🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Võ Nguyên Giáp - Một Cuộc Đời Ebooks Nhóm Zalo Chịu trách nhiệm xuất bản: Q. GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP PHẠM CHÍ THÀNH Chịu trách nhiệm nội dung: PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP TS. ĐỖ QUANG DŨNG Biên tập nội dung: ThS. LÊ THỊ THANH HUYỀN ThS. NGUYỄN THỊ HẢI BÌNH NGUYỄN THU HƯỜNG ThS. NGUYỄN VIỆT HÀ Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Đọc sách mẫu: NGUYỄN MẠNH HÙNG NGUYỄN THU THẢO NGUYỄN THU HƯỜNG BÍCH LIỄU Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 892-2020/CXBIPH/16-295/CTQG. Số quyết định xuất bản: 4881-QĐ/NXBCTQG, ngày 16/04/2020. Nộp lưu chiểu: tháng 5 năm 2020. Mã ISBN: 978-604-57-5558-7. Biªn môc trªn xuÊt b¶n phÈm cña Th− viÖn Quèc gia ViÖt Nam Ruscio, Alain Vâ Nguyªn Gi¸p - Mét cuéc ®êi : S¸ch tham kh¶o / Alain -- Lời Nhà xuất bản Trong thế kỷ XX, dân tộc Việt Nam đã lập nên hai chiến công chói lọi: đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Mỗi khi nói về hai chiến công vẻ vang ấy, Nhân dân Việt Nam và thế giới thường nhắc tới hình ảnh của vị Đại tướng - Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam Võ Nguyên Giáp. Cuộc đời huyền thoại của ông đã được tổng kết: đánh bại 8 tướng Pháp, 4 tướng Mỹ và là một trong những nhà chỉ huy quân sự lừng danh của thế giới hiện đại. Để tưởng nhớ vị Đại tướng của Nhân dân, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản lần thứ ba cuốn sách “Võ Nguyên Giáp - Một cuộc đời”, được dịch từ cuốn “Vo Nguyen Giap, Une vie” của Giáo sư sử học người Pháp Alain Ruscio, Nhà xuất bản Indes Savantes. Cuốn sách được Giáo sư Alain Ruscio biên soạn qua các cuộc phỏng vấn Đại tướng, từ năm 1979 đến 2008. Tác giả từng được gặp Đại tướng khi còn là phóng viên thường trú, đặc phái viên của báo Nhân đạo (L’Humanité) tại Hà Nội năm 1979, nhân dịp kỷ niệm 25 năm chiến thắng Điện Biên Phủ. Sau này, ông Alain Ruscio còn có nhiều lần được gặp lại Đại tướng... 6 VÕ NGUYÊN GIÁP - MỘT CUỘC ĐỜI Các cuộc trò chuyện giữa Giáo sư Alain Ruscio và Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã được ghi lại như những thước phim sống động về cuộc đời và sự nghiệp của Đại tướng trong tiến trình phát triển và thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, như Giáo sư Alain Ruscio đã nêu ở lời nói đầu, vì “tuổi cao, sức khỏe giảm sút dần, ông (Đại tướng Võ Nguyên Giáp - BT) không có thì giờ đọc lại những ghi chép của tôi” và để xuất bản “tôi đã phải thu gọn lại - toàn bộ phần nói về thời kỳ rất gần đây - đại thể là từ sau năm 1975 - đã không thể đưa vào cuốn sách này”. Cho nên có những đánh giá, phân tích của Đại tướng về một số nhân vật, sự kiện quan trọng được Giáo sư Alain Ruscio ghi trong sách nhưng chưa được Đại tướng xem lại. Trong cuốn sách, Giáo sư Alain Ruscio cũng đưa ra những suy nghĩ, đánh giá của riêng ông, của các học giả phương Tây về một số nhân vật và sự kiện có liên quan tới Cách mạng Tháng Tám, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của dân tộc Việt Nam. Để bạn đọc thuận tiện khi nghiên cứu, tham khảo, chúng tôi giữ nguyên các luận chứng của Giáo sư Alain Ruscio và coi đây là các quan điểm riêng. Nhân đây, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật cũng xin cảm ơn Giáo sư sử học Alain Ruscio vì đã trao tặng bản quyền cuốn sách. Xin giới thiệu cuốn sách với bạn đọc. Tháng 7 năm 2018 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT Lời nói đầu Dạo đó vào tháng 3 năm 1979 tại Hà Nội, đất nước Việt Nam đang trải qua những thời khắc khó khăn nhất trong lịch sử của mình. Những hy vọng - có thể là quá mức - của mùa Xuân 1975 chưa đem lại kết quả mong muốn. Quân đội Trung Quốc vừa chịu thất bại, chắc hẳn rồi, nhưng vẫn còn đang ở biên giới phía Bắc, luôn luôn uy hiếp Việt Nam. Người Việt Nam còn ở Campuchia và dù tự cho là mình đang ở thế phòng ngự chính đáng, vẫn không được dư luận thế giới thông cảm. Phương Tây đang tính bắt Việt Nam phải trả giá đắt cho chiến thắng 1975, áp đặt một cuộc bao vây kinh tế và chính trị hữu hiệu. Nước Pháp dưới thời Giscard d’Estaing không phải là nước cuối cùng phun nọc độc vào thuộc địa cũ của mình. Nước Việt Nam đang gắn bó, mà chắc có lẽ họ muốn tránh, với Liên Xô và Hội đồng Tương trợ kinh tế giữa các nước xã hội chủ nghĩa đang suy yếu trong thập niên cuối cùng tồn tại của mình. Thời kỳ đó tôi đang ở Việt Nam. Là nhà báo, đặc phái viên thường trú của báo L’Humanité, nhưng là 8 VÕ NGUYÊN GIÁP - MỘT CUỘC ĐỜI nhà sử học được đào tạo làm nghề, thật sự tôi không quên ngày kỷ niệm lần thứ 25 chiến thắng Điện Biên Phủ (7 tháng 5) sắp đến gần, tôi thấy đó là một động cơ cũng như một… cái cớ để xin được gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Lời thỉnh cầu được tiếp nhận. Tuy nhiên, Vụ Báo chí - Bộ Ngoại giao đã yêu cầu tôi chỉ được phỏng vấn trong khoảng một giờ vì Đại tướng rất bận. Tôi hiểu cụm từ “rất bận” này theo một ý khác: Tướng Giáp không còn là Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam vẫn thường cho ý kiến về các vấn đề quân sự ở biên giới phía Bắc. Hôm đó trên phố phường Hà Nội nghèo khó, đầy xe đạp và cái tàu điện già nua thời thuộc địa để lại, tôi nghĩ rằng tôi sắp đến Cuộc hẹn với Lịch sử. Và cuối cùng, tuy cách dùng chữ của tôi hơi hoa mỹ, sự thật cũng gần đúng như thế. Tôi không nhớ chính xác chỗ hẹn lần đầu tiên ấy là chỗ nào, ngược lại, tôi vẫn nhớ như in trong tâm trí hình ảnh đầu tiên về Tướng Giáp đứng đợi tôi ở đầu cầu thang và đôi mắt tôi không thể rời khỏi bóng dáng ông trong khi tôi thong thả bước lên các bậc thang. Cuộc tiếp xúc đầu tiên đã diễn ra rất nồng nhiệt. Vị “Đại tướng chỉ tiếp được khoảng một tiếng” và chúng tôi đã ở bên nhau ba tiếng đồng hồ. Việc mang hai danh nghĩa - nhà báo của tờ L’Humanité và nhà sử học chuyên nghiên cứu về chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất - rõ ràng đã giúp tôi rất nhiều. LỜI NÓI ĐẦU 9 Lễ kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ lần thứ 25 đó… rồi đến kỷ niệm lần thứ 50 cũng đã qua đi… Từ ba mươi năm nay tôi đã gặp lại ông trong mỗi lần đến thăm Việt Nam - và cũng đã nhiều lần rồi -, chỉ có một ngoại lệ là gần đây vào tháng 1 năm 2010, ông không thể tiếp tôi vì đã yếu quá rồi ở cái tuổi ngót nghét một trăm… Cứ mỗi lần được ông tiếp, tôi ghi chép hàng trang… hàng trang trong cuốn sổ tay. Cũng hoàn toàn tự nhiên tôi nảy ra ý tưởng cho ra đời một cuốn sách về những cuộc trò chuyện với Tướng Giáp. Nhưng không dễ chút nào. Vị Đại tướng cũng như những người Việt Nam khác, những người cộng sản thường như vậy, không thích xưng “tôi” trong khi trò chuyện. Không phải là sự khiêm nhường giả tạo, khi ông khẳng định “chính là quần chúng nhân dân đã làm nên Lịch sử”, là một nhà mácxít chân chính, ông tin vào điều mình nói. Ông không phải là người cha của Quân đội nhân dân Việt Nam hay sao? Không phải là người chiến thắng ở Điện Biên Phủ, không phải là nhà chiến lược trong cuộc chiến tranh chống lại đế quốc Mỹ? Chắc chắn là phải như thế. Tôi đã phải năn nỉ để ông nhận lời tiếp chuyện tôi. Rồi sau đó, cũng phải đợi để ông cho phép công bố. Giữa hai chúng tôi đã có lúc nói vui với nhau: - Khi nào thì được công bố, thưa ông? - Đến lúc nào thời gian cho phép… 10 VÕ NGUYÊN GIÁP - MỘT CUỘC ĐỜI Trung thành với lời nói của mình, tôi đã đợi đến lúc thời gian cho phép… Cuối cùng tôi đã phải thu gọn lại - toàn bộ phần nói về thời kỳ rất gần đây - đại thể là từ sau năm 1975 - đã không thể đưa vào cuốn sách này. Tướng Giáp là một người rất ưa hoạt động nhưng tuổi cao, sức khỏe giảm sút dần, ông không có thì giờ đọc lại những bản ghi chép của tôi… Vì vậy, đây là cuốn tư liệu vốn như thế nào thì nay vẫn như thế, đã đến với bạn đọc. Đó là một tượng đài của lịch sử thế giới đang nói chuyện với bạn đọc. Tất nhiên là cách phát biểu, thường hay được sử dụng nên đôi khi không đúng với ý nghĩa thật sự phải có. Nhưng chỉ cần vài giây suy nghĩ cũng thấy có người nào đã có thể hòa lẫn cuộc đời của mình với bao sự kiện lớn lao của lịch sử nhân loại ở thế kỷ XX, trong đó phần trọng yếu là thuộc lịch sử của Việt Nam! Giáo sư dạy sử Trước khi đi vào thời kỳ mà cuộc đời ông gắn chặt với những thời điểm quyết định của lịch sử đất nước ông - và lịch sử thế giới - tôi muốn ông nhớ lại thời còn trẻ, ông đã lên lớp giảng dạy môn Lịch sử, như tôi được biết, đó là tại Trường Thăng Long? Đúng là như vậy. Ngôi trường này không có mùi vị thánh thiện gì với nhà cầm quyền thuộc địa! Nhưng phải nói rằng vị Hiệu trưởng là ông Hoàng Minh Giám1, một nhà yêu nước chân chính, đảng viên Đảng Xã hội, và các thầy giáo đứng lớp được xem như - thường là đúng - những người cộng sản, và như thế họ được Sở Mật thám giám sát chặt chẽ, trong đó có cụ Đặng Thai Mai, sau này là ông nhạc tôi… _________ 1. Năm 1945, ông Hoàng Minh Giám là Bộ trưởng Ngoại giao của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (TG). Có lẽ tác giả có sự nhầm lẫn về thời gian. Tháng 3 năm 1947, ông Hoàng Minh Giám mới giữ chức Bộ trưởng Bộ Ngoại giao và đảm nhiệm cương vị này đến năm 1954 (theo Bộ Ngoại giao: Chân dung năm cố Bộ trưởng Ngoại giao, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 24) (BT). 12 VÕ NGUYÊN GIÁP - MỘT CUỘC ĐỜI Và cả chính ông nữa? Tôi chỉ bị “chú ý” chút đỉnh thôi1... Chúng ta trở lại vài thập niên nhé. Hãy tưởng tượng tôi là học trò của ông. Ông sẽ dạy tôi những gì về quá khứ của đất nước ông? Ông nói rất đúng là hãy bắt đầu bằng Lịch sử Việt Nam, thời gian lâu, rất lâu trước khi tổ tiên người Pháp các ông đến (Việt Nam…). Ông biết câu: “Lịch sử là mẹ đẻ ra mọi sự thật…”. Gần đây, chúng tôi đã kỷ niệm 600 năm ngày sinh Nguyễn Trãi2. UNESCO cũng ghi việc kỷ niệm đó vào chương trình hoạt động của họ, như vậy đã nhấn mạnh đến sự đóng góp của người anh hùng dân tộc của chúng tôi vào nền văn hóa thế giới. Ở Việt Nam, từ rất sớm đã hình thành một nền văn minh. Người ta có thể nói đến một nền văn minh ra đời trong thung lũng một dòng sông, cũng như ở nơi khác, ở _________ 1. Võ Nguyên Giáp bị Sở Mật thám Pháp coi là thủ phạm trong những hoạt động “có thiện cảm với những phần tử Staline” (theo Thư của Thống sứ Bắc Kỳ gửi Toàn quyền Đông Dương (Tướng Catroux), đề ngày 16 tháng 01 năm 1940, CAOM, Aix-en-Provence). Cảm ơn anh bạn Yves Le Jariel đã cho tôi biết tư liệu này. (CAOM là tên viết tắt của Trung tâm lưu trữ Pháp quốc hải ngoại, đặt tại Aix-en-Provence - ND). 2. Đại văn hào Việt Nam (1380-1442). Tác giả nhiều bài thơ Nôm, đồng thời là nhà chính trị, bạn chiến đấu gần gũi và quân sư của Lê Lợi, vị anh hùng dân tộc đã lãnh đạo thắng lợi cuộc khởi nghĩa chống lại ách đô hộ của nhà Minh. GIÁO SƯ DẠY SỬ 13 Mésopotamie (Lưỡng Hà) chẳng hạn. Trường hợp chúng tôi, đó là vùng châu thổ giàu có của con sông Hồng. Ở Mésopotamie cũng như ở nhiều nơi khác, đó là theo một chu kỳ cổ điển: phát triển, hưng thịnh và suy tàn. Còn ở đây, nền văn minh sông Hồng, trái lại, không ngừng phong phú. Người ta có thể thấy, trong thời gian đầu, hàng chục bộ lạc sống một cách tự lập trong vùng châu thổ cũng như vùng núi… Nói tự lập không có nghĩa là biệt lập, không có liên hệ gì với nhau. Trái lại, ở một số thời kỳ lịch sử họ liên minh với nhau, cũng có khi tranh giành nhau, chiến tranh với nhau. Tuy nhiên tính cách “liên minh với nhau” được khẳng định rõ ràng nhất. Vì những lý do gì, thưa ông? Trước hết là phải đoàn kết để đấu tranh với sự thất thường của thiên nhiên, bão lụt đủ các loại, để tạo cuộc sống ít nhiều được ổn định. Chính vì thế mà từ rất sớm, chúng tôi đã xây dựng một hệ thống đê điều, kênh rạch chằng chịt, lao động tập thể không phải là một lựa chọn, mà là sự bắt buộc do thiên nhiên áp đặt. Đó chính là điều kiện cơ sở để liên minh, đoàn kết giữa các bộ lạc. Lý do thứ hai là sức ép từ bên ngoài. Chúng tôi luôn phải sống trước mối đe dọa xâm lược từ phương Bắc. Theo ý tôi, đó là nguyên nhân căn bản của việc nền văn minh sông Hồng ra đời từ rất sớm và có sức đề kháng dẻo dai, một trong những nền văn minh đầu tiên trong lịch sử nhân loại. 14 VÕ NGUYÊN GIÁP - MỘT CUỘC ĐỜI Có thể đi đến thành lập một nhà nước? Đúng thế. Từ thời Văn Lang1. Ăngghen đã nói nhiều lần rằng việc thành lập nhà nước đánh dấu một giai đoạn quan trọng của sự phát triển xã hội loài người. Và cho tới nay người ta có thể khẳng định nền văn minh của chúng tôi ra đời cách đấy rất lâu, có sức sống phi thường. Tôi muốn chia sẻ một nhận xét của tôi những khi đến làm việc ở đây, tôi rất chú ý đến vai trò của Lịch sử, luôn luôn hiện hữu