thủy thạch động lực ven bờ liên quan tới chế độ gió mùa, hay hiện tượng ENZO và cả biến dạng lún trong trầm tích tại từng vị trí cụ thể, cho tới những tác động của con người trên đới bờ.
4. Các thành tạo địa chất
Các thành tạo địa chất chính ở Nam Bộ và khu vực kề cận được thể hiện trên hình 15 với chú dẫn theo EAsia CCOP 1: Ký hiệu chữ trước gạch nối là tuổi địa chất, ký hiệu sau gạch nối là tướng đá.
Hình 15: Các thành tạo địa chất trong khu vực nghiên cứu (Ẩn dưới các đơn vị địa chất là hình nền từ ảnh vệ tinh MODIS)
1. Đây là kết quả trích lục từ website: http://portal.onegeology.org.
CHƯƠNG I: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN... 69
Qua hình 15 ta thấy các đá cổ (thuộc giới Paleozoi và Mezozoi) phân bố thành hai cụm, một cụm ở phía đông, đông bắc và cụm còn lại ở phía tây nam.
Các thành tạo đá trầm tích bở rời thuộc kỳ Đệ tứ (Q_S), chiếm diện tích lớn và tập trung ở vùng giữa hai cụm đá gốc nói trên, và chúng phân bố dọc theo trục sông Mékong, ở trên trũng Biển Hồ và châu thổ sông Mékong. Các đá trầm tích bở rời tuổi Neogen - Đệ tứ thì phổ biến trên bề mặt các bồn trũng giữa núi ở miền Đông Nam Bộ và đông bắc Campuchia. Các trầm tích này chìm sâu phía dưới châu thổ sông Mékong và bị lớp trầm tích Đệ tứ (trẻ hơn) phủ lên trên.
Theo đặc điểm và phân bố các thành tạo địa chất và kết quả tìm kiếm, thăm dò thì vùng Nam Bộ không giàu mỏ khoáng sản kim loại, nhưng lại giàu khoáng sản phi kim và vật liệu xây dựng (chủ yếu là cát, sét, đá ong), than bùn. Tuy nhiên, người cổ đã sử dụng nguồn nguyên liệu sắt chất lượng thấp tích tụ ngay trong vỏ phong hóa, hay còn gọi là đá ong. Nguồn này hiện không xếp vào khoáng sản luyện kim nhưng lại rất dồi dào từ thềm phong hóa cổ ở miền Đông Nam Bộ. Đây là sắt tích tụ ngoại sinh dưới dạng hydroxyt - trong vỏ laterit trong quá trình phong hóa thấm đọng dưới những biến đổi về khí hậu ở vùng nhiệt đới1.
5. Các dạng địa mạo
Như trên đã nêu, trong thời gian địa chất tương đối ngắn, từ cuối Pleistocen tới nay, thì địa mạo vùng Nam Bộ đã có rất nhiều biến đổi. Đồng thời, hoạt động của con người ở đây và xa hơn là trên cả lưu vực
1. Tardy Y.: Petrologie des latérites et des sols tropicaux, Masson, 1993, 459p.
70 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
sông Mékong1 đã có những tác động nhất định lên bề mặt đất2. Điều này thấy rõ khi ta so sánh những mô tả của Trương Vĩnh Ký3 về cảnh vật Sài Gòn xưa với những gì ta được thấy hiện nay.
Khái quát địa mạo khu vực Nam Bộ (hình 16) được tổng hợp từ nhiều kết quả nghiên cứu, với những dạng địa mạo và các quá trình động lực chính đang tiếp diễn. Theo đó, Đông Nam Bộ là miền địa hình tương đối cổ, có khuynh hướng nâng với các bậc thềm cổ +20m, +40m, +100m là sản phẩm quá trình san bằng bởi các quá trình ngoại sinh (pediplain, xâm thực cắt sườn), và đồi núi thấp tạo bởi các khối uốn nếp của nền đá cổ (đá biến chất và xâm nhập), các trùm phủ bazan rộng lớn lấp đầy các thung lũng giữa khối đá cổ đã nêu. Trên các thung lũng nhỏ giữa miền địa hình này là các vùng đất ngập nước nhỏ. Ven biển là dải đồng bằng hẹp tạo bởi các cồn, đụn cát có tuổi khác nhau và các vùng đầm lầy nhỏ do các vịnh biển được bồi lấp bởi vật liệu bùn cát từ các sông suối. Dọc đường bờ biển còn có các mũi đá nhô ra biển, bãi cát biển và các vịnh hẹp cùng các đầm phá nhỏ.
