🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Võ Nguyên Giáp – Tiểu sử
Ebooks
Nhóm Zalo
BAN CHỈ ĐẠO CHƯƠNG TRÌNH
LÊ HỒNG ANH Trưởng ban
TÔ HUY RỨA Ủy viên
ĐINH THẾ HUYNH Ủy viên
TRẦN QUỐC VƯỢNG Ủy viên
TẠ NGỌC TẤN Ủy viên
BAN CHỦ NHIỆM CHƯƠNG TRÌNH
TẠ NGỌC TẤN Chủ nhiệm
PHẠM NGỌC ANH Phó Chủ nhiệm thường trực LÊ QUANG VĨNH Ủy viên
HOÀNG PHONG HÀ Ủy viên
TRẦN MINH TRƯỞNG Ủy viên
BAN BIÊN SOẠN
PGS.TS. PHẠM NGỌC ANH (Chủ biên)
PGS.TS. NGUYỄN VĂN BẠO
TS. CAO VĂN ĐỊNH
PGS.TS. NGUYỄN MINH ĐỨC
PGS.TS. TRỊNH THỊ HỒNG HẠNH
TS. LÊ THỊ THU HỒNG
PGS.TS. BÙI ĐÌNH PHONG
PGS.TS. NGUYỄN THANH TÂM
PGS.TS. PHẠM XANH
CỘNG TÁC VIÊN
PGS.TS. Phạm Ngọc Anh Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng
PGS.TS. Nguyễn Văn Bạo Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam ThS. Ngô Xuân Dương Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng
ThS. Lê Trọng Đại Trường Đại học Quảng Bình TS. Cao Văn Định Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Bình
PGS.TS. Nguyễn Minh Đức Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam PGS.TS. Trịnh Thị Hồng Hạnh Viện Lịch sử Đảng Phạm Ngọc Hạnh Trường Đại học Quảng Bình Đinh Thị Hoài Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng
TS. Lê Thị Thu Hồng Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng
PGS.TS. Trịnh Vương Hồng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam ThS. Trần Thị Hợi Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng
ThS. Nguyễn Đình Lam Trường Đại học Quảng Bình PGS.TS. Trần Ngọc Long Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam ThS. Thái Thị Lợi Trường Phổ thông trung học Chuyên Quảng Bình
ThS. Trần Văn Khôi Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng
Nguyễn Quang Năm Huyện ủy Lệ Thủy, Quảng Bình
Lê Đình Nguyên Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Bình
ThS. Trần Thị Nhuần Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng
ThS. Đinh Ngọc Quý Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng
PGS.TS. Bùi Đình Phong Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng
PGS.TS. Nguyễn Thanh Tâm Viện Lịch sử Đảng Hoàng Văn Tân Ban Dân tộc tỉnh Quảng Bình TS. Nguyễn Khắc Thái Sở Khoa học công nghệ tỉnh Quảng Bình
ThS. Vương Kim Thành Trường Đại học Quảng Bình ThS. Đinh Quang Thành Trường Đại học Giao thông vận tải ThS. Đỗ Thị Thu Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Bình PGS.TS. Vũ Văn Thuấn Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng
Lê Đình Tới Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Bình
PGS.TS. Ngô Đăng Tri Đại học Quốc gia Hà Nội ThS. Nguyễn Văn Trọng Trường Sĩ quan Bắc Ninh PGS.TS. Phạm Xanh Đại học Quốc gia Hà Nội
7
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Đại tướng Võ Nguyên Giáp (1911 - 2013) - người Anh Cả của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với 103 năm tuổi đời và hơn 70 năm hoạt động cách mạng, đồng chí đã hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc Việt Nam.
Võ Nguyên Giáp sinh ra và lớn lên tại làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, trong một gia đình nhà nho giàu truyền thống yêu nước. Chính mảnh đất quê hương giàu truyền thống cách mạng và anh hùng cùng truyền thống yêu nước của gia đình đã hun đúc nên nhân cách và quyết định con đường đi của ông.
Ngay từ khi còn là học sinh ngồi trên ghế nhà trường, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã sớm giác ngộ cách mạng và tích cực tham gia các phong trào đấu tranh bãi khóa ở Trường Quốc học Huế. Năm 1927, gia nhập Đảng Tân Việt cách mạng - một tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Đông Dương, nay là Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1930, tham gia phong trào Xôviết Nghệ Tĩnh. Năm 1940, được kết nạp vào Đảng. Tháng 12-1944, đồng chí
8 VÕ NGUYÊN GIÁP - TIỂU SỬ
được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, tổ chức tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Trên các cương vị là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, Ủy viên Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, thành viên Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc, thành viên Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam, Tư lệnh Việt Nam giải phóng quân, đồng chí đã có những đóng góp quan trọng vào thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945.
Ngày 19-12-1946, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, với cương vị là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã có đóng góp quan trọng vào việc lãnh đạo cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược. Năm 1948, đồng chí được phong quân hàm Đại tướng. Đến năm 1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp được Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh tin tưởng trao quyền trực tiếp chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ. Đại tướng đã chỉ huy các đại đoàn của quân đội và các lực lượng tiến công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, đánh bại đội quân của thực dân Pháp, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954).
Sau khi miền Bắc được giải phóng, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã tham gia cùng Trung ương Đảng lãnh
LỜI NHÀ XUẤT BẢN 9
đạo toàn dân, toàn quân tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa và đẩy mạnh cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, làm nên những thắng lợi vẻ vang mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thu non sông về
một mối, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đất nước hoà bình, thống nhất, trên cương vị là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã cùng tập thể lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội lãnh đạo toàn dân, toàn quân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tiến hành công cuộc đổi mới đất nước.
Với 103 tuổi đời, hơn 70 tuổi Đảng và những cống hiến to lớn, đặc biệt xuất sắc cho sự nghiệp cách mạng, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã được tặng thưởng Huân chương Sao vàng (năm 1992), hai Huân chương Hồ Chí Minh và nhiều huân, huy chương cao quý khác của Việt Nam và quốc tế.
Để ghi nhớ công lao và đóng góp to lớn của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Võ Nguyên Giáp - Tiểu sử thuộc Chương trình sưu tầm tài liệu, viết tiểu sử các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng và cách mạng Việt Nam. Cuốn sách là tài liệu quý về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng sáng chói
10 VÕ NGUYÊN GIÁP - TIỂU SỬ
của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, một người cộng sản bản lĩnh, kiên trung, đã có nhiều công lao to lớn và cống hiến đặc biệt xuất sắc đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc Việt Nam.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 11 năm 2019
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
11
LỜI GIỚI THIỆU
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã dành trọn cả cuộc đời hoạt động cách mạng, đã có nhiều công lao to lớn và cống hiến đặc biệt xuất sắc đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc Việt Nam. Cuộc đời hoạt động của Đại tướng gắn liền với quá trình phát triển của cách mạng nước ta và những mốc son lịch sử trọng đại của dân tộc Việt Nam trong suốt thế kỷ XX.
Với 103 tuổi đời, hơn 80 năm hoạt động cách mạng, nhiều năm được sống và làm việc bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã không ngừng phấn đấu, rèn luyện, học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người. Đại tướng luôn thể hiện phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, dĩ công vi thượng, sống giản dị, khiêm tốn, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc và nhân dân lên trên hết. Con người, nhân cách và những cống hiến lớn lao của Đại tướng in đậm trong lòng dân, là vị tướng của nhân dân, mãi mãi lưu danh trong lịch sử dân tộc.
Thực hiện chủ trương của Đảng về việc sưu tầm tài liệu, viết tiểu sử các đồng chí lãnh đạo chủ chốt
12 VÕ NGUYÊN GIÁP - TIỂU SỬ
của Đảng và cách mạng Việt Nam, Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng, Ban Chủ nhiệm đề tài Võ Nguyên Giáp - Tiểu sử đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo và tọa đàm khoa học tại Hà Nội và Quảng Bình - quê hương của Đại tướng nhằm tập hợp ý kiến của các nhà nghiên cứu, các nhà hoạt động thực tiễn, người thân trong gia đình về cuộc đời, sự nghiệp của Đại tướng.
Ban Chủ nhiệm đề tài xin gửi lời cảm ơn đến gia đình Đại tướng - ông Võ Điện Biên - con trai Đại tướng đã cung cấp tư liệu, bổ sung, góp ý, hiệu chỉnh các sự kiện về Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Chúng tôi cũng xin bày tỏ sự biết ơn đến các cơ quan: Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Tỉnh ủy, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Bình, Tổng cục Chính trị - Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Trung tâm Lưu trữ quốc gia... đã cung cấp tài liệu để giúp chúng tôi hoàn thiện bản thảo; xin trân trọng cảm ơn các nhà khoa học, các cộng tác viên đã đóng góp nhiều ý kiến quý báu trong quá trình xây dựng, chỉnh sửa bản thảo.
Ban biên soạn cuốn sách Võ Nguyên Giáp - Tiểu sử hy vọng góp phần làm rõ những hoạt động và đóng góp của Đại tướng Võ Nguyên Giáp với Đảng và dân tộc, trên cơ sở đó khẳng định những cống hiến của đồng chí đối với cách mạng Việt Nam, về tấm gương đạo đức cách mạng trong sáng của một chiến sĩ cộng sản đã dâng hiến trọn đời mình cho Đảng, cho dân tộc, thiết thực
LỜI GIỚI THIỆU 13
góp phần vào công tác giáo dục truyền thống cách mạng, bồi dưỡng lập trường tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân.
Chúng tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp để cuốn sách hoàn chỉnh hơn trong những lần xuất bản sau.
Xin trân trọng cảm ơn!
T/M BAN BIÊN SOẠN
CHỦ BIÊN
PGS.TS. Phạm Ngọc Anh
14
15
Chương I
QUÊ HƯƠNG - GIA ĐÌNH - TUỔI TRẺ (1911 - 1939)
1. Quê hương và gia đình
Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25-8-1911, tại làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, trong một gia đình nhà nho giàu truyền thống yêu nước.
Trong lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam, Quảng Bình là vùng đất nối liền một dải non sông đất Việt; nơi từng là phên giậu của Nhà nước Văn Lang - Âu Lạc, nơi khởi đầu cho công cuộc mở cõi về
phương Nam của nước Đại Việt, ranh giới giao tranh thời Trịnh - Nguyễn kéo dài hơn hai thế kỷ bởi dòng sông Gianh lịch sử. Những yếu tố về tự nhiên, lịch sử - xã hội của vùng đất này đã kiến tạo và rèn đúc nên con người Quảng Bình đức tính cần cù, chịu khó, nhẫn nại mà bản lĩnh, ngoan cường, kiên trung, thông minh và quyết đoán, giàu chí tiến thủ, giàu lòng nhân ái, yêu nước nồng nàn và lao động sáng tạo.
16 VÕ NGUYÊN GIÁP - TIỂU SỬ
Bước vào thời kỳ lịch sử cận đại, Quảng Bình cũng là nơi xuất hiện nhiều phong trào yêu nước, đấu tranh chống ngoại xâm kiên cường, bất khuất và anh dũng. Nhiều vùng đất ở Quảng Bình là căn cứ chống Pháp của phong trào Cần Vương. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nhiều tên đất, tên người làm sống động truyền thống đấu tranh bất khuất của người dân Quảng Bình như: Xuân Bồ với anh hùng Lâm Úy; làng chiến đấu Cự Nẫm; làng anh hùng Cảnh Dương. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, dòng sông Nhật Lệ gắn liền với hình ảnh mẹ Suốt anh hùng.
Không chỉ có bề dày về lịch sử, Quảng Bình còn là vùng đất văn vật. Suốt theo chiều dài lịch sử, vùng đất Quảng Bình đã hình thành nên nhiều làng văn hóa nổi tiếng Bát danh hương “Sơn - Hà - Cảnh - Thổ - Văn - Võ - Cổ - Kim” và đã đào luyện hun đúc, sản sinh ra nhiều bậc anh hùng, hào kiệt, danh nhân với những tố chất cao quý và đặc biệt xuất chúng trong các lĩnh vực quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội như: Dương Văn An, Nguyễn Hữu Cảnh, Nguyễn Đăng Tuân, Nguyễn Hàm Ninh, Nguyễn Phạm Tuân, Lưu Trọng Lư, Hàn Mạc Tử, Hoàng Kế Viêm (sau này thêm Võ Nguyên Giáp, Đồng Sĩ Nguyên)...
Với những con người sinh ra từ mảnh đất Quảng Bình ngày nay, dường như luôn hình thành một bản
Chương I: QUÊ HƯƠNG - GIA ĐÌNH - TUỔI TRẺ... 17
năng thích ứng để sinh tồn từ những đặc trưng của không gian lịch sử này. Nhìn trên bản đồ Việt Nam, Quảng Bình là khúc thắt hẹp nhất từ Biển Đông đến miền Tây núi non của dãy Trường Sơn. Nếu lấy thước kẻ những trục Bắc - Nam nối từ Hà Nội tới Thành phố Hồ Chí Minh, từ cực tây bắc Lai Châu tới cực đông nam Khánh Hòa thì thấy điểm cắt tụ đúng vào vùng đất Quảng Bình. Điều này cho thấy Quảng Bình là nơi giao thoa, tiếp biến văn hóa hay những va đập, xung đột về xã hội. Trong suốt chiều dài lịch sử, người dân Quảng Bình đã dũng cảm đấu tranh chống ngoại xâm để bảo vệ quê hương, đất nước, góp phần làm giàu truyền thống đấu tranh giữ nước của dân tộc.
Huyện Lệ Thủy - quê hương của Võ Nguyên Giáp nằm ở phía nam tỉnh Quảng Bình, phía tây huyện Lệ Thủy giáp với địa giới hành chính tỉnh Khăm Muộn nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào, có đường biên giới dài 31km cùng dựa lưng vào dãy Trường Sơn hùng vĩ; phía nam giáp tỉnh Quảng Trị; phía bắc giáp huyện Quảng Ninh; phía đông giáp Biển Đông với đường bờ biển dài 32km. Vùng đất Lệ Thủy nằm trong khối kiến tạo chung của Quảng Bình. Đặc điểm chung của địa hình Quảng Bình là hẹp, nơi hẹp nhất (tại Đồng Hới) theo chiều đông - tây và cũng là nơi hẹp nhất ở phần rìa phía nam huyện Lệ Thủy, chỉ xấp xỉ 50km. Địa hình huyện Lệ Thủy có tổng diện tích
18 VÕ NGUYÊN GIÁP - TIỂU SỬ
141.600ha, được chia làm 4 vùng rõ rệt là các vùng rừng núi, gò đồi, đồng bằng và dải cát ven biển. Nơi đây ruộng đất màu mỡ, sông hói chằng chịt nhưng thời tiết hết sức khắc nghiệt với mưa bão, nắng hạn quanh năm.
Dân cư huyện Lệ Thủy phân bố tương đối đồng đều trên địa bàn các vùng trung du, đồi núi, vùng đồng bằng, ven sông, ven quốc lộ và ven biển. Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đại bộ phận dân cư trong huyện là nông dân làm ruộng, làm rẫy, làm bương, trồng lúa, trồng màu, một bộ phận đánh cá sông, cá đồng và đánh cá biển (bãi ngang).
Xã Lộc Thủy vốn bao gồm 2 làng cổ, hình thành từ thế kỷ XV là làng Tuy Lộc và An Xá. Thời chúa Nguyễn, xã Lộc Thủy thuộc tổng Đại Phúc Lộc, huyện Lệ Thủy. Lộc Thủy là một xã thuộc vùng trung tâm của huyện Lệ Thủy, chạy dài dọc theo hữu ngạn sông Kiến Giang 7km. Đây còn là quê hương của những anh hùng hào kiệt, như Dương Văn An1, Võ Trọng Bình, Vũ Xuân Cẩn, gia tộc Nguyễn Đăng Giai... Làng An Xá nay là thôn An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. An Xá là một vùng đất có truyền thống hiếu học, khoa bảng và có lịch sử lâu đời
______________
1. Tiến sĩ Dương Văn An là người biên soạn cuốn sách Ô châu cận lục từ thế kỷ XVI.
Chương I: QUÊ HƯƠNG - GIA ĐÌNH - TUỔI TRẺ... 19
ở tỉnh Quảng Bình. Dưới chế độ khoa cử phong kiến, An Xá đã có 3 người đỗ đại khoa.
