🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Vùng Đất Nam Bộ - Quá Trình Hình Thành Và Phát Triển Tập 1
Ebooks
Nhóm Zalo
Chịu trách nhiệm xuất bản
GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
PGS. TS. PHẠM MINH TUẤN
Chịu trách nhiệm nội dung
ỦY VIÊN HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP - XUẤT BẢN TS. VÕ VĂN BÉ
Biên tập nội dung:
Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Sửa bản in:
Đọc sách mẫu:
ThS. NGUYỄN THỊ HẢI BÌNH ThS. VŨ THỊ HỒNG THỊNH TRẦN PHAN BÍCH LIỄU ThS. PHÙNG MINH TRANG LÂM THỊ HƯƠNG
PHÒNG BIÊN TẬP KỸ THUẬT HỒNG THỊNH
VIỆT HÀ
Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 2266-2021/CXBIPH/27-23/CTQG. Số quyết định xuất bản: 439-QĐ/NXBCTQG, ngày 29/6/2021. Nộp lưu chiểu: tháng 7 năm 2021.
Mã ISBN: 978-604-57-6912-6.
CHỦ BIÊN
GS. PHAN HUY LÊ
PHÂN CÔNG BIÊN SOẠN
GS. PHAN HUY LÊ: Lời giới thiệu, Chương mở đầu Chương kết
TS. TRƯƠNG THỊ KIM CHUYÊN: Chủ biên Chương I GS. TSKH. VŨ MINH GIANG: Chương II
GS. TS. NGUYỄN VĂN KIM: Chủ biên Chương III GS. TS. NGUYỄN QUANG NGỌC: Chủ biên Chương IV PGS. TS. ĐOÀN MINH HUẤN: Chủ biên Chương V PGS. TS. TRẦN ĐỨC CƯỜNG: Chủ biên Chương VI
GS. TS. NGÔ VĂN LỆ: Chủ biên Chương VII PGS. TS. VŨ VĂN QUÂN: Chủ biên Chương VIII TS. VÕ CÔNG NGUYỆN: Chủ biên Chương IX PGS. TS. VÕ VĂN SEN: Chủ biên Chương X PGS. TS. PHAN XUÂN BIÊN: Chủ biên Đề xuất, kiến nghị Cùng các thành viên tham gia Ban biên soạn của các đề tài
5
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Vùng đất Nam Bộ với tư cách là một không gian địa lý và địa bàn hành chính thân thuộc, thiêng liêng của người dân đất Việt đã trải qua một quá trình hình thành, phát triển lâu dài, được bồi tụ chủ yếu bởi hai con sông lớn: sông Đồng Nai và sông Mêkông. Nơi đây cũng đã từng tồn tại, phát tích của nền văn hóa Óc Eo và các vương quốc Phù Nam, Chân Lạp phát triển huy hoàng rồi suy tàn theo năm tháng.
Từ thế kỷ XVII, người Việt từ miền Bắc và miền Trung đã vào đây khai phá, dựng làng, lập ấp cùng với người dân bản địa chinh phục vùng đất hoang vu nhưng rất trù phú này. Đến thế kỷ XVIII, từ tầm nhìn chiến lược và công lao to lớn của các chúa Nguyễn, sau này là vương triều Nguyễn, xác lập, sắp đặt các đơn vị hành chính, vùng đất phương Nam giàu có chính thức thuộc chủ quyền của dân tộc Việt Nam, đến nay đã được hơn 300 năm.
Vùng đất Nam Bộ với cương vực như hiện nay bao gồm cả Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ - đồng bằng sông Cửu Long, có 17 tỉnh và hai thành phố trực thuộc Trung ương, diện tích tự nhiên hơn 64.000 km2, dân số hơn 33 triệu người với nhiều tộc người tụ cư sinh sống, gồm các dân tộc ít người bản địa, các dân tộc thiểu số từ Trường Sơn - Tây Nguyên xuống, từ các tỉnh miền núi phía Bắc vào, một số ít người từ các nước khác đến, nhưng chủ yếu là địa bàn của người Kinh, người Hoa, người Khmer, người Chăm.
Về mặt địa lý, nhìn từ Bắc vào Nam, Đông Nam Bộ giáp cực Nam Trung Bộ từ tỉnh Ninh Thuận, giáp Trường Sơn - Tây Nguyên từ các tỉnh Lâm Đồng, Đắk Nông; có đường biên giới trên đất liền với Campuchia từ Bình Phước tới Hà Tiên; có đường bờ biển trải dài từ Ninh Thuận tới đất mũi Cà Mau (Biển Đông) và từ mũi Cà Mau đến Hà Tiên (biển Tây - vịnh Thái Lan). Nằm ở ngã ba đường giao thông quốc tế, Nam Bộ có vị trí địa - kinh tế, địa - chính trị cực kỳ quan trọng.
6 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Với tư cách một vùng đất giàu trầm tích văn hóa, đa dạng tộc người, đa tôn giáo, giàu tiềm năng và có vị trí chiến lược trọng yếu, từ lâu Nam Bộ đã là đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong nước và ở nước ngoài, nhiều hội thảo khoa học về vùng đất này đã được tổ chức, nhiều công trình khoa học trên các lĩnh vực đã được công bố, nhưng cho đến nay vẫn thiếu một công trình có tầm vóc, quy mô lớn nghiên cứu toàn diện, liên ngành để có cái nhìn toàn cảnh, sâu sắc, nhiều chiều cạnh về vùng đất phương Nam này.
Để đáp ứng yêu cầu đó, chương trình nghiên cứu tổng thể về vùng đất Nam Bộ dưới dạng một đề án khoa học cấp nhà nước do GS. Phan Huy Lê làm chủ nhiệm, gồm 11 đề tài khoa học đã được Bộ Khoa học và Công nghệ cho phép triển khai từ năm 2008. Từ những đề tài khoa học nghiên cứu cơ bản này, Ban Chủ nhiệm đề án đã tổ hợp lại thành báo cáo tổng quan Quá trình hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ. Sau 4 năm nghiên cứu, toàn bộ đề án đã được Bộ Khoa học và Công nghệ nghiệm thu và đánh giá đây là chương trình khoa học - công nghệ xuất sắc năm 2011.
Mặc dù công trình được đánh giá cao, nhưng khi xuất bản thành sách, các tác giả phải tiếp tục bổ sung, sửa chữa, chỉnh lý trong vòng hơn 3 năm - đến giữa năm 2015 mới chuyển giao bản thảo cho Nhà xuất bản. Sau khi tiếp nhận bản thảo, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật đã huy động một đội ngũ đông đảo biên tập viên, họa sĩ, nhân viên kỹ thuật, tổ chức biên tập, đọc duyệt, thiết kế makét, trình bày trong hơn một năm để công trình khoa học lớn này đến tay bạn đọc.
Đây là một công trình khoa học nghiên cứu công phu, nghiêm túc, được tiến hành bởi đội ngũ các nhà khoa học trên nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó Ban Chủ nhiệm đề án và chủ biên của từng đề tài là các chuyên gia hàng đầu trong từng giai đoạn lịch sử cũng như trong các lĩnh vực nghiên cứu. Tuy vậy, ở một vài chương trong bộ tổng quan hoặc từng đề tài, chất lượng nghiên cứu và hàm lượng khoa học không giống nhau, có chương, có tập chưa được như kỳ vọng hoặc yêu cầu nghiên cứu đặt ra.
Tất nhiên mỗi đề tài khoa học là công trình độc lập, nhưng khi đặt trong một chỉnh thể thì có đề tài không tránh được sơ lược, dàn trải; có đề tài có một số nội dung đã được trình bày ở các đề tài khác. Vì vậy, Nhà xuất bản đã thống
LỜI NHÀ XUẤT BẢN 7
nhất với chủ biên đề nghị các tác giả bổ sung, nâng cấp hoặc cắt bỏ những trùng lặp để bộ sách tuân thủ nghiêm ngặt sự thống nhất trong chỉnh thể. Bộ sách về vùng đất Nam Bộ gồm bộ tổng quan, rút gọn: Vùng đất Nam Bộ - Quá trình hình thành và phát triển, 2 tập và một bộ chuyên khảo sâu gồm 10 tập, nghiên cứu khá toàn diện trên nhiều lĩnh vực của vùng đất phương Nam, từ điều kiện tự nhiên, quá trình lịch sử, dân cư, dân tộc, tôn giáo, thiết chế quản lý xã hội, quá trình Nam Bộ hội nhập với khu vực và quốc tế. Khi triển khai nghiên cứu, tên đề án và tên từng đề tài khoa học rất cụ thể và thường khá dài, nhưng khi xuất bản, Nhà xuất bản đã trao đổi với chủ biên thống nhất bộ sách có tên chung là Vùng đất Nam Bộ.
Riêng bộ tổng quan Vùng đất Nam Bộ - Quá trình hình thành và phát triển, ngoài Chương mở đầu và Chương kết có 10 chương nội dung, được kết cấu hoàn chỉnh. Nhưng với dung lượng 1.500 trang sách rất khó dung nạp trong một cuốn sách, cho nên chúng tôi chia thành hai tập: tập I gồm Chương mở đầu và sáu chương nội dung, tập II gồm bốn chương nội dung và Chương kết.
Riêng Chương kết, các tác giả dành mục cuối cùng để trình bày đề xuất, kiến nghị của Ban Chủ nhiệm đề án với Đảng, Nhà nước và các cơ quan lãnh đạo, quản lý, chúng tôi tách ra làm phần Phụ lục đặt ở cuối sách.
Như vậy kết quả nghiên cứu của đề án được công bố thành các cuốn sách sau đây:
- Vùng đất Nam Bộ - Quá trình hình thành và phát triển, gồm 2 tập, GS. Phan Huy Lê chủ biên.
- Vùng đất Nam Bộ, tập I: Điều kiện tự nhiên, môi trường sinh thái, TS. Trương Thị Kim Chuyên chủ biên.
- Vùng đất Nam Bộ, tập II: Từ cội nguồn đến thế kỷ VII, GS. TSKH. Vũ Minh Giang chủ biên.
- Vùng đất Nam Bộ, tập III: Từ thế kỷ VII đến thế kỷ XVI, GS. TS. Nguyễn Văn Kim chủ biên.
- Vùng đất Nam Bộ, tập IV: Từ đầu thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX, GS. TS. Nguyễn Quang Ngọc chủ biên.
- Vùng đất Nam Bộ, tập V: Từ năm 1859 đến năm 1945, PGS. TS. Đoàn Minh Huấn - PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hà đồng chủ biên.
- Vùng đất Nam Bộ, tập VI: Từ năm 1945 đến năm 2010, PGS. TS. Trần Đức Cường chủ biên.
8 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
- Vùng đất Nam Bộ, tập VII: Đặc trưng tín ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt văn hóa, GS. TS. Ngô Văn Lệ chủ biên.
- Vùng đất Nam Bộ, tập VIII: Thiết chế quản lý xã hội, PGS. TS. Vũ Văn Quân chủ biên.
- Vùng đất Nam Bộ, tập IX: Tộc người và quan hệ tộc người, TS. Võ Công Nguyện chủ biên.
- Vùng đất Nam Bộ, tập X: Tiến trình hội nhập khu vực và thế giới, PGS. TS. Võ Văn Sen chủ biên.
Về mặt xuất bản, bộ sách được biên tập, thiết kế, trình bày thống nhất trong từng tập và trong cả bộ sách, được in ấn đẹp, trang trọng.
Xuất bản bộ sách này chúng tôi hy vọng cung cấp cho bạn đọc, các nhà nghiên cứu, học viên, sinh viên các học viện, nhà trường và các nhà lãnh đạo, quản lý, các địa phương, đơn vị một khối lượng tri thức lớn, khá đầy đủ, toàn diện và chân xác về vùng đất Nam Bộ, phục vụ cho công tác học tập, nghiên cứu và hoạch định chính sách ở khu vực trọng yếu, năng động này của đất nước.
Bộ sách cũng cung cấp cơ sở lịch sử - pháp lý vững chắc phục vụ cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị.
Năm 2016, bộ tổng quan Vùng đất Nam Bộ - quá trình hình thành và phát triển đã được xuất bản. Đáp ứng nhu cầu của đông đảo bạn đọc, cùng với việc xuất bản 10 tập chuyên khảo, Nhà xuất bản tiếp tục xuất bản lần thứ hai - có hiệu chỉnh một số chi tiết - bộ sách quý trên.
Mặc dù các tác giả và Nhà xuất bản đã nỗ lực rất cao trong nghiên cứu, biên soạn và biên tập - xuất bản, nhưng với khối lượng công việc đồ sộ, bộ sách khó tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, rất mong được bạn đọc góp ý, phê bình.
Xin trân trọng giới thiệu bộ sách quý cùng bạn đọc.
Tháng 10 năm 2017
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
9
9
LỜI GIỚI THIỆU
Quá trình hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ là một đề án khoa học xã hội cấp nhà nước do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, được thực hiện trong thời gian từ năm 2008 đến năm 2010 và nghiệm thu vào cuối năm 2011. Đề án gồm 11 đề tài:
1- Điều kiện địa lý tự nhiên, môi trường sinh thái tác động đến tiến trình lịch sử và đặc trưng văn hóa vùng đất Nam Bộ do TS. Trương Thị Kim Chuyên, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh làm Chủ nhiệm.
2- Nam Bộ từ cội nguồn đến thế kỷ VII do GS. TSKH. Vũ Minh Giang, Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, Đại học Quốc gia Hà Nội làm Chủ nhiệm.
3- Nam Bộ từ thế kỷ VII đến thế kỷ XVI do PGS. TS. Nguyễn Văn Kim, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội làm Chủ nhiệm.
4- Nam Bộ từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX: Quá trình khai phá và xác lập chủ quyền của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ do GS. TS. Nguyễn Quang Ngọc, Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, Đại học Quốc gia Hà Nội làm Chủ nhiệm.
5- Nam Bộ từ khi Pháp xâm lược Việt Nam đến năm 1945 do PGS.TS. Đoàn Minh Huấn, Học viện Chính trị hành chính khu vực I làm Chủ nhiệm.
6- Nam Bộ từ năm 1945 đến năm 2010 do PGS. TS. Trần Đức Cường, Viện Sử học Việt Nam làm Chủ nhiệm.
7- Đặc trưng tín ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt văn hóa của cư dân Nam Bộ do GS. TS. Ngô Văn Lệ, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh làm Chủ nhiệm.
10 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
8- Đặc trưng thiết chế quản lý xã hội ở Nam Bộ do PGS. TS. Vũ Văn Quân, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội làm Chủ nhiệm.
9- Tộc người và quan hệ tộc người ở Nam Bộ - lịch sử và hiện trạng do TS. Võ Công Nguyện, Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ làm Chủ nhiệm. 10- Nam Bộ trong tiến trình hội nhập khu vực và thế giới của Việt Nam do PGS. TS. Võ Văn Sen, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh làm Chủ nhiệm. 11- Nghiên cứu giải pháp nâng cao nhận thức của cán bộ và nhân dân về lịch sử vùng đất Nam Bộ do PGS. TS. Phan Xuân Biên, Viện Nghiên cứu xã hội, Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh làm Chủ nhiệm.
Toàn bộ kết quả nghiên cứu của các đề tài được tổng hợp trong một công trình mang tên Quá trình hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ do GS. Phan Huy Lê, Chủ nhiệm đề án, làm Chủ biên.
Công trình có một số đề tài nghiên cứu về quá trình lịch sử, nhưng không đơn thuần là lịch sử Nam Bộ. Cùng với các lớp cắt lịch đại theo tiến trình lịch sử, còn có những nghiên cứu trên một số lĩnh vực cơ bản về điều kiện tự nhiên, quan hệ tộc người, thiết chế quản lý xã hội, đời sống văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng, về quá trình xác lập chủ quyền của quốc gia Đại Việt... Trong một số đề tài lịch sử cũng có những yêu cầu làm sáng tỏ một số nội dung quan trọng như đề tài số 2 với yêu cầu nghiên cứu về văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam, đề tài số 4 có yêu cầu nghiên cứu sự xác lập chủ quyền của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ. Đặc biệt từ kết quả nghiên cứu, đề án xác lập một nhận thức mới coi lịch sử vùng đất Nam Bộ không phải bắt đầu khi người Việt vào khai phá từ thế kỷ XVII mà phải ngược về quá khứ xa xưa từ khi con người xuất hiện trên vùng đất phương Nam này.
Vùng đất Nam Bộ đã được các nhà khoa học nghiên cứu từ lâu dưới góc độ của nhiều chuyên ngành từ địa chất, địa lý đến khảo cổ học, dân tộc học, nhân học, xã hội học, kinh tế học, văn hóa học và sử học. Đề án một mặt tổng hợp các kết quả nghiên cứu đó, mặt khác nghiên cứu thêm một số nội dung cần thiết nhằm tạo ra một nhận thức tổng hợp về toàn bộ quá trình hình thành và phát triển của vùng đất phương Nam này.
LỜI GIỚI THIỆU 11
Đó là cơ sở khoa học để hiểu biết và lý giải những nét độc đáo của không gian lịch sử văn hóa vùng đất Nam Bộ với những trầm tích của nhiều thời kỳ lịch sử, những biến đổi trong cấu trúc tộc người, vai trò và cống hiến của các lớp cư dân - tộc người đã từng sinh sống trên vùng đất này, những đặc trưng về văn hóa, phong cách, lối sống của con người Nam Bộ, quá trình hội nhập của vùng đất Nam Bộ vào lãnh thổ của nước Đại Việt từ thế kỷ XVII-XVIII cho đến cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền và sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước đến ngày nay.
Tham gia đề án có hơn một trăm nhà khoa học thuộc một số viện của Viện Khoa học xã hội Việt Nam (nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) và Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, một số khoa và viện của Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và Hội Khoa học lịch sử Việt Nam. Các nhà khoa học tham gia dưới nhiều phương thức như trực tiếp biên soạn, nghiên cứu chuyên đề, điều tra khảo sát điền dã, tham luận trong các hội thảo khoa học. Trong quá trình chuẩn bị xây dựng đề án, Bộ Khoa học và Công nghệ đã phối hợp với Hội Khoa học lịch sử Việt Nam tổ chức ba hội thảo khoa học tại Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Cần Thơ: Văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam (năm 2004), Vùng đất Nam Bộ cho đến cuối thế kỷ XIX (năm 2006), Nam Bộ thời cận đại (năm 2008). Trong quá trình triển khai đề án, Ban chủ nhiệm đề án cùng chủ nhiệm các đề tài còn tổ chức một số hội thảo trao đổi về lịch sử nghiên cứu, phương pháp tiếp cận và một số nội dung cơ bản của đề án như tiến trình lịch sử xã hội, bản sắc văn hóa xã hội. Các bài tham luận trong những hội thảo này đã được Nhà xuất bản Thế giới biên tập và in thành sáu tập kỷ yếu1.
Kết quả nghiên cứu của Đề án được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật biên tập rất công phu và công bố thành một bộ sách mang tên chung Vùng đất Nam Bộ gồm 11 tập sách. Riêng tập Tổng quan là Vùng đất Nam Bộ - Quá trình hình thành và phát triển dày đến 1.500 trang
1. Văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam, 2008; Lịch sử nghiên cứu và phương pháp tiếp cận, 2008; Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ đến cuối thế kỷ XIX, 2009; Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ thời kỳ cận đại, 2009; Mấy vấn đề tiến trình lịch sử xã hội, 2011; Mấy vấn đề bản sắc văn hóa xã hội, 2011.
12 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
chia làm hai tập. So với nội dung của các đề tài có yêu cầu thống nhất lại tên từng tập và sắp xếp lại một số nội dung để tránh trùng lặp. Cách phân tập và bố cục này đã được nói rõ trong Lời Nhà xuất bản.
Tập thể các tác giả đã rất cố gắng hoàn thành công trình nghiên cứu nhưng trước một đối tượng nghiên cứu rộng lớn, bao quát nhiều nội dung phong phú, trong đó có những vấn đề mới đang nghiên cứu và thảo luận nên khó tránh khỏi sơ suất. Rất mong nhận được sự quan tâm và đóng góp ý kiến của bạn đọc. Chúng tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành đến Bộ Khoa học và Công nghệ đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc triển khai đề án, cảm ơn Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật đã dày công biên tập và xuất bản toàn bộ công trình khoa học này.
Hà Nội, mùa Hè năm 2016
GS. Phan Huy Lê
13
Chương mở đầu
VÙNG ĐẤT NAM BỘ
TRONG NGHIÊN CỨU VÀ NHẬN THỨC
I- TỔNG QUAN VỀ CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VÙNG ĐẤT NAM BỘ 1. Công trình của một đề án khoa học
Đề án khoa học xã hội cấp nhà nước Quá trình hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ đã được chuẩn bị từ những năm đầu thế kỷ XXI, xuất phát từ yêu cầu nghiên cứu một cách toàn diện tiến trình lịch sử vùng đất Nam Bộ.
Tuy đã có những nghiên cứu về thời tiền sử kể từ khi con người xuất hiện trên vùng đất Nam Bộ, rồi những nghiên cứu về văn hóa Óc Eo thời vương quốc Phù Nam, nhưng quan niệm phổ biến được trình bày trong sách giáo khoa và nhiều bộ lịch sử Việt Nam vẫn mở đầu lịch sử vùng đất Nam Bộ từ khi người Việt di cư vào khai phá vùng đồng bằng sông Cửu Long thế kỷ XVII, nhất là từ năm 1698 khi Chúa Nguyễn Phúc Chu cử Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý và thiết lập dinh Trấn Biên và Phiên Trấn, bắt đầu xác lập chủ quyền trên vùng đất phương Nam này. Quan niệm đó vô hình trung đã gạt bỏ thời kỳ trước đấy ra khỏi lịch sử Nam Bộ nói riêng và lịch sử Việt Nam nói chung. Nhận thức phiến diện đó để lại một khoảng trống vắng về lịch sử và văn hóa về vùng đất Nam Bộ, gây ra sự hẫng hụt trong nhận thức về toàn bộ tiến trình lịch sử của vùng đất này.
14 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Xuất phát từ thực tế đó, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam và Đại học Quốc gia Hà Nội, Viện Khoa học xã hội Việt Nam (nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) tổ chức biên soạn một cuốn sách giản lược về lịch sử vùng đất Nam Bộ. Đó là cuốn sách Lược sử vùng đất Nam Bộ do GS.TSKH. Vũ Minh Giang chủ biên và Hội Khoa học lịch sử Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Thế giới xuất bản lần thứ nhất năm 2006. Sau đó, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam thu thập ý kiến và các tác giả đã tiến hành chỉnh lý, xuất bản lần thứ hai vào năm 2008.
