🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Võ Nguyên Giáp - Chiến Thắng Bằng Mọi Giá Ebooks Nhóm Zalo CHIẾN THẮNG BẰNG MỌI GIÁ THIÊN TÀI QUÂN SỰ VIỆT NAM: ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP Cecil B. Currey Nguyễn Văn Sự dịch Copyright © 1997 by Cecil B. Currey Bản quyền tiếng Việt © 2013, 2014 Công ty Cổ phần Sách Thái Hà Cuốn sách được xuất bản theo hợp đồng bản quyền giữa JABberwocky Literary Agency, Inc. và Công ty Cổ phần Sách Thái Hà. Không phần nào trong cuốn sách này được sao chép hoặc chuyển sang bất cứ dạng thức hoặc phương tiện nào, dù là điện tử, in ấn, ghi âm hay bất cứ hệ thống phục hồi và lưu trữ thông tin nào nếu không có sự cho phép bằng văn bản của Công ty Cổ phần Sách Thái Hà. Tái bản lần thứ hai Cuốn sách này được Công ty Sách Thái Hà và Nhà xuất bản Thế Giới hoàn thành với sự giúp đỡ nhiệt tình của nhiều cá nhân và tổ chức. Trước hết chúng tôi xin chân thành cảm ơn dịch giả Nguyễn Văn Sự - người đã giúp chúng tôi liên hệ để có được bản quyền tiếng Pháp của cuốn sách và đã chuyển ngữ cuốn sách sang tiếng Việt. Chúng tôi xin gửi lời cảm ơn đặc biệt tới gia đình và Văn phòng Đại tướng Võ Nguyên Giáp: ông Võ Điện Biên, ông Võ Hồng Nam, Đại tá Trịnh Nguyên Huân đã giúp hiệu đính cho nội dung cuốn sách. Chúng tôi xin được gửi lời cảm ơn tới hai nhà sử học nổi tiếng, nhà sử học Pháp Alain Ruscio và nhà sử học Dương Trung Quốc đã viết lời giới thiệu cho cuốn sách trong lần xuất bản tiếng Việt đầu tiên. Chúng tôi mong nhận được những ý kiến đóng góp của quý độc giả để cuốn sách được hoàn chỉnh hơn trong những lần in sau. Lời nhà xuất bản Cuốn sách này là một trong số những tác phẩm do các tác giả nước ngoài viết về Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người Anh Cả vô cùng kính mến của Quân đội nhân dân Việt Nam. Bằng những tư liệu phong phú từ nhiều nguồn khác nhau, tác giả Cecil B. Currey đã dựng lại một cách sinh động những chặng đường lịch sử mà Đại tướng đã trải qua trong đời, từ thuở thiếu thời, khi tham gia cách mạng và sau này khi trở thành vị Tổng tư lệnh quân đội. Là một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với tư duy và tài năng quân sự bẩm sinh, kết hợp với học hỏi từ sách vở, truyền thống và thực tiễn, Đại tướng đã góp phần xây dựng và phát triển học thuyết quân sự đặc sắc của Việt Nam, làm cơ sở cho mọi thắng lợi của lực lượng quân sự cách mạng Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến giành và bảo vệ độc lập - tự do dân tộc. Hơn thế nữa, những thắng lợi vang dội đó đều gắn liền với sự chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp của Đại tướng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và của Bác Hồ kính yêu. Tác giả cuốn sách đã dày công sưu tầm và nghiên cứu nguồn tư liệu thu thập được để khắc họa lên chân dung một trong những vị Tướng xuất sắc nhất của lịch sử Việt Nam và thế giới. Tuy nhiên, độc giả có thể bắt gặp đây đó trong cuốn sách cách nhìn nhận, đánh giá, diễn dịch một số sự kiện và nhân vật lịch sử khác biệt với quan điểm chính thống của chúng ta cũng như một số chi tiết chưa chính xác. Điều đó cũng dễ hiểu bởi lẽ, bất kỳ công trình nghiên cứu nào cũng đều mang dấu ấn suy nghĩ cá nhân của tác giả. Và phải chăng, chính dấu ấn cá nhân ấy làm nên nét khác biệt cho cuốn sách này, giữa vô vàn ấn phẩm viết về Đại tướng Võ Nguyên Giáp và lịch sử hiện đại Việt Nam. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc. Hà Nội, tháng 07 năm 2013 Lời giới thiệu cho bản tiếng Việt Có thể nói Chiến thắng bằng mọi giá là một trong những cuốn sách đầy đủ, chi tiết nhất viết về Đại tướng Võ Nguyên Giáp của người nước ngoài. Cecil B. Currey - một sử gia quân sự - đã giúp người Việt Nam chúng ta làm một công việc cần thiết và vô cùng đáng trân trọng: đó là khiến thế giới hiểu về lịch sử - truyền thống Việt Nam, hiểu về đất nước - con người Việt Nam, hiểu về vị tướng lĩnh tài ba của Việt Nam - Đại tướng Võ Nguyên Giáp - mà theo đánh giá của ông là “thiên tài quân sự vĩ đại nhất thế kỷ XX và là một trong những vĩ nhân của mọi thời đại”. Ngay trong Lời mở đầu cuốn sách, Currey đã khẳng định một cách chắc chắn: “Võ Nguyên Giáp là một thiên tài quân sự. Trong suốt sự nghiệp của mình, ông vạch ra chiến lược, chiến thuật và nghệ thuật quân sự đã giúp đất nước ông chiến thắng những kẻ thù mạnh nhất. Nghiên cứu những hoàn cảnh, yếu tố nào đã giúp ông bộc lộ, phát triển tài năng hiếm có ấy chính là chủ đề của cuốn sách này.” Dù tác giả đã nói trước với độc giả như vậy, nhưng khi đọc cuốn sách chúng ta lại thấy nội dung cuốn sách đã làm được nhiều hơn những gì tác giả mong đợi. Ngoài việc khắc họa, làm nổi bật những sự kiện lịch sử tiêu biểu, những bước ngoặt trong cuộc đời Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Currey đã có những phân tích khá sắc sảo, thấu đáo để trả lời cho câu hỏi: Tại sao Võ Nguyên Giáp lại trở thành một thiên tài quân sự của thế kỷ XX? Tác giả đã phân tích, mổ xẻ theo nhiều quan điểm, nhiều đánh giá khác nhau, từ những người trong cuộc đến những người ngoài cuộc, từ những người thân, những người “cùng tuyến” đến những người đối đầu, “khác tuyến” với Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Currey đã thẳng thắn phân tích những thất bại trong cuộc đời binh nghiệp của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Và tất cả những điều đó để cuối cùng, Currey đi đến sự đánh giá về người Anh Cả của Quân đội nhân dân Việt Nam: “Những thử thách mà Tướng Giáp phải vượt qua đã khiến ông trở thành bậc thầy chiến lược, chiến thuật và nghệ thuật quân sự… Tướng Giáp là chuyên gia hiện hữu vĩ đại nhất về chiến tranh nhân dân...” Đó là những đánh giá của một học giả nước ngoài dành cho vị Tướng lĩnh vô cùng kính yêu của chúng ta. Còn bản thân tôi cũng như bất kể người lính nào đã từng trải qua hai cuộc chiến tranh của dân tộc, thì những gì mà Đại tướng đã làm có lẽ sẽ không bao giờ kể hết được. Còn nhớ trong chiến dịch Tổng tiến công mùa xuân năm 1975, khi đơn vị của tôi và các đơn vị bạn hành quân đến đèo Ăng-Bun (trên đường Trường Sơn) thì nhận được bức điện của Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua đài: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng phút, từng giờ, xốc tới miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng!” Sau khi nghe xong mệnh lệnh đó của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, các chiến sĩ đều quên hết mệt mỏi, như được tiếp thêm ý chí để hăng hái tiến về tiền tuyến. Thời điểm cuộc hành quân diễn ra là vào mùa hanh khô, khói bụi mịt mù, đất đỏ phủ lên người như “tuyết”, có đoạn bụi lầy gần một mét… Thế nhưng, khí thế sục sôi của những người lính vẫn hừng hực, đoàn quân trùng trùng tiến ra tiền tuyến. Một chút kỷ niệm nhỏ đó để thấy rằng Đại tướng Võ Nguyên Giáp không chỉ là vị Tổng tư lệnh của quân đội nhân dân Việt Nam, mà hơn thế, cùng với Chủ tịch Hồ Chí Minh và những nhà lãnh đạo tài ba khác của Đảng Cộng sản Việt Nam, ông chính là nguồn động viên tinh thần cho toàn quân, toàn dân ta vượt qua những năm tháng chiến tranh khốc liệt nhất. Tên sách là Chiến thắng bằng mọi giá, nhưng không có nghĩa là cố gắng giành thắng lợi bằng bất cứ giá nào, mà phải chiến thắng bằng sự khéo léo, khôn ngoan nhất, chiến thắng với sự hy sinh, tổn hại ít nhất. Đó cũng chính là nghệ thuật quân sự của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, bởi trước hết và trên hết ông là “một vị Tổng tư lệnh biết đau với từng vết thương của mỗi người lính, biết tiếc giọt máu của mỗi chiến binh” (trích lời của Thượng tướng Trần Văn Trà). Trong cuốn Chiến thắng bằng mọi giá, độc giả sẽ không ít lần bắt gặp những cách nhìn nhận, đánh giá khác biệt của Currey về lịch sử so với những gì trước đây chúng ta vẫn nghĩ. Sẽ có không ít những tư liệu và quan điểm mới mẻ mà chúng ta chưa biết. Và tất nhiên sẽ có không ít những nhầm lẫn, những sự kiện thiếu tính chính xác, mà trong quá trình tiếp cận nguồn tư liệu, bản thân tác giả cũng chưa kiểm chứng hết được. Vì thế, chúng ta nên đọc cuốn sách với thái độ cởi mở tiếp nhận cái mới, song cũng hết sức cẩn trọng trước mỗi đánh giá của tác giả. Đây là một cuốn sách giá trị về lịch sử Việt Nam nói chung và về Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói riêng. Một lần nữa xin được cảm ơn tác giả và xin trân trọng giới thiệu tới bạn đọc. NGUYỄN HUY HIỆU Thượng tướng, Viện sĩ, Tiến sĩ Khoa học Quân sự Lời giới thiệu cho bản tiếng Anh Tôi rất quan tâm đến đề tài chiến tranh và đã viết về chiến tranh, vì vậy tôi thấy cuốn sách của Cecil B. Currey: Chiến thắng bằng mọi giá vừa gây ấn tượng vừa là một công trình quan trọng đối với tôi. Đây là một cuốn sách về tiểu sử danh nhân đáng đọc, giúp người đọc khám phá và hiểu được những phẩm chất quân sự của vị Tổng tư lệnh quân đội Bắc Việt, Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Tác giả giúp chúng ta hiểu được tại sao Tướng Giáp được xếp vào hàng các danh tướng của thế kỷ XX. Cuốn sách miêu tả về cuộc sống phong phú đầy ắp sự kiện với những bằng chứng sâu kín và riêng tư nhất của ông từ khi sinh ra cho đến khi rút về cuộc sống lặng lẽ hiện nay tại Hà Nội. Tác giả Cecil B. Currey là một sử gia quân sự đáng kính. Cuốn sách này của ông chứa đựng những kinh nghiệm quân sự và kiến thức có được trong khi viết hai cuốn sách về Việt Nam trước đó: một cuốn tiểu sử của Tướng Lansdale - một chiến binh nổi tiếng về chống chiến tranh du kích và cuốn còn lại đưa ra mô tả gây tranh cãi về sự tự hủy diệt của quân đội Mỹ ở Việt Nam. Cuốn sách thứ ba này là kết quả của 5 năm nghiên cứu, tìm tòi, đi sâu vào các bài phát biểu, huấn thị, diễn từ, luận văn quân sự đồ sộ của vị danh tướng, tìm đọc các sách báo phong phú của Việt Nam và Mỹ liên quan đến vấn đề, cũng như các chồng hồ sơ lưu trữ. Chính qua sự sàng lọc các cuộc phỏng vấn với Đại tướng Võ Nguyên Giáp và các thành viên trong gia đình ông, những đồng nghiệp, bạn bè chiến đấu của ông và cả những cựu địch thủ người Mỹ của ông, Currey khắc họa chân dung một nhà lãnh đạo quân sự mà tài năng khác thường ở chỗ biết tổ chức, biết kiên nhẫn nhưng có một ý chí bất khuất, ở khả năng học hỏi và tài khéo thuyết phục hàng triệu đồng bào cần phải chịu đựng để giành thắng lợi bằng mọi giá. Trải qua ba thập kỷ, Võ Nguyên Giáp trước hết tạm thời liên minh với người Pháp đuổi người Nhật ra khỏi Đông Dương rồi đánh bại các lực lượng hùng mạnh của Pháp và cuối cùng là Hoa Kỳ. Vào cuối những năm 1970, quân đội của Võ Nguyên Giáp đã đánh đuổi đội quân xâm lược phía Bắc. Quân đội do Tướng Giáp thành lập bắt đầu từ con số 0 đã giành được những chiến công đặc biệt đó. Ông đã sát cánh cùng với Hồ Chí Minh lật đổ ách đô hộ nước ngoài, từ đó ông lập ra một đội quân lúc đó chỉ là một nhóm nhỏ những người mới cầm súng không lâu, thiếu thốn trang bị và vũ khí. Bản thân ông cũng chỉ được đào tạo sơ qua về quân sự nhưng ông cố tìm hiểu lĩnh vực mới mẻ này từ những nguồn sách vở… Napoleon và các chiến dịch của Napoleon đã gây cho ông niềm hứng thú nghiên cứu, giúp ông hoàn thành chiến lược “phương Đông” của mình, tận dụng thiên thời, địa lợi, nhân hòa và tiến hành những trận giao tranh liên tục để đánh bại các lực lượng phương Tây đông quân hơn, trang bị mạnh hơn, có phản ứng mau lẹ dựa trên một nền công nghệ tiên tiến. Ở một số phương diện, người ta có thể nói Tướng Giáp đã biết cách vận dụng chiến lược Nga khá hiệu nghiệm chống Napoleon. Thời đó, Napoleon, chỉ nói riêng về mặt quân sự, là người chỉ huy, một thiên tài quân sự có tầm vóc khổng lồ. Nhưng rút cục, ông đã thua trận, để lại đằng sau một nước Pháp kiệt quệ và bại trận. Cuốn sách của Cecil B. Currey tỏ ra trung thực ở chỗ tác giả đã chỉ đích danh những sai lầm của Tướng Giáp, với tư cách là vị tướng cầm quân nhưng đôi khi phải thực hiện những quyết định của những người có trách nhiệm trái với ý kiến của ông. Cuốn sách cũng khẳng định một cách mạnh mẽ sự đánh giá của tác giả: Vị Tướng soái tối cao của quân đội Việt Nam Võ Nguyên Giáp là một trong những tướng lĩnh vĩ đại trong lịch sử. Đúng như tác giả đã ghi vắn tắt: “Giáp đã thắng”. Rõ rõ ràng là lý do chủ yếu khiến Hoa Kỳ không thể thắng được ở Việt Nam, chính vì Tướng Giáp không bao giờ cho phép Hoa Kỳ làm được điều đó. JOHN KEEGAN Sử gia quân sự người Anh Lời mở đầu Chiến thắng bằng mọi giá là cuốn cuối cùng của bộ ba cuốn sách viết về Việt Nam mà tôi đã bắt đầu viết từ hơn 15 năm trước. Cuốn đầu tiên, Tự hủy diệt (Self-Destruction, 1981) chỉ ra Hoa Kỳ đã thất bại trong nỗ lực biến Việt Nam Cộng hòa thành một quốc gia độc lập không cộng sản. Thất bại này phần lớn do thái độ và những thực hiện trong nội bộ quân đội Hoa Kỳ. Quân đội đó không hiểu đối thủ, do đó không tìm thấy một chiến thuật thích hợp để đương đầu. Đường lối quân sự của Hoa Kỳ phiến diện một cách đáng xấu hổ và sai lầm rõ ràng. Quân đội Mỹ đã quá dựa vào công nghệ tiên tiến và sử dụng một cách lố lăng hỏa lực của mình. Quân đội ấy hoạt động giống như khi nó truy kích các đơn vị kẻ thù của các nước trong khối Warzaw qua vùng đồng bằng trung tâm châu Âu. Quân đội ấy đã phớt lờ những lời kêu gọi thay đổi từ nội bộ. Những người chịu trách nhiệm về quân sự Mỹ, khi đó cũng như sau này, không chịu thừa nhận mắc phải sai lầm ở Đông Nam Á. Người ta thường giải thích về thất bại ở Việt Nam