Lộc Thủy là vùng quê có các làng nghề truyền thống nổi tiếng từ xa xưa như nghề dệt chiếu ở An Xá, nghề làm giấy dó, giấy bổi, nấu rượu ở Tuy Lộc. Lộc Thủy có chùa An Xá tại xã Lộc Thủy là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Tại ngôi chùa này đã diễn ra Hội nghị thống nhất các tổ chức Đảng Cộng sản Đông Dương ở toàn tỉnh Quảng Bình vào ngày 2-7-1945.
Khi nói đến quê hương của Võ Nguyên Giáp không thể không đề cập vùng sông nước Lệ Thủy. Nếu non nước của các huyện miền ngoài của tỉnh quay về núi Rồng, núi Tiên thì sông nước Lệ Thủy quay về nghiên mực khổng lồ mang tên Hạc Hải.
“Nghiên nước dồi dào nguồn biển Lệ
Bút trời nghi ngút tháp non Mâu”.
(Chu Mạnh Trinh)
Người xưa ví núi Đầu Mâu như ngòi bút, phá Hạc Hải như nghiên mực “Đầu Mâu vi bút, Hạc Hải vi nghiên”, ý ẩn dụ rằng địa hình, phong thổ Lệ Thủy như nơi đào tạo nhân tài vật lực, con người ở đây thông minh, hiếu học. Trong hệ thống sông ngòi ở Lệ Thủy đáng chú ý nhất là sông Kiến Giang, con sông đã trở thành mạch nguồn cuộc sống và là biểu tượng giá trị vật chất và văn hóa tinh thần của người dân xứ Lệ. Dòng sông Kiến Giang đã gắn liền với tuổi thơ đầy ắp
20 VÕ NGUYÊN GIÁP - TIỂU SỬ
những kỷ niệm của Võ Nguyên Giáp. Sông Kiến Giang bắt nguồn từ dãy Trường Sơn, qua vùng núi An Mã, trôi xuôi qua các làng trù phú của các xã Mai Thủy, Xuân Thủy, Mỹ Thủy, An Thủy, Lộc Thủy rồi nhập vào phá Hạc Hải đổ ra cửa Nhật Lệ. Có người ví sông Kiến Giang như con rắn khổng lồ thả mình nằm dài hướng vào Nam, đầu kê lên gối An Mã, đuôi thì duỗi thẳng xuống Hạc Hải mênh mông. Điều lưu ý là khi sông Kiến Giang chảy về cuối làng An Xá tiếp nhận thêm dòng nước của hói Phú Thọ (xã An Thủy) thì dòng chảy của sông đổi hướng, vòng quanh một khúc sông rộng hình chữ “Chi”, người chèo thuyền qua đây, dù bất kỳ loại gió hướng nào cũng đều bị ngược. Cho nên dân gian gọi là Khút Bầu Ngược. Cùng với hói ngang chảy qua làng An Lạc đã làm cho long mạch Kiến Giang tụ lại và dồn về khúc trung lưu, nơi phát tích sự giàu có và nhân tài của vùng quê đất Lệ Thủy. Trên dòng sông Kiến Giang, hai bên sông là đôi bờ tre xanh tỏa bóng, những hàng cau, vườn chuối trĩu quả xen giữa những mái nhà tranh giản dị, bình yên; ngày ngày những chuyến đò ngược xuôi đi về. Hai bên dòng sông nhiều đò đỗ san sát, Võ Nguyên Giáp đã nhiều lần được mẹ cho đi chợ huyện bằng đò, mỗi chuyến đi đều để lại cho Võ Nguyên Giáp những ấn tượng khó quên.
Dòng họ Võ ở làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình là một đại gia tộc có danh
Chương I: QUÊ HƯƠNG - GIA ĐÌNH - TUỔI TRẺ... 21
tiếng, có từ đường ở cuối làng, cách chùa An Xá khoảng 200m. Đầu thế kỷ XX, nhiều làng xã, tổng ở huyện Lệ Thủy đều có dòng họ Võ (Vũ), nhất là các làng, xã dọc đôi bờ sông Kiến Giang ở vùng giữa huyện mà ngày nay là các thôn: An Xá, Tuy Lộc (xã Lộc Thủy); Đại Phong, Thượng Phong (xã Phong Thủy); Lộc Thượng, Lộc Hạ, Lộc An, Phú Thọ, Thạch Bàn, Tân Lệ (xã An Thủy); Xuân Lai (xã Xuân Thủy); Quảng Cư (thị trấn Kiến Giang)... Theo lịch sử dòng họ Vũ (Võ) thì đến thời Hậu Lê dòng họ Vũ được chia làm 5 chi và 8 phái đến các vùng miền trong cả nước.
Dưới triều Nguyễn, kể từ năm 1806 - tỉnh Quảng Bình có 44 người đỗ đại khoa thì Lệ Thủy có 12 người, trong đó dòng họ Võ huyện Lệ Thủy có 2 tiến sĩ là Võ Xuân Xán, đỗ tiến sĩ năm 1848 và Võ Khắc Triển đỗ
tiến sĩ năm 1919. Họ Võ trong huyện còn có nhiều nhà khoa bảng trung khoa, tiểu khoa dưới triều Nguyễn như: Võ Trọng Định (An Xá), Võ Trọng Thiều (Lộc An), Võ Xuân Cơ (Hòa Luật), Võ Trọng Bình, Võ Bá Liên, Võ Trinh, Võ Văn Tuân... là những vị quan hết mực thương dân và thanh liêm. Vùng đất Quảng Bình nói chung và huyện Lệ Thủy nói riêng có tiếng là đất học.
Võ Nguyên Giáp sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng và yêu nước sâu sắc; thân phụ là cụ Võ Quang Nghiêm, một nhà Nho, dòng dõi
22 VÕ NGUYÊN GIÁP - TIỂU SỬ
khoa bảng, bất khuất và kiên cường1. Cụ có nhiều lớp học trò ở huyện Lệ Thủy và một số huyện lân cận thuộc tỉnh Quảng Bình. Cụ và gia đình sống gần gũi với xóm làng nên người trong vùng thường gọi thân mật là cụ Nghiêm.
Thân mẫu Võ Nguyên Giáp là bà Nguyễn Thị Kiên, sinh tại xã Sơn Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Bà là một người phụ nữ hiền thục, đảm đang mọi việc trong gia đình và được mọi người quý mến.
Ông nội Võ Nguyên Giáp từng tham gia phong trào Cần Vương. Ông ngoại cũng từng tham gia phong trào Cần Vương, là đề đốc chỉ huy nghĩa quân
______________
1. Theo tài liệu địa phương, vào khoảng năm 1946 - 1947, ở Huế, thực dân Pháp bắt được cụ, chúng tra tấn dã man và giam cầm cụ ở lao Thừa Phủ. Tên mật thám Pháp mắng cụ: “Không biết dạy con để con chống lại quân đội Pháp hùng mạnh”. Cụ cười ngạo, vuốt râu trả lời: “Tôi đẻ con ra chưa kịp dạy thì con đã bỏ nhà đi làm cách mạng - chừ tôi có muốn dạy con thì còn mô mà dạy? Vậy tôi nhờ quân đội Pháp hùng mạnh đi bắt con tôi về đây để tôi dạy thử, coi con tôi có chịu nghe không?”... Biết không lung lay được ông già bản lĩnh, chúng nhốt cụ vào “casô âm phủ”. Sau đó, cụ bị ốm nặng, thực dân Pháp buộc phải chuyển cụ đến Bệnh viện Huế và cụ
đã mất tại đây. Chúng đưa cụ vào nhà xác nằm chung với những người chết không có thân nhân và chôn chung với nhiều thi hài khác, để sau này gia đình không tìm được hài cốt của cụ nữa. Đến năm 1977, các cơ quan chức năng của tỉnh Bình Trị Thiên đã tìm thấy mộ cụ Võ Quang Nghiêm và đưa hài cốt cụ về an nghỉ tại quê nhà. Cụ đã được Nhà nước truy tặng danh hiệu Liệt sĩ chống Pháp.
Chương I: QUÊ HƯƠNG - GIA ĐÌNH - TUỔI TRẺ... 23
Cần Vương chống thực dân Pháp dưới quyền thủ lĩnh Hoàng Phúc, sau bị quân Pháp bắt, tra tấn dã man, nhưng quyết không một lời khai báo.
Theo gia phả do gia đình cung cấp, Võ Nguyên Giáp là hậu duệ đời thứ 7 của Võ Văn Dũng - một vị tướng nhà Tây Sơn - hiện được thờ tại Bảo tàng Quang Trung, tỉnh Bình Định. Các thế hệ kế tiếp nhau như: Võ Văn Dũng, Võ Vĩnh Lộc, Võ Bình Tá, Võ Trọng Công, Võ Văn Cẩn, Võ Quang Nghiêm, Võ Nguyên Giáp. Ông bà Võ Quang Nghiêm và Nguyễn Thị Kiên (thân phụ, thân mẫu của Võ Nguyên Giáp) sinh hạ được 7 người con. Võ Tử Toại là anh trai đầu. Võ Nguyên Giáp người con thứ năm, qua các cấp học ở trường đều nổi tiếng thông minh khiến các bậc đàn anh, bạn cùng trang lứa và mọi người nể trọng. Võ Thuần Nho - em trai Võ Nguyên Giáp luôn theo anh chăm chỉ học hành ở các trường làng, tổng, huyện, tỉnh và đến Huế rồi ra Hà Nội, sau này là Thứ
trưởng Bộ Giáo dục.
Võ Nguyên Giáp được cha dạy cho chữ Nho. Cụ Võ Quang Nghiêm dạy các con rất cẩn trọng, cả trong sinh hoạt lẫn trong việc học hành, theo nền nếp gia phong của đạo Khổng. Hằng ngày, cha dạy học, mẹ lo việc đồng áng, các anh em trong gia đình ngoài lao động giúp đỡ gia đình đều phải chú tâm học hành. Tuổi thơ
anh luôn được nghe mẹ kể mỗi lần thực dân Pháp kéo tới, bà ngoại đặt các con ở hai đầu quang gánh chạy khỏi làng. Tuy năm tháng theo học chữ Nho không
24 VÕ NGUYÊN GIÁP - TIỂU SỬ
nhiều, nhưng những đạo lý học được trong các sách thánh hiền như: Tam tự kinh, Ấu học tân thư... đã trở thành nền tảng cơ bản có ảnh hưởng sâu sắc trong cả cuộc đời Võ Nguyên Giáp.
Võ Nguyên Giáp từ nhỏ đã nổi tiếng thông minh. Sau khi đỗ sơ học yếu lược, Võ Nguyên Giáp chỉ học một năm lớp nhì, bỏ năm lớp nhì thứ hai, lên thẳng lớp nhất. Những câu chuyện ghi lại về thời trẻ đã cho thấy Giáp là một cậu bé hiếu động và sáng dạ. Ấn tượng về Võ Nguyên Giáp trong những người cùng thời là hình ảnh một người bạn thường làm chủ trong mọi trò chơi và luôn tìm cách giữ sự hưng phấn của những trò chơi bằng những thay đổi để chống sự nhàm chán. Trong bối cảnh của một vùng quê nghèo, Võ Nguyên Giáp nổi lên như một hiện tượng đặc biệt của giới trẻ.
Được cha dạy học chữ cùng với em trai từ nhỏ, Võ Nguyên Giáp luôn nhớ mãi lời dạy của thầy: Phải cố mà học lấy chữ thánh hiền, phải đội sách lên đầu, tôn thờ sự học để nên người. Qua lời kể của các bậc cha chú, Võ Nguyên Giáp đã noi các gương có chí học hành của các bậc anh tài, kế thừa và phát huy truyền thống hiếu học của dòng họ. Truyền thống dòng họ đã có ảnh hưởng rất lớn đến sự nghiệp học hành và ý chí tiến thủ, nhận thức chính trị của anh. Trước bàn ngồi học ở nhà trọ và các lớp học, Giáp luôn dán dòng chữ trước mặt: Quyết chí học hành! Võ Nguyên Giáp đi học ở trường tổng Tuy Lộc
Chương I: QUÊ HƯƠNG - GIA ĐÌNH - TUỔI TRẺ... 25
(lớp Đồng ấu) lên học trường huyện ở Cổ Liễu (lớp 3), rồi đến trường tỉnh ở Đồng Hới, anh luôn học giỏi, đứng đầu các lớp học và kỳ thi tốt nghiệp bậc sơ học đỗ đầu tỉnh Quảng Bình. Hồi ký của ông Bùi Xuân Các, bạn học với Võ Nguyên Giáp có đoạn: Từ nhỏ, anh Giáp đối với chúng tôi có một uy tín rất lớn - chúng tôi ở đây là hầu hết thanh niên có ít nhiều học thức trong huyện. Nhiều người lớn tuổi nói đến anh Giáp cũng tỏ vẻ hết sức nể nang, kính trọng. Trước hết là vì anh nổi tiếng về trí thông minh, xuất chúng học giỏi. Anh luôn đứng vị trí đầu bảng ở tất cả các lớp anh học và khoảng cách giữa anh và người thứ hai là không nhỏ. Các thầy giáo dạy anh cũng kiêng nể...1.
Khi Võ Nguyên Giáp thi đỗ vào Trường Quốc học Huế, hoàn cảnh gia đình hết sức khó khăn, việc lo cho con đi học xa nhà là gánh nặng của một gia đình nhà Nho nghèo làm ruộng, đông con như ông bà Võ Quang Nghiêm, Nguyễn Thị Kiên. Biết được hoàn cảnh đó, khi nghe tin Võ Nguyên Giáp thi đỗ, bà con, anh em trong họ đã đến chúc mừng, động viên san sẻ, hứa sẽ
giúp đỡ gia đình khi gặp khó khăn để Võ Nguyên Giáp yên tâm học hành. Ông Võ Tứ Hạ, trưởng họ Võ làng An Xá nói với gia đình bà con và Võ Nguyên Giáp: “Anh khó nhưng họ anh đông...”. Các chú, các bác như:
______________
1. Xem Bùi Xuân Các: Anh Võ Nguyên Giáp, Hồi ký bản gốc viết tay năm 1993, tr.17.
26 VÕ NGUYÊN GIÁP - TIỂU SỬ
Võ Tử Phú, Võ Tử Quý, Võ Trọng Hách... ai ai cũng đều nhất trí đến mùa chúng tôi sẽ mang thóc gạo đến giúp... mọi người đều nhất trí và động viên Võ Nguyên Giáp “học là trên hết!”. Tình cảm dòng họ, những lời phát biểu mộc mạc nhưng đầy tình cảm đó đã truyền thêm sức mạnh cho Võ Nguyên Giáp yên tâm lên đường và quyết tâm, tích cực học hành để không phụ lòng tốt của mọi người dành cho mình.
Sinh ra và lớn lên trên quê hương có nhiều truyền thống quý báu, nên ngay từ nhỏ, Võ Nguyên Giáp đã được tắm mình trong môi trường thuận lợi để sớm hình thành chí khí, bản lĩnh vượt qua những khó khăn, thử thách của cuộc sống. Ngay từ nhỏ, Võ Nguyên Giáp đã được giáo dục, rèn luyện về đức hạnh qua tấm gương và những lời giáo huấn của cha, qua câu chuyện kể của mẹ1. Đó là truyền thống lao động cần cù, yêu nước và đánh đuổi ngoại xâm, truyền thống khoa bảng và văn hóa của dòng họ Võ (Vũ) ở làng An Xá
______________
1. Hằng đêm, mẹ thường kể chuyện, đọc các bài thơ và những câu chuyện nổi tiếng bằng văn vần của Việt Nam cho anh em Võ Nguyên Giáp nghe. Tuy còn nhỏ, nhưng những câu chuyện đêm đêm mẹ kể cho Võ Nguyên Giáp nghe về tướng Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương, kêu gọi các sĩ phu và nhân dân đứng lên chống thực dân Pháp, bảo vệ non sông và những câu chuyện của cha về phong trào đánh Pháp qua bài vè Thất thủ kinh đô đầy cảm động đã gieo vào lòng Võ Nguyên Giáp những âm hưởng không bao giờ phai mờ.