Cùng trong thời gian đó, Bộ Khoa học và Công nghệ theo sự chỉ đạo của Chính phủ phối hợp với Hội Khoa học lịch sử Việt Nam và các trung tâm khoa học lớn là Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và Viện Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức ba cuộc hội thảo khoa học về vùng đất Nam Bộ:
- Hội thảo lần thứ nhất vào năm 2004 về “Văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam” nhân dịp kỷ niệm 60 năm phát hiện văn hóa Óc Eo, tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 29 – 30-12-20041.
- Hội thảo lần thứ hai vào năm 2006 về “Vùng đất Nam Bộ đến cuối thế kỷ XIX”, tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 4-5-4-20062. - Hội thảo lần thứ ba vào năm 2008 về “Nam Bộ thời cận đại”, tổ chức tại Cần Thơ ngày 4-3-20083.
Ngoài ra còn hội thảo về “Nam Bộ và Nam Trung Bộ, những vấn đề lịch sử thế kỷ XVII-XIX” do Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức năm 2000 và một số cuộc hội thảo về thời kỳ các chúa Nguyễn, triều Nguyễn, những hội thảo mang tính chuyên đề về tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội, tôn giáo, tín ngưỡng... Một đề tài khoa học cấp nhà nước gần đây nhất là “Lịch sử hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ” do PGS.TS. Trần Đức Cường làm Chủ nhiệm vừa kết thúc.
1. Hội Khoa học lịch sử Việt Nam: Văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học nhân 60 năm phát hiện Văn hóa Óc Eo (1944-2004), Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2008.
2. Hội Khoa học lịch sử Việt Nam: Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ đến cuối thế kỷ XIX, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2009. 3. Hội Khoa học lịch sử Việt Nam: Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ thời cận đại, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2009.
CHƯƠNG MỞ ĐẦU: VÙNG ĐẤT NAM BỘ TRONG NGHIÊN CỨU VÀ NHẬN THỨC 15
Những kết quả nghiên cứu khoa học và những hội thảo khoa học trên đều góp phần nâng cao hiểu biết về vùng đất Nam Bộ và cũng từ đó bộc lộ một yêu cầu là phải có một công trình nghiên cứu mang tính tổng kết cao, xác lập một nhận thức mang tính toàn bộ và toàn diện về vùng đất Nam Bộ trong tiến trình lịch sử từ thời tiền sử cho đến ngày nay.
Trên cơ sở chuẩn bị đó và xuất phát từ yêu cầu cần nghiên cứu, xây dựng một nhận thức toàn diện về vùng đất Nam Bộ, Bộ Khoa học và Công nghệ đã xây dựng một đề án khoa học xã hội cấp nhà nước về Quá trình hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ.
Sau khi được Hội đồng tư vấn cấp nhà nước thẩm định, Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành Quyết định số 437/QĐ-BKHCN ngày 26-3-2007 phê duyệt đề án khoa học xã hội cấp nhà nước “Quá trình hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ” do GS. Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, làm Chủ nhiệm đề án.
Đề án gồm 11 đề tài:
1- Điều kiện địa lý tự nhiên, môi trường sinh thái tác động đến tiến trình lịch sử và đặc trưng văn hóa vùng đất Nam Bộ.
Chủ nhiệm: TS. Trương Thị Kim Chuyên, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Cơ quan chủ trì: Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
2- Nam Bộ từ cội nguồn đến thế kỷ VII.
Chủ nhiệm: GS.TSKH. Vũ Minh Giang, Đại học Quốc gia Hà Nội. Cơ quan chủ trì: Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, Đại học Quốc gia Hà Nội.
3- Nam Bộ từ thế kỷ VII đến thế kỷ XVI.
Chủ nhiệm: PGS.TS. Nguyễn Văn Kim, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Cơ quan chủ trì: Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
4- Nam Bộ từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX: Quá trình khai phá và xác lập chủ quyền của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ.
16 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Chủ nhiệm: GS.TS. Nguyễn Quang Ngọc, Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Cơ quan chủ trì: Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, Đại học Quốc gia Hà Nội.
5- Nam Bộ từ khi Pháp xâm lược đến năm 1945.
Chủ nhiệm: TS. Đoàn Minh Huấn, Học viện Chính trị hành chính khu vực I.
Cơ quan chủ trì: Hội Khoa học lịch sử Việt Nam.
6- Nam Bộ từ năm 1945 đến năm 2010.
Chủ nhiệm: PGS.TS. Trần Đức Cường, Viện Sử học Việt Nam. Cơ quan chủ trì: Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
7- Đặc trưng tín ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt văn hóa của cư dân Nam Bộ.
Chủ nhiệm: GS.TS. Ngô Văn Lệ, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Cơ quan chủ trì: Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
8- Đặc trưng thiết chế quản lý xã hội ở Nam Bộ.
Chủ nhiệm: PGS.TS. Vũ Văn Quân, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Cơ quan chủ trì: Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, Đại học Quốc gia Hà Nội.
9- Tộc người và quan hệ tộc người ở Nam Bộ - Lịch sử và hiện trạng. Chủ nhiệm: TS. Võ Công Nguyện, Viện phát triển bền vững vùng Nam Bộ.
Cơ quan chủ trì: Viện phát triển bền vững vùng Nam Bộ.
10- Nam Bộ trong tiến trình hội nhập khu vực và thế giới của Việt Nam. Chủ nhiệm: PGS.TS. Võ Văn Sen, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Cơ quan chủ trì: Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
CHƯƠNG MỞ ĐẦU: VÙNG ĐẤT NAM BỘ TRONG NGHIÊN CỨU VÀ NHẬN THỨC 17
11- Nghiên cứu giải pháp nâng cao nhận thức của cán bộ và nhân dân về lịch sử vùng đất Nam Bộ.
Chủ nhiệm: PGS.TS. Phan Xuân Biên, Viện Nghiên cứu xã hội, Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh. Cơ quan chủ trì: Hội Khoa học lịch sử Việt Nam.
Khái niệm “Quá trình hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ” dễ gây ra nhận thức là chỉ nghiên cứu lịch sử vùng đất Nam Bộ. Về phương diện này, đã có đề tài khoa học cấp nhà nước “Lịch sử hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ” do PGS.TS. Trần Đức Cường làm Chủ nhiệm, vừa được nghiệm thu. Trong đề án, tiếp cận về mặt lịch sử giữ vai trò quan trọng và được biểu thị qua các đề tài số 2, 3, 4, 5, 6. Tuy nhiên, ngay những đề tài mang nặng tính lịch sử này cũng không chỉ giới hạn trong nghiên cứu về diễn biến lịch sử, mà còn phải mở rộng ra những nội dung liên quan đến mục tiêu, yêu cầu của đề tài và của toàn bộ công trình. Ví dụ đề tài số 2 “Nam Bộ từ cội nguồn đến thế kỷ VII”, trong mục tiêu đã xác định rõ là không chỉ nghiên cứu quá trình lịch sử vùng đất Nam Bộ từ thời tiền sử đến thế kỷ VII mà còn phải làm sáng rõ đặc trưng của văn hóa Óc Eo, vương quốc Phù Nam trong dòng chảy của lịch sử, văn hóa Việt Nam cùng những thay đổi trong không gian chính trị - xã hội của khu vực. Hay đề tài số 4 “Nam Bộ từ đầu thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX” không chỉ nghiên cứu lịch sử vùng đất này từ thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XIX mà nội dung chủ yếu cần tập trung nghiên cứu là công cuộc khai phá vùng đồng bằng sông Cửu Long từ khi di dân người Việt rồi những nhóm người Hoa và các nhóm cư dân khác vào khẩn hoang, đẩy mạnh sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trên vùng đất này. Điều đặc biệt quan trọng đặt ra cho đề tài này là nghiên cứu và phân tích sâu sắc những căn cứ lịch sử và pháp lý để khẳng định việc xác lập chủ quyền của chúa Nguyễn đối với vùng đất Nam Bộ...
Ngoài ra, đề án còn có những đề tài nghiên cứu Về Điều kiện địa lý tự nhiên, môi trường sinh thái (Đề tài số 1), Về đặc trưng tín ngưỡng,
18 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
tôn giáo và đời sống văn hóa của các cộng đồng cư dân (Đề tài số 7), Về đặc trưng thiết chế quản lý xã hội (Đề tài số 8), Về tộc người và quan hệ tộc người (Đề tài số 9), Về Nam Bộ trong tiến trình hội nhập khu vực và thế giới của Việt Nam (Đề tài số 10). Cấu trúc hệ thống đề tài cũng như nhiệm vụ của từng đề tài là góp phần nghiên cứu vùng đất Nam Bộ một cách toàn bộ và toàn diện từ thời tiền sử cho đến nay.
2. Yêu cầu chung
Vùng đất Nam Bộ trước đây là địa bàn chủ yếu của vương quốc Phù Nam, một thời thuộc quyền quản lý của Chân Lạp, nhưng từ thế kỷ XVII đã là một bộ phận của lãnh thổ Đàng Trong thuộc nước Đại Việt rồi của nước Việt Nam, Đại Nam thời nhà Nguyễn và của nước Việt Nam hiện nay. Vì vậy cần đặt vùng đất Nam Bộ như một bộ phận của Việt Nam, tồn tại và phát triển trong mối quan hệ giữa “bộ phận” với “tổng thể” trong quan hệ giữa khu vực Nam Bộ với toàn bộ nước Việt Nam, quốc gia - dân tộc Việt Nam. Đây là yêu cầu tiếp cận “liên khu vực” trong phạm vi Việt Nam. Tất nhiên, nghiên cứu Nam Bộ thì phải xác định đối tượng tiếp cận chủ yếu là khu vực Nam Bộ, nhưng cần đặt trong bối cảnh chung của đất nước và sự gắn bó trong vận mệnh chung của cả dân tộc. Ngay cả trước khi vùng đất Nam Bộ hội nhập vào lãnh thổ Việt Nam thì những giao lưu và tương đồng văn hóa với các khu vực miền Trung và miền Bắc cũng cần quan tâm nghiên cứu và lý giải.
Vùng đất Nam Bộ từ khi bắt đầu cuộc sống của con người cho đến nay đều có mối quan hệ về kiến tạo địa chất, đặc điểm của điều kiện tự nhiên, môi trường, sinh thái cũng như về nhân chủng, cư dân - tộc người và kinh tế, văn hóa với cả khu vực, với các nước láng giềng và các nước Đông Nam Á, rồi rộng ra với thế giới phương Đông và phương Tây. Đây là mối quan hệ “liên khu vực” xét trên phạm vi ngoài quốc gia - dân tộc Việt Nam, đặt trong quan hệ khu vực rộng lớn mang tính liên quốc gia và thế giới.
CHƯƠNG MỞ ĐẦU: VÙNG ĐẤT NAM BỘ TRONG NGHIÊN CỨU VÀ NHẬN THỨC 19
Nam Bộ ở vào vị trí địa lý mang tính đầu mối giao thông tự nhiên và là nơi gặp gỡ của các đường thiên di cư dân, nơi giao thoa của các nền văn hóa của khu vực Đông Nam Á và cả vùng Đông Á và Nam Á. Lịch sử vùng đất Nam Bộ lại trải qua sự tồn tại của vương quốc từ Phù Nam, Chân Lạp rồi đến Đại Việt - Việt Nam nên bao gồm nhiều thời kỳ lịch sử, chứa đựng nhiều tầng lịch sử - văn hóa. Vị trí địa lý và đặc điểm lịch sử đó tạo nên những nét đặc trưng văn hóa rất phong phú, đa dạng, kết hợp đan xen và hỗn dung giữa những yếu tố “nội sinh” và “ngoại sinh” văn hóa rất đặc sắc, cần phân tích và lý giải một cách khoa học. Cơ tầng văn hóa Đông Nam Á và ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ, Trung Quốc rồi Pháp, phương Tây đều để lại dấu ấn khá đậm trong văn hóa Nam Bộ. Những yếu tố, thậm chí có lúc những lớp “ngoại sinh” được du nhập rất mạnh, nhưng nền tảng bản địa vẫn giữ vai trò chi phối và trên cơ sở đó mới có thể “bản địa hóa” các ảnh hưởng bên ngoài để giữ vững bản sắc văn hóa Nam Bộ như một vùng của văn hóa Việt Nam.
Cũng cần lưu ý là công trình phải tổng hợp toàn bộ kết quả nghiên cứu với những thành tựu khoa học đã đạt được, nhưng điều đó không có nghĩa là chỉ dựa vào những kết quả khoa học đã có. Ngay những kết quả nghiên cứu đã được công bố cũng cần phân tích, đánh giá một cách chặt chẽ để chọn lọc và tiếp thu những thành tựu có giá trị, đồng thời cần hệ thống hóa và sắp xếp theo cấu trúc của đề tài. Hơn nữa tùy theo từng đề tài, đều phải làm công tác giám định, kiểm tra nghiêm túc và tổ chức nghiên cứu thêm một số nội dung mà yêu cầu của đề tài đặt ra. Cả đề án cũng như mỗi đề tài vừa mang tính kế thừa, vừa phát triển như một công trình khoa học với yêu cầu cập nhật và nhận thức tổng hợp cao.
Khái niệm “Quá trình hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ” như đã xác định là không chỉ nghiên cứu về tiến trình lịch sử. Nội dung của đề án cũng như cấu trúc hệ thống đề tài là nhằm nhận thức Nam Bộ một cách tổng hợp về tất cả các lĩnh vực từ thời tiền sử cho đến nay.
20 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Các đề tài hình thành ba nhóm chính:
Nhóm thứ nhất: Nghiên cứu điều kiện tự nhiên, từ vị trí địa lý, lịch sử kiến tạo địa chất và đặc điểm địa hình, địa mạo, thổ nhưỡng, hình thái châu thổ, khí hậu và thủy văn, đến hệ sinh thái, tài nguyên. Điều kiện tự nhiên được nghiên cứu theo yêu cầu làm rõ tác động đến tiến trình lịch sử và đặc trưng văn hóa (Đề tài số 1).
Nhóm thứ hai: Nghiên cứu tiến trình lịch sử vùng đất Nam Bộ từ cội nguồn đến nay, gồm 5 đề tài (từ Đề tài số 2 đến Đề tài số 6). Quá trình lịch sử được phân làm 5 thời kỳ tương ứng với 5 đề tài:
- Từ cội nguồn đến thế kỷ VII, bao gồm thời tiền sử và thời kỳ vương quốc Phù Nam (Đề tài số 2).
- Từ thế kỷ VII đến thế kỷ XVI, bao gồm thời kỳ từ sau khi vương quốc Phù Nam sụp đổ cho đến trước khi người Việt vào khai phá (Đề tài số 3).
- Từ đầu thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX trước cuộc xâm lược của thực dân Pháp (Đề tài số 4).
- Từ khi Pháp xâm lược năm 1859 cho đến Cách mạng Tháng Tám 1945 (Đề tài số 5).
- Từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945 đến năm 2010 (Đề tài số 6). Các đề tài thuộc nhóm này làm rõ quá trình lịch sử của vùng đất Nam Bộ, đồng thời trong từng thời kỳ cần nghiên cứu sâu hơn một số nội dung mang tính đặc trưng của vùng đất này như văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam, nguyên nhân tình trạng hoang hóa thời kỳ thế kỷ VII - XVII, quá trình xác lập chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam...
Nhóm thứ ba: Nghiên cứu một số vấn đề cơ bản như tôn giáo, tín ngưỡng và sinh hoạt văn hóa của cộng đồng cư dân (Đề tài số 7), đặc trưng thiết chế quản lý xã hội (Đề tài số 8), tộc người và quan hệ tộc người (Đề tài số 9), Nam Bộ trong tiến trình hội nhập khu vực và thế giới của Việt Nam (Đề tài số 10).
CHƯƠNG MỞ ĐẦU: VÙNG ĐẤT NAM BỘ TRONG NGHIÊN CỨU VÀ NHẬN THỨC 21
Tất cả đều nhằm mục tiêu chung của Đề án là làm rõ những đặc điểm cơ bản vừa mang tính tự nhiên, vừa mang tính đặc thù của tiến trình lịch sử vùng đất Nam Bộ, những đặc trưng về cấu trúc tộc người, quan hệ tộc người, kết cấu kinh tế - xã hội và đời sống văn hóa của các cộng đồng cư dân vùng đất này. Trên cơ sở đó nêu lên những khuyến nghị xây dựng một nhận thức toàn diện về Nam Bộ, những vấn đề khoa học cần tiếp tục nghiên cứu và một số vấn đề cần giải quyết để bảo đảm sự phát triển bền vững, an ninh và quốc phòng của vùng đất có vị thế quan trọng này của đất nước.
Về phương pháp nghiên cứu, cách tiếp cận, Đề án có một cuộc hội thảo trao đổi rộng rãi tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 12- 8-20081. Nói chung, mỗi đề tài tùy theo yêu cầu và nhiệm vụ để chọn những phương pháp tiếp cận phù hợp, hiệu quả và cập nhật. Những đề tài về lịch sử, phương pháp chủ yếu là phương pháp tiếp cận lịch sử, nhưng cũng tùy theo từng đề tài và những nội dung cần nghiên cứu mà áp dụng những phương pháp liên ngành phù hợp. Những đề tài nghiên cứu một số vấn đề cơ bản, tùy theo từng lĩnh vực mà chọn những lý thuyết và phương pháp tương ứng, đồng thời triển khai một số điều tra xã hội học, nhân học cần thiết.
Nhìn chung yêu cầu về phương pháp luận của công trình là: - Tiếp cận toàn diện vùng đất Nam Bộ, nhưng có xác định những trọng tâm, trọng điểm. Trọng tâm nghiên cứu được giới hạn ở những nội dung mà nhu cầu nhận thức của xã hội, của người dân và các nhà hoạch định chính sách đang đòi hỏi, nhất là những “khoảng trống” về nhận thức lịch sử.
- Tiếp cận khu vực học, với yêu cầu liên ngành giữa sử học, khảo cổ học, dân tộc học, văn hóa học, địa lý học, xã hội học, kinh tế học... để từ đó tìm ra những mối liên hệ, tương tác giữa các lĩnh vực của đời sống
1. Hội Khoa học lịch sử Việt Nam: Lịch sử nghiên cứu và phương pháp tiếp cận, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2008.
22 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
xã hội với sự hình thành những đặc trưng văn hóa và tiến trình lịch sử vùng Nam Bộ.
- Tiếp cận liên khu vực, với yêu cầu đặt Nam Bộ trong mối quan hệ tương tác với các khu vực khác của đất nước, của khu vực Đông Nam Á và rộng hơn là cả Đông Á. Trong đó, mối quan hệ liên khu vực giữa Nam Bộ với Nam Trung Bộ của Việt Nam và Đông Nam của Campuchia có ý nghĩa hết sức quan trọng, không chỉ trong thế giới hiện đại mà quan trọng hơn là gắn với tiến trình “động” của không gian văn hóa - xã hội khu vực Đông Nam Á trong lịch sử.
- Tiếp cận nội sinh kết hợp ngoại sinh, với yêu cầu đặt nghiên cứu tiến trình lịch sử và đặc trưng văn hóa của cộng đồng cư dân Nam Bộ trong không gian cảnh quan, môi trường, địa lý, nhân chủng... bản địa, đồng thời luôn xem xét trong mối quan hệ giao lưu, tương tác với các yếu tố bên ngoài. Yếu tố nội sinh kết hợp với tác động ngoại sinh đã tạo nên những đặc trưng riêng biệt của tiến trình lịch sử và văn hóa vùng Nam Bộ.
Trong nghiên cứu, Nam Bộ được coi một không gian địa lý - lịch sử - văn hóa và phương pháp tiếp cận chủ yếu là khu vực học. Khu vực học hay nghiên cứu khu vực (area studies) mới ra đời sau Chiến tranh thế giới thứ hai và phát triển khá mạnh ở một số nước, nhất là Mỹ và Nhật Bản, đã thu được nhiều thành tựu và không ngừng được bổ sung, nâng cao về lý thuyết và phương pháp nghiên cứu. Do đó, trong nhận thức và vận dụng phương pháp nghiên cứu khu vực học, giữa các học giả quốc tế còn có những điểm khác biệt và đang được thảo luận, kiểm chứng và hoàn thiện. Khái niệm “khu vực” trong khu vực học là một không gian địa lý - nhân văn gắn kết hai yếu tố cơ bản là thiên nhiên và con người trong mối quan hệ tương tác giữa con người với thiên nhiên và giữa con người với con người. Đó có thể là một quốc gia - dân tộc, một khu vực gồm nhiều quốc gia - dân tộc hay một khu vực nhỏ hơn trong một quốc gia - dân tộc. Khái niệm khu vực là một không gian ở nhiều cấp độ khác nhau. Khu vực có thể trùng với một phân vùng địa
CHƯƠNG MỞ ĐẦU: VÙNG ĐẤT NAM BỘ TRONG NGHIÊN CỨU VÀ NHẬN THỨC 23
lý hay một phân vùng văn hóa, nhưng không nhất thiết phải có những đặc trưng chung về địa lý hay văn hóa. Trong một khu vực có thể có sự thống nhất về các thành tố thiên nhiên, tộc người, ngôn ngữ, tôn giáo..., cũng có thể có sự đa dạng và khác biệt. Khu vực trong khu vực học là một không gian nhất định, thường được coi như một không gian văn hóa, có thể có sự đồng nhất hay dị biệt, mà mục tiêu nghiên cứu là nhằm đi đến một nhận thức mang tính tổng hợp về tổng thể đó. Vì vậy, phương pháp nghiên cứu của khu vực học là phương pháp liên ngành (interdisciplinairy) và khu vực học được coi là một khoa học liên ngành. Đối tượng nghiên cứu là khu vực được coi như một tổng thể gồm nhiều thành tố có quan hệ tương tác mật thiết trong tồn tại và vận động. Vì vậy chỉ có phương pháp liên ngành, tiếp cận đối tượng từ nhiều chuyên ngành liên kết với nhau trong tổ chức nghiên cứu mới xây dựng được một nhận thức tổng hợp, toàn bộ và toàn diện về đối tượng đó. Phương pháp khu vực học là phương pháp tiếp cận chung của đề án và từng đề tài tùy theo yêu cầu, áp dụng trong mức độ cần thiết.
II- KHÔNG GIAN HÀNH CHÍNH NAM BỘ QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ
Trên bản đồ hành chính hiện nay, Nam Bộ không phải là một đơn vị hành chính mà là một khu vực phía nam của nước Việt Nam, tương ứng với khu vực miền trung gọi là Trung Bộ và khu vực miền bắc gọi là Bắc Bộ. Nam Bộ phía đông bắc giáp tỉnh Bình Thuận, Lâm Đồng, Đắk Nông của Trung Bộ, phía đông nam giáp Biển Đông, phía tây giáp vịnh Thái Lan, phía bắc giáp vương quốc Campuchia. Nam Bộ gồm 19 tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương trong tổng số 63 tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương của cả nước.