Miền Tây Nam Bộ là đồng bằng châu thổ trẻ, phát triển nhanh, có địa hình khá bằng phẳng và thấp dưới 10 mét, được bồi đắp nên bởi phù sa sông Mékong và sông Sài Gòn - Đồng Nai từ 7 ngàn năm trở lại đây. Miền này có khuynh hướng lún chìm do quá trình tách dãn nền móng đá cổ và do lún bởi chính lớp trầm tích trẻ trong quá trình cố kết. Ở phần phía tây bắc, từ cụm Bảy Núi và dải thềm cổ dọc kênh Vĩnh Tế trở
1. - Dearing J. A., Jones R.T., Shen J., Yang X., Boyle J.F., Foster G.C., Crook D.S., Elvin M.J.D.: Using multiple archives to understanding past and present climate - human - environment interactions: the lake Erhai catchment, Yunnan province, China. J. paleolimnology, 2008, vol. 40, p. 3-31.
- McGrath R. J., Boyd W. E., and Bush R. T.: The Paleohydrological Context of the Iron Age Floodplain Sites of the Mun River Valley, Northeast Thailand, Geoarchaeology, 2008, vol. 23, No. 1, p. 151-172.
- Mission Archeologie du delta du Mêkông, Rapport d’activites 1997-2000, EFEO. 2. Syvitski J.P.M.: Delta at risk, Sustain Sci, 2008, vol.3, p. 23-32.
3. Truong Vinh Ky: Souvenirs historiques sur Saigon et ses environs, ấn bản năm 1885, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh tái bản năm 1997.
CHƯƠNG I: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN... 71
Hình 16: Địa mạo khu vực Nam Bộ và vùng lân cận
lên phía bắc, tới phía tây thành phố Phnom Penh, là sườn phía tây của châu thổ sông Mékong. Từ đây, địa hình nâng cao dần nối kết với đới nâng theo dải núi Cardamon.
Nhờ có nguồn bùn cát lớn mà châu thổ sông Mékong phát triển lấn át châu thổ sông Sài Gòn - Đồng Nai. Tuy nhiên, ranh giới tự nhiên phân chia hai châu thổ này vẫn chưa được làm rõ. Do nằm khuất sau mũi đá Vũng Tàu, nên ảnh hưởng sóng biển theo gió mùa có bị hạn chế và vì vậy mà châu thổ của sông Sài Gòn - Đồng Nai vẫn còn có dạng chịu ảnh hưởng chi phối của thủy triều. Mạng lưới lạch triều ở đây rất dày đặc, chia cắt vùng đầm lầy rừng ngập mặn rất rộng lớn. Phần thượng châu thổ sông Mékong đặc trưng là đồng lũ cùng đê tự nhiên và cồn bãi lòng sông. Địa hình nghiêng dần từ khoảng 7 đến 8 mét ở phía bắc (từ Phnom Penh) còn 0,5 đến 0 mét ở rìa phía nam (Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên, tây nam sông Hậu).
72 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
Ở phần hạ châu thổ có đồng bằng giồng cát ở vùng giữa các cửa sông, kéo dài từ cửa Soài Rạp tới Gành Hào. Phần lớn địa hình cao trên 1 mét cùng các dải địa hình cao 2-4 mét trên các giồng cát, có nơi tới 10m (một số giồng cát trẻ ở Trà Vinh) và thoải dần tới các bãi triều nằm ngang mực nước biển. Ở đây có sự xen kẹp các đồng bằng trên triều, giồng cát hình cánh cung hướng song song với đường bờ và các trũng đầm lầy hẹp.
Ở rìa phía tây gồm đồng bằng trên triều và các vùng đầm lầy thấp trũng, như trũng U Minh là đầm lầy tích tụ than bùn lớn nhất ở bán đảo Cà Mau, và tương tự ở vùng Hà Tiên - Hòn Đất có nhiều vỉa than bùn lộ thiên trong trũng lầy nằm sau bờ biển.
Từ đường bờ châu thổ, thì sườn và rìa ngầm của châu thổ chìm dưới nước còn kéo dài mấy chục cây số ra biển, nhưng không được thể hiện trên hình 16.