Chương I: QUÊ HƯƠNG - GIA ĐÌNH - TUỔI TRẺ... 27
(xã Lộc Thủy) và dòng họ Nguyễn ở xã Sơn Thủy (Lệ Thủy). Tuổi thơ của Võ Nguyên Giáp không chỉ được nuôi dưỡng từ tình yêu thương, sự khoan dung độ lượng của người mẹ, từ tính cương trực, nghiêm khắc của người cha, từ sự vất vả, khó khăn của gia đình, của những người dân mất nước. Võ Nguyên Giáp đã sớm tiếp thu và hình thành tinh thần cách mạng từ bé. Cùng với đó, cái đói, cái khát, cái bần hàn, đau thương, tủi nhục của người dân mất nước mà hằng ngày Võ Nguyên Giáp chứng kiến đã tác động vào người thanh niên yêu nước. Các yếu tố làm nên một nhân cách lớn trong con người Võ Nguyên Giáp, đó là: tư chất thông minh thiên bẩm cùng với tính hiếu học và khả năng tự học, tính khiêm nhường và thái độ kính trọng tổ tiên; truyền thống tốt đẹp của quê hương, gia đình, dòng họ; luôn có tinh thần trách nhiệm với gia đình và xã hội.
Sinh ra và lớn lên trên vùng địa linh nhân kiệt, mảnh đất giàu truyền thống cách mạng và anh hùng, Võ Nguyên Giáp đã được thấm nhuần tinh thần yêu nước sục sôi, thấm đẫm nghĩa khí anh hùng xả thân vì nước của các bậc tiền bối và đông đảo nhân dân huyện Lệ Thủy trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, như
lời tâm sự của Đại tướng trong một lần về thăm quê hương: “Quê hương và gia đình đã hun đúc nên nhân cách của tôi, quyết định con đường đi của tôi”.
28 VÕ NGUYÊN GIÁP - TIỂU SỬ
2. Tuổi trẻ
Những năm 1920, hai anh em Võ Nguyên Giáp và Võ Thuần Nho được cụ thân sinh cho vào học ở Trường Tiểu học Đồng Hới, là ngôi trường duy nhất của tỉnh Quảng Bình sau 30 năm thực dân Pháp đặt ách thống trị lên mảnh đất này. Ở môi trường mới, Võ Nguyên Giáp được học chương trình tiểu học, được tiếp xúc với nhiều bạn mới, hầu hết là con em gia đình khá giả. Tuy vậy, Võ Nguyên Giáp luôn giữ nếp sống thanh bạch, giản dị, chăm chỉ học hành, thường xuyên đứng đầu lớp, được thầy bạn quý mến.
Mùa hè năm 1925, Võ Nguyên Giáp được cha đưa vào Kinh đô Huế để ôn thi vào Trường Quốc học Huế - một trường trung học lớn nhất của miền Trung lúc bấy giờ. Nhờ có ý chí và nghị lực, Võ Nguyên Giáp đã thi đỗ vào trường1. Đây là tin vui lớn của bản thân, gia đình và bạn bè. Chia tay gia đình, họ hàng, bạn bè, Võ Nguyên Giáp vào nhập học ở lớp Đệ nhất niên A vào tháng 9-1925. Là một trong những trung tâm lớn của cả nước, Kinh đô Huế ______________
1. Trường Quốc học Huế thành lập năm 1896, là ngôi trường trung học nổi tiếng của Cố đô Huế. Có rất nhiều tên tuổi nổi tiếng từng là cựu học sinh của trường, trên lĩnh vực chính trị có Nguyễn Sinh Cung (Hồ Chí Minh), Hà Huy Tập, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Diểu...; trên lĩnh vực khoa học có Nguyễn Thúc Hào, Tạ Quang Bửu, Nguyễn Khánh Toàn, Đặng Thai Mai, Đào Duy Anh, Nguyễn Lân, Tôn Thất Tùng...; về văn hóa - nghệ thuật có Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Tố Hữu, Trần Hoàn, Nguyễn Văn Thương...
Chương I: QUÊ HƯƠNG - GIA ĐÌNH - TUỔI TRẺ... 29
thu hút nhiều tầng lớp xã hội khác nhau. Bên cạnh bộ máy phong kiến Nam triều đã mất thực quyền là hệ thống cai trị của thực dân Pháp từ Tòa Khâm sứ Trung Kỳ, Sở Mật thám Trung Kỳ đến Tòa Công sứ Thừa Thiên và nhiều cơ quan thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Vì thế, so với các tỉnh, thành trong cả nước, thành phần cư dân ở Huế đa dạng và phức tạp hơn, bên cạnh tầng lớp địa chủ, tư sản, nông dân, công nhân, thợ thủ công là đông đảo cộng đồng người Pháp, tầng lớp quan lại người
Việt, hoàng tộc nhà Nguyễn và tầng lớp tiểu tư sản. Đây là một môi trường học tập, giao tiếp rộng mở đối với tương lai của Võ Nguyên Giáp và khép lại tuổi thơ đầy kỷ niệm gắn bó với quê hương. Ngay từ những ngày đầu, Giáp đã có người bạn tin cậy và thân thiết là Nguyễn Chí Diểu, được sự giác ngộ của nhà cách mạng Nguyễn Chí Diểu, anh lấy tôn chỉ mục tiêu cách mạng làm chí hướng của cuộc đời. Nhờ học tập vươn lên đầu lớp và có bạn tốt nên anh được tiếp xúc với một số thầy giáo có xu hướng tiến bộ và có điều kiện tìm hiểu tin tức sách báo như các tờ An Nam, Chuông rè (phát hành tại Sài Gòn), đã đăng nhiều tin công kích chính quyền thực dân bảo hộ. Võ Nguyên Giáp luôn chăm chú theo dõi các hoạt động của những người yêu nước.
Võ Nguyên Giáp chăm chỉ học hành và trở thành một học sinh xuất sắc của Trường Quốc học. Tuy chưa đến tuổi trưởng thành, nhưng vốn là người kín đáo, nên những trải nghiệm nhiều chiều, chứa đựng những
30 VÕ NGUYÊN GIÁP - TIỂU SỬ
nghịch cảnh trong xã hội đương thời cùng với sự giác ngộ của Nguyễn Chí Diểu, bạn bè và một số sách báo tiến bộ đã thôi thúc Võ Nguyên Giáp tự nguyện dấn thân vào những hoạt động yêu nước sau này.
Trở thành học sinh Trường Quốc học Huế, được sự giác ngộ của Nguyễn Chí Diểu và lấy mục tiêu cách mạng làm chí hướng của cuộc đời, là những sự kiện bước ngoặt có tính quyết định trong sự nghiệp chính trị trở thành một vị tướng lừng danh sau này của Võ Nguyên Giáp. Ở Huế, trực tiếp chứng kiến cảnh cơ cực của công nhân Nhà máy vôi Long Thọ, Võ Giáp1 đã nhanh chóng nhập cuộc, cùng với thanh niên, học sinh và nhân dân Huế đấu tranh chống áp bức, nô dịch. Nếu như trước đó, anh nhìn thấy cái nghèo đói của người nông dân một nắng hai sương ở quê nhà, thì nay, anh lại trực tiếp chứng kiến cảnh nghèo đói cơ cực của những người thợ bị bóc lột đến thậm tệ. Cái nghèo khổ của công nhân hằng ngày hiện ra trước mắt anh một cách rõ ràng. Ở trường, các loại sách báo tiến bộ, tuyên truyền cách mạng, đặc biệt là tờ Le Paria (Người cùng khổ) do Nguyễn Ái Quốc sáng lập, được các thầy của trường bí mật và trân trọng mang về, một số học sinh ở Huế bí mật chuyền tay nhau đọc.
Sự kiện mở đầu cho những hoạt động đấu tranh của Võ Nguyên Giáp tại Huế là đòi thực dân Pháp ân xá cho ______________
1. Tên gọi của Võ Nguyên Giáp khi học ở Trường Quốc học Huế.
Chương I: QUÊ HƯƠNG - GIA ĐÌNH - TUỔI TRẺ... 31
cụ Phan Bội Châu. Hơn 20 năm bôn ba cứu nước, ngày 30-6-1925, nhà ái quốc Phan Bội Châu trên đường từ Hàng Châu về Quảng Đông (Trung Quốc) để họp các đồng chí, nhằm cải tổ Việt Nam Quốc dân Đảng, đã bị mật thám Pháp bắt cóc tại ga Bắc Thượng Hải, bí mật đưa về nước giam tại nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội. Lúc đầu bọn thực dân âm mưu bí mật thủ tiêu cụ Phan Bội Châu, bởi uy tín và ảnh hưởng của cụ rất lớn, đặc biệt là đối với tầng lớp thanh niên. Song khi tin tức lộ ra, một phong trào đấu tranh đòi thả cụ Phan Bội Châu nổ ra ở nhiều nơi trong và ngoài nước, bắt đầu ở Hà Nội, rồi nhanh chóng lan rộng trong cả nước, đặc biệt là các trường học, nơi tập trung nhiều học sinh, thanh niên. Tại Hà Nội, phái đoàn phụ nữ đã chặn xe của toàn quyền Pháp để đưa yêu sách đòi thả cụ Phan Bội Châu. Phong trào dâng cao khi Hội đồng Đề hình mở phiên tòa xét xử cụ (ngày 23-11-1925) với mức án khổ sai chung thân. Đây là một phong trào rộng lớn của nhiều tầng lớp xã hội, đặc biệt là thanh niên, học sinh, sinh viên trong các trường học tham gia. Võ Giáp lúc này đang học lớp Đệ nhất niên A của Trường Quốc học Huế trong năm học 1925 - 1926, đã cùng với Nguyễn Chí Diểu, Nguyễn Khoa Văn và một số bạn học đi vận động
lấy chữ ký vào đơn gửi Toàn quyền Varenne. Do sự đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân cả nước, Toàn quyền Varenne buộc phải ân xá cho cụ Phan Bội Châu và đưa cụ về giam lỏng ở Huế từ tháng 12-1925
32 VÕ NGUYÊN GIÁP - TIỂU SỬ
với ý đồ hạn chế ảnh hưởng của cụ đối với phong trào cách mạng. Song, ý đồ đó của Pháp đã không thực hiện được, trong 15 năm cuối đời ở Huế, từ ngôi nhà lá 3 gian ở dốc Bến Ngự, ông già Bến Ngự (tên gọi của cụ lúc bấy giờ) vẫn tìm cách hoạt động thích hợp với hoàn cảnh để
tiếp tục cống hiến cho dân, cho nước.
Cùng với nhiều thanh niên, học sinh yêu nước, Võ Giáp hay đến nhà cụ Phan để nghe nói chuyện tình hình thế giới và trong nước. Khi đó, cụ Phan mới bị đưa từ Hà Nội về Huế. Có khi Võ Giáp cùng các bạn của mình ngồi hàng buổi ở nhà cụ để nghe cụ nói chuyện. Chắc rằng trong nhiều lần được nghe cụ Phan nói chuyện, nhất là cuộc nói chuyện ngày 17-3-1926 của cụ tại Trường Quốc học Huế, Võ Giáp và nhiều thanh niên, học sinh khác đã sôi sục bầu nhiệt huyết, sẵn sàng “xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ” như lời cụ Phan trong Bài ca chúc tết thanh niên (năm 1926).
Một sự kiện chính trị khác có ảnh hưởng lớn đến phong trào cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ, đó là vào ngày 24-3-1926, Phan Chu Trinh tạ thế tại Sài Gòn. Một phong trào để tang, tổ chức lễ truy điệu nhà ái quốc Phan Chu Trinh lan rộng khắp cả nước do nhân dân tự
tổ chức, bất chấp sự ngăn cản của nhà cầm quyền. Ở Huế, nhiều cuộc truy điệu đã được tổ chức trong thành phố, thu hút sự tham gia đông đảo của công chúng. Học sinh Trường Quốc học muốn tổ chức lễ truy điệu nhưng nhà trường cấm và không cho học sinh đeo
Chương I: QUÊ HƯƠNG - GIA ĐÌNH - TUỔI TRẺ... 33
băng tang trong lớp. Lễ truy điệu được tổ chức tại nhà trọ của anh Giáp, lúc này đã dời đến một ngôi nhà trên dốc Bến Ngự, nơi có nhiều học sinh Trường Quốc học ngoại trú, giữa nhà đặt bàn thờ. Anh Giáp và các bạn đã xoay mượn đủ lư đồng, giá nến. Bạn học đến dự lễ
chật nhà, ai nấy đều đeo băng tang. Trong hương khói nghi ngút, những người dự lễ nghe đọc bài văn tế và tuyên thệ trước hương hồn nhà yêu nước. Những hoạt động của học sinh Trường Quốc học, Đồng Khánh và các trường khác cùng đông đảo nhân dân tham gia lễ truy điệu cụ Phan Chu Trinh đã náo động Kinh thành Huế.
Về phía thực dân Pháp và chính quyền tay sai, dưới sự chỉ đạo của Chánh mật thám Trung Kỳ Léon Sogny, Hiệu trưởng và Tổng giám thị Trường Quốc học Bourotte và Harter càng theo dõi gắt gao hơn những học sinh yêu nước đã bị ghi vào sổ đen vì hăng hái tham gia phong trào đòi ân xá cụ Phan Bội Châu và để tang cụ Phan Chu Trinh, tìm cách chặn đứng những cuộc đấu tranh mới của thanh niên, học sinh Huế. Trong hai năm học liền ở lớp Đệ nhất niên A (1925 - 1926) và Đệ nhị niên A (1926 - 1927), Võ Giáp luôn đứng đầu lớp, tháng nào cũng có tên hàng đầu trong bảng danh dự, chỉ có một tháng đứng nhì. Tuy thế, Võ Giáp và một số bạn học, nhất là đối với Nguyễn Chí Diểu cùng lớp vẫn là những đối tượng mà nhà cầm quyền thực dân đặc biệt theo dõi, tìm mọi cách để loại khỏi trường học.
34 VÕ NGUYÊN GIÁP - TIỂU SỬ
Ngày 26-4-1927, viên giám thị người Pháp vu cho Nguyễn Chí Diểu chép bài, vi phạm kỷ luật thi nên bị đuổi học. Võ Nguyên Giáp bàn với Nguyễn Khoa Văn phát động bãi khóa trong học sinh toàn trường1. ______________
1. Trong cuốn Đại tướng Võ Nguyên Giáp thời trẻ, Trung tướng Phạm Hồng Cư cho biết cụ thể hơn về sự kiện này: “Hôm ấy thi toán, anh Giáp ngồi bàn trước, anh Diểu ngồi bàn sau, anh Diểu là học sinh giỏi và là người có tư cách, không bao giờ gian dối, nhưng giám thị coi thi một mực vu cho anh Diểu chép bài và đuổi anh ra khỏi lớp. Cả lớp la ó, phản đối nhưng anh Diểu vẫn bị đuổi ra. Học sinh lớp Đệ nhị niên A thảo một lá đơn. Anh Giáp dẫn đầu đoàn học sinh lên gặp Tổng giám thị. Tin học sinh Nguyễn Chí Diểu vô cớ bị
đuổi và Tổng giám thị Harter bác đơn lan truyền rất nhanh, học sinh toàn trường căm phẫn, đòi phải đấu tranh, chống lại hành động đàn áp phi lý của nhà trường. Giáp bàn với Nguyễn Khoa Văn phát động bãi khóa với khẩu hiệu:
- Không được đuổi học sinh Nguyễn Chí Diểu!
- Tự do sách báo!
- Chống giáo dục ngu dân!
Hai người đi vận động các bạn học cùng chí hướng.
Buổi chiều 26-4-1927, 14 giờ, học sinh vừa xếp hàng xong dưới mái nhà chơi lúc giám thị huýt còi vào lớp, thì học sinh lớp Đệ nhị niên A xếp hàng ở giữa không vào lớp. Cậu học sinh bé nhỏ Võ Giáp bước ra khỏi hàng hô lớn: “Bỏ học! Bỏ học! Phản đối việc đuổi Nguyễn Chí Diểu! Phản đối việc đàn áp học sinh!”. Lời hô hào của anh Giáp được hưởng ứng. Học sinh lớp Đệ nhị niên A kéo về phía cổng trường, vừa đi vừa hô khẩu hiệu. Sân trường ồn ào hỗn loạn. Khối Đệ tam, Đệ tứ gồm những học sinh lớn của trường đang di chuyển cũng dừng lại, rồi kéo theo ra cổng trường trước con mắt kinh ngạc của các giám thị. Cuộc bãi khóa bắt đầu”.