Theo Niên giám thống kê năm 2013, số tỉnh và thành phố ở Nam Bộ phân bố theo diện tích và dân số trung bình như sau:
24 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Bảng 1: Diện tích và dân số trung bình của các tỉnh, thành phố Nam Bộ
TT
Tỉnh/Thành phố
Diện tích
(km2)
Dân số
(trung bình)
Mật độ
(người/km2)
1
Bình Phước
6.871,5
921.800
134
2
Tây Ninh
4.032,6
1.095.600
272
3
Bình Dương
2.694,4
1.802.500
669
4
Đồng Nai
5.907,2
2.768.700
469
5
Bà Rịa - Vũng Tàu
1.989,5
1.052.000
529
6
Thành phố Hồ Chí Minh
2.095,6
7.818.200
3.731
7
Long An
4.491,9
1.469.900
327
8
Tiền Giang
2.508,6
1.703.400
679
9
Bến Tre
2.359,5
1.262.000
535
10
Trà Vinh
2.341,2
1.027.500
439
11
Vĩnh Long
1.520,2
1.040.500
684
12
Đồng Tháp
3.378,8
1.680.300
497
13
An Giang
3.536,7
2.155.300
609
14
Kiên Giang
6.348,5
1.738.800
274
15
Thành phố Cần Thơ
1.409,0
1.222.400
868
16
Hậu Giang
1.602,4
773.800
483
17
Sóc Trăng
3.311,6
1.308.300
395
18
Bạc Liêu
2.468,7
876.800
355
19
Cà Mau
5.294,9
1.219.900
230
19 tỉnh và thành phố
64.162,8 km2
32.938.500 người
513 người/km2
(Nguồn: Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê năm 2013, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2014, tr.56)
Sau thời tiền sử, vào khoảng 6 thế kỷ đầu Công nguyên, vùng đất Nam Bộ là địa bàn chủ yếu của nền văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam. Khi mới hình thành nhà nước, Phù Nam có “bảy ấp”, người đứng đầu được phong là “Tiểu vương”1. Có thể coi đó như “vùng thủ lĩnh” trong quá trình hình thành nhà nước theo mô hình “Mandala”. Từ một
1. Diêu Tư Liêm: Lương thư, q.54-8b, Thương vụ ấn thư quán, Thượng Hải, 1958, bản dịch của Nguyễn Hữu Tâm.
CHƯƠNG MỞ ĐẦU: VÙNG ĐẤT NAM BỘ TRONG NGHIÊN CỨU VÀ NHẬN THỨC 25
vương quốc, Phù Nam đã phát triển thành một đế chế cường thịnh của vùng Đông Nam Á lục địa. Đế chế Phù Nam gồm đến trên 10 nước, trong thư tịch cổ Trung Quốc được gọi là “thuộc quốc”, “ki mi” hay “chi nhánh”, bao quát cả vùng hạ lưu và một phần trung lưu sông Mêkông lan sang vùng hạ lưu và trung lưu sông Mênam, xuống đến khoảng giữa bán đảo Mã Lai. Vùng đất Nam Bộ nằm trong lãnh thổ vương quốc Phù Nam và là địa bàn chủ yếu của vương quốc. Cảng thị Óc Eo trên đất tỉnh An Giang hiện nay giữ vai trò trung tâm mậu dịch quốc tế lớn nhất của vương quốc và cả đế chế Phù Nam. Tư liệu thư tịch và bi ký không cho biết về sự phân chia các vùng hay đơn vị cai quản của Nhà nước Phù Nam.
Khoảng từ giữa thế kỷ VI, đế chế Phù Nam suy yếu. Một thuộc quốc của Phù Nam là Chân Lạp dần dần hưng thịnh, đánh chiếm kinh thành Đặc Mục (có thể là Angkor Borei, tỉnh Takeo, Campuchia) rồi tấn công thành Na Phất Na (Naravaranagara, có thể là cảng thị Óc Eo, Nam Bộ), chấm dứt sự tồn tại của vương quốc Phù Nam vào đầu thế kỷ VII. Từ đây, vùng đất Nam Bộ trên danh nghĩa phụ thuộc vào Chân Lạp. Trong thời kỳ Tiền Angkor (thế kỷ VII cho đến thế kỷ IX), Chân Lạp lâm vào tình trạng chiến tranh quyết liệt giữa các tiểu quốc, và ở thế kỷ VIII phân làm hai vùng: Lục Chân Lạp là miền đất cao ở phía bắc, có nhiều núi rừng, gồm đất trung lưu sông Mêkông, Hạ Lào và một phần Thái Lan hiện nay; Thủy Chân Lạp là vùng đất thấp ở phía nam, có đồng bằng, nhiều đầm lầy của một phần trung lưu và vùng hạ lưu sông Mêkông, trong đó có vùng đất Nam Bộ. Trong thế kỷ VIII, Thủy Chân Lạp luôn luôn bị quân Java tức quân đội của vương triều Sailendra trên đảo Java, Srivijaya trên đảo Sumatra (Inđônêsia), đế chế biển cường thịnh của Đông Nam Á hải đảo, tiến vào cướp phá và chiếm đóng từng thời gian. Đầu thế kỷ IX, vương triều Angkor (802-1432) thành lập, dần dần thống nhất Thủy Chân Lạp với Lục Chân Lạp, rồi phát triển thành một đế chế thịnh đạt, mở ra thời đại văn minh Angkor huy hoàng. Theo Chân Lạp phong thổ ký của Chu Đạt Quan, thế kỷ XIII, Chân Lạp gồm “hơn 10 thuộc quận”, “mỗi quận đặt quan lại, đều lấy gỗ
26 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
rào làm thành”1. Văn bia thời Angkor gọi những đơn vị hành chính của Chân Lạp là “prama” và “visaya”, thấp nhất là “sruk”. Tư liệu không cho biết về sự tồn tại của bất cứ một đơn vị hành chính nào của Chân Lạp thời Tiền Angkor và thời Angkor trên vùng đất Nam Bộ. Từ vương triều Angkor, trung tâm của Chân Lạp là vùng Biển Hồ và trung lưu sông Mêkông, miền đất Nam Bộ hoang vu là vùng ngoại vi, không được quan tâm trong khai phá và quản lý, tư liệu không cho biết đơn vị hành chính trên vùng đất này, ngoại trừ một số tên đất tiếng Khmer còn lưu giữ lại về sau này khi người Việt vào đây khai phá.
Trên cảnh quan thiên nhiên và nhân văn như thế, thế kỷ XVII di dân người Việt từ Đàng Trong đi về phương Nam khai khẩn đất hoang. Họ tìm những vùng đất hoang để khai phá, lập thành những thôn ấp, chung sống với người Khmer như Trịnh Hoài Đức nhận xét: “dân lưu tán của nước cùng ở lẫn với người Cao Miên để khai khẩn ruộng đất”2. Những nhóm di dân đầu tiên đặt chân ở Mô Xoài (Bà Rịa - Vũng Tàu), rồi từ đó tiến lên Đồng Nai, những nhóm khác lần theo các sông rạch, mở rộng dần địa bàn khai phá. Họ trở thành một động lực mới của sự phát triển kinh tế - xã hội vùng đất Nam Bộ. Từ giữa thế kỷ XVII, ở Trung Quốc, nhà Minh (1368-1644) sụp đổ, nhà Thanh (1644-1911) thay thế và một bộ phận người Hoa di cư ra nước ngoài sinh cơ lập nghiệp. Vào nửa sau thế kỷ XVII, một số người Hoa cũng tham gia vào công cuộc mở mang khai phá một số vùng trên đất Nam Bộ. Như vậy là tiếp nối công cuộc khai phá từ thời tiền sử, qua các lớp cư dân Phù Nam, các lớp cư dân cổ như người Mạ, Xtiêng, Chơ Ro, rồi người Khmer, Chăm..., từ thế kỷ XVII người Việt và một bộ phận người Hoa đã đẩy mạnh công cuộc khai phá, làm biến đổi nhanh chóng và mạnh mẽ diện mạo vùng đất Nam Bộ.
1. Châu Đạt Quan: Chân Lạp phong thổ ký, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2006, tr.54. 2. Trịnh Hoài Đức: Gia Định thành thông chí, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1998, tr.75.
CHƯƠNG MỞ ĐẦU: VÙNG ĐẤT NAM BỘ TRONG NGHIÊN CỨU VÀ NHẬN THỨC 27
Năm 1698, Chúa Nguyễn Phúc Chu (1675-1725, Tộ Quận công: 1691-1725) cử Thống suất Chưởng cơ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược, thiết lập các đơn vị hành chính và bộ máy quản lý trên đất khai phá của Nam Bộ. Xứ Đồng Nai lập thành huyện Phước Long và dựng dinh Trấn Biên (sau là Biên Hòa); xứ Sài Gòn lập thành huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn (sau là Gia Định). Dưới dinh và huyện (sau nâng thành phủ) là các đơn vị xã, thôn, phường, ấp. Trên hệ thống hành chính đó là bộ máy quản lý với các chức quan được quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ, việc chia địa giới, lệ thu tô thuế và sổ đinh điền cũng được quy định. Phạm vi đất đai mở mang “mở rộng đất được nghìn dặm, được hơn 4 vạn hộ”1. Đó là những đơn vị hành chính đầu tiên của chính quyền chúa Nguyễn thiết lập trên đất Nam Bộ gắn liền với công cuộc khai phá và xác lập chủ quyền.
Cho đến năm 1757, toàn bộ vùng đất Nam Bộ hoàn toàn thuộc chủ quyền của chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Các đơn vị hành chính trực thuộc trung ương có dinh Trấn Biên, dinh Phiên Trấn, dinh Long Hồ (có châu Định Viễn), đạo Trường Đồn, trấn Hà Tiên (có đạo Kiên Giang, đạo Long Xuyên). Năm 1744, Chúa Nguyễn Phúc Khoát (1714-1765, Hiếu Quận công: 1738-1765) thống nhất các đơn vị hành chính, chia toàn bộ Đàng Trong làm 12 dinh và 1 trấn. Đất Nam Bộ có 3 dinh là Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ và 1 trấn là Hà Tiên2. Dưới dinh là huyện - tổng - xã ở vùng đồng bằng hay huyện - thuộc - thôn - man, nậu ở miền núi. Riêng dinh Long Hồ, dưới dinh là châu. Cho đến hết thời chúa Nguyễn, cả Nam Bộ gồm 3 dinh (Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ) và 1 trấn (Hà Tiên) cùng các hải đảo.
Trong thời Tây Sơn, đất Nam Bộ là vùng đất tranh chấp quyết liệt giữa quân Tây Sơn với quân Nguyễn, là chiến trường của cuộc kháng chiến chống Xiêm năm 1784-1785. Trong thời gian này, hệ thống hành chính chỉ có một thay đổi. Năm 1779, Nguyễn Ánh đổi đạo Trường Đồn
1. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2007, t. I, tr.111.
2. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.I, tr.208.
28 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
thành dinh Trường Đồn (dinh Hoằng Trấn, năm 1781 đổi làm dinh Trấn Định), đưa số đơn vị hành chính lên 4 dinh và 1 trấn. Trong thời Tây Sơn và Nguyễn Ánh, số dinh/trấn không mấy thay đổi, nhưng do sự phát triển kinh tế - xã hội, số đơn vị cơ sở như xã, thôn, ấp, thuộc đã tăng thêm nhiều.
Sang đầu thời Nguyễn (1802-1945), vua Gia Long vẫn giữ nguyên các đơn vị hành chính cũ, chỉ đổi phủ Gia Định thành trấn Gia Định. Năm 1808, nhà vua quyết định thành lập Gia Định Thành bao gồm toàn bộ vùng đất Nam Bộ hiện nay. Đây là một khu vực hành chính đặc biệt, tương ứng với Bắc Thành ở phía Bắc bao gồm toàn bộ vùng đất Bắc Bộ hiện nay. Gia Định Thành có 4 dinh đổi làm 4 trấn: dinh Phiên Trấn đổi thành trấn Phiên An gồm phủ Tân Bình và 4 huyện (Bình Dương, Tân Long, Phước Lộc, Thuận An); dinh Trấn Biên đổi thành trấn Biên Hòa gồm phủ Phước Long và 4 huyện (Phước Chánh, Bình An, Long Thành, Phước An); dinh Long Hồ đã đổi làm dinh Vĩnh Trấn, nay đổi thành trấn Vĩnh Thanh gồm phủ Định Viễn và 3 huyện (Vĩnh An, Vĩnh Bình, Tân An); dinh Trấn Định đổi thành trấn Định Tường gồm phủ Kiến An và 3 huyện (Kiến Đăng, Kiến Hưng, Kiến Hòa); và trấn Hà Tiên chia đặt 2 huyện (Long Xuyên, Kiên Giang)1. So với bản đồ hành chính trước đây thì dưới trấn, các huyện phát triển thành phủ và các tổng phát triển thành huyện, đồng thời các đơn vị tổng và thôn, xã, phường, ấp, lân... tăng lên nhiều.
Việc thành lập hai khu vực hành chính lớn ở hai phía Bắc, Nam của đất nước là do nhu cầu quản lý mang tính tình thế khi triều Nguyễn vừa mới thiết lập nền thống trị trên một lãnh thổ rộng lớn bao gồm cả Đàng Trong và Đàng Ngoài. Mặt khác, quyền lực quá lớn của hai tổng trấn đứng đầu hai khu vực đó không khỏi gây mối lo ngại cho sự tập trung quyền lực của chế độ quân chủ tập quyền.
1. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2004, t. III, tr.360-361.
CHƯƠNG MỞ ĐẦU: VÙNG ĐẤT NAM BỘ TRONG NGHIÊN CỨU VÀ NHẬN THỨC 29
Sau khi chuẩn bị chu đáo, năm 1831, vua Minh Mệnh thực hiện một cuộc cải cách hành chính trên quy mô toàn quốc nhằm thống nhất nền hành chính quốc gia, thống nhất sự quản lý của triều đình trung ương. Trong năm 1831-1832, cả nước được chia làm 30 tỉnh và phủ Thừa Thiên (vùng kinh thành), hai khu vực Bắc Thành và Gia Định Thành bị xóa bỏ, các đơn vị hành chính thống nhất trong hệ thống: tỉnh - phủ - huyện/châu - tổng - xã/thôn/phường/ấp... Năm 1832, vùng Gia Định Thành được chia làm 6 tỉnh:
1- Tỉnh Phiên An (trấn Phiên An) gồm 2 phủ (Tân Bình, Tân An) và 5 huyện (Bình Dương, Tân Long, Phước Lộc, Thuận An, Tân Hòa). 2- Tỉnh Biên Hòa (trấn Biên Hòa) gồm 1 phủ (Phước Long) và 4 huyện (Phước Chánh, Phước An, Bình An, Long Thành).
3- Tỉnh Vĩnh Long (trấn Vĩnh Long) gồm 3 phủ (Định Viễn, Hoằng An, Lạc Hóa) và 6 huyện (Vĩnh Bình, Vĩnh Trị, Tân Minh, Bảo An, Tuân Nghĩa, Trà Vinh).
4- Tỉnh Định Tường (trấn Định Tường) gồm 1 phủ (Kiến An) và 3 huyện (Kiến Hưng, Kiến Đăng, Kiến Hòa).
5- Tỉnh An Giang (mới đặt) gồm 2 phủ (Tân Thành, Tuy Biên) và 4 huyện (Vĩnh An, Vĩnh Định, Đông Xuyên, Tây Xuyên).
6- Tỉnh Hà Tiên (trấn Hà Tiên) gồm 1 phủ (Khai Biên) và 3 huyện (Hà Châu, Long Xuyên, Kiên Giang)1.
Cả 6 tỉnh gồm 10 phủ, 25 huyện. Năm 1833, tỉnh Phiên An đổi thành tỉnh Gia Định. Từ đó cho đến khi quân Pháp xâm lược, các tỉnh không thay đổi, chỉ có cấp phủ, huyện, tổng và cấp cơ sở có những điều chỉnh về số lượng, tên gọi và địa giới. Vào cuối thời Minh Mệnh, số phủ tăng lên 16 và số huyện tăng lên 39. Hệ thống hành chính vẫn là tỉnh - phủ - huyện - thôn, xã, phường, ấp... mà thôn là đơn vị cơ sở phổ biến.
Năm 1834, nhà Nguyễn lấy Kinh sư làm trung tâm và gọi 2 tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi là Tả Trực kỳ, 2 tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình là Hữu Trực kỳ, 4 tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận
1. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2007, t. IX, tr.203-204.
30 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
là Tả Kỳ, 3 tỉnh Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa là Hữu Kỳ, 6 tỉnh vùng Nam Bộ là Nam Kỳ, 13 tỉnh vùng Bắc Bộ là Bắc Kỳ1. Danh xưng Nam Kỳ và Bắc Kỳ xuất hiện từ đây, nhưng là tên gọi vùng gồm một nhóm tỉnh tính theo độ xa gần với Kinh sư, trong quan niệm phên dậu của Kinh sư, không phải là khu vực hành chính như Bắc Thành, Gia Định Thành trước đây. Cũng từ đó, toàn bộ vùng đất Nam Bộ quen gọi là “Nam Kỳ lục tỉnh”.
Sau khi chiếm được 3 tỉnh miền Đông là Gia Định, Biên Hòa, Định Tường vào năm 1862, rồi 3 tỉnh miền Tây là Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên vào năm 1867, thực dân Pháp xóa bỏ cơ cấu chính quyền nhà Nguyễn và từng bước tổ chức lại bộ máy cai trị. Theo Hiệp ước năm 1862 ký giữa Pháp, Tây Ban Nha và nhà Nguyễn, 3 tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường và đảo Côn Lôn “chuyển nhượng hoàn toàn cho Hoàng đế nước Pháp” (Điều 3). Theo Hiệp ước năm 1874 ký giữa Pháp và nhà Nguyễn, “vương quốc An Nam công nhận chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn của Pháp trên toàn phần lãnh thổ do Pháp chiếm đóng hiện nay” tức toàn bộ Nam Kỳ gồm 6 tỉnh (Điều 5). Từ đó, Nam Kỳ trở thành thuộc địa của Pháp và bộ máy cai trị được tổ chức theo mô hình các xứ thuộc địa của chính phủ Pháp.
Nam Kỳ (Cochinchine) được xây dựng thành một đơn vị hành chính của xứ thuộc địa, đứng đầu là chức Thống đốc. Hệ thống hành chính tỉnh - phủ - huyện của nhà Nguyễn bị xóa bỏ, thay bằng một hệ thống hành chính mới. Sau nhiều lần thay đổi, theo Nghị định ngày 5-1-1876, cả Nam Kỳ chia làm 4 khu vực hành chính (circonscription administratif) và 19 hạt (arrondissement administratif, còn gọi tiểu khu hay địa hạt, hạt).
Khu vực Sài Gòn gồm 5 hạt: Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Bà Rịa, Gia Định.
Khu vực Mỹ Tho gồm 4 hạt: Mỹ Tho, Gò Công, Tân An, Chợ Lớn.
1. Nội các triều Nguyễn: Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, q. 36, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1993, t. IV, tr.25-50.
CHƯƠNG MỞ ĐẦU: VÙNG ĐẤT NAM BỘ TRONG NGHIÊN CỨU VÀ NHẬN THỨC 31
Khu vực Vĩnh Long gồm 4 hạt: Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh, Sa Đéc.
Khu vực Bát Xắc gồm 6 hạt: Châu Đốc, Hà Tiên, Long Xuyên, Rạch Giá, Cần Thơ, Sóc Trăng.
Năm 1882 lập thêm hạt Bạc Liêu thuộc khu vực Bát Xắc, đưa tổng số hạt lên 20. Số lượng các hạt có thay đổi, lúc tăng, lúc giảm quanh con số 19-21. Mỗi hạt có bộ máy hành chính do viên quan cai trị người Pháp đứng đầu và trong hạt có thể đặt thêm đơn vị gọi là trung tâm hành chính (centre administratif) do viên chức người Việt đứng đầu gọi là đốc phủ sứ hay tri phủ (loại vừa), tri huyện (loại nhỏ). Dưới hạt là tổng (canton) rồi đến đơn vị cơ sở là xã (commune). Ngoài các hạt, năm 1877 thành lập thành phố Sài Gòn thuộc loại thành phố lớn hay thành phố cấp 1 (municipalité de première classe) và năm 1879 thành lập thành phố Chợ Lớn thuộc loại thành phố cấp 2, do đốc lý (maire) đứng đầu.
Năm 1887, Tổng thống Pháp ký sắc lệnh thành lập Liên bang Đông Dương, trong đó Nam Kỳ được xác định là xứ thuộc địa, coi như lãnh thổ hải ngoại của nước Pháp.
Năm 1899, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định quy định từ ngày 1-1-1900 đổi hạt thành tỉnh (province). Kể từ năm 1900, cả Nam Kỳ chia làm 20 tỉnh, và khác với Bắc Kỳ, Trung Kỳ, riêng Nam Kỳ dưới tỉnh là tổng rồi đến đơn vị hành chính cơ sở là xã.
Miền Đông có 4 tỉnh: Bà Rịa, Biên Hòa, Tây Ninh, Thủ Dầu Một. Miền Trung có 9 tỉnh: Bến Tre, Chợ Lớn, Gia Định, Gò Công, Mỹ Tho, Sa Đéc, Tân An, Trà Vinh, Vĩnh Long.
Miền Tây có 7 tỉnh: Bạc Liêu, Cần Thơ, Châu Đốc, Hà Tiên, Long Xuyên, Rạch Giá, Sóc Trăng.
Cấp khu vực bị bãi bỏ. Năm 1880 thành lập khu Sài Gòn - Chợ Lớn gồm hai thành phố và vùng phụ cận. Đơn vị này bị bãi bỏ năm 1888 rồi tái lập vào năm 1931. Một số thành phố cấp 3 được thành lập như: Bạc Liêu, Cần Thơ, Rạch Giá (1928), Long Xuyên (1935), Mỹ Tho (1939)... Trong địa phận tỉnh vẫn tồn tại một số trung tâm hành chính (centre administratif) hay sở tham biện và đại lý (délégation). Vào những năm
32 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
1910-1920 có 40 đơn vị như vậy. Ngày 21-12-1933, Thống đốc Nam Kỳ ký Nghị định 4702-CP đặt quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Bà Rịa. Trong thời Pháp thuộc, Nam Kỳ là một đơn vị hành chính của xứ thuộc địa, và qua rất nhiều thay đổi, cho đến đầu năm 1945 gồm 20 tỉnh, khu Sài Gòn - Chợ Lớn, một số thành phố cấp 3.