trong mỗi phản ứng của dân chúng, trong mỗi văn kiện của Chính phủ, trong mỗi cuộc trò chuyện với những người Việt Nam ở mọi giới, ở bất kỳ trình độ học vấn nào, có thể nói Lịch sử dân tộc đã nhập tâm mỗi con người. Hiện tượng đó nổi bật hơn phần lớn những nước khác mà tôi biết, nhất là ở châu Âu. Tôi hình dung là ông đã nghiên cứu lịch sử châu Âu thời Trung cổ. Ông đã thấy ở đó nhiều cuộc giao tranh giữa các tập đoàn phong kiến, những vụ chém giết, tranh giành lẫn nhau giữa các phe phái. Tính chất dân _________ 1. Theo truyền thuyết, Lạc Long Quân cưới Âu Cơ làm vợ, sinh ra trăm người con trai. Năm mươi người con theo cha xuống vùng ven biển, năm mươi người con khác theo mẹ lên miền núi. Lạc Long Quân truyền ngôi cho người con cả, lập nên triều đại Hùng Vương, đứng đầu Vương quốc Văn Lang ở châu thổ sông Hồng, cách đây 4.000 năm. Kết quả nghiên cứu lịch sử hiện nay cho biết nhà nước của các vua Hùng là vào đầu thế kỷ VII trước Công nguyên. GIÁO SƯ DẠY SỬ 15 tộc được khẳng định muộn với những giai đoạn nổi bật như cuộc chiến tranh của Jeanne d’Arc ở nước ông. Nước Việt Nam ra đời từ những cuộc chiến tranh liên miên để bảo vệ sự tồn tại của dân tộc như các cuộc khởi nghĩa dân tộc, những cuộc chiến tranh dân tộc. Cuộc xâm lược đầu tiên được nói đến trong thư tịch xưa là của Tần Thủy Hoàng ở thế kỷ III trước Công nguyên1. Cái nôi của nền văn minh Trung Hoa là thung lũng sông Hoàng2 cách biên giới phía nam ngày nay của Trung Quốc hàng nghìn cây số. Tần Thủy Hoàng đã lần lượt thu phục hàng trăm tiểu vương quốc ở miền Nam Trung Hoa và thống nhất lại thành một đế quốc rộng lớn. Nhưng khi tiếp xúc với nền văn minh Văn Lang, Tần Thủy Hoàng đã vấp phải sự kháng cự của cả một dân tộc. Thư tịch cổ Trung Hoa cũng đã nói đến điều này. “Dân chúng chống lại. Họ cử ra những người can đảm nhất, thông minh nhất chỉ huy cuộc kháng chiến. Ban ngày họ ẩn nấp nơi kín đáo, ban đêm họ xông ra để đánh lại quân Tần”. Thư tịch xưa cũng nêu rõ con số người chết trong hàng ngũ quân đội nhà Tần là rất lớn. Cuối cùng quân Tần lần đầu tiên bị thua. Rồi sau đó _________ 1. Tần Thủy Hoàng là vua trị vì nhà Tần từ năm 247 đến 210 trước Công nguyên, người sáng lập nhà nước phong kiến tập trung phía bắc Trung Hoa. Thủy Hoàng đế có nghĩa là Hoàng đế đầu tiên, đã phái quân đi đánh Việt Nam khoảng năm 211 đến 214 trước Công nguyên và lập bộ máy quân sự để cai quản. 2. Hay còn gọi là Hoàng Hà. 16 VÕ NGUYÊN GIÁP - MỘT CUỘC ĐỜI còn nhiều cuộc chinh phục nữa. Thế kỷ I trước Công nguyên, đất nước tôi bị phong kiến phương Bắc đô hộ kéo dài hơn một nghìn năm1. Thời gian đô hộ quả là rất dài và có lẽ quá đủ để đồng hóa cả một thực thể chính trị không được bám sâu trong dân tộc. Vậy mà người ta nhận thấy việc đồng hóa đã không thực hiện được. Trong hơn một nghìn năm đó, dân tộc chúng tôi từ trước cuộc chinh phục đã được khẳng định thay vì bị hòa tan. Đã có nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra. Cuộc khởi nghĩa đầu tiên do hai chị em họ Trưng2 vào đầu thế kỷ I sau Công nguyên. Đặc điểm của cuộc khởi nghĩa này là mang tính chất nhân dân. Thư tịch Trung Quốc cũng miêu tả cho chúng ta biết cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng lan rộng khắp 65 huyện, thành, tức là hầu hết vùng châu thổ - khắp cả nước. Cuối cùng, vào thế kỷ X đã có cuộc tiến công có tính quyết định chống lại kẻ chiếm đóng. Năm 905, toàn thể dân chúng một lần nữa nổi lên và Khúc Thừa Dụ, một hào trưởng, một nhà hiền triết _________ 1. Từ năm 111 trước Công nguyên đến năm 939 sau Công nguyên. 2. Hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị là hai nữ anh hùng dân tộc, ngày nay mọi người dân Việt Nam không ai là không biết. Trưng Trắc và em là Trưng Nhị đều xuất thân từ tầng lớp quý tộc Việt Nam, đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống lại quân Hán chiếm đóng năm 40 sau Công nguyên. Hai bà xưng vua và duy trì một vương quốc độc lập trong hai năm trước khi bị thua trong một cuộc phản kích của quân Hán. GIÁO SƯ DẠY SỬ 17 được toàn dân kính trọng tôn làm người đứng đầu chính quyền tự chủ. Mấy năm sau, một tướng của họ Khúc là Dương Đình Nghệ1 đánh đuổi người Trung Quốc ra khỏi đất nước. Nhưng ông bị nội phản ám hại, con rể là Ngô Quyền kéo quân về kinh đô một lần nữa đánh đuổi quân nhà Hán định lấy lại vùng châu thổ. Có lẽ ông đã biết chuyện chiến thắng trên sông Bạch Đằng năm 9392, Ngô Quyền đã cho cắm xuống cửa sông những dãy cọc to vót nhọn. Khi chiến thuyền quân Nam Hán tiến gần vào lúc thủy triều lên, Ngô Quyền giả thua rút chạy. Quân Nam Hán thừa thắng đuổi theo. Khi thủy triều xuống, Ngô Quyền đã quay lại và phản công mãnh liệt. Quân Nam Hán cố chạy trốn nhưng thuyền chiến của họ đâm vào cọc nên đều bị đắm cả. Tôi có ấn tượng rất rõ là một nghìn năm sau, khi người Việt Nam nói về những sự kiện đó đều giữ trong trái tim một niềm tự hào. Đó là chủ nghĩa dân tộc hay là chủ nghĩa yêu nước? Tôi gọi đó là chủ nghĩa yêu nước và chỉ là chủ nghĩa yêu nước. Bởi lẽ ông đừng quên rằng tôi chỉ nêu lên những giai đoạn chiến tranh bảo vệ dân tộc. Tổ quốc _________ 1. Hào mục Việt Nam nổi dậy chống quân đô hộ phương Bắc năm 931, cầm quyền trong 10 năm trước khi bị sát hại. 2. Trận thắng Bạch Đằng do Ngô Quyền chỉ huy diễn ra vào năm 938 (BT). 18 VÕ NGUYÊN GIÁP - MỘT CUỘC ĐỜI chúng tôi bị chà đạp. Tổ tiên của chúng tôi đã biết đánh đuổi kẻ áp bức. Thế rồi bắt đầu thời kỳ thứ hai, từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX. Một bên là nước Đại Việt - một vương quốc Việt Nam độc lập. Một bên là nước Trung Hoa đã thống nhất. Trong thiên niên kỷ thứ hai này không có một triều đại nào của phong kiến Trung Hoa không muốn sáp nhập nước chúng tôi vào đế quốc của họ. Tất cả đều thất bại, ngay cả cuộc xâm lược thế kỷ XIII của đế quốc Nguyên - Mông của Thành Cát Tư Hãn1 - người đã chinh phục phần lớn lục địa Trung Hoa. Tại Việt Nam, quân Nguyên - Mông đã ba lần kéo sang xâm lược. Cả ba lần họ đã tới được kinh đô, lúc đó gọi là Thăng Long. Ba lần họ đều bị đánh đuổi và thất bại nhục nhã. Chắc ông biết rõ thiên tài quân sự vĩ đại của tướng quân Trần Hưng Đạo, một trong những vị anh hùng dân tộc của chúng tôi, đã đánh bại quân xâm lược Mông Cổ. Tôi xin kể lại một giai thoại. Cách _________ 1. Đầu thế kỷ XIII, sau khi thống nhất Mông Cổ và chiếm được Bắc Kinh, Thành Cát Tư Hãn tiếp tục bành trướng xuống phía nam chiếm Nam Tống. Sau khi chinh phục được toàn bộ Trung Quốc, người Mông Cổ tiến đánh Vương quốc Việt. Năm 1257-1258, quân xâm lược Mông Cổ ban đầu chiếm được Thăng Long, đốt phá kinh đô của người Việt, nhưng sau đó phải rút về vì không bảo đảm được nguồn tiếp tế từ căn cứ xuất phát của họ vốn cách rất xa lãnh thổ Việt Nam. Năm 1285 và 1287, quân Mông Cổ lại sang hai lần nữa. Trần Hưng Đạo thống lĩnh quân đội đánh tan cả hai đội quân thủy, bộ Mông Cổ. GIÁO SƯ DẠY SỬ 19 đây vài năm, tôi đến thăm Bảo tàng Ulanbato của các đồng chí Mông Cổ, ở đó có trưng bày một tấm bản đồ về châu Á thời Trung cổ thể hiện nước Mông Cổ thời cực thịnh, bao gồm cả Việt Nam. Tôi nói với đồng chí Giám đốc bảo tàng: Việt Nam là một trong số ít nước người Mông Cổ không chiếm được lâu. Tôi nói một trong số ít nước vì còn có Nhật Bản được biển bảo vệ. Một thử thách lớn khác: cuộc xâm lược và đô hộ của nhà Minh đầu thế kỷ XV? Nền đô hộ đó “chỉ” kéo dài hơn mười năm nhưng rất ghê gớm đối với người dân và cả dân tộc chúng tôi. Nước Trung Hoa lúc đó đã trở thành một quốc gia hoàn chỉnh với một nền văn minh tỏa sáng. Nói thế có nghĩa là ý đồ đồng hóa còn lớn hơn nữa so với thời kỳ đô hộ ở thiên niên kỷ thứ nhất. Người Minh đã có một kế hoạch được bàn bạc kỹ lưỡng, có hệ thống nhằm xóa bỏ hoàn toàn dân tộc Việt Nam, biến Việt Nam thành một tỉnh của mình. Do đó có chiếu chỉ của hoàng đế nhà Minh là: đốt hết sách vở, phá hủy bia ký, không để lại một chứng tích nào về nền văn minh Đại Việt, ép buộc người Việt phải theo phong tục của phong kiến Trung Quốc. Người ta bắt thợ thủ công, tất cả những ai có kiến thức công nghệ đem về Trung Hoa. Chính lúc đó, Lê Lợi có Nguyễn Trãi phò tá, đứng lên lãnh đạo cuộc đấu tranh dân tộc. Đó là một cuộc chiến tranh thật sự của toàn dân. Mỗi người Việt Nam đều tham gia chiến đấu. 20 VÕ NGUYÊN GIÁP - MỘT CUỘC ĐỜI Không thể không có nhận xét sáng suốt này: các ông có cầu viện Lịch sử điều gì không? Tinh thần yêu nước của các ông là điều hiển nhiên. Tuy nhiên nhiệt tình của các ông có đưa các ông đi quá xa không? Ví như các ông sử dụng thường xuyên cụm từ “Dân tộc” theo nghĩa từ những thời kỳ xa xưa, có xem đó là vật bảo chứng không? Như thế có phải là lỗi thời không? Hãy đọc lại Nguyễn Trãi, ông sẽ thấy trong đó có hai khái niệm được cách tân một cách đáng ngạc nhiên. Khái niệm “nhân”. Chúng ta sẽ quay lại vấn đề này, nếu ông muốn. Không phải hôm nay tôi nói đến “dân tộc”, đến “quốc gia” Việt Nam. Trong “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi đã để lại một tác phẩm khơi gợi lòng yêu nước, theo tôi biết, đó là một tác phẩm xưa nhất của tư tưởng phổ biến toàn nhân loại: Như nước Đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục Bắc Nam cũng khác Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau Song hào kiệt thời nào cũng có. Có bài thơ nào thấm đẫm lòng tự hào dân tộc như thế không? Theo con mắt của Nguyễn Trãi, điều không thể GIÁO SƯ DẠY SỬ 21 chối cãi, nước Đại Việt là một quốc gia, một dân tộc vì Đại Việt là một quốc gia riêng biệt có phong tục tập quán riêng, trong đó cộng đồng dân cư người Việt có nền văn hóa - văn minh và quá trình phát triển lịch sử chung trong một lãnh thổ được xác định bền vững… Trên hết là một tinh thần độc lập, vượt qua mọi thử thách. Ngày nay, nhiều bình luận có nhược điểm ngay từ gốc là đánh giá thấp nhu cầu cấp thiết có từ sớm của chúng tôi khi phải đối phó với một nguy cơ từ bên ngoài. Nhu cầu đó đã làm nảy sinh sự thống nhất dân tộc dưới nhiều dạng khác nhau. Ví như, người ta tìm thấy tại Việt Nam một số hình thái dân chủ ở cơ sở mà phong kiến châu Âu không hề biết. Phần lớn bản thân các tầng lớp phong kiến đều muốn độc lập cho đất nước. Họ hiểu rằng chỉ có chiến tranh toàn dân mới đánh đuổi được bọn xâm lược. Trần Hưng Đạo cho rằng phải “sâu rễ, bền gốc”, nghĩa là nhân dân là những rễ giữ cho cây đứng được vững bền. Vậy, người ta có thể khẳng định Việt Nam đã có một nền văn minh riêng của mình? Đến lượt tôi xin hỏi lại ông: trên thế giới này có nước nào lại không có một nền văn minh riêng?! Chắc chắn là không. Trong toàn bộ lịch sử, có những sự giao thoa thường xuyên giữa các nền văn minh. Vậy tuyệt nhiên không có vấn đề nhận định rằng Việt Nam có một nền văn minh hoàn toàn tách biệt khỏi mọi nền văn minh khác, đặc biệt 22 VÕ NGUYÊN GIÁP - MỘT CUỘC ĐỜI là nền văn minh Trung Hoa. Nhưng tôi tin rằng người ta có thể nói đến một cá tính riêng với các khía cạnh khác hẳn nền văn minh Trung Hoa. Chúng ta hãy lấy Đạo Khổng làm ví dụ. Ngay từ thời Bắc thuộc, các thầy học thời đó đã muốn áp đặt cách tư duy Khổng học cho người dân Việt. Đạo Khổng, đó là ý thức hệ phản ánh trước hết quan điểm của các chủ nô, địa chủ. Khổng phu tử và đồ đệ trực tiếp của ông sống trong một nhà nước nô lệ đang suy tàn và đã biết chế độ phong kiến đang hình thành ở nước Trung Hoa cổ đại. Họ bày tỏ sự miệt thị đối với lao động, những người lao động chân tay, họ hết sức tách biệt những người “tử tế”, những “quân tử” khỏi người dân. Vận mệnh người dân chỉ là hầu hạ. Ở Việt Nam, nguy cơ trực tiếp đặt ra sự cần thiết phải tôn trọng - ít nhất là một phần - nhân dân, gắn người dân với cuộc chiến đấu cho dân tộc. Ông hãy đọc lại Nguyễn Trãi một lần nữa, hãy nghiên cứu hành động của Lê Lợi, không có dấu tích gì tỏ ra khinh miệt nhân dân. Trái lại. Một vấn đề khác: Khổng Tử không biết đến khái niệm “Tổ quốc”. Ông đi chu du hết nước này đến nước khác. Còn chúng tôi, chúng tôi có một Tổ quốc. Sau đó là tổ tiên chúng tôi, những người Âu đầu tiên ở thế kỷ XVII (những nhà truyền giáo đầu tiên)... thế kỷ XIX (những nhà binh)… những vai diễn mới của lịch sử, ở Viễn Đông đến đảo lộn những mối tương quan lực lượng từ lâu đời trong vùng này của thế giới. Năm 1858 đánh dấu cuộc xung đột lớn đầu tiên giữa người Pháp GIÁO SƯ DẠY SỬ 23 và người Việt trước cảng Đà Nẵng, mà sau này thực dân gọi là Tourane. Sau đó ít lâu, toàn bộ lãnh thổ Việt Nam bị thực dân đô hộ… Đúng thế. Đó là một thử thách lớn trong lịch sử dân tộc chúng tôi. Chúng tôi mất độc lập trong gần một trăm năm. Ôi! Không phải là không có kháng cự, không có khởi nghĩa, quấy rối, tiêu hao bọn chiếm đóng. Nhưng cuối cùng, bọn đế quốc đã dần dần áp đặt sự thống trị của chúng. Một vấn đề căn bản đặt ra với đất nước chúng tôi. Nước chúng tôi không lớn, nền kinh tế lạc hậu, chúng tôi không có quân đội hiện đại, “một nước nhỏ làm sao có thể đánh bại một kẻ thù mạnh như nước Pháp có thuộc địa, có nền kinh tế hiện đại, có quân đội hùng mạnh?”