Chương I: QUÊ HƯƠNG - GIA ĐÌNH - TUỔI TRẺ... 35
Ngày hôm sau (27-4-1927), khi học sinh Trường Quốc học cử đại diện đến các trường học ở Huế để vận động bãi khóa thì bị cảnh sát ngăn cản. Cảnh xô xát đã xảy ra giữa học sinh và cảnh sát. Một số học sinh bị
bắt giam. Chiều cùng ngày, đông đảo học sinh Huế đến Tòa Khâm sứ Pháp đưa đơn lên Khâm sứ Friès yêu cầu can thiệp, không được đuổi học và bắt bớ học sinh. Khi Văn phòng Tòa Khâm sứ ra nhận đơn và khuyên học sinh trở về học tập thì Khâm sứ Friès gọi lính và xe vòi rồng đến đàn áp. Xung đột đã xảy ra giữa cảnh sát và học sinh tại chân cầu Trường Tiền. Thêm một số học sinh bị bắt. Cuộc đàn áp chiều 27-4-1927 của Tòa Khâm sứ như đổ dầu vào lửa. Trong mấy ngày liền, học sinh kéo nhau đi dọc các phố hô khẩu hiệu. Kinh đô Huế náo động. Cuộc bãi khóa của học sinh Huế khởi đầu từ Trường Quốc học, Đồng Khánh đã lan rộng thành tổng bãi khóa. Đây là một trong những cuộc tổng bãi khóa lớn thời bấy giờ. Lần đầu tiên, Võ Giáp được trực tiếp chứng kiến sức mạnh tổng hợp của học sinh, sinh viên và các tầng lớp nhân dân. Sức mạnh, ý chí và khí thế cách mạng của quần chúng nhân dân một lần nữa thức tỉnh và thôi thúc trái tim đầy nhiệt huyết của anh.
Sau cuộc bãi khóa, chính quyền thực dân đe dọa, tất cả học sinh tham gia bãi khóa đều bị đuổi khỏi
36 VÕ NGUYÊN GIÁP - TIỂU SỬ
trường. Hàng chục học sinh thuộc các trường học Huế bị nhà cầm quyền đuổi học, trong đó Trường Quốc học là 37 nam sinh, đầu bảng là Nguyễn Chí Diểu, Võ Giáp, Nguyễn Khoa Văn... Trường Đồng Khánh là 10 nữ sinh.
Nhân sự kiện này, Võ Giáp đã viết bài báo đầu tiên của đời mình bằng tiếng Pháp có tên “À bas le tyranneau du Quoc hoc” (Đả đảo tên tiểu bạo chúa Trường Quốc học). Bài báo tố cáo nền giáo dục ngu dân và quy chế cấm đọc sách báo yêu nước. Bài được đăng trên tờ L’Annam của luật sư Phan Văn Trường, xuất bản tại Sài Gòn, một tờ báo tiến bộ thời ấy dám công khai đả kích thực dân Pháp. Bài báo có tiếng vang ở Huế, Sài Gòn.
Bị buộc rời khỏi Trường Quốc học Huế, Võ Nguyên Giáp trở về Quảng Bình, tích cực tham gia xây dựng, phát triển cơ sở cách mạng ở quê hương. Thời gian học tập ở Huế, anh đã trực tiếp chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của sách báo tiến bộ, ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga và tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, nên khi về Quảng Bình, Võ Nguyên Giáp trở
thành một trong những hạt nhân tích cực trong nhóm thanh niên, học sinh tiến bộ ở Lệ Thủy. Tại huyện Lệ Thủy, Võ Nguyên Giáp gặp một số thanh niên làng An Xá như Đào Viết Doãn, Võ Hoàng, Võ Chương Hiến,
Chương I: QUÊ HƯƠNG - GIA ĐÌNH - TUỔI TRẺ... 37
Hoàng Hưu và em ruột là Võ Thuần Nho tuyên truyền giác ngộ cách mạng bằng lời lẽ giản dị, thân mật mà những năm tháng ở Trường Quốc học Huế, các thầy giáo Việt tâm huyết với quê hương, đất nước như Cao Xuân Huy, Võ Liêm Sơn đã truyền thụ và khơi gợi cho anh.
Cùng với các cuốn sách tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, một số sách báo tiến bộ, tài liệu về cách mạng như báo Người cùng khổ, Việt Nam hồn được thanh niên, học sinh tìm đọc. Tiêu biểu cho tinh thần đó là nhóm đọc báo tiến bộ đầu tiên ở làng An Xá, trong đó nổi lên là Võ Nguyên Giáp. Thời kỳ này, nhóm đọc sách tiến bộ ở làng An Xá có nhiều tài liệu, tin tức phong phú, các bài văn thơ yêu nước của cụ Phan Bội Châu, một số sách báo tiến bộ, tài liệu về cách mạng như báo Việt Nam hồn do Võ Nguyên Giáp mang từ Huế ra, đã gây ảnh hưởng rộng ra các vùng ở địa phương như: An Xá, Thạch Bàn, Phú Thọ. Sau đó, đồng chí Nguyễn Hữu Chuyên, một cán bộ của Kỳ bộ Trung Kỳ về quê ở Thạch Bàn nghỉ chữa bệnh, một số thanh niên tiến bộ đã tìm đến trao đổi tiếp cận. Qua nhiều lần gặp gỡ, dần dần tập hợp được một số anh em có chung chí hướng, hình thành nên tổ chức cách mạng dưới hình thức là nhóm đọc sách báo. Hoạt động của cơ sở cách mạng này chủ yếu là tuyên truyền yêu nước, viết
38 VÕ NGUYÊN GIÁP - TIỂU SỬ
truyền đơn lên án tội ác của đế quốc, phong kiến và vận động quần chúng đấu tranh chống lại áp bức, bóc lột ở các địa phương trong huyện.
Một thời gian sau, khoảng cuối năm 1927, Nguyễn Chí Diểu đạp xe từ Huế ra quê tìm Võ Nguyên Giáp. Lúc này, Nguyễn Chí Diểu là Ủy viên Kỳ bộ Trung Kỳ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên1. Sau khi bàn bạc, trao đổi, đồng chí Nguyễn Chí Diểu đã tuyên bố kết nạp Võ Nguyên Giáp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Sau đó Nguyễn Chí Diểu đã đưa cho anh tập tài liệu. Đó là một cuốn sách về chủ nghĩa cộng sản bằng tiếng Pháp, một tập tài liệu của Liên đoàn các dân tộc bị áp bức trên thế giới và một số văn bản về cuộc họp ở Quảng Châu, đặc biệt trong đó có bài nói chuyện của Nguyễn Ái Quốc. Võ Nguyên Giáp đem tập tài liệu ra cánh đồng vắng, trèo lên cây, ngồi đọc: “Lần đầu tiên tôi được đọc một tập tài liệu có hệ thống về chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa quốc tế. Có thể nói là tư tưởng
______________
1. Tiền thân là Hội Phục Việt - một tổ chức yêu nước ra đời ngày 14-7-1925, ở thành phố Vinh (Nghệ An). Hội Phục Việt sau đó đổi tên thành Hội Hưng Nam (đầu năm 1926); Việt Nam Cách mạng Đảng (tháng 11-1926); Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (tháng 7-1927); Tân Việt Cách mạng Đảng (tháng 7-1928); Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (cuối tháng 12-1929).
Chương I: QUÊ HƯƠNG - GIA ĐÌNH - TUỔI TRẺ... 39
của chủ nghĩa cộng sản đã được cắt nghĩa lần lần qua từng trang sách”1.
Sau khi trở thành đảng viên Đảng Tân Việt, có điều kiện được đọc và tiếp thu những quan điểm trong tác phẩm Đường cách mệnh - tập bài giảng của chương trình huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, Võ Nguyên Giáp đã nhận thức rõ nhiều vấn đề lý luận quan trọng như: vì sao chúng ta phải làm cách mạng và phương pháp tiến hành cách mạng; cách mạng là phải bỏ cái cũ, lập ra cái mới, phá bỏ cái xấu, lập ra cái tốt; cách mạng là một giai đoạn phát triển hợp với quy luật xã hội. Mục đích của cuộc cách mạng xã hội mà Nguyễn Ái Quốc nêu trong tác phẩm Đường cách mệnh là thủ tiêu hoàn toàn mọi hình thức áp bức xã hội, mọi tình trạng người bóc lột người, tiến tới xây dựng một xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp cách mạng là lâu dài và gian khổ, cho nên người cách mạng phải hết sức kiên trì, sẵn sàng chịu đựng khó khăn, gian khổ, thậm chí là hy sinh. Đời này làm không xong đời kia phải tiếp tục làm. Một người làm không nổi thì phải đồng tâm hiệp lực nhiều người cùng làm. Nơi này làm không nổi cả nước phải dốc sức cùng làm. Sự nghiệp lớn lao này cần phải tiến hành
______________
1. Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012, tr.24.
40 VÕ NGUYÊN GIÁP - TIỂU SỬ
ngay, không nên chần chừ, do dự vì dân tộc mình đã phải chịu nhiều đau khổ và đến lúc phải vùng lên đấu tranh để giành quyền sống.
Đọc tác phẩm Đường cách mệnh, Võ Nguyên Giáp cũng lĩnh hội được yêu cầu của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về tư cách, đạo đức của người cách mạng, đó là tự mình phải cần, kiệm; cả quyết sửa lỗi mình; làm việc cẩn thận và nhẫn nại; chịu khó học hỏi; nghiên cứu xem xét; chí công vô tư; không hiếu danh, không kiêu ngạo; nói thì phải làm; giữ chủ nghĩa cho vững; ít lòng tham muốn về vật chất... Sinh ra trong thời buổi nước mất nhà tan, lớn lên trên vùng đất nổi tiếng trù phú với câu ca truyền đời “nhất Đồng Nai, nhì hai huyện”1, sống trong vựa lúa mà luôn phải chứng kiến cảnh nghèo đói của nhân dân, điều đó đã thôi thúc Võ Nguyên Giáp đi tìm căn nguyên của sự đói nghèo. Mang điều trăn trở ấy rời quê hương đến với Kinh thành Huế và ở nơi đây, Võ Nguyên Giáp tìm được một phần lời giải cho những điều suy nghĩ mà khi ở quê hương anh không thể lý giải được.
Do tổ chức phân công, mùa thu năm 1928, Võ Nguyên Giáp trở lại hoạt động ở Huế với nhiệm vụ
______________
1. Hai huyện là huyện Lệ Thủy và huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình (B.T).
Chương I: QUÊ HƯƠNG - GIA ĐÌNH - TUỔI TRẺ... 41
Ủy viên Tuyên huấn của Tân Việt Cách mạng Đảng. Thời gian sau, Nguyễn Chí Diểu giới thiệu Võ Nguyên Giáp đến làm việc tại Quan Hải tùng thư. Quan Hải tùng thư là nhà xuất bản của Tổng bộ Tân Việt do Đào Duy Anh1, Bí thư Tân Việt lập ra, đặt trụ sở ở
phố Đông Ba (thành phố Huế). Võ Nguyên Giáp được giao làm thư ký ngồi ở quầy bán sách, thực tế là tham gia sinh hoạt ở một tiểu tổ bí mật của Tân Việt. Các cộng tác viên chủ yếu là Phan Đăng Lưu, Ngô Đức Diễn... Quan Hải tùng thư cũng là trụ sở bí mật của Tổng bộ Đảng Tân Việt.
Ở Quan Hải tùng thư, Võ Nguyên Giáp được phân công làm thư ký và tham gia tiểu tổ bí mật của
______________
1. Đào Duy Anh là thầy giáo cũ của Võ Nguyên Giáp hồi ở Trường Tiểu học Đồng Hới, Quảng Bình, một người chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của cụ Phan Bội Châu. Cuối năm 1925, Đào Duy Anh đã gặp cụ Phan Bội Châu tại thị xã Đồng Hới, sau khi gặp gỡ, trao đổi, Đào Duy Anh đã quyết định chuyển sang làm báo để tuyên truyền cách mạng. Đào Duy Anh đã biên soạn, dịch và cho xuất bản các tập sách như: Lịch sử các học thuyết kinh tế (quyển thượng), Lịch sử nhân loại, Phụ nữ vận động, Tôn giáo là gì? Dân tộc là gì?... Phan Đăng Lưu dịch tập Xã hội luận và Lịch sử các học thuyết kinh tế (quyển hạ). Võ Liêm Sơn dịch hai tập Đông Tây văn hóa phê bình... Nhà xuất bản Quan Hải tùng thư lợi dụng khả năng hợp pháp để công khai ra mắt bạn đọc, tuyên truyền những tập sách có xu hướng tiến bộ này.
42 VÕ NGUYÊN GIÁP - TIỂU SỬ
Tân Việt do Đào Duy Anh làm tổ trưởng, có thêm Nguyễn Chí Diểu và Trần Thị Như Mân. Sau một thời gian sinh hoạt trong tiểu tổ, Võ Nguyên Giáp được Ban Thường vụ Tổng bộ Tân Việt giao hai nhiệm vụ “làm Ủy viên trung ương dự bị, phụ trách tuyên huấn và giao thông liên lạc”. Tổng bộ Tân Việt lúc đó gồm: Đào Duy Anh, Phan Đăng Lưu, Ngô Đức Diễn, Hoàng Đức Thi, Trần Ngọc Danh, Phan Kiêm Huy, Nguyễn Sĩ Sách. Đồng thời, Đào Duy Anh giới thiệu Võ Nguyên Giáp với cụ Huỳnh Thúc Kháng và được cụ đồng ý nhận anh Giáp làm biên tập viên báo Tiếng dân.
Thời gian tham gia Tân Việt, làm việc ở Quan Hải tùng thư và báo Tiếng dân đã thúc đẩy quá trình trưởng thành nhanh chóng về chính trị của người thanh niên yêu nước Võ Nguyên Giáp. Báo Tiếng dân là tờ báo lớn ở Trung Kỳ, có xu hướng tiến bộ do cụ Huỳnh Thúc Kháng, một chí sĩ yêu nước, bị đày ở Côn Đảo suốt 13 năm (1908 - 1921) sáng lập, ra mắt công chúng từ tháng 7-1927. Như có mối nhân duyên, Võ Nguyên Giáp đến với nghề báo từ năm 16 tuổi, khi còn học ở
Trường Quốc học. Trong thời gian làm việc ở Quan Hải tùng thư và báo Tiếng dân, Võ Nguyên Giáp đã đọc rất nhiều sách về chính trị, kinh tế - xã hội để nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích những vấn đề thời sự đang diễn ra trong nước và thế giới. Võ Nguyên Giáp làm quen và
Chương I: QUÊ HƯƠNG - GIA ĐÌNH - TUỔI TRẺ... 43
thể nghiệm các thể loại báo chí từ đưa tin, viết bài bình luận tình hình thế giới và trong chuyên mục thế giới thời đàm, đến viết phóng sự điều tra về các cuộc đấu tranh của thợ thuyền, như cuộc đình công của công nhân Nhà máy sợi Nam Định, cu li xe kéo Hà Nội, bãi công của công nhân Nhà máy xe lửa Trường Thi. Võ Nguyên Giáp còn viết nhiều bài báo tố cáo chế độ sưu cao, thuế nặng, cho vay nặng lãi, mua rẻ, bán đắt, cướp đoạt ruộng đất... mà anh đã quan sát ở quê hương An Xá (Lệ Thủy). Võ Nguyên Giáp ham thích nghiên cứu các vấn đề kinh tế, viết bài tố cáo sự bóc lột của tư bản thực dân đối với nhân dân lao động và chèn ép tư sản bản xứ. Có bài bị chế độ kiểm duyệt của chính quyền thực dân bắt xóa bỏ nhưng Võ Nguyên Giáp vẫn không lùi bước, tiếp tục đăng bài công khai trên báo Tiếng dân để chống lại chế độ thực dân Pháp xâm lược.
Võ Nguyên Giáp sớm ý thức được tầm quan trọng của công việc được phân công, anh không quản thiếu thốn về vật chất, phương tiện làm việc, khó khăn trong cuộc sống để hoàn thành nhiệm vụ. Là ủy viên dự bị
được giao nhiệm vụ làm công tác tuyên huấn và giao thông của Tân Việt Cách mạng Đảng, Võ Nguyên Giáp đã dựa vào sách ABC về chủ nghĩa cộng sản và một số cuốn sách của Lênin, Xtalin, Plêkhanốp để biên soạn,
44 VÕ NGUYÊN GIÁP - TIỂU SỬ
viết những bài báo dưới dạng phổ thông, tài liệu tuyên truyền trong mọi tầng lớp nhân dân về cách mạng, về chủ nghĩa cộng sản.
