🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Vùng Đất Nam Bộ - Quá Trình Hình Thành Và Phát Triển Tập 2
Ebooks
Nhóm Zalo
Chịu trách nhiệm xuất bản
GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
PGS. TS. PHẠM MINH TUẤN
Chịu trách nhiệm nội dung
ỦY VIÊN HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP - XUẤT BẢN TS. VÕ VĂN BÉ
Biên tập nội dung:
Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Sửa bản in: Đọc sách mẫu:
ThS. NGUYỄN THỊ HẢI BÌNH ThS. VŨ THỊ HỒNG THỊNH TRẦN PHAN BÍCH LIỄU ThS. PHÙNG MINH TRANG HOÀNG MINH TÁM
PHÒNG BIÊN TẬP KỸ THUẬT HỒNG THỊNH
VIỆT HÀ
Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 2266-2021/CXBIPH/27-23/CTQG. Số quyết định xuất bản: 439-QĐ/NXBCTQG, ngày 29/6/2021. Nộp lưu chiểu: tháng 7 năm 2021.
Mã ISBN: 978-604-57-6912-6.
CHỦ BIÊN
GS. PHAN HUY LÊ
PHÂN CÔNG BIÊN SOẠN
GS. PHAN HUY LÊ: Lời giới thiệu, Chương mở đầu, Chương kết
TS. TRƯƠNG THỊ KIM CHUYÊN: Chủ biên Chương I GS. TSKH. VŨ MINH GIANG: Chương II
GS. TS. NGUYỄN VĂN KIM: Chủ biên Chương III GS. TS. NGUYỄN QUANG NGỌC: Chủ biên Chương IV PGS. TS. ĐOÀN MINH HUẤN: Chủ biên Chương V PGS. TS. TRẦN ĐỨC CƯỜNG: Chủ biên Chương VI
GS. TS. NGÔ VĂN LỆ: Chủ biên Chương VII PGS. TS. VŨ VĂN QUÂN: Chủ biên Chương VIII TS. VÕ CÔNG NGUYỆN: Chủ biên Chương IX PGS. TS. VÕ VĂN SEN: Chủ biên Chương X PGS. TS. PHAN XUÂN BIÊN: Chủ biên Đề xuất, kiến nghị Cùng các thành viên tham gia Ban biên soạn của các đề tài
5
Chương VII
ĐẶC TRƯNG
TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO
VÀ SINH HOẠT VĂN HÓA
CỦA CỘNG ĐỒNG CƯ DÂN NAM BỘ
I- ĐẶT VẤN ĐỀ
Nam Bộ là đồng bằng lớn ở Việt Nam, với tổng diện tích trên 64.000 km2. Xét về nhiều phương diện hiện nay cũng như trong tương lai lâu dài, Nam Bộ sẽ đóng vai trò hết sức quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế, văn hóa ở nước ta. Nam Bộ là vùng đất mới so với lịch sử lâu đời của nước Việt Nam. Nhưng chính vùng đất này lại là vùng đất hứa, là niềm hy vọng của bao lớp cư dân người Việt cùng với các cộng đồng dân cư khác như Khmer, Hoa, Chăm vì nhiều lý do khác nhau đã đến đây để sinh cơ lập nghiệp, mưu cầu cuộc sống mới ấm no, hạnh phúc hơn. Các thế hệ người Việt cùng với các thế hệ của các tộc người anh em khác đã chung lưng đấu cật khai phá và bảo vệ vùng đất này, làm nên những kỳ tích trong kháng chiến chống xâm lược cũng như trong xây dựng hòa bình. Do tính chất và tầm quan trọng của vùng đất này mà từ lâu đã có nhiều công trình nghiên cứu ra mắt độc giả. Những công trình đó đã khắc họa bức tranh khá sinh động về con người và vùng đất Nam Bộ với những đặc trưng văn hóa, xã hội. Tất cả những sắc thái văn hóa địa phương đó đã làm nên một
6 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
“văn minh miệt vườn” được Sơn Nam trình bày trong tập khảo cứu của mình1. Trong phân loại các vùng văn hóa ở Việt Nam, các tác giả đều coi Nam Bộ là một vùng văn hóa với những đặc trưng rất đa dạng và phong phú, làm nên sắc thái của một vùng so với các vùng văn hóa khác ở nước ta2. Khi nghiên cứu văn hóa tộc người và lịch sử tộc người thì Nam Bộ là một khu vực lịch sử - dân tộc học (zone historico - ethnographique). Với tư cách là một vùng lịch sử - dân tộc học, Nam Bộ có những yếu tố địa lý tự nhiên, môi trường xã hội chi phối một cách sâu sắc đến các yếu tố văn hóa, đến sự phát triển kinh tế, xã hội của cả khu vực cũng như của từng cộng đồng dân cư sinh sống trên vùng đất phương Nam. Nghiên cứu đặc trưng tín ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt văn hóa của cư dân Nam Bộ thực chất là nghiên cứu khu vực lịch sử - dân tộc học, vì vậy chúng tôi nêu lên một số hướng tiếp cận để tạo tiền đề cho việc nghiên cứu như sau:
1. Tiếp cận theo hướng môi trường sinh thái
Nam Bộ là vùng đất mới so với các khu vực khác của Việt Nam. Cách đây trên 3 thế kỷ, vào năm 1698, khi chúa Nguyễn cử Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược phương Nam, chính thức hóa một tình hình thực tế, xác lập bộ máy hành chính thuộc quyền cai quản của chúa Nguyễn, thì nơi đây còn là một vùng đất hoang vu, thiên nhiên khắc nghiệt, môi sinh đa dạng với các tiểu vùng khác nhau. Những điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt và đa dạng, có những nét đặc thù so với các vùng khác, thí dụ so với vùng đồng bằng sông Hồng, ảnh hưởng một cách trực tiếp và sâu sắc đến việc hình thành các yếu tố văn hóa
1. Sơn Nam: Văn minh miệt vườn, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1992.
2. Chu Xuân Diên: Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1999, tr.312.
Ngô Đức Thịnh: Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr.265.
CHƯƠNG VII: ĐẶC TRƯNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO... 7
của cư dân trong vùng. Mặt khác, so với các vùng khác ở nước ta, Nam Bộ có nhiều yếu tố thiên nhiên thuận lợi (đất đai rộng, dân cư thưa thớt, khí hậu không quá khắc nghiệt, có hai mùa mưa, khô...) thích hợp với nền kinh tế đa dạng, đáp ứng được những yêu cầu trong đời sống thường nhật của cư dân.
2. Tiếp cận theo hướng khu vực lịch sử - dân tộc học (zone historico ehtnographique)
Nam Bộ là vùng đồng bằng nơi có nhiều thành phần tộc người sinh sống. Xét về thành phần tộc người qua số liệu thống kê thì dễ dàng nhận thấy tính đa dạng đó (cuối những năm 90 của thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã có 15 nhóm người khác nhau cư trú ở thành phố Sài Gòn, và chỉ tính riêng Thành phố Hồ Chí Minh theo thống kê năm 1999 có 26/54 thành phần tộc người sinh sống). Có thể nói đây là một trong số những vùng khá đặc biệt không những đối với Việt Nam, mà đối với cả thế giới. Đây là một trong những vùng đồng bằng duy nhất mà ở đó có nhiều thành phần tộc người sinh sống, khác biệt nhau về mọi phương diện (ngôn ngữ, tôn giáo...). Chưa nói đến nơi đây đã từng có một số tộc người sinh sống, nhưng do những biến động lịch sử mà họ đã di chuyển đến nơi khác1. Những biến động lịch sử làm cho làn sóng di dân (migration) xảy ra liên tục. Ở đây đã diễn ra 3 hình thức di dân. Đó là di dân tự nhiên, di dân cơ chế và di dân tại chỗ2. Các tộc người có mặt ở Nam Bộ vào những thời điểm khác nhau (người Khmer có mặt sớm nhất, vào khoảng đầu thế kỷ XIII, người Hoa khoảng thế kỷ XVII, người Chăm đầu thế kỷ XIX). Giữa những
1. Trần Văn Giàu (Chủ biên): Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1987, tr.134-135.
2. Mạc Đường: Về vấn đề dân cư và dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long. In trong Một số vấn đề khoa học xã hội về đồng bằng sông Cửu Long, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1982, tr.178.
8 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
tộc người này có sự khác biệt về trình độ phát triển kinh tế, tổ chức xã hội, tôn giáo. Sự khác biệt này là những trở ngại ban đầu cho quá trình tiếp xúc. Nhưng trải qua một quá trình lâu dài sinh sống trên một vùng lãnh thổ, cùng khai hoang lập làng, cùng chống kẻ thù xâm lược và thiên nhiên khắc nghiệt, và do quá trình sống xen kẽ đã xảy ra quá trình giao lưu văn hóa (échange culturelle) và tiếp biến văn hóa (acculturation) giữa các tộc người, hình thành nên những yếu tố văn hóa chung giữa các tộc người sinh sống ở đây. Những quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa các tộc người vẫn đang diễn ra trong bối cảnh hiện nay ở Nam Bộ.
3. Tiếp cận theo hướng giao lưu tiếp biến văn hóa
Nam Bộ là nơi hội tụ của các nền văn hóa. Do vị trí của mình mà vùng đất này từ lâu đã là nơi giao lưu, hội tụ của các nền văn hóa, văn minh khác nhau. Nhìn trên bình diện cả nước, Việt Nam chịu ảnh hưởng của hai nền văn hóa lớn là văn hóa Trung Hoa và văn hóa Ấn Độ, nhưng mức độ chịu ảnh hưởng của hai nền văn hóa đó khác nhau giữa hai miền Nam, Bắc. Miền Bắc trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc nên văn hóa Trung Hoa có ảnh hưởng rất lớn đến mọi khía cạnh đời sống của các cộng đồng tộc người. Trong khi đó, các tộc người sinh sống ở miền Nam chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ. Nằm trên trục giao thông quan trọng, người dân ở phía Nam từ lâu đã mở rộng giao lưu buôn bán với các vùng khác (không chỉ giới hạn trong phạm vi lãnh thổ, mà đã vươn xa ra ngoài lãnh thổ quốc gia) và cũng luôn mở cửa đón nhận những yếu tố văn hóa du nhập từ bên ngoài. Cũng do quá trình tiếp xúc thường xuyên với thế giới bên ngoài, nên đã xảy ra quá trình hỗn dung văn hóa.
Sự hỗn dung văn hóa được thể hiện cả trong văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của cư dân vùng này.
CHƯƠNG VII: ĐẶC TRƯNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO... 9
4. Tiếp cận theo hướng tiếp xúc giữa các nền văn minh
Nam Bộ là nơi có nhiều tôn giáo. Trên vùng đất mới này có hầu hết các tôn giáo có tính thế giới như Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo (Islam), và các tôn giáo có tính khu vực như Khổng giáo, Ấn Độ giáo. Những tôn giáo này du nhập vào Việt Nam vào các thời kỳ khác nhau và có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống mọi mặt của cư dân trong vùng. Bên cạnh đó, do những điều kiện tự nhiên và môi trường xã hội của vùng đất “địa linh, nhân kiệt” đã xuất hiện những tôn giáo mới vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Đó là các tôn giáo như Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Cao Đài, Hòa Hảo. Ngoài ra còn có những tôn giáo có số lượng tín đồ không đáng kể, nhưng lại mang đậm dấu ấn và vai trò của những “ông đạo” như đạo Trần, đạo Dừa. Những tôn giáo có tính chất bản địa ra đời ở Nam Bộ bị chi phối bởi các yếu tố môi trường tự nhiên và xã hội, cũng chỉ giới hạn ảnh hưởng của mình trong không gian đó. Một điều cũng rất thú vị là các tôn giáo bản địa ra đời trong không gian xã hội của người Việt và chỉ có ảnh hưởng đến cộng đồng cư dân Việt, mà hầu như không có ảnh hưởng gì đến các cộng đồng dân cư khác, vốn đã cùng cộng cư với người Việt trong suốt quá trình khai hoang lập làng, cùng chia ngọt sẻ bùi trong quá trình chế ngự thiên nhiên cũng như trong đấu tranh chống kẻ thù xâm lược. Nghiên cứu và lý giải về hiện tượng có tính khu biệt vùng ảnh hưởng cũng như dần chịu sự ảnh hưởng của các tôn giáo bản địa, chúng tôi đã có một số bài viết được in trong sách cũng như được trình bày ở hội thảo khoa học1; và đã trình bày một số đặc điểm có tính đặc thù của Nam Bộ. Những đặc điểm này, nếu đem so sánh với các vùng khác của Việt Nam bên
1. - Ngô Văn Lệ: Một số vấn đề về văn hóa tộc người ở Nam Bộ và Đông Nam Á, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2003, tr.110-140. - Ngô Văn Lệ: Các tôn giáo bản địa và ảnh hưởng của nó đến văn hóa người Việt Nam Bộ. In trong Hội Khoa học lịch sử Việt Nam: Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ thời kỳ cận đại, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2009.
10 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
cạnh những nét chung có tính thống nhất của cả nước, mà Nam Bộ với tư cách là một phần lãnh thổ của Việt Nam nằm trong không gian văn hóa Đông Nam Á, nhưng lại có những khác biệt so với các vùng lãnh thổ khác mà chúng ta dễ dàng nhận ra. Và chính những điều kiện tự nhiên, môi trường xã hội của Nam Bộ khác biệt như vậy đã dẫn đến sự hình thành những khác biệt văn hóa so với các vùng khác của Việt Nam. Tuy nhiên, những khác biệt văn hóa này không dẫn đến những dị biệt lớn lao, mà vẫn thể hiện sự thống nhất trong đa dạng phát triển của dòng chảy văn hóa người Việt và văn hóa Việt Nam.
Khi nghiên cứu tín ngưỡng, tôn giáo, văn hóa của cư dân một khu vực nào đó cần căn cứ vào mục tiêu, những điều kiện tự nhiên, môi trường xã hội mà người nghiên cứu lựa chọn cách tiếp cận sao cho phù hợp. Qua tìm hiểu một số công trình nghiên cứu về Nam Bộ lâu nay đã được xuất bản, chúng tôi nhận thấy chủ yếu hướng vào những vấn đề chung nhất (như Mấy đặc điểm văn hóa Nam Bộ; Văn hóa và cư dân đồng bằng sông Cửu Long; Đồng bằng sông Cửu Long, nghiên cứu và phát triển; Mấy vấn đề về văn hóa tộc người ở Nam Bộ và Đông Nam Á...) hay tập trung nghiên cứu sâu vào từng lĩnh vực thuộc văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần của cư dân trong vùng (như Nhà ở, trang phục, ăn uống của các dân tộc vùng Nam Bộ; Lễ hội dân gian Nam Bộ, Người Nam Bộ và tôn giáo bản địa...).
Những công trình đã được xuất bản chú trọng đến tính đa ngành, nhưng tính liên ngành chưa cao và chủ yếu nghiên cứu dưới góc độ lịch sử, dân tộc học. Nghiên cứu tín ngưỡng, tôn giáo, văn hóa của cư dân Nam Bộ một cách sâu sắc và toàn diện để khẳng định những nét đặc trưng là một công việc không dễ dàng. Đã đến lúc không chỉ nhìn nhận một cách giản đơn nhiều hiện tượng tín ngưỡng, tôn giáo, văn hóa của Nam Bộ, mà phải đi tìm lời giải đáp trong chiều sâu của bản sắc văn hóa, lối sống, tâm lý, tính cách, quan niệm thẩm mỹ, triết lý của con người vùng đất này. Nghiên cứu về tín ngưỡng, tôn giáo,
CHƯƠNG VII: ĐẶC TRƯNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO... 11
văn hóa của cư dân Nam Bộ đã được chú ý từ lâu và đã có nhiều công trình ra mắt độc giả, phác thảo một bức tranh đa sắc màu về tín ngưỡng, tôn giáo, văn hóa của vùng đất này. Để có những công trình đó, các lĩnh vực của khoa học xã hội và nhân văn đã được huy động, tính đa ngành được thể hiện rất rõ, nhưng tính liên ngành còn chưa cao. Vì vậy, để có thể nêu lên những đặc trưng tín ngưỡng, tôn giáo, văn hóa của cư dân Nam Bộ thì cách tiếp cận vùng văn hóa lịch sử (zone historico-culturelle), theo chúng tôi, là phù hợp. Cách tiếp cận vùng văn hóa lịch sử cho phép xem xét các hiện tượng văn hóa trong chỉnh thể, trong mối liên quan mật thiết giữa chúng với nhau, nhìn nhận văn hóa là hệ thống giá trị mang tính biểu trưng do con người sáng tạo ra và tích lũy trong suốt chiều dài lịch sử, nhằm phục vụ cho chính con người trong không gian cụ thể.
Mặt khác, cũng cần lưu ý đến quá trình lịch sử tộc người của các cộng đồng dân cư sinh sống ở Nam Bộ. Người Khmer, người Việt, người Hoa, người Chăm không phải là những cư dân bản địa. Người Khmer di cư đến vùng Nam Bộ bắt đầu từ sau thế kỷ XIII, nhưng dân cư không đông đảo nên cũng không làm thay đổi diện mạo của vùng này. Từ thế kỷ XVII và những thế kỷ tiếp theo, người Việt đã di cư đến Nam Bộ ngày một đông đảo, đóng vai trò chủ đạo khai hoang lập làng tạo nên diện mạo mới cho vùng đất này. Người Hoa và người Chăm di cư đến ở giai đoạn sau. Bốn cộng đồng dân cư - người Việt, người Khmer, người Hoa, người Chăm - cùng chung một vận mệnh lịch sử, cùng khai hoang lập làng, cùng chia sẻ những khó khăn trong việc chống thiên nhiên khắc nghiệt cũng như những kẻ thù xâm lược đã dẫn đến giao lưu văn hóa, ảnh hưởng qua lại, dẫn đến hình thành một vùng văn hóa với những sắc thái địa phương có thể phân biệt với các vùng văn hóa khác của Việt Nam. Mỗi cộng đồng dân cư sinh sống ở Nam Bộ là một bộ phận của một tộc người, cho nên, như là một quy luật, văn hóa của các cộng đồng dân cư này luôn bị chi phối bởi tác
12 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
động lịch đại và đồng đại. Xét về phương diện văn hóa, trong hành trang văn hóa của người Việt, những yếu tố văn hóa truyền thống giữ một vai trò cực kỳ quan trọng trong suốt quá trình Nam tiến. Chính những yếu tố văn hóa truyền thống đó là nền tảng tinh thần, tạo nên sức mạnh cho lớp lớp cư dân người Việt chinh phục vùng đất mới, với bao khó khăn khắc nghiệt của điều kiện thiên nhiên để tồn tại và phát triển. Nhưng khi không gian sinh tồn được mở rộng đã không chỉ làm thay đổi môi trường sống, mà còn mở rộng quá trình giao lưu tiếp xúc với các tộc người khác. Trong bối cảnh như vậy, tác động đồng đại đã chi phối đến quá trình phát triển của các tộc người sinh sống trong không gian văn hóa đó. Nam Bộ, như đã được trình bày ở những trang trước, là nơi có những yếu tố tự nhiên, môi trường xã hội rất khác so với đồng bằng sông Hồng - cái nôi văn minh Việt - nên những yếu tố đồng đại đã tác động sâu sắc đến văn hóa người Việt Nam Bộ. Một khi văn hóa người Việt đã tương đối ổn định thì nó lại bị chi phối bởi quy luật truyền thống (tradition) và cách tân (innovation). Không có một nền văn hóa nào lại không có sự kế thừa trong quá trình phát triển, ngay cả khi có những thay đổi về chế độ chính trị, thậm chí cả khi thay đổi hình thái kinh tế - xã hội. Sự kế thừa văn hóa truyền thống của người Việt Nam Bộ được thể hiện trong tổ chức gia đình, xã hội, trong tín ngưỡng, tôn giáo, trong hoạt động kinh tế. Khi nghiên cứu về các tôn giáo bản địa của người Việt ở Nam Bộ, một mặt thể hiện rất rõ sự kế thừa theo thời gian văn hóa Việt, nhưng mặt khác, lại thấy có sự cách tân cho phù hợp với điều kiện sống mới trong bối cảnh cộng cư với các cộng đồng tộc người khác1. Xem xét những ngày lễ trọng trong một năm của các tôn giáo Cao Đài và Hòa Hảo là những tôn giáo ra đời trong bối cảnh cụ thể của vùng đất Nam Bộ trong những năm đầu
1. Ngô Văn Lệ: Các tôn giáo bản địa và ảnh hưởng của nó đến văn hóa người Việt Nam Bộ. In trong Hội Khoa học lịch sử Việt Nam: Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ thời kỳ cận đại, Sđd, tr.23.
CHƯƠNG VII: ĐẶC TRƯNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO... 13
thế kỷ XX, chúng tôi thấy có sự khác nhau trong một số ngày lễ gắn liền với từng tôn giáo góp phần tạo nên nét riêng của mình, số ngày lễ còn lại phần lớn gắn liền với những ngày lễ trong năm của người Việt1. Đây như là minh chứng, một lần nữa khẳng định các tôn giáo bản địa khi ra đời đã có sự kế thừa dựa trên nền tảng căn bản văn hóa truyền thống của người Việt. Điều này đặt ra cho những người nghiên cứu khi tiếp cận nghiên cứu các tôn giáo bản địa cũng như những đặc trưng văn hóa cần có sự chú ý đúng mức đến truyền thống và cách tân trong văn hóa của các cư dân vùng Nam Bộ.
Cùng với quá trình khai hoang lập làng, cùng chung lưng đấu cật trong công cuộc chinh phục thiên nhiên và chống kẻ thù xâm lược đã dẫn đến quá trình giao lưu văn hóa giữa các cộng đồng dân cư. Quá trình giao lưu văn hóa diễn ra trong suốt chiều dài lịch sử đã dẫn đến hình thành những đặc trưng văn hóa chung cho cả vùng, hình thành vùng văn hóa Nam Bộ, “văn minh miệt vườn”, “văn minh sông nước” như nhiều nhà nghiên cứu đã đề cập đến trong những nghiên cứu của mình. Vấn đề cần lưu ý ở đây là vùng đồng bằng duy nhất của Việt Nam, nơi có nhiều thành phần tộc người sinh sống, có sự khác biệt về số lượng dân cư, về tín ngưỡng, tôn giáo. Chính quá trình giao lưu văn hóa giữa các tộc người đã làm phong phú văn hóa của từng tộc người. Vì vậy, khi nghiên cứu những đặc trưng tín ngưỡng, tôn giáo, văn hóa của các cư dân vùng Nam Bộ cần lưu ý đến quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa các cộng đồng dân cư sinh sống tại đây.
Từ những hướng nghiên cứu đó, chúng tôi đã tiếp cận tín ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt văn hóa của các cộng đồng cư dân Nam Bộ và tìm ra những đặc trưng cơ bản.