. Vấn đề này có ý nghĩa vượt xa biên giới Việt Nam, vì cũng vào thời điểm ấy các nước khác ở châu Á và châu Phi cũng đã trở thành thuộc địa. Trong thời gian đầu, đó là những sĩ phu yêu nước lãnh đạo cuộc đấu tranh. Nhưng họ đấu tranh nhân danh truyền thống, nhân danh chủ nghĩa bất bạo động (immobilisme). Ngoại trừ một số trường hợp may mắn, họ còn có một lập luận bảo thủ, thậm chí phản động. Một số người cho rằng mọi tiến bộ, tiến hóa đều đáng lên án và những tiếp xúc với thế giới bên ngoài là nguyên nhân của mọi điều bất hạnh. Sau đó, những trí thức xuất thân từ tầng lớp tiểu tư sản hay tư sản bậc trung đã nối tiếp họ lãnh đạo đấu tranh. Nhưng họ cũng thất bại. Phong trào dân tộc của người Việt Nam đi tìm con đường của mình phải mất nửa thế kỷ mới tìm thấy. Người thanh niên yêu nước Chúng ta đã đến thời kỳ trải nghiệm của bản thân ông gắn chặt với lịch sử của dân tộc. Tôi mong được đề cập tiểu sử của chính ông. Nhưng tôi bắt đầu muốn tìm hiểu Việt Nam, tôi đã hiểu trong một nước xã hội chủ nghĩa người ta không thích nói nhiều đến bản thân mình. Đôi chút nếu như quan điểm “duy vật lịch sử” không tương thích với vai trò thật sự của các cá nhân đặc biệt, tôi quyết tâm tiến hành việc nghiên cứu hồ sơ lưu trữ và các tài liệu có liên quan đến cá nhân ông. Tôi xin kể lại các kết quả đã đạt được. Tôi sẵn sàng để ông ngắt lời nếu ông phát hiện ra những nhầm lẫn của tôi hoặc ông thấy tôi hiểu sai… Ông sinh ngày 25 tháng 8 năm 19111 tại làng An Xá, tỉnh Quảng Bình, thuộc miền Trung. Điều đó có _________ 1. Gérard Lê Quang viết ngày sinh của Tướng Giáp là ngày 01 tháng 9 năm 1910. Georges Boudarel chỉ ghi năm sinh 1910. Chính Võ Nguyên Giáp đã nói cho tôi ngày tháng năm sinh chính xác của ông. NGƯỜI THANH NIÊN YÊU NƯỚC 25 thể là một biểu tượng: Quê quán ông cách không xa, nơi sau này là giới tuyến hai miền Bắc - Nam của Việt Nam. Có thể nói trong tiểu sử của ông, ông đã chứng kiến sự chia cắt đất nước ở vĩ tuyến 17 trong suốt gần 20 năm đã gây ra nỗi đau xót cho mỗi người dân Việt Nam. Cha ông, cụ Võ Quang Nghiêm là một tiểu nông nghèo khổ nhưng cũng sở hữu một mảnh đất. Như một số nông dân thời đó, cụ Nghiêm cũng là nhà nho, nghĩa là biết đọc và biết viết chữ Hán và chữ Nôm. Mẹ ông là một phụ nữ hiền thục, đã có ảnh hưởng lớn với ông. Cha mẹ và họ hàng chung quanh đều là những người yêu nước. Thời thơ ấu ông đã được mẹ hát ru bằng những bài ca yêu nước, những câu chuyện về các chiến công trong những cuộc kháng chiến chống lại người Pháp. Trong tỉnh Quảng Bình không bao giờ ngừng phong trào đấu tranh sôi sục cho nền độc lập dân tộc. Ngay từ năm 1923, ông đã vào Huế học tại Trường Quốc học Huế. Huế là thành phố kinh đô của chế độ quân chủ Việt Nam, trong thực tế, là con tin của chính quyền thuộc địa Pháp. Tại đây phong trào dân tộc còn mạnh hơn vùng nông thôn. Ông còn giữ được nhiều kỷ niệm rõ rệt về tuổi thơ của ông không? Khi ở tuổi thanh thiếu niên, người ta yêu đất nước mình, hằng ngày phải chứng kiến hàng nghìn cảnh bất công, chuyện phật lòng, đôi khi ghê sợ của chủ nghĩa thực dân, khi phải chia sẻ những nỗi tức giận 26 VÕ NGUYÊN GIÁP - MỘT CUỘC ĐỜI của một dân tộc bị chà đạp thì thật khó mà quên được. Tôi còn nhớ tên tuổi những người làm chúng tôi xúc động. Chúng tôi đã đọc “Hải ngoại huyết thư” của Phan Bội Châu1. Chúng tôi ngấu nghiến đọc Tiếng chuông rè2. Năm 1926, tôi tham gia vào cuộc biểu tình lớn toàn quốc chống thực dân Pháp, nhân dịp đám tang Phan Châu Trinh3, do đó tôi bị đuổi học. Lúc đó tôi còn đang là thanh niên, chính sự giác ngộ dân tộc _________ 1. Phan Bội Châu là nhà tư tưởng dân tộc chủ nghĩa vĩ đại giữa hai cuộc thế chiến. Ông cho rằng thanh niên phải hướng tầm nhìn ra thế giới bên ngoài (Trung Hoa dân quốc, nước Nhật duy tân) để tìm ra con đường giải phóng. Là con người hành động, Phan Bội Châu tổ chức các nhóm chính trị, trong đó có Việt Nam Quang phục Hội năm 1912. Phan Bội Châu bị mật thám Pháp bắt năm 1925, rồi bị giam lỏng tại nhà riêng ở Huế. Hoạt động của Phan Bội Châu có ảnh hưởng quan trọng và lớn đối với ông Giáp cũng như nhiều người yêu nước ở thế hệ ông. 2. Tên một tờ báo xuất bản tại Sài Gòn của một nhóm có tư tưởng xã hội do Nguyễn An Ninh đứng đầu. Tờ báo có ảnh hưởng sâu rộng với tất cả người yêu nước. 3. Phan Châu Trinh là nhà lãnh đạo dân tộc chủ nghĩa giữa hai cuộc thế chiến. Không cấp tiến bằng Phan Bội Châu, ông cho rằng hoạt động hợp pháp có thể đem lại kết quả trong tinh thần hợp tác với các phần tử cởi mở nhất của chế độ thực dân. Ông dần dần thất vọng và từ bỏ những nguyên tắc của mình. Đám tang ông năm 1926 đã mang tính chất một cuộc biểu tình thật sự diễn ra trong toàn quốc để biểu thị phản đối chế độ thực dân Pháp. NGƯỜI THANH NIÊN YÊU NƯỚC 27 đã hướng dẫn chúng tôi. Nhưng chúng tôi cũng nghe thấy chung quanh người ta nói tới phong trào cách mạng. Người ta sôi nổi nói đến Cách mạng Tân Hợi năm 1911 tại Trung Quốc, Cách mạng Tháng Mười, Quảng Châu Công xã. Người ta cũng gợi đến nhưng kém thường xuyên hơn, hình như là phong trào Duy Tân dưới triều Minh Trị ở Nhật Bản. Tất cả những thứ đó hết sức lẫn lộn trong đầu óc chúng tôi. Có thể nói, lúc đó chúng tôi thấm đượm tinh thần yêu nước có màu sắc xã hội chủ nghĩa, chống lại mọi áp bức. Tóm lại là một chương trình đẹp đẽ. Nhưng tất cả đều chưa rõ rệt trong tâm trí chúng tôi. Lúc đó tôi mới 20 tuổi. Tôi đã gia nhập Đảng Tân Việt1, lúc đó là đảng theo chủ nghĩa dân tộc nhưng đồng thời có những chủ trương tiến bộ rõ rệt. Ông có thể nói chính xác thời gian nào ông đã nghe thấy lần đầu tiên về chủ nghĩa Mác? Tôi nói về thời kỳ, mà xin chớ quên rằng lúc đó chưa có đảng cộng sản ở nước tôi. Thêm nữa, mọi sách báo gọi là “mang tính lật đổ” tất nhiên là bị cấm _________ 1. Tân Việt cách mạng Đảng là đảng chính trị thành lập năm 1925, hoạt động chủ yếu tại Trung Kỳ, nhanh chóng tiếp thu ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác. Một đảng viên khác của Tân Việt khá nổi tiếng là Trần Phú, sau này là Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương. 28 VÕ NGUYÊN GIÁP - MỘT CUỘC ĐỜI triệt để. Trong Đảng Tân Việt có những đảng viên cộng sản hoạt động. Tôi thấy cách giải thích của họ rất sáng tỏ. Nhưng lúc đó tôi chưa đến 20 tuổi. Tất cả những điều tôi còn nhớ được là hôm chúng tôi qua nhà thầy Võ Liêm Sơn, cũng đang dạy trong Trường Quốc học Huế. Trong lúc tôi đang bị theo dõi, thầy tiếp tôi rất nồng nhiệt. Chính trong thư viện của thầy mà tôi thấy những cuốn sách đầu tiên về chủ nghĩa Mác. Cảm tưởng của ông lúc đó ra sao? Thế hệ chúng tôi đến với chủ nghĩa Mác không phải bằng một sự lựa chọn độc đoán, gần như ngẫu nhiên, giữa nhiều sự lựa chọn khác mà tất cả đều có giá trị. Không phải thế. Đó là thông qua một sự suy nghĩ về nguyên nhân làm đất nước tôi bị xiềng xích, về các cách thức để giải phóng, dần dần dẫn dắt chúng tôi đến sự lựa chọn chính trị đó. Chính Hồ Chí Minh khi còn trẻ cũng đã tin rằng con đường dẫn tới giải phóng là ở đó, khi Người được đọc Luận cương của Lênin. Ông cũng biết Lênin đã bổ sung vào công thức nổi tiếng của Mác - Ăngghen: “Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại” thành “Vô sản thế giới và các dân tộc bị áp bức liên hiệp lại”, nhấn mạnh vị trí lớn lao của vấn đề dân tộc đối với phong trào cách mạng thế giới. Bản thân tôi, một thập niên sau Bác Hồ, tôi dần dần phát hiện ra chủ nghĩa Mác. NGƯỜI THANH NIÊN YÊU NƯỚC 29 Dưới ảnh hưởng của các đảng viên trẻ đó cũng như ông, đang trở nên cấp tiến, Đảng Tân Việt ngày càng đi gần tới những lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản. Năm 1929, Đảng Tân Việt đổi tên thành Đông Dương Cộng sản liên đoàn. Ông là một đảng viên hoạt động rất tích cực, có thể nói là từ lúc ấy ông đã trở thành cộng sản, nhưng ở thời kỳ ấy có nhiều tổ chức đang đòi hỏi đi theo chủ nghĩa cộng sản. Chỉ tháng 02 năm sau, các tổ chức đó tập hợp lại và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Rồi đến tháng 10 cùng năm ấy, theo yêu cầu của Quốc tế Cộng sản, Đảng Cộng sản Việt Nam chấp nhận khuôn khổ hành chính do chủ nghĩa thực dân áp đặt, đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Hoàn toàn tự nhiên ông là đảng viên của “liên đoàn” ấy. Năm 1930, đối với toàn bộ phong trào dân tộc, cũng là năm xảy ra nhiều vụ đụng độ với các ông chủ thực dân. Tháng 02, các đảng viên của Việt Nam Quốc dân Đảng mới thành lập, mưu toan chiếm đồn binh Yên Bái, đã giết một vài tên lính và sĩ quan. Mùa hè năm đó, tại hai tỉnh miền Trung là Nghệ An và Hà Tĩnh, nông dân chịu ảnh hưởng của những người cộng sản đã nổi dậy làm chủ nhiều vùng rộng lớn và tuyên bố thành lập các Xôviết, được gọi là Xôviết Nghệ Tĩnh. Cuộc đàn áp của Pháp rất tàn bạo. Lính lê dương đi càn. Máy bay ném bom. Nhưng toàn thể giới trẻ Việt Nam như bốc lửa và ủng hộ những người khởi nghĩa miền Trung. Ông đã tham gia vào những cuộc biểu tình… Vâng, chúng tôi đã lập một tổ chức gọi là “Cứu tế Nghệ An đỏ”. 30 VÕ NGUYÊN GIÁP - MỘT CUỘC ĐỜI Ông bị bắt và bị kết án hai năm tù giam ở Lao Bảo, miền núi tỉnh Quảng Trị. Lúc đó ông mới gần 20 tuổi. Rất may là ông không phải chịu án tù hết hai năm như đã tuyên. Ông được thả và ra Hà Nội để tiếp tục đi học tại Trường trung học Albert Sarraut. Ông học rất xuất sắc và đỗ Tú tài triết học năm 1934. Rồi ông ghi tên vào học năm thứ nhất Trường Cao đẳng Luật khoa Hà Nội và trở thành giáo sư dạy sử ở Trường tư thục Thăng Long. Dĩ nhiên việc học và dạy đó không cản trở ông tiếp tục hoạt động cách mạng. Ông có thể nói Đảng Cộng sản Đông Dương hoạt động như thế nào? Trong thời kỳ này, tức là cho đến trước khi Mặt trận Bình dân lên cầm quyền ở Pháp, chúng tôi hoạt động bí mật triệt để. Lúc bấy giờ các cuộc đấu tranh chủ yếu là về chính trị. Chúng tôi chủ trương đoàn kết tất cả các lực lượng yêu nước trên cơ sở liên minh công nông, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Tất cả đều có trong chương trình khởi thủy của Đảng đề ra từ năm 1930. Nhưng tiến hành hoạt động chủ yếu về chính trị không có nghĩa là đánh giá thấp các hình thức đấu tranh khác. Chúng tôi bao giờ cũng chủ trương rằng khi hội đủ điều kiện, nhân dân phải đi theo con đường bạo lực để lật đổ chế độ thực dân. Những chiến sĩ cộng sản đã đi đầu trong phong trào khởi nghĩa của Xôviết Nghệ Tĩnh. Phong trào rộng lớn đó tuy cuối cùng bị thất bại nhưng đã có tầm quan trọng rất lớn để phát triển tinh thần cách NGƯỜI THANH NIÊN YÊU NƯỚC 31 mạng sau này. Các ông đã biết câu nói của Lênin về cuộc cách mạng năm 1905 của nước Nga: một cuộc tổng diễn tập. Vậy phong trào Xôviết Nghệ Tĩnh là cuộc tổng diễn tập của chúng tôi cho Cách mạng Tháng Tám 1945. Ngoài ra cũng cần chú ý rằng từ Cách mạng Tháng Hai 1905 đến Cách mạng Tháng Mười 1917 cũng phải mất 12 năm, còn giữa Xôviết Nghệ Tĩnh và Cách mạng Tháng Tám 1945 thì dài hơn một chút, nghĩa là cũng mất 15 năm. Các “bậc thầy” bônsêvích và các “học trò” Việt Nam đã gặp nhau! Tuy nhiên phải nói rõ thêm, không phải chỉ có một lần “tổng diễn tập”, trong khoảng thời gian ấy cho tới năm 1945 đã có những phong trào khởi nghĩa khác với tầm quan trọng khác nhau. Nhưng tất cả đều đưa đến kết quả là Đảng chúng tôi năm 1945, mới 15 tuổi, trong thời gian ngắn ngủi đó đã có kinh nghiệm rất lớn trong việc chuẩn bị khởi nghĩa. Ông đã biết đến danh tiếng đồng chí Nguyễn Ái Quốc lúc đó đang sống xa Việt Nam, nhưng những bài viết của ông đã gửi về đến Tổ quốc? Tôi không thể nói chính xác tôi nghe thấy tên Nguyễn Ái Quốc lần đầu tiên lúc nào. Hình như là năm 1926 hay có lẽ năm 1927 gì đó. Vào thời đó, tôi hay đến nhà cụ Phan Bội Châu, một nhà yêu nước lớn và cũng là bạn thân của cha tôi. Cụ Phan không phải là cộng sản, tuy 32 VÕ NGUYÊN GIÁP - MỘT CUỘC ĐỜI nhiên tôi còn nhớ rằng ngay thời đó cụ đã nói đến Nguyễn Ái Quốc một cách vô cùng kính trọng. Cuối cùng, đến một hôm tôi có được cuốn sách như một ngọn lửa đang thiêu rụi chủ nghĩa thực dân “Procès de la colonisation française” (Bản án chế độ thực dân Pháp). Ít lâu sau tôi còn được đọc nhiều bài viết khác như bài phát biểu của Nguyễn Ái Quốc tại một hội nghị ở Quảng Châu. Cần phải nói thêm rằng tất cả những cái đó đều triệt