bằng một từ đã được quân đội Đức sử dụng để nói về sự bại trận của mình trong Thế chiến thứ nhất 1914 - 1918 là Dolchstosslegende tức là “đánh sau lưng”, có nghĩa quân đội thua ở mặt trận là do những can thiệp chính trị vào đường lối chiến tranh và những rối loạn trong nội bộ đất nước. Thực tiễn đơn giản hơn: thảm họa quân sự ở Việt Nam là do sự ngu ngốc của các sĩ quan cao cấp nhất ở chiến trường. Nó đã trở thành công cụ dễ bị phá vỡ của chiến tranh. Khi tôi viết về sự can thiệp quân sự thất bại của Mỹ ở Việt Nam, sự thất bại càng trở nên rõ ràng hơn tất cả những gì nó vẫn được nói. Trong quá trình tìm tư liệu để viết cuốn Tự hủy diệt, tôi thường xuyên bắt gặp dấu vết hoạt động của một cá nhân bí hiểm, mơ hồ tại Đông Nam Á, Edward Geary Lansdale. Ông ta đã gợi ý những cách tiếp cận khác tại Việt Nam có thể sẽ đem lại sự thấu hiểu sâu sắc và giá trị: Lansdale thường chứng minh rằng Hoa Kỳ, nếu đi theo một chiến lược khác, thích nghi hơn ở Phương Đông sẽ có thể thắng. Đó là điều đã làm tôi say mê không dứt ra được. Tôi muốn biết nhiều hơn nữa. Chúng ta có thể làm được gì khác ở Việt Nam để làm cho chính sách của Hoa Kỳ ở Việt Nam giành được thắng lợi. Có thể Lansdale sẽ tiết lộ cho tôi biết. Những cố gắng của tôi lên tới tột đỉnh trong cuốn sách về Edward Lansdale nhan đề Người Mỹ lo lắng (The Unquiet American, 1988). Khi Lansdale đề cập đến các nước thuộc thế giới thứ ba, ông thường đưa ra ý kiến nên mở cửa và tạo nên sự tin cậy để chống lại cuộc nổi loạn của cộng sản. Ông khuyên rằng mục tiêu chủ yếu của Hoa Kỳ là phải tranh thủ những người địa phương. Một dân tộc bị cuộc cách mạng đe dọa không thể tự cho phép chỉ dựa vào các cuộc hành quân. Chỉ với các cuộc hành binh, sẽ không đủ sức đánh bại một kẻ thù quả quyết và dũng cảm. Lansdale là một trong số rất hiếm người Mỹ trong thời của ông hiểu được bản chất kẻ thù của mình. CIA phái ông đến miền Nam Việt Nam từ năm 1954, tin tưởng vào khả năng của ông có thể thiết lập được mối quan hệ với người châu Á. Ông đã giúp đỡ, cố vấn cho Ngô Đình Diệm từ năm 1954 đến năm 1956 để đi những bước đầu tiên hướng tới thành lập một chính phủ ổn định không cộng sản ở miền Nam Việt Nam. Công việc sắp thành công đến nơi. Lansdale quả là người khổng lồ đúng nghĩa trong hành động của các cuộc xung đột thời hiện đại. Không thể nghiên cứu con đường công danh của Lansdale nếu không đối lập nó với những quan điểm của người lãnh đạo trứ danh ở miền Bắc là Võ Nguyên Giáp mà chiến thuật, chiến lược của ông đã giúp đất nước ông đánh thắng cả hai lực lượng mạnh nhất là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Đây chính là nền tảng cho cuốn sách cuối cùng này trong bộ ba cuốn sách về Việt Nam. Võ Nguyên Giáp là một thiên tài quân sự. Trong suốt sự nghiệp của mình, ông vạch ra chiến thuật, chiến lược đã giúp đất nước ông chiến thắng những kẻ thù mạnh nhất. Nghiên cứu những hoàn cảnh, yếu tố nào đã giúp ông bộc lộ, phát triển tài năng hiếm có ấy chính là chủ đề của cuốn sách này. Độc giả sẽ không tìm thấy ở đây những chi tiết về lịch sử Việt Nam cũng như nhận thức của Mỹ về chiến tranh, hay bất kỳ phân tích nào về những xung đột trong lòng xã hội Hoa Kỳ. Nhiệm vụ của tôi là điều chỉnh lại hồ sơ và đưa ra quan điểm của người Việt Nam về cuộc xung đột ở Đông Nam Á cũng như về vai trò của Tướng Giáp trong cuộc chiến đấu đánh bại người Pháp rồi người Mỹ. Chỉ với sự đào sâu đó chúng ta mới hiểu được đầy đủ kết cục của cuộc chiến cũng như hình thức chiến tranh mà Võ Nguyên Giáp đã sử dụng hiệu quả. Vị tướng tự học đó đã học nghệ thuật quân sự ngay trong thực tế khói lửa của chiến trường. Trong suốt cuộc đời binh nghiệp của mình, ông đã chạm trán với binh sĩ của Pháp, Nhật, Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa (chính họ là những đồng bào, anh em ruột thịt ở miền Nam), Campuchia và Trung Quốc. Có lẽ, không một vị tướng lĩnh nào đã chiến đấu chống lại nhiều kẻ thù khác nhau và đã giành được nhiều thắng lợi như thế. Tuy nhiên ở phương Tây, ông là con người tương đối bí hiểm. Bất kể ai nghiên cứu về Tướng Giáp đều nhanh chóng phát hiện ra rằng gần như ông không được nhắc đến tại Hoa Kỳ dù nhiều năm qua ông là kẻ thù chính của họ. Hầu như không có bài viết nào về 20 năm quan trọng trong cuộc đời ông từ năm 1944 đến 1964, khi ông thành lập một lực lượng vũ trang sẽ làm lung lay nền thống trị của Pháp ở Đông Dương và mở cuộc tiến công, giành thắng lợi ở Điện Biên Phủ, tiếp đó sử dụng du kích để tiến công chính phủ được Mỹ ủng hộ ở phía nam vĩ tuyến 17 và chuẩn bị đối mặt với quân đội hùng mạnh của Hoa Kỳ. Về cuộc đời trước đó của ông, còn ít nguồn tài liệu hơn. Tệ hơn nữa là có nhiều điều khẳng định sai lầm có mục đích hơn là đưa ra những đánh giá đúng đắn, đầy đủ về Tướng Giáp. Cuốn sách này sẽ đưa ra sự thẩm định chính xác và đầy đủ hơn về con người phi thường này. Thật khó để mổ xẻ các chi tiết trong cuộc đời của Võ Nguyên Giáp, ngay cả khi trò chuyện với những người quen biết ông cũng không cung cấp được gì quan trọng. Như là một nét văn hóa, người Việt thường có thái độ nghiêm mật một cách quá đáng. Họ thường giữ kín cuộc sống riêng tư của mình, tránh để lộ thông tin với những người không quen biết và những ai tò mò. Có lẽ họ nhớ lại những năm dài dưới ách thống trị thực dân và Phòng Nhì của Sở Mật thám Pháp sục sạo khắp nơi dò la mọi chốn về những tin tức của những ai gây nguy cơ cho nền đô hộ đó… Tuy nhiên, một khối lượng thông tin vẫn có thể sẵn sàng được cung cấp, những tài liệu Việt Nam xuất bản bằng tiếng Anh, nhiều bài viết khác được bạn bè dịch giúp tôi, những văn kiện chính thức của chính phủ, những công trình nghiên cứu dù gián tiếp nhưng hữu ích đã hướng tôi đến những nguồn có thể sử dụng được, đó là không kể những người Việt Nam biết rõ Tướng Giáp đã kể cho tôi nghe nhiều kỷ niệm về ông, những người Mỹ mà tôi đã phỏng vấn về quá khứ từng dính líu đến tình báo Mỹ hay các cơ quan của chính phủ mà hồ sơ của họ về thời kỳ đó đã bị lưu trữ suốt nửa thế kỷ qua, cho tới những học giả trong lĩnh vực này đã vui lòng chia sẻ với tôi những hiểu biết của họ. Có lẽ, hữu ích nhất cho việc viết cuốn tiểu sử này là sự giúp đỡ của chính Tướng Giáp, ông đã vui lòng cung cấp cho tôi nhiều thông tin dù còn hạn chế về cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Tháng 12/1988 ông đã đồng ý gặp tôi và cho phép tôi phỏng vấn ông. Khi trở về, tôi đã quyết định viết cuốn sách này. Tôi trở lại Hà Nội vào tháng 12 năm sau. Đây là chuyến đi thứ ba của tôi đến Việt Nam, dự định sẽ có những cuộc trò chuyện thường xuyên với Tướng Giáp. Nhưng tôi đã không thể thực hiện được dự định này. Mặc dù trong lời khai xin thị thực nhập cảnh tôi ghi rõ mục đích của chuyến viếng thăm Việt Nam là phỏng vấn Tướng Giáp, ông Đào Huy Ngọc, Giám đốc Học viện Quan hệ quốc tế của Bộ Ngoại giao cho tôi biết khi mới đến là theo một “người có trách nhiệm ở cấp cao” - ông Ngọc không nói rõ tên - thì không phải là dễ dàng được Tướng Giáp trả lời phỏng vấn. Sau cuộc gặp gỡ với ông Ngọc, tôi rất khó khăn mới có thể gặp lại chính những người bạn mà tôi đã được gặp trong các chuyến viếng thăm trước. Tôi đã viết cho Tướng Giáp nhiều lần, các thư từ của tôi gửi đi đều không có hồi âm. Tôi không biết có nên khiếu nại Bưu điện Việt Nam không, hay người nhận thư của tôi được lệnh lờ đi không trả lời, coi như không nhận được! Sau này tôi được biết thư từ của tôi đã không đến tay ông. Nhưng cuối cùng tôi cũng cho ông biết được ý định của tôi. Ông nhớ ra và biểu thị sự vui mừng vì theo lời ông, ông muốn mọi cuốn sách viết về ông ở phương Tây phải được viết trung thực và nghiêm túc bởi một “nhà sử học có lương tâm”. Ông trả lời những câu hỏi của tôi và ông còn gửi cho tôi nhiều tấm ảnh của ông cùng vợ và các con. Trên các trang viết mà tôi nhận được, ông kể cho tôi nghe về gia đình, dòng tộc, quê hương, về những năm tháng đi học, về niềm say mê với chủ nghĩa cộng sản từ rất sớm, về chuyện ông bị kết án tù, chuyện ông làm nghề báo, về người vợ đầu và đứa con gái đầu lòng của ông, thời gian ông dạy ở một trường trung học tư thục tại Hà Nội, lòng căm thù thực dân Pháp khôn nguôi, ý chí quyết tâm đấu tranh cho nền độc lập của Việt Nam, lúc ông bí mật sang Trung Quốc khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ và cuộc sống của ông tại vùng đồi núi phía bắc trong thời gian kháng chiến chống Pháp. Ông kể cho tôi nghe về chuyện thành lập đội quân đầu tiên, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, chuyện những người của OSS (Office of Strategic Services - Cơ quan tình báo chiến lược) trong những ngày cuối của chiến tranh đã đến để làm việc với binh sĩ Việt Minh. Ông kể về người vợ thứ hai và những đứa con của mình, về thôn xóm và cha mẹ ông. Ông kể với ngôn ngữ giản dị đời thường chứ không phải như một người học vẹt về ý thức hệ. Ông đưa ra một câu trả lời hóm hỉnh khi người ta nói đùa ông về bí danh cũ. Ông nói về những đứa cháu nội, cháu ngoại. Thế rồi, quên rằng ông đã thỏa thuận trước đó với tôi, ông từ chối không trả lời thẳng những câu hỏi mà tôi đã nêu ra. Ông luôn ngỏ lời xin lỗi. Ông cho biết ông đã đi thăm chỗ này chỗ khác, tham dự nhiều buổi lễ lạt, nhiều buổi họp kỷ niệm lịch sử, để tang một người em. Cuối cùng ông thẳng thắn giảng giải cho tôi. Ông đã cung cấp không ít tư liệu và dù sao những câu hỏi mới của tôi đã “xuất phát từ những tư liệu không nghiêm túc, thậm chí sai lạc và phản động”. Tuy nhiên ông vẫn tiếp tôi, đề ngày tự tay ký tên vào bản thảo của cuốn sách này. * * * Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn đối với vị thống soái Võ Nguyên Giáp. Ông, tất nhiên, là một trong nhiều người đã tham gia vào việc tạo nên cuốn tiểu sử này. Tôi cũng xin cảm ơn những người, khá nhiều, đã tham gia vào việc soạn thảo cuốn tiểu sử này. Bộ phận đỡ đầu việc nghiên cứu của trường Đại học Nam Florida và Tiến sĩ Julia Davis, Trưởng khoa tiền nhiệm của trường Đại học Khoa học Hành vi và Xã hội đã phái một trợ lý nghiên cứu giúp tôi năm 1990. Các cơ quan lưu trữ Đông Dương ở Berkeley, California, đã giúp tôi tìm hiểu thêm về thân thế và sự nghiệp của Tướng Giáp qua hồ sơ lưu trữ của họ. Françoise Jean và Pascuele Lavendaire đã thẩm định một số bản dịch. Virginia Gift đã giải đáp cho tôi nhiều thắc mắc, nghiên cứu các tập lưu trữ và tìm cách để tôi gửi những câu hỏi đến tướng Võ Nguyên Giáp. Rất nhiều người Việt Nam, hiện đang sinh sống ở Việt Nam và Hoa Kỳ đã giúp tôi đi đến tận cùng dự định này, trong số đó phải kể ra Hồ Thị Quang, Kim Dung Trần - Ngọc, hai chị em Hà Xuyên - Hà Mai, Trịnh Xuân Lãng, Nguyễn Đăng Quang, Trần Minh, Đỗ Tín Nhâm, Nguyễn Đăng Thuyên, Phạm Bình, Châu Phong, Bùi Tín, tướng Cao Pha, tướng Trần Công Mân, Đinh Miên, Nguyễn Thăng Long, Nguyễn Quốc Hải và vợ, bà Hồ Thị Xuân Hồng và người phiên dịch của tôi, người bạn đồng hành trong suốt hành trình ở Việt Nam, người bạn và “em út” Lê Hồng Lâm đã làm việc tích cực để cho cuộc viếng thăm thứ nhất và thứ hai của tôi ở đất nước Việt Nam trở thành chuyện đáng ghi nhớ mãi. Ở cả Thái Lan và Việt Nam, tôi nhận được sự giúp đỡ của nhiều người Thái có thiện chí như các ông Pradorn Ucharatna, Yothin Piraphatanapong (Peter Johnson) và Vudhi Lenbury. Tại Mỹ, các ông T. Edward Henley ở Tigard bang Oregon, Will Brownell, Giám đốc Dự án Thư mục về Việt Nam tại Trường Đại học Columbia và Đại tá John K. Brier, Giám đốc Điều hành phụ trách đón tiếp khách quốc tế của Hội đồng Tampa Bay. Đặc biệt, Đại tá Brier đã giúp tôi một việc vô cùng giá trị khi ông giúp tôi tiếp xúc với chuẩn tướng Vĩnh Lộc của quân đội Việt Nam Cộng hòa (cũ). Tất cả họ đều góp cho tôi những ý kiến bổ ích và mang lại những thảo luận đầy hào hứng. Làm việc tại nhà ở California, tướng Vĩnh Lộc đã tham khảo nhiều bạn bè, hội đồng hương Quảng Bình, đi hàng cây số để tìm tư liệu và bằng những kiến thức rộng rãi của mình, ông đã giúp tôi hoàn thành cuốn sách. Ông bỏ nhiều thời giờ để ghi lại trên giấy những hồi ức của ông, cuộc sống ở Việt Nam đầu thế kỷ XX, phong tục tập quán và các truyền thống của triều đình, những cuộc biểu tình vào ngày 1/5/1930, những biện pháp của cảnh sát Pháp, thái độ của người Việt Nam đối với thực dân Pháp trước Chiến tranh thế giới lần thứ hai, giáo dục tiểu học ở Việt Nam cách đây bảy thập kỷ, việc xây dựng cơ sở vật chất và chương trình đào tạo ở Trường Quốc học Huế - ngôi trường mà Võ Nguyên Giáp đã từng theo học, cảnh quan An Xá - quê hương của Tướng Giáp, những kỷ niệm của chính bản thân ông về Tướng Giáp và nhiều chi tiết khác nữa. Sự giúp đỡ của tướng Vĩnh Lộc đã vượt xa mọi điều mong đợi và tôi chịu ơn ông nhiều lắm. Sheila Simon-Derrwaldt, nữ trợ lý nghiên cứu của tôi đã giúp tôi nhiều việc, đều đặn và mang tính chuyên nghiệp. Jennifer Bexley đã vẽ những tấm bản đồ giúp độc giả hiểu dễ dàng hơn việc nghiên cứu về cuộc đời của Tướng Giáp. Rồi những người đã đọc bản thảo của tôi như Carl Heymann, Allison Kent Thomas, Earl H. (“Butch”) Tilford Jr., bác sĩ Libby Allison West và thiếu tướng Phillip B. Davidson và cả David G. Marr [một sử gia nổi tiếng về Việt Nam] đã đọc và cho nhận xét về một số phần của cuốn sách. Họ đã giúp tôi chỉnh lý cách viết để có một giọng điệu phù hợp. Những nghi vấn đậm chất chuyên môn của họ đối với những ý kiến của tôi đã buộc tôi phải suy nghĩ lại về nhiều vấn đề, thậm chí toàn bộ một chủ đề nào đó, qua đó giúp tôi tránh mắc phải nhiều sai lầm. Nếu có những điều họ muốn tôi nói đến nhưng lại không có trong cuốn sách, đó không phải vì tôi không đánh giá cao những ý kiến đó hoặc không tôn trọng những điều họ đã nói ra, mà rút cục chỉ chứng tỏ là chúng tôi đã thấy rằng giữa chúng tôi đã có sự bất đồng quan điểm trên vấn đề này hay vấn đề khác. Tôi cũng cảm ơn Joshua Bilmes của JABberwocky Literary Agency, và Franklin D. Margiotta là người biên tập và Giám đốc của Nhà xuất bản Brassey’s Inc. đã không tiếc công sức và thời gian để cho chất lượng cuốn sách được bảo đảm và ra mắt độc giả đúng thời hạn. Sau tất cả những giúp đỡ tận tình kể trên, nếu cuốn sách còn bất kì thiếu sót gì thì đều chỉ do riêng cá nhân tôi. Cuối cùng tôi xin được nhắc tới với lòng yêu mến tha thiết và biết ơn vô hạn đối với Laura Gene Currey, người vợ yêu quý của tôi đã khuyến khích, cổ vũ tôi, tạo ra một môi trường thuận lợi, đầy tình mến thương trong mấy năm ròng, để tôi hoàn tất cuốn tiểu sử này. Tôi thường xa lánh mọi người xung quanh để vùi đầu vào công việc nghiên cứu, tìm tòi trong hàng đống tư liệu sổ sách ghi chép và hay phải đi vắng luôn để rà soát, tra cứu, xử lý tài liệu cho kịp thời hạn đã quy định. Laura không tiếc sức để giúp tôi khi có thể. Khi không giúp được gì cho tôi, cô để tôi yên lặng làm việc. Đôi khi cô còn chia sẻ với tôi biết bao nỗi lo toan buồn phiền vì chúng tôi hoàn toàn thông cảm và gắn bó với nhau. CECIL B. CURREY Lutz, Florida Tháng 10 năm 1995 PHẦN MỘT An Xá 1911 - 1940 “Trở thành nhà cách mạng” Người lính già ngồi ở hàng ghế sau, trên chiếc ôtô cũ kỹ sản xuất từ thời Liên Xô (cũ), đưa mắt nhìn ra ngoài qua ô cửa kính khi người lái xe đi chậm lại vì những ổ gà trên con đường lầy lội. Mặt ông bình thản, không lộ chút cảm giác khó chịu nào vì đường xấu, tâm trí ông dường như đắm chìm vào kí ức. Vị cựu Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp đang trở lại Pắc Bó, một địa điểm vùng cực bắc Việt Nam, chỉ cách biên giới Trung Quốc vài cây số. Đây là nơi lần đầu tiên, chính ông và Hồ Chí Minh cùng làm việc với nhau vào thời kỳ đất nước còn phải đấu tranh giải phóng khỏi ách thống trị của đế quốc Pháp. “Những kí ức đó”, sau này ông viết, “không thể phai mờ”. Sau chuyến đi xa khỏi biệt thự rộng rãi ở Hà Nội, ông nghỉ lại một đêm tại thị xã Cao Bằng nhỏ bé. Người ta nghe thấy ông phàn nàn với giọng nhỏ nhẹ. Ngày ngắn, chóng tối, đường xấu xe đi chẳng được bao nhiêu, chứ nếu không có lẽ chuyến đi dễ chịu biết mấy! Buổi sáng lúc mọi người chuẩn bị lên đường, sương mù mùa đông hãy còn phủ kín các triền núi cao, xe tới Hòa An mà sương mù vẫn chưa tan hết. Giống như những kim tự tháp, các dãy núi đá vôi vượt lên khỏi làn sương mù nhô lên trời cao. Vị tướng già ngước mắt nhìn lên phong cảnh xung quanh. Ông kể lại: “Có thể nói tôi thuộc từng ngọn núi, từng con thác, dòng sông, thị trấn xóm làng vùng này. Phía trước là Phia But, ngọn núi cao nhất. Trên đỉnh có một cái hồ tự nhiên. Theo truyền thuyết từ lâu lắm rồi có một nàng tiên giáng trần đã đến tắm ở đây. Không may, người hạ giới nhìn thấy và nàng tiên không thể quay về trời. Hàng năm trong mùa mưa, khi nước xuống, người dân trong vùng quả quyết đã nhìn thấy một cô gái đẹp tuyệt trần cưỡi ngựa tay cầm quạt”. Xe ôtô dừng lại ở thôn Phai Khắt - nơi những chiến sĩ của ông đã đánh trận đầu tiên với quân Pháp. Làng xóm không mấy đổi thay. Năm 1944 cả thôn có khoảng hơn chục ngôi nhà, ngày nay chắc là gấp đôi. Tin người chỉ huy năm xưa trở về thăm bà con chẳng mấy chốc lan ra khắp làng. Đây là nơi khởi đầu binh nghiệp của ông. Bạn bè cũ ở rải rác các thôn xóm quanh vùng Nguyên Bình, Minh Tâm, Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo đều tề tựu về đây để gặp ông. Thời đó, nhiều người cho rằng Phai Khắt chỉ là trận giao chiến đầu tiên như mọi trận khác, nhưng sau này tướng Giáp nói: “Đối với tôi, nó còn hơn thế. Năm 1941 người Pháp đến vùng này và biến ngôi nhà mới xây của đồng chí Lạc thành nơi đóng quân của quan đồn.” Ngày đó và cho đến cả hôm nay, ngôi nhà của đồng chí Lạc là ngôi nhà to nhất và kiên cố nhất. “Chính vì lẽ đó chúng tôi đã quyết định đánh trận mở màn”. Bây giờ, ở chỗ này người ta dựng một tấm bia có dòng chữ: “Phai Khắt: Khởi đầu của cuộc cách mạng. 24-12-1944”. Võ Nguyên Giáp mỉm cười và vẫy tay qua cửa xe chào những người đến đón ông, nhiều người mặc những bộ quần áo ngày hội, màu sắc rực rỡ. Sau khi thận trọng cho xe đi qua xóm, người lái xe cho xe dừng lại trước trụ sở Ủy ban nhân dân xã. Khi ông thong thả bước xuống qua cửa xe phía sau, hai phụ nữ tiến lại gần tay ôm hoa. “Đúng là một ngày hội”. Ông tươi cười nói với mọi người xung quanh. Nhìn kỹ đám đông, vị đại tướng cố nhìn vào khuôn mặt của những người già, hy vọng tìm được những người bạn chiến đấu năm xưa cùng mình. Ông đã trông thấy Đông Phương Quy ở vùng Dao Truyền trước đây là tiểu đội trưởng đội 3. Có cả Thu Sơn trước đây là tiểu đội trưởng đội 1 người đã chỉ huy hạ đồn Phai Khắt. Đứng gần đấy là Tiến Lực và Lê Lợi trùng tên với vị anh hùng dân tộc thế kỷ XV. Tất cả nay đều 60 - 70 tuổi và đã trở về với cuộc sống đời thường yên bình. Ông tâm sự: “Gặp lại họ, tôi không nén nổi xúc động, nuớc mắt trào ra vì vui sướng.” Họ nhắc lại những năm hào hùng và hy sinh cho cách mạng: “Đằng kia,” tay ông chỉ chuồng trâu liền kề ngôi nhà của Lạc, “chỗ kia là chỗ chúng ta đã giết tên đồn trưởng Pháp”. Một lát sau, ông quay ra xe và người lái xe lại rong ruổi trên đường đi Pắc Bó. “Không có chuyến đi này,” ông nói, vẻ trầm ngâm, “có lẽ chẳng bao giờ có dịp gặp lại tất cả anh em chiến đấu cũ”. Khi xe đến gần Pắc Bó, lái xe nhấn ga lượn qua một vòng dọc địa điểm trong tương lai sẽ xây dựng một bảo tàng quốc gia ở đây. Khi xây xong, nơi này sẽ là nơi tưởng nhớ Hồ Chí Minh. Đây là lần thứ ba từ khi đất nước hoàn toàn giải phóng năm 1975, Võ Nguyên Giáp trở lại hang Pắc Bó. Trong cuộc viếng thăm nơi này lần thứ nhất vào tháng 4/1975, ông đã trồng cây lưu niệm để nhớ lại những năm tháng đồng bào cả nước đã biết bao cố gắng, hy sinh để giành lại độc lập và thống nhất. Lát nữa, ông sẽ trồng một cây thứ hai ở đây: ông đã mang từ vườn cây Bác Hồ trong Phủ Chủ tịch, một cây con được bọc kỹ trong giấy bóng để trồng tại nơi này. Cuối cùng, người lái xe cho dừng xe lại. Họ đã đến nơi. Vị tướng già nhìn ra xung quanh, vẻ thân thuộc của phong cảnh nơi đây làm ông vui sướng. Chế ngự cả một vùng là núi Các Mác phủ một màu xanh tươi và gần đó tiếng róc rách của con suối được Hồ Chí Minh đặt tên là suối Lênin. Ánh nắng mặt trời vàng óng hình như chiếm cả một vùng và ánh sáng ban mai chiếu xuống suối nước trong vắt càng làm cho các tia nắng rực lên tươi rói, khiến đứng trên bờ người ta trông thấy rõ cả đàn cá tung tăng bên cạnh các hòn đá phủ rêu xanh. Một đơn vị bộ đội đóng ở Pắc Bó chạy ùa lại chỗ xe đậu, và đi theo vị lão tướng lên hang Pắc Bó là nơi cách đây nhiều thập kỷ Hồ Chí Minh đặt đại bản doanh của cách mạng và trở thành đất thánh của Hồ Chủ tịch, Võ Nguyên Giáp và nhiều đồng chí khác. Cũng như mọi lần ông quả quyết rằng lối vào hang giống tựa tai mèo. Vừa đi vừa hồi tưởng lại quá khứ, nhớ đến Bác Hồ, ông trầm ngâm nghĩ lại thấy đời hoạt động của Hồ Chí Minh cứ mười năm một lại đánh dấu bằng những sự kiện quan trọng. Năm 1911, 20 tuổi, chàng trai Nguyễn Tất Thành - sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh - rời bến Nhà Rồng ở Sài Gòn, xin một chân rửa bát rồi phụ bếp trên một chiếc tàu chở hàng của Pháp. Mười năm sau, 30 tuổi Nguyễn Tất Thành trở thành Nguyễn Ái Quốc, tham gia Đại hội Tours thành lập Đảng Cộng sản Pháp và kiên quyết đấu tranh để chấm dứt chế độ thuộc địa ở Việt Nam. Lại mười năm sau nữa, 40 tuổi, Nguyễn Ái Quốc với cái tên mới Hồ Chí Minh thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương. Ở tuổi 50, từ Trung Quốc trở về Việt Nam và sau khi cách mạng thành công vào tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Chính ở thời kỳ này, hai người: Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp gặp nhau. Giờ đây, bước đi trong ánh nắng ấm áp, nhìn bất kể nơi đâu cũng khiến vị đại tướng nhớ tới Bác Hồ. Đi qua cây lưu niệm do chính tay ông trồng trong chuyến viếng thăm năm 1975 nay cành lá sum suê tươi tốt, ông nhớ lại lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Trồng cây nào phải chăm sóc cây ấy thì cây mới phát triển”. Ông nhìn sang bên kia con suối, chỗ kia là bụi cây nơi Hồ Chí Minh thường ngồi câu cá. Hiếm khi cá cắn câu, nhưng khi câu được cá Bác Hồ thường thả xuống nước. Võ Nguyên Giáp bước lên cây cầu nhỏ qua suối Lênin và tiến dần đến cửa hang, ông nhớ lại: “Chúng ta đã chọn hang này vì nó biệt lập hẳn với xóm làng và kín đáo.” Năm 1979, đất đá sạt lở lấp kín lối đi vào hang nhưng người ta vẫn đọc được dòng chữ “8/2/1941” đánh dấu ngày Bác Hồ từ Trung Quốc trở về nước sau thời gian dài bôn ba đầy hiểm nguy. Võ Nguyên Giáp kể lại: thuở ban đầu đó, ông nóng lòng sốt ruột như thế nào muốn bắt đầu ngay cuộc đấu tranh cách mạng chống lại thực dân Pháp. Ông nhớ lại một đêm giá lạnh, Hồ Chí Minh mặc bộ đồ chàm như ông già miền sơn cước, ngồi bên bếp lửa cùng với những người khác: Phùng Chí Kiên, Vũ Anh, Phạm Văn Đồng nói về tương lai. Ông nhớ như in những lời dạy của Bác Hồ: “Trong khoảng 5 năm nữa, cách mạng sẽ thành công và tiền đồ sẽ tỏa sáng. Tôi chỉ muốn một điều: giải phóng hoàn toàn đất nước và mọi người sẽ có cuộc sống no đủ”. Với những lời lẽ mộc mạc, Hồ Chí Minh đã làm cho ai cũng hiểu được những mục tiêu phức tạp của cách mạng. Một trong những người có mặt hôm đó - Võ Nguyên Giáp không nhớ chắc chắn là ai - đã hỏi ông Hồ: “Làm sao có thể tiến hành cuộc cách mạng mà không có vũ khí và chúng ta kiếm đâu ra súng?” Bác Hồ đã trả lời: “Phải dựa vào sức mình là chính cộng với một số viện trợ từ bên ngoài. Tất cả đều do dân, vì dân. Dân trước, súng sau. Có dân là có tất cả”. Đó là một chủ đề mà Hồ Chí Minh sau đó là Võ Nguyên Giáp luôn luôn nhấn mạnh: “Phải dựa chắc vào dân. Dựa chắc vào dân thì không kẻ địch nào tiêu diệt được ta”. Bây giờ trở lại thăm Pắc Bó, Võ Nguyên Giáp vẫn nhớ những câu nói của Bác Hồ. “Đó là một ý tưởng giản dị nhưng không dễ gì mà theo được”. Lần cuối cùng đứng trên mảnh đất Pắc Bó, Võ Nguyên Giáp nhớ lại toàn bộ cuộc đời đã đi qua. Sau này ông viết: “Đi theo con đường Bác Hồ đã vạch ra, chúng ta đã đánh bại bọn xâm lược và giành được độc lập thống nhất. Đi theo con đường đó chúng ta sẽ có văn minh, hạnh phúc, trở thành một nước hùng mạnh và xây dựng một xã hội trong đó sự phát triển tự do của con người là sự phát triển của tất cả mọi người. Con suối Pắc Bó mang tên Lênin tiếp tục chảy.” Trong Kinh Thánh, Luke đã viết: “… khi trẻ người ta sẽ thấy tầm nhìn, khi già người ta sẽ mơ những giấc mơ.” Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã sống một cuộc đời làm được trọn vẹn hai điều đó. Khi còn trẻ, tiềm năng của đất nước đã khơi dậy cảm hứng cho ông và ông trở thành một phần tầm nhìn đó. Trở lại Pắc Bó lúc về già, ông mơ về những năm tháng hào hùng đã qua đi từ lâu. Không có những cố gắng của ông có lẽ sẽ không bao giờ có được những thành tựu như hôm nay. Trong suốt thời gian dài từ năm 1944 đến năm 1980, bản thân ông đã chống Nhật, chống Pháp rồi chống Mỹ, đánh tan đội quân tay sai Mỹ ở miền Nam Việt Nam, chống trả quân phản động Campuchia và cuộc xâm lược biên giới phía Bắc. Ông thử nghiệm các ý tưởng về chiến tranh và cách tiến hành cuộc chiến chống lại hai thế lực nước ngoài hùng mạnh đã lần lượt chiếm đóng đất nước. Trong cả hai lần, ông bước ra khỏi cuộc chiến đều với tư thế của người chiến thắng. Tuy nhiên, trước đó ông không hề được đào tạo để làm nhiệm vụ chỉ huy quân đội. Chỉ nghiên cứu kỹ lưỡng lịch sử quân sự và những trải nghiệm thực tiễn của bản thân đã dẫn dắt ông trở thành người có vai trò nổi bật trong các sự kiện lớn của thế giới hiện đại và lịch sử Việt Nam. Võ Nguyên Giáp bắt đầu thấy những biến đổi xuất hiện tại Việt Nam. Đầu thế kỷ XX, trong ba miền của Việt Nam là Trung Kỳ, Bắc Kỳ và Nam Kỳ, Trung Kỳ là nơi chịu ảnh hưởng của tàn dư phong kiến, nhưng lại là vùng vất vả nhất đối với người Pháp, đặc biệt nặng nề hơn cả là một số tỉnh miền Trung. Đáng lo ngại nhất là tỉnh Quảng Bình với lịch sử kháng chiến dai dẳng nhất thời kỳ Cần Vương chống Pháp. Trong lúc chính quyền thuộc địa tưởng rằng có thể duy trì mãi mãi sự kiểm soát của họ thì người Việt lặng lẽ theo dõi, chờ đợi thời cơ thuận tiện để vùng lên. Tại miền trung Trung Kỳ, đúng hơn ở phía bắc vĩ tuyến 17, tỉnh lộn xộn nhất là Quảng Bình. Tại tổng Đại Phong, huyện Lệ Thủy có một làng không lớn, dân không đông là An Xá. Ngày 25/8/1911 một phụ nữ trong làng là bà Nguyễn Thị Kiên sinh hạ được một bé trai đỏ hỏn và được chồng là Võ Quang Nghiêm đặt cho cái tên Võ Nguyên Giáp. Như tất cả những người Việt Nam khác, cậu bé đó được gọi bằng cái tên cha mẹ đặt cho mình: Giáp. Ông là con thứ sáu trong gia đình, nhưng lại coi như con trai cả vì hai người anh trai sinh trước đều không nuôi được, tiếp đó là ba người chị gái thì một chị cũng mất sớm vì bệnh kiết lỵ, chỉ còn hai người chị được cha mẹ đặt tên là Diễm và Liên. Tiếp sau Giáp là một người con trai nữa, Võ Thuần Nho và kế đến là cô con út trong gia đình