Sau khi Nhật đảo chính Pháp ngày 9-3-1945, Chính phủ Trần Trọng Kim vẫn giữ nguyên cơ cấu hành chính Nam Kỳ, chỉ đổi Nam Kỳ thành Nam Bộ và cử một đại diện làm Khâm sai Nam Bộ. Tên Nam Bộ xuất hiện từ đây.
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, cả nước chia làm 3 kỳ là Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ. Để chuẩn bị cho cuộc tổng tuyển cử, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 51/SL ngày 17-10-1945 xác định rõ ngày tổng tuyển cử, số đại biểu Quốc hội, các đơn vị tuyển cử. Theo Sắc lệnh này, hệ thống hành chính gồm 5 cấp: kỳ - tỉnh - huyện - xã - thôn. Nam Bộ gồm 20 tỉnh: Bạc Liêu, Bà Rịa, Bến Tre, Biên Hòa, Cần Thơ, Châu Đốc, Chợ Lớn, Gia Định, Gò Công, Hà Tiên, Long Xuyên, Mỹ Tho, Rạch Giá, Sa Đéc, Sóc Trăng, Tân An, Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Trà Vinh, Vĩnh Long và 1 thành phố là Sài Gòn - Chợ Lớn1. Như vậy, các tỉnh hầu như vẫn giữ nguyên, chỉ bỏ Khu Sài Gòn - Chợ Lớn lập thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn và lấy vùng ngoại vi lập thành tỉnh Gia Định. Đứng đầu Nam Bộ là Ủy ban hành chính lâm thời, sau đổi thành Ủy ban nhân dân Nam Bộ. Ngày 23-9-1945, kháng chiến bùng nổ, Ủy ban nhân dân Nam Bộ đổi thành Ủy ban kháng chiến Nam Bộ. Sắc lệnh số 63/SL ngày 22-11-1945 quy định tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp. Hai cấp tỉnh và xã có Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính. Hội đồng nhân dân do dân bầu theo nguyên tắc phổ thông và trực tiếp, là cơ quan thay mặt cho dân. Hội đồng nhân dân bầu ra Ủy ban hành chính vừa thay mặt cho dân, vừa đại diện cho Chính phủ. Cấp kỳ và huyện không có Hội đồng nhân dân, chỉ có Ủy ban hành chính, và
1. Việt Nam Dân quốc công báo, số 5-1945.
CHƯƠNG MỞ ĐẦU: VÙNG ĐẤT NAM BỘ TRONG NGHIÊN CỨU VÀ NHẬN THỨC 33
Ủy ban hành chính cấp kỳ do hội viên Hội đồng nhân dân cấp tỉnh bầu ra, Ủy ban hành chính cấp huyện do hội viên Hội đồng nhân dân cấp xã bầu ra1. Đối với chính quyền đô thị, Sắc lệnh số 77/SL ngày 21-12-1945 quy định mỗi thành phố có Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính thành phố, khu phố có Ủy ban hành chính khu phố. Chỉ có thành phố Hà Nội trực thuộc Chính phủ trung ương, còn các thành phố khác đều thuộc các kỳ2. Thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn thuộc chính quyền Nam Bộ.
Cuối năm 1945, trước yêu cầu phục vụ kháng chiến, Nam Bộ chia làm 3 khu kháng chiến (còn gọi là chiến khu):
Khu 7 (Đông Nam Bộ) gồm: Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, Bà Rịa, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh.
Khu 8 (Trung Nam Bộ) gồm: Tân An, Mỹ Tho, Gò Công, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Sa Đéc.
Khu 9 (Tây Nam Bộ) gồm: Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Long Xuyên, Châu Đốc, Rạch Giá, Hà Tiên.
Hiến pháp năm 1946 khẳng định Việt Nam chia làm 3 bộ (Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ) và dưới bộ có 3 cấp: tỉnh - huyện - xã.
Sau ngày toàn quốc kháng chiến (19-12-1946), cả nước chia làm 12 khu quân sự - hành chính, trong đó Nam Bộ vẫn giữ 3 khu 7, 8, 9 như cũ. Năm 1948 thành lập các liên khu, trong đó Liên khu Nam Bộ vẫn gồm 3 khu cũ, thêm Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Năm 1951, Liên khu Nam Bộ chia làm 2 phân liên khu:
Phân liên khu miền Đông gồm 5 tỉnh: Gia Định Ninh (Gia Định, Tây Ninh và một phần Chợ Lớn), Thủ Biên (Thủ Dầu Một và Biên Hòa), Bà Chợ (Bà Rịa và một phần Chợ Lớn và huyện Nhà Bè của Gia Định), Mỹ Tho (Mỹ Tho, Tân An, Gò Công), Long Châu Sa (Sa Đéc và một phần Long Xuyên, Châu Đốc).
1. Việt Nam Dân quốc công báo, số 11-1945.
2. Việt Nam Dân quốc công báo, số 16-1945.
34 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Phân liên khu miền Tây gồm 6 tỉnh: Bến Tre, Vĩnh Trà (Vĩnh Long và Trà Vinh), Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Long Châu Hà (Hà Tiên và một phần Long Xuyên, Châu Đốc).
Và Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn1.
Cho đến cuối cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954), Nam Bộ chia làm 2 phân liên khu gồm 11 tỉnh và Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn. So với 20 tỉnh trước đây, một số tỉnh vẫn giữ nguyên, nhiều tỉnh hợp 2-3 tỉnh hay hợp 1 tỉnh và một phần của 1-2 tỉnh khác.
Trong thời gian kháng chiến chống Pháp, trong vùng do chính quyền Sài Gòn kiểm soát lại có một hệ thống hành chính khác và cũng qua nhiều thay đổi. Năm 1949, sau khi Chính phủ quốc gia Việt Nam thành lập do Bảo Đại làm Quốc trưởng, Nam Bộ được gọi là Nam Việt, do Thủ hiến đứng đầu. Bên dưới chia làm tỉnh - quận và tổng - xã. Mỗi tỉnh do tỉnh trưởng, mỗi quận do quận trưởng đứng đầu, bên cạnh có cố vấn người Pháp. Ngoài 20 tỉnh đã có, năm 1947 lập thêm tỉnh Cap Saint Jacques (Vũng Tàu). Trong thời gian 1946-1954, một số quận được thành lập trực thuộc cấp tỉnh hay thành phố. Năm 1952, thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn được gọi là Thủ đô Sài Gòn - Chợ Lớn hay Đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn, do Đô trưởng đứng đầu. Năm 1953, Nam Việt gồm 21 tỉnh, 88 quận và 1 thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn2. Nhưng trên thực tế, tùy theo diễn biến của cuộc kháng chiến, chính quyền Sài Gòn chỉ kiểm soát được một phần, chủ yếu là các thành phố, thị trấn và một phạm vi nông thôn nhất định.
Sau Hiệp định Genève năm 1954, nước Việt Nam tạm thời bị chia làm hai miền lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới. Tại miền Nam, sau khi phế truất Bảo Đại năm 1955, Ngô Đình Diệm thành lập chính thể Việt Nam Cộng hòa vào năm 1956. Vùng đất Nam Bộ gọi là Nam Phần (gồm thêm một phần Bình Thuận), chia làm Đông Nam Phần và Tây Nam Phần.
1. Nguyễn Quang Ân: Việt Nam - Những thay đổi địa danh và địa giới hành chính 1945-2002, Nxb. Thông tấn, Hà Nội, 2003, tr.55.
2. Xem Nguyễn Đình Đầu: Tổng kết nghiên cứu địa bạ Nam Kỳ lục tỉnh, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1994, tr.107-113 (Căn cứ theo Annuaire des Etats Associés, Cambodge, Laos, Vietnam, 1953, tr.341-343).
CHƯƠNG MỞ ĐẦU: VÙNG ĐẤT NAM BỘ TRONG NGHIÊN CỨU VÀ NHẬN THỨC 35
Ngày 22-10-1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ký Sắc lệnh số 143-NV, chia Nam Phần làm 22 tỉnh và Thủ đô Sài Gòn. 22 tỉnh là: 1- Phước Tuy (Bà Rịa, Vũng Tàu, Trường Sa), 2- Biên Hòa (Biên Hòa), 3- Long Khánh (Biên Hòa - Xuân Lộc), 4- Phước Long (Biên Hòa - Bà Rá), 5- Bình Long (Biên Hòa - Hớn Quản), 6- Tây Ninh, 7- Long An (Chợ Lớn - Tân An), 8- Kiến Tường (Mộc Hóa), 9- Kiến Phong (Phong Thạnh), 10- Định Tường (Mỹ Tho - Gò Công), 11- Kiến Hòa (Bến Tre), 12- Vĩnh Long (Vĩnh Long - Sa Đéc), 13- Vĩnh Bình (Trà Vinh), 14- An Giang (Long Xuyên - Châu Đốc), 15- Phong Dinh (Cần Thơ), 16- Ba Xuyên (Bạc Liêu - Sóc Trăng), 17- Kiên Giang (Rạch Giá - Hà Tiên), 18- Gia Định (Gia Định), 19- An Xuyên (Cà Mau), 20- Bình Dương (Thủ Dầu Một), 21- Bình Tuy (một phần Đồng Nai, Bình Thuận) và 22- Côn Sơn (Côn Đảo)1. Cũng theo Nghị định này, quần đảo Trường Sa (Spratley) thuộc quyền quản lý hành chính và an ninh của tỉnh Phước Tuy. Ngoài việc chia lại địa giới, đặt tên mới, so với trước có 3 tỉnh mới thành lập là Kiến Tường (Mộc Hóa), Kiến Phong (Phong Thạnh) và An Xuyên (Cà Mau). Sau đó, đơn vị hành chính cấp tỉnh còn qua nhiều thay đổi, khi bỏ, khi lập mới, khi đổi tên, khi thay đổi địa giới. Năm 1965, một đô thị mới được thành lập là Vũng Tàu. Năm 1966 tái lập tỉnh Sa Đéc. Dưới tỉnh chia làm quận, huyện và xã. Từ năm 1956 đến năm 1966, Đông Nam Phần có 12 tỉnh, Tây Nam Phần có 17 tỉnh, tổng cộng 29 tỉnh2. Nghị định số 420/BNV/HCĐP/26.X ngày 6-9-1973 của Bộ Nội vụ Việt Nam Cộng hòa sáp nhập các đảo của quần đảo Trường Sa vào xã Phước Hải thuộc quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy3.
1. Nguyễn Quang Ân: Việt Nam - Những thay đổi địa danh và địa giới hành chính 1945-2002, Sđd, tr.259-260 (Theo Sắc lệnh số 143-NV ngày 22-10-1956 của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa).
2, 3. Nguyễn Quang Ân: Việt Nam - Những thay đổi địa danh và địa giới hành chính 1945-2002, Sđd, tr.68-71, 439.
36 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Cho đến trước ngày 30-4-1975, vùng đất Nam Bộ gồm Đô thành Sài Gòn và 27 tỉnh, 163 quận1. So với danh sách năm 1956, 2 tỉnh bị bỏ là Phước Thành và Côn Sơn. Tuy nhiên, đó là xét về số lượng tên tỉnh, còn địa giới và số quận, xã có thay đổi theo xu hướng chung là chia nhỏ các đơn vị hành chính. Đứng đầu tỉnh là tỉnh trưởng, quận là quận trưởng, huyện là huyện trưởng.
Trong điều kiện chiến tranh, bên cạnh hệ thống đơn vị hành chính, chính quyền Sài Gòn còn chia vùng đất Nam Bộ làm các khu vực quân sự gọi là quân khu và vùng chiến thuật.
Năm 1956 lập Quân khu Thủ đô và Đệ nhất quân khu (gồm 9 tỉnh: Gia Định, Biên Hòa, Bình Dương, Phước Long, Tây Ninh, Bình Long, Phước Tuy, Long Khánh, Bình Tuy), Đệ ngũ quân khu (gồm 13 tỉnh: Long An, Kiến Tường, Kiến Phong, Kiến Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, Vĩnh Bình, An Giang, Phong Dinh, Ba Xuyên, Kiên Giang, An Xuyên, Côn Sơn). Năm 1961 lập 3 vùng chiến thuật, các tỉnh Nam Bộ thuộc Vùng chiến thuật 3. Thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn và tỉnh Gia Định lập thành Biệt khu Thủ đô. Trong vùng chiến thuật có thể lập khu chiến thuật, mỗi khu chiến thuật gồm một số tỉnh gọi là tiểu khu.
Năm 1965, vùng Nam Bộ lại chia làm 2 vùng chiến thuật (3 và 4), cùng với Quân khu Thủ đô và Đặc khu Rừng Sác. Năm 1969 lại lập 2 quân khu (3 và 4). Dưới quân khu có khu trách nhiệm chiến thuật như khu chiến thuật cũ, tiểu khu (tỉnh) và chi khu (quận).
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, sau cuộc Đồng khởi năm 1959-1960, ngày 20-12-1960 Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Cục miền Nam và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, trên
1. Nguyễn Quang Ân: Việt Nam - Những thay đổi địa danh và địa giới hành chính 1945-2002, Sđd, tr.71-76.
CHƯƠNG MỞ ĐẦU: VÙNG ĐẤT NAM BỘ TRONG NGHIÊN CỨU VÀ NHẬN THỨC 37
vùng giải phóng, một hệ thống tổ chức Mặt trận được thành lập, bắt đầu từ cơ sở gọi là Ủy ban chấp hành Mặt trận xã, quận, thực hiện chức năng của chính quyền cách mạng. Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, tháng 6-1969, Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam quyết định thành lập Chính thể Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Chức năng nhà nước từ đây được Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam chuyển giao cho Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Hệ thống chính quyền gồm các cấp: tỉnh/thành phố - huyện/quận/thị xã - xã/phường/thị trấn. Mỗi cấp có Ủy ban nhân dân cách mạng và Hội đồng nhân dân cách mạng, trong đó Ủy ban nhân dân cách mạng là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân cách mạng, đồng thời là đại diện của Chính phủ cách mạng lâm thời. Trên đất Nam Bộ, các đơn vị hành chính nói chung vẫn giữ tên cũ với một số điều chỉnh, như năm 1974 thành lập 3 tỉnh mới là Long Châu Hà, Sa Đéc, Long Châu Tiên.
Về mặt quân sự, do yêu cầu phát triển của lực lượng vũ trang và tổ chức chiến trường, từ năm 1961, Nam Bộ chia làm 4 quân khu (mật danh quân sự là T):
Quân khu 7 (T1) - miền Đông Nam Bộ gồm 8 tỉnh: Bà Rịa (cả thị xã Vũng Tàu), Biên Hòa, Long Khánh, Tây Ninh, Bình Dương, Bình Long, Phước Long, Phước Thành (cả huyện Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa và huyện Phước Vĩnh, tỉnh Bình Dương).
Quân khu 8 (T2) - miền Trung Nam Bộ gồm 8 tỉnh: Long An, Mỹ Tho, Gò Công, Long Xuyên, Châu Đốc, Sa Đéc, Bến Tre, Kiến Phong (gồm cả Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc và Mộc Hóa, tỉnh Tân An).
Quân khu 9 (T3) - miền Tây Nam Bộ gồm 7 tỉnh: Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, Rạch Giá, Hà Tiên, Sóc Trăng (cả Côn Đảo), Cà Mau (Bạc Liêu chia đôi: một nửa nhập vào Sóc Trăng, một nửa nhập vào Cà Mau).
38 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Quân khu Sài Gòn - Gia Định (T4) gồm thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn và các huyện ngoại thành.
Dưới quân khu có tỉnh đội, huyện đội và xã đội. Theo yêu cầu của chiến trường, các khu vực quân sự có những biến đổi. Năm 1962 thành lập thêm Quân khu 10 (T10) gồm tỉnh Bình Long, Phước Long tách từ Quân khu 7 và tỉnh Quảng Đức, Lâm Đồng tách từ Quân khu 6 (Nam Trung Bộ). Nhưng năm 1963, Quân khu 10 bị giải thể và sau lại tái lập, chỉ gồm các tỉnh Bình Long, Phước Long và Quảng Đức. Năm 1967, trong khi chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, khu trọng điểm của chiến trường Nam Bộ gồm Quân khu 7 và Quân khu Sài Gòn - Gia Định được lập thành 6 phân khu. Năm 1972, các phân khu lại giải thể và Quân khu 7, Quân khu Sài Gòn - Gia Định được khôi phục. Sau Hiệp định Paris, các khu vực quân sự lại có một số điều chỉnh như Quân khu Sài Gòn - Gia Định đổi tên là Thành đội Sài Gòn - Gia Định và một số tỉnh của miền Đông Nam Bộ, miền Trung Nam Bộ, miền Tây Nam Bộ có thay đổi.
Như vậy, trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), diên cách các đơn vị hành chính trên đất Nam Bộ diễn ra khá phức tạp với nhiều biến đổi và sự tồn tại chồng ghép, đan xen của hệ thống chính quyền của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và các khu vực quân sự của hai bên.
Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, tháng 2-1976, Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra Nghị định hợp nhất các tỉnh, chia miền Nam thành 20 tỉnh và 1 thành phố, trong đó Nam Bộ có 12 tỉnh và Thành phố Hồ Chí Minh. 12 tỉnh là: 1- Đồng Nai (Biên Hòa, Long Khánh, Bà Rịa), 2- Sông Bé (Thủ Dầu Một, Bình Phước), 3- Long An (Long An, Kiến Tường), 4- Tiền Giang (Mỹ Tho, Gò Công), 5- Cửu Long (Vĩnh Long, Trà Vinh), 6- Hậu Giang (Cần Thơ, Sóc Trăng), 7- Đồng Tháp (Sa Đéc, Kiến Phong), 8- An Giang (một số huyện của tỉnh Long Châu Hà, Long Châu Tiền, Sa Đéc),
CHƯƠNG MỞ ĐẦU: VÙNG ĐẤT NAM BỘ TRONG NGHIÊN CỨU VÀ NHẬN THỨC 39
9- Kiên Giang (Rạch Giá và một số huyện của tỉnh Long Châu Hà), 10- Minh Hải (Cà Mau, Bạc Liêu), 11- Tây Ninh, 12- Bến Tre1. Ngày 2-7-1976, trong kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa VI đã thông qua Nghị quyết lấy tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quy định Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, đặt thủ đô tại Hà Nội và mô hình tổ chức bộ máy nhà nước thống nhất trên phạm vi toàn quốc. Bộ máy nhà nước gồm ba cấp: tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương - huyện/thành phố trực thuộc tỉnh/quận/thị xã - xã/phường/thị trấn. Quốc hội chính thức đặt tên thành phố Sài Gòn - Gia Định là Thành phố Hồ Chí Minh.
Hiến pháp năm 1980 quy định hệ thống các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo 3 cấp như trên. Hiến pháp năm 1992 quy định: Nước chia làm tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành phố thuộc tỉnh chia thành quận, huyện và thị xã; huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và quận chia thành phường.
Thực hiện các văn bản pháp luật trên, các đơn vị hành chính của Nam Bộ đã qua nhiều lần điều chỉnh địa giới cấp xã, phường, thị trấn, quận, huyện. Một số tỉnh, thành phố cũng được sắp xếp lại.
Năm 1991, tỉnh Hậu Giang chia thành 2 tỉnh: tỉnh Cần Thơ và tỉnh Sóc Trăng; tỉnh Cửu Long chia thành 2 tỉnh: tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà Vinh; thành lập tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu gồm Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo và 3 huyện Long Đất, Châu Thành, Xuyên Mộc của tỉnh Đồng Nai.
Năm 1996 chia tỉnh Minh Hải thành 2 tỉnh: tỉnh Bạc Liêu và tỉnh Cà Mau.
1. - Nguyễn Trọng Phúc (Chủ biên): Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2006, t. III (1976-1992), tr.452;
- Viện Sử học: Biên niên những sự kiện 1975-1986, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990, tr.632.
40 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Năm 2003, chia tỉnh Cần Thơ làm thành phố Cần Thơ và tỉnh Hậu Giang.
Hệ thống đơn vị hành chính dần dần ổn định và theo Niên giám thống kê năm 2013, số đơn vị hành chính của Nam Bộ tính đến ngày 31-12-2013 như sau:
Bảng 2: Các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
của Nam Bộ
TT
Tên tỉnh/thành phố trực thuộc
Trung ương
Thành
phố
thuộc
tỉnh
Quận
Thị
xã
Huyện
Phường
Thị
trấn
Xã
Đông Nam Bộ
5
19
8
39
374
33
465
1
Bình Phước
3
7
14
5
92
2
Tây Ninh
1
8
7
8
80
3
Bình Dương
1
4
4
41
2
48
4
Đồng Nai
1
1
9
29
6
136
5
Bà Rịa - Vũng Tàu
2
6
24
7
51
6
Thành phố Hồ Chí Minh
19
5
259
5
58
Tây Nam Bộ
14
5
10
103
202
125
1.294
7
Long An
1
1
13
12
14
166
8
Tiền Giang
1
2
8
22
7
144
9
Bến Tre
1
8
10
7
147
10
Trà Vinh
1
7
9
11
85
11
Vĩnh Long
1
1
6
10
5
94
12
Đồng Tháp
2
1
9
17
8
119
13
An Giang
2
1
8
21
16
119
14
Kiên Giang
1
1
13
15
12
118
15
Thành phố Cần Thơ
5
0
4
44
5
36
16
Hậu Giang
1
1
5
8
12
54
17
Sóc Trăng
1
2
8
17
12
80
18
Bạc Liêu
1
6
7
7
50
19
Cà Mau
1
8
10
9
82
Nam Bộ
19
24
18
142
576
158
1.759
(Nguồn: Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê năm 2013, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2014, tr.16)
CHƯƠNG MỞ ĐẦU: VÙNG ĐẤT NAM BỘ TRONG NGHIÊN CỨU VÀ NHẬN THỨC 41
Nam Bộ hiện nay có 17 tỉnh và 2 thành phố trực thuộc Trung ương với địa giới xác định rõ ràng trên bản đồ hành chính. Tuy nhiên, diên cách các đơn vị hành chính đã trải qua rất nhiều biến đổi, từ vùng đất cư trú của các cộng đồng cư dân tiền sử đến địa bàn chủ yếu của vương quốc Phù Nam với vùng đất biên giới tương đối, chưa có đường biên giới cũng như chưa có những đơn vị hành chính rõ ràng. Mãi đến năm 1698 mới bắt đầu xuất hiện một số đơn vị cấp dinh, huyện và dưới là xã, thôn, ấp, phường do chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong thiết lập. Từ đó, hệ thống đơn vị hành chính trải qua một quá trình biến đổi từ điều chỉnh địa giới các cấp đến lập đơn vị mới, khi tách khi nhập, khi mở rộng khi sáp nhập... để đi đến hệ thống đơn vị hành chính hiện nay. Quần đảo Trường Sa dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa thuộc tỉnh Phước Tuy của Nam Bộ; theo Quyết định số 193/HĐBT ngày 9-12-1982 của Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thành lập huyện Trường Sa thuộc tỉnh Đồng Nai (Nam Bộ). Ngày 28-12-1982, Quốc hội khóa VII ra Nghị quyết sáp nhập huyện Trường Sa vào tỉnh Phú Khánh. Ngày 30-6-1989, tỉnh Phú Khánh tách ra thành 2 tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa, từ đó huyện đảo Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hòa. Như vậy, từ ngày 28-12-1982, huyện Trường Sa thuộc tỉnh Phú Khánh rồi tỉnh Khánh Hòa của Trung Bộ, không còn thuộc Nam Bộ nữa.
III- QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHẬN THỨC
Những ghi chép, miêu tả về vùng đất Nam Bộ đã có rất sớm trong những thư tịch cổ của Trung Quốc, Việt Nam; trong bi ký cổ của Phù Nam, Chân Lạp, Chămpa; trong tư liệu của một số thương nhân, giáo sĩ phương Tây. Trong những ghi chép này có một số tác phẩm biên soạn, khảo cứu theo những thể loại cổ truyền như sử ký, địa chí, truyện ký..., được coi là những nguồn tư liệu chữ viết gốc trong nghiên cứu về vùng đất Nam Bộ. Chúng tôi bắt đầu lịch sử nghiên cứu vùng đất này
42 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
từ những công trình nghiên cứu mang tính hiện đại theo chuyên ngành hay liên ngành của các học giả trong nước và trên thế giới.
Trải qua thời gian, vùng đất Nam Bộ được nghiên cứu một cách khá toàn diện, hầu như trên tất cả các phương diện. Sau đây chỉ điểm qua quá trình nghiên cứu và nhận thức đó qua một số công trình khoa học và tác phẩm chính1.
1. Về điều kiện tự nhiên
Từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã có một số công trình nghiên cứu của học giả Pháp về địa chất và địa lý vùng đất Nam Bộ trong mối quan hệ rộng lớn của cả Đông Dương hay Đông Nam Á. Đó là các nhà địa chất, địa lý và khảo cổ học phần lớn làm việc trong Sở Địa chất Đông Dương (Service géologique de l’ Indochine, thành lập năm 1898), Phái đoàn khảo cổ học thường trực tại Đông Dương (Mission archéologique permanente en Indochine, 1898- 1900) và Viện Viễn Đông bác cổ Pháp (École Française d’ Extrême
Orient, EFEO, thành lập năm 1900). Liên quan đến Nam Bộ có thể kể các công trình nghiên cứu tiêu biểu của J. Fromaget (1927)2, H. Fontaine (1972)3, Ch. Robequain (1935)4, P. Gourou (1940)5...
Trong thời kỳ chiến tranh, công việc nghiên cứu về địa chất - địa lý gặp nhiều khó khăn và hạn chế. Từ sau năm 1975, nghiên cứu điều kiện tự nhiên vùng Nam Bộ được đẩy mạnh với nhiều công trình của các
1. Tổng hợp kết quả nghiên cứu về lịch sử nghiên cứu và nguồn tư liệu các đề tài của Đề án.
2. Fromaget J.: L’ Indochine française, sa structure géologique, ses richesses minières et leurs relations possibles avec la tectonique, in Bulletin du Service géologique d’ Indochine, Vol. XXVI, Fasc. 2, 1994.
3. - Fontaine H.: Remarque sur les formations littorales quaternaires du Centre Vietnam méridional, No.15, Saigon, 1972.
- Fontaine H.: Niveaux marins pendant le Quaternaire au Vietnam, in Bulletin du Service géologique d’ Indochine, Saigon, 1972.
4. Robequain C.: L’ Indochine française, Armand Colin, Paris, 1935.
5. Gourou P.: L’ utilisation du sol en Indochine française, Paris, 1940.
CHƯƠNG MỞ ĐẦU: VÙNG ĐẤT NAM BỘ TRONG NGHIÊN CỨU VÀ NHẬN THỨC 43
học giả trong nước và nước ngoài, với nhiều chương trình, đề án, đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước và cấp tỉnh/thành phố. Nhiều công trình nghiên cứu về địa chất, địa lý, môi trường, sinh thái chung của Việt Nam, trong đó có Nam Bộ. Về địa chất, như Địa chất Việt Nam (1998)1 do Trần Đức Lương, Nguyễn Xuân Bao chủ biên, Địa chất thềm lục địa Việt Nam và các vùng kế cận (1990) do Hồ Đắc Hoài chủ biên2. Về địa lý, có Địa lý tự nhiên Việt Nam (1963) của Nguyễn Đức Chính, Vũ Tự Lập, Thiên nhiên Việt Nam (1990) của Lê Bá Thảo3, Địa lý tự nhiên Việt Nam (1999) của Vũ Tự Lập4, Khí hậu Việt Nam (1975) của Phạm Ngọc Toàn và Phan Tất Đắc5, Đặc trưng hình thái lưu vực sông Việt Nam (1985) do Trần Tuất chủ biên6, Địa lý thủy văn sông ngòi Việt Nam (1987) của Trần Tuất và cộng sự7. Về tài nguyên, môi trường sinh thái có những công trình nghiên cứu về Tiến trình sinh khoáng Việt Nam (1990) của Nguyễn Nghiêm Minh8, Nghiên cứu các hệ sinh thái tiêu biểu trên dải ven biển Việt Nam (1990) do Đặng Ngọc Thanh chủ trì, Một số đặc điểm cơ bản của hệ thực vật Việt Nam (1999) do Lê Trần Chấn chủ biên9, Thảm thực vật rừng Việt Nam (1970) của
1. Trần Đức Lương, Nguyễn Xuân Bao (Chủ biên): Địa chất Việt Nam (3 tập), Cục địa chất Việt Nam, Nxb. Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 1998.
2. Hồ Đắc Hoài (Chủ nhiệm): Địa chất thềm lục địa Việt Nam và các vùng kế cận, Báo cáo khoa học Đề tài 48B.03.01, Lưu trữ Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, Hà Nội, 1990.
3. Lê Bá Thảo: Thiên nhiên Việt Nam, Nxb. Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 1990. 4. Vũ Tự Lập: Địa lý tự nhiên Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1999. 5. Phạm Ngọc Toàn, Phan Tất Đắc: Khí hậu Việt Nam, Nxb. Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 1975.
6. Trần Tuất (Chủ biên): Đặc trưng hình thái lưu vực sông Việt Nam, Viện Khí tượng thủy văn, Tổng cục Khí tượng thủy văn, Hà Nội, 1985.
7. Trần Tuất và cộng sự: Địa lý thủy văn sông ngòi Việt Nam, Nxb. Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 1987.
8. Nguyễn Nghiêm Minh: Tiến trình sinh khoáng Việt Nam, Viện Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, Hà Nội, 1990.
9. Lê Trần Chấn: Một số đặc điểm cơ bản của hệ thống thực vật Việt Nam, Nxb. Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 1999.
44 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Thái Văn Trừng1, nhiều công trình nghiên cứu về biển được tập hợp trong Tài nguyên và môi trường biển (3 tập, 1991-1996)2... Cũng thuộc loại công trình có đề cập đến Nam Bộ nhưng trong một không gian rộng lớn hơn có Geography and the Environnement in the South-East Asia (1978, Địa lý và môi trường ở Đông Nam Á) của R.D. Hill và M.B. Jennifer3, South-East Asia: Systematic Geography (1980, Đông Nam Á: Địa lý hệ thống) của R.D. Hill4, Các hệ sinh thái nhiệt đới với tiền sử Việt Nam và Đông Nam Á (1982), Sự chuyển biến từ Pleistocène đến Holocène ở Đông Nam Á: Môi trường và văn hóa (1992) của Hà Văn Tấn5, Rapid Flooding of the Sunda Shelf A Late-Glacial Sea-Level Record (2000, Lũ lụt ở thềm Sunda: Ghi nhận mực nước biển cuối thời kỳ băng hà) của T. Hanebuth, K. Stattegger, P.M. Grootes, (2000)6...
Những công trình nghiên cứu trên đã cung cấp những thông tin về vùng đất Nam Bộ trong quan hệ tổng thể với đất nước và khu vực. Mặt khác, điều kiện tự nhiên của Nam Bộ cũng sớm trở thành đối tượng nghiên cứu chuyên biệt của nhiều học giả trong nước và thế giới, của nhiều chương trình, đề tài điều tra tổng hợp cấp nhà nước và cấp tỉnh/
thành phố. Đó là chương trình Điều tra cơ bản đồng bằng sông Cửu Long
1. Thái Văn Trừng: Thảm thực vật rừng Việt Nam, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 1970.
2. Tài nguyên và môi trường biển (3 tập), Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 1991, 1994, 1996.
3. Hill R.D., Bray J.M: Geography and the Environnement in the South-East Asia, Hongkong University Press, Hongkong, 1978.
4. Hill R.D.: South-East Asia: Systematic Geography, Oxford University Press, London, 1980.
5. Hà Văn Tấn: Các hệ sinh thái nhiệt đới với tiền sử Việt Nam và Đông Nam Á, Tạp chí Khảo cổ học, số 3-1982.
- Hà Văn Tấn: Sự chuyển biến từ Pleistocène đến Holocène ở Đông Nam Á: Môi trường và văn hóa, Tạp chí Khảo cổ học, số 1-1992.
6. Hanebuth T., Stattegger K., Grootes P.M.: Rapid Flooding of the Sunda Shelf A Late-Glacial Sea-Level Record, in Science, Vol. 288, No. 5468, 2000.
CHƯƠNG MỞ ĐẦU: VÙNG ĐẤT NAM BỘ TRONG NGHIÊN CỨU VÀ NHẬN THỨC 45
của Ủy ban Khoa học kỹ thuật Nhà nước (1979-1982), chương trình Điều tra tổng hợp vùng biển Thuận Hải - Minh Hải trong đó có đề tài Điều tra tổng hợp vùng cửa sông Cửu Long (1981) do Vũ Tự Lập làm chủ nhiệm, chương trình Điều tra tổng hợp Đông Nam Bộ (1988-1990), chương trình nghiên cứu Đồng bằng sông Cửu Long: Tài nguyên - môi trường - Phát triển (1990) do Nguyễn Ngọc Trân chủ trì... Đó là các công trình Địa lý đồng bằng sông Cửu Long (1986) của Lê Bá Thảo1, Nước dưới đất đồng bằng Nam Bộ do Vũ Văn Nghi chủ biên, Địa chất và môi trường Thành phố Hồ Chí Minh (1998) của Trần Kim Thạch2, Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh (1987) do Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng chủ biên3, Lịch sử phát triển cổ địa lý trong Kỷ đệ tứ ở đồng bằng Nam Bộ (2008) của Nguyễn Địch Dỹ, Đinh Văn Thuận4. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu về điều kiện tự nhiên của Nam Bộ còn được trình bày trong các sách địa chí các tỉnh, phản ánh trong các luận văn, báo cáo khoa học đăng tải trên các tạp chí khoa học, in trong các kỷ yếu hội thảo khoa học...
Những công trình nghiên cứu trên đã làm sáng tỏ lịch sử kiến tạo vùng đất Nam Bộ, quá trình hình thành đồng bằng sông Cửu Long cùng những đặc điểm về địa hình, khí hậu, các nguồn tài nguyên, môi trường sinh thái của Nam Bộ, cung cấp luận chứng khoa học cho việc phân vùng, xây dựng quy hoạch phát triển vùng đất Nam Bộ.
1. Lê Bá Thảo: Địa lý đồng bằng sông Cửu Long, Nxb. Tổng hợp Đồng Tháp, Đồng Tháp, 1986.
2. Trần Kim Thạch: Địa chất và môi trường Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1998.
3. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (Chủ biên): Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập 1 (Lịch sử), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1987.
4. Nguyễn Địch Dỹ, Đinh Văn Thuận: Lịch sử phát triển cổ địa lý trong Kỷ đệ tứ ở vùng đồng bằng Nam Bộ. In trong Hội Khoa học lịch sử Việt Nam: Văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2008.
46 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
2. Về tộc người và văn hóa
Đây là lĩnh vực bao gồm cả tộc người, quan hệ tộc người, tôn giáo, tín ngưỡng và đời sống văn hóa cộng đồng. Lĩnh vực này thu hút sự quan tâm nghiên cứu tìm tòi của nhiều nhà dân tộc học, nhân học, sử học trong nước và thế giới.
Cấu trúc tộc người ở Nam Bộ khá độc đáo, được tạo nên do vị trí, điều kiện tự nhiên và những biến động lịch sử qua các thời kỳ phát triển. Các lớp cư dân thời tiền sử, thời vương quốc Phù Nam cho đến thế kỷ XVI, về mặt nhân chủng và tộc người còn chưa rõ, cần tiếp tục nghiên cứu. Hầu hết các nhà khoa học đều ghi nhận người Xtiêng, Chơ Ro, Mạ, Mnông là các tộc người thiểu số có mặt lâu đời trên vùng đất Nam Bộ, thậm chí có người coi là tộc người bản xứ cổ nhất. Qua diễn biến lịch sử, sớm có mặt của người Khmer, Chăm, Việt, Hoa rồi các tộc người thiểu số Tày, Nùng, Thái, Mường, Mông... Từ thế kỷ XVII trở đi, người Việt ngày càng chiếm ưu thế tuyệt đối về số lượng và giữ vai trò động lực phát triển chủ yếu của Nam Bộ.
Nhiều tộc người trên đã được các học giả nước ngoài nghiên cứu từ lâu, nhất là các học giả Pháp. Người Xtiêng đã được đề cập đến trong bản đồ Taberd năm 1838, được H. Azémar nghiên cứu về ngôn ngữ trong Dictionnaire Stieng (1887, Từ điển Stiêng)1, T. Gerber nghiên cứu về luật tục trong Coutumier Stieng (1951, Luật tục Xtiêng)2. Tộc người thiểu số miền Đông Nam Bộ liên quan đến Nam Tây Nguyên như người Mạ, người Chăm, có những nghiên cứu của J. Dournes (1948)3, của
1. Azémar H.: Dictionnaire Stieng, Saigon: impr.coloniale, 1887.
2. Gerber T.: Coutumier Stieng, in Bulletin de l’ École Française d’Extrême Orient, Tome 45, 1951.
3. Dournes J.: Structure sociale des montagnards du Haut - Donnai: Tribu des riziculteurs, in Bulletin de la société des études Indochinoises, Tome 23, No. 2, 1948.
CHƯƠNG MỞ ĐẦU: VÙNG ĐẤT NAM BỘ TRONG NGHIÊN CỨU VÀ NHẬN THỨC 47
J. Boulbet (1960, 1964)1, P.B. Lafont (1964, 1980)2... Những tộc người thiểu số ở Nam Bộ cũng đã được một học giả Mỹ là J.L. Schrock sắp xếp trong phân loại chung của Nam Việt Nam: Minority groups in the Republic of Vietnam (1966, Các nhóm tộc người thiểu số tại Cộng hòa Việt Nam)3.
Sau năm 1975, các nhà dân tộc học, nhân học Việt Nam đã tiến hành nhiều đợt điều tra khảo sát các dân tộc thiểu số ở Nam Bộ theo từng vùng cư trú và đi sâu nghiên cứu từng tộc người. Các kết quả nghiên cứu đó được tập hợp trong một số chuyên khảo theo từng vùng, như Vấn đề dân tộc ở Sông Bé (1985), Vấn đề dân tộc ở Lâm Đồng (1988), Vấn đề dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long (1991) do Mạc Đường chủ biên4. Công trình Các dân tộc ít người ở Việt Nam do Viện Dân tộc học biên soạn cũng được bổ sung tập II cho các dân tộc phía Nam (1984)5. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu và xác định tộc danh này, Danh mục các thành phần dân tộc Việt Nam ban hành theo Quyết định số 121-TCTK/ PPCĐ ngày 2-3-1979 xác nhận ở Nam Bộ, ngoài người Kinh (Việt), có
1. - Boulbet J.: Description de la végétation en pays Ma, in Bulletin de la société des études Indochinoises, 1960;
- Boulbet J.: Modes et technique du pays Ma, in Bulletin de la société des études Indochinoises, 1964.
2. - Lafont P.B.: Études Cam, in Bulletin de l’ École Française d’Extrême-Orient, 1976, 1980.
- Lafont P.B.: Contribution à l’étude des structures sociales des Cham du Vietnam, in Bulletin de l’ École Française d’Extrême-Orient, Tome 52, 1964. 3. Schrock J.L.: Minority groups in the Republic of Vietnam, Headquaters, Department of the Army, Washington, D.C. 1966.
4. - Mạc Đường (Chủ biên): Vấn đề dân tộc ở Sông Bé, Nxb. Tổng hợp Sông Bé, 1985.
- Mạc Đường (Chủ biên): Vấn đề dân tộc ở Lâm Đồng, Sở Văn hóa tỉnh Lâm Đồng, 1988.
- Mạc Đường (Chủ biên): Vấn đề dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991.
5. Viện Dân tộc học: Các dân tộc ít người ở Việt Nam (Các tỉnh phía Nam), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984.
48 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
các dân tộc thiểu số: Hoa, Khmer, Chăm, Xtiêng, Mạ, Chơ Ro (xếp theo trình tự số lượng cư dân).
Đi sâu vào từng dân tộc, người Xtiêng có những nghiên cứu của Phan An (2007), Trần Tất Chủng (1991)1; người Mạ có công trình nghiên cứu của Phan Ngọc Chiến, Phan Xuân Biên (1988), Nguyễn Đăng Hiệp Phố (2006)2; người Chơ Ro có công trình nghiên cứu của Phan Lạc Tuyên (1987), Huỳnh Tới (1977)3; người Chăm có công trình nghiên cứu của Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp (1991)4, Phan Văn Dốp, Nguyễn Thị Nhung (2006)5; người Khmer có công trình nghiên cứu của Nguyễn Xuân Nghĩa (1987), Phan An (2005)6; người Hoa có công trình nghiên cứu của Nguyễn Cẩm Thúy (2000), Phan An (2005)7...
Về quá trình tộc người và quan hệ tộc người, hiện còn chưa được
1. - Phan An: Hệ thống xã hội tộc người của người Xtiêng ở Việt Nam (Từ thế kỷ XIX đến năm 1975), Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2007. - Trần Tất Chủng: Góp thêm tài liệu nghiên cứu về người Xtiêng, Tạp chí Dân tộc học, số 3, 1991.
2. - Phan Ngọc Chiến, Phan Xuân Biên: Người Mạ. In trong Vấn đề dân tộc ở Lâm Đồng, Sở Văn hóa tỉnh Lâm Đồng, 1988.
- Nguyễn Đăng Hiệp Phố, Dân ca Mạ, Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Dân tộc học, Viện Khoa học xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh, 2006.
3. - Phan Lạc Tuyên (Chủ biên): Xã hội người Châu Ro, Mạ, Xtiêng ở Đồng Nai, Nxb. Đồng Nai, Đồng Nai, 1987.
- Huỳnh Tới: Người Châu Ro ở Đồng Nai, Nxb. Đồng Nai, 1977.
4. Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp: Văn hóa Chăm, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991.
5. Phan Văn Dốp, Nguyễn Thị Nhung: Cộng đồng người Chăm Hồi giáo ở Nam Bộ trong quan hệ giới và phát triển, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội, 2006. 6. - Nguyễn Xuân Nghĩa: Lễ hội nông nghiệp cổ truyền ở người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4, 1987.
- Phan An: Văn hóa và xã hội người Khmer Nam Bộ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010.
7. - Nguyễn Cẩm Thúy (Chủ biên): Định cư của người Hoa trên đất Nam Bộ (Từ thế kỷ XVII đến năm 1945), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000. - Phan An: Người Hoa ở Nam Bộ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005.
CHƯƠNG MỞ ĐẦU: VÙNG ĐẤT NAM BỘ TRONG NGHIÊN CỨU VÀ NHẬN THỨC 49
nghiên cứu nhiều, nhưng cũng có một số công trình của Đặng Nghiêm Vạn (1993), Ngô Văn Lệ (2004)1...
Tôn giáo tín ngưỡng của cư dân Nam Bộ rất đa dạng, ngoài tín ngưỡng riêng của mỗi dân tộc, còn có tôn giáo ngoại nhập và tôn giáo bản địa cùng tồn tại.
Tôn giáo mang tính thế giới đã truyền bá vào Nam Bộ cũng như cả nước gồm đạo Phật (hay Phật giáo), đạo Thiên Chúa (còn gọi là Công giáo hay đạo Kitô), đạo Tin Lành, đạo Hồi (hay đạo Islam, Hồi giáo). Đã có nhiều công trình nghiên cứu về các tôn giáo này trong quá trình du nhập và phát triển ở Nam Bộ.
Về Phật giáo, ngoài những công trình nghiên cứu hay dịch thuật về đạo Phật nói chung, đã có một số công trình nghiên cứu về đạo Phật ở Nam Bộ. Đó là những công trình nghiên cứu của Trần Hồng Liên (1995, 2004)2, Thích Thiện An (1975)3...
Về đạo Thiên Chúa, có những công trình nghiên cứu chung như Lịch sử đạo Thiên Chúa ở Việt Nam (1944) của Hồng Lam4, Christianisme et colonialisme au Vietnam 1857-1914 (1972, Đạo Thiên Chúa và chủ nghĩa thực dân ở Việt Nam 1857-1914) của Cao Huy Thuần5, Công giáo
1. - Đặng Nghiêm Vạn: Quan hệ giữa các tộc người trong một quốc gia - dân tộc, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993.
- Ngô Văn Lệ: Về mối quan hệ cội nguồn của cư dân Nam Bộ thời cổ đại với một số tộc người bản địa ở Tây Nguyên, In trong Hội Khoa học lịch sử Việt Nam: Văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam, Sđd.
- Ngô Văn Lệ: Tộc người và văn hóa tộc người, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2004.
2. - Trần Hồng Liên: Đạo Phật trong cộng đồng người Việt ở Nam Bộ Việt Nam: Từ thế kỷ XVII đến 1975, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995;
- Trần Hồng Liên: Góp phần tìm hiểu Phật giáo Nam Bộ, Sđd.