để bí mật và chúng tôi phải liều lắm, chấp nhận nhiều rủi ro. Nhưng lúc đó người ta nghĩ ra trăm nghìn phương kế để tiếp cận được những sách báo bị cấm. Tôi ngồi vắt vẻo trên cành cây ở giữa cánh đồng để đọc được một trong các bài viết của Nguyễn Ái Quốc. Như thế tôi đã có một đài quan sát lý tưởng để nhìn thấy kẻ đến quấy rầy mình. Đối với tầng lớp thanh niên yêu nước lúc bấy giờ, Nguyễn Ái Quốc thể hiện lý tưởng của người chiến sĩ đấu tranh không biết mệt mỏi, vô tư, sẵn sàng cống hiến đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Tôi không tin rằng đó là chân dung mà tôi phác họa về sau này. Lúc bấy giờ thật sự chúng tôi nghĩ như thế. Tiếp đó, tôi bổ túc thêm kiến thức về chủ nghĩa Mác bằng cách đọc rất nhiều. Rút cục cả một thế hệ của chúng tôi đấu tranh cho cách mạng đều phát hiện Mác - Lênin và những bài viết có tiếng vang lớn trong văn học cách mạng. Nhờ các sách của Nhà xuất bản Xã hội quốc tế, báo L’Humanité (Nhân đạo), Les cahiers du Bolchévisme (tạp chí Bônsêvích) đến tay chúng tôi bằng con đường bí NGƯỜI THANH NIÊN YÊU NƯỚC 33 mật, đặc biệt nhờ vào các thủy thủ Pháp, đảng viên Đảng Cộng sản Pháp hay thành viên Liên đoàn Lao động Pháp (CGTU), điều đó không một người cách mạng nào thuộc thế hệ chúng tôi có thể quên được. Theo ông đâu là bài học chủ yếu của Nguyễn Ái Quốc vào thời đó, khi phong trào cộng sản Việt Nam ra đời và phát triển? Mác và Ăngghen đã xây dựng học thuyết của họ về cách mạng, lấy giai cấp vô sản là hạt nhân, vào thời kỳ sự thống trị của châu Âu đối với thế giới được khẳng định, nhưng lúc đó hình thái thuộc địa của sự thống trị đó chưa phải là chủ yếu, ngoài người Anh ở Ấn Độ, người Pháp ở Angiêri. Mác mất năm 1883, khi cuộc chinh phục đất nước chúng tôi còn lâu mới hoàn thành. Thời gian Lênin còn sống đủ để Người nghiên cứu chủ nghĩa đế quốc trong tác phẩm lớn của mình năm 1916. Nhưng khi đã giành được chính quyền, Lênin cũng không thể dành thời gian để quan tâm đến vấn đề thuộc địa. Tuy nhiên Người đã đưa ra một chỉ dẫn rất quý báu, tôi đã nói với ông, là nhấn mạnh vai trò của phong trào giải phóng dân tộc trong việc thành lập mặt trận thế giới chống đế quốc. Hãy nhớ rằng các đảng tham gia quốc tế mới1 có nghĩa vụ phải hoạt động giải phóng các dân tộc thuộc địa. _________ 1. Tức Quốc tế thứ ba (BT). 34 VÕ NGUYÊN GIÁP - MỘT CUỘC ĐỜI Điều kiện thứ tám rõ ràng đã không tạo được sự hưởng ứng nhiệt tình nhất ở các đảng viên chủ trương lấy châu Âu làm trung tâm... Chính ở đây tôi muốn quay lại câu hỏi của ông. Nguyễn Ái Quốc là người đổi mới học thuyết ở chỗ nào? Nhưng đúng là phải rất coi trọng các bài viết của Người. Ông biết rằng từ năm 1920 đến 1923 khi cư trú ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc viết hàng chục bài về vấn đề này. Ông cũng biết Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập một tờ báo, tờ đầu tiên trong lịch sử nước ông và chắc chắn là đầu tiên trên thế giới chỉ dành riêng cho việc tố cáo những cái xấu của chế độ thực dân, những bài báo gần như hoàn toàn chỉ do những người bị chế độ thực dân thống trị viết ra. Đó là tờ Le Paria (Người cùng khổ -BT). Vậy những bài báo đó nói gì? Đó là nhận định ví như tiềm lực cách mạng châu Á là rất lớn, rằng cuộc giải phóng các dân tộc thuộc địa chỉ đến với họ bằng cố gắng của chính họ. Thử hỏi người ta có thấy những lập luận tương tự trong các bài viết của quốc tế không? Không! Điều nổi bật hơn cả là khái niệm sắp xếp thứ tự trên dưới các cuộc cách mạng, trước hết là cách mạng ở chính quốc, dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản, rồi đến cuộc cách mạng ở thuộc địa. Tháng 02 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Mấy tháng sau, Quốc tế Cộng sản can thiệp không phải là không có sự thô bạo nào đó để áp đặt cụm từ “Đảng Cộng sản Đông Dương”. NGƯỜI THANH NIÊN YÊU NƯỚC 35 Do đó, có phải là biểu hiện nổi bật nhất của việc đánh giá thấp vấn đề dân tộc? Tức là phải đi theo khuôn khổ chính trị và hành chính của thực thể lúc đó chỉ có thể là Đông Dương, một sản phẩm giả tạo của người Pháp? Chắc chắn như thế. Tính độc đáo của tư tưởng Nguyễn Ái Quốc có phải chỉ được bạn bè ở Mạc Tư Khoa (Mátxcơva) và các nơi khác ủng hộ? Không. Hiện nay vấn đề đó được các nhà sử học biết rõ. Cương lĩnh do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo cho chính đảng sắp ra đời đã không được Quốc tế Cộng sản công nhận. Và chắc ông cũng ghi nhận rằng Nguyễn Ái Quốc tuy có ảnh hưởng rất rộng rãi trong nước, đã không tham gia Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương tại Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản năm 1935. Người có mặt tại Đại hội, nhưng với tư cách quan sát viên, thành viên của Bộ Phương Đông. Nguyễn Ái Quốc còn bị cáo buộc là dân tộc chủ nghĩa? Lời cáo buộc đó không có cơ sở. Thực tế cả cuộc đời Bác Hồ của chúng tôi đã chứng tỏ sự tha thiết với giá trị dân tộc, gắn bó một cách biện chứng với chủ nghĩa quốc tế. Ông hãy suy nghĩ về việc thành lập Mặt trận Việt Minh chẳng hạn. Việt Minh có chức năng đoàn kết nhân dân Việt Nam nhằm giành lại độc lập dân tộc. Nhưng một khi nền độc lập giành được rồi, các thế lực 36 VÕ NGUYÊN GIÁP - MỘT CUỘC ĐỜI cộng sản ở Việt Nam và trên thế giới có vì thế mà giảm bớt không? Tôi không thấy như thế… Trong lịch sử của hệ thống thuộc địa ở nơi này, nơi khác cũng bộc lộ những khả năng về tự do ngôn luận hoặc tổ chức hợp pháp. Tôi nghĩ rằng vào thời kỳ Mặt trận Bình dân Pháp, các ông đã làm tất cả để tận dụng những điều kiện mới đó? Đúng vậy, trong một thời gian, ở Đông Dương các quyền tự do dân chủ có được mở rộng ở một mức độ nào đó. Chủ nghĩa thực dân, thực chất là phản động. Chúng tôi không chủ trương cải tổ nó, nhưng chúng tôi không bỏ lỡ cơ hội hợp pháp hoặc bán hợp pháp để thúc đẩy hành động của quần chúng. Chúng tôi đề ra việc thành lập “Mặt trận dân chủ Đông Dương”. Các đảng viên tham gia mặt trận này, nhưng dĩ nhiên không xuất hiện với tư cách cộng sản. Tuy nhiên thợ thuyền, dân cày, họ không nhầm. Các nhà cầm quyền thuộc địa cũng không lầm… Ví như những công trình nghiên cứu của Daniel Hémery1 _________ 1. Xem F. Maspero: Révolutionnaires vietnamiens et pouvoir colonial en Indochine - Communistes, trotskystes, nationalistes à Saigon de 1932 à 1937 (Những nhà cách mạng Việt Nam và chính quyền thuộc địa ở Đông Dương - cộng sản, tờrốtkít và những người theo chủ nghĩa dân tộc ở Sài Gòn từ năm 1932 đến 1937), Paris, 1975. NGƯỜI THANH NIÊN YÊU NƯỚC 37 chứng tỏ cho Phủ toàn quyền Đông Dương và Bộ Thuộc địa biết rằng, những người cộng sản đang giành bá quyền trong phong trào dân tộc. Marius Moutet cũng xúc động sâu sắc. Có thể. Tất cả các lực lượng tiến bộ đã tổ chức những cuộc biểu tình, gặp gỡ để đưa ra các yêu sách. Chúng tôi đã lập các hội ái hữu thợ thuyền, đó là những mầm mống của công đoàn. Chúng tôi có thể ra một tờ báo hợp pháp, nhưng chỉ bằng tiếng Pháp. Ngay lúc đó báo chí tiến bộ tiếng Việt vẫn bị cấm đoán ngặt nghèo. Lúc đó tôi làm việc cho báo đảng Notre Voix (Tiếng nói chúng ta). Tôi đã làm quen với người sau này là bạn chiến đấu của tôi trên 60 năm là Phạm Văn Đồng1. Tôi nhớ lại rằng chúng tôi đã đăng trên mặt báo những bài gửi từ nước ngoài được ký tên P.C. Lin. Không tuyệt đối chắc chắn đó có phải là Nguyễn Ái Quốc hay không. Chúng tôi nghĩ là đã được nhận ra “một cái vuốt” nào đó của con người huyền thoại Nguyễn Ái Quốc. Sau đó chúng tôi đã xác nhận chuyện đó. Thành tựu của thời kỳ này là gì? Tổng quan mà xét, thành tựu hoạt động trong thời kỳ Mặt trận Bình dân là tích cực. Ví dụ: trước hết hàng _________ 1. Phạm Văn Đồng, sau này làm thủ tướng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, lúc đó vừa được ra khỏi nhà tù Côn Đảo năm 1937 - nơi ông chịu án 7 năm khổ sai. 38 VÕ NGUYÊN GIÁP - MỘT CUỘC ĐỜI nghìn người yêu nước đã ra khỏi nhà tù Côn Đảo. Trong số này có nhiều đảng viên cộng sản dày dạn kinh nghiệm, sau này rất hữu ích cho chúng tôi. Nhưng trên hết là trong thời kỳ này quần chúng đã nhanh chóng được nâng cao trình độ giác ngộ chính trị, làm thức tỉnh hàng triệu triệu người Việt Nam, nâng cao sức chiến đấu của họ. Đây chỉ là dấu ngoặc đơn, nhưng tôi tin là dấu ngoặc đơn duy nhất trong lịch sử chủ nghĩa thực dân. Hình như kinh nghiệm của Mặt trận Bình dân đã xác nhận theo một cách nào đó, những phân tích của Nguyễn Ái Quốc. Tại sao? Tại vì đã chứng minh được rằng những biến chuyển về chính trị tại chính quốc không phải là không liên quan gì đến chúng tôi và một vài quyền tự do, dù ít ỏi cũng đáng được hoan nghênh. Nhưng đồng thời, chúng tôi không ngoan ngoãn chờ đợi sự giải phóng cho chúng tôi do chính quốc đem lại. Dựa vào sức mình, đó đúng là cái bất biến của chủ nghĩa cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên với việc lực lượng phản động quay lại cầm quyền ở Pháp, thời kỳ đó đã kết thúc nhanh chóng. Lúc đó người ta bước vào giai đoạn trước khi chiến tranh thế giới bùng nổ, khi đó, các cuộc chiến đấu ở châu Á đã bắt đầu. Hoạt động du kích Trong những năm 1939-1940, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ nhưng không kèm theo những sự tiến triển nào ngoạn mục tại Đông Dương. Một người quan sát hời hợt nào đến Hà Nội và Sài Gòn giữa những năm 1940-1945 cũng có thể nghĩ rằng không có thay đổi gì lớn. Vả lại, không thiếu những người tán thành chế độ thực dân đã nhấn mạnh thuộc địa (Đông Dương) lúc đó đang “sống yên bình trong trật tự Pháp” trong lòng một châu Á đang bùng cháy? Đúng. Ông nói rất đúng nhưng là theo cách nhìn nhận của một người nông cạn. Cuộc đàn áp thuộc địa vẫn tiếp tục nhưng ở “tầng sâu”. Sự thống trị của người Pháp vẫn tiếp tục, bắt đầu từ năm 1940, gắn liền với sự có mặt của người Nhật. Lúc đó ông có nhận thấy rõ là đang có những khả năng mới xuất hiện cùng với các sự kiện quan trọng đang được chuẩn bị? Nhìn bề ngoài tưởng như Đông Dương sóng yên biển lặng, nhưng chúng tôi hiểu một thời cơ quốc tế 40 VÕ NGUYÊN GIÁP - MỘT CUỘC ĐỜI mới đã xuất hiện và chúng tôi phải suy nghĩ và hành động kịp thời. Chúng tôi đã nhận thức rõ thế giới bước vào một chu kỳ chiến tranh và cách mạng. Ngay từ năm 1939, chúng tôi đã đặt vào chương trình nghị sự công việc chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa chống Pháp - Nhật. Ngay trong giai đoạn đầu của chiến tranh thế giới, chúng tôi đã quan tâm đặt vấn đề phát triển cách mạng Việt Nam trong bối cảnh thế giới mới đó. Nhưng sự chuẩn bị cụ thể và mọi thắng lợi sau này chỉ có thể hiểu được trên cơ sở đoàn kết mọi lực lượng và rèn luyện đã thực hiện được trong nhiều thập niên trước đó, đặc biệt trong quãng thời gian 15 năm, từ ngày thành lập Đảng đến cuộc khởi nghĩa năm 1945. Trong quá trình lịch sử rất ngắn, chúng tôi đã thu thập được những kinh nghiệm kỳ diệu về tính đa dạng và cường độ: đấu tranh bí mật hằng ngày, khởi nghĩa từng phần, tự do ngôn luận bán hợp pháp,… Tôi đã nói với ông rằng ngay từ khi thành lập Đảng, chúng tôi đã cho rằng muốn giải phóng phải đấu tranh trực diện chống thực dân. Thời kỳ từ mùa Thu 1939 đến mùa Xuân 1941 là thời điểm then chốt của phong trào chung đó. Mùa Thu 1939: chiến tranh thế giới bùng nổ; mùa Xuân 1941: thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, sẽ đi vào lịch sử dưới tên gọi Việt Minh. Chính trong thời kỳ này ý tưởng thành lập mặt trận dân tộc rộng rãi để giành lại độc lập đã trưởng thành từng bước. Ý tưởng này đã được chính Bác Hồ của chúng tôi nói lên. Chỉ trong một HOẠT ĐỘNG DU KÍCH 41 thời gian ngắn sau đó, ý tưởng đó được đưa ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng thảo luận và thông qua. Sự đàn áp thuộc địa ngày càng khốc liệt. Từ ngày ông tham gia, một cách công khai, vào phong trào Đông Dương Đại hội, ông đã viết những bài đăng trên báo đảng. Sở Mật thám Pháp không làm ngơ đối với ông, tự do của ông đang lâm nguy. Ông buộc phải rời khỏi đất nước. Đảng đã chỉ thị cho tôi phải bí mật rời khỏi đất nước, sang Hoa Nam để liên lạc với các đồng chí hoạt động ở nước ngoài, đón chờ thời cơ cho phong trào giải phóng dân tộc. Chính đồng chí Hoàng Văn Thụ1 đã cho tôi biết quyết định đó và chuẩn bị chuyến lên đường của tôi. Tháng 5 năm 1940, tôi rời Hà Nội, trong lòng đau như cắt, để lại Thái2 - người vợ trẻ và đứa con của chúng tôi. Lúc đó, tôi không biết đây là lần gặp gỡ cuối _________ 1. Hoàng Văn Thụ là người thay mặt Đảng Cộng sản ở miền Bắc Đông Dương. Cuộc gặp của Hoàng Văn Thụ với ông Giáp diễn ra vào tháng 4 năm 1940. 