1. Ngô Văn Lệ: Các tôn giáo bản địa và ảnh hưởng của nó đến văn hóa người Việt Nam Bộ. In trong Hội Khoa học lịch sử Việt Nam: Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ thời kỳ cận đại, Sđd, tr.23.
14 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
II- ĐẶC TRƯNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO CỦA CƯ DÂN NAM BỘ 1. Những đặc trưng mang tính vùng văn hóa - lịch sử
Các tín ngưỡng, tôn giáo của cư dân tại Nam Bộ do được hình thành hoặc phát triển tại vùng đất này trong một thời gian nên yếu tố vùng văn hóa - lịch sử đã có những ảnh hưởng không nhỏ đến các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo ở đây, và từ đó tạo nên những tính đặc trưng mang yếu tố vùng.
a- Tính đa thần trong tín ngưỡng, tôn giáo
Tính đa thần này được biểu hiện rõ qua các loại hình tín ngưỡng cũng như các loại hình tôn giáo trong cộng đồng cư dân Nam Bộ. * Tính đa thần trong các loại hình tín ngưỡng
- Đối với các cư dân bản địa, cho đến đầu thế kỷ XX, họ vẫn còn trong tình trạng xã hội nguyên thủy tan rã. Chính vì thế trong đời sống tín ngưỡng của họ luôn tồn tại các loại thần (yang) và các dạng vật tổ (tôtem) cũng như các loại hồn linh giáo, các cấm kỵ, phép phù thủy...
Trong các cộng đồng cư dân bản địa, thuật ngữ “yang” được phổ biến không chỉ có ý nghĩa “thần linh”, mà cả những ý niệm thiêng liêng không thể giải thích, như “yang pri” vừa có nghĩa thần rừng, vừa có nghĩa là rừng thiêng, nơi trú ngụ của thần rừng. Sự tồn tại của yếu tố “Yangnism” trong đời sống tâm linh của cư dân bản địa là hình thức bảo lưu những tín ngưỡng nguyên thủy, nó như một nhu cầu của đời sống tâm linh hiện hữu, hạn chế việc truyền bá các tôn giáo thế giới như Phật giáo, Thiên Chúa giáo... cũng như các tôn giáo khác ra đời trong xã hội người Việt như Cao Đài, Hòa Hảo... vào khu vực các cư dân bản địa ở Nam Bộ.
Tuy nhiên, vào những thập niên 60 của thế kỷ XX, sự truyền bá đạo Tin Lành ở vùng các cư dân bản địa ở Nam Bộ và rộng hơn là vùng Tây Nguyên lại đạt một kết quả rất lớn. Các cư dân bản địa ở
CHƯƠNG VII: ĐẶC TRƯNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO... 15
Nam Bộ dần tin và theo tôn giáo này ngày càng đông. Nguyên nhân có thể kể đến như yếu tố chính trị, sự xuất hiện và cai trị của chủ nghĩa đế quốc, thực dân đã tạo đà thuận lợi cho sự truyền bá và phát triển đạo Tin Lành trong các cư dân này. Ngoài ra, sự chuyển biến về kinh tế, văn hóa, xã hội của các cư dân này từ sau năm 1975 đã phần nào làm cho tín ngưỡng nguyên thủy của các cư dân bản địa ở Nam Bộ thay đổi. Một số hiện tượng tín ngưỡng trở nên mờ nhạt, hoặc dần lãng quên như tô tem, các lễ nghi nông nghiệp bị hạn chế, vai trò của các thần linh, ma quỷ có chiều giảm sút trong đời sống của các cư dân này; lớp trẻ của các cư dân này đã có sự nhận thức khác về thế giới siêu nhiên, khi họ tiếp cận với những tri thức khoa học hiện đại. Vậy nên, trong điều kiện đó, sự đón nhận tôn giáo hiện đại như Tin Lành đối với các cư dân ở đây trở nên dễ dàng hơn về mặt tâm lý và thực tế. Tuy nhiên, đạo Tin Lành cũng không đủ sức để có thể loại bỏ hoàn toàn tín ngưỡng truyền thống của các cư dân bản địa, nên trong xã hội của họ, đặc biệt là trong tâm thức của những người lớn tuổi, yếu tố “yang” vẫn hiện hữu và các lễ hội liên quan đến cộng đồng vẫn tồn tại. Chính vì thế, khi nghiên cứu về tín ngưỡng, tôn giáo tại các cộng đồng bản địa, chúng tôi nhận thấy có những yếu tố mà tín ngưỡng bản địa được xen cài với tôn giáo thế giới, cụ thể là đạo Tin Lành. Người bản địa đã gọi Chúa Giêsu là “Yang Giêsu”. Các lễ hội liên quan đến tín ngưỡng truyền thống như mừng lúa mới, đâm trâu... vẫn được cộng đồng tổ chức và được cả cộng đồng hưởng ứng.
Như vậy, cư dân bản địa tại Nam Bộ hiện nay đa phần theo đạo Tin Lành, nhưng yếu tố đa thần vẫn tồn tại trong tâm thức cũng như được bộc lộ rõ trong đời sống thường nhật của họ.
- Đối với cư dân di cư tại Nam Bộ, yếu tố đa thần luôn luôn hiện diện trong đời sống tôn giáo của họ.
Người Khmer, mặc dù theo Phật giáo Nam tông từ rất lâu, nhưng trong đời sống tâm linh, yếu tố đa thần và phiếm thần vẫn tồn tại và có
16 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
chỗ đứng quan trọng. Người Khmer Nam Bộ tin tưởng vào sức mạnh và sự chi phối của thế giới siêu nhiên, các thần thánh, ma quỷ đến đời sống và công việc hiện hữu. Vì vậy, người Khmer luôn tìm kiếm sự giúp đỡ, bảo trợ của thần linh, tránh xa, hoặc không “chọc giận” các loại ma quỷ. Hệ thống nghi lễ nông nghiệp của người Khmer khá giống với nhiều cư dân trồng lúa nước ở Đông Nam Á thuộc ngữ hệ Môn - Khmer. Đó là tín ngưỡng trời đất, nước, những yếu tố cơ bản cho việc canh tác lúa. Tín ngưỡng Neak Tà là một dạng thờ đá của nhiều cư dân Nam Á. Ở đồng bằng sông Cửu Long, nơi rất hiếm núi đá và đá, người Khmer vẫn bảo lưu tín ngưỡng thờ đá, điều đó cho thấy tín ngưỡng đa thần là chỗ dựa tinh thần rất quan trọng trong cuộc sống của họ.
Tín ngưỡng đa thần của người Việt càng phong phú hơn tại khu vực Nam Bộ. Bên cạnh việc tôn thờ các vị thần, thánh, Phật trong các tôn giáo, người Việt tin vào sự tồn tại của các loại hình siêu nhiên như
Miếu Bà Chúa Xứ ở Châu Đốc
(Nguồn: http://www.savitour.vn)
CHƯƠNG VII: ĐẶC TRƯNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO... 17
ma, quỷ, các vong hồn quá vãng... Chính vì thế mà chúng ta thấy xuất hiện các loại miếu thờ ven đường, cùng với đó là việc cúng cô hồn vào các ngày đầu hoặc giữa tháng âm lịch. Bên cạnh đó, việc tin tưởng vào thần hộ mệnh cho gia chủ, cho cộng đồng cũng trở nên phổ biến trong cộng đồng người Việt, đặc biệt là tín ngưỡng thờ thần thành hoàng trong cộng đồng người Việt ở Nam Bộ. Việc xuất hiện các ngôi đình thần trong các ấp (làng) và tổ chức cúng kỳ yên trong những ngôi đình này là hình thức tín ngưỡng dân gian tiêu biểu của người Việt Nam Bộ nói riêng và người Việt cả nước nói chung. Việc cúng kỳ yên trong các ngôi đình là yếu tố biểu hiện niềm tin của người Việt vào sự phù hộ của thần cho cộng đồng và đây cũng là một loại hình văn hóa đặc sắc trong cộng đồng người Việt. Ngoài ra, người Việt còn tin vào sự phù hợp của các vị Thánh Mẫu và nữ thần như Bà Chúa Xứ, Chúa Ngọc, Chúa Tiên, Diêu Trì Kim Mẫu, Linh Sơn Thánh Mẫu... và tổ chức hành hương, cầu khẩn... cho thấy tính đa thần trong tín ngưỡng dân gian của người Việt Nam Bộ rất đậm nét.
Người Hoa cũng là một cư dân có yếu tố tín ngưỡng đa thần đặc sắc nhất ở Nam Bộ. Trong đời sống tâm linh, người Hoa tôn thờ các vị Diêu Trì Kim Mẫu, Quan Thánh Đế Quân, Phước Đức Chính Thần, Thiên Hậu Thánh Mẫu, Quan Âm Bồ Tát, Tiêu Diện Đại Sĩ, Huyền Thiên Thượng Đế...
Tuy nhiên, trong quá trình khảo sát, chúng tôi nhận thấy đời sống tâm linh đa thần trong hệ thống hàng trăm nam thần và nữ thần của người Hoa có 3 vị thần được thờ tự chính yếu và phổ biến nhất tại Nam Bộ, đó là Quan Thánh Đế Quân, Thiên Hậu Thánh Mẫu và Phước Đức Chính Thần.
Không phải ngẫu nhiên 3 vị này được thờ tự nhiều nhất, trân trọng nhất và giữ vị trí tôn nghiêm nhất trong đời sống của người Hoa ở Nam Bộ mà vì chính bản thân thần tích của họ và do xuất phát từ bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội chung tại Trung Quốc và Nam Bộ đương thời,
18 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
đặc biệt nhất là tín ngưỡng thờ Quan Thánh Đế Quân và Thiên Hậu Thánh Mẫu. Thông thường, hai vị thần này được thờ tự ở vị trí chính trong các miếu thờ của người Hoa, nếu miếu thờ Quan Thánh Đế Quân là chính thì tòng tự bên tả thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu, hoặc ngược lại, nếu miếu thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu là chính thì tòng tự bên tả thờ Quan Thánh Đế Quân. Nhưng miếu thờ các vị thần khác thì hai bên cũng tòng tự Quan Thánh Đế Quân và Thiên Hậu Thánh Mẫu... Điểm đáng chú ý khác là Quan Thánh Đế Quân, Thiên Hậu Thánh Mẫu và Phước Đức Chính Thần đều được tất cả 5 nhóm cộng đồng ngôn ngữ của người Hoa ở Nam Bộ thờ tự và tạo nên sự đa thần đặc biệt trong tín ngưỡng dân gian của họ.
Sở dĩ những vị thần này được cộng đồng người Hoa Nam Bộ tôn thờ là vì những thần tích của họ được dựng và trở thành chỗ dựa quan trọng trong đời sống tâm linh của cư dân này. Trong đó, Quan Thánh Đế Quân được thờ như một biểu tượng trung nghĩa, nhân ái, cương trực, mưu lược, tiết liệt... Thiên Hậu Thánh Mẫu được xem như vị cứu tinh cho những người đi biển và phù hộ độ trì cho cuộc sống mưu sinh của con người. Trong tín ngưỡng thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu, người dân còn lồng ghép nghi thức có nguồn gốc Phật giáo và Đạo giáo như phóng đăng, phóng sinh cầu siêu cho vong hồn... Còn Phước Đức Chính Thần được xem là vị thần ban phước đức, tài lộc, bảo hộ dân cư...
Ba vị thần này tùy theo miếu thờ mà cộng đồng người Hoa sắp đặt vị trí của các vị trong miếu. Nếu vị này được sắp ở gian thờ chính, hai vị còn lại sẽ được sắp ở gian thờ hai bên; ngoài ra, các miếu khác cho dù thờ chính một vị thần nào đó không thuộc 3 vị thần này thì khi lập ban thờ để phối tự hai bên bàn thờ chính, người Hoa hầu hết cũng đều chọn một hoặc hai trong số ba vị thần này để thờ. Điều đó cho thấy vai trò vô cùng thiết yếu, quan trọng của 3 vị thần này trong đời sống tâm linh của người Hoa Nam Bộ; và đó cũng là một biểu hiện cho tín ngưỡng đa thần trong đời sống tôn giáo của người Hoa Nam Bộ.
CHƯƠNG VII: ĐẶC TRƯNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO... 19
* Tính đa thần trong các loại hình tôn giáo
- Đa thần trong tôn giáo bản địa và tôn giáo dân tộc
Như đã trình bày, tôn giáo bản địa và tôn giáo dân tộc chỉ xuất hiện trong cộng đồng người Việt và người Hoa ở Nam Bộ. Các tôn giáo này có thể kể đến như Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Hòa Hảo, Cao Đài (của người Việt); Đạo giáo, Minh Sư Phật Đường (của người Hoa); ngoài ra, người Việt Nam Bộ còn có các đạo như Đạo Chuối, Đạo Dừa, Đạo Khùng, Đạo Lành... nhưng những đạo này không mang tính phổ biến.
Từ khi ra đời, các tôn giáo bản địa Nam Bộ đã thâu nhận những tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống của chính cư dân mình như các tín ngưỡng đa thần, tín ngưỡng thành hoàng, thờ cúng tổ tiên trong gia đình, dòng họ, và các tôn giáo lớn như Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo.
Việc hành đạo của các ông đạo cũng như các vị sáng lập các tôn giáo bản địa đều theo xu hướng đa thần, mặc dù tư tưởng rao giảng của họ chủ yếu dựa trên nền tảng tư tưởng Phật giáo. Xét về góc độ hành đạo để thu hút tín đồ, các ông đạo và những người chủ trương hình thành tôn giáo này đa phần dựa trên cách hành đạo của Đạo giáo, đó là dùng bùa phép để chữa bệnh. Do đó, có thể khẳng định, các tôn giáo bản địa cũng theo tư tưởng đa thần trong hoạt động tôn giáo của họ.
Minh Sư Phật Đường cũng giống như một số tôn giáo bản địa ở Nam Bộ, mà trong đó tiêu biểu là đạo Cao Đài, về hệ thống thần linh và tư tưởng giáo lý. Mặc dù tôn giáo này được hình thành từ Phật giáo, nhưng khi phát triển lại theo xu hướng Đạo giáo, tôn thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế và Diêu Trì Kim Mẫu, tổ chức cầu cơ để bàn về giáo lý, cách hành đạo, và thường xuyên tiếp xúc với các đấng thần, thánh, tiên, Phật qua hình thức cơ bút.
Yếu tố đa thần cũng xuất hiện trong Đạo giáo, một tôn giáo du nhập vào theo chân các lưu dân. Trong tôn giáo này, tín đồ chú trọng đến hình
20 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
thức “tu tiên”, “bùa chú”... nên việc hành đạo cũng mang tính huyền bí. Hệ thống thờ tự của họ chú trọng đến các vị Phật, tiên, thánh như Ngọc Hoàng Thượng Đế, Thái Thượng Lão Quân, Lão Tử..., ngoài ra còn thờ Phật Thích Ca, Quan Âm, Di Lặc...
Trong quá trình khảo sát, chúng tôi còn nhận thấy không chỉ có tư tưởng, cách hành đạo và thờ tự trong các đạo, các tôn giáo và những người sáng lập kể trên biểu hiện tính đa thần mà trong việc hành xử của tín đồ cũng luôn biểu hiện tính đa thần đó. Tín đồ của các tôn giáo
Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn
(Nguồn: Raymond Cauchetier, http://www.ivivu.com/blog2014/02)
CHƯƠNG VII: ĐẶC TRƯNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO... 21
Thánh đường đạo Islam ở Bà Bao (An Phú, tỉnh An Giang)
(Nguồn: Phương Kiều, http://www.tinkinhte.com)
kể trên không chỉ tin tưởng và thờ cúng các vị thần trong tôn giáo của mình mà còn tin tưởng và thờ cúng cũng như cầu xin các vị thần ngoài tôn giáo của họ, như thờ ông địa, ông thần tài trong gia đình; trong các lễ hội của các tôn giáo khác như lễ hội Bà Chúa Xứ, Linh Sơn Thánh Mẫu, Vu Lan, Noel..., tín đồ của các tôn giáo trên vẫn tin tưởng tham gia, khấn vái và cầu xin.
Như vậy, từ những phân tích trên cho thấy đặc trưng đa thần trong tôn giáo bản địa và tôn giáo dân tộc luôn được biểu hiện đậm nét trong hệ thống tư tưởng, giáo lý, cách thờ tự và cách hành xử của chức sắc cũng như tín đồ trong tôn giáo của họ.
- Đa thần trong tôn giáo thế giới
Tôn giáo thế giới của các cư dân ở Nam Bộ có thể kể đến như Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Tin Lành và Islam. Các tôn giáo này đều có đối tượng thờ tự riêng, nhưng khi xuất hiện ở Nam Bộ thì yếu tố đa thần vẫn
22 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
biểu hiện trong niềm tin của tín đồ. Đặc biệt đối với tín đồ Phật giáo, tính đa thần luôn biểu hiện đậm nét nhất so với các tôn giáo còn lại. Phật giáo Nam tông của người Khmer là một minh chứng rất rõ trong sự đa thần này. Trong quá trình khảo sát, chúng tôi nhận thấy, người Khmer không chỉ tin tưởng vào sự phù trợ và vai trò giải thoát của Đức Phật, mà còn tin vào các vị thần thuộc tín ngưỡng dân tộc như Neak Tà và các vị thần của Bàlamôn cũng như các vị thần liên quan đến thời tiết, dịch bệnh... Chính vì thế, trong đời sống tôn giáo của người Khmer, việc cầu đảo, trừ tà, dịch bệnh, cầu mưa... luôn luôn diễn ra; ngay cả trong chùa của người Khmer cũng có nơi thờ Neak Tà. Đối với tín đồ của Phật giáo Bắc tông (chủ yếu là người Việt), tín ngưỡng đa thần còn được biểu hiện rõ nét hơn. Họ không chỉ tin tưởng vào Đức Phật, các vị bồ tát, mà còn tin tưởng vào sự phù hộ của nhiều vị thần khác nhau, đặc biệt là đối với tín đồ Phật giáo tham gia vào các hoạt động kinh doanh. Họ thường xuyên đi cúng, cầu khấn trong các dịp lễ hội liên quan đến các loại hình tín ngưỡng mẫu và nữ thần như Bà Chúa Xứ, Thiên Hậu Thánh Mẫu, Linh Sơn Thánh Mẫu... hoặc cúng vào các dịp đầu và giữa tháng âm lịch để mong nhận được sự phù hộ từ các đấng thần linh. Trong gia đình của những người này còn thờ các vị thần như thổ địa, thần tài, Quan Công... cũng là yếu tố biểu hiện sự đa thần trong đời sống tâm linh của tín đồ Phật giáo Bắc tông ở Nam Bộ. Trong các chùa của Phật giáo Bắc tông, hình thức thờ tự cũng đa đạng. Bên cạnh việc thờ Đức Phật ở chính điện, trong khuôn viên của chùa còn xuất hiện miếu thờ thổ thần cũng như các vị khuất mặt khác. Như vậy, tính đa thần trong Phật giáo mà chúng tôi tìm hiểu được không chỉ thể hiện trong đời sống tôn giáo của tín đồ mà còn biểu hiện trong các cơ sở thờ tự.
Bên cạnh Phật giáo, tín đồ của Thiên Chúa giáo, Tin Lành cũng biểu hiện tính đa thần. Trong quá trình khảo sát, chúng tôi vẫn phát hiện có những tín đồ Thiên Chúa giáo và Tin Lành người Hoa, tuy
CHƯƠNG VII: ĐẶC TRƯNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO... 23
không nhiều, vẫn tin tưởng vào sự phù hộ của đấng thần linh ngoài tôn giáo của họ. Họ vẫn tham gia vào các buổi cầu khấn để mong phù hộ. Riêng tín đồ của đạo Islam, họ gần như tin tưởng tuyệt đối vào thánh Allah của họ, tuy nhiên vẫn có một số ít người Chăm Islam thực hiện nghi thức chữa bệnh theo tín ngưỡng truyền thống của cư dân ngoài tôn giáo. Đây là điều bị cấm kỵ trong cộng đồng tôn giáo, nhưng không phải là không xuất hiện trong đời sống tâm linh của một số ít tín đồ Chăm Islam.
Tóm lại, tính đa thần trong tín ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt văn hóa là một trong những đặc trưng tiêu biểu của cư dân Nam Bộ, mang yếu tố văn hóa của vùng. Tính đa thần này luôn hiện diện, không chỉ trong các tín ngưỡng dân gian mà còn xuất hiện trong các tôn giáo dân tộc, tôn giáo bản địa và kể cả trong tôn giáo thế giới. Sự xuất hiện yếu tố đa thần trong đời sống tôn giáo của cư dân Nam Bộ đã phần nào nói lên tính cách “phóng khoáng” của cư dân trong vùng Nam Bộ. Họ không bị gò bó trong khuôn khổ nhất định nào và luôn tiếp nhận những cái mới, cái lạ. Chính vì thế mà vùng đất Nam Bộ là nơi đã cho ra đời nhiều tôn giáo bản địa hơn những khu vực khác trong cả nước.
b- Tính khu vực trong tín ngưỡng, tôn giáo
* Tính tương đồng trong khu vực cư trú
Nam Bộ được các nhà nghiên cứu xem là một vùng văn hóa - lịch sử nên giữa các cư dân sinh sống tại vùng đất này từ lâu đã diễn ra quá trình giao lưu văn hóa, dẫn đến sự tương đồng trong tín ngưỡng, tôn giáo.
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy tín ngưỡng, tôn giáo của các cư dân bản địa ở Nam Bộ biểu hiện sự tương đồng trong khu vực cư trú khá nổi bật. Sự tương đồng đó không chỉ biểu hiện trong khu vực Nam Bộ mà còn biểu hiện trong mối liên hệ phân bố cư dân giữa khu vực này với khu vực khác mà cụ thể là đối với các cư dân bản địa ở Nam Bộ.
24 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Khi nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy các cư dân như Xtiêng, Mạ, Chơ Ro... và nhóm Tà Mun đang cư trú và sinh sống ở các địa phương Nam Bộ. Điều đó cũng có nghĩa là sự hiện diện của các cư dân này đã tồn tại từ khá lâu ở Nam Bộ ít nhất cũng từ cuối thiên niên kỷ trước Công nguyên. Địa bàn cư trú của các cư dân này hẳn cũng có nhiều thay đổi, cả sự hiện diện của họ ở vùng ven biển và một vài nơi thuộc vùng đồng bằng hạ lưu các sông Đồng Nai, sông Sài Gòn, sông Vàm Cỏ... hiện nay. Bên cạnh đó, việc phân chia khu vực địa lý của các cư dân bản địa ở Nam Bộ mang tính hành chính và quản lý nhiều hơn các khía cạnh văn hóa - xã hội cư dân. Theo chúng tôi, các cư dân bản địa ở Nam Bộ có sự gắn kết và thống nhất với các cư dân ở Trường Sơn - Tây Nguyên. Đây là một khu vực khá đặc biệt về mặt văn hóa tộc người. Theo một số tác giả, đây có thể xem là một khu vực “ngoại vi”.