III- ĐỊA HÌNH VÀ ĐẤT ĐAI
1. Địa hình
Địa bàn phía nam bán đảo Đông Dương, từ vĩ độ 12 Bắc, trải qua các bậc thềm địa hình hạ thấp dần theo hướng đông bắc - tây nam (hình 17), từ đồi thấp dưới 100 mét tới đồng bằng châu thổ. Tuổi địa hình và lịch sử phát triển đã được minh giải trong nội dung về địa chất và địa mạo. Bề mặt địa hình ở 25 - 100 mét có tuổi Pleistocen sớm; thềm biển ở 4 - 5 mét có tuổi Pleistocen muộn đến Holocen. Phần lớn địa hình Đông Nam Bộ có tuổi này, là kết quả của nhiều biến đổi nội sinh và ngoại sinh trong quá khứ nên bề mặt địa hình bị cắt xẻ mạnh. Trong khi đó, phần lớn đồng bằng Tây Nam Bộ (đồng bằng sông Cửu Long) thì rất bằng phẳng, có tuổi địa hình còn rất trẻ, sau 6 - 7 ngàn năm trở lại đây, càng ra gần bờ biển thì tuổi địa hình càng trẻ dần. Xét về mặt thời gian thì độ cao địa hình cũng có sự thay đổi tương đối khi mà mực nước biển quá khứ đã có lúc thấp hơn 120, hay cao hơn vài mét so với
CHƯƠNG I: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN... 73
hiện tại, hay những vùng đất được bồi đắp lên, hay bị mài mòn thấp đi, hay bị chìm ngập.
Hình17: Các đặc trưng chính về địa hình, mạng lưới dòng chảy ở bán đảo Đông Dương
Nguồn: Atlas địa lý, Nxb. ΓΥΓΚ, Mockava, 1980.
74 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
Trên nền địa hình tương đối bằng phẳng này nhô lên các khối núi cao, như: Bà Rá (723m), Bà Đen (986m), Chứa Chan (837m), Bảy Núi (núi Cấm, 710m). Bao quanh đất liền là vùng biển nông với nhiều quần đảo, như: Côn Đảo, Hòn Khoai, Nam Du và Phú Quốc. Theo Phạm Hoàng Hải và cộng sự 1 thì khu vực Nam Bộ thuộc hai miền cảnh quan: Miền cảnh quan đồng bằng cao (gồm vùng cảnh quan đồi Đông Nam Bộ), vùng cảnh quan đồng bằng ven biển Đông Nam Bộ; và miền cảnh quan đồng bằng Nam Bộ.
2. Đất đai
Quá trình hình thành đất gắn liền với lịch sử phát triển nguồn gốc đá mẹ vốn có sự khác biệt tương đối giữa miền Tây Nam Bộ là miền châu thổ được phù sa bồi đắp hằng năm và miền Đông Nam Bộ là đồi núi thấp chịu quá trình phong hóa rửa trôi lâu dài nền đá cổ. Đặc điểm phân bố đất trong khu vực nghiên cứu sẽ được trình bày thứ tự theo hai vùng này, hình 22.
a) Đất đai ở Đông Nam Bộ
Ở Đông Nam Bộ có hầu hết các nhóm đất hiện có ở Việt Nam (9 trên tổng số 12 nhóm đất của toàn quốc). Trên địa hình thềm và đồi thấp ở Đông Nam Bộ là nhóm đất xám, đất nâu đỏ trên đá bazan bị rửa trôi phong hóa mạnh mẽ. Các nhóm đất này có lịch sử phát triển tương đối lâu dài so với các nhóm đất khác trong khu vực và diện phân bố còn lan rộng qua phần miền Đông Campuchia. Do phần lớn là đất dưới tán rừng, hay mới được khai phá nên chất lượng đất còn khá tốt. Đất phù sa chỉ phân bố theo dải hẹp dọc các sông suối. Đất cát phân bố trên các dải đụn cát dọc bờ biển.
Đặc điểm chung về đất vùng Đông Nam Bộ là sự đa dạng, phong phú và có chất lượng cao so với các vùng đất đồi núi khác của nước ta. Tính đa dạng đó thể hiện ở sự có mặt của nhiều nhóm đất, gồm:
1. Phạm Hoàng Hải, Nguyễn Thượng Hùng, Nguyễn Ngọc Khánh: Cơ sở cảnh quan học của việc sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường lãnh thổ Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1997.