2. Năm 1936, ông Giáp làm quen với một cô gái tên là Thái, cũng là đảng viên cộng sản, em của Nguyễn Thị Minh Khai, là một trong những người lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Hai người đã có một con gái tên là Võ Thị Hồng Anh. Cuộc chia tay diễn ra ngày 03 tháng 5 năm 1940. Bà Thái sau đó bị Sở Mật thám Pháp bắt. Bà đã hy sinh trong tù, không nhận mình là cộng sản, cũng không khai báo ai cả. 42 VÕ NGUYÊN GIÁP - MỘT CUỘC ĐỜI cùng. Tôi đã ra khỏi biên giới sau một chuyến đi đầy nguy hiểm cùng với đồng chí Phạm Văn Đồng, người đã gắn bó với tôi từ thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương… Chính trong chuyến đi ấy, lần đầu tiên, ông đã mang bí danh mà 40 năm sau rất nhiều người trong số bạn bè vẫn gọi ông một cách trìu mến bằng cái tên: Văn… Đúng. Cho đến bây giờ nhiều người vẫn gọi tôi là “đồng chí Văn”. Thế rồi một thời điểm quan trọng đến với ông cũng như đối với lịch sử (người ta sẽ nói là tôi quá lời, nếu nói là đối với lịch sử thế giới) là khi ông gặp Nguyễn Ái Quốc… Trước khi đi, đồng chí Hoàng Văn Thụ có nói riêng với tôi là sang bên đó có lẽ sẽ gặp Nguyễn Ái Quốc. Một cuộc hẹn đã được ấn định, nhưng với một người mang bí danh là đồng chí Vương. Đó là vào tháng 6 năm 1940 tại Côn Minh. Tôi và đồng chí Phạm Văn Đồng đều biết rằng Bác Hồ lúc này đang ở miền Nam Trung Quốc. Cuộc gặp diễn ra trên một chiếc thuyền ở hồ Thúy. Trước mặt chúng tôi là một người đàn ông trạc 50 tuổi, dáng người nhanh nhẹn lạ thường, đã có một chòm râu nhỏ dưới cằm. Không có gì tỏ ra đó là một người lãnh đạo cấp cao, tính tình, tác phong cực kỳ giản dị. Mặc dù lần đầu tiên được gặp, tôi đã có ấn HOẠT ĐỘNG DU KÍCH 43 tượng đây là người mà tôi sẽ gắn bó suốt đời. Tôi nhận ra giọng nói của Người mang âm sắc miền Trung Việt Nam mặc dù Người đi khỏi đất nước đã 30 năm. Người nói với anh Đồng1, đã quen biết từ trước, giọng thân mật: “Trông chú Đồng vẫn thế, không già đi chút nào!”. Còn đối với tôi, Người nói: tôi tươi tắn như con gái! Cuộc trò chuyện ngắn ngủi, vì không muốn để người ngoài chú ý. Nội dung chủ yếu chỉ là làm quen để thiết lập mối quan hệ sau này. Sau đó, ở Côn Minh chúng tôi thường xuyên gặp gỡ tại nhiều địa điểm khác nhau và thường là không hẹn trước. Một thời gian sau đó, tôi và anh Đồng chuẩn bị đi Diên An. Sau đó lại được lệnh của Đảng gọi về, không đi nữa. Ở châu Âu, tình hình biến chuyển dồn dập. Phải tìm cách trở về nước để bắt đầu tổ chức cuộc đấu tranh một cách cụ thể. Đồng chí Vũ Anh, đã về nước trước, tìm được một địa điểm lý tưởng gần biên giới, gần làng Pác Bó. Đó là nơi chúng tôi trở về cùng với Bác Hồ đầu năm 1941. Vậy là ông trở về Việt Nam, và tất nhiên từ lúc đó ông sống hoàn toàn bí mật. Ông có thể kể lại hoạt động du kích trong những năm 1941-1945? Về phần tôi, những năm 1941-1942, tùy từng hoàn _________ 1. Phạm Văn Đồng trước đây đã hoạt động tích cực trong Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội, do Nguyễn Ái Quốc lập ra, tham dự lớp huấn luyện do Hội tổ chức tại Quảng Châu và đã được gặp Nguyễn Ái Quốc từ thời đó. 44 VÕ NGUYÊN GIÁP - MỘT CUỘC ĐỜI cảnh, tôi sống lúc thì ở miền Nam Trung Hoa, lúc thì trong vùng Pác Bó, nhiều lần bí mật vượt biên giới. Đó là một thời kỳ đầy phấn khởi khi lịch sử cuộc đấu tranh của nhân dân chúng tôi lúc đó đang bắt đầu. Suốt bốn năm, chúng tôi xây dựng một mạng lưới rộng rãi và vững chắc của phong trào cách mạng. Chúng tôi tiến hành công tác chính trị rất phong phú, để từng người dân tán thành ý tưởng đấu tranh vũ trang. Chính trong thời kỳ này, sau một quá trình lâu dài đã đi đến giai đoạn hoàn toàn trưởng thành, cuối cùng đi đến Cách mạng Tháng Tám. Giữa tháng 5 năm 1941, ban lãnh đạo Đảng họp ở Pác Bó, quyết định đưa cuộc đấu tranh sang một giai đoạn mới, đặc trưng là xây dựng một phong trào dân tộc, tập hợp mọi lực lượng quyết tâm đấu tranh để giải phóng Tổ quốc. Chính lúc ấy Việt Minh ra đời, mọi người đã thảo luận chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Tuy nhiên, thực tế chúng tôi không có vũ khí. Nhưng chúng tôi cho rằng vấn đề hàng đầu, xét đến cùng, là phải mật thiết liên hệ với quần chúng. Khi có quần chúng đi theo mình, sẽ giành được thắng lợi. Khi quần chúng chống lại mình, hoặc từ chối tham gia với mình, ắt sẽ thất bại… Thật đơn giản. Trước hết là tổ chức quần chúng. Chúng tôi đều ở trên miền thượng du. Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng tôi đã nhiều lần nhấn mạnh vai trò quan trọng của các dân tộc thiểu số trong cuộc đấu tranh chống lại kẻ chiếm đóng. Một vài nơi đồng bào không nói tiếng Kinh, vốn là tiếng phổ HOẠT ĐỘNG DU KÍCH 45 thông, chúng tôi phải học tiếng nói của họ. Những căn cứ đầu tiên của Cách mạng Tháng Tám đều sinh ra ở Việt Bắc. Ở tất cả các cấp, chúng tôi tổ chức các lớp học chính trị. Tất cả cán bộ - kể cả Bác Hồ - đều làm gương, trở thành những cán bộ huấn luyện. Chúng tôi thay đổi chỗ ở, đào tạo nhanh các cán bộ, rồi chính bản thân họ có thể nhanh chóng dạy người khác những điều cơ bản. Giáo dục chính trị là nền tảng của mọi thắng lợi bền vững. Chính nhờ áp dụng nguyên tắc đó, chúng tôi dần dần mở rộng cơ sở của chúng tôi. Nội dung huấn luyện rất đơn giản. Bác Hồ rất quan tâm đến chuyện này. Người nhấn mạnh, phải trình bày vấn đề thế nào để mỗi người học dễ tiếp thu bài giảng. Chúng tôi bắt đầu bằng việc trình bày ngắn gọn tình hình thế giới, nhấn mạnh thất bại không thể tránh khỏi của bọn phát xít, nhấn mạnh thắng lợi của Hồng quân, rồi chúng tôi đề cập tình hình Việt Nam, những phương thức đấu tranh, chuẩn bị khởi nghĩa, tổ chức Việt Minh. Có những bài giảng thực hành như: làm sao phát biểu ý kiến; làm sao trình bày sáng sủa tình hình; làm sao chủ tọa và điều khiển một cuộc họp; làm sao tiến hành những biện pháp sơ đẳng để giữ gìn an toàn. Chúng tôi luôn luôn thấy mình chưa làm hết nhiệm vụ. Một hôm, một trong những “học viên” xin rút khỏi lớp học. Sau khi được biết lý do, tôi nhận ra rằng tôi trình bày không được rõ ràng, sáng sủa vấn đề nên anh em không hiểu. Tôi đã lúng túng cố trình bày một cách 46 VÕ NGUYÊN GIÁP - MỘT CUỘC ĐỜI trừu tượng vấn đề “Những mâu thuẫn trong tình hình thế giới”. Phải cố tưởng tượng quang cảnh lúc ấy: hàng nghìn chiến sĩ cách mạng đang giảng cho nông dân, mà một số mới thoát nạn mù chữ, hoặc bị cô lập đôi khi từ nhiều thế hệ với thế giới bên ngoài, “Những mâu thuẫn trong tình hình thế giới” giữa rừng sâu năm 1942 hay 1943! Điều đó đối với tôi là một bài học nhớ đời. Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi cách trình bày vấn đề có tầm quan trọng rất lớn, là phải đơn giản, sáng sủa trong khi trình bày vấn đề định nói cho các học viên. Nó hoàn toàn khác với các lý thuyết gia kiểu chính khách “salông” không có liên hệ gì với tình hình thực tế cụ thể. Người luôn luôn gắn liền lý thuyết với thực hành. Người luôn luôn quan tâm đến việc vận dụng cụ thể những điều đã học, chú ý đến từng chi tiết, đôi khi là những chi tiết nhỏ nhất. Ví dụ, chúng tôi xuất bản tờ báo Việt Nam độc lập, gọi tắt là tờ Việt lập, Bác Hồ quan tâm đến cả các kiểu chữ in trên báo bí mật. Chính Người đã thuyết phục tôi phải dùng chữ to, các bài báo không cần viết dài. Chúng tôi phải làm sao để quần chúng, ngay cả những nông dân ít học cũng hiểu được ngay vấn đề mình định nói với họ. Trong nhiều trường hợp khác, chúng tôi phải dùng đến các tranh vẽ để minh họa. Thật sự chúng tôi có ấn tượng rõ ràng về việc Người không bao giờ coi thường những vấn đề gọi là “vấn đề phụ”. Bác Hồ luôn HOẠT ĐỘNG DU KÍCH 47 luôn dạy chúng tôi lấy vấn đề tổ chức phong trào là đối tượng phải quan tâm nhất. Và thực tế, chúng tôi đã có một tổ chức vững chắc. Trước hết tổ chức bao gồm những người đã được thử thách nhất trong phong trào. Những người đó là các đảng viên. Các chi bộ đảng thực sự là những trung tâm lan tỏa của phong trào. Nhưng Đảng không là gì nếu không có các mối liên hệ mật thiết và đa dạng với quần chúng… Công tác tuyên truyền ráo riết của chúng tôi đã có kết quả bước đầu. Chúng tôi lập được mạng lưới dày đặc những người cảm tình với cách mạng, lập được các tổ chức phụ nữ, thanh niên. Dần dần qua nhiều lần qua lại các làng bản, chúng tôi đã đào tạo được các cán bộ cách mạng, đến lượt họ, họ lại mở rộng mạng lưới. Chẳng mấy chốc chúng tôi thuyết phục được toàn thể dân làng đi theo chúng tôi, chúng tôi gọi đó là những “xã hoàn toàn”, rồi tiến lên những “tổng hoàn toàn”. Nghĩa là trong đó trăm phần trăm dân làng đi theo cách mạng, gia nhập các đoàn thể, các giới… Đó là những bảo đảm an toàn cho chúng tôi. Có một dạng “hai chính quyền song song tồn tại”. Ngay cả những người Việt trong chính quyền địch cũng đi theo chúng tôi. Khi nào địch sắp tổ chức các cuộc vây ráp, khủng bố dân làng, chúng tôi đều được báo trước, đủ thời gian rút sâu vào trong rừng… Cuối cùng, không nên quên rằng tại những vùng chính thức nằm dưới quyền kiểm soát của thực dân Pháp và quân phiệt Nhật, chúng tôi cũng có phong trào kháng chiến chống Pháp - Nhật. 48 VÕ NGUYÊN GIÁP - MỘT CUỘC ĐỜI Chúng tôi có các hạt nhân bí mật, bao gồm những phần tử trung kiên đáng tin cậy, ngay cả trong các thành phố, thị trấn,… Các đồng chí ấy phải có hàng nghìn cách để không rơi vào tay địch. Nhưng tiếc rằng cũng có một số đồng chí bị bắt. Người Pháp đã đối xử với họ rất tàn tệ. Nhiều khi các chiến sĩ của chúng tôi bị bắt đều bị bắn ngay tại chỗ… Về vật chất cũng như về tâm lý, ông đã trải qua suốt thời gian đó như thế nào? Về tâm lý là rất phấn khởi. Có một kỷ niệm khắc sâu trong trí nhớ tôi với độ chính xác lạ thường. Đó là lúc ở Pác Bó, buổi tối chúng tôi họp nhau lại quanh đống lửa. Bác Hồ của chúng tôi nói: “Phát xít thế nào cũng thất bại, điều đó không thể tránh được. Trong 4, 5 năm nữa Hítle và Nhật Bản sẽ thua. Sẽ đến lúc Tổ quốc thân yêu của chúng ta sẽ được giải phóng”. Nói đến đây cặp mắt Người ngời sáng. Tất cả chúng tôi nghe thấy thế đều rất xúc động. Ngay trong những lúc khó khăn nhất của cuộc chiến tranh du kích, chúng tôi không lúc nào nghi ngờ về thắng lợi của chúng tôi. Các ông đã có một niềm tin vào thắng lợi cuối cùng ngay trong lúc các ông còn đang sống trong một cái hang ở miền cực Bắc của đất nước, nhìn từ bề ngoài trông như bị cô lập khỏi thế giới? Đúng. Một niềm tin hoàn toàn. HOẠT ĐỘNG DU KÍCH 49 Ông sử dụng tiếng Pháp đủ để phân biệt niềm tin (foi), có nghĩa là tin tưởng hoàn toàn cũng như tin không cần lý luận gì với niềm tin tôn giáo (croyance religieuse). Vậy lúc đó niềm tin của các ông theo kiểu nào? Đó là niềm tin… theo chủ nghĩa duy vật. Đó là niềm tin dựa vào phân tích tình hình chính trị Việt Nam lúc đó và tình hình quốc tế. Không cần phải lý luận gì hơn về niềm tin đó. Chúng ta trở lại câu hỏi ban đầu. Cuộc sống của ông thời đó thế nào? Đó lại là một chuyện khác. Cuộc sống của chúng tôi hồi đó cực kỳ vất vả. Chúng tôi sống tại nơi không thể tưởng tượng được, ban đêm lắm lúc run lên cầm cập, trời rét lắm, bọ chét đủ loại, động vật có hại, gặp gì ăn nấy kể cả rễ cây. Có những lúc tệ hại nhất là khi thực dân canh phòng nghiêm ngặt quá, chúng tôi chỉ được dân tiếp tế. Ăn cả cháo nấu bằng hoa chuối rừng, cực kỳ đắng, ăn vào dạ dày nóng như lửa đốt hàng giờ sau mỗi bữa. Thịt cực kỳ hiếm. Hôm nào được ăn thịt, hôm đó vui như ngày hội. Chúng tôi còn sáng tạo ra “đặc sản”, đó là thịt Việt Minh (thực ra là những hạt muối to rang lẫn tí thịt). Bác Hồ, lúc đó còn trẻ nhưng là người nhiều tuổi nhất trong chúng tôi, có sức chịu đựng kỳ lạ. Người thích nghi với hoàn cảnh rất nhanh. Bác tự đặt cho mình những quy tắc đơn giản nhưng chặt chẽ, dậy 50 VÕ NGUYÊN GIÁP - MỘT CUỘC ĐỜI rất sớm. Chính Người thường đánh thức chúng tôi dậy. Người làm việc rất nhiều khi có ánh sáng mặt trời. Người không ngừng đặt câu hỏi buộc chúng tôi phải trả lời. Có một lần Người bị mệt, nằm suốt ngày này sang ngày khác. Tôi luôn túc trực bên giường. Người lên cơn sốt cao và mê sảng luôn. Nhưng những lúc tỉnh Người nói với tôi rất nhiều về tương lai của cách mạng, những cách thức để đi đến ngày giải phóng mà Người linh cảm thấy sắp đến nơi. Lúc đó chúng tôi rất lo sợ Người không qua khỏi. Cuối cùng, có một cụ lang già, rất già đến thăm bệnh cho Người và tự mình vào rừng hái lá thuốc về sắc cho Người uống. Vài ngày sau Người bình phục, nhưng chúng tôi không bao giờ tìm ra được thang thuốc bí truyền của thầy lang già đó. Có một điều cũng đáng ngạc nhiên. Ông nhấn mạnh đến sự giải thích chính trị là căn bản - các mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng - của những thắng lợi ngày càng lớn của cuộc cách mạng. Tôi rất tin lời ông nói. Nhưng cuối cùng thì cũng phải