Điều này, từ góc độ tín ngưỡng, đã tạo nên nét độc đáo và sự thống nhất của các cư dân bản địa Nam Bộ với Trường Sơn - Tây Nguyên. Tín ngưỡng, tôn giáo của các cư dân bản địa ở Nam Bộ và Trường Sơn - Tây Nguyên trước hết thể hiện thế giới quan của họ, ngoài ra còn biểu hiện mối quan hệ và ứng xử của họ với thiên nhiên trong khu vực sinh sống, và có thể nói, đây là sự gắn kết và đôi khi lệ thuộc vào tự nhiên. Trong quá trình tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy địa bàn cư trú của cư dân bản địa Nam Bộ là một khu vực địa lý có những nét riêng, là phần chuyển tiếp từ rừng núi nam Tây Nguyên với vùng đồng bằng sông Cửu Long. Vùng của khí hậu cận nhiệt đới và rừng mưa nhiệt đới chiếm ưu thế. Sự đối diện của các cư dân này với thiên nhiên không đơn giản, họ vừa khám phá vừa tìm kiếm ở thiên nhiên những gì cần cho cuộc sống và sự tồn tại. Tín ngưỡng là cách nhận thức thiên nhiên một cách tự nhiên. Đây là một khu vực địa lý có những nét riêng, là phần chuyển tiếp từ rừng núi nam Tây Nguyên với vùng đồng bằng sông Cửu Long. Vùng của khí hậu cận nhiệt đới và rừng mưa nhiệt đới chiếm ưu thế. Sự đối diện của các cư dân này với thiên nhiên một cách tương đối dễ
CHƯƠNG VII: ĐẶC TRƯNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO... 25
dàng và phù hợp với trình độ phát triển của các cư dân ít người bản địa ở Nam Bộ. Từ đó, họ sẽ biết cách ứng xử một cách hiệu quả với thiên nhiên trong sự phát triển khá cân đối và hài hòa, thích ứng với thiên nhiên hơn là chinh phục tự nhiên.
Sự ứng xử với thiên nhiên và xã hội của các cư dân bản địa ở Nam Bộ thông qua các hoạt động tín ngưỡng là thể hiện nét văn hóa của các cư dân này. Đó là sự tôn trọng thiên nhiên, sự gắn kết cộng đồng trong mọi mặt của cuộc sống. Hai khía cạnh văn hóa này có ý nghĩa sống còn đối với các cư dân này. Trong bối cảnh trình độ kinh tế - xã hội thuộc phạm trù xã hội tiền giai cấp, cá nhân và cộng đồng cư dân lệ thuộc nhiều vào tự nhiên, cá nhân lệ thuộc vào cộng đồng. Sự tự do và kiến tạo văn hóa của cá nhân rõ ràng quyết định bởi hai khía cạnh trên đây. Tín ngưỡng đã giúp cho việc điều chỉnh hành vi giữa cá nhân với cộng đồng, với tự nhiên, những giới hạn cấm kỵ để bảo tồn sự tồn tại xã hội.
Các cư dân bản địa ở Nam Bộ cho đến nay vẫn còn duy trì đời sống tín ngưỡng với nhiều nét tương đồng với cư dân Trường Sơn - Tây Nguyên. Đó là tính đa thần và phiếm thần của những tín ngưỡng này thể hiện ở khái niệm “yang”, và các dạng thức tín ngưỡng xuất hiện trong thời kỳ nguyên thủy. “Yang” là cách gọi thần linh hoàn toàn giống nhau giữa các cư dân bản địa thuộc ngôn ngữ Môn - Khmer và Malayo
Polynesien. Nét tương đồng thứ hai là sự bảo lưu hệ thống lễ nghi nông nghiệp của các cư dân ở hai khu vực Nam Bộ và Trường Sơn - Tây Nguyên. Cho đến nay, các cư dân bản địa ở hai khu vực này vẫn là những cư dân nông nghiệp trồng lúa và là khu vực của văn minh Nam Á. Nét tương đồng giữa tín ngưỡng cư dân ở hai khu vực còn thể hiện trên nhiều lĩnh vực khác nữa, kể cả vai trò của tín ngưỡng trong đời sống nhiều mặt của các cư dân này.
Bên cạnh sự tương đồng tín ngưỡng, tôn giáo giữa các cư dân bản địa Nam Bộ với các cư dân bản địa ở những khu vực khác, tín ngưỡng,
26 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
tôn giáo của các cư dân di cư cũng biểu hiện sự tương đồng đó. Đó là sự tin tưởng và trở thành tín đồ trong các tôn giáo thế giới như Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Tin Lành, Islam. Ngoại trừ Islam, chỉ có người Chăm và một số ít không đáng kể người Việt tin theo; ba tôn giáo còn lại đều xuất hiện trong các cư dân di cư có dân số đông ở Nam Bộ như Việt, Khmer, Hoa. Do đó, niềm tin, cách thờ tự cũng như việc tổ chức các lễ hội liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo đều gần như có yếu tố tương đồng cả về ngày tháng cũng như cách thức tổ chức; như Noel hoặc Phật đản là hai ngày lễ quan trọng của Thiên Chúa giáo và Phật giáo, tín đồ của các tôn giáo này, không phân biệt cư dân, đều tổ chức và tham gia. Hoặc các loại hình tín ngưỡng thờ mẫu và nữ thần, hay thần thành hoàng đều có sự tương đồng rõ nét giữa các cư dân.
Một yếu tố nữa cũng khá quan trọng trong sự tương đồng, đó là sự tương đồng trong tư tưởng hành đạo giữa các tôn giáo bản địa với các tôn giáo khác.
Trong tôn giáo bản địa, người ta dễ dàng thấy tư tưởng từ bi, bác ái, nhân quả, hiếu hòa đã được tiếp nhận từ Phật giáo được bản địa hóa và đổi mới nhằm thỏa mãn đời sống tâm linh của lưu dân Việt trong tôn giáo bản địa. Tư tưởng của các tôn giáo bản địa từ Bửu Sơn Kỳ Hương đến Hòa Hảo và Cao Đài đều mang tư tưởng Phật giáo, nhưng biểu hiện dưới hình thức khác. Bửu Sơn Kỳ Hương là một hình thái tổ chức tôn giáo mới ở Nam Bộ nhằm khẳng định tính độc lập tự chủ của người Việt ở vùng đất mới. Tôn giáo này tự xưng là một tông phái của Phật giáo, nhưng lại thờ bức trần điều, biểu trưng cho một tinh thần đổi mới. Tôn giáo này còn kế thừa truyền thống thờ cúng những người có công với làng (thờ thần thành hoàng) như thần bảo hộ che chở cho cộng đồng cư dân ở vùng đất mới. Hòa Hảo nối tiếp Bửu Sơn Kỳ Hương với tinh thần canh tân Phật giáo rõ ràng hơn, nhằm đáp ứng những nhu cầu văn hóa và tâm lý ứng xử của người dân Nam Bộ. Đức Huỳnh Phú Sổ chủ trương không xây chùa, đúc tượng, không cúng đồ ăn, thức
CHƯƠNG VII: ĐẶC TRƯNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO... 27
uống, chỉ có hoa, trà, nước lã; không đốt vàng mã, không tiêu tiền lãng phí vào việc ma chay; cưới hỏi không nên thách giá, đòi lễ vật. Từ Bửu Sơn Kỳ Hương đến Phật giáo Hòa Hảo chủ trương: “học Phật, tu nhân, Tứ Ân Hiếu Nghĩa”, cư sĩ tại gia, coi cuộc sống bình thường cũng là sự tu hành, mọi tín đồ đều bình đẳng, không có chức sắc, không có tôn ty về phương diện tu hành. Đặc biệt, ân tổ tiên, cha mẹ, ân đất nước vốn là đạo lý truyền thống của dân tộc, được đạo Hòa Hảo nâng lên thành nguyên lý. Tư tưởng này được thừa kế qua đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa đến Phật giáo Hòa Hảo phù hợp với tâm lý nông dân Nam Bộ trong bối cảnh rất cụ thể của vùng đất này.
Các tôn giáo bản địa Nam Bộ đều đề cao đạo hiếu và nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, tam cương, ngũ thường là những nội dung cơ bản của Nho giáo, nhưng được giải thích loại trừ bớt tính tôn ti, thứ bậc của chế độ đẳng cấp của Nho giáo, tập trung trình bày và giải thích về nhân, hiếu, nghĩa phù hợp với tâm lý và tính cách người nông dân Việt Nam Bộ coi trọng sự bình đẳng và công bằng. Đây là nét khá đặc biệt của người dân Nam Bộ so với người nông dân Bắc Bộ, nơi mà Nho giáo có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống mọi mặt của người dân.
Đạo giáo cũng ghi dấu ấn của nó đối với đời sống tâm linh của người dân, được thể hiện rõ trong đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Đức Bổn Sư Ngô Lợi còn dạy cho tín đồ luyện tinh, khí, thần theo phương pháp của Đạo giáo. Đó là hình thức luyện khí, luyện công, luyện phù chú, kim đan, làm thuốc chữa bệnh, có khi còn luyện để trở thành trường sinh bất tử. Luyện tinh, khí, thần là hết sức cao siêu, vì vậy Đức Bổn Sư không yêu cầu mọi tín đồ phải thực hiện. Tuy nhiên, trên thực tế, ảnh hưởng của Đạo giáo được biểu hiện qua nghi thức nhập đạo, phương pháp chữa bệnh, cách thức bài trí bàn thờ và đối tượng thờ cúng của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Giáo lý Phật giáo Hòa Hảo cũng tự nhận pháp tu của mình theo Lão Trang, hướng về vô vi, thoát tục, vượt lên cõi ô trọc, trần gian. Trong Sấm giảng, người ta cũng tìm thấy những nội dung của Đạo giáo
28 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
như tu tiên, tiên cảnh, cõi tiên. Tư tưởng vô vi của Đạo giáo là cái nổi trội trong giáo lý Hòa Hảo, nhưng ở đây vô vi không phải là không làm gì cả mà chính là không làm điều gì sai trái lẽ tự nhiên là “Chánh đạo” của người Hòa Hảo. Đạo giáo còn thể hiện trong đạo Cao Đài với tinh thần hiệp nhất tôn giáo “Quy Nguyên Tam Giáo, Hiệp Nhất Ngũ Chi” (Phật, Đạo, Nho; Nhân đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo và Phật đạo). Biểu tượng của Đạo giáo là màu xanh da trời bên cạnh Nho màu đỏ, Phật màu vàng. Dấu ấn Đạo giáo còn thể hiện qua nghi lễ và kiến trúc tôn giáo.
Ngoài ra, sự tương đồng trong tín ngưỡng, tôn giáo giữa các cư dân trong khu vực Nam Bộ còn thể hiện qua yếu tố là chỗ dựa tinh thần để vượt qua những khó khăn trong quá trình định cư và mưu sinh ở vùng đất mới.
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy Nam Bộ có khá nhiều bất trắc đối với lưu dân khi đến khai phá và định cư tại vùng đất này. Lúc bấy giờ, tổ chức bộ máy hành chính nhà nước và cơ cấu làng xã lỏng lẻo, tính tự do trong mọi lĩnh vực được hình thành trong dân cư. Thành phần cư dân đến định cư tại Nam Bộ khi ấy, kể cả người Việt, người Hoa và người Khmer, đa phần là những người “thất chí” tại quê nhà. Họ có thể là những người không được trọng dụng, hoạt động chính trị bị đàn áp, nghèo khó, hoặc quan, lính bị biệt phái vào vùng đất Nam Bộ... nên khi định cư, khai phá vùng đất này, họ phải nỗ lực để gây dựng cuộc sống mới. Tất cả những gì liên quan đến đời sống của họ đều phải tạo dựng từ đầu, nhưng lại không có bất kỳ sự trợ giúp nào, do đó họ luôn gặp những bất trắc trong cuộc sống. Chính vì thế, tín ngưỡng, tôn giáo là yếu tố quan trọng để họ dựa vào, và xem đó như một chỗ dựa tinh thần để vượt qua những khó khăn trong cuộc sống mưu sinh và cũng từ đó hình thành nên nét đặc trưng văn hóa của từng cư dân tại Nam Bộ.
CHƯƠNG VII: ĐẶC TRƯNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO... 29
Người Khmer là cư dân di cư có mặt tại Nam Bộ từ rất sớm. Trong buổi đầu định cư tại vùng đất Nam Bộ, người Khmer luôn đối diện với nhiều khó khăn gian khổ, những thế lực của tự nhiên và xã hội, niềm tin vào sức mạnh siêu nhiên, các thần thánh, ma quỷ đã giúp người Khmer đứng vững và tin vào chính bản thân, công việc của mình... Có thể nói, tín ngưỡng và tôn giáo như một phương thức khắc phục những cản ngại của thiên nhiên và xã hội trong lịch sử khai khẩn Nam Bộ của cộng đồng cư dân Khmer.
Người Hoa cũng như người Khmer đều bộc lộ tâm lý lo lắng, thuần phục với thiên nhiên và các thế lực siêu nhiên tại chỗ. Niềm khao khát của họ là mong mỏi được sinh sống yên lành, được làm ăn thuận lợi, do đó theo các dân tộc này, thần đất (thổ thần) là vị thần có khả năng cơ bản nhất để đem lại cho các cộng đồng cư dân cuộc sống tốt đẹp, yên bình. Chính từ tâm lý này mà các cư dân Nam Bộ đều lập miếu thờ thổ thần theo niềm tin của dân tộc mình. Khi người Hoa di dân tới Nam Bộ, nơi đây vẫn còn là vùng đất tương đối hoang vu, chưa được khai phá nhiều, do đó tâm thức vừa nể sợ thần linh (đặc biệt là nể sợ thần đất tại chỗ), vừa cầu mong được thần linh hỗ trợ, che chở, chính vì vậy người Hoa có xu hướng thờ Ông Bổn hoặc Phước Đức Chính Thần, như người Việt thờ Bà Chúa Xứ, người Khmer thờ Neak Tà...
Người Việt cũng như các cư dân kể trên, khi di cư vào Nam Bộ cũng gặp không ít những khó khăn. Sống trong hoàn cảnh thiên nhiên khắc nghiệt, những lưu dân Việt đã phải đấu tranh để sinh tồn, thích nghi với điều kiện và hoàn cảnh mới. Trong bối cảnh lịch sử - văn hóa đó đã làm nên bản sắc tâm lý của người nông dân Việt Nam Bộ. Đó là những người nông dân chất phác đến mức bộc trực, chân thành tới mức thẳng thắn, sống hiếu khách, bao dung và nhân ái, sống tình nghĩa hết lòng vì nhau, sẵn sàng chia sẻ giúp đỡ nhau trong hoàn cảnh khó khăn. Họ sống giản dị, nghĩa khí, trọng nghĩa khinh tài, yêu nước nồng nhiệt, khát khao với tự do, ưa chuộng công bằng, lẽ phải và cầu tiến. Họ
30 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
cởi mở trong giao tiếp và trong tiếp thu cái mới, rất nhạy bén và năng động. Nông dân Nam Bộ đề cao tính dân chủ, bình đẳng, ghét bất công, áp bức. Trong quá trình mưu sinh, họ phải đối phó với nhiều thách đố của cuộc sống, trong điều kiện tính cộng đồng lỏng lẻo đã tạo điều kiện cho tính tự do của cá nhân được khẳng định là yếu tố thúc đẩy tính tìm tòi, sáng tạo, tiếc rằng nó không được nuôi dưỡng trong một hệ thống tri thức chung của xã hội khi mà giáo dục và khoa học kém phát triển. Khởi đầu lưu dân phần đông là người nghèo, ít được học hành; lại do phải kiếm kế mưu sinh, đi lại khó khăn, người nông dân Nam Bộ lúc bấy giờ khó có điều kiện để học hành tới nơi, tới chốn. Trong hoàn cảnh giáo dục Nho học kém phát triển, giáo dục thực dân chỉ ở thành phố lớn, dẫn đến nảy sinh tâm lý không chú trọng vào học thuật, bằng cấp, lại sống trong môi trường hoang sơ, ít bão tố, góp phần hình thành tâm thức của người Việt Nam Bộ. Họ hướng tới đời sống tâm linh nhiều hơn khoa học; thích hoạt động thực tiễn hơn lý luận cao siêu; nhưng đôi khi cũng sa đà vào những sinh hoạt mê tín, hoặc hành động bột phát, thiếu suy xét, cân nhắc1. Chính trong điều kiện đó, sự ra đời của các tôn giáo bản địa Nam Bộ đã góp phần đáp ứng nhu cầu tâm linh của người Việt di cư, nhưng quan trọng hơn là giúp con người cân bằng với đời sống thế tục, cùng họ vượt qua những thử thách và bất trắc của cuộc sống. Những ông đạo - người sáng lập ra các tôn giáo bản địa Nam Bộ - là người hơn ai hết hiểu rõ nhu cầu cuộc sống thế tục và tâm linh của người dân để sáng tạo ra những tôn giáo bản địa mang bản sắc và tính cách người nông dân Nam Bộ. Việc xuất hiện hàng loạt các tôn giáo bản địa, sự biến thể của Phật giáo, tín ngưỡng thờ thần thành hoàng, tín ngưỡng mẫu và nữ thần... đã cho thấy nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của người Việt ở vùng đất mới là rất quan trọng. Vì vậy mà các tôn giáo bản địa nói riêng, cũng như các tín ngưỡng, tôn giáo nói chung luôn được
1. Phạm Bích Hợp: Người Nam Bộ và tôn giáo bản địa (Bửu Sơn Kỳ Hương - Cao Đài - Hòa Hảo), Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2007, tr.134.
CHƯƠNG VII: ĐẶC TRƯNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO... 31
đông đảo quần chúng nông dân người Việt Nam hưởng ứng, tiếp nhận, thực hành và duy trì cho tới hiện nay.
Từ những phân tích trên cho thấy tín ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt văn hóa của các cư dân tại Nam Bộ đều có sự tương đồng trong khu vực cư trú. Đó là do sự tác động của vùng đất mới mà cư dân đến khai phá và định cư xen kẽ, nên giữa họ có quá trình giao lưu, tiếp biến lẫn nhau để dẫn đến sự tương đồng trong tín ngưỡng, tôn giáo và văn hóa giữa các cư dân ở Nam Bộ.
* Tính khu vực trong việc hình thành và biến thể tôn giáo
Có thể khẳng định, Nam Bộ là nơi sản sinh ra nhiều tôn giáo nhất trong cả nước. Khi nghiên cứu về các tôn giáo bản địa Nam Bộ là Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài đều cho thấy một đặc điểm: Nam Bộ chính là mảnh đất sản sinh ra các tôn giáo này, và các tôn giáo này cũng chỉ tồn tại, truyền bá và phát triển ở đây. Duy nhất có đạo Cao Đài phổ biến đến miền Trung, Hà Nội, nhưng vẫn chỉ là những điểm nhỏ, phạm vi ảnh hưởng không lớn. Các tôn giáo bản địa này có phạm vi ảnh hưởng khác nhau ở các tỉnh Nam Bộ. Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương phổ biến ở vùng Tứ giác Long Xuyên nằm giữa hai con sông Tiền và sông Hậu, với nơi khởi phát là Thới Sơn (huyện Tịnh Biên, An Giang), Láng Linh (huyện Châu Phú, An Giang). Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa ra đời tại An Giang, sau đó mở rộng đến các tỉnh miền Tây Nam Bộ như Kiên Giang, Cần Thơ, Trà Vinh, Vĩnh Long, Tiền Giang, Đồng Tháp và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ở miền Đông Nam Bộ. Tín đồ Phật giáo Hòa Hảo sống tập trung đông nhất ở 5 tỉnh là An Giang, Cần Thơ, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Kiên Giang, ngoài ra còn có rải rác ở 12 tỉnh thành của miền Tây Nam Bộ và miền Đông Nam Bộ. Đạo Cao Đài lại phổ biến ở miền Đông Nam Bộ, sau đó lan rộng cả miền Tây Nam Bộ.
Để lý giải vấn đề này, chúng tôi cho rằng những điều kiện tự nhiên, môi trường xã hội của vùng đất mới là đặc biệt quan trọng trong việc hình thành và phát triển tôn giáo bản địa.