được đặt tên là Võ Thị Lài. Ông Võ Quang Nghiêm đã đặt cho con trai cái tên Giáp, hẳn là một cái tên nhiều ý nghĩa. Họ Võ có nghĩa là sức mạnh, là võ lực, còn Giáp có nghĩa là một vật che chắn ngực khi xung trận. Quảng Bình, sinh quán của ông cùng với hai tỉnh liền kề Hà Tĩnh và Nghệ An chiếm phần lớn diện tích của dải đất hẹp nhất nước và từ xa xưa vẫn là những vùng nghèo nhất. Đa số dân trong làng An Xá nhỏ bé là nông dân nghèo. Trừ ba bốn gia đình là địa chủ có nhiều đất đai cày cấy, còn phần lớn là những mảnh ruộng con con nhưng người ta không bắt buộc phải thuê thêm để trồng trọt. Đất đai để canh tác chạy quanh làng là đất sỏi, đất cát, ít màu mỡ, chỉ trồng được lúa và khoai lang. Dân làng vất vả sống lần hồi qua ngày tháng. Nhưng những phong cảnh đặc biệt vùng Quảng Bình khiến họ rất tự hào, có ba con sông lớn: sông Gianh, Nhật Lệ và Kiến Giang. Hồ Bầu Tró nằm cách phía bắc Đồng Hới một cây số có hình dáng tựa như cái nghiên mực. Rồi một cái hồ thiên nhiên lớn hơn gọi là Hạc Hải cũng có hình dáng tương tự. Nước hồ thất thường khi đầy khi vơi, ăn thông sang các sông lớn đủ cung cấp cá làm phong phú bữa ăn vốn đạm bạc của người Việt từ bao đời nay. Trên bờ hồ Hạc Hải trồng các giống dưa đỏ nổi tiếng mà xưa kia những quả ngon nhất được đưa đi tiến vua. Không xa là đỉnh Đầu Mầu có nhiều hang động ở sườn núi làm chỗ chơi cho bọn trẻ. Dân Quảng Bình không những tự hào về ruộng, rừng kề bên, về các ngọn núi ẩn hiện trong sương mù ở chân trời mà họ còn tự hào về những người con sinh trưởng nơi đây đã là những quan lại đầu triều, những nhà nho học lỗi lạc, những quan võ cận thần của vua, những nhà thơ, những bậc hiền triết được vua vời vào cung dạy dỗ hoàng tử trưởng chuẩn bị làm người kế nghiệp ngôi báu. Người dân An Xá là những nông dân nghèo đầy kiêu hãnh và tự hào dân tộc, là những người rất ương ngạnh, ngang bướng dưới chính quyền cai trị của thực dân Pháp. Họ không dễ dàng chịu sự kiểm soát và ít kiêng nể giới cầm quyền dù là quan lại Trung Hoa thời Bắc thuộc xưa kia hay người Pháp sau này, kể cả quan lại người Việt được triều đình bổ nhiệm. Họ đã nổi dậy chống lại nền đô hộ thời Bắc thuộc và chống thực dân Pháp trong phong trào Cần Vương những năm 1880 (và về sau là phong trào năm 1930). Khi còn bé, cậu bé Giáp đã được nghe kể nhiều về tấm gương đấu tranh của nông dân trong vùng hãy còn tươi rói trong tâm trí người dân. Ở An Xá trừ một số ít nhà lợp ngói, còn lại đa số là nhà mái gianh, tường bằng phên đan trát bùn. Mỗi nhà có một mảnh đất phía sau và một sân hẹp phía trước làm chỗ phơi thóc và khoai lang. Ông Võ Quang Nghiêm, thân sinh ra Giáp là một trong số ít gia đình sung túc có đủ ruộng cày cấy, có nhà mái ngói khá tiện nghi theo tiêu chí địa phương. Ngôi nhà của ông dễ nhận ra vì trước sân có một cây chè dại mà ông sửa sang, tỉa tót theo dáng một con hổ rất lớn. Ban ngày lũ trẻ đi qua trước sân chỉ thấy một cây to có hình dáng khác lạ, nhưng khi sẩm tối hay ban đêm hình dáng con vật bằng cây trở nên sinh động đến mức các cô, các cậu phải rảo bước khi lượn qua hay đi đường vòng xa hơn để tránh. Ông Nghiêm là người sùng đạo Khổng nên rất coi trọng việc thờ cúng tổ tiên. Gian giữa nhà để bàn thờ bày các bài vị có hình ảnh các cụ nội ngoại. Gần nhất là chiếc mâm bằng gỗ có khắc tên ông bà tổ tiên. Hai bên có lọ lộc bình cắm hoa và trên cao hơn cả là một lư hương bằng đồng đựng cát cắm hương thắp hàng ngày lấy từ trong các ống đựng các thẻ hương ở bên cạnh. Mùi hương thơm trong không khí trầm lắng tỏa khắp gian thờ. Hai trái đầu hồi dành cho bếp và buồng ngủ. Ông Võ Quang Nghiêm (chữ Hán có nghĩa là nghiêm túc, đứng đắn) thuộc tầng lớp trung lưu ở An Xá. Đó là một nông dân bậc trung tự mình cày cấy và thuê thêm một mảnh ruộng nhỏ nữa nhưng từ nhiều năm ông đã dùng thời gian nông nhàn để hành nghề thuốc Nam cổ truyền. Sau khi không chữa khỏi cho con gái bị bệnh kiết lỵ, ông bỏ nghề bốc thuốc và chọn nghề dạy học cho lũ trẻ trong làng. Nhờ sự chỉ bảo của ông, chúng học cách nhận mặt chữ Nho (chữ Hán đọc theo âm Việt). Các tập sách ông dạy chúng phần lớn là tác phẩm văn học, là lịch sử dân tộc, ngoài ra là học vần Quốc ngữ tức là tiếng Việt viết theo mẫu tự La-tinh do cố đạo Alexandre de Rhodes nghĩ ra rất có lợi cho việc truyền bá văn hóa của người Pháp. Từ nhỏ ông Nghiêm đã được giáo dục theo khuôn mẫu đạo Nho. Ông được dân làng An Xá kính trọng coi ông như một người lỗi lạc, vì ông là một sĩ phu, một người có học vấn uyên thâm, một bậc túc nho có nhiều ảnh hưởng trong xã hội Việt Nam truyền thống. Dân làng khi nói đến ông thường gọi là Cửu Nghiêm - ông Nghiêm giữ bậc quan thấp, ở hàng thứ chín trong hàng ngũ quan chức (cửu phẩm). Ông đã làm thư lại trong dinh quan tuần phủ tỉnh Quảng Bình và do đó ông có dịp qua lại nhiều lần Đồng Hới là thủ phủ của tỉnh. Chức trách của ông là tổng thư văn, chỉ là một viên chức cấp dưới, giải quyết các công việc sự vụ, gửi các văn thư, nhưng đã tạo cho ông một sự khác biệt so với người dân làng An Xá. Ông Cửu Nghiêm là một nhà yêu nước đáng tự hào. Cụ thân sinh ra ông đã từng tham gia phong trào Cần Vương chống Pháp bắt đầu từ tháng 7 năm 1885 lúc vua Hàm Nghi xuất bôn rời bỏ kinh thành Huế thoát khỏi sự kiểm soát của người Pháp để kêu gọi nhân dân đứng lên cứu nền quân chủ khỏi sự kiềm chế của Pháp. Tuy nhiên, do thiếu vũ khí, không có sự liên kết với các nơi nên phong trào tan rã năm 1896. Cửu Nghiêm luôn nhớ cuộc nổi dậy đó và rất tự hào rằng gia đình ông đã tham gia vào cuộc kháng chiến chống Pháp đầu tiên. Trong lúc ông Cửu Nghiêm lo hoàn thành bổn phận của một viên chức thì chính bà Nguyễn Thị Kiên phải đảm nhiệm thêm một phần công việc đồng áng ngoài công việc nội trợ của một phụ nữ trong gia đình. Thân sinh của bà cũng là một thủ lĩnh trong phong trào Cần Vương đứng đầu một tỉnh. Giống như chồng, bà luôn nhớ cuộc đấu tranh chống Pháp và thường hay kể lại cho con cháu nghe về chuyện cha bà đã chiến đấu chống lại bọn cướp nước như thế nào. Say mê quá khứ hào hùng của cha ông, bà Kiên có một trí nhớ tuyệt vời, nên tuy không biết chữ nhưng bà có thể kể vanh vách, đọc thuộc lòng những bài thơ và những truyện rất nổi tiếng bằng văn vần Kim Vân Kiều, Nhị Độ Mai, Tống Trân Cúc Hoa và nhiều truyện khác. Võ Nguyên Giáp đã nhận xét: “Bà cụ thân sinh ra tôi nhớ như in những chuyện kháng chiến chống xâm lăng. Mỗi buổi tối dưới ánh đèn dầu, bà thường kể cho tôi nghe các vụ án rất tàn bạo mà quân Pháp xử các nghĩa quân Cần Vương trong đó có ông ngoại, ông nội tôi. Tuổi thơ tôi đã đượctắm mình trong những tình cảm yêu nước sâu sắc”. Nhiều đêm, trước khi đi ngủ, cha lại đọc cho cậu bé Giáp nghe những bài thơ yêu nước như vè Thất thủ kinh đô nói về việc người Pháp đã lấy được kinh đô năm 1883 như thế nào. Ngay từ tấm bé Giáp đã tắm mình trong tinh thần yêu nước sục sôi và những tình cảm ấy không bao giờ xa rời ông. Lên 4, 5 tuổi cậu bé Giáp đã được cha dạy đọc chữ Nho. Ông rất thích học và cha ông khuyến khích, cổ vũ ông bằng cách để bên cạnh một lọ thủy tinh đựng đầy các thứ kẹo mà trẻ con thích. Mỗi khi Giáp học có kết quả tốt, cha ông lại lấy kẹo trong lọ thưởng cho. Cuốn sách đầu tiên Võ Nguyên Giáp được dạy là cuốn Ấu học tân thư trong đó viết về nhiều tấm gương yêu nước. Sau này cuốn sách đã được xuất bản dưới thời vua Duy Tân (1907 - 1916) - Người đã ngầm kêu gọi binh lính Việt phản đối việc bị đưa đi Pháp tham gia Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất cũng như chống lại sự đô hộ của người Pháp. Võ Nguyên Giáp nhớ lại ảnh hưởng của cuốn sách thời thơ ấu đó đối với mình: “Tôi khám phá ra rằng các bậc cha anh mình đã anh dũng hy sinh rửa nhục cho đất nước”. Ông học được rằng dù đất nước mình, như Caesar đã từng viết, bị chia thành ba miền với ba chế độ cai trị khác nhau, nhưng: “Tổ tiên của chúng ta không phải là người Gaulois”. Cũng như bọn trẻ tinh nghịch trong làng, cậu bé Giáp rất ham chơi, đi chân đất chạy khắp làng để đánh đáo, đánh bi, chơi quay, đánh lộn nhau, đi theo đàn ngỗng, đàn vịt rồi lấy sỏi ném khiến chúng chạy tán loạn rồi reo ầm lên và cười ngặt nghẽo… Những đứa trẻ lớn hơn thì chơi đá bóng, nhưng trò chơi phổ biến nhất là đá cầu, đòi hỏi cả kỹ năng và sự kiên nhẫn. Các cậu bé dùng chân, cả ngón lẫn gót và mắt cá chuyền cho nhau quả cầu làm bằng đồng xu nhỏ, có lỗ vuông ở giữa được buộc vài túm lông hay túm dây, ai không đỡ kịp hoặc đá trượt để cầu rơi xuống đất là thua cuộc. Chỉ cần hai cậu bé cũng có thể chơi được trò này, chúng đá qua đá lại cho nhau. Chúng còn tổ chức thi đấu bóng đá với số lượng người chơi không hạn chế, càng đông càng vui, luật chơi đơn giản, quả bóng chỉ là quả bưởi xanh, to, bọc ngoài bằng những mụn vải hay manh áo rách. Mỗi tuổi mỗi lớn chúng tham gia công việc đồng áng với cha mẹ, anh chị lớn trong gia đình. Giáp cũng vậy, cậu đi chăn vịt ngoài ruộng, cưỡi trâu gặm cỏ quanh gốc đa, đến mùa gặt thì đập lúa, hát “hò giã gạo” để giữ nhịp đập cho đều. Từ 5 đến 8 tuổi, Giáp đi học ở trường làng An Xá. Tuy đã già những mỗi khi nhắc lại những ngày đầu đến trường, ông hạ giọng nhẹ nhàng nói: “Đó là lần đầu tiên xa mẹ, cả hai mẹ con đều khóc”. Quần áo mặc đi học là chiếc áo dài, dài quá đầu gối, mùa nóng là màu trắng, còn thu đông là áo thâm, bên trong áo dài là chiếc quần trắng chỉ dài đến mắt cá chân quanh năm xuân hạ thu đông đều màu trắng, đi giày đen, đầu quấn khen đen. Buổi sáng lớp học bắt đầu từ 7 giờ 30 phút và tan học lúc 11 giờ 30 phút để đến chiều lại học từ 2 giờ 20 phút đến 5 giờ. Buổi trưa Giáp trở về nhà ăn cơm với gia đình và mặc dù còn bé, nhưng cậu cũng làm một giấc ngủ trưa trước khi đi học buổi chiều. Hôm nào không thuộc bài, thầy giáo dùng roi tre dài lúc nào cũng lăm lăm trên tay quật vào mông, vào lưng hoặc bàn tay úp sấp của học trò. Lớn hơn một chút, sau giờ học, Giáp cũng chơi nhiều hơn với bọn trẻ trong làng. Ở trường tiểu học mặc dù người Pháp giám sát kỹ chương trình học nhưng các bài giảng đều được dạy bằng tiếng Việt, bắt đầu lên lớp ba trẻ mới bắt đầu học tiếng Pháp mỗi tuần vài giờ. Trong nhiều thế kỷ, xã hội Việt Nam chịu ảnh hưởng của Nho học. Nền tảng học vấn cơ bản của Giáp là theo tinh thần Khổng giáo. Các bài học mà cậu bé Giáp được học đều tập trung dạy về cách xử thế trong gia đình và xã hội: kính trọng ông bà cha mẹ, trên kính dưới nhường, em đối với anh, nhất là con trưởng đối với cha mẹ, gia đình đối với làng nước và xã thôn, đối với vua, vua đối với Trời. Trong thế giới quan của người Việt, cá nhân và gia đình hòa quyện với nhau. Đồng thời Giáp cũng học lịch sử, địa lý, văn chương, số học và vạn vật. Ban đầu học địa lý chủ yếu là địa lý Việt Nam, sau đó lên lớp ba mới dần dần học địa lý các nước bên ngoài biên giới Việt Nam. Về lịch sử Giáp thấm nhuần các bài học về cuộc đời các anh hùng trong quá khứ: Lê Lợi chống quân Minh năm 1428, Trần Hưng Đạo đánh quân Mông - Nguyên năm 1283 và 1287, Phan Đình Phùng tham gia phong trào Cần Vương, Lý Thường Kiệt dẫn quân đánh Chiêm Thành năm 1069 rồi tiến hành chiến tranh chống Tống, Nguyễn Huệ chống nhà Thanh xâm lược miền Bắc rồi lên ngôi lấy hiệu là Quang Trung… Từ bậc tiểu học cậu bé Giáp đã biết và rất tự hào về các câu chuyện của cha ông trong quá khứ. Cậu biết được có nhiều hoàng đế Việt Nam đã kêu gọi toàn dân dốc lòng, dốc sức chống giặc ngoại xâm. Cậu rất am hiểu những bài học đó. Lên 8 tuổi học xong bậc tiểu học ở trường làng An Xá, Giáp được ông Cửu Nghiêm xin cho vào học trường tổng trong thị trấn Đại Phong gần làng. Giáp học ở trường tổng hai năm, tương đương với lớp bốn, lớp năm sau này. Lên 9 tuổi Giáp học trường huyện, đến năm 11 tuổi bắt đầu vào trường tỉnh. Năm 1923, 12 tuổi Giáp thi lấy chứng chỉ tốt nghiệp bậc tiểu học. Đối với một thiếu niên Việt Nam hồi ấy đạt đến trình độ học vấn đó không dễ dàng chút nào, vì các nhà cầm quyền Pháp hạn chế việc mở trường học và muốn duy trì nạn mù chữ để họ dễ cai trị. Năm sau, Giáp dự thi vào trường học tại Huế nhưng bị trượt. Những ngày tháng tiếp theo, Giáp miệt mài học ôn hy vọng đỗ vào kỳ thi tuyển thứ hai. Quả nhiên trong kỳ thi thứ hai năm 1925 Giáp đỗ với kết quả xuất sắc, xếp hạng nhì trong tổng số thí sinh trúng tuyển. Ông Cửu Nghiêm được một người bạn là cố đạo René Morinot, một cha xứ rất được kính trọng trong vùng, nhiệt tình giúp đỡ Giáp trong những ngày xa nhà học tại Huế. Hai ông bà Cửu Nghiêm rất sung sướng có con học trường Quốc học Huế, trường học bằng tiếng Pháp và là vườn ươm những hạt giống cách mạng. Giáp đã sớm bộc lộ tư chất của một nhà lãnh đạo. Được học trường Quốc học là một vinh dự và cũng là phù hợp với khả năng của Giáp. Ông tỏ ra rất thông minh và đặc biệt xuất sắc về văn chương và lịch sử. Cuối mỗi tháng ban giám hiệu nhà trường công bố trên bảng kết quả học tập của học sinh. Trong hai năm học trường Quốc học Huế, Giáp luôn luôn đứng đầu trong lớp chỉ trừ có một tháng rớt xuống hạng nhì. Ở Trung Kỳ chỉ có ba trường cùng một loại như thế là Quốc học Huế, trường Vinh (Nghệ An) và Quy Nhơn (Bình Định). Ngô Đình Khả, quan đại thần triều Nguyễn và là thân sinh ra Tổng thống Ngô Đình Diệm, đã có công lập ra Trường Quốc học Huế năm 1909. Ông muốn lập ra một trường học đào tạo theo cả lối giáo dục truyền thống và giáo dục hiện đại đồng thời mong muốn thoát ra khỏi ảnh hưởng của Pháp. Nhà trường