3. Thích Thiên An: Buddhism and zen in Vietnam: in relation to the development of Buddhism in Asia, Tokyo, 1975.
4. Hồng Lam: Lịch sử đạo Thiên Chúa ở Việt Nam, Đại Việt thiện bản, Huế, 1944.
5. Cao Huy Thuần: Christianisme et colonialisme au Vietnam 1857-1914, BEFEO, in Bulletin de L’ École Française d’Extrême - Orient, Jone 59, 1972.
50 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Nam Bộ và Thành phố Hồ Chí Minh (1993) của Nguyễn Đình Đầu1, Cộng đồng người Việt Công giáo ở đồng bằng sông Cửu Long (2006) của Trần Hữu Hợp2...
Về đạo Tin Lành có Lịch sử Hội thánh Tin Lành Việt Nam (1968) của Lê Hoàng Phu, Bước đầu tìm hiểu đạo Tin Lành trên thế giới và ở Việt Nam (2002) của Nguyễn Thanh Xuân3...
Về đạo Hồi của người Chăm có Đạo Hồi với người Chăm (1999) của Lương Ninh4, Cộng đồng người Chăm Hồi giáo ở Nam Bộ trong quan hệ giới và phát triển (2006)5...
Tôn giáo bản địa của Nam Bộ có Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Hòa Hảo, Cao Đài.
Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa là hai tôn giáo bản địa có mối quan hệ nối tiếp nhau. Bửu Sơn Kỳ Hương (1966) và Tân thế hội Long Hoa (1953) của Vương Kim là công trình khảo cứu về lịch sử tôn giáo này6, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa của người Việt Nam Bộ (1999) của Đinh Văn Hạnh nghiên cứu sâu hệ thống thờ tự, tổ chức tín đồ và phương thức hoạt động7. Hệ phái Tứ Ân Hiếu Nghĩa (1971) của Hà Tân Dân
1. Nguyễn Đình Đầu: Công giáo Nam Bộ và Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1993.
2. Trần Hữu Hợp: Cộng đồng người Việt Công giáo ở đồng bằng sông Cửu Long, Luận án tiến sĩ khoa học lịch sử, Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2006.
3. Nguyễn Thanh Xuân: Bước đầu tìm hiểu đạo Tin Lành trên thế giới và ở Việt Nam, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2002.
4. Lương Ninh: Đạo Hồi với người Chăm ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 302, tháng 1-1999.
5. Phan Văn Dốp, Nguyễn Thị Nhung: Cộng đồng người Chăm Hồi giáo ở Nam Bộ trong quan hệ giới và phát triển, Sđd.
6. - Vương Kim: Bửu Sơn Kỳ Hương, Nxb. Long Hoa, Sài Gòn, 1966. - Vương Kim: Tân thế hội Long Hoa, Nxb. Long Hoa, Sài Gòn, 1953. 7. Đinh Văn Hạnh: Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa của người Việt Nam Bộ (1867-1975), Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1999.
CHƯƠNG MỞ ĐẦU: VÙNG ĐẤT NAM BỘ TRONG NGHIÊN CỨU VÀ NHẬN THỨC 51
cho biết quá trình phân hệ của tôn giáo này và mối quan hệ với Bửu Sơn Kỳ Hương1.
Hòa Hảo hay Phật giáo Hòa Hảo còn lưu giữ nhiều sách về giáo lý và hành lễ. Nghiên cứu về Hòa Hảo có Nhận thức Phật giáo Hòa Hảo (1968) của Nguyễn Văn Hầu2, Huỳnh Đức Giáo chủ (1975) của Vương Kim3...
Đạo Cao Đài mới xuất hiện khoảng nửa đầu thế kỷ XX, nhưng được nhiều người nghiên cứu. Ngoài những luận văn cao học, thạc sĩ và nhiều bài viết trên các tạp chí, có một số công trình chuyên khảo về đạo Cao Đài, như Đại lễ vía đức Chí Tôn trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
(1975) của Đinh Văn Khá khảo tả khá kỹ các nghi thức hành lễ4, Lịch sử đạo Cao Đài - thời kỳ tiềm ẩn 1920-1926 (1994) của Lê Anh Dũng5, Bước đầu tìm hiểu đạo Cao Đài (1995) của Đặng Nghiêm Vạn6...
Một số đặc điểm và vấn đề chung của tôn giáo, tín ngưỡng Nam Bộ cũng được một số học giả nghiên cứu. Đó là Những vấn đề tôn giáo hiện nay (1995) của Viện Nghiên cứu tôn giáo7, Tôn giáo và mấy vấn đề tôn giáo ở Nam Bộ (2001) do Đỗ Quang Hưng chủ biên8, Người Nam Bộ và tôn giáo bản địa (2007) của Phạm Bích Hợp9...
1. Hà Tân Dân: Hệ phái Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Sài Gòn, 1971.
2. Nguyễn Văn Hầu: Nhận thức Phật giáo Hòa Hảo, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1968.
3. Vương Kim: Huỳnh Đức Giáo chủ, Nxb. Long Hoa, Sài Gòn, 1975. 4. Đinh Văn Khá: Đại lễ vía đức Chí Tôn trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Sài Gòn, 1975.
5. Lê Anh Dũng: Lịch sử đạo Cao Đài - thời kỳ tiềm ẩn 1920-1926, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1994.
6. Đặng Nghiêm Vạn: Bước đầu tìm hiểu đạo Cao Đài, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995.
7. Viện Nghiên cứu tôn giáo: Những vấn đề tôn giáo hiện nay, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995.
8. Đỗ Quang Hưng (Chủ biên): Tôn giáo và mấy vấn đề tôn giáo ở Nam Bộ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001.
9. Phạm Bích Hợp: Người Nam Bộ và tôn giáo bản địa (Bửu Sơn Kỳ Hương - Cao Đài - Hòa Hảo), Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2007.
52 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Đời sống văn hóa ở Nam Bộ một mặt được nghiên cứu và miêu tả theo từng vùng và từng tộc người. Có rất nhiều công trình nghiên cứu theo loại này mà phổ biến nhất trước đây là các sách về địa chí như Monographie de la province de Bien Hoa, Monographie de la province de Ha Tien, Monographie de la province de Gia Dinh, Monographie de la province de Chau Doc, Monographie de la province de Ben Tre.... Gần đây, loại sách địa chí các tỉnh và thành phố cũng được biên soạn và xuất bản khá nhiều, như Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, Địa chí tỉnh Đồng Nai, Địa chí tỉnh Long An... Một số công trình nghiên cứu mang tính tổng hợp về văn hóa Nam Bộ như Văn hóa cộng đồng làng vùng đồng bằng sông Cửu Long thập kỷ 80-90 (1997) của Lương Hồng Quang1, Văn hóa tâm linh Nam Bộ (1997) của Nguyễn Đăng Duy2, Văn hóa và cư dân đồng bằng sông Cửu Long (1990) của Nguyễn Công Bình3, Nhà ở, trang phục, ẩm thực của các dân tộc vùng đồng bằng sông Cửu Long (2002) của Phan Thị Yến Tuyết4... Nghiên cứu kho tàng văn hóa dân gian Nam Bộ có Văn hóa dân gian người Việt ở Nam Bộ (1992) của Thạch Phương5, Văn hóa dân gian Nam Bộ - Những phác thảo (1997) của Nguyễn Phương Thảo6... Mối quan hệ văn hóa tộc người giữa Nam Bộ với khu vực Đông Nam Á có công trình Một số vấn đề về văn hóa tộc người ở Nam Bộ và Đông Nam Á (2003) của Ngô Văn Lệ7.
1. Lương Hồng Quang: Văn hóa cộng đồng làng vùng đồng bằng sông Cửu Long thập kỷ 80-90: Qua trường hợp Bình Phú - Cai Lậy - Tiền Giang, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1997.
2. Nguyễn Đăng Duy: Văn hóa tâm linh Nam Bộ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997.
3. Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường: Văn hóa và cư dân đồng bằng sông Cửu Long, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990.
4. Phan Thị Yến Tuyết: Nhà ở, trang phục, ẩm thực của các dân tộc vùng đồng bằng sông Cửu Long, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, 1999.
5. Thạch Phương: Văn hóa dân gian người Việt ở Nam Bộ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992.
6. Nguyễn Phương Thảo: Văn hóa dân gian Nam Bộ - Những phác thảo, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1997.
7. Ngô Văn Lệ: Một số vấn đề về văn hóa tộc người ở Nam Bộ và Đông Nam Á, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2003.
CHƯƠNG MỞ ĐẦU: VÙNG ĐẤT NAM BỘ TRONG NGHIÊN CỨU VÀ NHẬN THỨC 53
Như vậy, về mặt tôn giáo, tín ngưỡng và văn hóa Nam Bộ, đã có nhiều công trình điều tra khảo sát thực tế, nhiều hội thảo, nhiều ấn phẩm được công bố và bước đầu có một số công trình nghiên cứu tổng hợp và so sánh.
3. Về lịch sử
Thời tiền sử Nam Bộ đã được mở đầu bằng những phát hiện của các nhà khảo cổ học Pháp từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Đó là những phát hiện về các di tích tiền sử ở Mỹ Lộc (Biên Hòa) của T.V. Holbé (1889)1, thời kỳ đồ đá vùng Biên Hòa của E.T. Hamy (1897)2, về kết quả khai quật khảo cổ học ở Cù Lao Rùa của D. Grossin (1902)3. Công việc điều tra và khai quật khảo cổ học đó vẫn tiếp tục cho đến đầu những năm 70 của thế kỷ XX. Đó là những phát hiện về di tích thời kỳ đồ đá mới ở Biên Hòa, hạ lưu sông Đồng Nai của H. Fontaine (1970-1972)4, những di tích khảo cổ học ở Hàng Gòn, Dầu Giây của E. Saurin (1963, 1966)5.
Công việc nghiên cứu thời tiền sử ở Nam Bộ được đẩy mạnh từ sau năm 1975 do các nhà khảo cổ học Việt Nam đảm nhiệm. Những
1. Holbé T.V.: Station préhistorique de My Loc (province de Biên Hòa, Sud Vietnam), in L’homme revue française d’anthropologie, Tome 12, Paris, 1889. 2. Hamy E.T.: L’â ge de la pierre dans l’ arrondissement de Bien Hoa (Cochinchine Française), in Bulletin du muséum d’histoire naturelle, Paris, 1897.
3. Grossin D.: Note sur une fouille faite dans l’ Ile Cu Lao Rua près de Bien Hoa, in Bulletin de l’ École Française d’Extrême-Orient, Tome 2, 1902.
4. - Fontaine H.: Découverte d’une nouvelle station néolithique dans la province de Bien Hoa, AGV, 1970;
- Fontaine H.: Enquête sur la néolithique du bassin intérieur du Dong Nai, AGV, 1971;
- Fontaine H.: Deuxième note sur le “Néolithique” du bassin inférieur du Dong Nai, Carbone 14 et préhistoire Vietnamienne, AGV, 1972.
5. Saurin E.: La station préhistorique à Hang Gon près de Xuan Loc, in Bulletin de École Française d’Extrême - Orient, LI, 1963.
- Saurin E.: Un site archéologique à Dau Giay, province de Long Khanh, BIRA, Saigon, 1966.
54 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
kết quả điều tra thám sát và khai quật khảo cổ học đã được công bố trên các tạp chí khoa học trung ương và các tỉnh, thành phố Nam Bộ, trình bày trong nhiều hội thảo khoa học và kỷ yếu hội thảo. Những kết quả đó cũng được thông báo hằng năm trong Những phát hiện mới về khảo cổ học, Những phát hiện về khảo cổ học miền Nam và nêu lên thành các vấn đề khoa học trong Một số vấn đề khảo cổ học ở miền Nam Việt Nam1. Những thành tựu nghiên cứu tiền sử Nam Bộ cũng bước đầu được khái quát trong công trình Khảo cổ học Việt Nam (1999)2. Đặc biệt gần đây, Trung tâm Nghiên cứu khảo cổ thuộc Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ đã thực hiện một dự án khoa học Điều tra cơ bản và hệ thống hóa tư liệu khảo cổ học vùng Nam Bộ từ 1976 đến 2005 do Bùi Chí Hoàng làm chủ nhiệm. Dự án đã hoàn thành và nghiệm thu năm 2011, cung cấp một danh mục gồm 883 tài liệu tiếng Việt và 54 tài liệu nước ngoài, trong đó có khá đầy đủ các tài liệu về thời tiền sử trên đất Nam Bộ.
Di tích và di vật về thời đại đá cũ còn điều hoài nghi và tranh cãi, diễn tiến tiền sử từ thời kỳ đá mới đến thời kỳ kim khí đã được các nhà khảo cổ học làm sáng tỏ với những giai đoạn phát triển liên tiếp và những chứng tích phong phú. Hầu hết các nhà khảo cổ học đã thống nhất diễn tiến văn hóa tiền sử qua 4 giai đoạn: Cầu Sắt - Bến Đò - Dốc Chùa - Phú Hòa. Bản đồ tiền sử trên đất Nam Bộ tuy còn những mảng trống, nhưng đã chứng minh được một diễn biến văn hóa liên tục dẫn đến văn hóa Đồng Nai là bước chuẩn bị nội lực cho sự hình thành nhà nước đầu tiên của vùng đất phương Nam này.
Văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam từ đầu Công nguyên đến thế kỷ VII là một thời kỳ quan trọng trong tiến trình lịch sử vùng đất Nam Bộ và cũng là đối tượng nghiên cứu được khảo cổ học đặc biệt quan tâm. Một số di vật của văn hóa Óc Eo đã được các nhà khảo cổ học phát hiện lẻ tẻ ở An Giang, Trà Vinh, Biên Hòa... Cho đến giữa thế kỷ XX,
1. Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ: Một số vấn đề khảo cổ học ở miền Nam Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, t.1: 1997, t.2: 2003, t.3: 2008, t.4: 2011. 2. Hà Văn Tấn (Chủ biên): Khảo cổ học Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tập I: Thời đại đá Việt Nam (1998), tập II: Thời đại kim khí Việt Nam (1999).
CHƯƠNG MỞ ĐẦU: VÙNG ĐẤT NAM BỘ TRONG NGHIÊN CỨU VÀ NHẬN THỨC 55
có khoảng hơn 300 địa điểm có di tích, di vật thuộc văn hóa này đã được ghi nhận trên địa bàn Nam Bộ từ vùng sông Tiền, sông Hậu đến Đồng Tháp Mười, hạ lưu sông Đồng Nai. Người có công tổ chức khai quật trên quy mô lớn và công bố kết quả nghiên cứu văn hóa Óc Eo là L. Malleret. Sau những khảo sát từ năm 1937, năm 1940 L. Malleret đã khai quật khu di tích Óc Eo và núi Ba Thê (An Giang), phát lộ nhiều di tích và một khối lượng lớn di vật. Trên cơ sở khai quật khảo cổ học đó kết hợp với những di vật thu thập và kết quả khảo sát 167 địa điểm liên quan, trong những năm 1959-1963, tác giả đã công bố một công trình đồ sộ gồm 4 tập mang tên L’ Archéologie du Delta du Mékong (1959-1963, Khảo cổ học tam giác châu sông Mêkông)1.
Từ sau năm 1975, công việc điều tra và khai quật được tiếp tục và mở rộng với sự tham gia của các nhà khảo cổ học tại Ban Khảo cổ học thuộc Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ, nay là Trung tâm Nghiên cứu khảo cổ học thuộc Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ; Viện Khảo cổ học, khoa lịch sử các trường đại học, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, bảo tàng các tỉnh, thành phố ở Nam Bộ... Một số khai quật có sự tham gia của các nhà khảo cổ học nước ngoài như Pháp, Nhật, Đức. Quan trọng nhất là chương trình hợp tác nghiên cứu giữa khảo cổ học Việt Nam với Viện Viễn Đông bác cổ Pháp do P.Y. Manguin đại diện trong những năm 1997-2002. Cho đến nay đã có gần 200 di tích văn hóa Óc Eo được khai quật, thám sát, nghiên cứu. Những kết quả nghiên cứu
1. - Malleret L.: L’ Archéologie du Delta du Mékong, Tome 1 (L’ exploration archéologique et les fouilles d’ Oc Eo), Publications de l’École française d’Extrême Orient, Paris, 1959.
- Malleret L.: L’ Archéologie du Delta du Mékong, Tome 2 (La civilisation matérielle d’ Oc Eo), Publications de l’École française d’Extrême-Orient, Paris, 1960;
- Malleret L.: L’ Archéologie du Delta du Mékong, Tome 3 (La culture du Founan), Publications de l’École française d’Extrême-Orient, Paris, 1962. - Malleret L.: L’ Archéologie du Delta du Mékong, Tome 4 (Le Cisbassac), Publications de l’École française d’Extrême-Orient, Paris, 1963.
56 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
này bước đầu được tập hợp trong các chuyên khảo, như Văn hóa Óc Eo - Những khám phá mới (1995)1, Một số vấn đề khảo cổ học ở miền Nam Việt Nam (1997), Nghệ thuật Phật giáo và Hinđu giáo ở đồng bằng sông Cửu Long trước thế kỷ X (2006)2... Di tích và di vật văn hóa Óc Eo phân bố tập trung ở Nam Bộ và tồn tại trên một không gian rộng hơn ở Campuchia, Thái Lan, Malaysia. Một số di tích quan trọng được các học giả quốc tế nghiên cứu công phu như Angkor Borei ở Takeo, Campuchia, eo biển Kra ở nam Thái Lan3...
Điều đáng lưu ý là trên cơ sở văn hóa Óc Eo, một số học giả trong nước và quốc tế đã nghiên cứu lịch sử thời kỳ này gắn liền với vương quốc Phù Nam. Những công trình nghiên cứu mang tính tổng hợp về lịch sử Phù Nam là Le Fou-nan (1903, Nước Phù Nam) của P. Pelliot4, Les États Hindouisés d’Indochine et d’Indonésie (1948, Những nhà nước
1. Lê Xuân Diệm, Đào Linh Côn, Võ Sĩ Khải: Văn hoá Óc Eo - Những khám phá mới, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995.
2. - Trung tâm Khảo cổ học - Viện Khoa học xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh: Một số vấn đề khảo cổ học ở miền Nam Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997.
- Lê Thị Liên: Nghệ thuật Phật giáo và Hinđu giáo ở đồng bằng sông Cửu Long trước thế kỷ X, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2006.
3. - Paris P.: Anciens canaux reconnus sur photographies aériennes dans les provinces de Ta-Keo, Chau-Doc, Long-Xuyen et Rach-Gia, In Bulletin de l’École Française d’Extrême-Orient, Paris, Tome 29, 1929; Tome 31, 1931;
- P.Bion Griffin, Chuch Phoeurn, Ledgerwood. J, Stark M.T.: Results of the 1995-1996 archaeological field investigations at Angkor Borei, Cambodia, in Asian perspectives, Vol. 38, 1999;
- Stark M.T.: Some preliminary results of the 1999-2000 archaeological field Investigation at Angkor Borei, Takeo province, Udaya, in Joural of Khmer Studies, No. 2, 2001;
- Stark M.T.: Pre-Angkorian and Angkorian Cambodia, in Glover I.C., Bellwood P. (eds.): Southeast Asian: From prehistory to history, Routledge Curzon, London - New York, 2004.
4. Pelliot P.: Le Fou-nan, in Bulletin de l’ École Française d’Extrême-Orient, Tome 3, No. 2, 1903.
CHƯƠNG MỞ ĐẦU: VÙNG ĐẤT NAM BỘ TRONG NGHIÊN CỨU VÀ NHẬN THỨC 57
Ấn Độ hóa ở Đông Dương và Indonésie) của G. Coedès1, Vương quốc Phù Nam - Lịch sử và văn hóa (2005) của Lương Ninh2...
Năm 2004, nhân dịp 60 năm phát hiện văn hóa Óc Eo, Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam cùng Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức cuộc Hội thảo khoa học “Văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam” tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là cuộc hội thảo mang tính liên ngành tầm quốc gia để các nhà khoa học cùng nhìn lại kết quả nghiên cứu về văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam, khẳng định những thành tựu đạt được, nêu lên những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu và thảo luận3. Hội nghị nhấn mạnh cần phân biệt vương quốc Phù Nam mà địa bàn chủ yếu trên đất Nam Bộ với đế chế Phù Nam mở rộng trên một phạm vi rộng của Đông Nam Á lục địa bao gồm cả vùng hạ lưu, trung lưu sông Mêkông sang hạ lưu sông Mênam xuống đến bán đảo Mã Lai4, khẳng định văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam tiêu biểu một thời kỳ phát triển lịch sử của đất Nam Bộ và là một bộ phận tạo thành của lịch sử, văn hóa Việt Nam.
Sau khi Phù Nam sụp đổ vào đầu thế kỷ VII cho đến thế kỷ XVII khi người Việt di cư vào khai phá, lịch sử vùng đất Nam Bộ có một khoảng trống khá lớn vì các nguồn tư liệu quá ít ỏi. Về danh nghĩa, vùng đất này thuộc về Chân Lạp, nhưng dấu tích vật chất và tư liệu chữ viết về sự cư trú của người Khmer quá mờ nhạt, khảo cổ học mới tìm thấy một số di tích hậu Óc Eo trên một số gò đất cao. Một thực tế được phản ánh
1. Cœdès G.: Les états Hindouisés d’Indochine et d’Indonésie, Nouvelle édition revue et mise à jour, E. de Boccard, Paris, 1948 (bản tiếng Anh: Cœdès G., The Indianized States of Southeast Asia, University of Hawaii, East-West Center Press, Honolulu, 1968).
2. Lương Ninh: Vương quốc Phù Nam - lịch sử và văn hóa, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2005.
3. Hội Khoa học lịch sử Việt Nam: Văn hóa Óc Eo & vương quốc Phù Nam, Sđd. 4. Phan Huy Lê: Qua di tích văn hóa Óc Eo và thư tịch cổ, thử nhận diện nước Phù Nam, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 379, tháng 11-2007.
58 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
trong thư tịch cổ của Trung Quốc và Việt Nam là tình trạng hoang vu bao trùm trên diện tích rộng lớn. Công việc thu thập tư liệu và làm sáng tỏ lịch sử vùng đất Nam Bộ trong thời kỳ này đang đặt ra nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.
Từ thế kỷ XVII, lịch sử vùng đất Nam Bộ ngày càng có nhiều nguồn tư liệu và công trình nghiên cứu khoa học. Thời gian từ thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XIX, công cuộc khẩn hoang khai phá và tình hình kinh tế - xã hội Nam Bộ được nhiều nhà khoa học quan tâm nhất. Những công trình được nhiều người chú ý là Cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam (1956) của Ngọc Đường1, Việt sử xứ Đàng Trong (1967) của Phan Khoang2, Việt Nam thời Tây Sơn (1970) của Tạ Chí Đại Trường3, Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn (1971) của Nguyễn Thế Anh4, Lịch sử khẩn hoang miền Nam (1973) của Sơn Nam5...