Được phân công vận động thanh niên, học sinh, Võ Nguyên Giáp đã liên lạc với Trần Hữu Duẫn, giảng viên trường Chaigneau nắm các tổ chức hội học sinh ở Quốc học, Đồng Khánh và các trường khác ở Huế. Võ Nguyên Giáp cũng được phân công cùng với Trần Thị
Như Mân làm công tác vận động phụ nữ. Võ Nguyên Giáp phụ trách tổ nữ của Đảng Tân Việt gồm có các chị Hải Đường, Trâm và Khảm (giáo viên ở An Hòa). Anh cũng được phân công vận động nông dân ở khu vực Truồi cùng các đảng viên Lê Bá Dị, Lê Đoan, Phượng...
Năm 1929, Nguyễn Thị Quang Thái vào Huế để thi vào trường Đồng Khánh, gặp Võ Nguyên Giáp trên chuyến tàu vào Huế này. Ở Huế 2 người cùng hoạt động trong Đảng Tân Việt.
Thời gian này, nhiều thành viên trong hai tổ chức Tân Việt và Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã có ý kiến và họp bàn thống nhất hai tổ chức nhưng không thành. Lúc này, Đào Duy Anh đọc trên tạp chí Cộng sản của Đảng Cộng sản Pháp nói về chính sách quốc gia của Đảng Cộng sản Pháp mới thảo ra chương trình thực hiện, muốn biến Tân Việt thành khối Liên hiệp quốc dân. Võ Nguyên Giáp cùng Nguyễn Chí Diểu,
Chương I: QUÊ HƯƠNG - GIA ĐÌNH - TUỔI TRẺ... 45
Đặng Thai Mai lập ra nhóm hạt nhân cộng sản lúc đầu lấy tên là Việt Nam Cộng sản Liên đoàn. Các đồng chí trong nhóm giao cho Võ Nguyên Giáp dựa vào Điều lệ Quốc tế Cộng sản để soạn thảo điều lệ của Cộng sản liên đoàn. Như vậy, trong Tổng bộ Tân Việt đã có sự phân hóa và có chiều hướng chuyển sang cộng sản. Võ Nguyên Giáp cùng với các đồng chí trong tổ chức đã tích cực tham gia cải tổ Tân Việt Cách mạng Đảng thành Đông Dương Cộng sản Liên đoàn.
Đầu năm 1929, với chức trách nhiệm vụ của mình, Võ Nguyên Giáp đã được Tổng bộ giao nhiệm vụ ra Vinh, Hà Nội và vào Sài Gòn để phổ biến đường lối của Khối liên hiệp quốc dân, nhưng là người của nhóm hạt nhân cộng sản, Võ Nguyên Giáp đã tranh thủ vận động các kỳ bộ Tân Việt chuyển sang hàng ngũ cộng sản. Đến Nghệ An bắt liên lạc với liên Tỉnh ủy Tân Việt Nghệ Tĩnh, Võ Nguyên Giáp trình bày ý kiến của một số đồng chí chủ trương lập nhóm hạt nhân cộng sản tiến tới cải tổ Tân Việt thành Đảng Cộng sản được các đồng chí trong Liên Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh ủng hộ. Ở Nghệ An, Võ Nguyên Giáp đến gặp Nguyễn Đình Đoàn (con cụ Nguyễn Đình Kiên, cựu chính trị phạm Côn Đảo) đang dạy học ở đó, cũng là đảng viên Tân Việt. Nghe Võ Nguyên Giáp trình bày, Nguyễn Đình Đoàn đồng tình ngay với Liên Tỉnh ủy.
46 VÕ NGUYÊN GIÁP - TIỂU SỬ
Xong công việc ở Vinh, Võ Nguyên Giáp lập tức ra Hà Nội. Anh tìm đến Trường Đại học Đông Dương để gặp Tôn Quang Phiệt và đưa anh đến gặp Nguyễn Văn Tạo - người phụ trách Kỳ bộ Bắc Kỳ của Tân Việt. Qua trao đổi với Võ Nguyên Giáp, anh Tạo đồng ý chuyển Tân Việt sang tổ chức cộng sản và đề nghị lấy tên là Tân Việt Cộng sản Đảng. Từ Hà Nội trở về Huế, Võ Nguyên Giáp nhận được báo cáo của Liên Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh: đã chuyển toàn bộ các tổ chức cơ
sở Tân Việt sang thành lập các chi bộ cộng sản. Đảng viên trên 400 người. Ngay sau đó, Võ Nguyên Giáp lập tức đi Sài Gòn để tiếp tục nhiệm vụ. Đến Sài Gòn, khi cơ quan Kỳ bộ của Tân Việt đang bị thực dân Pháp khám xét, đồng chí Đào Xuân Mai phụ trách Kỳ
bộ bị địch bắt. Do đó, theo góp ý của cụ Nguyễn Đình Kiên, Võ Nguyên Giáp đã gặp gỡ, bàn bạc và thông báo chủ trương của Tổng bộ cho Kỳ bộ Nam Kỳ qua Lê Phú Thành (con rể cụ Kiên là đảng viên của Tân Việt sinh hoạt trong Kỳ bộ Nam Kỳ).
Trở lại Huế, Võ Nguyên Giáp được biết Tổng bộ Tân Việt dự kiến triệu tập Đại hội vào tháng 7-1929 tại Huế, nhưng sau đó Đại hội không triệu tập được vì xảy ra cuộc khủng bố lớn của thực dân Pháp năm 1929 tiến công vào tất cả các chính đảng hồi đó (Thanh niên, Tân Việt và Việt Nam Quốc dân Đảng).
Chương I: QUÊ HƯƠNG - GIA ĐÌNH - TUỔI TRẺ... 47
Nhiều đảng viên trong Thanh niên và Tân Việt bị bắt. Cụ Giải Huân tự tử trong nhà tù. Tú Kiên, Trần Mộng Bạch, Phan Kiêm Huy cũng bị bắt. Quan Hải tùng thư bị khám xét. Đào Duy Anh bị bắt, sau đó Trần Thị Như Mân, người vợ chưa cưới của Đào Duy Anh cũng bị bắt vì cảnh sát tìm được tài liệu chị giấu dưới gối. Từ trong tù, Đào Duy Anh nhắn ra không khai báo cho ai cả.
Tối 28-12-1929, theo đề nghị của Kỳ bộ Nam Kỳ, một cuộc họp đại biểu 3 kỳ được triệu tập tại Ga chợ Thương (Đức Thọ), (Hà Tĩnh) để thống nhất tổ chức của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Sau đó các đại biểu được Nguyễn Xuân Thanh (Chắt Bảy) đón về nhà mình Hội nghị được tổ chức tại đây.
Võ Nguyên Giáp được triệu tập đi họp. Địa điểm liên lạc: ga Chợ Thượng. Ám hiệu liên lạc: đèn pin cắm chúc xuống đất. Nhưng Võ Nguyên Giáp không đi được vì mật thám lảng vảng công khai quanh nhà anh.
Hội nghị thành lập Đông Dương Cộng sản Liên đoàn đang tiếp tục thì phải chuyển nơi họp, vì sợ họp tại nhà Nguyễn Xuân Thanh quá trống trải dễ bị địch phát hiện. Trên đường di chuyển thì bị lộ, các đại biểu đều bị bắt tại bến đò Trai, huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh, ngày 01-01-1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam tại Hồng Kông (Trung Quốc) không có đại biểu Đông Dương Cộng sản Liên đoàn tham dự. Sau đó, ngày 24-2-1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam.
48 VÕ NGUYÊN GIÁP - TIỂU SỬ
Thời kỳ này, Võ Nguyên Giáp tiếp tục làm việc ở báo Tiếng dân, sinh hoạt trong Chi bộ Đảng Cộng sản báo Tiếng dân do Trần Công Xứng làm Bí thư. Đồng chí Lê Viết Lượng vào dạy ở Quốc học Huế, tham gia Tỉnh ủy. Sau khi ổn định công việc, Lê Viết Lượng tìm gặp Võ Nguyên Giáp trao đổi về công tác đảng. Võ Nguyên Giáp giới thiệu đầu mối ở Truồi và cơ sở ở Trường Đồng Khánh cho anh Lượng. Anh giữ liên lạc chặt chẽ với Trần Hữu Duẫn, giáo viên trường Chaigneau. Một hôm Trần Hữu Duẫn nói với Võ Nguyên Giáp đến gặp Nguyễn Phong Sắc là người được cử vào phụ trách Kỳ
bộ Trung Kỳ. Trong cuộc gặp đó, Võ Nguyên Giáp nhận từ Nguyễn Phong Sắc nhiệm vụ tiếp tục hoạt động trong báo Tiếng dân viết bài vở kín đáo, dễ hiểu để tuyên truyền chủ nghĩa Mác.
Khi em trai Võ Thuần Nho vào học Trường Quốc học Huế, hai anh em thuê một ngôi nhà sau lưng chùa Diệu Đế để ở. Trong cơ quan báo Tiếng dân của Huỳnh Thúc Kháng, Võ Nguyên Giáp được phân công vào nhóm biên dịch bài tiếng Việt sẽ được đăng trên báo sang tiếng Pháp để gửi cho Sở kiểm duyệt và viết bài cho báo Tiếng dân với hai bút danh: Hải Thanh (phân biệt với Hải Thanh của Nguyễn Hoàng của báo Nhành lúa, thời kỳ 1936 - 1939) và Vân Đình.
Lần theo hai bút danh này, ta tìm thấy 27 bài đăng tải trên 36 số báo. Bài báo đầu tiên ký tên Hải Thanh với tựa đề “Vũ trụ và tấn hóa”, đăng trên hai số báo: 218,
Chương I: QUÊ HƯƠNG - GIA ĐÌNH - TUỔI TRẺ... 49
ngày 28-9 và 222, ngày 5-10-1929. Đây là “một luận văn triết học ngắn thể hiện tư duy khoa học thiên tiến - chủ nghĩa duy vật biện chứng, một nhận thức về chính trị - xã hội, dùng bạo lực cách mạng để lật đổ chế độ tư
bản, đưa xã hội tiến hóa lên trình độ cao hơn theo quy luật tự nhiên”1. Bài thứ hai thuộc lĩnh vực triết học chính trị, ký bút danh Hải Thanh mang tựa đề “Nền học thuật bình dân” đăng trên ba số báo: 313, ngày 3-9-1930, 314, ngày 6-9-1930 và 317, ngày 17-9-1930. Trong đó, tác giả đã viết: “Xã hội nào học thuật ấy. Trái lại, học thuật lại có ảnh hưởng đến xã hội rất sâu xa, học thuật có đổi mới mà sau một xã hội mới mới có cơ
thành lập được; vì lẽ ấy học thuật có quan hệ đến vận mệnh một xã hội”. Theo Võ Nguyên Giáp, ngày nay học thuật mới là nền học thuyết bình dân và được anh định nghĩa: Học thuật bình dân là học thuật của số đông do những nhà tư tưởng làm đại biểu cho tầng lớp bình dân xây nền đắp móng.
Nếu như hai bài trên thuộc loại triết học chính trị, thì bài “Những sự nhu yếu của loài người ký” bút danh Hải Thanh thuộc loại triết học gắn với kinh tế, đăng trên ba số báo: 319, ngày 24-9-1930, 322, ngày 4-10-
1930 và 324, ngày 11-10-1930. Qua các bài này, tác giả làm rõ mối quan hệ mật thiết giữa nhu yếu của đời sống
______________
1. Nguyễn Thành: Hoạt động báo chí của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Nxb. Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2005, tr.20.
50 VÕ NGUYÊN GIÁP - TIỂU SỬ
con người và sự tiến hóa của xã hội, đồng thời đặt ra vấn đề cải tạo quan hệ hiện thời, thúc đẩy sản xuất phát triển mới làm cho loài người hạnh phúc.
Trên báo Tiếng dân có mục Thế giới thời đàm, Võ Nguyên Giáp viết bài cho mục này với bút danh Vân Đình và sau đó trở thành người phụ trách mục này, từ tháng 2 đến tháng 10-1930. Võ Nguyên Giáp viết 3 bài bình luận về các sự kiện lớn của thế giới:
- “Sự nghiệp của Quốc tế liên minh” (Hội Quốc liên), số 262, ngày 8-3-1930, nhân kỷ niệm 10 năm ngày thành lập.
- “Nhân bản hải quân hiệp ước mới ký ở Luân Đôn. Cái họa chiến tranh bao giờ mới hết”, số 280, ngày 10-5-1930.
- “Câu chuyện châu Âu liên bang”, số 287, ngày 4-6-1930.
Trong chuyên mục này, Võ Nguyên Giáp viết nhiều nhất về Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch, gồm 9 bài chuyên luận và 3 bài có liên quan. Tác giả thông qua những bài báo đó, bình luận về những cuộc hỗn chiến liên miên giữa các tập đoàn quân phiệt Tưởng Giới Thạch, Phùng Ngọc Tường, Diêm Tích Sơn và đã đưa ra một nhận xét thú vị: “Tưởng là một người cừu địch của dân chúng Tàu, Tưởng cứ đứng vững cũng không đáng lo. Diêm có đánh đổ Tưởng cũng không đáng mừng. Quyền lợi của dân chúng, chỉ
Chương I: QUÊ HƯƠNG - GIA ĐÌNH - TUỔI TRẺ... 51
dân chúng mới đòi lại được. Sự đáng mừng hay đáng lo là ở nơi trình độ giác ngộ của dân chúng”1. Và một bài có liên quan tới Mỹ với tựa đề “Thế giới chính sách, nước Mỹ”. Trong bài này, Vân Đình nói tới hiện tượng các nước lớn trên thế giới không nước nào không đề ra chính sách thế giới (chiến lược toàn cầu). Mỹ có thế giới chính sách riêng. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ Kellogg xướng lên thuyết phi chiến, nhưng lại tuyên bố phạm vi quyền lợi của Mỹ ở cả Bắc Mỹ cho đến tận Trung Mỹ.
Trong chuyên mục kinh tế, Võ Nguyên Giáp viết 3 bài về kinh tế Việt Nam thời thuộc Pháp được đăng trên 7 số:
- “Hiện tình kinh tế nước ta”, đã đăng trên 2 số 274, 276, phần cuối định in tiếp ở số 277, ngày 3-5- 1930, nhưng bị Sở kiểm duyệt bỏ hoàn toàn. Trên báo ra ngày hôm đó, Huỳnh Thúc Kháng cho bỏ trống khổ báo đó để độc giả biết.
- “Nghiệp làm nông ở Việt Nam”, đăng trên 4 số (số 282, 283, 286, và 289). Xuất phát từ tình hình kinh tế nông nghiệp, tác giả đã đi sâu phân tích sự phân hóa các giai tầng xã hội trong nông thôn Việt Nam theo nhận thức rất hiện đại và vạch rõ sự bóc lột giá trị
thặng dư của nhà tư bản.
______________
1. Báo Tiếng dân, số 266, ngày 22-3-1930.
52 VÕ NGUYÊN GIÁP - TIỂU SỬ
- “Số tư bản người Pháp đem vận dụng ở xứ ta”, số 292, ngày 21-6-1930. Trong bài báo này, tác giả bắt đầu từ sự đầu tư tư bản của tư bản Pháp để lập đồn điền, nhà máy, ngân hàng, lập những công ty tư bản có thế lực lớn chi phối cả Chính phủ để đi đến một kết luận thuyết phục: “Ai bảo nước ta còn ở vào cái tình trạng bế tắc ở đời phong kiến, mà chưa bước vào thời kỳ tư bản? Ai bảo ở nước ta chưa có tư bản tập trung?”1.