32 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Nam Bộ được khai phá cách đây khoảng 7 thế kỷ. Riêng sự có mặt của người Việt tại Nam Bộ thì thời gian chỉ khoảng 4-5 thế kỷ. Nếu tính từ năm Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa, lập phủ Phú Yên năm 1611 thì chỉ khoảng 3 thế kỷ trở lại. Trong bối cảnh đó, việc hình thành nên các cộng đồng người ở khu vực này diễn ra khá rời rạc, thiếu sự dính kết cộng đồng (họ là những người xa lạ không cùng quê, cùng dòng tộc, chỉ có chung là người xa xứ). Đặc biệt là khi thực dân Pháp có mặt ở Nam Bộ, chúng đàn áp, bóc lột người dân, làm cho người dân càng trở nên cùng cực. Từ đó, cộng đồng cần có những cá nhân, những thủ lĩnh nổi trội như kiểu anh hai, ông đạo... để thay mặt quản lý cộng đồng theo phương thức tự quản. Những người này phải có khả năng thu hút tập hợp quần chúng, chiêu dân lập ấp, tổ chức khai khẩn đất đai canh tác, tổ chức sản xuất, tổ chức cuộc sống cộng đồng. Và, từ đó xuất hiện ra các nhân vật như Đoàn Văn Huyên - người sáng lập đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Ngô Lợi - người sáng lập đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa... Họ còn là người có uy tín, biết đối nhân xử thế, giải quyết các tranh chấp lợi ích nảy sinh giữa những con người sống tự do không bị ràng buộc quá chặt vào một sự quản lý nào. Họ là người tiêu biểu cho đạo lý truyền thống của dân tộc biết nắm bắt nhu cầu đời sống thế tục của người dân. Kể cả khi chính quyền xác lập bộ máy thống trị áp bức bóc lột nhân dân thì họ là người tổ chức chống lại sự áp bức bất công luôn đứng về phía người dân để bảo vệ họ. Khi có kẻ thù ngoại bang xâm lược, để bảo vệ Tổ quốc, họ đã đứng ra tổ chức tập hợp quần chúng kháng chiến chống Pháp bằng mọi giá, kể cả sự hy sinh tính mạng (như Quản cơ Trần Văn Thành, Bùi Văn Tây, Nguyễn Đa của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương). Khi mà thôn ấp được tạo dựng, cuộc sống thường nhật của người dân được ổn định, người dân cần được chăm sóc về đời sống tinh thần tâm linh mà một thời gian dài do phải đối phó với công cuộc mưu sinh nhu cầu tâm linh bị dồn nén lại. Để đáp ứng nhu cầu này của cộng đồng, các anh hai,
CHƯƠNG VII: ĐẶC TRƯNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO... 33
ông đạo với vốn tri thức về địa lý, y học và cả Nho học, Phật học đã kiêm nhiệm luôn cả công việc này. Với biện pháp giác ngộ quần chúng bằng huyền linh, màu nhiệm, qua việc chữa bệnh bằng thuốc nam hoặc bùa chú, và bằng tiên tri cũng như việc giảng đạo lý, nêu tấm gương về cách sống, các ông đạo đã thành lập các tôn giáo mới phù hợp với trình độ dân trí lúc bấy giờ. Các ông đạo trong sinh hoạt thường nhật cũng có những biểu hiện khác thường: đệ tử của Phật Thầy Tây An tự xưng là Trùm của Phật hay còn gọi là đạo Đèn vì đốt đèn trị bệnh; Đức Bổn Sư Ngô Lợi còn gọi là Năm Thiếp vì đi tu thiếp; lại có những ông đạo có lối sống khác lạ như đạo Chuối, đạo Dừa, đạo Nổi, đạo Nằm vì ông chỉ ăn chuối, ăn dừa và có thể nổi trên sông hoặc suốt ngày nằm; hoặc có những danh xưng khác lạ như ông Đạo Khùng (Đức Đoàn Minh Huyên), ông Đạo Khùng - Điên (Đức Huỳnh Phú Sổ), ông Đạo Lành (Trần Văn Thành), ông Đạo Trần (vì ông không mặc áo mà cởi trần). Việc các ông xuất hiện với cuộc sống khác thường, với dáng vẻ lập dị đã tạo nên sự huyền bí có ảnh hưởng đáng kể đến tâm lý quần chúng với mức độ đậm nhạt khác nhau tùy theo đức độ và uy tín của các vị. Nhận diện về các ông đạo, có nhà khoa học cho là “những con người lệch lạc tâm thần, tất nhiên là không phải là không còn dính dáng đến cuộc sống cụ thể - những con người khác lạ nếu không nói là điên khùng, đi rêu rao hù dọa một thời tận thế”1, hay “để chỉ những người có khả năng đặc biệt, như khả năng chữa bệnh, khả năng tập hợp quần chúng, khả năng huyền linh, dẫn dắt mọi người theo một chủ thuyết nào đó. Tóm lại, là người có khả năng làm những điều mà mọi người bình thường không làm được và mang màu sắc huyền bí”2. Rõ ràng, sự xuất hiện các
1. Tạ Chí Đại Trường: Thần, người đất Việt, Nxb. Văn nghệ California - USA, 1989, Sđd, tr.293.
2. Phạm Bích Hợp: Người Nam Bộ và tôn giáo bản địa (Bửu Sơn Kỳ Hương - Cao Đài - Hòa Hảo), Sđd, tr.85.
34 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
ông đạo là một hiện tượng đặc biệt ở vùng đất Nam Bộ mà không thấy ở miền Bắc hay miền Trung. Để giải thích cho hiện tượng này, chúng tôi cho rằng đó là yếu tố mang tính địa phương khu vực.
Tính địa phương của các tôn giáo bản địa Nam Bộ ẩn chứa trong chiều kích tâm lý và văn hóa của nông dân người Việt Nam Bộ. Cư dân người Việt Nam Bộ là dân di cư chủ yếu từ Trung Bộ vào Nam qua các giai đoạn lịch sử khác nhau với các thành phần cư dân phức tạp. Trong quá trình chuyển cư, trong hành trang tôn giáo và văn hóa, họ mang theo những tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống, nhưng cũng ít nhiều rơi rụng trong bối cảnh văn hóa xã hội ở vùng đất mới. Để bù đắp vào phần thiếu hụt đó nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa và tâm linh, cư dân Việt Nam Bộ đã sáng tạo nên các tôn giáo mới, các yếu tố văn hóa mới, cả việc tiếp thu văn hóa và tôn giáo của các cư dân cùng cộng cư, sống đan xen bên cạnh, cả tôn giáo và văn hóa phương Tây. Đây là quá trình kế thừa cái truyền thống, lại vừa cách tân, đổi mới khi tiếp nhận tôn giáo và văn hóa bên ngoài trong quá trình bản địa hóa nhưng vẫn mang bản sắc và tính cách của người nông dân Việt Nam Bộ. Đây là một trong những lý do giải thích tại sao các tôn giáo bản địa của người Việt Nam không thể mở rộng và phát triển đến các cư dân khác trong vùng như Hoa, Khmer, Chăm và ngay cả người Việt Trung Bộ và Bắc Bộ. Dòng chảy tôn giáo bản địa bắt đầu từ Bửu Sơn Kỳ Hương đến cao trào là Phật giáo Hòa Hảo mang nhiều yếu tố nội sinh đến ngay cả đạo Cao Đài khi đã tiếp thu nhiều yếu tố của tôn giáo và văn hóa phương Tây, nhưng vẫn mang tính cách đặc trưng tiêu biểu Nam Bộ mà những khu vực khác khó dung hòa được.
Như vậy, trong điều kiện đặc thù của vùng đất Nam Bộ, tôn giáo bản địa được hình thành, và đúng với tính chất “bản địa” của chúng là mang yếu tố đặc trưng khu vực và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi tính khu vực nơi chúng ra đời. Điều đó lý giải vì sao các tôn giáo bản địa chỉ ra đời ở Nam Bộ và cũng chỉ ảnh hưởng đến đời sống mọi mặt của
CHƯƠNG VII: ĐẶC TRƯNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO... 35
người Việt Nam Bộ, mà không có ảnh hưởng đến các tộc người khác cùng cộng cư với người Việt.
Bên cạnh việc xuất hiện các tôn giáo bản địa, các tôn giáo cũng thể hiện tính khu vực này, đó là sự biến thể của các tôn giáo tại Nam Bộ như Minh Sư, Phật giáo Bắc tông...
Đạo Minh Sư xuất hiện từ Trung Quốc vào khoảng năm 618-907 dưới thời nhà Đường của Trung Quốc1. Đạo Minh sư gắn liền với phái Thiền tông do Bồ Đề Đạt Ma, vị Tổ sư đời thứ 28 của Thiền tông Ấn Độ và là vị Tổ sư đời thứ nhất của Thiền tông Trung Quốc, truyền dạy tại Trung Quốc. Đến đời Lục tổ Huệ Năng, Thiền tông Trung Quốc được chia thành hai hệ phái. Hệ phái truyền giáo về phía bắc sang các tỉnh Sơn Đông, Sơn Tây, Hà Bắc... đến các nước Hàn Quốc và Nhật Bản, gọi là Bắc Thiền tông. Hệ phái truyền giáo về phía nam từ Hồ Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, Giang Tây đến Vân Nam... gọi là Nam Thiền tông. Khi Lục tổ Huệ Năng qua đời, Thiền tông bị đình trệ. Sau đó, Mã Công Đạo Nhất và Bạch Ngọc Cư Sĩ gây dựng lại Hệ phái Nam Thiền tông và trở thành hai vị Tổ thứ bảy của phái Thiền tông. Đến cuối đời nhà Hậu Chu (955), Phật đường Nam Thiền tông bị đình trệ do triều đình ra lệnh phá hủy chùa chiền, am viện. Khi nhà Minh bị Mãn Thanh lật đổ, các quan thần của nhà Minh lập nên hai nhóm: quan võ lập nên Thiên Địa Hội; quan văn lập nên Minh Sư Đạo dựa trên nền tảng của hệ phái Nam Thiền tông để trở thành những hội kín, núp dưới hình thức tôn giáo nhằm hoạt động chính trị với mục đích “bài Thanh phục Minh”.
Mục đích của các quan thần nhà Minh bất thành nên đã tìm đường lánh nạn sang Việt Nam và được chúa Nguyễn cho cư trú ở vùng đất Nam Bộ. Từ đó, đạo Minh Sư và Thiên Địa Hội có mặt ở đây.
1. Nội dung của phần này dẫn lại từ Huỳnh Ngọc Thu: Đời sống tôn giáo của tín đồ đạo Cao Đài trong bối cảnh văn hóa Nam Bộ, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009.
36 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Tại Nam Bộ, đạo Minh Sư gắn liền với tên tuổi của các vị như Đại Lão sư Ngô Đạo Chương, Thái Lão sư Trần Đạo Minh, Thái Lão sư Vương Đạo Thâm... Sau một thời gian phát triển, đạo Minh Sư ở Nam Bộ biến thể và hình thành nên các tông như Tông Đức Kế, Tông Phổ Tế, Tông Hoằng Tế... Từ các tông này sau đó lại chia ra thành 4 chi khác nhau, gồm Minh Đường, Minh Lý, Minh Thiện, Minh Tân. Bốn chi này hợp với chi Minh Sư trở thành Ngũ chi Minh Đạo. Tôn giáo này thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế và Diêu Trì Kim Mẫu tại Chính điện, thường xuyên tổ chức cầu cơ để tiếp xúc với các đấng thiêng liêng. Ở các đình, miếu, đặc biệt là tại các chùa của Minh Sư, thường xuyên tổ chức cầu cơ, tiếp điển với các đấng thiêng liêng, các vong linh quá vãng để tìm hiểu thế sự, vận mệnh quốc gia hoặc để xin toa thuốc chữa bệnh.
Phật giáo Bắc tông tại Nam Bộ cũng vậy1. Khi truyền vào Nam Bộ, để phù hợp với hoàn cảnh khẩn hoang nên Phật giáo Bắc tông đã có nhiều thay đổi. Các nhà sư Phật giáo Bắc tông vào Nam Bộ cùng với những người khẩn hoang đã tạo dựng các ngôi chùa thành các trung tâm Phật học để truyền đạt tư tưởng giáo lý Phật giáo uyên thâm. Nhưng bên cạnh đó, yếu tố tín ngưỡng dân gian vẫn được lồng vào trong tư tưởng Phật giáo Nam Bộ. Tại Nam Bộ vẫn có không ít nhà sư không chỉ đảm nhận vai trò của một vị sư tôn giáo, phổ độ chúng sinh mà còn kiêm cả việc đuổi tà, trị quỷ bằng việc luyện bùa phép, roi thần để cứu chúng sinh... hoặc việc xuất hiện một bộ phận “nhà sư miệt vườn”, học thuộc vài cuốn kinh để đi tụng cầu siêu trong các đám tang cũng là một yếu tố mới lạ trong tôn giáo này ở Nam Bộ. Bên cạnh đó còn xuất hiện thêm một hệ phái mới là hệ phái Khất sĩ như là nét đặc trưng của tín ngưỡng và tôn giáo tại Nam Bộ.
Như vậy, chính yếu tố bất trắc của vùng đất mới mà cư dân tại nơi đây đã sản sinh ra nhiều tôn giáo bản địa hoặc làm biến thể các tôn giáo
1. Dẫn lại từ Huỳnh Ngọc Thu: Đời sống tôn giáo của tín đồ đạo Cao Đài trong bối cảnh văn hóa Nam Bộ, Luận án tiến sĩ, Tlđd.
CHƯƠNG VII: ĐẶC TRƯNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO... 37
dân tộc, thế giới để phù hợp với điều kiện và nhu cầu của tâm linh của lưu dân tại vùng đất này.
c- Tính hỗn dung trong tín ngưỡng, tôn giáo
Như đã trình bày, Nam Bộ được xem là vùng văn hóa - lịch sử nên tín ngưỡng, tôn giáo giữa các cư dân không chỉ có sự tương đồng mà còn có sự hỗn dung lẫn nhau. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy yếu tố hỗn dung được biểu hiện rõ nét, trước tiên là qua các tôn giáo bản địa của người Việt.
Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương có sự pha trộn, dung hòa của 3 tôn giáo: Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo. Tuy nhiên, nền tảng của giáo lý Bửu Sơn Kỳ Hương chủ yếu là giáo lý của đạo Phật nhưng được bản địa hóa, bình dân hóa phần lý thuyết cho phù hợp với tâm thức và trình độ dân trí lúc bấy giờ. Bửu Sơn Kỳ Hương lấy lý thuyết Mạt thế luận (Eschatology) làm trung tâm, lấy “thành tâm” làm gốc, lấy “hướng thiện” làm mục đích với pháp môn “học Phật, tu nhân”. Việc học Phật, tu nhân đúng với đạo làm người với gia đình, xã hội lại theo tiêu chuẩn Nho giáo phù hợp với luân thường đạo lý: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Theo Phật Thầy Tây An, muốn tu thân phải thực hiện tứ ân, vì đó là điều cơ bản của đạo làm người. Nhưng Bửu Sơn Kỳ Hương không chú trọng vào vấn đề học Phật, chỉ chú trọng vào tứ đại trọng ân, học Phật chỉ là theo gương Đức Phật. Nhưng, mỗi khi nhập đạo, Phật Thầy luôn dạy cho tín đồ học và luyện “phép thần thông”, mật chú và bí pháp tông truyền, giúp cho tín đồ tu luyện và làm thuốc chữa bệnh chịu ảnh hưởng của Đạo giáo. Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương chủ trương đơn giản các luật lệ, lễ nghi và cách thức hành đạo. Bửu Sơn Kỳ Hương không coi trọng sắc tướng, không thờ tượng Phật, không họa tranh ảnh và dùng một tấm vải trần điều (màu đỏ hình chữ nhật) làm biểu tượng cho tôn giáo của mình. Khi lễ Phật không tụng kinh gõ mõ, chỉ niệm lục tự: Nam Mô A Di Đà Phật.
38 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa ra đời sau Bửu Sơn Kỳ Hương 18 năm, kế thừa những đức tin, nghi lễ của Bửu Sơn Kỳ Hương, nhưng có một số điểm mới. Ngoài việc tưởng niệm danh hiệu Phật còn thực hiện chuông mõ, xâu chuỗi và đọc kinh Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Với nguyên lý học Phật, tu nhân và các phương pháp như tu luyện, ấn chú, rèn luyện tinh, khí, thần..., đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có pháp môn tu hành hỗn dung: Trì niệm và ấn thần chú theo tinh thần của Thiền, Tịnh, Mật của Phật giáo; xử sự theo Nho giáo; và rèn luyện tinh, khí, thần theo Đạo giáo. Các pháp môn đó được thực hiện theo tôn chỉ: Kính trọng chung Phật, thánh, tiên, xem tam giáo cùng một gốc. Tuy nhiên, nếu xét kỹ cho thấy đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa được hình thành trên cơ sở kế thừa và kết hợp một số nội dung của Phật, Nho, Đạo. Chùa của Tứ Ân Hiếu Nghĩa về hình dáng, cấu trúc, bố trí chịu ảnh hưởng của phép tu tiên, luyện đan và những ý tưởng của Lão Trang. Chùa được xây theo kiểu bát quái và tứ tượng, mái thẳng ít nhiều chịu ảnh hưởng của Phật giáo Tiểu thừa và chùa miếu người Hoa trong vùng. Chùa thờ cúng các đối tượng khác nhau của Phật, Nho, Lão và những đối tượng của tín ngưỡng dân gian, những người có tài, đức và có công khai khẩn và truyền đạo. Chùa còn thờ các đối tượng khác nhau: Mộc trụ thần quan, Thổ trạch long thần, Chánh đức thiên la thần, Tả mạng thần, Tây phương cực lạc, Tiền hiền khai khẩn, Hậu hiền khai cơ, Cửu huyền thất tổ bên nội, Thập nhị tổ sư kỹ nghệ, Phật vương, Phật Thầy Tây An, Đức Bổn Sư, Phật trùm, Thiên Hoàng, Địa Hoàng... Vì tiếp thu nhiều tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau nên hằng năm lễ chùa khá nhiều, ngoài lễ thường trong ngày (2 lần), trong tháng (3 lần), mỗi năm chùa có 23 lễ lớn được tổ chức long trọng và kéo dài, thu hút nhiều tín đồ tham dự.
Phật giáo Hòa Hảo là sự lặp lại, vay mượn, nhưng có nâng cao về tư tưởng của Bửu Sơn Kỳ Hương. Kế thừa giáo lý của Bửu Sơn Kỳ Hương, Phật giáo Hòa Hảo tiếp thu thế giới quan Phật giáo, đặc biệt là quan niệm về Hạ nguyên, Mạt pháp, Hội Long Hoa. Đức Phật Thầy cho rằng
CHƯƠNG VII: ĐẶC TRƯNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO... 39
ngày Hội Long Hoa đã đến gần, vì vậy phải tìm con đường tu thật ngắn, giản dị, phù hợp với quần chúng. Đối với tín đồ Hòa Hảo, đa số là nông dân. Huỳnh Phú Sổ chủ trương: cư sĩ tại gia, học Phật, tu nhân. Khái niệm cư sĩ tại gia không chỉ là thờ Phật tại nhà mà là mọi tín đồ vẫn sống bình thường và chính cuộc sống bình thường đó cũng là tu hành. Cũng như Bửu Sơn Kỳ Hương, đạo Hòa Hảo chủ trương với đức tin “Tại gia cư sĩ, học Phật, tu nhân”, làm tròn hiếu nghĩa với việc thực hiện tứ ân. Trong đó, ân tổ tiên cha mẹ được nâng lên thành nguyên lý hàng đầu, kế thừa truyền thống tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và đạo hiếu của dân tộc. Phật giáo Hòa Hảo còn mở rộng, kết hợp tứ ân với tinh thần quốc gia, đồng bào với tinh thần quốc tế nhân loại, chủ trương xóa bỏ đẳng cấp, theo tinh thần bình đẳng giữa chúng sinh của Phật giáo được hiện đại hóa. Cũng như Bửu Sơn Kỳ Hương, Phật giáo Hòa Hảo ngoài yếu tố nổi trội
An Hòa Tự của Phật giáo Hòa Hảo
(Nguồn: Tuệ Minh)
40 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
của Phật giáo còn có sự kết hợp, pha trộn Phật, Nho, Đạo theo nguyên tắc tam giáo đồng nguyên. Sấm giảng của Phật giáo Hòa Hảo chịu ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo như tam cương, ngũ thường, tiết hạnh, biện giải về công, dung, ngôn, hạnh đối với phụ nữ. Mượn tư tưởng của Nho giáo về tu nhân, nhưng khác với Nho giáo, tu nhân không phải trở thành người quân tử mà để trở thành người có phẩm hạnh tốt. Tu nhân để trở thành người hiền: “Tu cho rõ biết chữ hiền ra sao”. Huỳnh Phú Sổ thường gọi đạo của người là đạo tu Hiền, là đạo Lành. Về Đạo giáo, Phật giáo Hòa Hảo cũng tự nhận pháp tu của mình là pháp tu của Lão Trang, hướng về vô vi thoát tục, vượt lên cõi ô trọc trần gian.
Phật - Trời chẳng luận giàu nghèo
Ai nhiều phước đức được vào cõi tiên1
Trong các sấm giảng, người ta thấy các từ mang nội dung Đạo giáo như: Tu tiên, tiên cảnh, cõi tiên. Nếu như ở phần tam nguyên, người ta thấy mẫu hình lý tưởng của Hòa Hảo là xã hội Thượng nguyên, theo tư tưởng Nho giáo là đời Nghiêu - Thuấn thì mẫu hình theo Đạo giáo là “Cõi tiên”, “Tiên bang”, “Tiên cảnh”:
Kể từ tiên cảnh ta về
Non bồng ta ở dựa kề mấy năm2
Hữu phần thì cũng hữu duyên
Sửa tâm hiền đức cõi tiên cũng gần3
Tư tưởng “vô vi” của Đạo giáo là nổi trội trong giáo lý Hòa Hảo, nhưng vô vi ở đây không phải là không làm gì cả mà chính là không làm điều gì trái lẽ tự nhiên. Đây là “Chánh đạo” của người Hòa Hảo: Làm vô vi chánh đạo mới màu
Đạo Thích Ca nhiều nẻo cao sâu
Hãy tìm kiếm cái không mới có4
1, 2, 3, 4. Sấm giảng, tr.27, 69, 71, 61.
CHƯƠNG VII: ĐẶC TRƯNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO... 41
Khác với Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Phật giáo Hòa Hảo do các ông đạo sáng lập, là người có uy tín, có năng lực tổ chức, am hiểu tín ngưỡng và các tôn giáo truyền thống của dân tộc, đạo Cao Đài trái lại do các nhân vật thuộc tầng lớp trên của xã hội như địa chủ, quan chức, công chức, trí thức vừa sống trong môi trường xã hội thực dân, phong kiến lại tiếp xúc với văn hóa phương Tây vào thời điểm đất nước bắt đầu bước vào quá trình chuyển đổi lớn trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị - xã hội. Vì vậy, đạo Cao Đài mở rộng thêm tính hỗn dung trong việc xây dựng một tôn giáo mới. Khác với các tôn giáo khác có xu hướng “hòa nhi bất đồng”, đạo Cao Đài được xây dựng theo xu hướng hòa nhập các tôn giáo làm một. Đây là sự tiếp nối truyền thống tôn giáo bản địa Nam Bộ có trước. Vì vậy, giáo lý Cao Đài không có hệ thống tín điều có chiều sâu dựa trên tư tưởng triết học, thần học như các tôn giáo khác, mà là sự kết hợp giáo lý tín ngưỡng, tôn giáo cổ, kim, đông, tây. Điểm mới mẻ của đạo Cao Đài ở chỗ muốn tạo nên một tôn giáo bao trùm lên toàn thể các tôn giáo khác. Vì vậy, các nhà sáng lập nên đạo Cao Đài gọi tôn giáo của mình là “Đại Đạo”. Khi toàn thể nhân sinh đã vào một đạo thì chẳng khác nào như con một nhà, lúc ấy sẽ đến một thế giới đại đồng. Sự hỗn dung các giáo lý tôn giáo thể hiện rõ ràng trong đối tượng thờ phụng của đạo. Trên bàn thờ đạo Cao Đài, dưới “Thiên Nhãn” là Phật Thích Ca, Lão Tử, Khổng Tử, Quan Âm, Lý Thái Bạch, Quan Thánh, Giêsu Kitô, Khương Thái Công, cả thảy có 8 vị. Thượng đế của đạo Cao Đài cũng được gọi bằng nhiều tên: Ngọc Hoàng, Ngọc Đế, Cao Đài, Huyền Khung Cao Thượng Đế, Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn... nhưng tên thông dụng là Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Vì theo giáo lý Cao Đài, danh xưng này thể hiện sự hỗn dung các tôn giáo mà mọi tín đồ tôn giáo đều thấy trong đó: Cao Đài thuộc Nho giáo, Tiên Ông thuộc Đạo giáo, Đại Bồ Tát Ma Ha Tát thuộc Phật giáo. Tinh thần hợp nhất các tôn giáo của Cao Đài còn được giải thích ở khái niệm “Đại đạo Tam kỳ Phổ độ”, “Quy nguyên tam giáo” và
42 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN Tòa thánh Tây Ninh
(Nguồn: Ngọc Thu)
“Hiệp nhất ngũ chi”. Tư tưởng tam giáo (Nho, Phật, Đạo) được xem như là trung tâm của giáo lý Cao Đài. Cao Đài cho rằng, họ là một tôn giáo dựa trên cơ sở “Quy nguyên tam giáo”, tức là hợp nhất 3 tôn giáo lớn phương Đông là Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo. “Hiệp nhất ngũ chi” là sự thống nhất 5 ngành đạo: Nhân đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo và Phật đạo. Giáo lý đạo Cao Đài cũng giải thích về “Tam kỳ phổ độ” mang màu sắc cứu thế mà chúng tôi đã trình bày ở trên. Tính hỗn dung của Cao Đài còn thể hiện qua tổ chức, nghi thức, hành vi của đạo, thể hiện qua việc sắp xếp trật tự thần, thánh, tiên, Phật qua cách ứng xử theo tinh thần của đạo Khổng, cách tu luyện theo Đạo giáo, qua đạo đức từ bi, bác ái, ăn chay theo Phật, qua cách ăn mặc theo 3 màu
CHƯƠNG VII: ĐẶC TRƯNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO... 43
của 3 tôn giáo: Phật (màu vàng), Đạo (màu xanh da trời), Nho (màu đỏ). Điều này, nhiều nhà khoa học đã có nhận định về đạo Cao Đài: “Cao Đài là một tôn giáo hỗn dung, có khuynh hướng thông thiên học, kết hợp với Phật giáo, Kitô giáo, Khổng giáo, Lão giáo, Thần đạo. Nhưng nổi bật vẫn là thuyết thông linh (spiritisme). Giáo phái tôn giáo - chính trị này được tổ chức chặt chẽ và sử dụng cơ cấu ấy để truyền bá các sứ điệp từ thế giới bên kia”1.