Sau năm 1975, Nam Bộ thời các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn được mở rộng nghiên cứu và đi sâu khai thác nhiều nguồn tư liệu mới, đặc biệt là địa bạ thời Nguyễn. Có thể kể một số công trình như Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ (1987) của Huỳnh Lứa6, Văn hóa và cư dân đồng bằng sông Cửu Long (1990) của Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường7, Tổng kết nghiên cứu địa bạ Nam Kỳ lục tỉnh (1994)
1. Ngọc Đường: Cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam, Nxb. Ngày nay, Sài Gòn, 1956.
2. Phan Khoang: Việt sử xứ Đàng Trong 1558-1777: Cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam, Nxb. Khai trí, Sài Gòn, 1967, 1970, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2001. 3. Tạ Chí Đại Trường: Việt Nam thời Tây Sơn - Lịch sử nội chiến 1771-1802, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2007.
4. Nguyễn Thế Anh: Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn, Nxb. Lửa thiêng, Sài Gòn, 1971.
5. Sơn Nam: Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Nxb. Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 1994.
6. Huỳnh Lứa: Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1987.
7. Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường: Văn hóa và cư dân đồng bằng sông Cửu Long, Sđd.
CHƯƠNG MỞ ĐẦU: VÙNG ĐẤT NAM BỘ TRONG NGHIÊN CỨU VÀ NHẬN THỨC 59
của Nguyễn Đình Đầu1, Chế độ sở hữu và canh tác ruộng đất ở Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XIX (1994) của Trần Thị Thu Lương2, Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang lập ấp ở Nam Kỳ lục tỉnh (1999) của Nguyễn Đình Đầu3... Nhiều bài nghiên cứu công bố trên các tạp chí được tập hợp lại trong Nam Bộ: Đất và Người (2004-2011)4, Nam Bộ Xưa và Nay (1998)5... Quá trình xác lập chủ quyền lãnh thổ Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ được một số học giả nghiên cứu như Chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ (2006) của Vũ Minh Giang6... Thời kỳ này cũng được nhiều học giả nước ngoài nghiên cứu với những thành tựu như Họ Mạc và chúa Nguyễn ở Hà Tiên (1958) của Cheng Ching Ho (Trần Kinh Hòa)7, Người Hoa ở miền Nam Việt Nam (1968) của Tsai Maw Kuey8, Xứ Đàng Trong, Lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ XVII và XVIII (1999) của Li Tana9; Water Frontier: Commerce and Chinese in the Lower Mekong Region 1750-1880 (2004, Biên giới nước:
1. Nguyễn Đình Đầu: Tổng kết nghiên cứu địa bạ Nam Kỳ lục tỉnh, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1994.
2. Trần Thị Thu Lương: Chế độ sở hữu và canh tác ruộng đất ở Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XIX, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1994.
3. Nguyễn Đình Đầu: Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang lập ấp ở Nam Kỳ lục tỉnh, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1999.
4. Hội Khoa học lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh: Nam Bộ: Đất và Người (8 tập), Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2004-2011.
5. Trần Văn Giàu, Phan Huy Lê, Nguyễn Đình Đầu: Nam Bộ Xưa và Nay, Nxb. Trẻ và Tạp chí Xưa và Nay, Thành phố Hồ Chí Minh, 1998.
6. Vũ Minh Giang: Chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ, in trong Hội Khoa học lịch sử Việt Nam: Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ đến cuối thế kỷ XIX, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2006.
7. Cheng Ching Ho (Trần Kinh Hòa): Họ Mạc và chúa Nguyễn ở Hà Tiên, Hồng Kông, 1958.
8. Kuey Tsai Maw: Les Chinois au Sud Vietnam, Paris, 1968, bản dịch tiếng Việt: Người Hoa ở miền Nam Việt Nam, bản dịch của Ban Dân tộc học, Viện Khoa học xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh.
9. Li Tana: Xứ Đàng Trong, Lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ XVII và XVIII, Luận án tiến sĩ, Đại học Quốc gia Australia, 1992, bản dịch Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1999.
60 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Thương mại và người Trung Hoa vùng hạ lưu sông Mêkông 1750-1880) của Cooke Nola, Li Tana1, Southern Vietnam under the Reign of Minh Mang 1820-1841 (2004, Vùng đất Nam Bộ dưới triều Minh Mạng 1820- 1841) của Choi Buyng Wook2...
Nam Bộ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX còn là chủ đề của một số đề tài cấp nhà nước, cấp viện, cấp trường đại học và hội thảo khoa học. Đó là đề tài khoa học độc lập cấp nhà nước về vùng đất Nam Bộ do Viện Khoa học xã hội Việt Nam chủ trì (2006), Hội thảo Nam Bộ và Nam Trung Bộ: Những vấn đề lịch sử thế kỷ XVII-XIX (2002) do Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức3, Hội thảo Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ đến cuối thế kỷ XIX (2009) do Hội Khoa học lịch sử Việt Nam tổ chức4...
Có thể nói, Việc nghiên cứu Nam Bộ thời kỳ thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XIX đã đạt nhiều kết quả, làm rõ quá trình khẩn hoang khai phá, tình hình kinh tế, xã hội, văn hóa, công cuộc xác lập và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.
Nam Bộ thời cận đại tính từ khi thực dân Pháp xâm lược Nam Kỳ năm 1859 đến Cách mạng tháng Tám năm 1945. Nội dung lịch sử chủ yếu của thời kỳ này là cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và tiếp theo là cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Nam Bộ trong mối quan hệ hữu cơ với cả nước. Có nhiều công trình nghiên cứu về chủ đề này, dĩ nhiên với quan điểm khác nhau, hoặc đứng về phía xâm lược và cai trị hoặc đứng về phía dân tộc Việt Nam.
1. Cooke N., Tana L. (eds.): Water frontier: Commerce and Chinese in the Lower Mekong region 1750-1880, Rowman & Littlefield, Lanham, 2004. 2. Choi Byung Wook: Southern Vietnam under the Reign of Minh Mang (1820-1841), Cornell Southeast Asia Program Publication, 2004 (bản dịch tiếng Việt: Vùng đất Nam Bộ dưới triều Minh Mạng, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2011). 3. Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh: Nam Bộ và Nam Trung Bộ - Những vấn đề lịch sử thế kỷ XVII-XIX, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 5-2002.
4. Hội Khoa học lịch sử Việt Nam: Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ đến cuối thế kỷ XIX, Sđd.
CHƯƠNG MỞ ĐẦU: VÙNG ĐẤT NAM BỘ TRONG NGHIÊN CỨU VÀ NHẬN THỨC 61
Viết về cuộc chinh phục của Pháp có Histoire de l’expédition de Cochinchine en 1861 (1888, Lịch sử cuộc viễn chinh ở Nam Kỳ năm 1861) của Pallu de la Barrière1, Les premières années de la Cochinchine, colonie française (1874, Những năm đầu tiên ở Nam Kỳ, thuộc địa Pháp) của Paulin Vial2, La conquête de l’Indochine (1934, Cuộc chinh phục Đông Dương) của A. Thomazi3...
Nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Pháp và phong trào yêu nước của Nam Bộ có nhiều công trình của các học giả Việt Nam và nước ngoài. Có những công trình nghiên cứu chung trong phong trào chống chủ nghĩa thực dân của Việt Nam, như Chống xâm lăng (1957) của Trần Văn Giàu, Lịch sử tám mươi năm chống Pháp (1958) của Trần Huy Liệu, Révolutionnaires Vietnamiens et pouvoir colonial en Indochine (1975, Những nhà cách mạng Việt Nam và chính quyền thuộc địa ở Đông Dương) của D. Hémery, Vietnamese Anticolonialism 1885-1925 (1971, Việt Nam chống chủ nghĩa thực dân 1885-1925) của David Marr4, Vietnam: State, War and Revolution (1945-1946) (2013, Việt Nam: Nhà nước, chiến tranh và cách mạng (1945-1946) của David Marr5... Có những công trình nghiên cứu về từng cuộc khởi nghĩa, từng phong trào, từng nhân vật như khởi nghĩa Trương Định, các hội kín ở Nam Kỳ, phong trào Đông du của Phan Bội Châu; các nhân vật Phan Thanh Giản, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh... với rất nhiều ấn phẩm và báo cáo.
1. Pallu de la Barrière: Histoire de l’expédition de Cochinchine en 1861, Nancy: Berger - Levrault et Cie, Paris, 1888.
2. Vial P.: Les premières années de la Cochinchine, colonie française, Challamel Ainé, Paris, 1874.
3. Thomazi A.: La conquête de l’Indochine. Avec vingt-deux croquis, Payot, Paris, 1934.
4. Marr D.: Vietnamese Anticolonialism 1885-1925, University of California Press, Berkeley, 1971.
5. Marr D.: Vietnam: State, War and Revolution (1945-1946), University of California Press, Berkeley-Los Angeles-London, 2013.
62 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng được nghiên cứu chung trong lịch sử Đảng và lịch sử Việt Nam, như Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam của Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương1, Lịch sử cận đại Việt Nam (1961) của Trần Văn Giàu2, Lịch sử Việt Nam, tập II (1858-1954) (1986) do Nguyễn Khánh Toàn chủ biên3, Vietnam, domination coloniale et résistance nationale (1858-1914) (2002, Việt Nam, sự đô hộ thực dân và cuộc kháng chiến dân tộc (1858-
1914)) của Ch. Fourniau4... Nghiên cứu mang tính chuyên biệt đi sâu vào từng phong trào, từng cuộc khởi nghĩa và nhân vật của Nam Bộ, có Nam Kỳ khởi nghĩa (1996) của Trần Giang5, Mấy đặc điểm Cách mạng Tháng Tám ở Sài Gòn (1995) của Trần Văn Giàu6...
Một nội dung nghiên cứu quan trọng về Nam Bộ thời cận đại là những chuyển biến sâu sắc về chính trị, kinh tế, cơ cấu xã hội, sự phát triển đô thị theo hướng “cận đại hóa” (early-modernisation) dưới tác động của chủ nghĩa thực dân trên một xứ thuộc địa “trực trị” coi như lãnh thổ hải ngoại của nước Pháp. Trên các lĩnh vực này có rất nhiều công trình nghiên cứu ở trong nước và nước ngoài mà sau đây chỉ điểm qua một số công trình. Về mặt hành chính và pháp luật, có Notions d’administration indochinoise (1911, Khái quát nền hành chính Đông Dương) của P. Cordier7, La structure juridique de l’ Union
1. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập I (1920-1954), Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1982.
2. Trần Văn Giàu, Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Sự: Lịch sử cận đại Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1961.
3. Nguyễn Khánh Toàn (Chủ biên): Lịch sử Việt Nam, tập II, Nxb. Khoa học xã hội, in lần thứ nhất năm 1986.
4. Fourniau Ch.: Vietnam, domination coloniale et résistance nationale (1858-1914), Les Indes savantes, Paris, 2002.
5. Trần Giang: Nam Kỳ khởi nghĩa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996. 6. Trần Văn Giàu: Mấy đặc điểm Cách mạng Tháng Tám ở Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí Minh, 1995.
7. Cordier P.: Notions d’administration indochinoise: Cours professé au collège du protectorat du Tonkin, Imprimere d’Extrême – Orient, Hanoi, 1911.
CHƯƠNG MỞ ĐẦU: VÙNG ĐẤT NAM BỘ TRONG NGHIÊN CỨU VÀ NHẬN THỨC 63
indochinoise (1938, Cấu trúc pháp quyền của Liên bang Đông Dương) của P. Couzinet1, Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám 1945 (1988) của Dương Kinh Quốc2... Về kinh tế xã hội, có La Cochinchine et ses habitants (1894, Nam Kỳ và cư dân) của J.C. Baurac, Le Peuple annamite, ses moeurs, croyances et traditions (1913, Dân An Nam, phong tục, tín ngưỡng, truyền thống) của E. Langlet, La commune annamite en Cochinchine (1948, Làng xã An Nam ở Nam Kỳ) của Lê Tấn Nẫm và rất nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam. Có thể kể một số công trình mang tính tổng hợp sau đây: Cơ cấu kinh tế - xã hội Việt Nam thời thuộc địa (1858-1945) (1999) của Nguyễn Văn Khánh3, Thị trường lúa gạo Nam Kỳ (1860-1945) (2004) của Nguyễn Phan Quang4, Cảng Sài Gòn và biến đổi kinh tế Nam Kỳ thời Pháp thuộc (Giai đoạn 1860-1939) (2003) của Lê Huỳnh Hoa5, Người Hoa trong xã hội Việt Nam (2002) của Trần Khánh6, Các nhóm cộng đồng người Hoa ở Việt Nam (1992) của Châu Hải7, Đời sống xã hội ở vùng Nam Bộ (2008) của Nguyễn Công Bình8, Địa chí văn hóa Thành
1. Couzinet P.: La structure juridique de l’Union Indochinoise, in Revue Indochinoise juridique et économique, Vol.III, 1938.
2. Dương Kinh Quốc: Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1988.
3. Nguyễn Văn Khánh: Cơ cấu kinh tế - xã hội Việt Nam thời thuộc địa (1858- 1945), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999.
4. Nguyễn Phan Quang: Thị trường lúa gạo Nam Kỳ (1860-1945), Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2004.
5. Lê Huỳnh Hoa: Cảng Sài Gòn và biến đổi kinh tế Nam Kỳ thời Pháp thuộc (1860-1939), Luận án Tiến sĩ Khoa học lịch sử, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, 2003.
6. Trần Khánh: Người Hoa trong xã hội Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002.
7. Châu Hải: Các nhóm cộng đồng người Hoa ở Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992.
8. Nguyễn Công Bình: Đời sống xã hội ở vùng Nam Bộ, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2008.
64 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
phố Hồ Chí Minh (1987) do Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng chủ biên1 và địa chí các tỉnh của Nam Bộ.
Một nội dung gần đây được một số học giả quan tâm là quan hệ giữa Nam Bộ thời cận đại với khu vực, nhất là với Campuchia. Trong thời cận đại, Nam Bộ đã tồn tại như một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam thuộc chủ quyền nhà Nguyễn. Chính vì vậy, khi dùng vũ lực xâm lược 3 tỉnh miền Đông rồi 3 tỉnh miền Tây, nước Pháp đã buộc nhà Nguyễn ký Hiệp ước năm 1862 rồi Hiệp ước năm 1874, nhượng hẳn Nam Kỳ cho Pháp. Đó là các hiệp ước xâm lược, nhưng về mặt pháp lý lại là những bằng chứng có ý nghĩa pháp lý quốc tế về chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam. Trong thời Pháp thuộc, Pháp thành lập Liên bang Đông Dương gồm 5 xứ, chia Việt Nam thành 3 xứ với 3 chế độ cai trị khác nhau. Nhưng cũng vì nhu cầu cai trị của chủ nghĩa thực dân, Pháp và Campuchia đã ký một loạt văn bản pháp lý để hoạch định rồi phân giới, cắm mốc biên giới trên bộ giữa Nam Kỳ và Campuchia. Đây là lần đầu tiên, biên giới giữa Nam Kỳ - Việt Nam với Campuchia được xác định bằng đường biên giới theo nguyên tắc và luật pháp hiện đại, thể hiện bằng hệ thống mốc và bản đồ cụ thể. Quan hệ và biên giới giữa Nam Kỳ và Campuchia được nghiên cứu trong Les frontières du Cambodge et du Vietnam (1978-1979, Biên giới giữa Campuchia và Việt Nam) của Tran Van Minh2, Les frontières du Campuchia comptemporain (1998, Biên giới của Campuchia hiện đại) của Raoul Marc Jennar3, Quá trình phân định biên giới giữa Nam Bộ Việt Nam và Campuchia từ giữa thế kỷ XIX đến nay (2006) của Lê Trung Dũng4, Các hiệp định biên giới Việt Nam -
1. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (Chủ biên): Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1987.
2. Tran Van Minh: Les frontières du Cambodge et du Vietnam, In: Revue Juridique et Politique, Indépendance et Coopération, No. 2, 1978; No. 1, 1979. 3. R.M. Jennar: Les frontières du Cambodge contemporain, INALCO, Paris, 1998.
4. Lê Trung Dũng: Quá trình phân định biên giới giữa Nam Bộ Việt Nam và Campuchia từ giữa thế kỷ XIX đến nay, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 10-11, tháng 10, 11-2006.
CHƯƠNG MỞ ĐẦU: VÙNG ĐẤT NAM BỘ TRONG NGHIÊN CỨU VÀ NHẬN THỨC 65
Campuchia thời Pháp thuộc và vấn đề cơ sở chính trị - pháp lý của đường biên giới Việt Nam - Campuchia (2009) của Nguyễn Sĩ Tuấn... Hội thảo khoa học Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ thời kỳ cận đại tổ chức năm 2008 đã tập hợp nhiều bài nghiên cứu nêu lên các vấn đề cơ bản của Nam Bộ thời kỳ này1.
Nam Bộ thời kỳ từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay nằm trong lịch sử hiện đại Việt Nam. Từ năm 1954 đến năm 1975 là thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Công việc nghiên cứu về cuộc kháng chiến này trên đất Nam Bộ đã được triển khai từ hầu khắp các tỉnh (do ban chỉ huy quân sự tỉnh chủ trì) và các quân khu, đồng thời được tổng hợp hay tổng kết trong một số công trình như Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam tập II (1995) của Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh2, Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 (1991) của Viện Lịch sử quân sự Việt Nam3, Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945-1975 - Thắng lợi và bài học (2000) của Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị4... Đặc biệt gần đây nhất là bộ Lịch sử Nam Bộ kháng chiến (2010), do Trần Bạch Đằng chủ biên, là công trình nghiên cứu công phu về toàn bộ cuộc kháng chiến trên đất Nam Bộ5. Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cũng là đề tài nghiên cứu của một số học giả nước ngoài, như: Vietnam, de la guerre française à la guerre américaine (1969, Việt Nam, từ chiến tranh của Pháp
1. Hội Khoa học lịch sử Việt Nam: Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ thời kỳ cận đại, Sđd.
2. Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập II, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995. 3. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (2 tập), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990 - 1991, (9 tập) Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014.
4. Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945-1975 - Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
5. Trần Bạch Đằng (Chủ biên): Lịch sử Nam Bộ kháng chiến (2 tập), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010.
66 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
sang chiến tranh của Mỹ) của Ph. Devillers và J. Lacouture1: The war in Vietnam (1999, Chiến tranh ở Việt Nam) của A.O. Edmonds2, Le Vietnam de la guerre à la victoire (1969, Việt Nam từ chiến tranh đến thắng lợi) của Ch. Fourniau3...
Nam Bộ trong công cuộc xây dựng sau chiến tranh, công cuộc đổi mới và công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế của từng địa phương được nghiên cứu qua các địa chí, lịch sử đảng bộ của các tỉnh, thành phố. Những công trình mang tính tổng hợp có Thắng lợi kháng chiến chống Mỹ và 20 năm xây dựng đất nước sau chiến tranh (1995) của Viện Sử học4, Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000, tập II (1955-2000) (2005) của Viện Kinh tế Việt Nam5...
Lịch sử Nam Bộ thời hiện đại từ sau năm 1975 có nhiều nghiên cứu từng địa phương, từng ngành, nhưng còn rất ít công trình mang tính hệ thống hóa và tổng hợp cao.
Như vậy, về phương diện lịch sử, công việc nghiên cứu vùng đất Nam Bộ đã đạt nhiều kết quả, nhưng vẫn còn một số thời kỳ tồn tại những vấn đề chưa được giải quyết như thời kỳ Phù Nam, hay còn mờ nhạt như thời kỳ thế kỷ VII đến XVI, và trong từng thời kỳ, những nghiên cứu mang tính tổng hợp chưa nhiều và chưa cao.
4. Vùng đất Nam Bộ trong lịch sử và văn hóa Việt Nam
Về phương diện lịch sử, trước đây tồn tại quan điểm cho rằng vùng đất Nam Bộ trở thành một bộ phận của lịch sử Việt Nam chỉ từ khi người Việt vào khai phá từ thế kỷ XVII nên thời kỳ trước đó không được quan tâm
1. Devillers Ph., Lacouture J.: Vietnam, de la guerre française à la guerre américaine, Éd.du Seuil Esprit Frontière Ouverte, Paris, 1969.
2. Edmonds A.O.: The war in Vietnam, Greenword Press, Westport, 1999. 3. Fourniau Ch.: Le Vietnam de la guerre à la victoire, Éditions du Pavillon, Paris, 1969.
4. Viện Sử học: Thắng lợi kháng chiến chống Mỹ và 20 năm xây dựng đất nước sau chiến tranh, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995.
5. Viện Kinh tế Việt Nam, Đặng Phong (Chủ biên): Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000, tập II (1955-2000), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005.
CHƯƠNG MỞ ĐẦU: VÙNG ĐẤT NAM BỘ TRONG NGHIÊN CỨU VÀ NHẬN THỨC 67
nghiên cứu nhiều, hay nghiên cứu như những vấn đề ngoài lịch sử, văn hóa Việt Nam. Nhận thức đó không chỉ đối với vùng đất Nam Bộ mà cả vùng đất Nam Trung Bộ, coi vùng này cũng chỉ thuộc lịch sử Việt Nam từ khi có mặt người Việt ở đây từ giữa và cuối thế kỷ XVI. Quan điểm đó thể hiện phổ biến trong tất cả các sách viết về lịch sử Việt Nam, trình bày theo một dòng từ nước Văn Lang - Âu Lạc thời dựng nước, qua hơn nghìn năm Bắc thuộc đến nước Đại Cồ Việt thời Đinh (968-979), Tiền Lê (980-1009), nước Đại Việt từ thời Lý (1009-1226), Trần (1226-1400), nước Đại Ngu thời Hồ (1400-1407), nước Đại Việt thời Lê Sơ (1428- 1527), thời Mạc (1527-1592), thời Lê Trung hưng (1593-1788), rồi nước Việt Nam, Đại Nam thời Nguyễn (1802-1945) cho đến nước Việt Nam ngày nay. Quan điểm đó có thể tìm thấy trong các bộ lịch sử viết từ cuối thế kỷ XIX như Cours d’ histoire annamite à l’ usage des écoles de la Basse - Cochinchine (1875, Giáo trình lịch sử An Nam dùng trong nhà trường vùng Hạ Nam Kỳ) của Trương Vĩnh Ký1, Histore ancienne et moderne de l’ Annam (1884, Lịch sử An Nam cổ đại và cận đại) của A. Launay2, cho đến các bộ lịch sử Việt Nam viết trong thế kỷ XX, từ Lecture sur l’histoire d’ Annam (1919, Bài giảng lịch sử An Nam) của Ch. Maybon, H. Russier (1919)3, Việt Nam sử lược (1920) của Trần Trọng Kim4... đến tác phẩm của Minh Tranh (1955)5, Đào Duy Anh (1955, 1958)6 ở trong nước, J. Chesneaux (1955)7,
1. Trương Vĩnh Ký: Cours d’histoire Annamite à l’usage des écoles de la Basse - Cochinchine, Imprimerie du Gouvernement 2 Vol., Saigon, 1875-1877. 2. Launay A.: Histoire ancienne et moderne de l’Annam. Tong-King et Cochinchine depuis l’année 2,700 avant l’ére chrétienne jusqu’à nos jours, Challamel Aîne, Paris, 1884.