nhận học sinh học xong bậc tiểu học sau khi qua được kỳ thi tuyển. Rất nhiều nhà giáo dạy trong Trường Quốc học Huế là những nhà trí thức nổi tiếng. Ưng Quả dạy văn học Pháp cũng là người giám hộ Thái tử Bảo Long, con trai vua Bảo Đại, Phạm Đình Ái dạy vật lý và hóa học sau này là chuyên gia về đạn dược trong quân đội của Võ Nguyên Giáp những năm kháng chiến chống Pháp từ 1948 đến 1954. Sau đó ông vào Nam và từng được bầu là Thượng nghị sĩ Quốc hội đứng đầu nhóm xã hội đối lập tại Quốc hội Sài Gòn 1966 - 1975. Nguyễn Dương Đôn, dạy toán và hình học sau này là Bộ trưởng Giáo dục thời Ngô Đình Diệm từ 1954 đến 1963, Nguyễn Huy Bảo dạy triết học, sau này là Trưởng khoa Mỹ thuật Đại học Sài Gòn, Mai Trung Thứ dạy vẽ là một nghệ sĩ tài danh đã có nhiều tác phẩm được trưng bày nhiều lần ở Paris trong những năm 1930, Nguyễn Thiệu Lâu dạy lịch sử và địa lý, là tác tác giả của nhiều công trình nghiên cứu lịch sử đã được xuất bản. Một giáo sư sử học nữa là Nguyễn Lân, người biên soạn từ điển về các tác phẩm kinh điển của Việt Nam. Những giáo sư xuất sắc đã đào tạo nên những người học trò đặc biệt. Một số sau này là những nhân vật quan trọng trong lịch sử Việt Nam, trong số đó có Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng (sau này là Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ 1958 đến 1968) và Ngô Đình Diệm. Chương trình học ở Trường Quốc học Huế cũng giống như ở các trường khác do người Pháp làm hiệu trưởng và cũng gần giống với các trường của Pháp đào tạo tú tài. Tất cả các môn học đều học bằng tiếng Pháp trừ các môn ngoại ngữ. Tiếng Việt là “ngoại ngữ” thứ nhất bắt buộc, tiếng Anh là ngoại ngữ thứ hai. Học sinh học văn học Pháp từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 20, lịch sử nước Pháp từ thời thượng cổ đến hết Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất. Môn địa lý dạy địa dư các “quận” của nước Pháp (tương đương với tỉnh ở Việt Nam), học sinh học toán, vật lý, hóa học. Đó là chương trình học khá nặng. Sau bốn năm học, học sinh sẽ thi lấy bằng tốt nghiệp cao đẳng tiểu học Đông Dương gọi tắt là DEPSI (Diploma des études primaires supérieures indochinoises). Những học sinh nào hoàn tất bảy năm học sẽ thi lấy bằng tú tài. Trường có cả học sinh nam và học sinh nữ nhưng học sinh nữ chiếm số đông, cứ sáu nữ mới có một nam. Đa số các nữ sinh Quốc học Huế đều đã tốt nghiệp trường kế bên là trường nữ học Đồng Khánh và chỉ dự lớp vào ba năm cuối ở Quốc học (bậc trung học). Khi Võ Nguyên Giáp đỗ vào trường năm 1925, Quốc học Huế đã có khoảng 1.200 học sinh. Tại Huế, Giáp thuê phòng trọ ở một ký túc xá tư nhân, chỉ nhận năm, sáu học sinh Quốc học. Giáp rất háo hức bắt đầu kỳ học của mình. Giáp nhận ra rằng đội ngũ giáo sư phần lớn là người Việt, chỉ có một vài giáo sư là người Pháp. Một người bạn học với Giáp, Lê Sĩ Ngạc nhớ lại: “Đó là một thanh niên tốt bụng, sáng sủa, thông minh, học rất giỏi. Chúng tôi học cùng một lớp. Cậu là một học sinh xuất sắc. Có thời gian chúng tôi đã ở chung với nhau trong ký túc xá tư nhân nhỏ bé ấy”. Lê Sĩ Ngạc, một người đã có tuổi, hiện đang sống cùng con trai ở McLean, bang Virginia kể lại: “Người ta dạy chúng tôi bằng tiếng Pháp, trừ có một môn. Chúng tôi được học nhiều về lịch sử Pháp, còn lịch sử Việt Nam thì được học rất ít. Thời đó khi đỗ tốt nghiệp DEPSI rồi, bọn tôi hiểu về lịch sử Pháp nhiều hơn lịch sử Việt Nam”. Có thể không được học chính thức trên lớp nhưng có nhiều cách khác nhau để thanh nhiên thời đó biết những câu chuyện và truyền thuyết về quá khứ của đất nước mình. Sau một thời gian ngắn vào học Trường Quốc học Huế, Giáp chịu ảnh hưởng của một nhà cách mạng quốc gia nổi tiếng là chí sĩ Phan Bội Châu bị giam lỏng ở Huế. Giáp không phải là người duy nhất trong số học sinh Trường Quốc học coi cụ Phan Bội Châu là người anh hùng của mình. Võ Nguyên Giáp nhớ lại: “Học sinh Quốc học Huế ngoài việc học tập chăm chỉ và nghiêm túc, còn rất quan tâm đến chính trị.” Lê Sĩ Ngạc, ở cùng phòng trọ với Giáp kể lại: “Hôm đó Phan Bội Châu đến thăm Trường Quốc học, sau khi được Pháp thả tự do. Ông đọc một bài diễn văn công kích hệ thống thuộc địa Pháp nên về mặt chính trị ông đã ảnh hưởng lớn đến chúng tôi. Khi các anh buộc phải sống dưới chính thể Pháp thì các anh hãy căm ghét chế độ đó, hãy biết căm thù. Nước Việt Nam nào khác một con rối do người Pháp giật dây điều khiển. Mọi người ai cũng biết điều đó và các anh phải biết căm thù bọn xâm lược. Giáp cũng như nhiều học sinh khác chăm chú nghe… Giáp quyết định phải làm điều gì đó.” Năm 1903[1], Phan Bội Châu thành lập Duy Tân hội có xu hướng dân tộc chủ nghĩa. Hai năm sau, ông sang Nhật, nơi trú ẩn quen thuộc của người Việt Nam yêu nước thời đó. Tại đây ông viết những lời kêu gọi yêu nước, cổ vũ tinh thần chống thực dân Pháp, kêu gọi mọi người đoàn kết đấu tranh để thành lập một nhà nước hiện đại, xây dựng nền giáo dục Âu Tây và khoa học để thay thế hệ thống Nho giáo cổ truyền. Buộc phải rời khỏi Nhật Bản năm 1908, Phan Bội Châu đi Trung Quốc. Tại đây, năm 1912, Phan Bội Châu lập ra Việt Nam Quang phục hội phỏng theo mô hình “Trung Hoa dân quốc” của Tôn Dật Tiên. Bị tù giam ở Trung Quốc một thời gian sau đó đến năm 1917, Phan Bội Châu đã gặp Hồ Chí Minh đang hoạt động ở Trung Quốc dưới cái tên Lý Thụy. Tháng 6/1925, Phan Bội Châu bị bắt khi đi qua tô giới quốc tế ở Thượng Hải. Bị giải về Hà Nội dưới sự canh giữ chặt chẽ, Phan Bội Châu bị đưa ra Tòa đại hình xử về tội chống lại nhà nước bảo hộ và bị kết án tù khổ sai chung thân. Sau đó, dưới áp lực của phong trào đấu tranh đòi ân xá Phân Bội Châu của những người Việt Nam yêu nước, Toàn quyền Đông Dương Alexandre Varenne (1925 - 1928) buộc phải giảm án hình phạt từ khổ sai xuống quản thúc chung thân tại nhà ở Huế. Ông sống 14 năm cuối đời còn lại tại Huế trong sự ngưỡng vọng của nhân dân như một gương mặt tiêu biểu của tinh thần yêu nước cho đến ngày mất (29/10/1940). Vì một lý do nào đó, người Pháp đã cho phép Phan Bội Châu được tiếp khách và năm này qua năm khác ngoài những bậc chí sĩ khác, còn có từng đoàn học sinh trong đó có cậu học sinh Giáp đến thăm, để nghe cụ Phan sôi nổi giảng giải về tiền đồ sáng lạn của đất nước. Ngày Chủ nhật hàng tuần là ngày cậu học sinh Giáp yêu thích nhất, đó là ngày cậu cùng các bạn học đến thăm nhà cách mạng lão thành. Võ Nguyên Giáp kể lại: “Cụ thường kể cho chúng tôi điều gì đang diễn ra trên thế giới. Trên tường, cụ treo chân dung Tôn Dật Tiên, Lênin và Đức Phật Thích Ca. Bọn trẻ chúng tôi lúc đó rất say mê đi tìm chân lý”. Dù nói chuyện ở đâu, Trường Quốc học hay ở nhà, nói với người lớn hay thanh thiếu niên, câu chuyện Phan Bội Châu kể bao giờ cũng xoay quanh các vấn đề lòng yêu nước, những lời tiên tri về tương lai, tinh thần kiên quyết chống Pháp và sự cần thiết phải hành động. Cụ nói chuyện không dứt với Giáp về nền dân chủ, về các vấn đề của Việt Nam và sự lộng hành của chính quyền thuộc địa Pháp. “Gà đang gáy, hãy đứng lên các bạn trẻ, đứng lên và chuẩn bị hành động”. Giáp kể lại, có một lần cụ Phan sảng khoái tuyên bố: “Một ngày kia nhân dân bị áp bức sẽ nổi dậy chiến đấu cho nền độc lập. Ngày đó sẽ là tai họa cho bọn thực dân Pháp.” Như vậy từ khi vào học Quốc học Huế năm 1925, sự giác ngộ chính trị của Giáp đã được khẳng định. Chẳng bao lâu sau, cậu mời các bạn học tập trung đến phòng trọ của mình, lúc đầu là để trao đổi với nhau về bài tập trên lớp và khi đã xây dựng được lòng tin với nhau, họ thì thầm bàn về những vấn đề của thế giới, của thực dân Pháp ở Việt Nam. Những người đến tụ tập đều mến phục Giáp về học lực và tinh thần cách mạng. Trong thời gian rảnh rỗi, đôi khi Giáp sang bên kia sông, đi bộ đến Kinh thành Huế, nằm dài trên nòng súng đại bác cổ đặt dưới bóng cây bên cạnh Ngọ Môn. Ở đó Giáp tiếp tục suy nghĩ về sự đời, về những điều đã học được, về tương lai cuộc sống trong những năm tới. Lúc đó, chàng thanh niên Võ Nguyên Giáp nghĩ có lẽ sau này mình sẽ đi dạy học, sẽ dần dần gieo vào đầu óc bọn trẻ lòng yêu nước, yêu tự do là những thứ đang bị thực dân nước ngoài chà đạp. Theo Giáp nói, Trường Quốc học Huế chính là cái nôi của phong trào yêu nước của học sinh Trung Kỳ. Chẳng hạn, một số giáo sư dạy ở đó có thể hoàn toàn chia sẻ những ý tưởng chống thực dân với học trò. Nghe những lời lẽ như thế từ các giáo sư và nhà yêu nước Phan Bội Châu, Giáp và các bạn càng tin chắc rằng một ngày kia Việt Nam sẽ thoát khỏi ách nô lệ. Họ truyền tay nhau đầy tự hào những áng văn thơ yêu nước. Khi đó Võ Nguyên Giáp đã tìm ra những tờ báo theo xu hướng dân tộc như Le Paria (Người cùng khổ), Việt Nam hồn, và anh đọc rất kỹ. Năm 1926, bước vào năm học thứ hai, Hải Triều - một người bạn thân - cho Giáp mượn cuốn sách nhỏ và cuốn sách ấy đã làm thay đổi cuộc đời anh. Được bọc bên ngoài bằng cái bìa giả mang dòng chữ Ả-rập, cuốn sách là một bài tiểu luận đả kích chế độ thuộc địa do Hồ Chí Minh lúc đó dùng bút danh Nguyễn Ái Quốc viết với nhan đề Lên án chủ nghĩa thực dân Pháp. Cuốn sách khiến Giáp vô cùng tò mò. Anh chạy ngay ra cánh đồng và trèo lên một cây cao đọc để không bị ai quấy rầy. Võ Nguyên Giáp kể lại: “Bản luận văn của Nguyễn Ái Quốc đã gây cho chúng tôi một lòng căm thù sâu xa như một luồng điện chạy qua”. Đó là sợi dây đầu tiên nối liền số phận của Võ Nguyên Giáp với Hồ Chí Minh và sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Bị lôi cuốn bởi tư tưởng của các nhà cách mạng khác trên thế giới, Giáp đọc ngấu nghiến những bài viết bằng tiếng Pháp của Nguyễn Ái Quốc và bắt đầu nghiên cứu những tác phẩm của Mác và Lênin. Các cậu học trò Trường Quốc học càng thảo luận và nghiên cứu các vấn đề của đất nước dưới ách thống trị thực dân thì những tình cảm yêu nước của họ càng nồng cháy. Đã đến lúc họ thấy chỉ bàn luận thôi chưa đủ mà phải đi vào hoạt động thực sự, thể hiện tinh thần chống Pháp của mình. Giáp nhớ lại: “Chúng tôi nổi dậy bất cứ khi nào thời cơ đến” và khi đó thời cơ không thiếu. Họ biểu tình khi người Pháp từ chối không chấp nhận yêu cầu của Phan Bội Châu xóa án quản thúc tại nhà, thực tế là giam lỏng. Nỗi tức giận của họ càng sục sôi khi được tin Phan Chu Trinh tạ thế. Phan Chu Trinh là người chủ trương làm cách mạng theo xu hướng cải cách, bị kết án tù năm 1908 vì đã ủng hộ phong trào nông dân đề xướng cắt bỏ búi tóc[2]. Người ta còn gọi đó là cuộc nổi dậy của “những người để tóc dài” ở Trung Kỳ. Sau một thời gian bị giam giữ ở nhà ngục Côn Đảo, Phan Chu Trinh được thả về nhưng phải đi biệt xứ ở Pháp. Năm 1925, được trở về Việt Nam, ông lâm bệnh và năm sau, ông mất tại quê nhà. Đám tang Phan Chu Trinh là một dịp để những tình cảm yêu nước bùng nổ gần như khắp nơi trong nước. Ở Trường Quốc học Huế, để tưởng nhớ Phan Chu Trinh, từng đoàn học sinh mặc tang phục quần trắng, áo dài trắng và chít khăn trắng. Theo Võ Nguyên Giáp kể lại, hành động đó làm cho viên Hiệu trưởng người Pháp tức điên. Được sự giúp đỡ của giám thị, ông này tỏ thái độ cứng rắn và dò xét đối với học sinh. Cũng gần vào thời điểm này, Giáp tổ chức quyên tiền để giúp đỡ những chính trị phạm bị giam trong các nhà tù. Đối với Giáp, điểm mốc đánh dấu sự tan vỡ quan hệ với Ban giám hiệu nhà trường là vào năm 1927. Viên Hiệu trưởng được Giáp mệnh danh là “tên bạo chúa” Trường Quốc học cáo buộc một học sinh là Nguyễn Chí Diểu đã gian lận trong lúc làm bài thi. Ai cũng biết Diểu có tư tưởng chống Pháp và là bạn thân của Võ Nguyên Giáp. Giáp nghĩ rằng viên Hiệu trưởng chỉ bịa ra cái cớ gian lận thi cử để đuổi khỏi trường một trong những người có hoạt động bài Pháp trong nhà trường. Đó là một bất công mà Giáp không thể bỏ qua. Giáp và Diểu kể chuyện đó cho những người bạn thân thiết nhất trong lớp. Lập tức, bạn bè của hai người đi rải truyền đơn phản đối viên Hiệu trưởng và phát động phong trào: Bãi khóa! Hai cậu học trò Diểu và Giáp đã rất ngạc nhiên trước quy mô lan tỏa của làn sóng đấu tranh. Cuộc bãi khóa trước hết là từng lớp rồi lan ra toàn trường, rồi lan đến cả trường nữ học Đồng Khánh ở bên cạnh, lan đến cả các Trường dòng Thiên Chúa giáo rồi khắp các tỉnh xứ Trung Kỳ. Phong trào bãi khóa nhanh chóng bị dập tắt, Ban giám hiệu nhà trường thẳng tay đuổi học Võ Nguyên Giáp. Giáp không chút ngạc nhiên vì đã lường trước những kết quả của hành động có suy nghĩ của mình, nhưng việc bị đuổi học vẫn khiến anh vô cùng tức giận. Để tự an ủi, Giáp viết một bài báo bằng tiếng Pháp nhan đề Đả đảo tên bạo chúa Trường Quốc học và gửi cho Phan Văn Trường chủ tờ báo Annam, một tờ báo tiếng Pháp xuất bản tại Sài Gòn. Vào thời đó, đây là tờ báo duy nhất dám công khai phê phán chính sách thuộc địa Pháp và được nhiều người đọc kể cả ở Huế và Bắc Kỳ. Chủ báo Phan Văn Trường liền đăng ngay sau khi nhận được bài báo của Giáp. Đó là lần đầu tiên Giáp xông vào địa hạt báo chí, lúc đó mới ở tuổi 16. Sau khi rời khỏi Trường Quốc học, Võ Nguyên Giáp vẫn ở lại Huế và tổ chức một thư viện đọc sách bí mật. Đa số các tài liệu sưu tập được đều do các tổ chức cộng sản Pháp gửi cho. Khi đó Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Chí Diểu tính đến khả năng trốn ra nước ngoài. Có thể họ phải đi ra nước ngoài để gặp gỡ những người xa xứ khác. “Nhưng khó khăn đã ngăn cản chúng tôi”, ông thú nhận, “tuy nhiên chúng tôi vẫn tiếp tục hy vọng và chờ đợi thời cơ thuận lợi”. Trong