CHƯƠNG I: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN... 75
Hình 18: Bản đồ đất khu vực Nam Bộ tỷ lệ 1/1.000.000 Nguồn: Đất Việt Nam (Bản chú giải bản đồ đất, tỷ lệ 1/1.000.000), Hội Khoa học đất Việt Nam, Hà Nội.
76 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
- Đất cát biển:
Có khoảng 28.058 ha phân bố trên các đụn cát dọc theo bờ biển các huyện Xuyên Mộc, Long Đất, Châu Thành, thành phố Vũng Tàu và huyện Cần Giờ. Đất cát biển có bề dày rất biến động, đặc biệt ở những đụn cát trẻ di động. Tỷ lệ cấp hạt cát cao (76-85%), đất có phản ứng chua (pHKCl từ 4,2 đến 4,7), nghèo mùn, đạm, lân và kali, khả năng giữ nước kém. Tuy không phải là loại đất tốt nhưng lại có loại hình sử dụng đất phong phú với nhiều loại cây trồng cạn, gồm cả rau màu và cây ăn trái. Những vùng đất cát đã có quá trình canh tác lâu năm thì đất cũng có chiều hướng tốt lên nhiều do được bổ sung các chất dinh dưỡng qua phân bón.
- Đất mặn:
Có khoảng 2.500 ha đất mặn, phân bố chủ yếu ở ven quốc lộ 51 đi Thành phố Hồ Chí Minh và huyện Cần Giờ. Mặt đất thường chỉ bị ngập nước mặn vào các đỉnh thủy triều cao trong năm. Đất có hàm lượng chất dinh dưỡng trung bình khá, hạn chế chủ yếu là độ mặn cao, vào mùa mưa thì muối mặn được rửa trôi nên đất vẫn canh tác được.
- Đất phèn:
Đất phèn có diện tích 170.445 ha, chiếm 7,27% diện tích toàn vùng, chúng được hình thành trên trầm tích đầm lầy mặn trong các vịnh cổ, tập trung ở huyện Cần Giờ, dải đất thấp ven biển các huyện Long Đất, Xuyên Mộc và dọc thung lũng sông Vàm Cỏ Đông từ Thành phố Hồ Chí Minh lên tận Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh. Đất có hai nhóm phụ là đất phèn tiềm tàng ngập mặn thường xuyên và đất phèn hoạt động đã thoát ngập. Đất có phản ứng chua, hàm lượng các độc tố Fe2+, Al3+ trong đất cao. Đất phèn hoạt động có nguồn nước tưới chủ động thì hầu hết đã được khai thác trồng lúa 2-3 vụ, rau màu và cây ăn trái.
- Đất phù sa:
Diện tích hơn 87.000 ha, phân bố thành những dải hẹp dọc theo triền các sông Đồng Nai, sông Bé, sông Sài Gòn, sông Ray và sông Dinh. Đất phù sa chỉ chiếm một diện tích rất nhỏ so với diện tích đất tự nhiên vùng Đông Nam Bộ (3,72%)1 nhưng phân bố khá phân tán. Đất phù
1. Xem Phạm Quang Khánh: Tài nguyên đất vùng Đông Nam Bộ, hiện trạng và tiềm năng, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội, 1995.
CHƯƠNG I: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN... 77
sa tạo nên đồng bằng tương đối lớn là thung lũng Tánh Linh và thung lũng Định Quán. Có bốn đơn vị đất được thể hiện trên bản đồ (hình 19) là đất phù sa chưa phân hóa phẫu diện; đất phù sa có tầng loang lổ đỏ vàng; đất phù sa gley và đất phù sa ngòi suối. Các loại đất này hầu hết đều có phản ứng chua, có nơi rất chua do bị rửa trôi nhiều. Do có độ phì nhiêu cao, gần nguồn nước nên tuy có diện tích nhỏ nhưng đất phù sa đã được khai thác toàn bộ để trồng lúa và các cây hoa màu, cây ăn trái.
- Đất xám:
Đây là nhóm đất có diện tích lớn thứ hai sau đất đỏ vàng (744.652 ha, chiếm 31,75% diện tích tự nhiên vùng Đông Nam Bộ) và phân bố rộng khắp. Đất xám phát triển trên phù sa cổ thường có tầng đất dày hơn và phân bố thành vùng có diện tích tương đối lớn và bằng phẳng so với đất xám trên đá granit. Đặc điểm chung của đất xám là có phản ứng chua nhẹ, đất nghèo dinh dưỡng, cấp hạt thô, dễ bị rửa trôi, dễ thoát nước nên thích hợp với các loại cây trồng cạn nhưng cần đầu tư nhiều phân bón. Đất phát triển trên đá granit thường có tầng đất mỏng, cấp hạt thô dễ bị rửa trôi, xói mòn. Đất xám phân bố tập trung ở địa bàn Tây Ninh, phía bắc Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai.