Chùa Vàm Ray (xã Hàm Tân, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh)
(Nguồn: http://www.lamsao.com)
Về tính hỗn dung trong các tôn giáo bản địa của người Việt Nam Bộ, lâu nay được giải thích trên các phương diện khác nhau: sử học, tâm lý học, nhân học, tôn giáo học... Có ý kiến cho rằng, do không có một
1. Trích lại của Đỗ Quang Hưng: Vài suy nghĩ về vấn đề tôn giáo ở Nam Bộ thời cận đại, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 2, 2000.
44 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
hệ tư tưởng chính thống đóng vai trò định hướng cho sinh hoạt chính trị - xã hội, do không có một tôn giáo chủ lưu, trong lúc lại có sự trống vắng trong đời sống tâm linh, người Việt Nam Bộ lựa chọn cách tiếp thu hỗn hợp những tinh hoa của các tôn giáo khác nhau trên nền tảng tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống để xây dựng các tôn giáo mới phù hợp với đời sống tinh thần của người dân. Từ góc nhìn tâm lý và văn hóa, lại có ý kiến cho rằng, tính cách mở và thoáng của người Việt Nam Bộ cho phép họ trong cùng một lúc có thể tiếp thu nhiều tôn giáo khác nhau để xây dựng một tôn giáo mới từ các tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống, nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm linh của người dân trong bối cảnh lịch sử văn hóa lúc bấy giờ.
Bên cạnh sự hỗn dung trong tôn giáo bản địa của người Việt, trong Phật giáo Nam tông của người Khmer cũng biểu hiện tính hỗn dung này.
Phật giáo được người Khmer tiếp nhận trên cơ sở văn hóa của người Khmer. Phật giáo Khmer không bài bác tín ngưỡng của người Khmer và trong chừng mực nào đó có mối quan hệ mang tính hỗn dung, chấp nhận sự cộng sinh. Có thể thấy trong các ngôi chùa Khmer Nam Bộ đều có miếu thờ Neak Tà gọi là Neak Tà Wat (Ông Tà Chùa). Phía sau bàn thờ Phật thường có tượng hoặc phù điêu hình nữ thần Himthiry là nữ thần đất trong tín ngưỡng Khmer... Trong một số nghi lễ dân gian như tang lễ, cầu đảo, cúng trừ tà, dịch bệnh... của người Khmer có sự tham dự của các nhà sư với vai trò khá tích cực.
Ngoài các loại hình tín ngưỡng nêu trên, trong lịch sử cư dân Khmer Nam Bộ đã có thời kỳ chịu ảnh hưởng của Bàlamôn giáo, một tôn giáo cổ ở Ấn Độ. Những ảnh hưởng này có từ trước khi người Khmer tìm đến định cư ở vùng đất Nam Bộ. Khi đến Nam Bộ, Phật giáo đã xác lập được vai trò, vị trí quan trọng trong đời sống của người Khmer. Tuy nhiên, dấu vết của tôn giáo Bàlamôn vẫn còn ít nhiều trong đời sống và trong Phật giáo của người Khmer Nam Bộ.
CHƯƠNG VII: ĐẶC TRƯNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO... 45
Ngoài ra, trong nhiều gia đình Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long đã có bàn thờ tổ tiên với bát hương, vốn là một dạng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt, người Hoa. Nhiều người Khmer đã đến chùa của người Việt, người Hoa, đã tham dự các lễ tết như Tết Nguyên đán, Tết Nguyên tiêu của người Việt, người Hoa... Sự tiếp nhận những ảnh hưởng tín ngưỡng, tôn giáo từ các cư dân cộng cư đã góp phần làm phong phú văn hóa của người Khmer và cũng góp phần vào sự gắn bó của người Khmer với vùng đất Nam Bộ và các cư dân anh em trong đại gia đình dân tộc Việt Nam.
Tín ngưỡng, tôn giáo của người Hoa ở Nam Bộ cũng vậy. Tính hỗn dung luôn được biểu hiện trong đời sống tôn giáo của họ. Có thể nói, tín ngưỡng, tôn giáo của người Hoa là một sự tổng hợp hòa nhập của hệ thống “Tam giáo đồng nguyên”. Phật giáo của người Hoa không phải độc lập, thuần nhất trong nền tảng Phật pháp mà ngay từ những ngày đầu định cư tại Nam Bộ, Phật giáo của người Hoa đã hòa trộn với vô số tín ngưỡng đa thần.
Các chùa Phật giáo của người Hoa luôn thể hiện nét “Tam giáo đồng nguyên”. Trong chính điện, ngoài các tượng Phật còn có những pho tượng tiêu biểu về Đạo giáo như Ngọc Hoàng Thượng Đế, Thái Thượng Lão Quân, Nam Tào, Bắc Đẩu, Bát Tiên (8 vị tiên của Đạo giáo)... ngoài ra còn có các pho tượng thuộc Nho giáo như Văn Xương Đế Quân, Quan Thánh Đế Quân. Đặc biệt hơn hết là mối liên hệ sâu sắc giữa Phật giáo người Hoa với tàn dư của Bàlamôn mà nếu không chú ý sẽ khó nhận ra. Ngoài ra, dấu ấn của các tín ngưỡng dân gian như Thần hổ, tín ngưỡng thờ mẫu và nữ thần... cũng hiện diện đan kết trong các dạng thức của tín ngưỡng của người Hoa. Tín ngưỡng đa thần của người Hoa khi đan xen, hòa trộn với Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo còn lồng ghép với một hình thức khá phức tạp khác là Shaman giáo. Shaman có thể cộng sinh với tôn giáo thế giới hoặc là một nhân tố quan trọng trong hệ thống niềm tin vạn vật hữu linh. Đôi
46 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
khi Shaman giáo được xem là một dạng thức phổ biến của hành vi tôn giáo và thường cộng sinh với những tôn giáo chính thống khác, như là Phật giáo ở Đông Nam Á1. Đời sống tín ngưỡng của người Hoa ở Nam Bộ đây đó vẫn có hiện tượng Shaman chữa bệnh hoặc nhập đồng dưới dạng “Ông lên” để chỉ bảo người dân làm ăn, như tại Vĩnh Châu (Sóc Trăng), những người nuôi tôm sú cầu “Ông lên” cho ngày thả tôm giống, hoặc ở An Giang, cầu “Ông lên” để tảo trừ ma quỷ, cầu an cho dân cư... Phải chăng các nghi thức của tôn giáo sơ khai này đã phản ánh cuộc sống từ xưa của người Hoa ở Nam Bộ đã vốn đầy bất trắc. Có lẽ chính vì vậy mà nhiều nhà sư, cư sĩ Phật giáo người Hoa cũng như Việt, nhất là ở vùng nông thôn Nam Bộ, trong nhiều trường hợp đã phải kiêm cả vai trò thầy pháp, thầy cúng...
Trong xu thế giao lưu với những dòng tôn giáo thế giới, đặc biệt là của phương Tây như Thiên Chúa giáo, Tin Lành... thì hành trang văn hóa của người Hoa với khối “sức nặng” đồ sộ của tín ngưỡng, tôn giáo đã có của họ khiến cho những tín đồ Thiên Chúa giáo, Tin Lành là người Hoa không thể nào có tâm thức độc thần dành riêng cho Chúa mà chắc rằng đời sống tâm linh, tinh thần của họ vẫn là tâm thức đa thần. Trong quá trình sinh sống khoảng 300 năm qua tại Nam Bộ, cộng cư chủ yếu với người Việt, người Khmer, người Hoa đã trải nghiệm sự giao lưu văn hóa giữa các cư dân về tín ngưỡng, tôn giáo khá rõ nét. Tất nhiên, sự giao lưu văn hóa ở đây “không đồng sức” vì người Việt và người Khmer, đặc biệt là người Việt, đã “vay mượn”, ảnh hưởng nhiều dạng thức tín ngưỡng, tôn giáo của người Hoa hơn là ngược lại. Nhưng điều khá thú vị là mặc dù với hành trang dồi dào phong phú về tín ngưỡng đa thần, người Hoa vẫn tích hợp những mô thức tín ngưỡng của người Việt vào trong hệ thống thờ tự của mình, nhất là tín ngưỡng thờ mẫu của người Việt, như Bà Chúa Xứ,
1. Bowie F.: The Anthropology of Religion, Blackwell, 2001, p.269.
CHƯƠNG VII: ĐẶC TRƯNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO... 47
Linh Sơn Thánh Mẫu, cũng như mô thức tín ngưỡng thần thành hoàng trong đình của người Việt...
d- Tính cứu thế và nhập thế trong tín ngưỡng, tôn giáo
Tính nhập thế trong tín ngưỡng, tôn giáo của cư dân Nam Bộ được biểu hiện rõ nét nhất qua yếu tố cứu thế trong các tôn giáo bản địa cũng như tôn giáo thế giới.
Trong các tôn giáo bản địa, tính cứu thế xuất hiện là do bối cảnh xã hội Nam Bộ lúc bấy giờ hình thành nên. Người Việt có mặt ở Nam Bộ vào khoảng thế kỷ XVI. Họ đến phương Nam khai mở đất đai ở vùng Mô Xoài - Bà Rịa, Biên Hòa - Đồng Nai. Lớp lưu dân đầu tiên là những tù nhân bị lưu đày, những kẻ phạm tội, phần đông là dân nghèo và những điền chủ xứ Ngũ Quảng vào Nam khai hoang, lập làng. Rời khỏi cộng đồng cũ của mình, ở vùng đất mới, muốn tồn tại và phát triển, họ phải sát cánh bên nhau, đối diện với giặc dã, ác thú, bệnh tật để khẩn hoang mở đất lập làng. Chính trong bối cảnh đó đã hình thành tính cách người nông dân Nam Bộ khác với các vùng miền khác.
Công cuộc khẩn hoang buổi đầu mang tính tự phát, thiếu luật lệ, thiếu sự quản lý của nhà nước. Kể từ năm 1698, chính thức đánh dấu sự xuất hiện của các đơn vị hành chính đầu tiên của chính quyền Đàng Trong ở Nam Bộ. Kể từ đó, nhà Nguyễn khẳng định chủ quyền hợp pháp bằng việc thiết lập và thực thi quyền quản lý nhà nước đối với vùng đất Nam Bộ bằng việc bổ nhiệm quan lại, thu thuế trong dân... Tuy nhiên, vấn đề xây dựng, quốc kế dân sinh ở khu vực này vẫn chưa được chính quyền xem trọng và chú ý đúng mức.
Trước tình hình đó, vai trò của các ông đạo đã góp phần rất lớn trong việc ổn định xã hội, thu hút dân tình và tiếp tục khai phá vùng đất Nam Bộ.
Hiện tượng các ông đạo và các tôn giáo bản địa do các ông sáng lập đã mang màu sắc cứu thế nhằm để làm tốt việc đời.
48 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Chính uy tín, tài năng, đức độ của các ông đạo và kể cả các môn đệ của các ông khi còn sống và sau khi chết đã gắn liền với vùng đất khai khẩn lập làng và các tôn giáo này. Ngay cả sau khi các ông mất, các tôn giáo này vẫn tiếp tục tồn tại, nhưng không mở rộng phạm vi ảnh hưởng của nó. Nhân dân vẫn tiếp tục giữ lại tôn giáo của mình và họ coi các ông đạo trở thành vị thần bảo hộ cộng đồng trên vùng đất mới, hình thành trong điều kiện đặc thù của công cuộc khai phá vùng đất Nam Bộ. Họ không phải là vị thần bảo hộ của làng (thần thành hoàng làng) mà là vị thần bảo hộ của một vùng, một khu vực, do công lao trong cuộc khai phá buổi đầu. Hiện trạng này cho đến nay vẫn thấy, đạo Bửu Sơn Kỳ Hương sau khi Phật Thầy Tây An mất, tín đồ còn lại chỉ ở vùng đất khởi phát đạo, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa chỉ ở Ba Chúc (An Giang), đạo ông Trần - một chi nhánh của Tứ Ân Hiếu Nghĩa ở Long Sơn (Vũng Tàu). Ngay đạo Hòa Hảo tiếp nối phong trào của Bửu Sơn Kỳ Hương có ảnh hưởng khá rộng, nhưng sức lan tỏa của nó cũng không vượt khỏi địa bàn khởi phát được ấn định ngay từ đầu bởi công cuộc khẩn hoang, lập ấp tổ chức đời sống cộng đồng.
Bên cạnh việc khai khẩn và ổn định cuộc sống cho cư dân tại vùng đất Nam Bộ, các tôn giáo bản địa còn có vai trò bảo vệ lãnh thổ Nam Bộ. Một số nhà nghiên cứu Việt Nam cho rằng các tôn giáo bản địa Nam Bộ ra đời vào nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là những phong trào tôn giáo cứu thế hay mang màu sắc cứu thế. Khái niệm “tôn giáo cứu thế” (messianisme, religion messianiste) hoàn toàn không mang tính thần học như giáo thuyết của Thiên Chúa giáo mà để chỉ chung các tôn giáo ra đời trong bối cảnh bị đàn áp và bóc lột của chế độ thực dân, gắn liền với sự thất bại của phong trào chống thực dân của người dân bản xứ. Sự ra đời của phong trào “tôn giáo cứu thế” thể hiện lòng mong ước xuất hiện một lãnh tụ kiệt xuất của nông dân đến lãnh đạo họ chống áp bức dân tộc, chống ảnh hưởng ngoại lai, đưa họ trở về với
CHƯƠNG VII: ĐẶC TRƯNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO... 49
cội nguồn dân tộc mà họ tin là có sức mạnh vô địch1. Phong trào “tôn giáo cứu thế” là một hiện tuợng đặc trưng, xuất hiện trong bối cảnh chế độ thực dân xâm lược thuộc địa phổ biến trên thế giới, được các học giả nước ngoài quan tâm nghiên cứu. Điều này được minh chứng rõ qua quá trình hình thành và phát triển của các tôn giáo bản địa.
Bửu Sơn Kỳ Hương ra đời trong hoàn cảnh xã hội đen tối, chiến tranh tàn khốc, đói kém, dịch bệnh tràn lan đe dọa sinh mạng con người. Đoàn Văn Huyên cho rằng đó là điềm báo trước đời “Hạ ngươn” sắp mãn. Theo ông, phải vượt lên trên, loại trừ cái xấu, cái ác, để bước vào “Hội Long Hoa”. Hội chọn những người ăn ở có nhân có đức được sống cuộc đời an lạc, thái bình mãi mãi, đồng thời cũng là ngày hội của tiên, Phật trừng trị những kẻ gian ác, mất nhân tính. Đức tin của Tứ Ân Hiếu Nghĩa cũng vậy, kế thừa từ quan niệm ngày tận thế và Hội Long Hoa trong thời kỳ Hạ ngươn của Bửu Sơn Kỳ Hương vốn tiếp thu từ ảnh hưởng Phật giáo. Cái mới của quan niệm Tứ Ân Hiếu Nghĩa là lòng tin vào ngày Hội Long Hoa khai mở vào ngày gần kề không phải diễn ra ở nơi nào khác trên thế giới mà ngay tại Núi Cấm - Thất Sơn, không đề cập tới cõi Niết Bàn mang tính mạt thế luận.
Tiếp thu giáo lý Bửu Sơn Kỳ Hương, Đức Huỳnh giáo chủ tự xưng là người đắc đạo, biết được mọi chuyện quá khứ, hiện tại và tương lai. Ông tuyên bố đã thọ mệnh Đức Phật A Di Đà, Phật Thích Ca và Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng trần để cứu độ chúng sinh thoát khỏi trầm luân, bể khổ. Kế thừa giáo lý Bửu Sơn Kỳ Hương, Phật giáo Hòa Hảo đặc biệt quan tâm đến Hạ nguyên, Mạt pháp và ngày Hội Long Hoa. Với quan niệm này, Hòa Hảo cho rằng thế giới biến thiên tuần hoàn theo luật định qua 3 cõi Thượng nguyên, Trung nguyên và Hạ nguyên. Theo Huỳnh giáo chủ, nhân loại hiện nay đang vào giai đoạn cuối của thời
1. Nguyễn Xuân Nghĩa: Vài nhận xét về các phong trào tôn giáo cứu thế ở đồng bằng sông Cửu Long (Từ cuối thế kỷ XIX đến trước năm 1975), Tạp chí Dân tộc học, số 2, 1985.
50 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Hạ nguyên, thế giới sắp chuyển sang thời đại mới. Đến lúc đó, Đức Di Lặc sẽ mở Hội Long Hoa để xét công, định tội chúng sinh. Trước nguy cơ sắp đến như vậy, người đời mau tỉnh ngộ tu hành. Trong Sấm giảng khuyên người đời tu niệm, Huỳnh Phú Sổ viết:
Hạ nguyên nay đã hết đời
Phong ba biến chuyển đổi dời gia cang.
Đạo Cao Đài cũng mang màu sắc cứu thế rõ nét. Cũng như Hòa Hảo, Cao Đài cho rằng Hạ nguyên sắp hết là lý do ra đời của đạo Cao Đài. Giáo lý Cao Đài cũng giải thích rõ “Tam kỳ phổ độ”. Qua hai lần phổ độ, Thượng đế thấy nơi phàm trần gặp khó khăn “năm châu sống lẻ loi” cho nên lập ra nhiều tôn giáo. Thời Hạ nguyên là thời “âm tận, dương suy”, vì vậy mà Trời mở cửa cứu chúng sinh lần thứ ba là Tam kỳ phổ độ. Thời Hạ nguyên là thời con người chuyển sang nguyên tái tạo. Trong điều kiện đó, Thượng đế phải lập ra một tôn giáo mới chung cho mọi người: Đạo Cao Đài. Dấu hiệu Hạ nguyên - Hội Long Hoa thể hiện trong các biểu tượng khác nhau của đạo Cao Đài: Tượng Đức Phật Di Lặc đặt ngay trên nóc mặt tiền Tòa thánh Tây Ninh; xe tang của Tòa thánh hình con thuyền với nhã ý đưa linh hồn người chết về cõi Phật (Đức Phật Di Lặc đi thuyền Bát Nhã đến thế giới này trong ngày Hội Long Hoa). Màu sắc cứu thế với quan niệm Hạ nguyên - Hội Long Hoa khá đậm nét trong các tôn giáo người Việt Nam Bộ, trong khi đó ở Bắc Bộ hầu như không có ảnh hưởng. Đó cũng là lý do giải thích tại sao các tôn giáo bản địa Nam Bộ khi truyền ra Bắc Bộ và Trung Bộ không được sự đón nhận dễ dàng.
Phải nói rằng, tính cứu thế phần nào đó đã thỏa mãn được khía cạnh sâu xa trong tâm lý người Việt, nói cách khác là sự thỏa mãn vô thức tập thể ẩn chứa nặng nề của thân phận người dân mất nước, luôn mất tự chủ và thiếu tự tin phải gửi gắm niềm mơ ước vào sự tiên tri để nói hộ nỗi lòng của mình.
Cùng với tính cứu thế, các tôn giáo bản địa còn mang tính nhập thế, giúp người. Các tôn giáo từ Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa,
CHƯƠNG VII: ĐẶC TRƯNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO... 51
Phật giáo Hòa Hảo với pháp môn học Phật, tu nhân theo đúng đạo làm người. Nhưng việc học Phật cũng chỉ để tín đồ tu nhân là chính. Tu nhân trước hết là đưa con người trở lại đường thiện, sống đúng với đạo làm người, với gia đình, xã hội, phù hợp với luân thường đạo lý. Tu nhân phải thực hiện trả bốn ân lớn (Tứ ân: ân tổ tiên cha mẹ, ân đất nước, ân tam bảo, ân đồng bào nhân loại). Ai muốn làm tròn cái đạo làm người thì không thể không có bổn phận đền đáp bốn cái ân ấy, vì đó là căn bản của đạo làm người. Tứ đại trọng ân là nền tảng của đạo lý các tôn giáo này chi phối đời sống tư tưởng của tín đồ. Trong tứ ân thì hai ân đầu là quan trọng nhất, vì chính đó là nền tảng tâm thức, tâm linh sâu sắc nhất của người Việt nói chung. Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ ngay từ đầu đã khẳng định tính nhập thế của Hòa Hảo:
Ta là cư sĩ canh điền
Lo nghề cày cuốc cũng chuyên tu hành.
Đạo Cao Đài, trừ nhóm nhỏ Chiếu Minh Tam Thanh vô vi của Ngô Minh Chiêu, tất cả các phái tự xem là phổ độ, theo nghĩa tích cực tham gia vào cuộc sống hướng dẫn đồng bào tu hành để giải thoát. Đức Chí Tôn của đạo Cao Đài dạy: “Trong các con có nhiều người lầm tưởng hễ vào đạo thì phế hết nhân sự; nên chúng nó ngày đêm mơ tưởng có một điều rất thấp thỏi là vào một chỗ u nhàn mà ẩn thân luyện đạo. Thầy nói cho các con biết, nếu công quả chưa đủ, nhân sự chưa xong thì không thể nào các con luyện thành đặng đâu mà mong” (Thánh ngôn hợp tuyển, Bổn thứ nhất).