3. Maybon Ch., Russier H.: Lectures sur l’histoire d’Annam: depuis l’avènement des Lê suivies de notions élémentaires d’administration, Imprimerie d’Extrême Orient, Hanoi, 1919.
4. Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lược, Nxb. Trung Bắc Tân Văn, Hà Nội, 1920. 5. Minh Tranh: Sơ thảo lược sử Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1955. 6. - Đào Duy Anh: Lịch sử Việt Nam (Từ nguồn gốc đến cuối thế kỷ XIX), Nxb. Xây dựng, Hà Nội, 1955.
- Đào Duy Anh: Lịch sử Việt Nam (Từ nguồn gốc đến cuối thế kỷ XIX), quyển thượng, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1958.
7. Chesneaux J.: Contribution à l’ histoire de la nation Vietnamienne, Éditions sociales, Paris, 1955.
68 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Lê Thành Khôi (1955, 1982)1 ở nước ngoài và nhiều nhà sử học hiện nay2. Lịch sử phía nam, từ Nam Trung Bộ đến Nam Bộ chỉ được đưa vào lịch sử Việt Nam bắt đầu từ giữa thế kỷ XVI - đầu thế kỷ XVII trở đi khi người Việt vào khai phá vùng đất phương Nam. Như vậy là tất cả lịch sử đất phương Nam trước đó coi như không thuộc về lịch sử Việt Nam.
Đúng là từ thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX, cùng với công cuộc khai phá của di dân người Việt và xác lập chủ quyền của chúa Nguyễn, vùng đất Nam Bộ mới dần dần hội nhập vào lãnh thổ Việt Nam và trở thành một bộ phận cấu thành của lãnh thổ Việt Nam thống nhất cho đến ngày nay. Nhưng mỗi khi lãnh thổ quốc gia đã được xác lập thì về nguyên lý, xuất phát từ lãnh thổ hiện đại, tất cả những gì diễn ra trên không gian địa lý đó đều thuộc về lịch sử và văn hóa của quốc gia đó. Vùng đất Nam Bộ đã trở thành một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam từ thế kỷ XVII thì tất cả diễn tiến về lịch sử và văn hóa trên vùng đất này là bộ phận cấu thành của lịch sử và văn hóa Việt Nam. Một quan niệm nhận thức mang tính toàn bộ và toàn diện về lịch sử Việt Nam như thế đã dần dần được xác lập từ cuối thế kỷ XX, góp phần thúc đẩy công việc nghiên cứu lịch sử Nam Bộ và lấp dần khoảng trống về Nam Bộ trước thế kỷ XVII. Quan điểm này được hình thành qua nhiều trao đổi trên diễn đàn hội thảo khoa học do Hội Khoa học lịch sử Việt Nam tổ chức, và qua nghiên cứu của một số nhà sử học.
Trong Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam xuất bản năm 1960, các tác giả có dành một chương cho “Sự thành lập và phát triển của nước Lâm Ấp” trong nhận thức coi cuộc khởi nghĩa chống Hán của Khu Liên dẫn đến sự thành lập của nước Lâm Ấp như một bộ phận của lịch sử đấu
1. - Lê Thành Khôi: Le Vietnam, histoire et civilisation, Les Editions de Minuit, Paris, 1955.
- Lê Thành Khôi: Histoire du Vietnam des origines à 1858, Sud-Est Asie, Paris, 1982.
2. - Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Phan Huy Lê,...: Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam (3 tập), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1959-1965.
- Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam: Lịch sử Việt Nam, t. I, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1971.
- Trương Hữu Quýnh (Chủ biên): Lịch sử Việt Nam từ thế kỷ X đến năm 1858, tập I, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2000.
CHƯƠNG MỞ ĐẦU: VÙNG ĐẤT NAM BỘ TRONG NGHIÊN CỨU VÀ NHẬN THỨC 69
tranh chống Bắc thuộc. Vì vậy, lịch sử Lâm Ấp chỉ dừng lại ở thế kỷ VII khi quân Tùy do Lưu Phương chỉ huy tiến chiếm lại Lâm Ấp vào năm 6051. Sách Lịch sử Việt Nam xuất bản năm 1983 mới viết lịch sử Chămpa từ khi thành lập vào thế kỷ II đến thế kỷ X như một bộ phận của lịch sử Việt Nam cho đến thế kỷ X. Đây chính là tập I của bộ Lịch sử Việt Nam gồm 8 tập do Ban Thư ký ngành lịch sử các trường đại học thuộc Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp chủ trì, nhưng chỉ mới xuất bản được tập I và tái bản nhiều lần. Trong lần in thứ ba vào năm 1991, các tác giả ghi rõ: “Chúng tôi dự định bổ sung thêm một chương về văn hóa Óc Eo và nước Phù Nam, nhưng vì điều kiện thời gian nên chưa kịp thực hiện. Chúng tôi sẽ bổ sung chương này trong lần in sau”2. Đến đây bắt đầu hình thành quan niệm coi lịch sử Việt Nam bao gồm cả lịch sử Chămpa và lịch sử Phù Nam. Quan niệm mới mẻ đó được một số nhà sử học ủng hộ, nhưng nói chung chưa được sự chấp nhận rộng rãi trong giới sử học, một số người còn tỏ ra dè dặt. Lịch sử Việt Nam giản yếu xuất bản năm 2000 mạnh dạn đưa một chương “Lãnh thổ miền Trung và miền Nam” với sự tồn tại của vương quốc Chămpa và nước Phù Nam3. Lịch sử Việt Nam từ khởi thủy đến thế kỷ X xuất bản năm 2001 dành phần thứ tư cho “Lịch sử các cộng đồng xã hội trên đất phía nam Việt Nam mười thế kỷ đầu Công nguyên” với hai chương. Nước Chămpa được viết trong chương “Các cộng đồng xã hội Trung Bộ Việt Nam từ thế kỷ I đến thế kỷ X sau Công nguyên” và nước Phù Nam trong chương “Các cộng đồng xã hội đồng bằng sông Cửu Long từ thế kỷ I đến thế kỷ X sau Công nguyên”4. Bộ Lịch sử Việt Nam của Hội đồng Khoa học xã hội và Viện Khoa học xã hội Thành phố Hồ Chí Minh, trong đó tập II xuất bản năm 2004 đã đưa nước Lâm Ấp và Phù Nam
1. Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn: Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, in lần thứ hai, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1963, t.I, tr.113-128.
2. Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh: Lịch sử Việt Nam, in lần thứ 3, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1991, t.I, tr.9. 3. Lương Ninh (Chủ biên): Lịch sử Việt Nam giản yếu, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
4. Đỗ Văn Ninh (Chủ biên): Lịch sử Việt Nam từ khởi thủy đến thế kỷ X, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001, tr.387-452.
70 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
vào nội dung lịch sử, nhưng còn dè dặt đặt dưới hình thức phụ lục1. Đó là những cố gắng trên con đường thể hiện một nhận thức mới về vùng đất Nam Bộ trong lịch sử Việt Nam.
Năm 2004, nhân dịp 60 năm phát hiện văn hóa Óc Eo, Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức Hội thảo khoa học “Văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam” tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 29 – 30-12-20042. Trong hội thảo mang tính quốc gia với sự tham dự của nhiều nhà sử học, khảo cổ học, văn hóa và một số ngành liên quan như địa chất học, địa lý học, qua thảo luận đã đi đến một nhận thức đạt được sự đồng thuận cao coi văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam trên đất Nam Bộ là thuộc về quá khứ của lịch sử Nam Bộ và là một bộ phận tạo thành của lịch sử và văn hóa Việt Nam. Có thể coi đó là một mốc quan trọng đánh dấu sự xác lập một nhận thức mới về tính toàn bộ và toàn diện của lịch sử Việt Nam3. Cuốn Lược sử vùng đất Nam Bộ - Việt Nam xuất bản năm 20064 đã trình bày lịch sử Nam Bộ theo nhận thức mới này và bộ Lịch sử Việt Nam xuất bản năm 2012 là bộ giáo trình đại học đầu tiên quán triệt nhận thức này trong biên soạn lịch sử dân tộc Việt Nam5. Ngày nay nhận thức đó càng ngày càng được giới sử học chấp nhận và dư luận xã hội đồng thuận. Từ đó đến nay, lịch sử vùng đất Nam Bộ được nhận thức bắt đầu từ khi con người xuất hiện cho đến ngày nay, bao gồm lịch sử và văn hóa của tất cả các cộng đồng cư dân, các dân tộc, các vương quốc đã từng tồn tại trên vùng đất này và đó là một bộ phận tạo thành của lịch sử và văn hóa Việt Nam.
1. Hội đồng Khoa học xã hội và Viện Khoa học xã hội Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Việt Nam, tập II, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2004. Phụ lục: Nước Lâm Ấp (tr.244-279), nước Phù Nam (tr.280-297).
2. Hội Khoa học lịch sử Việt Nam: Văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam, Sđd.
3. Phan Huy Lê: Tính đa tuyến, toàn bộ, toàn diện của lịch sử Việt Nam, In trong: Lịch sử và văn hóa Việt Nam: Tiếp cận bộ phận, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2007, tr.11-19.
4. Hội Khoa học lịch sử Việt Nam: Lược sử vùng đất Nam Bộ - Việt Nam, Nxb. Thế giới, Hà Nội, in lần 1 năm 2006, in lần 2 năm 2008.
5. Khoa Lịch sử Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội: Lịch sử Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2012, 4 tập (tập I và tập II: Phan Huy Lê chủ biên; tập III: Đinh Xuân Lâm chủ biên, tập IV: Lê Mậu Hãn chủ biên).
71
Chương I
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI TÁC ĐỘNG ĐẾN
TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ VÀ ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA CỦA VÙNG NAM BỘ
I- KHÔNG GIAN NGHIÊN CỨU
1. Vị trí địa lý và phạm vi khu vực Nam Bộ
Nam Bộ là vùng lãnh thổ phía Nam của nước ta và theo ranh giới hành chính mới nhất thì đây là địa bàn thuộc 19 tỉnh thành: Bình Phước, Tây Ninh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Thành phố Hồ Chí Minh thuộc miền Đông Nam Bộ; Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau thuộc miền Tây Nam Bộ hay còn gọi là đồng bằng sông Cửu Long, với tổng diện tích là 64.162.800 ha1.
Trên thực tế, Nam Bộ là tên gọi mang hàm ý không gian hành chính (ngay từ thuở ban đầu) hơn là xuất phát từ một khái niệm địa lý tự nhiên. Vì lẽ đó, ranh giới Nam Bộ biến động theo thời gian, theo sự phân chia của các hệ thống kinh tế - chính trị khác nhau. Về mặt lịch sử, những người dân Việt di cư nhiều thời gian từ trước thế kỷ XVII đã đặt nền móng để hòa nhập vùng đất này vào đất Việt. Tiếp đến, trong thế kỷ XVII,
1. Xem Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê năm 2013, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2014, tr.63.
72 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN Hình 1: Địa bàn hành chính 19 tỉnh, thành ở Nam Bộ
các chúa Nguyễn là những người có công khẳng định cương vực nước ta tới vùng đất Nam Bộ ngày nay. Năm 1698, Chúa Nguyễn Phúc Chu cử Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược vùng đất này và chính thức thiết lập một hệ thống hành chính thống nhất trong bộ máy cai trị chung cả nước.
Vào lúc đó, ranh giới địa lý toàn vẹn cho Nam Bộ có lẽ cũng khó xác định bởi còn có những cuộc sáp nhập đất đai muộn hơn. Về địa danh, năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát tổ chức lại bộ máy hành chính ở Nam Bộ lúc ấy gồm 3 dinh là Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ và trấn Hà Tiên. Dưới thời vua Minh Mệnh, năm 1832, vùng này chia thành 6 tỉnh (nên có tên gọi Nam Kỳ lục tỉnh hay Lục tỉnh).
Những hình ảnh đầu tiên cho ta nhận biết rõ nhất về không gian vùng Nam Bộ, tuy vẫn còn sơ lược, là từ những bản đồ của người Pháp, Anh thực hiện, như bản đồ “Nam Kỳ thuộc Pháp” do Claude-Albert
CHƯƠNG I: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI... 73
Morice (1845-1877) công bố vào năm 1872, và bản đồ dự kiến xây dựng đường sắt xuyên Á được lập vào năm 1886.
Qua các bản đồ này cho thấy phạm vi Nam Kỳ vào thời điểm 1872 rõ ràng là nhỏ hẹp hơn ở phần phía đông so với phạm vi hành chính Nam Bộ hiện nay. Vào thời điểm đó thì phần Trung Kỳ (An Nam) lấn sâu tới phạm vi Xuyên Mộc, Định Quán, Bình Phước hiện nay. Còn ở phía tây thì Nam Kỳ lấn quá sâu về phía bắc kênh Vĩnh Tế.
2. Không gian nghiên cứu
Một số nghiên cứu trước đây về lĩnh vực tự nhiên, như phân chia địa tầng N-Q và nghiên cứu cấu trúc địa chất đồng bằng Nam Bộ1, thì lấy vùng đồng bằng Nam Bộ giới hạn giữa các tọa độ 8025’30”-12009’34” vĩ độ Bắc; 103022’55”-107000’00” kinh độ Đông, có tính chất phân chia theo mảnh bản đồ. Trong khi đó, những tư liệu về môi trường cổ địa lý, nhân sinh cho thấy thế giới tự nhiên ở vùng Nam bán đảo Đông Dương và vùng Đông Nam Á biến động rất mạnh theo thời gian cũng như theo không gian. Như vậy sẽ là không thỏa đáng nếu chúng ta xác định một lằn ranh cố định, như phạm vi thuộc 19 tỉnh thành đã nêu, cho tất cả lĩnh vực nghiên cứu (tự nhiên và xã hội) vốn có những quy luật phát triển riêng. Trong nghiên cứu này thì không gian phân bố các đặc trưng môi trường tự nhiên được đề cập tới sẽ được trình bày trong một không gian ước định, rộng hơn, gồm vùng châu thổ sông Mêkông và vùng thềm cổ - đồi núi thấp trên dưới 200 m kéo dài qua địa bàn các tỉnh Long An, Tây Ninh, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, và Bà Rịa - Vũng Tàu. Các đặc trưng này sẽ còn được đề cập trong không gian địa lý rộng hơn của vùng bán đảo Đông Dương và Đông Nam Á nhằm làm rõ các mối liên kết đặc thù riêng. Về thời gian lịch sử phát triển, các đặc trưng tự nhiên sẽ được đề cập chủ yếu từ đỉnh điểm băng hà cuối cùng cho tới nay.
1. Nguyễn Huy Dũng (Chủ biên): Phân chia địa tầng N-Q và nghiên cứu cấu trúc địa chất đồng bằng Nam Bộ, Lưu trữ Liên đoàn Địa chất bản đồ miền Nam, 2004.
74 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
II- QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC YẾU TỐ TỰ NHIÊN CỦA VÙNG NAM BỘ
1. Mở đầu
Sự sống trên trái đất đã có quá trình tiến hóa lâu dài, trải qua nhiều thời kỳ, nhiều biến cố để tiến hóa nên thế giới đa dạng ngày hôm nay. Trong tiến trình đó, mỗi cấu thành tự nhiên, gồm vô cơ và hữu cơ, cùng phát triển không ngừng với những tốc độ, quy mô nhanh chậm khác nhau tuân theo các quy luật riêng. Sự vận động này được khái quát trên biểu đồ được trích dẫn dưới đây:
Hình 2: Sự vận động các cấu thành tự nhiên theo quy mô khác nhau
về thời gian và không gian
(Nguồn: Delcourt H.R., Delcourt P.A.: Quaternary Ecology: A paleoecological perspective, Chapman & Hall, 1991)
Theo dòng thời gian, môi trường tự nhiên trên trái đất đã trải qua rất nhiều thay đổi, đáng lưu ý trong giai đoạn Đệ tứ, khoảng 2 triệu năm trở lại đây, là giai đoạn quan trọng trong lịch sử sự sống trên trái đất với sự xuất hiện của con người, vốn tiến hóa từ một loài vượn người.
Cảnh quan chung trong giai đoạn này được đánh giá là khá ổn định, về cơ bản là gần giống với hiện tại. Nhưng những nghiên cứu gần đây
CHƯƠNG I: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI... 75
cho chúng ta nhiều thông tin rất mới mẻ về một sự phát triển khá sôi động của tự nhiên trong thời gian tuy rất ngắn này so với lịch sử trái đất. Đó là xen kẽ những giai đoạn băng hà khô lạnh dài hàng chục ngàn năm và những giai đoạn khí hậu nóng ẩm được cho là có liên quan tới những vận động thiên văn do Milankovitch phát hiện đầu tiên, theo chu kỳ dài 19.000, 23.000, 41.000, 100.000 và 413.000 năm, đã ảnh hưởng lớn tới môi trường tự nhiên trên bề mặt trái đất1. Vào giai đoạn băng hà
Hình 3: Bằng chứng biến đổi khí hậu, các giai đoạn băng hà/gián băng và những thay đổi tương ứng về nhiệt độ, bức xạ
(Nguồn: Delcourt H.R., Delcourt P.A.: Quaternary Ecology: A paleoecological perspective, Chapman & Hall, 1991)
1. Smith D.G.: Milankovitch cyclicity and the stratigraphic record - A review, in Terra nova, Vol. 1, No. 5, 1989, pp.402-404.
76 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
phát triển, do lượng nước bị đông thành băng vĩnh cửu làm giảm lượng nước tuần hoàn về đại dương mà thể tích nước đại dương giảm đi nên mực nước biển bị hạ thấp, có thể vài trăm mét so với mực nước hiện tại.
Vì lẽ đó, cả phần thềm lục địa hiện tại trên cả địa cầu đã phơi ra ngoài không khí, nhiều vùng biển nông bị thu hẹp lại, hoặc khô cạn, như vịnh Thái Lan đã là bình nguyên khi mà mực nước biển vào 20.000 năm trước lại thấp hơn bây giờ tới khoảng 120 m.
Khi phông nhiệt độ toàn cầu tăng sẽ làm tăng sự tan chảy thể tích khối băng vĩnh cửu, lượng nước đổ về đại dương tăng lên làm mực nước đại dương dâng lên. Mực nước thay đổi, dâng lên hoặc hạ xuống, và đường bờ biển cũng dịch chuyển tương ứng theo, hay là các giai đoạn biển tiến, biển thoái có tính toàn cầu. Nhưng khi mực nước đại dương ít thay đổi, tùy theo cấu tạo địa chất địa phương mà còn gây ra diễn biến mực nước dâng hạ cục bộ. Thay đổi khí hậu (Hình 3) tác động rất lớn tới sinh quyển, sự phân bố và tiến hóa các sinh vật trên cạn và dưới nước, sinh vật chịu khô hay ưa nước... Vì lý do đó đã diễn ra những đợt di cư rất lớn của các tập đoàn sinh vật theo phạm vi co dãn các đới khí hậu và vực nước, đường bờ biển.
Sự tan băng nhanh làm thay đổi trường trọng lực trên vỏ còn gây hiệu ứng xiphôn kéo theo các dịch chuyển nâng/hạ trên các mảng địa chất giữa các vùng vĩ độ thấp (như vùng Đông Nam Á) và vĩ độ cao1 và thay đổi địa hình - địa mạo có quy mô lớn đều có liên quan tới tốc độ tan chảy băng hà2.
1. Grossman E.E., Fletcher III C.H., Richmond B.M.: The Holocene sea-level highstand in the equatorial Pacic: Analysis of the insular paleosea-level database, in Coral Reefs, Vol. 17, 1998, pp.309-327.
2. Quidelleur X., Hildenbrand A., Samper A.: Causal link between Quaternary paleoclimatic changes and volcanic islands evolution, in Geophys. Res. Lett, Vol. 35, 2008, L.02303, Doi: 10.1029/2007GL031849.
CHƯƠNG I: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, MÔI TRƯỜNG SINH THÁI... 77
Hình 4: Gia tăng mực nước biển ở nhiều khu vực trên thế giới
từ sau băng hà cuối Pleistocène
(Nguồn: www.thefreedictionary.com)
Khu vực Nam Bộ trải dài trên vùng hạ du và châu thổ của hai hệ thống sông Sài Gòn - Đồng Nai và Mêkông, vì vậy đặc trưng môi trường tự nhiên ở đây và sự phát triển của nó đều gắn liền ít nhiều với lịch sử các con sông này.
Các đặc trưng tự nhiên sẽ còn được đề cập trong mối liên kết thống nhất trong không gian địa lý rộng hơn của vùng bán đảo Đông Dương và Đông Nam Á. Về thời gian, các đặc trưng tự nhiên sẽ được đề cập chủ yếu từ đỉnh điểm băng hà cuối cùng cho tới nay.
2. Lịch sử địa chất và quá trình hình thành vùng Nam Bộ
Vùng nghiên cứu là một bộ phận của vỏ lục địa Đông Nam Á, có bề dày thay đổi trên 30 km và mỏng dần còn 25-30 km ở dưới thềm
78 VÙNG ĐẤT NAM BỘ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
lục địa1. Những hoạt động tạo sơn ở bán đảo Đông Dương, sự hình thành Biển Đông và vùng đất liền lân cận là hậu quả vận động của mảng kiến tạo Ấn Độ với mảng Á - Âu cùng vi mảng Philippines. Sự vận động nghịch nhau giữa các mảng kiến tạo đã gây dập vỡ và hình thành các khối và bị tách rời bởi các phay kiến tạo lớn. Trong đó, do ảnh hưởng chi
Hình 5: Sơ đồ vận động kiến tạo ở châu Á
(Nguồn: Carbonnel J.P.: Le Quaternaire Cambodgien: Structure et stratigraphie, ORSTOM, 1972)
1. Phan Văn Quýnh, Vũ Ngọc Hải, Nguyễn Nghiêm Minh, Võ Năng Lạc, Văn Đức Chương: Tiến hóa vỏ lục địa Việt Nam và sinh khoáng, Tạp chí Các khoa học về trái đất, số 3-1986, tr.97-103.