Phần lớn diện tích đất xám được dùng để trồng mía, sắn, điều, lạc. Gần đây, diện tích trồng cây ăn trái, cây cao su cũng được mở rộng trên loại đất này.
- Đất đen nhiệt đới:
Diện tích nhỏ (khoảng 99.000 ha), song là nhóm đất đặc trưng cho khu vực Đông Nam Bộ do có nhiều họng núi lửa ở Định Quán, Tân Phú, Long Khánh, Thống Nhất (Đồng Nai), Châu Thành, Xuyên Mộc (Bà Rịa - Vũng Tàu). Đất đen hình thành trên các vật liệu tàn tích, sườn tích, lũ tích của đá bọt và đá bazan.
Đặc điểm chung là tầng đất rất mỏng, nhiều đá vụn, đá lộ đầu. Đất có phản ứng gần trung tính, độ phì nhiêu rất cao, giàu canxi, giàu lân (tổng số gấp hàng chục lần so với các loại đất khác)1, tỷ lệ các chất dinh
1. Xem Vũ Cao Thái, Phạm Quang Khánh và Nguyễn Văn Khiêm: Điều tra, đánh giá tài nguyên đất đai theo phương pháp FAO-UNESCO và quy hoạch sử dụng đất tỉnh Đồng Nai, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội, 1997.
78 VÙNG ĐẤT NAM BỘ II ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
dưỡng rất cân đối, cấu trúc đất tơi xốp. Vì vậy, mặc dù tầng đất mỏng, đất đen vẫn được khai thác để trồng cây trồng cạn vào mùa mưa hoặc lúa ở những vùng trũng.
Những cây trồng cạn phổ biến trên đất này là ngô, các loại đậu, đặc biệt là cây thuốc lá, cho chất lượng cao. Ngoài ra, còn có cây ăn quả được trồng rất tốt.
- Đất đỏ vàng:
Đây là nhóm đất có diện tích lớn nhất vùng với trên một triệu hécta, phát triển trên một số loại đá mẹ là đá bazan, granit, phù sa cổ, phiến sét. Đặc biệt là trên vỏ phong hóa đá bazan hình thành loại đất nâu đỏ đặc trưng với tầng đất dày có thể tới vài mét, tính chất hóa học và lý học có ưu thế hơn đất hình thành trên các đá mẹ khác: hàm lượng sét cao, cấu trúc viên hạt bền vững; đất có phản ứng gần trung tính, hàm lượng hữu cơ và đạm ở mức khá, lượng lân tổng số ở mức giàu và chỉ thua đất đen. Đất nâu đỏ phân bố thành những vùng tương đối rộng nên thuận tiện cho trồng trọt tập trung.
Nhóm đất đỏ vàng còn phân bố một cách liên tục và kéo dài qua phần lớn diện tích miền Đông Campuchia.
Việc sử dụng đất ở Đông Nam Bộ:
Việc khai phá đất để trồng trọt chỉ thực sự bắt đầu khi thực dân Pháp tiến hành chính sách khai thác thuộc địa từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, do đó, đất ở Đông Nam Bộ còn tương đối màu mỡ. Nhìn chung, quỹ đất ở Đông Nam Bộ rất thích hợp cho nhiều loại cây trồng cạn ngắn ngày và dài ngày. Sự đa dạng về đất cũng tạo nên nhiều kiểu sử dụng đất hơn so với vùng đồng bằng Tây Nam Bộ. Phân bố nhóm đất (liên quan tới độ phì nhiêu), bề dày tầng đất, mức độ phân cắt địa hình, độ dốc, là những yếu tố chi phối chính các kiểu sử dụng đất đối với các cây trồng cạn và tiếp đến mới là nguồn cấp nước. Cây cao su, cây cà phê và cây tiêu được trồng tập trung trên đất nâu đỏ. Trong đó, cây cao su được ưu tiên trồng tập trung trên diện tích lớn tương đối bằng, rộng vài trăm tới hàng ngàn hécta, còn cà phê và tiêu thì trồng xen trên các nơi sườn dốc. Cây điều, cây mía, cây đậu, cây sắn được trồng trên