Những bài viết của Võ Nguyên Giáp trên báo Tiếng dân thuộc các lĩnh vực triết học, chính trị, kinh tế không chỉ bộc lộ một trí tuệ thông minh, hiểu biết sâu sắc, một bản lĩnh chính trị vững vàng, mà còn là cây bút bình luận sắc sảo về thời cuộc. Điều đó càng khẳng định năng lực của một thanh niên mới 19 tuổi đời, nhưng đã có được kho kiến thức phong phú. Những năm tháng làm báo Tiếng dân không chỉ giúp Võ Nguyên Giáp có được thu nhập ổn định bảo đảm cho cuộc sống hằng ngày của hai anh em, mà còn có uy tín trong làng báo, anh được chủ bút tín nhiệm và đồng nghiệp quý mến. Tất cả những cái đó chính là vỏ bọc tốt cho hoạt động chính trị của Võ Nguyên Giáp, nhưng điều đó cũng không thể che được con mắt “cú vọ” của mật thám Pháp. Anh đã bị ghi vào “sổ đen” từ khi bước vào
______________
1. Nguyễn Thành: Hoạt động báo chí của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Sđd, tr.33.
Chương I: QUÊ HƯƠNG - GIA ĐÌNH - TUỔI TRẺ... 53
Trường Quốc học Huế, tham gia các cuộc đấu tranh, các cuộc bãi khóa của học sinh, viết bài lên án chính quyền ở đây gửi in báo L’Annam của Phan Văn Trường trong Sài Gòn, rồi kết bạn với những phần tử có khuynh hướng mácxít, đặc biệt là những bài trên báo Tiếng dân
đã nhiều lần bị Sở kiểm duyệt cắt bỏ, không cho đăng. Thời gian làm báo Tiếng dân là thời kỳ để Võ Nguyên Giáp rèn luyện sự năng động. Vừa làm báo, anh vừa tranh thủ đọc nhiều loại sách để có kiến thức nền rộng, rồi đọc báo chí đương thời để nắm những vấn đề thời sự đang thu hút dư luận xã hội, đồng thời bám sát tình hình chính trị, kinh tế - xã hội của đất nước và làm quen với các thể loại báo chí như tin, bài bình luận, phóng sự, điều tra... Anh được phân công viết mục Thế giới thời đàm, đưa tin và bình luận về các sự kiện chính trị trên thế giới. Anh đưa tin về các cuộc đấu tranh của công nhân Nhà máy sợi Nam Định ngày 23-11-1928, cuộc đình công của một bộ phận cu li xe kéo ở Hà Nội ngày 6-1-1929, Cuộc bãi công của công nhân Nhà máy xe lửa Trường Thi từ ngày 16 đến ngày 23-5-1929. Anh cũng rất quan tâm đến vấn đề nông dân, nông thôn, thường viết về đời sống cùng cực, sưu cao thuế nặng,... những gì mà anh quan sát được và nhớ được nơi quê hương An Xá của mình.
Cao trào cách mạng 1930 - 1931 do Đảng Cộng sản Việt Nam phát động đã diễn ra mạnh mẽ dẫn tới
54 VÕ NGUYÊN GIÁP - TIỂU SỬ
thành lập chính quyền Xôviết ở Nghệ Tĩnh. Thực dân Pháp và tay sai tiến hành khủng bố trắng hòng nhanh chóng dập tắt phong trào đấu tranh đó. Xôviết Nghệ Tĩnh đang kêu cứu. Trước tình hình khẩn cấp đó, Trung ương Đảng chủ trương vận động quần chúng, một mặt, đấu tranh chặn đứng bàn tay tàn bạo của kẻ thù, mặt khác, góp tiền của cứu tế cho Nghệ Tĩnh. Võ Nguyên Giáp và em trai là Võ Thuần Nho đã hăng hái góp tiền ủng hộ Nghệ Tĩnh đỏ. Do đó, khi thực dân Pháp mở rộng đàn áp cả những người ủng hộ Xôviết Nghệ Tĩnh, thì hai anh em đã sẵn sàng tâm lý đối mặt với nguy cơ bị địch bắt. Buổi sáng chia tay, em đi học, anh đi làm, hai anh em bắt tay chào nhau, lòng thầm nghĩ không biết hôm nay ai sẽ bị bắt, liệu còn gặp nhau không. Anh Giáp không quên dặn chú Nho mặc thêm áo ấm, bỏ vào túi một ít lạc rang, ngô rang để đề phòng1.
Cuối năm 1930, thực dân Pháp mở rộng đàn áp, chúng cho xe chở lính đi khắp nơi bắt bớ tất cả những người ủng hộ Xôviết Nghệ Tĩnh. Báo Tiếng dân, số 327, ngày 20-10-1930 đưa tin ở mục Huế, bắt người: “Ông Võ Nguyên Giáp trên một năm nay biên dịch ở nhà báo Tiếng dân, mới rồi người em ông học ở Quốc học bị bắt,
______________
1. Xem Phạm Hồng Cư: Đại tướng Võ Nguyên Giáp thời trẻ, Nxb. Quân đội, Hà Nội, 2015, tr.91.
Chương I: QUÊ HƯƠNG - GIA ĐÌNH - TUỔI TRẺ... 55
rồi đến ông Giáp cũng bị bắt luôn. Bị bắt tạm giam để thẩm vấn hơn một tháng, ngày 25-11-1930, tòa án tỉnh Thừa Thiên mở phiên tòa xử Võ Nguyên Giáp và em ruột là Võ Thuần Nho, mỗi người 2 năm quản thúc vì hoạt động chính trị”.
Trong số những người bị bắt ở Huế có Võ Nguyên Giáp, Võ Thuần Nho, Lê Viết Lượng, Đặng Thai Mai, Nguyễn Thị Quang Thái... Họ bị giam tại nhà lao Thừa Phủ (Huế). Khi bị giải qua nhà lao nữ, Võ Nguyên Giáp thấy Nguyễn Thị Quang Thái cũng đang bị giam tại đó.
Vừa mới vào nhà lao, Võ Nguyên Giáp liền bị mật thám xét hỏi:
- Có tham gia Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên không?
- Không.
- Có tham gia Tân Việt không?
- Không.
- Hoạt động gì?
- Không làm gì cả.
- Có cứu tế cho Nghệ Tĩnh đỏ không?
- Có.
- Thái độ với cộng sản?
- Không có thái độ gì.
Đoạn phỏng vấn trên giữa mật thám Pháp với Võ Nguyên Giáp đã chứng tỏ anh là người rất thông minh, có bản lĩnh kiên cường, không hề run sợ trước
56 VÕ NGUYÊN GIÁP - TIỂU SỬ
cường quyền. Võ Nguyên Giáp chỉ nhận mình do có lòng yêu nước mà tham gia một số phong trào của thanh niên để tranh thủ án treo mà sớm ra ngoài hoạt động. Nhưng thực dân Pháp lo sợ, chúng đã đổi án treo thành án thật; chúng kết án Võ Nguyên Giáp 2 năm tù giam.
Những năm tháng sống trong nhà tù thực dân, Võ Nguyên Giáp không hề đơn độc, xung quanh anh có rất nhiều đồng chí vừa là thầy trò, anh em, bạn bè tin cậy. Trong nhà lao Thừa Phủ, Võ Nguyên Giáp chú ý theo dõi tình hình để động viên anh em, đồng chí chủ
động đối phó với các âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù. Tại đây, anh đã bị bọn cai ngục áp dụng rất nhiều biện pháp tra tấn về thể xác, truy bức về tinh thần. Chúng tra khảo nhiều lần, nhốt vào hầm tối 15 ngày... Tuy bị rất nhiều cực hình trong nhà tù, nhưng Võ Nguyên Giáp đã thể hiện rõ bản lĩnh kiên cường của người chiến sĩ cộng sản. Anh không hề run sợ trước đòn tra tấn, hình phạt tàn bạo của chúng, luôn giữ vững lập trường trước sự mua chuộc, dụ dỗ rất xảo quyệt của kẻ thù. Võ Nguyên Giáp còn tích cực đấu tranh chống lại chế độ kìm kẹp, tra tấn tàn bạo của nhà tù thực dân, cổ vũ, động viên đồng chí, bạn bè giữ vững khí tiết. Khi được đọc bài thơ của Nguyễn Thị Quang Thái sáng tác trong nhà tù, Võ Nguyên Giáp vô cùng cảm phục người con gái mảnh mai, trẻ tuổi nhưng rất kiên cường, bất
Chương I: QUÊ HƯƠNG - GIA ĐÌNH - TUỔI TRẺ... 57
khuất. Những năm tháng phải sống trong nhà tù của thực dân tuy không dài, nhưng đây là khoảng thời gian đầy gian lao với những thử thách vô cùng khốc liệt đối với Võ Nguyên Giáp. Anh tham gia tích cực các hoạt động đấu tranh phản đối chế độ nhà tù thực dân tàn bạo; đoàn kết cùng đồng chí, bạn bè để bảo vệ Đảng. Cảnh ngục tù đã rèn giũa ý chí và nghị lực, khiến Võ Nguyên Giáp càng thấu hiểu sâu sắc lý tưởng cách mạng và niềm vinh quang vì được cống hiến sức lực, trí tuệ và tuổi xuân cho đất nước. Thử thách khốc liệt trong nhà tù cũng góp phần hình thành nhân cách kiên trung, bất khuất của Võ Nguyên Giáp sau này.
Những cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân ta và cuộc khủng bố trắng của thực dân Pháp vượt biên giới đến Pháp, đến Quốc tế Cộng sản. Quốc tế Cộng sản lên tiếng mạnh mẽ, kêu gọi các Đảng Cộng sản trên toàn thế giới phát động phong trào phản đối thực dân Pháp. Đảng Cộng sản Pháp và các nhân sĩ, trí thức yêu chuộng hòa bình, công lý tích cực góp phần đấu tranh trên báo chí, nghị trường, phát động những cuộc biểu tình ngăn chặn bàn tay đẫm máu của thực dân Pháp ở Đông Dương. Cuối năm 1931, nhân chuyến thị sát tình hình thuộc địa của Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp Paul Reynaud, những người bị án tù 3 năm trở xuống được chính quyền thuộc địa trả lại tự do. Thực dân Pháp giam giữ Võ Nguyên Giáp được 13 tháng. Cuối năm 1931, nhờ
58 VÕ NGUYÊN GIÁP - TIỂU SỬ
sự can thiệp của Hội Cứu tế đỏ của Pháp, đồng chí được thả tự do.
Hai anh em bị lính áp giải về Đồng Hới, bị tạm nhốt trong một căn nhà cạnh dinh Phó Công sứ. Tối hôm đó sáng trăng, hai anh em ra vườn hoa nhỏ bên cầu Mụ Kề, nơi người dân Đồng Hới hay ra hóng gió nồm từ biển thổi vào, bàn chuyện tương lai, trước hết là vào Huế hay ra Vinh nối lại tổ chức. Ngày 15-11-1931, báo Tiếng dân, số 438 đưa tin “Võ Giáp và Võ Nho, lính dẫn về Đồng Hới, thân nhân ra nhận”1. Hai anh em về làng An Xá, gặp lại đám thanh niên mà anh đã giác ngộ cách mạng từ những năm 1927 - 1928. Cứ đầu tháng, anh lên huyện trình diện với viên tri huyện Lệ Thủy là Nguyễn Định.
Được ít lâu, anh quyết định vào Huế bắt liên lạc, trước hết xin cụ Huỳnh cho tiếp tục làm báo Tiếng dân nhưng không được, bởi ngày hôm sau, viên Công sứ Labbe gọi anh lên và buộc anh phải rời khỏi Huế. Anh xa Huế từ độ ấy mãi tới tháng 3-1937, mới có dịp trở lại Huế trong cương vị mới, thay mặt báo giới Bắc Kỳ vào dự Hội nghị báo giới Trung Kỳ.
Ra tù, Võ Nguyên Giáp và Đặng Thai Mai bị quản thúc ở hai miền quê khác nhau, Mai ở Nghệ An, Giáp ở
______________
1. Nguyễn Thành: Hoạt động báo chí của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Sđd, tr.34.
Chương I: QUÊ HƯƠNG - GIA ĐÌNH - TUỔI TRẺ... 59
Quảng Bình, nhưng thường liên lạc với nhau qua thư từ. Mai bàn với Giáp xin ra Vinh với lý do tìm việc làm. Anh thảo đơn nhờ người bạn cũ là Thu có cha làm Đề lại ở Tòa sứ Quảng Bình xin giúp. Viên công sứ trước đây cho anh vào Huế thì lần này cũng ký ngay, vì theo suy nghĩ của y là ở hai nơi đó có những tên trùm mật thám khét tiếng là Sogny và Humbert quản hộ, cho nhẹ gánh.
Võ Nguyên Giáp đi tàu hỏa ra Vinh. Đặng Thai Mai đón và đưa anh về ở nhà nhạc phụ là cụ Cử Hồ Phi Thống, ngụ tại phố Cửa Tả, cũng là phòng khám và bốc thuốc Đông y của cụ. Việc đầu tiên, Võ Nguyên Giáp tìm bắt liên lạc với tổ chức đảng ở Nghệ An. Anh thất vọng vì tổ chức đảng ở đây bị xóa sau khi phong trào Xôviết bị khủng bố trắng. Tìm đến anh Hoàng Đức Thi, chị Vịnh, chị Lân, anh Tường, chị Chắt Văn... vẫn nằm yên, không ai liên hệ với tổ chức đảng.
Võ Nguyên Giáp đi tìm việc làm, anh làm kế toán ở hãng Tây bò (Công ty Le Boeuf), lương tháng 7 đồng. Anh làm được ít lâu rồi bỏ việc vì tên chủ quá hách dịch. Sau đó, anh làm gia sư cho gia đình ông Hàn Thiện, một nhà buôn ở phố Quai Mange, Bến Thủy.
Võ Nguyên Giáp ở Vinh chừng một năm. Đến tháng 9-1932, Đặng Thai Mai được nhận vào dạy học tại trường Gia Long, Hà Nội. Thế là Đặng Thai Mai kéo Võ Nguyên Giáp cùng ra Hà Nội.
60 VÕ NGUYÊN GIÁP - TIỂU SỬ
Trường Gia Long đặt tại một tòa nhà nhiều tầng ở phố Julien Blanc, nay là phố Phủ Doãn, gần phía phố Hàng Bông. Đặng Thai Mai thuê một căn nhà gần trường, phía sau là Nhà thờ Lớn, tiện cho việc đi lại. Đặng Thai Mai cho hai anh em Võ Nguyên Giáp cùng sống trong căn nhà đó. Đặng Thai Mai đã phải làm việc cật lực để nuôi cả nhà (lúc này bà Đốc Mai mới sinh con gái thứ ba là Đặng Thanh Lê, và cưu mang cả Giáp và Nho đi học). Biết thế nên Võ Nguyên Giáp tìm mọi cách giảm gánh nặng cho Đặng Thai Mai bằng cách chấm bài giúp ông và nhận chấm bài giúp các giáo sư khác (một bài 12 xu). Lúc này, Võ Nguyên Giáp đang theo học Tú tài Tây toàn phần, phần thứ
nhất. Mùa thi năm 1933, anh là thí sinh tự do dự thi tú tài phần thứ nhất và đỗ vào loại ưu.
Niên khóa 1933 - 1934, Võ Nguyên Giáp xin học chương trình tú tài phần thứ hai ở trường Albert Sarraut là trường dành cho con em người Pháp và quan lại Việt Nam. Giữa hai chuyên khoa Toán và Triết, anh chọn Triết. Trường Albert Sarraut có một lớp Philo B (Triết B) dành cho thí sinh tự do, Võ Nguyên Giáp nộp đơn xin học và được nhận. Cùng học lớp đó có Phạm Huy Thông, Hoàng Xuân Nhị. Võ Nguyên Giáp học giỏi, thường đứng đầu lớp. Có bài kiểm tra, anh đạt 17 điểm, trong khi đó người đứng thứ nhì chỉ được 14 điểm. Giáo sư chủ nhiệm lớp là
Chương I: QUÊ HƯƠNG - GIA ĐÌNH - TUỔI TRẺ... 61
thầy Marcel Ner rất mến anh. Marcel Ner có kiến thức rộng và sâu, có xu hướng chính trị tả khuynh. Giáo sư M. Ner phát hiện ở Võ Nguyên Giáp có nhiều ý kiến độc đáo.
Có một lần Võ Nguyên Giáp, vì làm việc quá sức, bị ngất xỉu trong lớp học, vừa lúc đó có Thanh tra học chính Đông Dương đến. Viên thanh tra không phải ai xa lạ mà là ông Bourotte, nguyên Hiệu trưởng Trường Quốc học Huế năm xưa, từng là đối tượng phê bình trong bài báo đầu tiên của Võ Nguyên Giáp: “À bas le tyranneau du Quoc hoc” (Đả đảo tên tiểu bạo chúa Trường Quốc học) viết năm 1927, đăng trên tờ L’Annam của luật sư Phan Văn Trường ở Sài Gòn. Bạn học đưa anh xuống y xá. Giáo sư Ner xuống tận y xá thăm Võ Nguyên Giáp và can thiệp với nhà trường miễn một quý học phí cho anh.