Nhìn lại quá trình phát triển của các tôn giáo này, ngay từ buổi đầu họ đều tham gia vào phong trào đấu tranh yêu nước. Các ông đạo của Bửu Sơn Kỳ Hương lập trại ruộng - căn cứ Bảy Thưa - Láng Linh, khởi nghĩa chống Pháp, tiêu biểu là cố quản Trần Văn Thành, Nguyễn Trung Trực. Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Đức Bổn Sư Ngô Lợi cùng với các ông trò, ông gánh vừa khẩn hoang, lập làng, vừa sản xuất, tích trữ lương thực, rèn luyện võ nghệ, liên hệ với lực lượng chống Pháp ở các nơi, nhất là
52 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
phong trào Cần Vương chống Pháp. Thực dân Pháp đã tiến hành 7 cuộc càn quét và đàn áp một cách man rợ tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Với tôn chỉ học Phật, tu nhân, thực hiện tứ ân trong hoàn cảnh đất nước bị kẻ xâm lược giày xéo, các tín đồ Phật giáo Hòa Hảo đã tích cực tham gia sản xuất, cứu trợ đồng bào bị nạn đói năm 1945, tham gia nhiều đóng góp cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Các chức sắc và tín đồ đạo Cao Đài cũng tích cực tham gia chính trị, trở thành những thế lực nhất định trong hai cuộc kháng chiến. Đó là Tổ chức đoàn kết các giáo phái Cao Đài chống Pháp trong Mặt trận Việt Minh năm 1947 ở Nam Bộ. Một số tín đồ đã tham gia kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, trở thành những cán bộ cách mạng. Hiện nay, các chức sắc và tín đồ các tôn giáo bản địa Nam Bộ với truyền thống học Phật, tu nhân đã tích cực tham gia hoạt động từ thiện xã hội, bao gồm các hình thức hoạt động khá đa dạng để phục vụ người nghèo và cả cộng đồng. Các tổ cơm cháo miễn phí trong các bệnh viện, trường học, xây dựng các tổ thuốc Nam chữa bệnh cho người nghèo không mất tiền, khám chữa bệnh, lập đội xe cứu thương, xây dựng nhà tình nghĩa, tình thương cho người nghèo; xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng nông thôn như làm cầu, đường, trường học trạm xá, đường điện, nước sạch, các công trình thủy lợi làm thay đổi diện mạo và cuộc sống ở nông thôn. Những công việc này được coi là việc thiện theo lẽ sống của đạo, một cách tự nguyện, tự giác, mặc dù tín đồ phần đông còn nghèo khó. Bằng những việc làm cụ thể, tín đồ các tôn giáo đang góp phần giữ gìn và xây dựng một đời sống tinh thần lành mạnh cho đất nước.
Bên cạnh tôn giáo bản địa, các tôn giáo thế giới của người Việt Nam Bộ hiện nay cũng chú trọng đến yếu tố nhập thế. Đó là công tác từ thiện. Các nhà thờ cũng như các chùa ở Nam Bộ luôn chú trọng đến các hoạt động như chăm sóc trẻ em cơ nhỡ, bị nhiễm HIV, chăm sóc người già neo đơn, xây dựng nhà tình thương, đóng góp kinh phí
CHƯƠNG VII: ĐẶC TRƯNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO... 53
để giúp đỡ đồng bào bị bão lụt, thiên tai trên khắp đất nước... Hiện nay, trong các chùa Phật giáo thường có các phòng thuốc phước thiện, chuyên cung cấp thuốc Nam miễn phí cho người bệnh; tổ chức khám chữa bệnh miễn phí ngay tại địa phương đang gặp lũ lụt, thiên tai...
Từ những phân tích trên, các tôn giáo tại Nam Bộ luôn chú trọng đến tính cứu thế và nhập thế, đặc biệt là các tôn giáo của người Việt. Tính nhập thế này được hình thành từ rất sớm, ngay từ những buổi đầu xuất hiện các tôn giáo và hình thành cộng đồng cư dân tại Nam Bộ. Đến nay, tính nhập thế vẫn được các tôn giáo đề cao, chú trọng thực hiện, nhưng dưới hình thức khác trước, nhằm thích ứng với điều kiện hiện tại của xã hội. Đó là công tác từ thiện, giúp đỡ những người khó khăn, những hoàn cảnh khó khăn trong xã hội. Chính yếu tố nhập thế của các tôn giáo này đã góp phần làm vơi đi những khó khăn của xã hội hiện nay. Đây là yếu tố đáng trân trọng trong hoạt động tôn giáo của các cư dân tại Nam Bộ.
Tóm lại, từ những phân tích trên cho thấy tín ngưỡng, tôn giáo của cư dân Nam Bộ mang đặc trưng của vùng rất sâu sắc, trong đó biểu hiện rõ qua các yếu tố mà chúng tôi đã trình bày như tính đa thần, tính khu vực, tính hỗn dung và tính cứu thế - nhập thế. Nguyên nhân cốt lõi để dẫn đến đặc trưng này là do sự tác động của các yếu tố mang tính vùng văn hóa - lịch sử.
2. Những đặc trưng mang tính tộc người
a- Bảo lưu giá trị truyền thống
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy, giá trị truyền thống trong tín ngưỡng, tôn giáo luôn được các cộng đồng cư dân Nam Bộ chú trọng bảo lưu, mặc dù yếu tố hỗn dung vẫn đang hiện diện và chi phối.
Đối với các cư dân bản địa, mặc dù tôn giáo thế giới như Thiên Chúa giáo, Tin Lành đã xuất hiện như là những nhân tố mới trong văn
54 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
hóa cư dân, nhưng trong đời sống tôn giáo, tâm thức đa thần vẫn tồn tại khá đậm nét.
Cư dân bản địa từ xa xưa vốn theo tín ngưỡng đa thần nên các lễ hội cũng như các sinh hoạt văn hóa liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo được diễn ra thường xuyên và gắn liền với vai trò của các vị thầy cúng. Yếu tố “Yangnism”, mà chúng tôi đã đề cập, chi phối toàn bộ trong đời sống tâm linh của các cư dân bản địa. Họ tin tưởng vào các yang, gồm yang rừng, yang núi, yang suối, yang rẫy... nên việc cúng kiếng và cầu xin các yang luôn diễn ra. Đi rừng cúng yang, phát rẫy cúng yang, tỉa hạt cúng yang, thu hoạch cúng yang... lội suối bị trượt chân suýt mất mạng cũng cúng yang..., và đặc biệt trong các hội mùa, như lễ hội cơm mới, yếu tố yang được biểu hiện khá đậm nét. Nhưng, khi các tôn giáo thế giới thâm nhập vào đời sống của các cư dân bản địa, yếu tố yang bị hạn chế dần và dẫn đến bị triệt tiêu. Nhưng từ “yang” vẫn không mất. Họ dùng từ “yang” để thay cho từ “Chúa”. Chúa Giêsu được gọi tên mới là Yang Giêsu. Các việc cúng kiếng liên quan đến các vị yang trước đây tuy bị loại bỏ dần, nhưng hoàn toàn không mất hẳn. Các lễ hội truyền thống liên quan đến đời sống tâm linh xa xưa vẫn được lưu giữ và xem trọng. Họ vẫn tổ chức những lễ như xuống mùa, mừng cơm mới, đâm trâu... nhưng tổ chức dưới hình thức đơn giản hơn. Các nghi lễ liên quan đến cầu bệnh, sinh nở... vẫn được lưu giữ trong cộng đồng. Điều này cho thấy, yếu tố bảo lưu giá trị truyền thống của cư dân bản địa trong tín ngưỡng, tôn giáo là rõ nét.
Trong các tôn giáo bản địa của người Việt cũng vậy. Sự kế thừa và bảo lưu các giá trị văn hóa truyền thống của cư dân Việt được thể hiện khá đậm nét.
Các tôn giáo bản địa Nam Bộ không chỉ kế thừa các tín ngưỡng và tôn giáo dân tộc truyền thống như thờ mẫu, các thần tự nhiên, thần thành hoàng làng, các tôn giáo Nho, Phật, Đạo... mà còn tích hợp các yếu tố văn hóa mang bản sắc Nam Bộ vào trong đời sống tâm linh của tín đồ.
CHƯƠNG VII: ĐẶC TRƯNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO... 55
Kiến trúc chùa Tứ Ân Hiếu Nghĩa bên cạnh hệ thống chùa, các làng đạo còn có rất nhiều đình, miếu. Kiến trúc các ngôi đình theo lối “tiền đình hậu tự” giống với các đình làng Nam Bộ. Ở các làng đạo có nhiều miếu kiến trúc theo lối “từ tượng” gần gũi với kiến trúc dân gian.
Trang phục của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa và một bộ phận Hòa Hảo là trang phục cổ truyền của người Việt Nam Bộ được duy trì cho tới ngày nay. Trang phục của người theo đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa từ hàng ngũ chức sắc đến tín đồ nói chung đều giống nhau. Về thường phục là bộ quần áo bà ba đen. Gọi là bà ba đen vì chỉ may bằng vải đen, loại thô, áo bốn thân cài khuy ở giữa, ống tay áo và ống quần rộng. Ngoài bộ quần áo bà ba thường phục, mỗi tín đồ phải có một chiếc áo dài đen và cái khăn đóng. Khăn đóng, áo dài may bằng vải thường, không dùng hàng lụa, chỉ mặc khi cúng lễ chùa, đình miếu, Tam Bửu gia. Khi đến cúng ở đâu, tín đồ đều đi chân đất, tuyệt đối không mang giày dép. Những người theo đạo, không phân biệt chức sắc đều để râu tóc mọc một cách tự nhiên. Tóc để dài và bới lên thành búi (kiểu củ hành) sau gáy, lúc lao động thì dùng khăn quấn lại, khi quấn khăn đóng để lộ búi tóc như một sự nghiêm túc cẩn trọng. Theo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, sở dĩ phải để râu tóc như vậy vì Hiếu Nghĩa Kinh của Đức Bổn Sư có câu dạy: “Thân thể phát phu, thụ chi phụ mẫu, bất khả hủy thương” (có nghĩa là thân thể mình, da tóc mình là của cha mẹ để cho, không nên phá hại, cắt bỏ). Ngày nay, những phong tục này không còn phổ biến ở người Việt Nam Bộ, nhưng lại phổ biến trong cộng đồng tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Điều này thể hiện bản lĩnh trong quan niệm riêng về hiếu thảo của người theo đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, mặt khác chứng tỏ tinh thần bảo lưu triệt để truyền thống cha ông, xuất phát từ lòng yêu nước, thể hiện thái độ phản kháng văn minh phương Tây1.
1. Đinh Văn Hạnh: Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa của người Việt Nam Bộ (1867- 1975), Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1999, tr.132-133.
56 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Trong đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, ngoài lễ cúng hằng ngày và vía trong tháng, hằng năm tín đồ còn thực hiện những lễ cúng khác rải theo các tháng (theo âm lịch) trùng với những lễ tết trong năm của người Việt như lễ Chánh Đán (vào ngày mồng 2 và mồng 3 Tết Nguyên Đán), lễ Ra
Mắt Hay (ngày mồng 7 tháng Giêng), lễ Thượng Ngươn (ngày 14, 15, 16 tháng Giêng), lễ sinh Đức Bổn Sư trùng với lễ Đoan Ngọ (ngày mồng 5 tháng 5)...
Các tôn giáo khác như Hòa Hảo, Cao Đài, bên cạnh những ngày lễ trọng của tôn giáo mình, tín đồ còn thực hiện các lễ tết trong năm theo truyền thống, tuy nhiên xen lẫn những yếu tố tôn giáo riêng.
Kinh sách của các tôn giáo bản địa thường viết bằng văn vần, thể thơ lục bát, dễ đọc, dễ học, phù hợp với trình độ học vấn thấp của người dân, dễ đi vào lòng người. Hầu hết các kinh sách của Tứ Ân Hiếu Nghĩa được soạn, viết bằng chữ Hán trên giấy bản khổ lớn lúc Đức Bổn Sư còn tại thế. Sau này các ông trò, ông gánh “cụ thể hóa” hoặc bổ sung thêm nội dung giáo lý dưới dạng sấm vãn truyền ngôn theo lối thơ lục bát, song thất lục bát, ngũ ngôn, thất ngôn. “Vãn” là bài thơ có vần điệu, giản dị, mộc mạc như một bài vè hoặc khúc ca dao, như Đức Bổn Sư thường nói:
Học thời phải xét cho minh
Phật, Nho cũng cứ thơ, kinh mà quyền1
Huỳnh Phú Sổ, người sáng lập Phật giáo Hòa Hảo, đã viết 6 cuốn kệ giảng và một số cuốn thi văn theo thể thơ lục bát, dễ học, dễ thuộc. Trong Khuyến thiện, ông viết:
Băng tâm ngẫu hứng thừa nhàn,
Theo đòi nghiên bút luận bàn tục, tiên.
Ta là cư sĩ canh điền
Lo nghề cày cuốc cũng chuyên tu hành.
1. Đinh Văn Hạnh: Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa của người Việt Nam Bộ (1867- 1975), Sđd, tr.48.
CHƯƠNG VII: ĐẶC TRƯNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO... 57
Xa nơi tranh đấu lợi danh,
Giữ lòng thanh - tịnh tánh lành trau - tria
Gắng công trì niệm sớm khuya
Thân tuy còn tục tâm lìa cõi mê
Đạo Cao Đài cũng vậy, kinh sách viết rất giản dị, gần gũi với đời sống người dân:
Tu không biết mặc đồ dà,
Cạo râu, thế phát, bỏ nhà lìa con.
Ông bà, cha mẹ đang còn,
Phải lo báo đáp cho tròn hiếu trung.
Vợ chồng trọn nghĩa thủy chung,
Giữ như sen mọc dưới bùn không nhơ.
Làm như dốt nát dại khờ,
Đừng cho kẻ thế rằng ngờ mình tu.
Trong ngôn từ, người Việt có tục kiêng tên húy. Trong dân gian Nam Bộ, kỵ húy có phần sâu đậm hơn, nên tín đồ thuộc tôn giáo bản địa cũng chú trọng yếu tố kỵ húy này. Do đó, họ dùng những ngôn từ riêng thay thế, nhằm kiêng húy, tránh phạm thượng với đấng bề trên trong lời ăn tiếng nói. Ví dụ như các từ Cung (cũng là cuông) là từ thay cho chữ Công khi nói, nhằm tránh gọi tên Quan Công; từ vuông là đơn vị diện tích thay cho một công đất (một vuông đất = một công đất), nhằm tránh tên gọi Quan Công; từ Lại được dùng thay cho từ Lợi (người theo Tứ Ân Hiếu Nghĩa không nói “có lợi” mà chỉ nói “có lại”) nhằm kiêng tên Đức Bổn Sư Ngô Lợi; từ lên đăng, tức thắp đèn hay đốt đèn, nhằm kiêng kỵ húy ông đạo Đèn...1 Điều này, ngoài việc biểu hiện sự tôn trọng giá trị truyền thống của tộc người, tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa nói riêng và cộng đồng tín đồ bản địa nói chung còn có công trong việc góp phần bổ sung
1. Đinh Văn Hạnh: Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa của người Việt Nam Bộ (1867- 1975), Sđd, tr.135-137.
58 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
thêm vốn từ của địa phương, tăng thêm sắc thái riêng trong ngôn ngữ ở Nam Bộ.
Bên cạnh cộng đồng tín đồ tôn giáo bản địa, người Hoa ở Nam Bộ cũng luôn biểu hiện giá trị bảo lưu văn hóa truyền thống của mình trong đời sống tín ngưỡng, tôn giáo. Hầu hết các vị thần, thánh được thờ tự trong cộng đồng người Hoa đa phần là những vị thần được đưa từ Trung Quốc sang. Điều đặc biệt là họ còn thờ những vị nhân thần (người trần nhưng khi sống có nhiều công lao lo cho bá tánh, cộng đồng, khi quá vãng hiển linh thành thần) gốc tích tại Nam Bộ hay Việt Nam, như:
- Bà Thánh Nương Tơ Tiên: Bà nguyên là phu nhân của một bậc văn thần Đô sát ngự sử, giám khảo cho cuộc thi đời vua Khang Hy (1662- 1722) ở Trung Hoa. Bà cùng gia quyến sang Đại Nam, đến định cư tại thôn Tân Lại, vùng Biên Hòa xưa. Bà là vị nhân thần của người Hoa tại địa phương Nam Bộ.
- Trần Thượng Xuyên: được người Hoa thờ trong nhiều đền, miếu, đình với danh tôn Thượng đẳng thần do triều đình nhà Nguyễn ban sắc. - Hai ông Vệ Thủy là Đỗ Đăng Tàu và Lê Văn Sanh, đều là người Minh Hương, sinh trú quán ở Châu Đốc, tỉnh An Giang. Hai ông đã tập hợp, tổ chức nhân dân địa phương (hầu hết là người Minh Hương) đánh quân phỉ thường kéo đến cướp bóc, tàn sát người Việt, Hoa, Chăm, Khmer cư trú tại thị xã Châu Đốc và các vùng lân cận. Hai ông đã tiêu diệt được giặc cướp và chúng không còn dám đến quấy nhiễu
nữa. Người dân được bảo đảm yên ổn nên lập miếu thờ hai ông. Trong hệ thống tín ngưỡng, mỗi bộ phận người Hoa ở Nam Bộ cũng có cách thờ tự riêng nhằm biểu hiện sắc thái cư dân của mình, như: - Người Hoa Quảng Đông thờ Long Mẫu Nương Nương (thần cửa biển vùng biển Quảng Đông), Văn Xương Đế Quân, Lữ Đồng Tân. - Người Hoa Hải Nam thờ 108 anh linh liệt vị, Thủy Vĩ Nương Nương, Ý Mỹ Nương Nương.
CHƯƠNG VII: ĐẶC TRƯNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO... 59
- Người Hoa Triều Châu thờ Tài Bạch Tinh Quân, Tam Sơn Quốc Vương, Đại Phong Tổ Sư, Trân Châu Nương Nương.
- Người Hoa Phúc Kiến thờ Huyền Thiên Thượng Đế, Quảng Trạch Tôn Vương, Bảo Sanh Đại Đế, Thanh Thùy Tổ Sư, Ân Chủ Công (Trần Điện).
- Người Hẹ thờ Đàm Đại Tiên.
Chính những yếu tố này đã giúp cộng đồng người Hoa bảo lưu giá trị văn hóa truyền thống của tộc người mình ở Nam Bộ. Tóm lại, bảo lưu yếu tố truyền thống trong tín ngưỡng, tôn giáo ở các cư dân tại Nam Bộ là một trong những yếu tố quan trọng giúp họ giữ gìn và tạo ra bản sắc của từng cư dân tại vùng đất Nam Bộ hiện nay.
b- Tính cố kết cộng đồng
Theo các nhà nghiên cứu, một trong những chức năng của tôn giáo là tạo sự cố kết (thông qua các nghi thức củng cố đoàn kết xã hội), truyền sức sống (duy trì và đem lại sức sống mới cho di sản xã hội và truyền giá trị xã hội cho thế hệ tương lai) và mang lại niềm tin hạnh phúc cho tín đồ (bằng cách đối trị cảm giác thất vọng, mất mát, mất niềm tin, nhằm tái lập lại sự thăng bằng tinh thần). Ở bình diện chung nhất, tôn giáo với tính cách là một thiết chế xã hội có chức năng đem lại ý nghĩa cho tình trạng hiện sinh khó xử của con người bằng cách cột cá nhân vào những giá trị siêu việt vượt trên cá nhân mà gốc rễ căn nguyên của chúng là chính xã hội của cá nhân đó1. Như vậy, một trong những chức năng của tôn giáo là tổ chức đời sống xã hội mang tính cộng đồng. Đây là chức năng thế tục không chỉ dành riêng cho tôn giáo mà là chức năng của tổ chức nhà nước và các thiết chế xã hội khác. Tuy nhiên, trong những hoàn cảnh lịch sử nhất định, các tôn giáo lại mở
1. Durkheim E.: The Sociology of religion, 1977.
60 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
rộng vai trò xã hội đối với cộng đồng tín hữu của mình. Nhìn lại bối cảnh ra đời của các tôn giáo ở Nam Bộ, trong đó có các tôn giáo bản địa, mặc dù các tôn giáo này xuất hiện trong những thời điểm khác nhau nhưng đều thực hiện chức năng tái sản xuất và cố kết cộng đồng cư dân.
Người Việt là cư dân nông nghiệp sống định cư thành làng, từ thuở dựng nước cho đến sau này, thói quen, nhu cầu sống thành cộng đồng đã ăn sâu vào tâm thức người Việt trở thành bản sắc của văn hóa Việt. Nhà nghiên cứu Phan Ngọc đã khái quát hóa thành tinh thần cộng đồng luận của người Việt khác với cá nhân luận của phương Tây. Sống trong làng, mối quan hệ giữa các thành viên vừa hỗ trợ lẫn nhau, vừa phụ thuộc, ràng buộc lẫn nhau trong cả thiết chế quan phương và phi quan phương, trong cả sinh hoạt sản xuất cũng như trong đời sống tình cảm và tôn giáo. Trong đó, sinh hoạt tôn giáo trở thành một bộ phận hữu cơ của sinh hoạt cộng đồng. Như đã trình bày ở trên, cộng đồng người Việt Nam Bộ trong buổi đầu khẩn hoang là một tập hợp dân tứ chiếng rời khỏi cộng đồng cũ để tìm một cuộc sống mới. Làng Việt được tái cấu trúc với diện mạo rất khác với làng Việt truyền thống ở Bắc Bộ và Trung Bộ. Do đất rộng người thưa, ruộng đất chủ yếu là tư hữu của các hộ nông dân, trong buổi đầu khẩn hoang chưa có sự quản lý của nhà nước và cả sau này khi nhà nước đã tham gia quản lý cộng đồng thì vẫn chưa chặt chẽ. Vì vậy, làng Nam Bộ mang tính thoáng và mở, các thiết chế kinh tế - xã hội truyền thống không có điều kiện để tái sinh đầy đủ, sự kết dính cộng đồng tương đối lỏng lẻo. Chính vì thế, làng Nam Bộ không được hình thành như một chỉnh thể cộng đồng toàn diện theo một khuôn mẫu văn hóa riêng. Nam Bộ chỉ còn lại những biểu tượng văn hóa làng tiêu biểu là đình làng và các sinh hoạt tín ngưỡng, lễ hội. Trong bối cảnh đó, người nông dân Nam Bộ cũng được tự do hơn, cá tính có điều kiện thể hiện hơn, nhưng cũng sống “cô đơn” hơn trước
CHƯƠNG VII: ĐẶC TRƯNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO... 61
những khó khăn, thách đố của cuộc sống. Tâm thức cộng đồng, nhu cầu sống thành cộng đồng, khát vọng được sống trong cộng đồng trỗi dậy, nhưng tự bản thân của người nông dân không thể tạo dựng được, trong khi đó sự quản lý nhà nước lại mang tính quan phương hóa, không thể quan tâm đến những nhu cầu của cộng đồng. Nắm bắt được nhu cầu về đời sống xã hội và tâm linh của người dân, các ông đạo với tư cách là thủ lĩnh của cộng đồng dưới ngọn cờ tôn giáo đã tiến hành truyền đạo kết hợp với việc trị bệnh cứu người, đồng thời chiêu dân khai khẩn đất đai, lập trại ruộng, tổ chức sinh hoạt cộng đồng. Sự ra đời và phát triển của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương là minh chứng cho trường hợp này. Sau khi Đoàn Minh Huyên - người sáng lập đạo - mất đi, các đệ tử của ông, các ông đạo lại tiếp tục sự nghiệp của Phật Thầy Tây An, vừa giảng thuyết đạo pháp vừa chữa bệnh cứu người, kết hợp chiêu dân tổ chức khai hoang lập làng. Các ông đạo tỏa đi khắp nơi tổ chức khai hoang lập làng tới tận Đồng Tháp Mười, tả ngạn sông Hậu Giang, tiến đến tận vùng Hà Tiên, Rạch Giá.