đề cập vấn đề quân sự. Và thực tế là các ông không có vũ khí, ít nhất cũng là cho đến mùa Xuân 1945? Đúng như thế. Chúng tôi không qua một trường lớp quân sự nào. Khi còn ở Hà Nội năm 1940, các đồng chí của chúng tôi truyền đạt Nghị quyết của Đảng về chuẩn bị đấu tranh vũ trang, tôi vào Thư viện Trung ương tìm trong cuốn “Đại từ điển Larousse” những bài HOẠT ĐỘNG DU KÍCH 51 nói về kỹ thuật quân sự. Tôi nhớ ở mục từ “lựu đạn”, tôi cố gắng tìm hiểu nhưng khó quá “lựu đạn tấn công”, “lựu đạn phòng ngự”, “hạt nổ”. Lúc đó tôi không hiểu thế nào là “bộ phận nổ”. Thế mà chỉ hơn 10 năm trước Điện Biên Phủ… chính ông là người chịu trách nhiệm chỉ đạo quân sự trong phong trào cách mạng. Nói thật ra không ai trong chúng tôi đã được đào tạo bài bản về quân sự. Có lẽ bởi vì khi còn làm ở báo Tiếng dân tại Hà Nội, tôi thường viết những bài về chiến tranh cách mạng Trung Quốc, về Mao Trạch Đông, về Chu Đức, những người đã viết một cuốn sách nhỏ nhan đề “Để hiểu tình hình Trung Quốc”. Nhưng tôi cầm bút thạo hơn là cầm súng. Sau này Bác Hồ thường nói chúng tôi phải thấm nhuần tư tưởng chính trị của chủ nghĩa cộng sản, nhưng chúng tôi cũng phải học quân sự. Ở Việt Bắc, chúng tôi không có sách giáo khoa về quân sự. Chúng tôi phải kiếm một cuốn sách giáo khoa cũ của quân đội Pháp. Chúng tôi chỉ dịch những đoạn nào mà chúng tôi thấy áp dụng được với quân đội cách mạng của chúng tôi. Thay cho hô “une, deux”, chúng tôi bảo nhau hô “một, hai”. Vì vậy mà những bộ phận đầu tiên của quân đội nhân dân tập đi đều bước (nhưng rất kém) nhờ vào một cuốn sách giáo khoa cũ của quân đội thuộc địa. Sau này trong cuộc kháng chiến lần thứ nhất, tôi đã mang theo mình cuốn “Bàn về chiến tranh” (De la guerre) của 52 VÕ NGUYÊN GIÁP - MỘT CUỘC ĐỜI Clausewitz, một tác giả mà Lênin rất coi trọng, mặc dù ông ta có tư tưởng phong kiến. Để tiến hành chiến tranh, dù là chiến tranh du kích, thì cũng phải có vũ khí! Ông lấy vũ khí ở đâu ra? Ở bất cứ chỗ nào có vũ khí: ngay ở kẻ thù của chúng tôi là người Pháp, người Nhật. Mỗi đội viên tự vệ phải tự mình tìm kiếm vũ khí. Nhưng thường lúc đầu chỉ là vũ khí thô sơ: dao găm, mã tấu. Chúng tôi cũng mua được vài khẩu súng của lái buôn người Trung Hoa. Chính tôi, lúc đầu chỉ có một quả lựu đạn gài vào thắt lưng. Nhưng tôi phải thú thật đó là lựu đạn hỏng. Đeo cho oai vậy thôi. Tôi tin là hiệu quả tâm lý không thể coi thường. Phải chứng tỏ chúng tôi là những chiến sĩ. Rồi dần dần cuộc chiến đấu mở ra, chúng tôi đã kiếm được vũ khí. Vào lúc Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, chúng tôi có đủ các loại súng: Pháp, Mỹ, Nhật, Trung Quốc. Trong những lần giao chiến với Nhật, chúng tôi thu được cả súng do Nga chế tạo từ thời Sa hoàng. Lúc đó quân của các ông có bao nhiêu người? Khoảng một nghìn. Mầm mống quân đội lúc đó tổ chức như thế nào? Thoạt đầu, chúng tôi tổ chức các đội tự vệ. Đó là những tổ chức bán quân sự có nhiệm vụ bảo vệ căn cứ HOẠT ĐỘNG DU KÍCH 53 và quấy rối, tiêu hao địch. Thanh niên nam, nữ chiến đấu rất tốt. Sau đó chúng tôi chuyển sang lập các tiểu đội bên cạnh các đội tự vệ. Các tiểu đội đó gồm binh lính, nghĩa là khác với dân quân tự vệ, những người lính chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là luyện tập quân sự. Họ được tổ chức chung quanh những phần tử tin cậy nhất về chính trị của Đảng, là những đảng viên. Họ được huấn luyện chính trị rất kỹ. Tiếp đó, ngày 22 tháng 12 năm 1944, chúng tôi tổ chức đội Tuyên truyền vũ trang đầu tiên gồm 34 người, được trang bị vũ khí. Lúc đầu là đơn vị nhỏ, nhưng đó là bước mở đầu một quá trình khá dài. Ngày nay, chúng tôi xem ngày đó là biểu tượng cho sự ra đời của quân đội nhân dân của chúng tôi. Trước khi ra đời quân đội nhân dân có một thời kỳ thai nghén. Chính cái tên “Tuyên truyền vũ trang” có nhiều ý nghĩa. Theo yêu cầu khẩn thiết của Bác Hồ, chúng tôi đã nhấn mạnh và còn nhấn mạnh mãi mãi ngay cả trong tên gọi, đặt công tác tuyên truyền lên trên, tức là chính trị trọng hơn quân sự thuần túy. Ví dụ, trong những cuộc giao chiến nhỏ đánh vào các đồn binh của Pháp, chúng tôi phải tranh thủ trước sự đồng tình của các lính bản xứ người Việt, mà người Pháp gọi là lính Bắc Kỳ, làm nhân mối trước khi tổ chức xung phong. Bây giờ đến thời kỳ tiền khởi nghĩa và khởi nghĩa, bản thân ông đã sống qua thời kỳ đó như thế nào? Đó là Xuân - Hè 1945, lực lượng và ảnh hưởng của 54 VÕ NGUYÊN GIÁP - MỘT CUỘC ĐỜI chúng tôi phát triển nhanh chóng. Công cuộc Nam tiến đạt những bước tiến bộ dài. Đầu tháng 6, chúng tôi đã có thể tuyên bố thành lập Khu giải phóng liên hoàn Cao - Bắc - Lạng - Thái - Hà - Tuyên. Chúng tôi đặt bộ tham mưu trong một ngôi làng nhỏ mà toàn thể dân làng đã ngả theo cách mạng từ lâu, là Tân Trào. Chúng tôi đã ở ven vùng châu thổ. Ngày đầu hàng của quân Nhật đến gần, chúng tôi triệu tập Quốc dân Đại hội nhằm ban bố lệnh khởi nghĩa khi thời cơ đến. Lúc đó tôi ở gần Bác Hồ. Người luôn luôn nhắc phải chuẩn bị gấp đón các đoàn đại biểu từ khắp nơi đến. Ngày 13 tháng 8, chúng tôi ra lời Kêu gọi tổng khởi nghĩa. Ngay sau đó, chúng tôi đã kéo quân về Thái Nguyên để tiến công. Tại đây, trại lính bù nhìn đầu hàng ngay không chống cự. Một sinh viên trong hàng ngũ chúng tôi đưa cho tôi tờ báo đăng tin Hà Nội đã khởi nghĩa thành công ngày 17 tháng 81 do các ủy ban Việt Minh lãnh đạo. Các đoàn đại biểu khác còn ở Tân Trào. Riêng đồng chí Trường Chinh đi với tôi về Thái Nguyên. Chúng tôi cho rằng nếu điểm then chốt trước đây là ở Thái Nguyên thì chỉ mấy tiếng đồng hồ đã chuyển về Thủ đô, chính vì vậy chúng tôi quyết định ngay lập tức tiến quân về phía nam cho tới Hà Nội. _________ 1. Có lẽ tác giả có sự nhầm lẫn, vì ngày 17 tháng 8 mới chỉ là ngày Việt Minh biến cuộc mít tinh của tổng hội viên chức thành mít tinh ủng hộ Việt Minh, chưa phải là ngày khởi nghĩa cướp chính quyền (ND). HOẠT ĐỘNG DU KÍCH 55 Ông trở về Hà Nội ngày nào? Ngày 19 tháng 8, vào buổi sáng. Lúc đó cuộc cách mạng còn đang tiếp diễn, tại Thủ đô cũng như các nơi khác trong cả nước. Đúng. Về Hà Nội, chúng tôi ở trong một ngôi nhà nhỏ, kín đáo ở phố Hàng Ngang. Ít ngày sau, Bác Hồ cũng về tới Hà Nội. Chúng tôi tiếp tục sống rất giản dị cùng trong một ngôi nhà. Chúng tôi chia nhau mọi thứ cũng như khi ở trong rừng. Bác Hồ làm việc trên tầng lầu, bên một chiếc bàn nhỏ với chiếc máy chữ cổ lỗ không lúc nào rời. Tôi làm việc cùng trong một căn phòng. Chính là hôm 29 tháng 8, Hồ Chí Minh lập chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam độc lập. Ông được cử giữ chức Bộ trưởng Nội vụ. Nhiệm vụ đầu tiên là trao cho Ủy ban cách mạng một quyền lực không thể bác bỏ được và làm cho quá trình không thể đảo ngược. Chúng tôi quyết định tổ chức một cuộc mít tinh trong đó Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam. Chúng tôi giở lịch ra coi. Chúng tôi đắn đo chọn ngày 02 tháng 9. (Theo Kinh thánh đó là ngày Tử vì đạo!). Có nên tính lại không? Không, không có vấn đề gì. Bác Hồ bắt đầu ngay công việc chuẩn bị. Chính trong căn phòng nhỏ đó Người đã thảo bản Tuyên ngôn Độc lập. Người đọc cho chúng tôi 56 VÕ NGUYÊN GIÁP - MỘT CUỘC ĐỜI nghe và chúng tôi đã thông qua. Cuộc mít tinh ngày 2 tháng 9 trên Quảng trường Ba Đình thật là vĩ đại. Một triệu đồng bào chúng tôi đến tham gia vào sự kiện, cũng là để nghe một người mà người ta đã nói đến từ lâu nhưng ít người biết rõ - đó là Hồ Chí Minh. Phải nói là nhiều đồng bào chúng tôi trong thời điểm cách mạng đó không biết Hồ Chí Minh và nhà yêu nước nổi tiếng Nguyễn Ái Quốc chỉ là một người. Bác Hồ trong ngày lịch sử đó vẫn không cảm thấy phải thay đổi diện mạo. Trái lại, Người đã từ chối không chịu để người ta may một bộ lễ phục trong dịp trọng đại như vậy. Vẫn một bộ kaki giản dị, đầu đội mũ cứng, chân đi dép cao su, Người xuất hiện trước công chúng. Người lúc đó còn trẻ nhưng trải qua bệnh tật, thiếu thốn, gian khổ trong cuộc sống bí mật làm Người trông già yếu đi nhiều so với tuổi 50, với chòm râu thưa, đôi mắt sáng ngời nhưng luôn bị cơn sốt ám ảnh. Người đọc bài diễn văn ngắn gồm những từ đơn giản như thường lệ. Một từ được nhắc đi nhắc lại nhiều lần và đem lại nhiệt tình không thể tả được là hai tiếng “Độc lập”. Đối với hàng triệu con người, ngày 02 tháng 9 đã ghi sâu trong ký ức. Đối với toàn dân chúng tôi, ngày đó trở thành biểu tượng của sự gắn bó sâu sắc đối với nền độc lập. Đã đến lúc làm một bản tổng kết thành tựu đầu tiên. Cách mạng Tháng Tám vừa thắng lợi. Ông không biết rằng một số nhà quan sát, một số sử gia ở phương HOẠT ĐỘNG DU KÍCH 57 Tây, mặc dù không có ác ý gì, đã giải thích sự kiện ấy là do khả năng vận động khéo léo của Việt Minh, đặc biệt của Hồ Chí Minh. Họ nhấn mạnh lúc đó Đảng Cộng sản Đông Dương chỉ có 5.000 đảng viên. Đó là lý thuyết về một thiểu số năng động, một nhóm nhỏ quyết tâm, táo bạo đã có khả năng giành được chính quyền? Khuyết điểm lớn nhất của tất cả những sự phân tích ấy là ở chỗ muốn giải thích Cách mạng Tháng Tám 1945, họ chỉ kể từ tháng 3 hoặc đôi khi từ tháng 7 năm đó. Cũng gần giống như để lý giải Đại cách mạng Pháp, người ta chỉ kể từ trước ngày 14 tháng 7 năm 1789. Đối với chúng tôi, sự kiện đó là sự nối dài, làm phong phú thêm truyền thống nghìn năm của dân tộc chúng tôi. Cuộc khởi nghĩa toàn quốc không phải do những người cộng sản Việt Nam bày đặt ra! Trong ngôn ngữ của chúng tôi, có từ “Khởi nghĩa toàn dân”. Người ta thường dịch ra tiếng Pháp là khởi nghĩa nhân dân (insurrection populaire), nhưng cách dịch đó không làm chúng tôi hoàn toàn thỏa mãn. Khởi nghĩa toàn dân là cuộc khởi nghĩa của toàn thể nhân dân. Đó là một hình thức chính trị - quân sự của toàn dân. Điều đó ở nước chúng tôi bắt nguồn từ những sự kiện trước đó từ đầu Công nguyên. Toàn thể nhân dân lúc đó chưa phải là đã tổ chức tốt, chưa có sự lãnh đạo của một đảng tiên phong, nhưng toàn thể nhân dân đứng lên chống kẻ thù. Đó là nét nổi bật. Tôi giải thích như vậy 58 VÕ NGUYÊN GIÁP - MỘT CUỘC ĐỜI là muốn đồng thời nói tại sao Cách mạng Tháng Tám đã giành toàn thắng nhanh như vậy. Người ta có thể nói đó là nhờ có sự chuẩn bị lãnh đạo của Đảng. Bởi vì không nên quên 15 năm trước đó Đảng đã suy nghĩ để làm giàu thêm truyền thống khởi nghĩa, áp dụng trong những điều kiện mới, đã hoạt động thường xuyên để đoàn kết và tổ chức quần chúng. Trong những điều kiện ấy, dĩ nhiên, người ta có thể nói đến yếu tố “tự phát”. Nhưng không thể hiểu hay giải thích tính tự phát đó mà không nhắc lại lịch sử xa xưa hay mới đây của đất nước chúng tôi. Từ năm 1930, chúng tôi đã nói muốn khởi nghĩa thành công phải có sự lãnh đạo kiên quyết và đúng đắn của đảng tiên phong, một ý chí chiến đấu mãnh liệt của dân chúng. Nhưng chúng tôi cũng đã nhấn mạnh thời cơ thuận lợi sẽ phải diễn ra. Vậy có gì phải ngạc nhiên khi thấy sự toàn thắng đó có vẻ như là đột ngột! Trong các thời kỳ cách mạng, một ngày bằng hai, ba mươi năm lúc bình thường. Đó, lịch sử diễn ra như thế. Chúng tôi có trông chờ Cách mạng Tháng Tám không? Tôi sẽ làm một sự so sánh lịch sử. Năm 1916, Lênin nói chuyện với thanh niên ở Thụy Sĩ: “Các anh, các bạn trẻ, các anh sẽ thấy cách mạng vô sản nổ ra. Còn chúng tôi, chúng tôi không chắc đã nhìn thấy”. Và một năm sau, chính là Cách mạng Tháng Mười bùng nổ. Trong lĩnh vực đấu tranh xã hội, người ta không thể đoán trước chính xác các cơ hội. Trước Cách mạng Tháng Tám, chúng tôi chỉ chắc có một điều HOẠT ĐỘNG DU KÍCH 59 là sự thất bại không tránh khỏi của chủ nghĩa quân phiệt Nhật và chủ nghĩa thực dân Pháp và chúng tôi sẽ giành thắng lợi. Nhưng bao giờ? Trong hoàn cảnh nào? Không ai có thể nói trước được. Trong thời kỳ đó, người Pháp đã không để mất thời gian. Họ cố giành lại trận địa đã mất. Họ cử đại diện đến Hà Nội để tìm hiểu tình hình chính trị và tiếp xúc với các thế lực chính trị khác nhau đang có mặt tại chỗ. Đồng thời ở miền Nam, do người Anh kiểm soát từ sau khi quân Nhật đầu hàng, những bộ phận đầu tiên của đội quân viễn chinh Pháp đã đổ bộ, để bắt đầu cuộc chiến tranh lập lại nền thống trị thuộc địa từ ngày 23 tháng 9. Cùng lúc đó, người Trung Hoa (Quốc dân Đảng) đến miền Bắc và xử sự như những kẻ chiếm đóng. Tình thế của các ông lúc đó vô cùng khó khăn! Các ông có đặt ra thứ tự ưu tiên các vấn đề phải giải quyết trong hàng loạt các nguy cơ trước mắt? Chính phủ chúng tôi đóng tại Hà Nội. Chúng tôi trực tiếp phải đương đầu với vấn đề quân đội Tưởng Giới Thạch. Nguy cơ của sự có mặt của 200.000, thậm chí 250.000 binh lính Tưởng đã trở thành một vấn đề nghiêm trọng phải quan tâm. Chúng tôi hiểu rõ những khuynh