Xu hướng chính trị của Võ Nguyên Giáp bộc lộ không chỉ ở môn Triết học, mà còn cả ở môn Lịch sử. Có lần, Võ Thuần Nho được anh mình nói cho nghe rằng người ta dạy cho mình về Công xã Pari nhưng họ không hiểu gì về ý nghĩa của Công xã. Thái độ của họ là căm thù và sợ hãi. Giọng điệu của họ giống y như Gustave Flaubert1: “Một cuộc trở về với thời trung cổ”... Còn với
______________
1. Gustave Flaubert: Tiểu thuyết gia người Pháp, có khuynh hướng thiên về nỗi buồn, sự bi quan, tuyệt vọng (B.T).
62 VÕ NGUYÊN GIÁP - TIỂU SỬ
chúng ta, thì đó là “một cuộc tấn công lên tận trời”, nói như C. Mác1.
Mùa thi năm 1934, Võ Nguyên Giáp đậu tú tài toàn phần, có đủ điều kiện để dạy học và ghi tên vào các trường đại học, cao đẳng.
Năm 1935, Võ Nguyên Giáp xin vào làm giáo viên tại Trường tư thục Thăng Long (Hà Nội). Trường tư thục Thăng Long khai giảng. Khóa học đầu tiên ở trường, Võ Nguyên Giáp dạy các môn Pháp văn, Lịch sử, Địa lý từ lớp Đệ nhất niên đến lớp Đệ tứ niên. Ở bậc Tú tài, Võ Nguyên Giáp dạy môn Lịch sử là môn anh rất yêu thích.
Cùng năm, Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Thị Quang Thái tổ chức đám cưới tại Vinh, sau đó chuyển ra Hà Nội, sống gần trường Thăng Long2. Ngày 10-11-1935, Nguyễn Thị Quang Thái ra Hà Nội. Mới đầu hai vợ chồng thuê căn nhà số 106 phố Hàng Bông, Thợ Nhuộm, sau ______________
1. Xem Phạm Hồng Cư: Đại tướng Võ Nguyên Giáp thời trẻ, Sđd, tr.112-113.
2. Trường tư thục Thăng Long là tiền thân của Trường Tiểu học Thăng Long ngày nay. Năm 1934, Hoàng Minh Giám cùng một số nhà trí thức đương thời như Phan Thanh, Đặng Thai Mai, Đặng Vũ Xích, Phạm Hữu Ninh, Nguyễn Cao Luyện, Nguyễn Dương... thành lập “Hội mở mang nền tư thục”, một năm sau lập nên Trường tư thục Thăng Long với mục đích truyền bá kiến thức cho cộng đồng, tuyên truyền lòng yêu nước, thương dân và căm thù thực dân Pháp xâm lược.
Chương I: QUÊ HƯƠNG - GIA ĐÌNH - TUỔI TRẺ... 63
chuyển sang nhà số 26 Nam Ngư và cuối cùng chuyển đến nhà số 149 phố Henri d’Orléans, nay là phố Phùng Hưng. Đây là một căn nhà gác hai tầng (chỉ thuê 2 phòng trên gác hai) ở gần nhà hộ sinh Con Rồng của bà đỡ Tụy Phương, học trò của anh Đặng Thai Mai và cũng là bạn của cả hai vợ chồng. Phía trước có bao lơn trông xuống phố, bên kia phố là đường tàu hỏa, bên kia đường tàu là thành cổ Hà Nội. Phòng ngoài là phòng riêng của vợ chồng có giường, bàn làm việc và tủ sách. Phòng trong là phòng ăn, tiếp khách (ban ngày), còn ban đêm là phòng ngủ của Võ Thuần Nho cùng người giúp việc tên là Ngãi, quê xứ Thanh.
Nhà số 149 phố Henri d’Orléans thực sự là ngôi nhà hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ. Võ Nguyên Giáp tham gia hoạt động bán công khai của Đảng, còn Nguyễn Thị Quang Thái tham gia công tác phụ vận. Một gia đình nhỏ trong đại gia đình các nhà cách mạng. Những năm đó, Võ Nguyên Giáp thực hiện đồng thời bốn công việc: thầy giáo, sinh viên trường Luật, nhà báo và nhà cách mạng.
Bên cạnh hoạt động cách mạng, năm 1935, Võ Nguyên Giáp vào học ngành luật ở Trường Đại học Đông Dương, anh chọn ngành này để có đủ năng lực đấu tranh cho công lý theo tinh thần pháp chế hiện đại của quốc tế. Khi chọn học luật, tuy có thuận lợi là không bị bó buộc phải đến nghe giảng, không điểm danh các buổi học,
64 VÕ NGUYÊN GIÁP - TIỂU SỬ
nhiều buổi tự học giáo trình ở nhà nhưng vì bận dạy, làm báo khiến quỹ thời gian học tập của Võ Nguyên Giáp vô cùng eo hẹp, nên đã có môn anh phải thi trả nợ trong học kỳ sau. Vì lẽ đó, năm thứ hai, niên khóa 1935 - 1936, Giáp phải kéo dài đến tháng 10-1937. Cũng trong năm thứ hai, dù trả môn chậm, nhưng sinh viên Võ Nguyên Giáp đã viết một bản tường trình về “Cán cân thanh toán ở Đông Dương” được Giáo sư Khérian phê: Bản tường trình xuất sắc về một vấn đề ít được biết đến, trong sáng, có phương pháp và có cá tính. 17/20 điểm. Với sự thông minh vốn có, tháng 10-1938, Võ Nguyên Giáp tốt nghiệp Cử nhân Luật và còn đạt một chứng chỉ cao học môn Kinh tế chính trị học, một trong những điều kiện để lấy bằng Tiến sĩ. Năm 1972, trên tuần báo Anh The Sunday Times Magazine, (số ra ngày 5 đến ngày 12-11-1972) có bài viết của nhà báo James Fox nói đến Giáo sư Khérian và anh Giáp: “Năm 1938, Võ Nguyên Giáp đỗ ngoại hạng về môn Kinh tế chính trị. Giáo sư Khérian giải thích: Hàng năm chúng tôi có một giáo sư về kinh tế từ Pari sang để kiểm tra sinh viên. Năm đó là ông Géaton Pirou của Trường Luật ở Pari. Ông ta là Đổng lý văn phòng của Tổng thống Paul Doumer. Ông nói với tôi có rất nhiều ấn tượng về tác phẩm của ông Giáp và hỏi tôi về ông Giáp. Tôi nói ông Giáp đang có chuyện rắc rối với các nhà cầm quyền ở đây và là một người sôi động.
Chương I: QUÊ HƯƠNG - GIA ĐÌNH - TUỔI TRẺ... 65
Pirou nói: “Chúng ta phải kéo anh ta ra khỏi môi trường thực dân. Hãy đưa anh ta sang Pari. Chúng ta sẽ trợ cấp học bổng cho anh ta”. Tôi nói chuyện này với ông Giáp. Hôm sau, ông Giáp trở lại cho biết ông không thể rời bỏ bạn bè và hành động như một người ích kỷ”1.
Tháng 7-1935, Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản đề xướng việc thành lập Mặt trận nhân dân rộng rãi chống phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, bảo vệ hòa bình, cải thiện đời sống nhân dân. Tại Pháp, tháng 5-1936, Mặt trận bình dân Pháp giành thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử, tuyên bố chương trình của mình đối với các thuộc địa, trong đó có những vấn đề cơ bản như: thành lập Ủy ban điều tra thuộc địa, ân xá chính trị phạm, ban hành các quyền tự do dân chủ, quyền tự do nghiệp đoàn, cải thiện điều kiện làm việc cho các giới lao động... Những sự kiện trên đã ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ đến cách mạng Việt Nam.
Tháng 7-1936, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp dưới sự chủ trì của đồng chí Lê Hồng Phong. Xuất phát từ đặc điểm tình hình Đông Dương và thế giới, vận dụng Nghị quyết Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản, Hội nghị xác định cách mạng ở Đông Dương chưa thể trực tiếp đánh đổ đế quốc Pháp và làm cách
______________
1. Phạm Hồng Cư: Đại tướng Võ Nguyên Giáp thời trẻ, Sđd, tr.131.
66 VÕ NGUYÊN GIÁP - TIỂU SỬ
mạng ruộng đất mà chỉ đấu tranh chống phát xít và chiến tranh đế quốc, chống bọn thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình. Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận nhân dân phản đế rộng rãi, bao gồm các giai cấp, các đảng phái, các đoàn thể chính trị
và tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau, các dân tộc ở xứ Đông Dương để cùng thực hiện những mục tiêu trên. Các hội nghị tiếp theo của Trung ương trong những năm 1937 - 1938 bổ sung và hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng chiến lược của Hội nghị Trung ương tháng 7-1936.
Trước tình hình đang chuyển biến tích cực, có lợi cho phong trào, tận dụng việc nới rộng các quyền tự do dân chủ, trong đó có quyền tự do báo chí của Pháp, Đảng ta chủ trương đẩy mạnh việc đấu tranh trên mặt trận báo chí công khai. Năm 1936, Trung ương Đảng và các xứ ủy tìm mọi cách để xuất bản những tờ báo tiếng Việt, bên cạnh những tờ báo tiếng Pháp góp phần vào cuộc đấu tranh đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình. Võ Nguyên Giáp lúc này là thầy giáo của trường Thăng Long, vừa dạy học, anh vừa tiếp tục hoạt động báo chí - một trong những nghề mà anh say mê từ thời ở Huế khi mới bước chân vào con đường cách mạng. Anh hoạt động báo chí trong nhóm bán công khai do đồng chí Đặng Xuân Khu (Trường Chinh) lãnh đạo. Sau này, Võ Nguyên Giáp nhớ lại: “Nghề báo là một
Chương I: QUÊ HƯƠNG - GIA ĐÌNH - TUỔI TRẺ... 67
nghệ thuật đầy hứng thú. Sau này, khi chuyển qua công tác quân sự, tôi thấy làm một số báo cũng giống như tổ chức một trận đánh hiệp đồng.
Đó là một công việc luôn luôn khẩn trương, phải phát hiện kịp thời mưu đồ, thủ đoạn của giai cấp thống trị, yêu cầu, tâm lý đa dạng và thường xuyên thay đổi của bạn đọc, nguyện vọng sâu xa của nhân dân, để biết mình phải làm gì. Tính thời gian rất quan trọng. Có được tin sớm để đăng đã khó. Nhưng khó hơn nhiều là nghệ thuật đưa vấn đề đúng lúc, tác dụng sẽ được nhân lên gấp bội. Nội dung đương nhiên cần được bảo đảm chính xác, chặt chẽ, nhưng hiệu quả đối với người đọc thường lại do cách diễn đạt, trình bày quyết định. Bố cục không hợp lý sẽ làm giảm hiệu quả của một số báo có nhiều bài hay. Những bài chính, phụ, ngắn, dài, nặng, nhẹ phải kết hợp với nhau một cách hữu cơ, tạo nên sự hài hòa như những màu sắc của một tác phẩm hội họa, mới mang lại hứng thú cho người đọc. Đặt tên cho một bài báo rất khó. Tôi thường mất nhiều thời gian cân nhắc tìm những kiểu chữ thích hợp cho đầu đề một bài báo chỉ vài ba dòng. Dòng thứ hai thường quan trọng nhất, nhưng các dòng khác không thể coi nhẹ vì phải góp phần tạo nên một chỉnh thể. Những kiểu chữ lớn, nhỏ, béo, gầy, đứng hoặc nghiêng - đều có vai trò và hiệu lực riêng của nó trên trang báo mà người làm báo không thể không biết tới. Nghề làm báo hao tâm tổn trí,
68 VÕ NGUYÊN GIÁP - TIỂU SỬ
gian khổ, nhưng người làm báo được sự đền bù xứng đáng là niềm vui khi thấy tác dụng và hiệu quả của tờ báo trong đông đảo bạn đọc”1.
Theo pháp luật Pháp tại thuộc địa, muốn ra báo tiếng Pháp, tiếng Việt đều phải có giấy phép, đặc biệt là báo tiếng Việt, nhất thiết phải có giấy phép trước khi ra báo. Ở Hà Nội, lúc đó có tờ Hồn trẻ của Hướng đạo sinh, vì thua lỗ phải tạm ngừng xuất bản. Võ Nguyên Giáp cùng với Đặng Thai Mai và các giáo sư Trường Thăng Long mua lại, tiếp tục cho ra báo với nội dung mới. Chỉ
hai ngày sau khi L. Blum tuyên thệ nhậm chức Thủ tướng, ngày 6-6-1936, tờ Hồn trẻ tập mới ra đời. Có thể nói, đây là tờ báo tiếng Việt đầu tiên công khai cổ động đấu tranh cho các khẩu hiệu dân sinh, dân chủ, đòi đại xá chính trị phạm, ủng hộ Chính phủ Mặt trận bình dân Pháp và tập hợp nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân cho phái đoàn điều tra của Chính phủ Pháp do Godart dẫn đầu sắp sang Đông Dương. Báo ra đến số 5 thì bị nhà cầm quyền Pháp bắt đóng cửa. Dù vậy, Hồn trẻ tập mới là tiếng chuông báo hiệu một phong trào báo chí mới.
Lúc này, Nguyễn Thế Rục - đảng viên cộng sản đã tốt nghiệp Trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản từ Pháp về không may bị lao phổi, đang điều
______________
1. Báo Nhà báo và Công luận, số tháng 8-1991.
Chương I: QUÊ HƯƠNG - GIA ĐÌNH - TUỔI TRẺ... 69
trị tại nhà. Anh Rục cùng với một số đồng chí trong đó có Đặng Xuân Khu, Võ Nguyên Giáp... quyết định cho ra tờ báo tiếng Pháp lấy tên Le Travail (Lao động), báo ra số đầu vào ngày 16-9-1936.
Võ Nguyên Giáp trở thành biên tập viên chính, được phân công viết khá nhiều đề tài: cổ vũ Đông Dương đại hội, Mặt trận Dân chủ, thời sự quốc tế, đời sống nông dân với các cuộc đấu tranh ruộng đất như Cồn Thoi, những cuộc bãi công của thợ xẻ, thợ giày, thợ mỏ... Võ Nguyên Giáp làm việc rất hào hứng, mặc dù sức khỏe không tốt lắm. Được tin có cuộc bãi công lớn của công nhân vùng mỏ, anh đạp xe 200km từ Hà Nội về Cẩm Phả để viết bài đăng báo. Cuộc bãi công nổ ra ngày 13-11-1936, lúc đầu tại Cẩm Phả với trên một vạn thợ mỏ tham gia, sau một tuần, lan sang các mỏ Hà Tu, Hà Lầm, Hòn Gai, Mông Dương, Đồng Đăng và cảng Cẩm Phả... cùng một lúc 2 vạn người tham gia đấu tranh. Chính quyền thực dân điều động lính về vùng mỏ, uy hiếp tinh thần thợ bãi công. Võ Nguyên Giáp viết bài phóng sự đăng liền trên mấy số báo Le Travail, bắt đầu từ số 10, ngày 20-11-1936. Nhân danh báo Le Travail, tác giả phóng sự viết: “Chúng tôi bày tỏ tình đoàn kết anh em với những người khốn khổ đang đấu tranh vô hy vọng vì cuộc sống của họ bị thường xuyên đe dọa bởi những điều kiện làm việc khắc nghiệt mà họ áp đặt, bởi mối lo thường xuyên về bệnh tật và đói kém,
70 VÕ NGUYÊN GIÁP - TIỂU SỬ
chúng tôi yêu cầu họ hãy giữ bình tĩnh, cảnh giác với những sự khiêu khích của giới chủ, tổ chức những ủy ban đình công trong trật tự và kỷ luật, trình bày rõ ràng những yêu sách của họ, sử dụng một phái đoàn công nhân gặp Ban Giám đốc để bênh vực những yêu sách đó... Đình công của họ phải là một hành động chính đáng và hợp pháp”1. Và tiếp theo, trên số 11, ngày 27-11-1936, Võ Nguyên Giáp viết bài “Những bài học của một cuộc đình công thắng lợi chia vui cùng công nhân vùng mỏ Cẩm Phả cũng như giai cấp công nhân Việt Nam”. Bài viết nhấn mạnh: Một vạn công nhân Cẩm Phả đã đình công thắng lợi. Hầu hết những yêu sách của họ đã được giới chủ chấp nhận. Lần đầu tiên ở Đông Dương, giai cấp vô sản đã giành một thắng lợi rực rỡ. Lần đầu tiên tính kỷ luật vô sản đã thắng sự kháng cự của giới chủ... Và cuối cùng tác giả đã rút ra bài học thắng lợi của cuộc đình công là năng lực tổ chức và lãnh đạo, công tác tuyên truyền và cổ động tốt, ý thức giác ngộ và đoàn kết của công nhân cao, phương pháp đấu tranh đúng.