Tiếp nối Bửu Sơn Kỳ Hương là đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa do Ngô Lợi sáng lập ngay trên vùng đất của Bửu Sơn Kỳ Hương. Ngô Lợi vừa tiến hành truyền đạo, đồng thời “trảm thảo khai sơn”, xây dựng nhiều làng mới ở vùng núi Tượng và núi Dài thuộc tỉnh An Giang hiện nay. Cùng với quá trình khẩn hoang và ổn định cuộc sống, Ngô Lợi đẩy mạnh việc truyền đạo và thu nhận tín đồ, mở rộng phạm vi ảnh hưởng của đạo trên một địa bàn trải suốt miền Tây An Giang. Sau khi Ngô Lợi mất, các đệ tử tiếp tục truyền đạo lập làng tới tận Kiên Lương (Kiên Giang); Long Hồ, Bình Minh (Vĩnh Long); Mỏ Cày (Bến Tre); Cái Bè (Tiền Giang); Sa Đéc, Hồng Ngự, Cao Lãnh (Đồng Tháp); Tân Phú (An Giang); Châu Thành (Trà Vinh); núi Nưa, Long Sơn (Bà Rịa - Vũng Tàu).
Như vậy, trong quá trình khẩn hoang, dưới ngọn cờ tôn giáo có sức hấp dẫn và lôi cuốn, các ông đạo đã tiến hành truyền đạo, chiêu
62 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
dân, khẩn hoang, lập làng tổ chức sản xuất và ổn định sinh hoạt cộng đồng trên vùng đất mới. Do công lao và uy tín của các ông đạo nên đạo Bửu Sơn Kỳ Hương còn được gọi là đạo Lành, Đoàn Minh Huyên được người dân tôn sùng là “Phật sống” và kính cẩn gọi ông là Phật Thầy Tây An. Ngô Lợi cũng được xem là hiện thân của Phật Thầy Tây An.
Ra đời giữa hai cuộc chiến tranh thế giới trong lúc đời sống nhân dân cực khổ vì sưu cao, thuế nặng, thất nghiệp, đất đai bị tước đoạt, bệnh tật, đói kém hoành hành, Phật giáo Hòa Hảo và đạo Cao Đài lại tiếp nối truyền thống của các tôn giáo trước trong một hoàn cảnh mới. Khác với Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa tập trung vào việc truyền đạo gắn liền với việc khẩn hoang lập làng tạo dựng cuộc sống mới trên vùng đất mới, Phật giáo Hòa Hảo và đạo Cao Đài lại hướng vào việc ổn định cuộc sống vật chất và tinh thần, tâm linh khi cuộc sống của người nông dân rơi vào khủng hoảng, vô cùng cực khổ và không có lối thoát. Đức Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ hướng tới công việc khuyến nông, phát triển sản xuất nâng cao đời sống, khuyên mọi người tu hiền, hướng thiện với tôn chỉ học Phật tu nhân, làm trọn tứ ân, vừa lo toan cả việc đời và việc đạo. Với chủ trương như vậy, Phật giáo Hòa Hảo góp phần ổn định cuộc sống vật chất và bù lấp được khoảng trống của đời sống tinh thần. Phật giáo Hòa Hảo và đạo Cao Đài hướng tới đáp ứng nhu cầu sinh hoạt cộng đồng về cả đời sống vật chất và tinh thần. Các chức sắc tôn giáo và họ đạo cùng các tín hữu được khuyến khích làm công quả, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất, trong cuộc sống thường nhật, lúc cưới xin, ma chay, ốm đau, xây nhà cửa, cùng nhau tham gia các sinh hoạt tôn giáo tại thánh thất trong những ngày lễ trọng.
Tín đồ của Phật giáo, Thiên Chúa giáo cũng luôn biểu hiện sự tương trợ, cố kết trong cộng đồng tôn giáo của mình. Xét trên bình diện cộng đồng, tín đồ Thiên Chúa giáo ở Nam Bộ biểu hiện tính cố kết cộng đồng mạnh mẽ nhất. Khu vực cư trú của họ mang tính “biệt lập” và tạo ra tính đặc trưng của cộng đồng Thiên Chúa giáo. Trong đó, nhà thờ
CHƯƠNG VII: ĐẶC TRƯNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO... 63
là trung tâm sinh hoạt tôn giáo - văn hóa của cộng đồng. Tín đồ trong cộng đồng luôn có sự đoàn kết nhất định và luôn biểu hiện sức mạnh của cộng đồng trong các công tác xã hội, từ thiện... Cộng đồng Thiên Chúa giáo Hố Nai, Cái Sắn và những cộng đồng Thiên Chúa giáo khác ở Nam Bộ luôn tạo ra một sắc thái cộng đồng cố kết đặc trưng của tín đồ. Đó là sự cố kết đồng giáo. Sự tương trợ giữa cộng đồng này với cộng đồng khác về mặt kinh tế, văn hóa rất rõ nét. Khi chúng tôi khảo sát tại vùng Cái Sắn - Cần Thơ, tín đồ Thiên Chúa giáo ở đây có mối liên hệ chặt chẽ với cộng đồng Thiên Chúa giáo Hố Nai, về các vấn đề việc làm của thanh niên, quan hệ gia đình, dòng họ, hôn nhân... Hay cộng đồng Phật giáo Khmer Nam Bộ cũng vậy. Việc xây dựng chùa chiền, củng cố mối quan hệ trong cộng đồng tôn giáo quanh chùa là một biểu hiện đặc trưng của người Khmer. Đặc trưng của người Khmer Nam Bộ là “sống không xa chùa”, nên ở đâu có chùa Khmer là ở đó có người Khmer và ngược lại. Chính việc tụ cư quanh ngôi chùa và xem nó như một trung tâm tín ngưỡng, tôn giáo - văn hóa của cộng đồng nên tính cố kết trong cộng đồng luôn được xây dựng và củng cố. Người Khmer không chỉ cố kết trong cộng đồng của ngôi chùa mình, mà đối với những cộng đồng ở những ngôi chùa khác vẫn tạo ra sự cố kết, tương trợ lẫn nhau. Họ vẫn có thể đóng góp tiền bạc để tu bổ, xây dựng ngôi chùa của cộng đồng bên cạnh, và xem đó như là một bổn phận của những người đồng đạo, đồng tộc.
Tính cố kết trong tôn giáo được biểu hiện trong cộng đồng người Chăm Islam Nam Bộ. Nghiên cứu về cộng đồng này, chúng tôi nhận thấy tính cố kết tôn giáo biểu hiện mạnh hơn tính đồng tộc. Người Chăm Islam Nam Bộ luôn có mối quan hệ mật thiết, thân thiện với người Mã Lai theo Islam ở Malaysia, hoặc những người theo đạo Islam khác không cùng cư dân với họ. Nhưng đối với người Bàlamôn hoặc Bani ở Ninh Thuận, Bình Thuận, người Chăm Islam Nam Bộ gần như không có sự cố kết nào. Nguyên nhân là do sự khác biệt về tôn giáo, tín
64 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
ngưỡng và những hành xử tôn giáo trong đời sống hằng ngày của họ. Điều này có thể khẳng định, chính yếu tố tôn giáo là chất keo kết dính giữa các thành viên trong cộng đồng, khi việc đời được khoác thêm màu sắc việc đạo. Và cũng chính chất keo này đã kéo con người lại gần nhau hơn trong các lễ hội của tôn giáo.
Các lễ hội tôn giáo như Phật đản, Noel, ngày vía của các vị giáo chủ, ngày thành lập đạo của các tôn giáo bản địa, cúng đình, cúng ông Bổn... là những dịp chứng tỏ sự cố kết cộng đồng tôn giáo mạnh mẽ. Chúng tôi từng tham dự lễ những lễ Kiếtgiớixâyma của một số chùa Khmer ở Sóc Trăng và Trà Vinh, và nhận thấy những người tham dự trong các lễ này không chỉ là tín đồ trong khu vực chùa mà có rất đông tín đồ từ nhiều nơi khác đến. Vào dịp cuối tháng 5-2010, một lễ Kiếtgiớixâyma đã diễn ra tại ngôi chùa Bon Ray Chas của người Khmer ở xã Hàm Giang, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh. Tín đồ về dự lễ này không chỉ là người Khmer ở xã Hàm Giang mà gần như toàn bộ người Khmer ở khu vực Tây Nam Bộ, từ An Giang đến Bạc Liêu cũng về dự. Hay ngày sinh của Đức Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, ngày vía Đức Chí Tôn của đạo Cao Đài thì tín đồ của Phật giáo Hòa Hảo, tín đồ của đạo Cao Đài đều tụ hợp về Tổ đình của đạo mình dự lễ. Điều này chứng tỏ “chất keo” tôn giáo đã tạo nên sự cố kết cộng đồng mãnh liệt và sinh hoạt tôn giáo trở thành một bộ phận sinh hoạt cộng đồng mạnh mẽ nhất trong xã hội Nam Bộ. Một yếu tố quan trọng nữa là sự khác biệt giữa làng xã Bắc Bộ và Trung Bộ với làng xã Nam Bộ. Làng xã Bắc Bộ và Trung Bộ là một cộng đồng ổn định mang tính hướng nội, trong khi đó làng xã Nam Bộ là mở, thoáng; cư dân ít bị ràng buộc bởi những thể chế chính trị hoặc những tập tục xã hội được quy định bởi Hương ước, nên sự kết dính cộng đồng bởi các yếu tố này gần như không diễn ra. Sự kết dính cộng đồng của các cư dân ở Nam Bộ chủ yếu dựa trên sự kết dính bởi chất keo tôn giáo, mà mỗi địa phương, mỗi vùng có những tôn giáo chiếm ưu thế. Và, chính sự khác biệt tôn giáo cũng tạo nên các cộng đồng cư dân ở Nam Bộ có
CHƯƠNG VII: ĐẶC TRƯNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO... 65
những đặc điểm văn hóa - xã hội khác nhau, tạo nên những cộng đồng cư dân liên làng và siêu làng (cộng đồng vùng). Đây là điểm khác biệt giữa cộng đồng làng Việt ở Bắc Bộ - Trung Bộ và Nam Bộ.
Đây cũng là lý do giải thích sự tồn tại lâu dài và sức sống của các tôn giáo tại Nam Bộ cho tới hiện nay, mặc dù chúng trải qua nhiều biến thiên trong lịch sử.
Tóm lại, Nam Bộ có thể xem là một trong những khu vực đa dạng về tộc người, đa dạng về tín ngưỡng, tôn giáo nhất so với các khu vực khác của nước ta. Trong đó, tín ngưỡng, tôn giáo được xem là khá đặc thù với nhiều loại hình mang tính cách của nhiều cư dân trộn lẫn vào nhau và mang đậm nét tính cách của vùng văn hóa - lịch sử.
Tín ngưỡng, tôn giáo ở Nam Bộ như đã nêu, gồm tín ngưỡng, tôn giáo của các cư dân bản địa, của các cư dân di cư... nên rất phong phú, đa dạng. Có những loại hình tín ngưỡng, tôn giáo mang yếu tố chung của khu vực, của tộc người như các loại hình tín ngưỡng dân gian, các tôn giáo thế giới..., nhưng cũng có những loại hình tín ngưỡng, tôn giáo chỉ xuất hiện trong một tộc người duy nhất như tín ngưỡng Arăk, Neak Tà của người Khmer, các tôn giáo bản địa của người Việt... Từ những phân tích như đã trình bày cho thấy tín ngưỡng, tôn giáo của cư dân Nam Bộ mang những đặc trưng tiêu biểu như đặc trưng mang tính vùng được biểu hiện qua các yếu tố: đa thần, khu vực, tính hỗn dung và tính nhập thế; và đặc trưng mang tính tộc người được biểu hiện qua việc bảo lưu giá trị truyền thống và tính cố kết cộng đồng. Chính những tính đặc trưng này làm cho tín ngưỡng, tôn giáo ở khu vực Nam Bộ có những đặc thù riêng so với những khu vực khác trong cả nước, cũng như trên thế giới.
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội ra đời trong những điều kiện xã hội cụ thể và cũng chính những điều kiện cụ thể đó lại chế định vùng ảnh hưởng của tôn giáo. Tôn giáo, dù là tôn giáo du nhập từ bên ngoài vào hay là tôn giáo bản địa, xét cho cùng cũng chỉ là một trong những
66 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
thành tố văn hóa của tộc người, góp phần làm phong phú văn hóa của chính tộc người đó. Tôn giáo không phải là tất cả các giá trị văn hóa của một tộc người ngay cả khi tôn giáo đó là quốc giáo. Nhưng với tư cách là một tôn giáo thì chính tôn giáo đó lại tác động một cách sâu sắc đến đời sống mọi mặt của cư dân. Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, do điều kiện địa lý tự nhiên, do môi trường xã hội khác với các vùng khác của Việt Nam, nên đã xuất hiện một số tôn giáo bản địa trên địa bàn Nam Bộ như Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Cao Đài, Hòa Hảo. Những tôn giáo bản địa đó góp phần làm phong phú văn hóa của người Việt, tạo nên một sắc thái riêng của văn minh miệt vườn, nhưng ít tác động đến các cộng đồng cùng cư trú xen kẽ với người Việt như người Khmer, người Hoa, người Chăm. Các tôn giáo đó ra đời ở người Việt Nam Bộ và cũng chỉ giới hạn ảnh hưởng của mình trong không gian đó. Với tư cách là một tôn giáo, các tôn giáo đó đã tác động đến đời sống mọi mặt của người Việt Nam Bộ. Nhưng do những tôn giáo này ra đời dựa trên nền tảng văn hóa truyền thống của người Việt lại là sự hỗn dung của nhiều tôn giáo nên không đủ sức phá vỡ cơ tầng văn hóa truyền thống để xác lập vị trí độc tôn trong đời sống tâm linh của người Việt Nam Bộ. Cũng chính vì thế, các tôn giáo bản địa của người Việt Nam Bộ không đủ sức lan tỏa ra các cộng đồng cư dân khác.
3. Một số nhận định về tín ngưỡng, tôn giáo ở Nam Bộ
a- Về xu hướng xuất hiện các tôn giáo mới ở Nam Bộ
Trong những năm gần đây ở Việt Nam đã xuất hiện các hiện tượng tôn giáo mới được đề cập đến trong một số công trình. Đặc trưng của hiện tượng tôn giáo mới là phản ánh tính khủng hoảng của thế giới chưa ổn định hiện nay trong buổi đầu của thời kỳ chuyển tiếp sang xã hội tin học, sinh học mang tính toàn cầu hóa1. Ở nước ta có nhiều
1. Đặng Nghiêm Vạn: Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.310.
CHƯƠNG VII: ĐẶC TRƯNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO... 67
“hiện tượng tôn giáo mới”, nhưng những hiện tượng tôn giáo mới chưa được nghiên cứu một cách thấu đáo, hầu hết các “tôn giáo mới” này chưa được phép hoạt động. Do chưa có nghiên cứu nhiều nên cũng chưa thể có những kết luận về các hiện tượng tôn giáo này. Nhưng theo Đặng Nghiêm Vạn thì các hiện tượng tôn giáo mới này “lành ít, dữ nhiều”1. Trong bối cảnh hiện nay, khi toàn cầu hóa như là một xu thế tất yếu, vì vậy giao lưu văn hóa giữa các tộc người, giữa các quốc gia tăng lên một cách đáng kể. Văn hóa từ bên ngoài du nhập vào có những yếu tố tích cực, nhưng cũng có những yếu tố tiêu cực, hạn chế, phản văn hóa. Các hiện tượng tôn giáo mới xuất hiện ở nước ta cũng là lẽ bình thường trong xu thế chung đó.
Theo nhận định của Đỗ Quang Hưng, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở nước ta bắt đầu xuất hiện những hiện tượng có tính cách “tôn giáo mới” mà trong đó có những nhóm phái có tính dân tộc, thậm chí còn có lãnh đạo một bộ phận yêu nước chống Pháp2. Theo đó, các tôn giáo mới mà Đỗ Quang Hưng đưa ra là các “hội kín”, “Thiên Địa Hội” và các “ông đạo” ở miền Nam, kể cả các tôn giáo bản địa mà chúng tôi đã liệt kê, phân tích như Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa... Theo quan điểm của Đỗ Quang Hưng, sự nảy sinh các tôn giáo mới thường gắn với các xu thế chiết trung và thuyết hỗn dung, tích hợp3. Theo báo cáo của Thiều Quang Thắng mà Đỗ Quang Hưng trích dẫn trong bài viết của mình, ở Việt Nam đã có khoảng 50 hiện tượng tôn giáo mới, trong đó có 8 hiện tượng xâm nhập từ nước ngoài vào và 42 hiện tượng khác phát sinh từ trong nước. Các hiện tượng tôn giáo mới xâm nhập từ nước ngoài có thể kể đến như Thanh Hải Vô Thượng Sư, Tam Tổ Thánh Hiền, Ômôtô giáo, đạo Baha’i, Nhất Quán Đạo..., còn các tôn giáo mới ra đời trong nước như
1. Đặng Nghiêm Vạn: Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam, Sđd, tr.311.
2, 3. Đỗ Quang Hưng: Hiện tượng tôn giáo mới - mấy vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 5, 2001, tr.10-11, 11.
68 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Long Hoa Di Lặc, Ngọc Phật Hồ Chí Minh, Đạo Trần Hưng Đạo, Đạo Tiên, Lạc Hồng - Âu Cơ, Đạo Chân Không, Vô Vi Pháp...
Trong quá trình khảo sát, chúng tôi nhận thấy các tôn giáo mới hiện nay có mặt tại Nam Bộ là những tôn giáo được du nhập từ nước ngoài như đạo Baha’i, Nhất Quán Đạo, Thanh Hải Vô Thượng Sư...
Trong đó, đạo Baha’i được thành lập bởi ngài Bahá’u’lláh vào thế kỷ XIX ở Iran. Người lập ra và lãnh đạo tôn giáo Baha’i được các tín đồ gọi là Thiên Sứ (God’s messengers). Tổng số tín đồ của tôn giáo này hiện nay có khoảng 6 triệu, trong đó châu Á có khoảng 3,6 triệu; châu Phi có 1,8 triệu; châu Mỹ có trên 900.0001. Tổ chức cao nhất của đạo Baha’i là Hội đồng Công lý Tối cao (The Universal House of Justice) gồm 9 nam thành viên, do các hội thánh ở các quốc gia bầu chọn theo nhiệm kỳ 5 năm.
Đạo Baha’i tin Thượng đế là siêu việt. Thượng đế đã sai xuống trần nhiều vị tiên tri như Abraham Phật, Giêsu, Bab. Tôn giáo này không có giáo sĩ, bí tích hoặc nghi lễ. Tín đồ cầu nguyện hằng ngày. Họ không không uống rượu, hút xách... Đạo Baha’i không có chủ trương rõ rệt về sự sống đời sau.
Đạo Baha’i du nhập vào nước ta khoảng năm 1934, hoạt động chủ yếu ở An Giang.
Nhất Quán Đạo là tôn giáo của Trung Quốc, xuất hiện vào đời nhà Thanh. Đây là tôn giáo tổng hợp giữa tư tưởng Phật giáo và Đạo giáo. Ở Trung Quốc, tôn giáo này bị xem là tà giáo, nhưng lại phát triển mạnh ở Đài Loan. Tôn giáo này du nhập vào cộng đồng người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh khoảng thập niên 90 của thế kỷ XX. Hiện nay, có một bộ phận nhỏ người Hoa ở quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh theo tôn giáo này, và họ sinh hoạt tôn giáo tương đối khép kín trong cộng đồng. Hiện nay, Nhất Quán Đạo không chỉ còn giới hạn trong phạm vi người Hoa,
1. Theo Niên giám Thế giới năm 2004.
CHƯƠNG VII: ĐẶC TRƯNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO... 69
mà đã lan sang người Việt. Trong cộng đồng người Việt, Nhất Quán Đạo không chỉ giới hạn ở Thành phố Hồ Chí Minh mà còn ở các tỉnh lân cận như Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long và đã ra đến tận Vĩnh Phúc. Do chưa được quan tâm nghiên cứu nên khó có thể giải thích tại sao Nhất Quán Đạo lại có khả năng lan tỏa, trong khi Nhà nước chưa cho phép. Đối với Nhà nước Việt Nam, tôn giáo này hiện vẫn được sinh hoạt, nhưng chưa được công nhận tư cách pháp nhân.
Thanh Hải Vô Thượng Sư là tôn giáo do bà Thanh Hải, tục danh Đặng Thị Trinh, sáng lập tại Đài Loan vào năm 1989. Đây là tôn giáo dựa trên giáo lý Phật giáo và những tư tưởng quán thiền do bà Thanh Hải sáng lập để thu hút tín đồ. Tuy nhiên, tôn giáo này không được tín đồ Phật giáo công nhận và kịch liệt phản đối về cách hành đạo. Tôn giáo này du nhập vào Việt Nam, chủ yếu ở các tỉnh Nam Bộ và khu vực Tây Nguyên vào những năm 90 của thế kỷ XX, nhưng không được Nhà nước công nhận, nên tín đồ của tôn giáo này chỉ hoạt động lén lút, và bị xem là “tà đạo”.
Bên cạnh các tôn giáo mới ở nước ngoài du nhập vào như đã kể trên, tại Nam Bộ từ khi có sự định cư của người Việt cũng như các tộc người khác thì đã xuất hiện nhiều tôn giáo mới mà chúng tôi đã trình bày dưới dạng tôn giáo bản địa.
Bên cạnh các tôn giáo bản địa như đã trình bày, Nam Bộ còn xuất hiện nên những ông đạo như Đạo Dừa, Đạo Gò Mối, Đạo Ngồi, Đạo Nằm... Phần lớn các ông đạo này không chủ trương hoặc đại diện cho một giáo phái nào. Các ông gần như không có đồ đệ, tín đồ và hệ thống giáo lý hoặc thuyết giáo và sự giải thoát cho con người, nhưng lại đón nhận được khá nhiều sự sùng tín, sùng bái của người dân.