hướng bá quyền của họ và ý muốn của binh sĩ là lợi dụng tối đa sự có mặt của họ để ăn cướp. Đồng thời, không phải chúng tôi không biết gì về những tham vọng của người Pháp… Chúng tôi theo 60 VÕ NGUYÊN GIÁP - MỘT CUỘC ĐỜI dõi với sự lo ngại và giận dữ vì hành động gây hấn của Pháp ngày 23 tháng 9 năm 1945 tại Sài Gòn1. Nhưng chúng tôi không muốn phải đương đầu cùng một lúc với tất cả những kẻ thù đó. Đó sẽ là khai tử cuộc cách mạng. Hơn thế nữa, lúc đó các ông bị cô lập trên trường quốc tế! Tuy nhiên có một bí mật hay ít nhất cũng là một câu hỏi, là thái độ im lặng của Liên Xô, sau này là đồng minh tự nhiên của các ông. Báo chí Xôviết lúc đó không nói gì nhiều lắm về Việt Nam, trong các lời phát biểu chính thức cũng không có một sự ám chỉ nào, đương nhiên là không có chuyện công nhận2. Ông giải thích ra sao về sự im lặng đó? Mạc Tư Khoa có nhiều con mèo phải quật vào lưng, như cách nói của các ông. Là nước thắng trận nhưng đất nước hoang tàn, đổ nát. Chiến tranh thế giới vừa mới kết thúc. Quân phiệt Nhật chính thức ký văn kiện đầu hàng Đồng minh vào ngày 02 tháng 9, đúng ngày chúng tôi tuyên bố độc lập ở châu Á. Nói thật ra, lúc đó không ai biết rõ tình hình ở Việt Nam. _________ 1. Chiếm lại chính quyền với sự đồng lõa của người Anh. 2. Ngày 30 tháng 01 năm 1950, tức là bốn năm sau, Liên Xô mới công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tiếp theo sau việc Cộng hòa nhân dân Trung Hoa công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 18 tháng 01 năm 1950. HOẠT ĐỘNG DU KÍCH 61 Sự trung thành với lịch sử chủ nghĩa cộng sản của ông có lẽ ngăn cản ông nói thêm “…” rồi, “Mạc Tư Khoa (Mátxcơva) ít chú ý đến nước nhỏ này”… Rồi ông sẽ biết… Ông có nghĩ rằng quyết định giải tán Đảng Cộng sản Đông Dương1 đóng vai trò gì trong sự không tin cậy đó? Có thể lắm. Đây là một biện pháp đau đớn, nhưng không thể tránh được. Trong chuyến đi thăm Mạc Tư Khoa năm 1950, quan điểm của Bác Hồ chưa nhận được sự ủng hộ, thường là không thuận lợi. Năm 1945, chúng tôi không có phương tiện để giải thích. Thực tế, các nhà sử học đều biết cả. Đảng chúng tôi không lúc nào không tồn tại, đồng chí Trường Chinh vẫn nắm vững quyền lãnh đạo Đảng. Việc kết nạp đảng viên mới không bao giờ ngừng. Trong những năm đầu kháng chiến, chúng tôi đã kết nạp thêm nửa triệu đảng viên mới, các chi bộ đảng sinh hoạt đều đặn ở tất cả các cấp. Bản thân tôi là bí thư Đảng đoàn Chính phủ. _________ 1. Tháng 11 năm 1945 đã có một quyết định công khai, hiếm có trong lịch sử phong trào cộng sản quốc tế: Đảng Cộng sản không còn tồn tại như một chính đảng mà “được thay thế bằng” Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác. Thực tế Đảng Cộng sản Đông Dương vẫn giữ quyền tối hậu về các quyết định chiến lược. 62 VÕ NGUYÊN GIÁP - MỘT CUỘC ĐỜI Chúng ta hãy trở lại việc xác định đường lối chính trị của các ông ngay sau khi tuyên bố độc lập. Chúng tôi đã định ra đường lối chính trị như thế này: không khước từ thỏa hiệp, tiến hành thương thuyết với người Trung Quốc, rồi với người Pháp, chúng tôi biểu thị tính mềm dẻo, linh hoạt về các hình thức, nhưng rất kiên quyết, không hề lay chuyển về hai vấn đề: giữ gìn nền độc lập và thống nhất đất nước. Đó là ý chí đầu tiên của chúng tôi. Ví như khi chúng tôi tiến hành thương lượng với người Pháp, chúng tôi thật sự có ý muốn làm tất cả để cuộc thương thuyết đi đến kết quả. Chúng tôi không bao giờ đánh giá thấp một kẻ thù nào, và chúng tôi muốn tránh cho nhân dân chúng tôi khỏi tai họa của chiến tranh. Thật là một tội ác nếu không đồng thời làm mọi việc để ngăn ngừa thất bại của thương thuyết, ngăn ngừa cuộc xâm lược. Vậy cùng một lúc chúng tôi quyết định thương lượng, nhưng chúng tôi cũng nhấn mạnh sự cần thiết không những không bao giờ buông lỏng việc chuẩn bị về quân sự mà còn tăng cường công việc chuẩn bị chiến tranh. Chớ quên rằng khi đó, ở miền Nam, chiến tranh đã bắt đầu, cũng không nên quên rằng chúng tôi chưa có một đội quân thành thạo việc chinh chiến, sẵn sàng đối phó với quân đội Pháp hiện đại và có kinh nghiệm chiến đấu. HOẠT ĐỘNG DU KÍCH 63 Áp dụng đường lối đó, cuối cùng Chính phủ các ông đã ký Hiệp định mùng 06 tháng 3, theo đó nước Pháp thừa nhận Việt Nam là một “quốc gia tự do”. Đổi lại, các ông chấp nhận tham gia một cộng đồng mới là Khối Liên hiệp Pháp và cho phép quân đội Pháp trở lại miền Bắc. Sau khi ký kết, ông đọc một bài diễn văn nổi tiếng, trong đó ông so sánh sự thỏa hiệp như trước đây Lênin đã thừa nhận ở Brest Litovsk năm 1918, ông cũng đã tuyên bố: Những người không thỏa mãn, không hiểu độc lập hoàn toàn như một khẩu hiệu trên giấy hay cửa miệng… Họ không nhìn thấy độc lập của đất nước là kết quả của những điều kiện khách quan và trong cuộc đấu tranh của chúng ta để giành độc lập, có những lúc chúng ta phải kiên quyết và có những lúc phải tỏ ra mềm mỏng1. Bài học về chủ nghĩa thực tế chính trị. Ông đã nhắc tới Lênin. Chúng ta hãy nói về vấn đề này. Chắc hẳn ông phân biệt được “thỏa hiệp” (compromis) và “làm tổn hại” (compromission). Bài học đó lúc nào cũng ở trong túi mọi chiến sĩ cách mạng. Quyết định ký Hiệp định mùng 06 tháng 3 không phải là để cho vui. Những nhà thương thuyết _________ 1. Trích dẫn của Philippe Devillers: Histoire du Vietnam de 1940 à 1952 (Lịch sử Việt Nam từ 1940 đến 1952), Paris, Editions du Seuil, 1952. 64 VÕ NGUYÊN GIÁP - MỘT CUỘC ĐỜI theo lệnh của Paris đã kiên quyết từ chối từ “độc lập”. Chúng tôi hiểu là chúng tôi không giành được sự nhân nhượng rất lớn lúc đó. Vì vậy đoàn đại biểu của chúng tôi, theo đề nghị của Hồ Chí Minh, đã đưa ra ý tưởng dùng cụm từ “quốc gia tự do”, cuối cùng đã được người Pháp chấp nhận. Mặc dù có những điểm chưa hoàn hảo, nhưng bản hiệp định đối với chúng tôi là một thắng lợi lớn. Đó là Pháp thừa nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một người đối thoại. Trở lại thời kỳ mùa Xuân 1945, một năm trước đó, gần như không một ai trên thế giới biết đến chúng tôi. Lực lượng du kích của chúng tôi còn tương đối yếu. Tháng 3 năm 1946, nước Pháp có thuộc địa - là một trong những cường quốc lúc đó - đã buộc phải thương lượng với chúng tôi với những nhân nhượng. Tất cả những điều đó giành được là nhờ sức mạnh, nhờ ý chí của dân tộc đoàn kết. Ông có thể nói về người đối thoại của các ông lúc đó - ông Jean Sainteny? Chắc chắn là Jean Sainteny đã cố gắng để tỏ ra muốn nhân nhượng, nhưng về thực chất ông ta thật sự không hiểu rằng chúng tôi đã bước vào một thời đại mới. Ông ta vẫn giữ nguyên cách nói như những bản tuyên bố chính thức của de Gaulle mà chúng tôi đã biết. Nhưng có lẽ ông ta đã buộc phải làm như vậy. Sau đó ông ta đã gắn bó với Việt Nam nhiều hơn. Thất bại HOẠT ĐỘNG DU KÍCH 65 của Pháp năm 19541 không thể nói là tại ông ta. Và chúng tôi rất xúc động khi ông ta có mặt trong lễ tang Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng tôi năm 1969. Còn Tướng Leclerc… Mở đầu câu chuyện tôi muốn nói với ông một điều có lẽ không hay đối với hình ảnh của ông ta trong số người Pháp các ông. Ở nước các ông, Leclerc được coi như một người sáng suốt, đến Đông Dương để áp đặt một giải pháp thông qua thương lượng. Ấy thế mà ngay từ đầu không phải như thế! Ông ta muốn áp đặt một giải pháp vũ lực. Chỉ sau khi dẫm chân tại chỗ của cái gọi là cuộc “dạo chơi quân sự” của ông ta tại Nam Bộ, ông ta mới bắt đầu trở nên sáng suốt hơn. Ở miền Bắc, ông ta tính phải chuẩn bị đối phó với một cuộc kháng chiến mạnh hơn nữa. Chính vì thế, ông ta đã chọn giải pháp thương lượng. Nhưng trái ngược với nhiều người khác, ông ta đã dũng cảm thay đổi lập trường ban đầu của mình. Đúng thế. Về sau ông ta ủng hộ thương thuyết với chúng tôi. Ngay sau khi ký Hiệp định mùng 06 tháng 3, tôi đã gặp ông ta ở Hải Phòng. Tôi được Chính phủ giao _________ 1. Từ tháng 10 năm 1954, Sainteny trở lại Hà Nội với chức danh tổng đại diện Chính phủ Pháp, nhưng không được trao quyền hạn, lại bị Tướng Ely - người ngang hàng với ông ta tại Sài Gòn - chỉ trích rằng, ông ta phải biết là mình không có thực quyền gì. 66 VÕ NGUYÊN GIÁP - MỘT CUỘC ĐỜI trách nhiệm đi gặp ông ta. Không thể chối cãi được rằng ông ta có dáng người bệ vệ, cao lớn, khô khan, khuôn mặt xương xương, cặp mắt sáng. Tất cả đều toát lên hình ảnh một quân nhân nhà nghề có bề dày truyền thống. Cuộc tiếp xúc đầu tiên không lấy gì làm nồng nhiệt. Tâm trí tôi lúc đó không thoải mái gì. Người ta đã báo cáo với tôi những câu nói mà ngay sáng hôm ấy ông ta đã phát biểu, đại loại như: “Bây giờ chúng tôi đã đến đây, chúng tôi ở đây dù các ông có muốn hay không, dù điều đó làm các ông vui lòng hay không”. Tôi đặt ngay cuộc nói chuyện vào vị trí mà ông ta không thể thoát ra được: “Tướng quân đã chiến đấu để giải phóng quê hương ông. Tôi cũng như ông, tôi yêu Tổ quốc… chúng ta có thể thông cảm và phải thỏa thuận được với nhau”. Ông ta không trả lời. Nhưng tôi ngờ rằng ông ta đã cho đó là phải. Và để chấm dứt câu chuyện về bộ ba những người quyết định chính sách, chúng ta hãy nói về Đô đốc D’Argenlieu? Ông này là người tôi ít tiếp xúc nhất. Tôi không lấy làm tiếc về điều đó. Tôi có cảm tưởng ông ta cũng như tôi, chẳng ai muốn làm quen với nhau. Tôi chỉ gặp ông ta có một lần, vào tháng sau đó ở Đà Lạt1. Tại đây, cuộc tiếp _________ 1. Tại Đà Lạt, vào tháng 4 đã diễn ra Hội nghị Việt - Pháp để thúc đẩy việc thi hành Hiệp định mùng 06 tháng 3. Thực tế tại Hội nghị này, ông Giáp đã dẫn đầu Đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. HOẠT ĐỘNG DU KÍCH 67 xúc với ông ta nói thẳng là khó chịu. Ngay từ lúc đầu tôi đã vạch trần mưu mô và sự gian dối của ông ta. Ông ta cố gắng tỏ ra lễ độ khi gặp chúng tôi, nhưng mọi người cảm thấy ông ta làm việc đó một cách miễn cưỡng. Ở ông ta, một tên thực dân lão luyện chỉ được che đậy một cách phiến diện và vụng về bằng những câu về “vai trò giải phóng của nước Pháp mới”. Thực tế, ông ta chỉ nghĩ đến việc lập lại hoàn toàn những đặc quyền thuộc địa. Thỏa hiệp Pháp - Việt, hay đúng hơn là ý định thỏa hiệp đều đi ngược lại với suy nghĩ của ông ta. Nhưng tôi không quên rằng ông ta luôn luôn nhận lệnh của Tướng de Gaulle, mặc dù ông này đã chính thức về hưu1. Càng nghiên cứu mối quan hệ Pháp - Việt trong thời kỳ này, tôi càng thấy từ tháng 3 đến tháng 11, những mối quan hệ đó đã đến một ngã ba đường, và thấy nước Pháp quá gắn bó với sơ đồ quá khứ, không thể hiểu thời đại mới, đã bỏ lỡ một cơ hội để có thể bắt đầu quá trình phi thực dân hóa một cách hòa bình. Thật đáng tiếc cho nhân dân nước ông, từ năm 1946 đã phải bắt _________ 1. Tướng de Gaulle đã xin từ chức vào tháng 01 năm 1946. Tuy nhiên D’Argenlieu và Leclerc vẫn giữ thói quen đến hỏi ý kiến. Sau này, người ta biết de Gaulle trong câu chuyện riêng tư đã lên án Hiệp định mùng 06 tháng 3 và đã dùng áp lực để ngăn cản giải pháp thương lượng. Ví dụ, ông ta đã khuyên Leclerc khước từ tiến cử của Blum trở lại nắm quyền chỉ huy quân đội Pháp tại Đông Dương cuối năm 1946. 