những ngày tiếp theo, việc học tập bị dang dở, anh thỉnh thoảng quay về An Xá thăm cha mẹ. Anh vốn là người của hoạt động nhưng cuộc sống thanh bình ở nông thôn cũng giúp anh lấy lại sự bình thản trong chốc lát. Trong một chuyến về thăm gia đình, Võ Nguyên Giáp gặp lại Nguyễn Chí Diểu, Diểu đã kể cho anh nghe về một tổ chức cách mạng mới ra đời là Tân Việt Cách mạng Đảng, gọi tắt là Tân Việt. Tổ chức bí mật này đòi cải cách xã hội và chính trị. Diểu đã gia nhập đảng này. Điều đó không thể không làm cho Võ Nguyên Giáp suy nghĩ… [1] Duy Tân hội thành lập tháng 5/1904 (BT). [2]Từ các năm 1906 - 1908, tại Trung Kỳ, Phan Chu Trinh đã vận động các phong trào đổi mới trên lĩnh vực tư tưởng, sinh hoạt như để răng trắng, cắt tóc ngắn, ăn mặc theo lối mới… Từ phong trào cắt tóc ngắn, khi lan xuống nông thôn đã dần biến thành phong trào kháng thuế của nông dân. Đây là một phần trong phong trào Duy Tân mà Phan Chu Trinh trực tiếp lãnh đạo. Do những ảnh hưởng của phong trào này, nên năm 1908 thực dân Pháp đã bắt Phan Chu Trinh (BT). “Chúng tôi không biết phải đấu tranh như thế nào?” Trong khi chàng trai trẻ Võ Nguyên Giáp đang băn khoăn tự hỏi có nên gia nhập Tân Việt hay không, thì những thay đổi lớn lao đang diễn ra trên khắp thế giới, làm đảo lộn cuộc đời ông trong nhiều thập kỷ tiếp theo. Kỷ nguyên của chủ nghĩa thực dân đã gần đến ngày tận số. Các quốc gia châu Âu đã kiểm soát từng vùng rộng lớn của châu Á và châu Phi. Đến thập kỷ thứ hai của thế kỷ 20, cơ cấu hệ thống thuộc địa đó đã có những dấu hiệu suy yếu. Hàng triệu người Nhật quyết tâm xây dựng một xã hội hiện đại đã tận dụng thắng lợi trong cuộc chiến tranh Nga - Nhật (1904 - 1905) và đế quốc Nga đang bắt đầu lùi bước. Chẳng bao lâu cuộc cách mạng Nga lật đổ chế độ Sa hoàng và thành lập chính phủ mới do Vladimir Ulanov, được biết đến dưới tên Nikolai Lenin, đứng đầu. Phong trào cách mạng lan sang cả đất nước Trung Hoa rộng lớn. Năm 1911, Tôn Dật Tiên rời khỏi cuộc sống lưu vong ở Hawaii trở về nước, đem theo ý tưởng cách mạng. Cuộc đại chiến thế giới (1914 - 1918) khiến các nước châu Âu suy yếu dần về mặt kinh tế và xã hội, đã vẽ lại bản đồ chính trị của châu lục. Ba Lan, Tiệp Khắc, Nam Tư và các nước Bắc Âu trên bờ biển Baltic cùng Phần Lan đã giành lại độc lập sau hàng thế kỷ bị nước ngoài đô hộ. Rất nhiều người dân các nước thuộc địa ở Á Đông và châu Phi tự hỏi: Tại sao chúng ta không thể giành được độc lập như nhiều nước châu Âu bị lệ thuộc? Có lẽ đây là lần đầu tiên họ bắt đầu ý thức rằng những người chủ của họ không phải là không thể đánh bại và họ bắt đầu ước mơ về tương lai đất nước không còn ách nô lệ nước ngoài. Mối đe dọa tiềm tàng đối với hệ thống thuộc địa trở nên trầm trọng hơn vào năm 1919 khi Lenin thành lập Quốc tế Cộng sản thứ III (Comintern). Không dừng lại trước tình trạng hỗn loạn của xã hội nước Nga sau khi lật đổ chế độ Sa hoàng cũng như trước thắng lợi của cách mạng vô sản chưa thật bảo đảm chắc chắn, Lenin đã chuyên tâm vào việc lật đổ chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn thế giới cũng như tại các quốc gia ủng hộ chủ nghĩa tư bản. Vào cuối những năm 1920, những phái viên của Quốc tế Cộng sản (trong số đó có một chàng trai An Nam sau này rất nổi tiếng là Hồ Chí Minh, lúc ấy có tên là Nguyễn Ái Quốc) hoạt động lặng lẽ trong vòng bí mật, tuyên truyền giác ngộ nhân dân các nước thuộc địa cũng như các nước khác trên thế giới, cổ vũ họ nổi dậy chống lại chính quyền. Khi các dân tộc này chỉ mới đòi hỏi cải thiện chút ít điều kiện sống của họ thì người Hà Lan, người Pháp và người Anh đã phản ứng mạnh mẽ, ra sức tăng cường bộ máy đàn áp của họ ở các nước thuộc địa, những sợi dây đơn giản trói buộc dân bản xứ trở thành những đai thép để duy trì sự thống trị thuộc địa. Ở An Nam, vua Khải Định mất ở tuổi 43 vào tháng 11/1925, chính là năm Võ Nguyên Giáp vào học Trường Quốc học. Rất nhiều người Việt Nam lên tiếng nhưng không phải đòi giành độc lập mà chỉ là yêu cầu cải thiện điều kiện kinh tế và thực hiện các điều khoản về chính trị đã được thừa nhận trong hiệp ước Harmand năm 1883. Người Pháp chọn thời điểm này để xiết chặt sự kiểm soát của mình với triều đình Huế. Họ muốn người thay thế Khải Định phải là Hoàng tử Bảo Đại, khi đó mới 12 tuổi và đang học ở Paris. Trong khi chờ đợi vị vua trẻ đủ tuổi trưởng thành để trị vì thì người Pháp sẽ cai trị đất nước dưới danh nghĩa nhà vua. Trong thời kỳ đó, viên Khâm sứ Pháp tại Huế ngạo mạn nắm trong tay những quyền lực cuối cùng còn sót lại của triều Huế, và phủ Khâm sứ đã sắp xếp để Bảo Đại tiếp tục học ở Paris 7 năm nữa. Những hành động đó làm gia tăng mạnh mẽ tinh thần bài Pháp của người Việt Nam. Cuộc đại khủng hoảng kinh tế năm 1929 làm giá gạo - một nguồn lợi kinh tế quan trọng ở Nam Kỳ - sụt ghê gớm. Khó khăn và nghèo đói gia tăng. Những người Việt Nam, kể cả người theo chủ nghĩa quốc gia và người theo chủ nghĩa cộng sản, đã từng biết đến những hoạt động cách mạng của Tôn Dật Tiên và Mao Trạch Đông tại Trung Quốc và cũng phải đối mặt với những vấn đề của đại khủng hoảng kinh tế thế giới, bắt đầu tự tổ chức nhau lại. Những người theo chủ nghĩa dân tộc lập ra các nhóm nhỏ tập hợp những trí thức đã hoàn toàn mất niềm tin, chỉ biết bàn tán mãi không ngừng về thời thế. Những người theo chủ nghĩa cộng sản hoạt động có nguyên tắc và xây dựng được nền tảng vững chắc hơn, họ tìm đến lực lượng to lớn hơn đó là những người nông dân không có ruộng đất và những phu đồn điền cao su, hầm mỏ. Điều kiện làm việc trong các đồn điền cao su chính là minh họa cho sự bóc lột dã man mà hàng triệu người Việt Nam phải chịu đựng dưới sự cai trị của các chủ đồn điền người Pháp. Phu đồn điền làm việc đến kiệt sức từ trước khi mặt trời mọc cho đến khi tối mịt trong các khu rừng mà không khí như đặc quánh lại cùng với hơi nóng. Bữa trưa của họ là chiếc cặp lồng dính cơm. Nước uống và nước họ dùng để nấu ăn lấy từ những con suối nước lợ, nhiễm khuẩn, đầy muỗi bọ. Bất kể lúc nào, ngày hay đêm họ cũng có thể bị đánh bởi tính khí thất thường của những cai phu - thường là người Việt Nam phục dịch cho Pháp. Một công cụ mà cai phu thường dùng để đánh vào gót chân phu đồn điền là roi tre, sau khi đánh xong chúng bắt nạn nhân xấu số đó chạy cho tới khi gục ngã mới thôi. Cai có thể đánh phu đồn điền đến chết, và phu đồn điền đó có thể dễ dàng được thay thế với giá thuê rất rẻ mạt. Mỗi đồn điền là một tế bào độc lập, trong đó từ người hay gây rối đến người ôn hòa đều có thể bị đánh đập và ném ra ngoài. Phu đồn điền sống trong những căn nhà lá rách nát, vào những ngày mưa thì nước xối thẳng vào nhà và trong những khoảng trống chật hẹp đó, nhiều người phải ngủ ngồi, nhiều người run lên bần bật bởi những trận sốt rét. Với những bộ quần áo rách rưới, với những vết lở loét bao trùm khắp cơ thể gầy mòn, những phu đồn điền chịu đựng sự đau đớn từ ngày này qua ngày khác và họ đã nghe thấy những lời thì thầm bàn tán về một tổ chức bí mật mới, Việt Nam Quốc dân Đảng, bao gồm những người theo chủ nghĩa quốc gia và những người yêu nước làm việc tự do. Việt Nam Quốc dân Đảng thành lập năm 1927 do Nguyễn Thái Học đứng đầu, theo mô hình đảng chính trị của Tôn Trung Sơn tại Trung Quốc. Sinh ra tại Đồng bằng Sông Hồng, Nguyễn Thái Học là nhà cải cách ôn hòa đầu tiên, nhưng ông đã trở nên giận dữ hơn bao giờ hết khi Pháp liên tục bỏ qua những yêu cầu chính đáng đòi thay đổi ở mức vừa phải. Việt Nam Quốc dân Đảng chủ trương theo con đường bạo lực đánh đổ chế độ thuộc địa và khôi phục nền độc lập của Việt Nam. Những năm 1927 - 1929 chính là thời kỳ cậu học sinh Quốc học Võ Nguyên Giáp gia nhập tổ chức chính trị bí mật đầu tiên. Võ Nguyên Giáp biết có nhiều tổ chức chính trị bí mật đối lập nhau nhưng đều có chung mục tiêu là giành lại độc lập cho Việt Nam. Giáp cũng biết hoạt động của họ không mấy hiệu quả vì họ để quá nhiều thì giờ vào những cuộc tranh cãi triền miên, hội họp, thảo luận nhiều, nhưng các nghị quyết không bao giờ được đưa ra thực hiện. Và chính người bạn thân của Giáp là Nguyễn Chí Diểu đã tạo cơ hội để Giáp gia nhập đảng Tân Việt năm 1927. Mặc dù là tổ chức không cộng sản, nhưng cương lĩnh của Tân Việt mang màu sắc Mác-xit rất rõ: trước hết là làm cách mạng quốc gia, sau đó làm cách mạng thế giới. Theo chỉ thị của trên, Võ Nguyên Giáp ở lại Huế bí mật hoạt động theo đường lối của đảng. Trong một năm, Tân Việt cũng chia ra nhiều phe phái và Giáp đi với phái có khuynh hướng cộng sản rõ ràng nhất. Ông tự cho mình có công tổ chức ra nhóm cộng sản trong Tân Việt. Ông viết: “Nguyễn Chí Diểu và tôi (Giáp) đặt nền móng đầu tiên cho chi bộ cộng sản trong Tân Việt”. Ông không đi theo các cuộc tranh luận triền miên mà hướng về tính tổ chức, tính kỷ luật và hoạt động có hiệu quả của một đảng cộng sản. Phấn khởi với nhiệm vụ mới, Giáp hoạt động cho Tân Việt dưới vỏ bọc nhận giúp việc trong tòa soạn báo Tiếng Dân do Huỳnh Thúc Kháng sáng lập ở Huế. Đó là tờ báo quan trọng nhất ở Trung Kỳ theo xu hướng cải lương. Mặc dù Phòng Nhì theo dõi sát sao Huỳnh Thúc Kháng và những người làm việc cùng, kiểm soát chi ly từng dòng chữ trong mỗi bài báo nhưng vẫn để tờ báo hoạt động trong một thời gian. Võ Nguyên Giáp lao vào công việc mới và nhanh chóng nắm bắt được các công đoạn của một tờ báo cũng như các ngóc ngách của nghề báo. Ông đọc mọi vấn đề, từ các bài bình luận về thời cuộc trên thế giới cho đến các bài phân tích về vấn đề xã hội. Ông sắp trang xếp mục một cách rất chu đáo tỉ mỉ, bỏ công sức tìm câu chữ chính xác phản ánh đúng những gì mình muốn nói. Ông đã viết một bài điều tra về sự bóc lột tư bản chủ nghĩa Pháp ở Việt Nam có nhan đề Những xí nghiệp có vốn trên một triệu đồng. Bài báo bị nhà đương cục Pháp kiểm duyệt rất kỹ. Chính tư cách tác giả bài báo cùng cách thức kiểm duyệt đã có ảnh hưởng lâu dài đối với chiến thuật mà ông vận dụng sau này. Võ Nguyên Giáp biết mình bị Phòng Nhì thường xuyên theo dõi, giám sát chặt chẽ và biết Phòng Nhì có thể chấm dứt công việc làm báo cũng như nhiệm vụ của mình với Tân Việt bất cứ lúc nào, nên để che giấu mọi hoạt động, Giáp dùng nhiều bút danh khác nhau khi ký tên vào các bài báo. Sau này ông nhớ được hai bút danh khi làm việc ở báo Tiếng Dân: Vân Đình và Hải Thanh. Ông tìm cách kéo dài thời gian làm việc ở tòa soạn báo Tiếng Dân, tránh mọi khó khăn với nhà cầm quyền, và nghe ngóng mọi tin đồn về quan hệ ngày càng căng thẳng ở Việt Nam giữa người dân và nhà cầm quyền thuộc địa. Ông cố nén lòng chờ đợi một ngày kia sẽ có lúc dòng máu cách mạng ào ào tuôn chảy. Sắp đến ngày Việt Nam Quốc dân Đảng ấn định thời gian khởi sự cuộc nổi dậy năm 1930, Nguyễn Thái Học ra lệnh cuộc tiến công sẽ nổ ra đồng thời ở Hưng Hóa, Lâm Thao và Hà Nội, đòn đầu tiên sẽ nhằm vào một đồn binh đóng gần tỉnh lỵ Yên Bái trên một khúc quanh của sông Hồng cách Hà Nội một trăm cây số. Đây là một trong ba đồn lũy đóng trên núi, xung quanh có rừng che phủ và là đồn tiền tiêu của phòng tuyến bảo vệ miền đồng bằng sông Hồng chống lại sự xâm lược của Trung Quốc. Nghĩa quân của Quốc dân Đảng trang bị vũ khí thô sơ, hy vọng có thể thuyết phục được số binh lính người Việt trong hàng ngũ đối phương sẽ giao nộp vũ khí cho nghĩa quân hoặc tốt hơn nữa thì đứng về phía nghĩa quân quay súng bắn vào bọn sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp. Cơ mưu bại lộ nên cuộc tiến công bị dập tắt ngay từ trước khi bắt đầu như dự định. Khi một vài quả đạn tự chế và được giấu kín phát nổ một cách ngẫu nhiên, nhà đương cục Pháp nhận ra cuộc khủng hoảng mình phải đối mặt, họ liền cho lùng bắt những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa. Thấy kế hoạch bị bại lộ, Nguyễn Thái Học gửi cho đảng bộ các nơi lệnh khởi nghĩa vào ngày 9/2/1930, sớm hơn dự định kẻo nếu cứ đợi đến đúng ngày khởi sự theo kế hoạch thì cơ sở đảng sẽ bị Pháp phá và bắt hết. Rồi ông lại thay đổi ý kiến hoãn đến 15/2. Các đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng ở Yên Bái không nhận được lệnh hoãn. Cuộc tiến công vẫn nổ ra một cách đơn độc trong lúc các nơi khác vẫn không động tĩnh gì vì đều nhận được lệnh hoãn đến ngày 15 trong tháng. Đêm mùng 8 rạng ngày 9/2/1930, nghĩa quân Việt Nam Quốc dân Đảng tập hợp trong đêm tối bên ngoài thành phố Yên Bái, đầu quấn khăn lụa đỏ - vàng, đỏ là màu cách mạng, vàng là chỉ dân tộc Việt Nam, cánh tay đeo băng có đề chữ: Việt Nam cách mạng quân. Rạng sáng ngày 9, lợi dụng binh lính trong đồn còn đang say giấc nồng, nghĩa quân nổ súng tiến công. Thiếu phối hợp với nội ứng của binh lính yêu nước người Việt trong quân đội Pháp và do sự kháng cự mãnh liệt của quân Pháp nên đồn không hạ được và nghĩa quân phải rút lui nhanh chóng. Quân Pháp tiến theo đường xe lửa xuôi sông Hồng để chặn đường rút của nghĩa quân nhưng cũng không ngăn được một số chạy thoát lẩn trốn về Hà Nội. Tiếp theo là làn sóng khủng bố lùng bắt gắt gao tất cả những phần tử khả nghi, có cảm tình với mục tiêu của Việt Nam Quốc dân Đảng. Mấy ngày sau đó, Nguyễn Thái Học hạ lệnh tiến công vào một đồn Pháp ở nam sông Hồng nhằm hưởng ứng gây thanh thế hơn là nằm trong một kế hoạch đại quy mô lật đổ chính quyền thuộc địa. Lần đầu tiên ở Đông Dương một phi đội máy bay được huy động đối phó với nghĩa quân. Các phi công ngồi trên 5 chiếc Potez - 35 thả bom và bắn súng trường vu vơ vào những làng xóm khả nghi nằm chơ vơ giữa cánh đồng. Khi bay khỏi, chúng để lại trên 200 xác chết đàn ông, phụ nữ và trẻ em. Sau đó ít ngày Nguyễn Thái Học bị bắt trong lúc ông đang tìm đường trốn sang Trung Quốc. Cùng với 12 đảng viên Quốc dân Đảng khác, giữa tháng 6 Nguyễn Thái Học bị giải lên Yên Bái và bị xử chém ở đó. Sau các cuộc khủng bố trả thù của Pháp, các cơ sở đảng hoàn toàn tan rã, những người sống sót lẩn trốn sang các tỉnh phía nam Trung Quốc họp thành một tổ chức “ma” cũng lấy tên là Việt Nam Quốc dân Đảng và mưu tính một cuộc trở về Việt Nam vào năm 1945 - 1946. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại nhưng cuộc đàn áp của Pháp vẫn chưa kết thúc. Các đảng viên cộng sản xúc động trước tinh thần yêu nước đang lên sau cuộc nổi dậy của Việt Nam Quốc dân Đảng. Họ đã không bỏ lỡ thời cơ để lợi dụng tình hình này. Đảng hy vọng phá tan bộ máy chính quyền địa phương và thay thế bằng các nông hội Xô Viết do cộng sản lãnh đạo. Các đảng viên cộng sản kêu gọi nổi dậy, tiếp theo là các cuộc đình công trong các nhà máy và bạo loạn ở các đồn điền cao su. Nông dân hưởng ứng mạnh mẽ. Đối với họ không có gì tệ hại hơn là nạn đói đang đe dọa 1/3 số dân ở Trung Kỳ. Ngày 1/5/1930 những người “da vàng” do đảng viên cộng sản dẫn đầu giương cao ngọn cờ búa liềm đi biểu tình suốt các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi và phía bắc Trung Kỳ. Biểu tình nhanh chóng biến thành bạo loạn. Phong trào lan rộng ở các tỉnh Nam Kỳ: Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long và Kiên Giang. Ở cả hai bên bạo lực bùng lên như một ngọn lửa. Người Pháp gọi thời kỳ này là “khủng bố đỏ” trong khi người Việt cả người theo chủ nghĩa quốc gia lẫn người theo chủ nghĩa cộng sản đều gọi là “khủng bố trắng”. Nông dân vác thuổng, cuốc, dao đi biểu tình đòi giảm thuế, trừng trị quan lại tham nhũng. Họ đốt các công đường của huyện, giết địa chủ và viên chức thân Pháp. Rất nhiều người phục vụ cho Pháp phải trốn về Vinh - thủ phủ tỉnh Nghệ An. Trong rừng núi, trên đồng ruộng, tại các đồn điền ở Trung Kỳ, tình hình đều hỗn loạn. Suốt mùa hè và mùa thu năm 1930, người Việt giận dữ nổi lên làm chủ hàng trăm làng mạc Trung Kỳ, thành lập Xô Viết địa phương, tuyên bố giảm thuế, giảm tô, tịch thu ruộng đất chia cho dân cày không có ruộng hoặc thiếu ruộng. Họ xua đuổi các địa chủ tham lam khiến chúng không làm gì được hơn là phải bỏ trốn lẩn tránh nông dân nổi dậy. Một số người không gia nhập phong trào, phạm nhiều tội ác với nông dân hoặc ngoan cố chống đối đều bị trừng trị, tra tấn, nhổ răng, cắt mũi, đốt râu, cắt tai trước khi bị treo cổ xiết họng hoặc trôi sông. Tháng 9/1930, những người cộng sản tổ chức một cuộc biểu tình của nông dân không trang bị vũ khí kéo về thành phố Vinh để đưa yêu sách cải thiện điều kiện sống và yêu cầu công sứ Pháp giúp đỡ. Máy bay của không quân Pháp can thiệp, uy hiếp đoàn biểu tình, nhưng họ vẫn tiếp tục tiến bước trên con đường dẫn về thành phố Vinh giữa hai hàng cây và những thửa ruộng ngập nước. Đoàn người không nao núng, không chịu giải tán phải hứng chịu những chuỗi bom và súng liên thanh xả xuống. Những người sống sót chạy tán loạn không nơi ẩn nấp. Kết quả trận thảm sát làm 200 người chết và bị thương. Ở cái thời mà những nhà cầm quyền không mảy may run sợ trước dư luận thế giới, người Pháp đã hành động nhanh chóng để diệt tận gốc sự uy hiếp của các phong trào quần chúng đối với chính quyền thuộc địa. Họ triệt hạ một cách có hệ thống các làng đã ủng hộ vật chất hoặc tài chính cho những người nổi dậy. Sau đó đến lượt quân lính tràn vào các làng xóm tan hoang giết nốt trâu bò, lợn gà còn sót lại, đốt phá các vựa thóc. Các lũy tre bao bọc quanh làng đều bị phá sạch và san phẳng. Một nhân chứng kể lại: “Cái năm 1930 khủng khiếp đó, tôi là học sinh tiểu học trường làng, tôi còn nhớ đã nhìn thấy nhiều biểu ngữ Pháp dán trên tường khắp đường cái trong làng minh họa những người khởi nghĩa như những kẻ sát nhân đốt phá nhà cửa, chặt đầu trẻ em, hãm hiếp đàn bà con gái công khai giữa chợ.” Ngay cả những người có họ hàng xa với những người nổi dậy cũng bị kết án như kẻ phạm tội nặng, cấm không được đi làm, đi học. Chính quyền thuộc địa bỏ tù hoặc đày đi biệt xứ khoảng 70.000 người cả cộng sản lẫn quốc gia, xử tử 700 người khác không qua xét xử tại tòa dù chỉ là giả tạo. Cuộc khủng bố đàn áp dã man đó không làm Pháp bị thiệt hại gì. Chỉ có hai người Pháp bị thiệt mạng trong các cuộc bạo loạn. Trong có vài tháng, sức mạnh và hy vọng của những người theo xu hướng quốc gia của Việt Nam Quốc dân Đảng và những người cộng sản đã bị dập tắt. Bộ phận chủ chốt trong ban lãnh đạo đảng đều bị bắt. Rất nhiều người bị bắt giam, đi đày hoặc xử tử. Nhiều cơ sở địa phương gần như bị triệt tiêu hoàn toàn. Số sống sót còn lại phải chuyển vào bí mật cho đến khi có phái đoàn của Mặt trận bình dân Pháp sang Đông Dương năm 1936. Một bài học mà nhiều người nhận ra là: nông dân các vùng nông thôn thật sự là một sức mạnh chính trị và quân sự tiềm ẩn đối với những ai muốn bảo vệ nhu cầu và lợi ích của họ và muốn sử dụng họ. Những người theo chủ nghĩa cộng sản đã biết rút ra bài học đó và đã vận dụng trong và sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nhưng những người theo xu hướng quốc gia thì không biết điều này. Võ Nguyên Giáp tiếp tục cuộc sống “hai mặt”, ông không còn sự lựa chọn nào khác, vì cuộc khủng bố trắng của Pháp đã lan khắp nước. Trong lúc công khai làm việc nhiều giờ trong ngày cho báo Tiếng Dân thì ông cũng ngày càng tham gia sâu vào hoạt động bí mật của đảng Tân Việt. Đây là một cuộc sống khó khăn và nguy hiểm đối với một thanh niên mới vào tuổi 19. Giáp phải luôn luôn cảnh giác đề phòng, nhận ra bất kỳ ai theo mình để kịp thời đối phó. Ông biết mình là đối tượng điều tra của bọn nhân viên Phòng Nhì Pháp, bọn này không bỏ qua một chi tiết nào trong việc quan sát, theo dõi con mồi và báo cáo đều đặn lên đại bản doanh Sở Mật thám Đông Dương tại Hà Nội. Đúng gần thời gian này, một nhân vật lạ lùng, như một cái bóng bước vào cuộc đời Giáp chỉ qua một mùa, cuối cùng đã đem đến cho ông một phần thưởng ngoài mong đợi. Người đó chính là trùm mật thám Louis Marty, Giám đốc Nha chính trị Sở Mật thám Đông Dương. Là một người kỳ cựu thông thuộc tình hình châu Á, nói thạo tiếng Hoa và tiếng Việt, Marty đến vùng này từ đầu thế kỷ 20 và đã phục vụ nhiều đời Toàn quyền Đông Dương kế tiếp với vai trò là giám đốc tình báo và an ninh. Mặc dù khá tàn bạo khi cần thiết, song Marty lại hy vọng rằng chính quyền Pháp ở Đông Dương sẽ tháo ngòi nổ thái độ chống Pháp của người Việt bằng cách khuyến khích “thực dân hóa bằng sách”, vì vậy ông tạo thuận lợi cho việc ấn hành các tác phẩm và báo chí bằng quốc ngữ hơn là bằng chữ Nho truyền thống. Trong số này có tờ Nam Phong do Phạm Quỳnh làm chủ bút một thời gian và Marty tin rằng những nỗ lực này sẽ cung cấp cho các trí thức Việt Nam, đặc biệt là lớp trẻ, về những lựa chọn cho các hoạt động chính trị có nguy cơ gây đe dọa sự ổn định của chế độ thực dân. Đó là chính sách “chinh phục người dân về tinh thần, sau khi chinh phục đất nước về vật chất.” Trong văn phòng ở Hà Nội bên cạnh vườn Bách thảo, liền kề với văn phòng Phủ Toàn quyền Đông Dương, có lẽ Marty đã có đầy đủ hồ sơ về chàng thanh niên Võ Nguyên Giáp nhờ những tin tức do Martin, chánh cẩm thành phố Vinh cung cấp. Tại sao không? Đáng bỏ công để giám sát Giáp chặt chẽ, bởi đây là người đã từng cầm đầu đám học sinh Trường Quốc học Huế, đã thách thức Ban giám hiệu nhà trường, đã tham gia vào phong trào bãi khóa, đã thường xuyên đến thăm Phan Bội Châu, đã tham gia các cuộc tổng đình công phản đối hành hình các nghĩa quân Quốc dân Đảng sau vụ Yên Bái, đã viết những bài báo chỉ trích chính quyền thuộc địa. Chắc hẳn đây phải là một đảng viên của đảng Tân Việt và cũng có thể là đảng viên cộng sản. Vì vậy phải luôn để mắt tới nhân vật này. Khoảng cuối năm 1930, trong các hoạt động nhằm ngăn chặn làn sóng phản kháng của đám trí thức trẻ, cảnh sát Pháp tiến hành hàng loạt vụ vây ráp trong xứ Trung Kỳ và tung mẻ lưới này để bắt một số đối tượng tình nghi: người làm công, thợ thuyền, trí thức, nông dân cả già lẫn trẻ. Trong số người bị bắt có Võ Nguyên Giáp và em trai là Võ Thuần Nho. Nhà đương cục cũng bắt một người quan trọng khác nữa, đó là Đặng Thai Mai, Giáo sư dạy văn chương Trường Quốc học, một trong số các giáo sư dạy Võ Nguyên Giáp, người bạn đường của Tân Việt. Pháp cũng bắt được Nguyễn Thị Quang Thái, một cô gái mới 15 tuổi, học sinh trường nữ học Đồng Khánh ở Huế. Giáp còn chưa biết Thái và chính trong những ngày cùng bị giam, họ đã quen biết và gắn bó với nhau.[1] Ngoài Giáo sư Đặng Thai Mai, cảnh sát Pháp còn bắt nhiều giáo sư khác của Trường Quốc học, và sau vụ xét xử, phần lớn trong số họ bị kết án sáu, bảy năm tù giam nhưng Giáo sư Mai chỉ bị kết án bốn năm tù, còn Nguyễn Thị Quang Thái chịu hình phạt ba năm. Ban đầu Võ Nguyên Giáp bị kết án hai năm án treo vì ông đã đủ thận trọng trong hoạt động nên người ta chỉ thu thập được ít chứng cớ. Nhưng công tố viên đã can thiệp để hai năm án treo trở thành hai năm tù khổ sai. Trong câu chuyện kể về đời ông, Đại tướng Võ Nguyên Giáp im lặng không nói đến thời gian hai năm 1930 - 1932. Ông bị giam, còn gì khác để mà nói. Người em trai Võ Thuần Nho, Quang Thái và Giáo sư Đặng Thai Mai hiểu rằng họ phải đưa lên thụ án ở nhà tù Lao Bảo[2]trong vùng rừng núi sát biên giới với Lào. Tuy nhiên, họ lại là những người may mắn. Nhiều người lên đấy rồi không trở về nữa. Ngay cả những tù nhân có thể chịu được những biện pháp kỷ luật khắc nghiệt tại Lao Bảo nhưng lại bỏ xác vì nạn sốt rét hoành hành. Tuy nhiên đối với Giáp, bị giam ở đây không phải chỉ đem lại nỗi ưu phiền vô vọng. Trong nhà tù Lao Bảo, Giáp đã có cơ hội tìm hiểu Quang Thái kỹ hơn. Lớn hơn Quang Thái 4 tuổi, Võ Nguyên Giáp thấy cô gái có duyên và sớm nhận ra bản chất của những tình cảm quyến luyến của mình đối với cô gái. Mười ba tháng sau khi bị giam trong nhà lao, Giáp được tin chính quyền thuộc địa đã quyết định giảm án cho những ai bị kết án dưới bốn năm. Những ai được tha trước thời hạn đều phải trở về quê quán chịu quản thúc cho đến khi mãn hạn tù. Giáp cảm thấy thực sự vui mừng khi cùng với Thái bước qua ngưỡng cửa nhà giam năm 1932. Đáng lẽ phải tuân lệnh trở về An Xá, nhưng Giáp quay về Huế. Tại đây, Giáp trở lại với bổn phận đối với đảng Tân Việt và hy vọng tìm lại được chỗ làm việc ở tòa soạn báo Tiếng Dân. Nhưng về Huế được vài ngày, viên Khâm sứ Trung Kỳ nhận thấy Giáp đã vi phạm điều lệ tha bổng, nên buộc Giáp phải rời khỏi Huế và trở về An Xá. Khi trở về nhà, Giáp quyết định ngay lập tức là phải đến thành phố Vinh. Lý do của sự lựa chọn đó là ông cần một chỗ làm và hy vọng sẽ tìm được việc làm ở đây. Giáo sư Đặng Thai Mai cũng vừa ra khỏi nhà tù, được phép trở về Vinh sinh sống. Giáp hy vọng sẽ được Giáo sư Mai giúp đỡ bằng cách này hay cách khác. Quan trọng hơn là tại Vinh có gia đình cụ Nguyễn Huy Bình là cha đẻ của Nguyễn Thị Quang Thái. Vốn quê gốc ở Hà Đông[3], cụ Bình làm việc trong ngành đường sắt tại nhà ga Vinh. Hai người con nhỏ nhất của cụ là Nguyễn Thị Minh Khai, sinh năm 1910 và Nguyễn Thị Quang Thái sinh năm 1915.[4] Giáp đến Vinh được Giáo sư Mai cho ở nhờ và lần đầu tiên Giáp biết sáu người con của ông, trong số đó có Đặng Bích Hà sinh năm 1929, kém ông 18 tuổi[5]. Năm đó, 1932, cô bé đang còn lon ton chạy trong nhà, coi Giáp như em út của cha mình và thường gọi Giáp bằng chú. Ít lâu sau, Võ Nguyên Giáp tìm được chân kế toán cho một hiệu buôn ở phố Thống chế Foch, ông còn mở lớp dạy toán và tiếng Pháp. Một thời gian ngắn sau đó, Giáp nhận ra rằng nhà ông Bình cách không xa nhà Giáo sư Mai. Và Quang Thái trở thành một trong số những học trò của ông. Theo thời gian tình cảm của ông đối với cô học sinh ngày càng trở nên thắm thiết. Giáp đã biết chị gái của Quang Thái là Nguyễn Thị Minh Khai hơn Giáp gần một tuổi. Mặc dù cả hai cô con gái ông Bình đều là những người hoạt động cách mạng, đều muốn ách thống trị thực dân sớm chấm dứt nhưng Minh Khai xem ra sớm có tinh thần cách mạng hơn. Cô bắt đầu dấn thân vào con đường cách mạng khi còn là một nữ sinh trường trung học Cao Xuân Dục ở Vinh. Năm 1926, khi mới 16 tuổi, Minh Khai đã cùng bạn bè tham gia các buổi lễ tưởng niệm nhà yêu nước Phan Chu Trinh. Trong lúc Minh Khai tham gia biểu tình ở Vinh thì Giáp cũng làm như vậy khi còn đang học Trường Quốc học Huế. Năm 1927, cả Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Thị Minh Khai đều xin gia nhập đảng Tân Việt và cả hai đều hướng về cánh có tính chiến đấu trong đảng. Nhận ra phẩm chất lãnh đạo của Minh Khai, các đồng chí đã bầu cô vào ban chấp hành đảng bộ tỉnh. Hoạt động chính trị đã thu hút toàn bộ sức lực, tâm huyết của cô. Mùa hè năm 1930, chỉ mấy tuần trước khi Giáp bị bắt ở Huế, Minh Khai đã đáp tàu đi Hồng Kông. Tại đây cô làm việc cho Ban Á Đông của Quốc tế Cộng sản. Thỉnh thoảng cô trở về Vinh, rồi lại rút vào hoạt động bí mật. Cô ở nhà vài ngày trước khi lại trốn sang Hồng Kông. Minh Khai có thể coi là người phụ nữ có đầu óc phóng khoáng nhất thời bấy giờ. Cô thích thể thao, kể cả bơi lội, hoạt động ít thấy ở phụ nữ Việt Nam thời đó. Cảnh sát Anh bắt cô ở Hồng Kông ngày 29/4/1931 về tội hoạt động chính