Những bài báo này đã gây được sự chú ý của dư luận trong nước và cả ở Pháp, tạo nên sự ủng hộ cho cuộc đấu tranh của thợ mỏ.
______________
1. Nguyễn Thành: Hoạt động báo chí của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Sđd, tr.43.
Chương I: QUÊ HƯƠNG - GIA ĐÌNH - TUỔI TRẺ... 71
Về nông dân, Võ Nguyên Giáp có: thiên phóng sự điều tra về tình hình những vùng bị lụt tháng 9-1936, đăng trên báo Le Travail, số 8, ngày 6-11-1936. Cuối bài, tác giả đã đề cập hai cách thông thường chống lụt thời đó là bảo dưỡng các con đê và cứu tế do các hội từ thiện tổ chức. Trong hai cách đó, tác giả đã nhận xét về việc làm từ thiện trong xã hội tư sản vẫn là phương cách duy nhất chống lại tất cả những tồn tại làm hao mòn xã hội đó. Nhưng mọi người đều thấy rằng, từ thiện không đủ, nó không thể che giấu mâu thuẫn giai cấp ngày càng rõ nét, càng mãnh liệt...
Tiếp đó là các bài viết: “Người ta bóc lột nông dân như thế nào?”, “Tô ruộng”, “Điều tra”, số 30, ngày 16-4-1937. Sau khi nói tới sự thống khổ của nông dân về tô tức, tác giả đã kiến nghị: Vì nông dân, chúng tôi yêu cầu có một đạo luật được ban hành nhằm quy định tiền lĩnh canh. Đạo luật đó nhất thiết phải hướng tới việc giảm tỷ lệ tô ruộng và bãi bỏ tất cả những tô phụ đè nặng lên nông dân.
Đáng chú ý nhất là loạt bài có nội dung “Chống trở lại Hiệp ước ngày 6-6-1884”. Đây là loạt bài hay nhất của nhà báo Võ Nguyên Giáp xoay quanh chủ đề này, không chỉ đăng tải trên Le Travail, mà cả trên Notre Voix (Tiếng nói của chúng ta) và Thế giới.
Trên Le Travail, số 9, ngày 13-11-1936, Võ Nguyên Giáp viết bài “Vì tự do của các hội và đảng chính trị”.
72 VÕ NGUYÊN GIÁP - TIỂU SỬ
Bài báo đi từ nhận thức lịch sử phát triển tư tưởng chính trị của nước ta dưới thời Pháp thuộc, và trên nền tảng đó đòi Chính phủ Pháp ban hành sắc lệnh về tự do tư tưởng, tự do lập hội ở Đông Dương phù hợp với tinh thần cải cách của Chính phủ Mặt trận bình dân Pháp. Cuối năm 1936, Luật ân xá chính trị phạm của Chính phủ Mặt trận bình dân Pháp được ban hành ở Đông Dương. Nhiều chiến sĩ cộng sản từ các nhà tù trở về. Các anh Đặng Xuân Khu (Trường Chinh), Hạ Bá Cang (Hoàng Quốc Việt), Khuất Duy Tiến, Đặng Châu Tuệ, Tống Phúc Chiểu... nhập ngay vào nhóm Le Travail. Anh Đặng Xuân Khu lúc đầu viết báo tiếng Pháp, từ mùa thu năm 1937, được chỉ định phụ trách về chính trị tất cả các cơ quan ngôn luận của Đảng ở Bắc Kỳ. Le Travail tồn tại được 7 tháng. Ngày 16-4-1937, Le Travail ra số 30, số cuối cùng, rồi bị thực dân Pháp ra lệnh đóng cửa.
Là nhà báo có bản lĩnh chính trị vững vàng, Võ Nguyên Giáp nhân danh đại biểu báo Le Travail tham gia vào các hoạt động chính trị - xã hội của giới báo chí.
Đầu năm 1937, Chính phủ Pháp cử Godart dẫn đầu phái đoàn chính phủ sang Đông Dương điều tra tình hình, qua đó Chính phủ Pháp có thêm cứ liệu để ban hành những chính sách mới thích hợp cho các thuộc địa của Pháp. Cơ sở đầu tiên của quyết định này là Chương trình của Mặt trận bình dân Pháp đưa ra tranh cử, ở
Chương I: QUÊ HƯƠNG - GIA ĐÌNH - TUỔI TRẺ... 73
điểm thứ 7, mục 1, phần thứ nhất ghi rõ: Thành lập Ban Điều tra của Quốc hội về tình hình chính trị, kinh tế, đạo đức trên các lãnh thổ hải ngoại của Pháp, đặc biệt là vùng Bắc Phi và Đông Dương.
Đón nhận tin vui từ Pháp, ở Việt Nam, những người cộng sản phối hợp với các lực lượng yêu nước khác vận động phong trào Đông Dương Đại hội để thu thập dân nguyện gửi cho Chính phủ Pháp qua phái đoàn Godart. Phong trào này được nhen nhóm trong Nam Kỳ, sau lan ra Trung Kỳ và Bắc Kỳ.
Tại Hà Nội, ngày 20-9-1936, Võ Nguyên Giáp cùng với giáo sư các trường tư Hà Nội, đặc biệt là trường Thăng Long họp bàn lập Ủy ban lâm thời tiếp phái đoàn điều tra của Quốc hội Pháp sang Đông Dương. Vũ
Ngọc Liên được bầu làm Chủ tịch Ủy ban và Võ Nguyên Giáp được bầu làm Thư ký1. Ủy ban tiến hành thu thập những nguyện vọng (dân nguyện) chuyển cho phái đoàn Godart.
Ngày 25-1-1937, đại diện các tờ báo bị cấm gồm 12 người, trong đó có Võ Nguyên Giáp, họp ở nhà số 57, phố Doudart de Lagrée (nay là phố Hàm Long), bầu ra Ủy ban báo bị cấm do Trần Huy Liệu làm Chủ tịch, Nguyễn Mạnh Chất làm Thư ký. Ủy ban đã thông qua một bức điện gửi J. Godart, đặc phái viên của Chính phủ Pháp sang điều tra tình hình Đông Dương, lúc đó ______________
1. Xem Le Travail, số 2, ngày 23-9-1936.
74 VÕ NGUYÊN GIÁP - TIỂU SỬ
đang đi thăm vịnh Hạ Long. Điện viết: Tin tưởng ở phái viên Mặt trận bình dân. Yêu cầu chú ý đặc biệt đến đoàn đại biểu các báo bị cấm khi ngài về Hà Nội.
Khi Godart về Hà Nội, ngày 5-2-1937, Võ Nguyên Giáp dẫn đầu đoàn đại biểu báo Le Travail đến tận nơi ở của J. Godart để trực tiếp trình bày tình cảnh và yêu cầu của nông dân.
Sau khi báo Le Travail đóng cửa, nhà báo Võ Nguyên Giáp tiếp tục chỉ đạo biên tập tờ Rassemblement (Tập hợp), tiếp sau là tờ En Avant (Tiến lên)... theo kịp phong trào cách mạng đang phát triển trong hoàn cảnh đã thay đổi có lợi cho các lực lượng yêu nước và cách mạng.
Theo sáng kiến của báo Nhành lúa do nhà báo Nguyễn Xuân Lữ làm Giám đốc và được phép của Khâm sứ Trung Kỳ, ngày 27-3-1937, Hội nghị báo giới Trung Kỳ khai mạc tại Đông Pháp Lữ quán. Tham dự
Đại hội có 70 đại biểu của các báo Trung Kỳ và đại biểu báo chí cách mạng của Bắc Kỳ. Đại diện của báo chí cách mạng Bắc Kỳ có Võ Nguyên Giáp của báo Rassemblement và Hà Huy Giáp của báo Tiếng trẻ. Hội nghị kêu gọi các nhà báo: “Dẹp lại một bên những chính kiến khác nhau để lập một Mặt trận thống nhất, ngõ hầu đòi cho kỳ được tự do báo chí. Tự do báo chí chính là cái chìa khóa của tất cả các tự do dân chủ khác. Những người làm báo hãy đòi quyền tự do báo chí cho mình và cho cả quần chúng bị bóc lột đang trông vào
Chương I: QUÊ HƯƠNG - GIA ĐÌNH - TUỔI TRẺ... 75
chúng ta và đang kiểm tra chúng ta”1. Tại Hội nghị, Võ Nguyên Giáp gặp lại những người bạn hoạt động báo chí ở Huế, đặc biệt gặp và trao đổi về báo chí, về tình hình cách mạng trong và ngoài nước với đồng chí Phan Đăng Lưu.
Xứ ủy Bắc Kỳ lập ra Ủy ban vận động cách mạng nửa hợp pháp do đồng chí Đặng Xuân Khu, vừa được trả lại tự do, làm xứ ủy viên phụ trách. Võ Nguyên Giáp được chỉ định là thành viên của ủy ban này.
Ủy ban đặc biệt quan tâm đến các hoạt động báo chí của Đảng. Hàng loạt tờ báo tiếng Pháp, tiếng Việt xuất bản công khai, tờ này bị rút giấy phép, tờ khác đã xuất hiện, chiếm lĩnh trận địa tư tưởng... Báo tiếng Pháp là các tờ Le Travail (Lao động), Rassemblement (Tập hợp), En Avant (Tiến lên). Báo tiếng Việt có các tờ Thế giới, Đời nay, Tin tức, Ngày mới,... Thanh niên Dân chủ có tờ
Bạn dân. Riêng tờ Giải phóng xuất bản bí mật, ra được 3 số thì phải ngừng vì cơ quan ấn loát bị phát hiện. Võ Nguyên Giáp viết chính cho các tờ báo tiếng Pháp, nhưng có khi cũng viết cho báo tiếng Việt.
Trở lại Hà Nội, Võ Nguyên Giáp báo cáo với Ủy ban hành động nửa hợp pháp về thành công của Hội nghị báo giới Trung Kỳ và những kinh nghiệm làm báo quý
______________
1. Chương trình sưu tầm tài liệu, viết tiểu sử các đồng chí lãnh đạo tiền bối của Đảng và cách mạng Việt Nam: Phan Đăng Lưu - Tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, tr.152.
76 VÕ NGUYÊN GIÁP - TIỂU SỬ
báu của Phan Đăng Lưu. Anh được trao nhiệm vụ cùng với các anh Khuất Duy Tiến, Trần Huy Liệu, Đào Duy Kỳ, Phan Tư Nghĩa tổ chức Hội nghị này.
Hội nghị báo giới Bắc Kỳ họp lần thứ nhất vào 7 giờ 30 phút sáng ngày 24-4-1937 tại một nhà thờ họ ở phố Vải Thâm1, 200 người viết báo ở Hà Nội đã họp. Hội nghị ra kiến nghị gửi Chính phủ Pháp đòi tự do báo chí...
Lần thứ hai Hội nghị họp lúc 8 giờ 30 phút tối ngày 9-6-1937, được tổ chức tại gác Hội quán thể dục (gần Câu lạc bộ quốc tế hiện nay) gồm 137 người dự,... Hội nghị bàn việc thành lập Nghiệp đoàn Báo giới và bầu Ban trị sự.
Thời kỳ này, đồng chí Đặng Xuân Khu và Võ Nguyên Giáp viết chung cuốn sách mang tên Vấn đề dân cày tập 1 và 2 dưới hai bút danh Qua Ninh (Đặng Xuân Khu) và Vân Đình (Võ Nguyên Giáp). Đến giữa năm 1937, tập 1 cuốn sách đã được xuất bản và xuất hiện trong Hiệu sách Dân chúng ở chợ Đồng Xuân do Phạm Văn Huệ phụ trách. Lời nói đầu của tác phẩm bộc bạch những suy tư của hai tác giả:
Vấn đề dân cày ra đời giữa lúc dân cày vừa ngớt tranh đấu, giữa lúc một số dân cày đương bị tù tội vì đã dự vào mấy cuộc biểu tình “thuế” vừa qua... ______________
1. Có ý kiến nói là Hội quán thể thao (gần Câu lạc bộ quốc tế) và hội nghị này bị cấm.
Chương I: QUÊ HƯƠNG - GIA ĐÌNH - TUỔI TRẺ... 77
... Trong sách này, trước hết chúng tôi đặt vấn đề dân cày trong tình thế hiện tại. Sau chúng tôi xét tính chất giai cấp của dân cày và tình cảnh hiện tại của họ ra sao. Xét đến tình cảnh dân cày, chúng tôi không quên những vấn đề địa tô, sưu thuế, cho vay nợ lãi, ruộng đất, hối lộ, giáo dục, vệ sinh, v.v..
Xét trong tình cảnh dân cày, chúng tôi mới bàn đến chính sách dân cày của ông Brévié, và đề nghị những điều cần phải cải cách. Nhân đó, chúng tôi đặt một bản yêu sách của dân cày trước Mặt trận bình dân Pháp.
Vấn đề dân cày vì thế chia làm 5 chương:
I. Tại sao phải bàn đến vấn đề dân cày?
II. Dân cày là hạng người như thế nào?
III. Tình cảnh hiện tại của dân cày.
IV. Những điều cải cách cần kíp cho dân cày. V. Dân cày và vấn đề tổ chức xã hội ở thôn quê. ... Chúng tôi không có kỳ vọng viết một cái đề án
chính trị (thèse politique). Mục đích chúng tôi không ngoài sự muốn giúp công cuộc cải thiện đời sống dân cày. Cho nên, chúng tôi hết sức ghi chép những điều tai nghe mắt thấy về dân cày một cách vô tư và rõ rệt. Chúng tôi lại không muốn chỉ trích suông, nên trong cuốn sau chúng tôi sẽ bày tỏ những phương pháp có thể
và cần phải làm cho dân cày đỡ khổ.
Hà Nội 25 Juillet 1937
QN và VĐ
78 VÕ NGUYÊN GIÁP - TIỂU SỬ
Trong tác phẩm này, ngoài những tài liệu thu thập được trong những vùng nông thôn quanh Hà Nội như Hà Đông, Sơn Tây, còn có những tài liệu thực địa quê hương Quảng Bình của Võ Nguyên Giáp. Để có tư liệu phong phú, sinh động viết tác phẩm Vấn đề dân cày, Võ Nguyên Giáp đã về quê An Xá gặp các anh em và bạn bè như: Võ Văn Quyết, Võ Chương Hiến, Võ Tào, Võ Hoàng và Võ Thuần Nho trao đổi tình hình và nhờ anh em là “những điều tra viên” nắm ghi chép tình hình về
người nông dân và chế độ phân ruộng đất, sự bóc lột của địa chủ cường hào ở thôn quê, ở Lệ Thủy. Các anh em đã chia nhau đến 11 làng xã trong huyện để nắm tình hình gồm: An Xá, Thạch Bàn, Phú Thọ, Xuân Lai, Quảng Cư, Phan Xá, Quy Hậu, Liêm Thiện, Mỹ Thổ, Trung Lực, Lộc An là những nơi có phong trào đòi dân sinh dân chủ. “Những điều tra viên” nói trên đã dựa vào bà con anh em để tìm hiểu, ghi chép tài liệu chuyển đến cho Võ Nguyên Giáp.
Nhằm tập hợp đội ngũ trí thức đứng dưới ngọn cờ giải phóng, theo sáng kiến của Xứ ủy Bắc Kỳ, Hội Truyền bá quốc ngữ được thành lập. Đồng chí Đặng Xuân Khu trực tiếp trao đổi ý kiến với các nhà trí thức như Phan Thanh, Đặng Thai Mai, Võ Nguyên Giáp,... nhất trí để giáo sư Phan Thanh mời học giả Nguyễn Văn Tố đứng ra tổ chức hội. Cụ Nguyễn Văn Tố, lúc đó đang làm việc tại Học viện Viễn Đông Bác cổ, được bầu