68 VÕ NGUYÊN GIÁP - MỘT CUỘC ĐỜI đầu một chu kỳ chiến tranh liên tục với bao tàn phá trong suốt 30 năm. Cũng là đáng tiếc với nước Pháp, đáng lẽ có thể xây dựng những mối quan hệ có tính chất mới, thuận lợi cho lợi ích của chính nước mình. Tôi đồng ý với ông. Đúng là lúc đó nước Pháp và Việt Nam đang ở ngã ba đường. Hai nước có thể thiết lập những mối quan hệ mới nhưng không may là đã đi đến xung đột. Chúng ta hãy trở lại điều ông vừa nói ban nãy. Ông đã nói chính sách của Việt Nam là đi vào thương thuyết, nhưng không bao giờ chậm chạp trong việc đối phó với chiến tranh nếu cần thiết. Vậy mà khi nghiên cứu lịch sử, người thường gắn tên Hồ Chí Minh với chính sách thương lượng, còn tên ông lại gắn với chính sách chuẩn bị chiến tranh. Kết quả là người ta coi ông như một người cực đoan, một phần tử hiếu chiến, thiếu kiên nhẫn trong việc giải quyết vấn đề. Ông nghĩ gì về điều đó? Chúng tôi chỉ có một chính sách duy nhất, chính sách thứ nhất hay thứ nhì cũng là một thôi. Chúng tôi luôn luôn sẵn sàng đối phó với cả hai tình huống có thể xảy ra. Có phải chúng tôi có thể có một khoảng thời gian xả hơi với Hiệp định mùng 06 tháng 3 không? Ý chí của chúng tôi là làm mọi việc để hiệp định đó được thực hiện. Ở Pháp lúc bấy giờ, trong chính phủ có các HOẠT ĐỘNG DU KÍCH 69 bộ trưởng cộng sản như Thorez, Tillon, Billoux… Điều đó rất đáng kể đối với chúng tôi. Tuy nhiên dần dần trong những cuộc tiếp xúc của chúng tôi với các đại biểu Pháp, người ta cảm thấy rằng điều đó ngày càng khó khăn hơn. Nhất là sau chuyến thăm nước Pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh1. Một hôm Leclerc hỏi tôi: Chúng ta có thể đi đến thi hành các hiệp định đó không? Tôi đã trả lời ông ta: Có một khả năng, nhưng điều đó tùy thuộc vào người Pháp. Và tôi xin nói thẳng với ông là cho tới nay, những sự việc xảy ra chứng tỏ rằng về phía Pháp, người ta không thi hành hiệp định. Một hôm khác, một vụ rắc rối nghiêm trọng xảy ra tại Bắc Ninh2. Đại tá Crépin đến tìm tôi, yêu cầu tôi can thiệp với bộ đội Việt Nam! Tôi trả lời ông ta: Nếu ông đồng ý, chúng ta sẽ lập tiểu ban điều tra. Nhưng những sự việc, rất nhiều, rất nhiều chứng tỏ các ông _________ 1. Hồ Chí Minh đã được đón tiếp ở Pháp với những vinh dự dành cho một người đứng đầu nhà nước từ tháng 7 đến tháng 9 năm 1946. Người đã ký với Bộ trưởng Hải ngoại Pháp quốc, đảng viên Đảng Xã hội Marius Moutet một bản tạm ước (14 tháng 9), nhưng cũng không ngăn cản được các sự kiện định mệnh nối tiếp nhau. 2. Tại Bắc Ninh, phía bắc Hà Nội, ngày 07 tháng 8 năm 1946, xảy ra một vụ đụng độ giữa quân Pháp và bộ đội Việt Nam. Hai bên đều có người chết. Ông Giáp thay mặt cho bên Việt Nam tham gia tiểu ban điều tra. Đại tá Crépin được cử thay mặt cho phía Pháp trong tiểu ban đó. 70 VÕ NGUYÊN GIÁP - MỘT CUỘC ĐỜI càng ngày càng hung hăng, lấn lướt. Nhưng nếu các ông chọn chiến tranh, các ông sẽ có chiến tranh! Một giai thoại khác. Ở Hội nghị Đà Lạt, không khí rất căng thẳng. Tất cả cuộc thảo luận xoay quanh vấn đề Nam Bộ. Đối với chúng tôi, dĩ nhiên Nam Bộ là một bộ phận không thể tách rời khỏi lãnh thổ quốc gia Việt Nam. Người Pháp thì cố thủ đằng sau cái gọi là “đặc điểm Nam Kỳ”. Họ còn ngăn cản ông Phạm Ngọc Thạch, đại biểu Nam Bộ của chúng tôi, tham dự vào công việc của Hội nghị. Thế là giữa buổi họp, tôi tuyên bố: “Chừng nào Nam Bộ chưa trở về Tổ quốc chúng tôi, chúng tôi còn tiếp tục đấu tranh…”. Và tôi bỏ Hội nghị, đóng sập cửa lại. Lúc đó tôi xử sự không “ngoại giao” lắm. Đó là những lời lẽ, theo ý tôi, khiến người ta gán cho tôi cái tiếng là một kẻ hiếu chiến. Nhưng đó không phải là chính sách của riêng tôi, đó là chính sách của Đảng, của Chính phủ đã được quyết định chung. Cuối cùng vào tháng 11 năm 1946, hạm đội Pháp bắn phá Hải Phòng đã làm chiến tranh lan rộng… Đúng, vụ Hải Phòng… Đối với chúng tôi, đó là bước quyết định. Sau này người ta có thể cho rằng chiến tranh đã thực sự bắt đầu ngày 23 tháng 9 năm 1945, tại Sài Gòn. Nhưng suốt hơn một năm sau, tình hình đáng ngạc nhiên là trên cùng một lãnh thổ quốc gia Việt Nam, người Pháp và người Việt vẫn giao chiến HOẠT ĐỘNG DU KÍCH 71 với nhau ở miền Nam, nhưng ở miền Trung thì nhìn nhau như những con chó bằng sứ, còn ở miền Bắc thì thương lượng với nhau - một cách vất vả và gay go - một tình thế rất hiếm hoi trong lịch sử… Khi nào thì chiến tranh đối với các ông là không thể tránh được? Ngôn ngữ của các ông có thể có nhiều cách hiểu. Có thể nói rằng, khi tôi từ Đà Lạt trở về, chiến tranh đối với chúng tôi là “rất có thể”, hơn nữa, cơ quan tình báo của chúng tôi đã tóm được một thông tri nội bộ “của Valluy”1 nói đến kịch bản “một cuộc đảo chính” chống lại nền cộng hòa của chúng tôi. Nhưng chính tôi tin vào tài năng thuyết phục của Bác Hồ lúc đó sắp sửa lên đường sang Pháp, mà tôi giữ không chuyển từ “rất có thể xảy ra” sang “không thể tránh được”. Bác Hồ thường dẫn ra câu phương ngôn “Còn nước còn tát”. Tháng 3, một số người tưởng cái giếng còn đầy nước. Sang tháng 4 thì chỉ còn như một cái vũng. Sau khi Bác Hồ trở về nước, chúng tôi biết rằng chỉ còn như một hố nước. Cuộc nã pháo vào Hải Phòng tháng 11 làm chúng tôi hiểu rằng cứ mỗi lần thỏa hiệp thì lại xúi giục người Pháp đòi hỏi thêm, mà chiếc giếng đã cạn! _________ 1. Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở miền Bắc Việt Nam. 72 VÕ NGUYÊN GIÁP - MỘT CUỘC ĐỜI Do đó ông đã từ chối không nhận bức tối hậu thư cuối cùng ở Hà Nội. Tối hậu thư ngày 16 tháng 12 là bản sao tối hậu thư ở Hải Phòng. Thái độ ngạo mạn của bọn thực dân là không giới hạn. Chúng thật sự tin rằng chúng tôi ngoan ngoãn khom lưng dâng Thủ đô cho chúng? Tháng 12 ở Hà Nội, chiến tranh đã nổ ra. Chủ yếu là phái hiếu chiến và phản động đã chiếm ưu thế trong Chính phủ Pháp. Tất cả đều đã được quyết định ở Paris bởi Bidault, Moutet, Coste-Floret..., không quên vai trò của de Gaulle như đã nêu ở trên. Tại chỗ, D’Argenlieu và Valluy là những kẻ thi hành chính sách ấy. Dân tộc ông và bản thân ông đã đi vào chu kỳ chiến tranh sẽ chỉ kết thúc bằng cuộc giải phóng hoàn toàn lãnh thổ 30 năm sau. Một cuộc chiến tranh 30 năm. 10.000 ngày! Một cuộc chiến dài nhất thế kỷ. Nhà lý luận chiến tranh cách mạng Trước khi trở lại biên niên sự kiện, tôi muốn chúng ta hãy dừng lại và xem xét kỹ những bài học chiến lược của quy trình 30 năm xung đột. Dưới con mắt của một nhà quan sát, ông là bậc thầy của chiến tranh cách mạng. Tuy nhiên tất cả những điều ông biết đến, ông không học ở trường quân sự. Tôi đã đọc đâu đó rằng ông là người duy nhất trong lịch sử thế giới đi từ một cán bộ ngoài quân đội chịu trách nhiệm về các vấn đề quân sự tiến thẳng lên đại tướng1. Và còn phải nói thêm nữa: chỉ đến tháng 5 năm 1948, tức là bảy năm sau khi Việt Minh thành lập, một năm rưỡi sau khi chiến tranh chống chủ nghĩa thực dân lan rộng ra cả nước. Tuy nhiên ông không phải chỉ là một nhà thực hành, dù là một thiên tài, mà ông cũng là người đã viết nhiều về chiến tranh cách mạng. Ông biết rằng đã và đang có nhiều người trên thế giới đọc tác phẩm của ông, kể cả những _________ 1. Đúng theo nguyên bản (BT). 74 VÕ NGUYÊN GIÁP - MỘT CUỘC ĐỜI người không muốn điều tốt lành với lý tưởng của ông. Tôi có thể đề nghị ông tóm tắt những nét chính của chiến lược mà ông đã áp dụng thành công trong suốt thời kỳ đó? Trả lời câu hỏi của ông là một bài toán phức tạp. Nhưng tôi cũng thử liều xem… Lý thuyết quân sự cổ điển, nền khoa học quân sự truyền thống dạy rằng muốn giành thắng lợi, phải biết trong cùng một lúc tập hợp lực lượng để có ưu thế hơn địch về quân số, về kỹ thuật. Ông hãy xem Napoléon đấy! Thế mà chúng tôi phải đương đầu với số đông quân địch trong khi quân chúng tôi không đông, chúng tôi phải chống lại sự xâm lược của kẻ thù có nhiều vũ khí tối tân, trong khi trong một thời gian dài chúng tôi chỉ có gì dùng nấy làm phương tiện đánh địch. Tuy nhiên chúng tôi phải đứng lên chống xâm lược, nếu không sẽ nguy hại cho sự sinh tồn của cả dân tộc chúng tôi. Làm sao có thể đòi hỏi được? Chúng tôi đã tìm được câu trả lời là bằng chiến tranh của nhân dân. Nhưng là cuộc chiến tranh của toàn thể nhân dân. Trong cách dịch từ tiếng Pháp “chiến tranh nhân dân” thiếu hẳn một khái niệm, một tầm cỡ. Đó là khái niệm “nhất trí, đồng lòng”. Đúng là một cuộc chiến tranh của toàn thể nhân dân, đó là cái “bí quyết” của mọi thắng lợi của chúng tôi. Mỗi làng trở thành một tòa thành, mỗi người Việt Nam là một chiến sĩ, mỗi chi bộ đảng là một bộ tham mưu (tất cả những câu nói này là của Chủ tịch Hồ Chí Minh). NHÀ LÝ LUẬN CHIẾN TRANH CÁCH MẠNG 75 Kẻ địch bị bao vây giữa một đại dương đối nghịch của nhân dân, mắt, tai bị bịt kín, nên địch có mắt (mà) như mù, có tai (mà) như điếc, địch đánh trong khoảng không, còn chúng tôi có hàng triệu đôi tai, hàng triệu con mắt khiến địch làm gì chúng tôi cũng biết. Tôi đã nói với ông, tất cả những điều này là tổng hợp một kinh nghiệm từ nhiều thế kỷ nay của nhân dân chúng tôi. Chiến tranh nhân dân không phải là một phát minh của Việt Nam ở thế kỷ XX. Ông hãy đọc lại Lênin: Trong mọi cuộc chiến tranh, thắng lợi xét đến cùng, tùy thuộc tinh thần đổ máu trên chiến trường của quần chúng. Lênin còn nói thêm: Trong nội chiến, bọn Bạch vệ và những lực lượng can thiệp ồ ạt của nước ngoài bị tống khỏi nước Nga Xôviết từ khi nước này biến mỗi người dân thành một người lính. Có phải đó là điều đã xảy ra trong quá khứ không? Vậy là, trong cuộc đấu tranh của chúng tôi, mỗi lúc, mỗi phút đều là phép thử bằng kinh nghiệm của những nguyên tắc đó. Chúng tôi cũng làm cho mỗi người dân của chúng tôi là một người lính. Điều tóm tắt đúng nhất của những quan niệm đó là ở trong các công thức như thế, so sánh lực lượng là tổng thể: chính trị, kinh tế, quân sự. Cuộc đấu tranh vũ trang chỉ là một hình thức đấu tranh chính trị, luôn luôn phụ thuộc vào đấu tranh chính trị, đường lối quân sự bắt nguồn từ đường lối chính trị, đấu tranh vũ trang phải tuân theo đấu tranh chính trị. Chính vì vậy mà người đứng đầu thật sự, bộ tham mưu của quân 76 VÕ NGUYÊN GIÁP - MỘT CUỘC ĐỜI đội chúng tôi là bộ chính trị của Đảng. Không thể nào khác được. Đó là sức mạnh cơ bản của chúng tôi đã áp dụng những nguyên tắc đó. Sai lầm chính của những kẻ thù của chúng tôi là đã không hiểu điều đó. Thật ra, đặt trong hoàn cảnh của họ, là kẻ chịu trách nhiệm gây ra chiến tranh xâm lược, họ không thể nào hiểu được chiến lược đó, mà dù có hiểu, cũng không thể nào áp dụng được để thắng chúng tôi. Điều ông vừa nói khiến tôi nghĩ đến Tướng de Lattre mà chúng ta đã nói chuyện với nhau. Ông ta là một trong những người có trí thông minh sắc sảo, đã đối lập với ông. Ở phương Tây ông ta được khen là một chiến binh giỏi, một tướng lĩnh có tài trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Vậy mà… Vinh danh ấy cũng xứng đáng thôi vì ông ta đã chiến đấu để giải phóng nước Pháp, Tổ quốc của ông ta khỏi ách phát xít Đức. Và tiến hành một cuộc chiến tranh như vậy, ông ta có thể phát huy sáng kiến và cuối cùng, ông ta cùng với những người khác đã giành chiến thắng. Thế mà năm năm sau, sang đây chiến đấu trên mảnh đất Việt Nam này, rõ ràng ông ta hoàn toàn bất lực vì ông ta thuộc về phía những kẻ xâm lược. Ngay lúc mới đến Việt Nam, ông ta đã tỏ ra khá lúng túng… Lý thuyết quân sự của ông bắt nguồn từ đâu? Phải nói rằng không phải Đảng chúng tôi đã sáng NHÀ LÝ LUẬN CHIẾN TRANH CÁCH MẠNG 77 tạo sẵn đủ mọi lý thuyết quân sự. Đảng đã tìm trong truyền thống đấu tranh ngàn năm của nhân dân chúng tôi. Tại sao một truyền thống như thế lại nảy sinh, nói một cách chính xác, trong dân tộc chúng tôi. Bởi lẽ thời nào cũng thế, phải lấy yếu địch nhiều, đối phó với kẻ địch đông hơn, có hỏa lực mạnh hơn, nhiều vật tư hơn. Ngay cả tầng lớp đại phong kiến, những người đã bóc lột nhân dân, cũng phải tập hợp đông đảo quần chúng, sử dụng mọi lực lượng của dân tộc. Khái niệm đó tập hợp được đông đảo quần chúng, đã xuất hiện từ nhiều thế kỷ nay trước khi được biết tới ở châu Âu. Đối với chúng tôi đó là vấn đề sinh tử. “Cả nước đồng lòng góp sức…”, Trần Hưng Đạo ở thế kỷ XIII đã nói như vậy; và Nguyễn Trãi viết: “Vung gậy làm cờ, tập hợp những người cày ruộng, những người cùng khổ”. Ông hãy so sánh với lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 20 tháng 12 năm 1946 mà lúc nãy ông đã trích dẫn: “Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”. Chúng tôi đã làm như thế. Khía cạnh thứ hai là chúng tôi biết gắn truyền thống kháng chiến của dân tộc với những nguyên tắc lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chỉ nguyên truyền thống thôi thì không đủ lý giải những thành công của chúng tôi. Chúng ta đã ở thế kỷ XX, chúng tôi phải đương đầu với chủ nghĩa đế quốc, một kẻ thù mạnh hơn nhiều so với phong kiến Trung Quốc xưa kia. 78 VÕ NGUYÊN GIÁP - MỘT CUỘC ĐỜI Chỉ “lặp lại” một cách đơn giản, “sao chép” một cách đơn giản các hình thức đấu tranh thời kỳ tiền thuộc địa, chúng tôi sẽ thất bại như đã chứng tỏ bằng toàn bộ kinh nghiệm của phong trào yêu nước trước khi có Đảng. Ngược lại, áp dụng sơ đồ mácxít - lêninnít mà không có sự suy nghĩ cần thiết về những điều kiện cụ thể của cuộc đấu tranh của chúng tôi và của đất nước chúng tôi thì không thể giành thắng lợi. Đó là khi nói về cái cốt lõi chung của lý luận mácxít về chiến tranh. Bây giờ ông có thể chỉ cho tôi nguyên tắc chiến lược hàng đầu của tư tưởng và thực tiễn của ông là gì? Về phương diện chỉ đạo quân sự, nguyên tắc chủ yếu, nguyên tắc của những nguyên tắc là luôn luôn làm chủ tình hình và muốn như thế phải nắm quyền chủ động. Dù là tiến công trong khi vận động hay rút lui cũng phải chủ động. Luôn luôn phải phân tích đúng tình hình, toàn bộ tình hình, chiến lược và sách lược. Vậy phải thường xuyên nắm thật vững các quy luật phát triển quân sự, ngay cả khi chiến trường đang biến chuyển. Việc luôn luôn nắm quyền chủ động buộc địch phải hành động theo ý mình, thường trái với ý muốn của chúng. Ngay từ đầu chúng tôi đã ở thế thượng phong, phải chủ động, chủ động hơn nữa, luôn luôn chủ động. Phải ở thế tiến công, luôn luôn tiến công dưới mọi hình thức. Tích góp thành công từng giờ từng