Danh xưng ông đạo hầu hết là do người dân sùng tín đặt cho, họ tin vào khả năng siêu phàm hoặc huyền linh mà các ông đạo có thể đem lại. Người dân xem việc làm hoặc cách tu hành của các ông đạo này là một
70 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
cách để tiếp xúc với thế giới thần linh, thế giới siêu nhiên nhằm để đạt được mục đích cao cả nào đó. Người dân Nam Bộ cần đến các ông đạo trong những trường hợp như chữa bệnh, bói toán, trong đó đặc biệt là chữa bệnh. Khí hậu của Nam Bộ là nóng bức và ẩm thấp, nên người dân thường gặp các bệnh về thời khí, tâm thần. Những ông đạo sẽ giúp việc chữa bệnh này bằng nhiều phương thức, những bài thuốc gia truyền, những hiểu biết về dược tính của cây cỏ để chữa bệnh (đặc biệt là trị rắn cắn, ung nhọt). Việc chữa bệnh còn được thực hiện bằng việc cúng bái hoặc các nghi thức mang tính shaman như lên đồng, bói toán, trừ ếm... Bên cạnh việc chữa bệnh, các ông đạo còn giỏi cả việc xem bói, tính ngày tốt xấu cho người dân dựng vợ gả chồng, dựng nhà, tang ma, làm ăn... Một vai trò quan trọng khác mà các ông đạo ở Nam Bộ có khả năng thực hiện là trù ếm, ngăn chặn các loại ma quái làm hại con người, gia đình, làng xóm..., hoặc giải thoát con người khỏi tai ương, vận hạn. Người dân thường tin tưởng vào các ông trừ tà là những người Miên (Khmer), chính vì thế mà các ông đạo người Khmer cũng rất đông đảo tại Nam Bộ vào khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Tuy nhiên, sự xuất hiện của các ông đạo, cũng như các tôn giáo bản địa do người dân Nam Bộ sáng lập chỉ ra đời trong hoàn cảnh khó khăn của vùng đất Nam Bộ trước nửa đầu thế kỷ XX, nhằm đáp ứng nhu cầu tâm linh của con người lúc ấy.
Hiện nay, vùng đất Nam Bộ đã trở nên trù phú, kinh tế - xã hội phát triển, cùng với việc tồn tại vững chắc của các tôn giáo bản địa cũng như các tôn giáo thế giới đã cơ bản đáp ứng được nhu cầu tâm linh của một bộ phận người dân Nam Bộ nên việc cư dân Nam Bộ sáng lập nên các tôn giáo mới ở vùng đất này trong giai đoạn hiện tại gần như là không cần thiết nữa.
Chính vì lẽ đó, trong quá trình khảo sát, chúng tôi gần như không nhận thấy có một hiện tượng tôn giáo mới nào do chính các cư dân sinh sống tại Nam Bộ tạo ra trong giai đoạn hiện nay. Có chăng chỉ là
CHƯƠNG VII: ĐẶC TRƯNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO... 71
những hiện tượng tôn giáo mới được du nhập vào từ nước ngoài như đạo Baha’i, Nhất Quán Đạo, Thanh Hải Vô Thượng Sư... mà chúng tôi đã đề cập, nhưng tầm ảnh hưởng của các tôn giáo này không rộng, và không có sự chi phối đặc biệt nào đến đời sống tâm linh vốn có của các cư dân bản địa cũng như di cư tại Nam Bộ hiện nay. Các tôn giáo mới xuất hiện tại Việt Nam mà Thiều Quang Thắng đã nêu và được Đỗ Quang Hưng dẫn lại trong bài viết về “Hiện tượng tôn giáo mới - mấy vấn đề lý luận và thực tiễn” đăng trên tạp chí Nghiên cứu tôn giáo số 5 năm 2001 là những tôn giáo xuất hiện ở những khu vực khác ngoài Nam Bộ như Hà Tây (cũ), Hải Dương, Nam Định, Thái Bình, Hà Nội...1.
Điều này phải chăng là đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của cư dân Nam Bộ hiện nay đã tương đối ổn định và các tôn giáo hiện hữu đã đáp ứng được nhu cầu đời sống tâm linh của người dân Nam Bộ, nên họ không cần phải sáng tạo thêm những tôn giáo mới tại đây nữa, hay vì một lý do nào khác mà các cư dân Nam Bộ không có nhu cầu hình thành những tôn giáo mới trong bối cảnh hiện nay?.
b- Những đóng góp cụ thể của tín ngưỡng, tôn giáo trong quá trình phát triển vùng đất Nam Bộ
Tôn giáo thuộc thế giới tâm linh và đời sống tinh thần, nó có sức hấp dẫn thần bí. Tiến trình của tôn giáo tương quan mật thiết với sự phát triển của nhân loại. Sự tồn tại của tôn giáo cho đến ngày nay vẫn có ảnh hưởng rộng lớn và sâu sắc đối với nhiều người trên thế giới. Khi nói về chức năng của tôn giáo, trong cuốn sách Phát hiện Ấn Độ, J. Nehru đã viết: “rõ ràng là tôn giáo đã đáp ứng một nhu cầu trong tính con người, và đa số rộng lớn con người trên thế giới đều không thể không có một dạng tín ngưỡng nào đó... Tôn giáo đã đưa ra một loại giá
1. Đỗ Quang Hưng: Hiện tượng tôn giáo mới - mấy vấn đề lý luận và thực tiễn, Sđd, tr.11.
72 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
trị cho cuộc sống của con người, mặc dù một số chuẩn mực ngày nay không còn được áp dụng, thậm chí còn tai hại, những chuẩn mực khác vẫn còn là cơ sở cho tinh thần và đạo đức”, “Nói rộng hơn, tôn giáo đề cập đến những khu vực còn nguyên sơ trong kinh nghiệm con người, tức là những gì mà tri thức khoa học ngày nay chưa biết đến. Nói theo một nghĩa nào đó, tôn giáo có thể được xem như là một bộ phận phụ thêm của khu vực đã biết đến”. Ở một đoạn khác ông viết tiếp: “Cuộc sống không phải bao gồm toàn những gì chúng ta nhìn thấy, nghe thấy và cảm thấy, tức là thế giới hữu hình đang biến đổi theo thời gian, không gian; nó còn liên tục tiếp xúc với một thế giới vô hình của các yếu tố khác, có thể bền vững hơn hoặc cũng biến đổi như vậy; và không một ai có trí suy xét lại có thể bỏ qua thế giới vô hình này”.
Cùng với quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, nhất là quá trình giao lưu văn hóa giữa các tộc người đã dẫn đến một thực tế là ngày nay, không có một tộc người nào trên thế giới lại không theo một tôn giáo nào. Đã nhiều lần người ta lên tiếng phê phán tôn giáo và cho rằng cùng với sự phát triển vượt bậc của khoa học, trình độ dân trí ngày một nâng cao, tôn giáo tự nó mất vai trò của mình trong đời sống xã hội, và tôn giáo không còn nữa. Nhưng sự thật lại khác, khoa học vẫn phát triển, đời sống mọi mặt và dân trí của người dân ngày một nâng cao, mà tôn giáo lại không mất đi, thậm chí ở một số nơi tôn giáo có vai trò quyết định chi phối đến đời sống mọi mặt. Là một thành tố văn hóa của một tộc người, tôn giáo đã góp phần làm phong phú văn hóa tộc người và có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình tộc người.
Với tư cách là một thành tố rất quan trọng văn hóa của tộc người, nhất là ở những tộc người theo tôn giáo độc thần, tôn giáo có thể có nhiều chức năng (như chức năng phân biệt giữa các cộng đồng theo các tôn giáo khác nhau, chức năng về thế giới quan, chức năng giao tiếp, chức năng tích hợp xã hội, chức năng kiểm soát xã hội, chức năng hỗ trợ
CHƯƠNG VII: ĐẶC TRƯNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO... 73
xã hội). Ở đây, chúng tôi quan tâm đến ba chức năng. Đó là chức năng tích hợp xã hội, chức năng kiểm soát xã hội và chức năng hỗ trợ xã hội. Ở đồng bằng sông Cửu Long, nơi có các tộc người Việt, Khmer, Hoa, Chăm sinh sống, lại theo các tín ngưỡng tôn giáo khác nhau. Trong bối cảnh cụ thể đó, tôn giáo làm chức năng tích hợp xã hội. Mỗi tôn giáo có giáo luật, giáo lý quy định các hành vi của từng tín đồ chức sắc, do đó, tôn giáo có giá trị, chuẩn mực của nó, làm nên sự khác biệt với những giá trị và chuẩn mực các tôn giáo khác. Vì thế, những người theo cùng một tôn giáo gắn bó với nhau hơn nhờ những giá trị và chuẩn mực đó. Điều đó cũng lý giải vì sao những người thuộc các thành phần tộc người khác nhau, nhưng theo một tôn giáo, người ta lại có thể khắc phục những trở ngại về ngôn ngữ khi họ cùng có mặt tại một cơ sở tôn giáo. Trong những vấn đề xã hội, nhiều khi chính yếu tố tôn giáo lại góp phần làm tăng thêm mâu thuẫn giữa các nhóm, giữa các tộc người, thậm chí giữa các quốc gia. Những trường hợp như thế, tôn giáo đã làm chức năng tích hợp xã hội. Ở đồng bằng sông Cửu Long, chức năng tích hợp xã hội được thể hiện bằng việc gắn kết những người đồng đạo với nhau, vì những người đồng đạo dễ đoàn kết và sống hài hòa trong việc chăm lo đời sống, hỗ trợ những người gặp khó khăn. Chính những việc làm thiết thực đó đối với cộng đồng tín đồ một tôn giáo đã tạo nên tính kết dính, tích hợp giữa các tín đồ lại với nhau.
Bên cạnh chức năng tích hợp xã hội, tôn giáo còn có chức năng kiểm soát xã hội. Các tôn giáo với nhiều hình thức biểu hiện niềm tin khác nhau, nhưng đều hướng về một cuộc sống vĩnh hằng của thế giới bên kia. Vì vậy, các tín đồ thực hành nghiêm túc các giáo luật, giáo lý, thúc đẩy tính tuân thủ xã hội và qua đó duy trì sự ổn định. Có lẽ do chức năng kiểm soát xã hội đã chi phối đến những tín đồ cụ thể, nên ở những địa phương tập trung đông đảo tín đồ của một tôn giáo thì an ninh, trật tự xã hội có phần tốt hơn những nơi khác không có tình hình tôn giáo như vậy.
74 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Cuối cùng là chức năng hỗ trợ xã hội. Trong cuộc sống hằng ngày không phải ai cũng gặp những thuận lợi, không gặp bất trắc, mà trái lại, mỗi người mỗi hoàn cảnh, mỗi thân phận. Chính trong những lúc phải đối mặt với khó khăn, hiểm nguy, bệnh tật... của người thân hay chính mình, con người dễ bị tổn thương và cảm nhận thấy nhiều khó khăn, thấy cuộc sống vô nghĩa. Một khi con người rơi vào tình trạng như thế thì niềm tin tôn giáo giúp họ không rơi vào tuyệt vọng, giúp họ niềm tin để vượt qua khó khăn. Tôn giáo chính là một yếu tố tinh thần có sức mạnh giúp họ vượt qua.
Rõ ràng, tôn giáo có sức sống ngay cả khi nhân loại đạt được những thành tựu lớn lao trong lĩnh vực khoa học, vượt xa những hiểu biết trước đây về thế giới xung quanh. Nhìn trên bản đồ thế giới hiện nay, về những địa bàn phân bố các tôn giáo lớn (Phật giáo ở châu Á, Thiên Chúa giáo ở châu Âu và châu Mỹ, Islam ở Trung Đông và châu Phi), chúng ta dễ dàng nhận thấy có hàng tỷ người ở các nước là tín đồ của các tôn giáo khác nhau. Những thành tựu khoa học, nhất là trong lĩnh vực công nghệ sinh học, những hiểu biết ngày càng sâu rộng và toàn diện về cấu tạo vũ trụ, sự vận hành các quy luật tự nhiên, xã hội... sẽ giúp cho thấy được cái phi lý mà trước đây do thiếu hiểu biết mà tin vào. Sự phát triển của khoa học ngày càng giúp cho con người khắc phục được những trở ngại do thiên nhiên gây ra cho con người và kết quả này dẫn tới không còn chỗ đứng cho tôn giáo trong đời sống xã hội. Mặc dầu vậy, tôn giáo vẫn không lụi tàn như người ta nghĩ, mà trái lại, bên cạnh những tôn giáo truyền thống ngày càng phát triển mở rộng không chỉ số lượng mà cả không gian tồn tại (thí dụ như Islam), thì trong đời sống hiện nay đang xuất hiện những tôn giáo mới.
Như vậy, tôn giáo có vai trò trong phát triển và có mối liên hệ với khoa học, nhất là tôn giáo có vai trò như thế nào trong sự phát triển của con người. Liệu có phải giữa khoa học và tôn giáo có mối liên hệ giữa hai mặt đối lập trong quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
CHƯƠNG VII: ĐẶC TRƯNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO... 75
lập, một trong những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Nếu quả như vậy thì tôn giáo không chỉ là nhu cầu của con người, mà còn là một nhân tố rất quan trọng không thể thiếu được trong tiến trình phát triển của nhân loại.
Khi nghiên cứu về các tôn giáo, người ta đã đề cập đến cái gọi là văn minh Phật giáo, văn minh Thiên Chúa giáo, văn minh Islam. Một khi chúng ta đồng tình với quan niệm như vậy về tôn giáo, mặc nhiên chúng ta thừa nhận mối tương tác giữa tôn giáo và phát triển. Bởi vì văn hóa không có khái niệm cao thấp, mọi giá trị văn hóa đều bình đẳng và được tôn trọng như nhau. Nhưng khi nói đến văn minh, chúng ta đã nói đến tác động của các yếu tố khoa học, kỹ thuật. Khi nói đến các nền văn minh, chúng ta thấy các nền văn minh không chỉ khác biệt về các đặc trưng căn bản, mà còn có sự chênh lệch về trình độ (văn minh nông nghiệp và văn minh công nghiệp...).
Mối quan hệ giữa tôn giáo và phát triển dễ nhận thấy ở những cộng đồng cư dân ở trình độ phát triển kinh tế - xã hội thấp, nhưng khi tiếp nhận tôn giáo mới đã có những thay đổi trong hoạt động kinh tế, trong tổ chức xã hội, trong chăm sóc y tế, trong giáo dục (thí dụ như người Xtiêng ở Bình Phước). Trong một bài viết gần đây của Vương Hoàng Trù có nhắc lại chuyện Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ đã sử dụng công việc khuyến nông để truyền đạo như “trong hơn 2 tháng kể từ ngày 10 tháng 5 đến ngày 28 tháng 7 năm 1945, Giáo chủ đã đi nhiều địa phương để khuyến nông và truyền đạo. Trong đợt khuyến nông và truyền đạo này Giáo chủ có tới 107 buổi thuyết pháp trước đám đông. Nhờ tác động của các buổi thuyết pháp đã giúp cho người nông dân có nhiều sáng tạo trong sản xuất, đạt hiệu quả cao”1. Những tư tưởng đó ăn sâu trong tiềm
1. Vương Hoàng Trù: Tôn giáo với vấn đề phát triển vùng đất Nam Bộ, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học và phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long, Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ, Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ tổ chức tại Cần Thơ, năm 2010.
76 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
thức của các tín đồ Hòa Hảo, để rồi hôm nay, trong công cuộc xây dựng đất nước, những người nông dân - tín đồ Hòa Hảo đã biết vận dụng những tiến bộ khoa học - kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp cũng như trong các hoạt động xã hội khác.
Là một thành tố văn hóa của một tộc người, tín ngưỡng, tôn giáo không chỉ góp phần làm phong phú văn hóa, mà còn góp phần vào việc giữ gìn bản sắc văn hóa của một tộc người. Trên cơ tầng văn hóa Việt truyền thống, người Việt Nam Bộ, một mặt thể hiện sự kế thừa rất sáng tạo, mặt khác, cũng thể hiện sự thích ứng trong môi trường tự nhiên và xã hội mới. Các tôn giáo như Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Cao Đài, Hòa Hảo mang đậm nét văn hóa truyền thống, nhưng cũng lại có những nét được thể hiện rất Nam Bộ. Việc giữ gìn bản sắc văn hóa Việt được thể hiện trong trang phục, trang sức, trong truyền thống gia phong ở mỗi gia đình người Việt gắn liền với tôn giáo họ tin theo. Mặt khác, sự đa dạng về tôn giáo ở một vùng cũng được thể hiện trong sự đa dạng của các cơ sở thờ tự. Có lẽ không có nơi nào ở Việt Nam mà ở đó lại có sự hiện diện đầy đủ của các loại hình kiến trúc tôn giáo. Những cơ sở tôn giáo đó góp phần làm cho bức tranh văn hóa Nam Bộ thêm đa sắc màu. Cũng chính tại các cơ sở tôn giáo đó là nơi thể hiện niềm tin tạo nên sự kết dính giữa những người đồng đạo, nơi bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống. Không chỉ người Việt - cộng đồng đa số tại Nam Bộ - mà các cộng đồng cư dân khác như người Khmer, người Hoa, người Chăm, tuy theo và thực hành những tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau, nhưng đều có điểm chung là chính các tôn giáo đã góp phần vào việc bảo vệ bản sắc văn hóa trong bối cảnh cộng cư lâu dài.
Trong quá trình cộng cư đó, một mặt xảy ra quá trình giao lưu văn hóa, mà kết quả cuối cùng là hình thành những nét văn hóa chung, để các nhà khoa học khi phân chia các vùng văn hóa ở Việt Nam đã nhất trí coi Nam Bộ là một trong những vùng văn hóa, với những sắc thái riêng rất đậm nét. Mặt khác, chính các tôn giáo mà người Khmer, người Hoa,
CHƯƠNG VII: ĐẶC TRƯNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO... 77
người Chăm tin theo lại làm nên những khác biệt so sánh trong văn hóa giữa các tộc người cùng cộng cư nơi đây.
Như trên đã trình bày, tôn giáo có nhiều chức năng trong đó có chức năng điều chỉnh xã hội hay chức năng kiểm soát xã hội. Chức năng kiểm soát xã hội được thể hiện qua những kinh sách, giáo luật, giáo lý được truyền đạt đến các tín đồ. Mỗi tín đồ tùy theo chức phận của mình đều cố gắng thực hiện theo giáo luật, giáo lý, hình thành nên những hành vi ứng xử trước các hiện tượng thiên nhiên và các mối quan hệ xã hội. Để rồi qua những thăng trầm của lịch sử, hình thành nên chuẩn giá trị mà mỗi tín đồ có trách nhiệm thực hiện. Các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX đều thể hiện tinh thần đó.
Như vậy, có thể thấy các tôn giáo, dù là những tôn giáo được du nhập từ ngoài vào hay những tôn giáo được ra đời trong bối cảnh cụ thể ở Nam Bộ, đã tạo ra một hệ thống chuẩn mực, những giá trị nhằm điều chỉnh hành vi của những con người có đạo. Những hành vi được điều chỉnh ở đây không chỉ là những hành vi trong thờ cúng mà ngay cả trong cuộc sống hằng ngày, trong gia đình cũng như ngoài xã hội của người tín đồ. Vì thế hệ thống chuẩn mực, giá trị trong lý thuyết đạo đức và xã hội mà tôn giáo đã tạo ra đã ảnh hưởng quan trọng đến mọi hoạt động của con người. Có lẽ vì vậy mà xu hướng “nhập thế” của các tôn giáo ở Nam Bộ được thể hiện rất rõ.
Ngược dòng thời gian, chúng ta thấy có hoạt động khai hoang do Đoàn Minh Huyên chủ xướng. Đây là một hình thức hoạt động đặc thù trong lối sống cũng như trong tư duy của người nông dân Nam Bộ tự khẳng định mình, vươn lên bằng bàn tay lao động của mình. Vào năm 1849, sau khi đã giúp người dân chữa bệnh, được người dân suy tôn là Phật Thầy Tây An, Đoàn Minh Huyên đã sử dụng pháp môn đưa Phật giáo vào đời sống bằng cách khai hoang, lập ấp, tạo cuộc sống an cư lạc nghiệp cho những người nông dân nghèo. Nhờ phong trào khai hoang lập ấp đã đem lại những thành quả cho người nông dân. Những
78 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
trại ruộng ở Thới Sơn (huyện Tịnh Biên, An Giang), Láng Linh (huyện Châu Thành, Hậu Giang) không chỉ là thành quả lao động, mà còn góp phần phát triển kinh tế ở những nơi khó khăn trong buổi đầu khai phá. Khi thực dân Pháp xâm lược Nam Bộ, một tôn giáo mới ra đời có kế thừa đường hướng “học Phật, tu thân” của Bửu Sơn Kỳ Hương là Tứ Ân Hiếu Nghĩa.
Người sáng lập ra Tứ Ân Hiếu Nghĩa là Ngô Lợi, đã biết vận dụng tứ đại trọng ân để khơi gợi lòng yêu nước của người dân trong bối cảnh đất nước bị xâm lược. Vào thời điểm đó, dưới ngọn cờ tôn giáo, Ngô Lợi đã tập hợp được lực lượng và nhận được sự hưởng ứng của nhiều người khác, hình thành căn cứ kháng Pháp. Có những căn cứ khá quy mô, là chỗ dựa cho phong trào chống Pháp, như Láng Linh - Bảy Thưa do Trần Văn Thành chỉ huy, hay căn cứ Đồng Tháp Mười do Võ Duy Dương chỉ huy. Sau khi thực dân Pháp đàn áp các phong trào chống Pháp, những người sáng lập ra Tứ Ân Hiếu Nghĩa vẫn tiếp tục tinh thần chống ngoại xâm, thể hiện một tinh thần nhập thế rất tích cực.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, mặc dù kẻ thù tìm mọi cách chia rẽ, gây hận thù dân tộc, nhưng những chức sắc và tín đồ Phật giáo là người Khmer vẫn một lòng theo Đảng và có nhiều đóng góp cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Trong những năm sau giải phóng, các tôn giáo tham gia rất tích cực và có hiệu quả trong các hoạt động từ thiện xã hội, tham gia vào các hoạt động cứu trợ, chăm sóc người nghèo, giáo dục, y tế. Ở đồng bằng sông Cửu Long, tôn giáo nào cũng có những hoạt động từ thiện, trong đó nổi trội hơn cả có lẽ là Phật giáo Hòa Hảo. Trong một nghiên cứu gần đây về tôn giáo Nam Bộ đã được công bố của Phạm Bích Hợp, cho thấy hoạt động xã hội và những đóng góp của Phật giáo Hòa Hảo trong những năm từ 1999 đến 2005 là rất lớn. Những hoạt động này rất đa dạng và phong phú, như sơ cứu chữa bệnh; tài trợ