trị và cô bị tù giam đến năm 1932. Các nhà đương cục Anh giao cô cho nhà đương cục Trung Hoa ở Quảng Châu và cô tiếp tục bị giam ở đây cho đến năm 1934. Trong một thời gian ngắn trở về Vinh, Minh Khai lại trở lại Hồng Kông. Tại đây cô gặp Lê Hồng Phong là người sau này cô đã kết hôn. Ít lâu sau cô đến Matxcova theo học lớp đào tạo chính trị tại trường Đại học Phương Đông. Tháng 7/1935, Minh Khai tham gia đoàn đại biểu Việt Nam tại Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản tại Matxcova. Cuối cùng cô trở lại Việt Nam năm 1937 và hoạt động ở Sài Gòn cùng với Lê Hồng Phong và tại đây họ đã nên duyên vợ chồng. Minh Khai cũng đảm nhiệm công tác liên lạc giữa Đảng bộ Vinh và Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Hà Nội. Tháng 9/1939, cảnh sát Pháp càng ngày càng xiết chặt vòng vây và một lần nữa cô chuyển vào hoạt động bí mật. Dù cô thường xuyên trong tình trạng phải lẩn trốn, nhưng những hoạt động chính trị đã tạo cơ hội cho Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Thị Minh Khai gặp nhau nhiều lần, bắt đầu từ năm 1937 cho đến 1940, là năm Võ Nguyên Giáp sang Trung Quốc hoạt động. Cô em gái Nguyễn Thị Quang Thái cũng bị những hoạt động của Minh Khai cuốn hút. Quang Thái hoạt động tích cực đến mức cảnh sát Pháp phải mở hồ sơ về cô khi cô chưa đầy 15 tuổi. Được Võ Nguyên Giáp ủng hộ, cô càng hoạt động tích cực. Năm 1933, Giáo sư Đặng Thai Mai ra Hà Nội nhận chức Hiệu trưởng Trường tư thục Thăng Long. Giáp quyết định ra Hà Nội với gia đình giáo sư, để lại Quang Thái ở Vinh. Trước khi ra đi, Giáp còn hứa là không bao giờ quên cô. Sau này tại thủ đô Bắc Kỳ, Võ Nguyên Giáp tiếp tục sống trong gia đình giáo sư Đặng Thai Mai. Louis Marty, Giám đốc Sở Mật thám theo dõi Giáp từ lâu, giờ đây có mối quan tâm mang tính cá nhân nhiều hơn đối với Giáp và tìm cách giúp Giáp tiếp tục việc học. Không ai có thể thấy được những bí mật trong thời kỳ này. Được hỏi, Võ Nguyên Giáp bao giờ cũng từ chối bình luận về Marty. Dù hoàn cảnh thực tế như thế nào, Marty đã biết được rất rõ về con người hoạt động cách mạng trẻ tuổi vừa xuất sắc vừa gây tranh cãi đó. Rất khó để có thể giải thích lý do tại sao Marty lại đối xử “tốt” với Võ Nguyên Giáp như vậy. Có lẽ Marty chỉ nghĩ đơn giản rằng cai trị một thuộc địa có những người sẵn sàng hợp tác dễ hơn cai trị một thuộc địa có nhiều người đối kháng. Có lẽ ông ta nghĩ rằng không nên bỏ rơi một con người có tư chất thông minh thiên phú, con đường công danh rộng mở, một con người có thể phục vụ tốt cho nước Pháp sau này còn hơn là biến người đó trở thành đối thủ công khai của mình? Đối với Marty, Giáp hình như biết thuộc bài và bây giờ là lúc nên thuần hóa, vô hiệu hóa chàng trai trẻ. Có thể là phần mình Giáp đã làm dịu đi mối nghi ngờ của chính phủ Pháp đối với những ai có thể uy hiếp sự thao túng của Pháp ở Đông Dương. Võ Nguyên Giáp có lẽ không phải là người Việt đầu tiên được “phục quyền”. Nhưng Marty đã phạm sai lầm lớn nhất trong sự nghiệp của mình khi chìa bàn tay cho Giáp. Với hành động đó, ông ta đã góp phần khai tử nền cai trị của thực dân Pháp ở Việt Nam. Trong nhiều cuộc gặp gỡ diễn ra trong năm 1933, Marty khuyến khích Võ Nguyên Giáp nên tự học và chuẩn bị thi lấy bằng tú tài phần thứ nhất. Như vậy, Giáp sẽ có một tấm bằng được bảo đảm. Nếu Võ Nguyên Giáp đỗ tú tài, Marty nói ông ta sẽ ủng hộ để Giáp được vào trường trung học nổi tiếng tại Hà Nội là Trường Albert Sarraut, lấy tên một trong những vị toàn quyền tiến bộ nhất gần đây (1911 - 1914, 1917 - 1919). Hầu hết các trí thức Việt Nam đều học tại Hà Nội. Đó là trung tâm của hoạt động trí thức. Trường Trung học Albert Sarraut là trường tốt nhất, không phải nói gì hơn nữa. Có hai trở ngại đối với đề nghị của Marty: một trong những điều cấm mà quy chế của Pháp áp đặt cho người Việt là ngăn cấm đa số thanh niên học lên bậc đại học, cao đẳng, không cho xin việc bằng thi tuyển ở các cơ quan chính phủ. Người Pháp khẳng định những điều cấm đó là cần thiết để tránh cho các trường học bị quá tải và để cho những kẻ phá rối không gây khó cho chính quyền thuộc địa. Đây là một đặc ân ngay cả với những gia đình thân Pháp khi đột xuất nhận được hộ chiếu cho phép con em họ sang Pháp du học. Cả Bắc Kỳ chỉ có một nơi học sinh có thể thi lấy bằng tú tài, đó là Hà Nội. Ở Trung Kỳ, sau năm 1937 chỉ có ở Huế. Và đa phần số người đăng ký dự thi đều trượt. Tại Huế năm 1943, trên ba nghìn học sinh dự thi thì chỉ có 61 người đỗ. Trở ngại thứ hai là, dưới chính quyền thuộc địa người ta không bao giờ dành cho những kẻ gây rối người Việt còn ít tuổi có được cơ hội thứ hai. Nếu họ bị đuổi khỏi trường thì con đường học tập của họ coi như chấm dứt. Họ không còn trông cậy vào đâu. Nếu Võ Nguyên Giáp muốn học cao hơn nữa thì bắt buộc phải có sự giúp đỡ, và Marty rất sẵn sàng. Trong khi học tập, Võ Nguyên Giáp cũng cần tìm một công việc nhỏ để đủ tiền nuôi sống mình. Trong một thời gian, Võ Nguyên Giáp làm trợ lý nghiên cứu cho Pierre Gourou - một nhà địa lý người Pháp quan trọng bậc nhất ở Đông Dương lúc bấy giờ. Ông là tác giả nhiều bộ sách quý như Người nông dân đồng bằng Bắc Bộ và Nông nghiệp trong xứ Đông Dương thuộc Pháp. Khi Giáp được giải phóng mọi nghĩa vụ, ông lao tâm vào học. Và ông qua các kỳ thi tú tài một cách dễ dàng. Ông xin vào học Trường Albert Sarraut ở Hà Nội và với sự ủng hộ của Marty, ông được nhập học ngay. Phải chăng đối với Marty, đó là một sự “cho và nhận”? Có thể nghĩ như thế lắm. Tại Sở Lưu trữ Đông Dương có một tài liệu đánh máy kỳ lạ không đề ngày tháng (chỉ được lưu vào năm 1972) và người ta không rõ gán cho ai tài liệu này (nó phải là một phần của một tập tài liệu dày hơn bởi vì ba trang có liên quan đều được đánh số 14, 15 và 16). Tài liệu này nêu những việc nổi bật trong cuộc đời của Võ Nguyên Giáp, trong đó viết là từ năm 1936 đến 1939, Giáp “hành động như một người trung gian của Đảng Cộng sản Đông Dương […] ở Hà Nội khi ông Giáp tiếp xúc với Marty, Giám đốc Chính trị của Sở Mật thám Đông Dương”. Không có một chỉ dẫn nào khác về tính chất các cuộc tiếp xúc đó hoặc những cuộc tiếp xúc đó là cần thiết cho ai? Marty đã thu được gì qua các cuộc tiếp xúc đó? Có thể là tin tức về các kế hoạch, chính sách, hay các thành viên của đảng kình địch với Đảng Cộng sản Việt Nam. Thế còn Võ Nguyên Giáp tìm được gì? Không chỉ là thuận lợi về con đường học tập. Một giáo sư Việt Nam đã gợi ý với Giáp “bằng sự thông minh và khôn khéo hãy đánh lừa con cáo già Marty bằng cách vận dụng chiến thuật tương kế tựu kế làm Marty tưởng là đã lừa được Giáp để đến lượt mình cho đối phương vào bẫy. Hãy sử dụng người đỡ đầu của mình để đến một lúc nào đó, có thể đạt được mục tiêu của mình dễ dàng hơn.” Dù thế nào, hình như Võ Nguyên Giáp đã có cuộc sống khá an toàn vào cuối những năm 1930 trong lúc những người khác đang thật sự lâm nguy. Xung quanh ông, nhiều đảng viên, nhiều đồng chí bị bắt hoặc phải đi đày biệt xứ, bị giam giữ nhiều năm tại những địa ngục trần gian nổi tiếng như Côn Đảo, thậm chí lên máy chém. Những quan hệ của ông với trùm mật thám Marty đã chấm dứt năm 1939, khi nổ ra Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Tháng 9/1932, là năm Võ Nguyên Giáp ra khỏi nhà tù, cũng là năm người Pháp cho phép Thái tử kế nghiệp Bảo Đại từ Paris trở về Việt Nam và làm lễ tấn phong hoàng đế cho ông. Mới 18 tuổi, Bảo Đại cảm thấy hoàn toàn lạc lõng giữa triều đình. Ông hoàn toàn xa lạ với việc trị vì. Hoàng Thái hậu đối xử rất nghiệt ngã và độc đoán, được thực dân Pháp mệnh danh là “hổ cái”. Bảo Đại cảm thấy suy sụp về tinh thần và bắt đầu tổ chức những cuộc đi săn đơn độc, dài ngày trong rừng. Tuy nhiên, nhà vua cũng quyết tâm khôi phục một vài quyền tự chủ còn sót lại và tiến hành cuộc cải cách nhỏ thật sự cần thiết. Trong lúc Giáp học để thi tú tài và hy vọng vào Trường Albert Sarraut thì nhà vua đi những bước đầu tiên của công cuộc cải cách. Không có quyền lực, cô đơn và hụt hẫng nhưng ông tỏ ra độc lập suy nghĩ khiến người Pháp phải ngạc nhiên. Họ tưởng đã nhào nặn được ông thành một vua ngoan ngoãn chỉ biết cúi đầu tuân lệnh trước khi để ông trở về trị vì. Bảo Đại không phải con người có tinh thần đấu tranh, ông hy vọng có thể thúc đẩy liên minh Pháp - Việt trên cơ sở hiệp ước 25/8/1883 nhưng rốt cuộc ông không thuyết phục được người Pháp cũng như không thu phục được nhân dân trong nước. Ông ban “dụ” khi vào chầu ở điện Thái Hòa, các quan không phải sụp lạy. Theo truyền thống, các hoàng đế rất ít tiếp xúc với dân. Phần lớn người dân chỉ nhìn thấy vua qua các tấm ảnh chân dung. Bảo Đại có tính rụt rè, ông muốn xóa bỏ những nghi thức rườm rà và muốn gần gũi hơn với nhân dân. Ngoài việc xóa bỏ việc quỳ lạy của các quan khi vào chầu, ông cũng xóa luôn chế độ “nạp phi” (chọn gái đẹp trong dân gian làm cung tần mỹ nữ), và chọn ra một nội các mới trong đó lần đầu tiên có một người không phải là quan lại. Ông tỏ ý tức giận khi thấy lương trả cho người Việt giữ chức quan trọng không bằng những viên chức Pháp. “Người đứng đầu một tỉnh như người anh của Ngô Đình Diệm ở tỉnh Quảng Nam lĩnh lương không bằng một cảnh sát Pháp ở Hà Nội,” ông viết. Đó là chuyện thường tình ở Việt Nam thời đó. Dù là quân nhân hay dân sự, người Pháp sang Đông Dương là một cơ hội cải thiện đời sống và làm giàu, như ở chính quốc người ta truyền cho nhau câu ngạn ngữ “phải là con Tổng giám mục mới được bổ nhiệm sang Đông Dương”. Trường hợp Hoàng Xuân Hãn là một ví dụ. Ông tốt nghiệp trường Bách khoa ở Pháp, sau đó là Bộ trưởng Giáo dục Việt Nam. Trong những năm 1930, ông là giáo sư khoa học ở Trường Albert Sarraut tại Hà Nội. Có bằng cấp, có trình độ chuyên môn giảng dạy như vậy mà lương của ông chỉ bằng một nửa người Pháp gác cổng ở ngay trong trường chỉ có bằng sơ học (Brevet Elementaire)[6]. Không có gì đáng ngạc nhiên khi Bảo Đại muốn chấm dứt cách đối xử bất công đó. Sau 18 tháng đối mặt với sự cứng rắn của người Pháp, Bảo Đại cảm thấy mất hết hy vọng. “Tất cả đều hão huyền,” ông viết, “bây giờ tôi mới hiểu rằng những người theo chủ nghĩa quốc gia có lý. Và không phải chỉ có một mình tôi nghĩ như vậy. Ngay ở Pháp cũng có nhiều người chia sẻ ý kiến với tôi”. Mới đây, ông nói: “Tôi đã đọc thấy câu của André Malraux: Khó mà quan niệm rằng một người Việt Nam can đảm lại không đi theo cách mạng”. Bảo Đại nhớ lại Phạm Quỳnh - Bộ trưởng Giáo dục của ông, đã viết 10 năm trước: “Người Việt Nam cảm thấy như là người nước ngoài điều chỉnh đất nước của họ”. Chính Bảo Đại cũng có những phản ứng bực bội như thế: “Tôi cũng cảm thấy điều đó”, ông viết trong một chuyến du hành ra miền Bắc, “tôi như một vị quân vương ngoại quốc. Đó là vì người Pháp đã đặt tôi vào hoàn cảnh như vậy. Tôi sống trong nước tôi mà như một nhà vua nước ngoài đi đày ở xứ này, cũng như các tiên đế trước đây. Nhưng đi đày ở trong chính nước mình, trong lòng nhân dân nước tôi cũng đang bị ở tình cảnh đi đày”. Trong lúc Hoàng đế Bảo Đại vật lộn để có một chút ảnh hưởng dù nhỏ nhoi đối với chính sách thuộc địa của người Pháp thì Võ Nguyên Giáp được Marty động viên, khuyến khích chuẩn bị vào học Trường Albert Sarraut. Năm 1933, ông đỗ tú tài phần thứ nhất [tức tú tài đại cương - ND]. Ông nghĩ đến đỗ cho được tú tài toàn phần. Phần lớn chỗ học ở năm cuối cùng của Trường Albert Sarraut là dành cho con em những công chức thực dân người Pháp. Còn thanh niên Việt Nam muốn vào thì phải qua một kỳ thi tuyển đặc biệt. Khi Ban giám hiệu nhà trường thông báo còn một số chỗ cho thí sinh tự do, Võ Nguyên Giáp liền đệ đơn dự thi và ông đã đỗ. Ông cũng nhận được sự giúp đỡ của một Giáo sư đại học Hà Nội, đảng viên lâu năm của Đảng Cộng sản Pháp tên là Marcel Ner để được miễn lệ phí nhập học. Được hỏi về quá trình của Võ Nguyên Giáp tham gia phong trào chống đối của học sinh, Ner đã thay mặt Giáp xin lỗi vì lầm tưởng rằng làm như thế là đi theo lý tưởng của cách mạng Pháp năm 1789, có trong chương trình giảng dạy trong các nhà trường của Việt Nam. So với những sinh viên có thái độ phản đối chính sách thống trị của người Pháp, Võ Nguyên Giáp đặc biệt nổi bật, ông quyết tâm hơn ai hết trong số bạn cùng học với ông, đấu tranh cho tự do, nhưng việc ông tham gia đảng Tân Việt, những rắc rối trước đây với Phòng Nhì và thời gian ở tù đã dạy ông khá nhiều điều. Ông biết phải khép mình vào kỷ luật như thế nào, che giấu cảm xúc ra sao, làm thế nào để tránh đụng phải các vấn đề gây rắc rối. Không có một yếu tố nào khiến ta nghĩ rằng khi ông học ở Trường Albert Sarraut, Phòng Nhì đã đặc biệt để ý đến ông. Bề ngoài ông học tập chăm chỉ, tỏ ra là một người ngoan ngoãn. Miệt mài học tập khiến ông nhanh chóng đứng đầu lớp, ban Triết học. Một học sinh của của Trường Albert Sarraut, Nguyễn Đình Tú nhớ lại: “Vượt qua được trở ngại ban đầu là thi đỗ vào trường, chúng tôi còn phải viết tiểu luận bằng tiếng Pháp để được đánh giá trình độ học vấn và chính tả nữa. Sau đó là phải giải các bài toán. Cuối cùng là một bài thi hát bằng tiếng Pháp… Tôi chỉ nhớ lờ mờ có một bài.” Ông Tú cười khi nhớ lại chuyện cũ: “Một ngày thi viết, một ngày thi vấn đáp. Ban giám khảo toàn người Pháp.” Ông Tú năm nay đã 80, nhớ lại tất cả chỉ có hai người Việt Nam được vào học trong số 1.000 người dự thi tuyển vào Albert Sarraut đầu những năm 1930. “Các lớp học buổi sáng từ 7 giờ 30 phút đến 11 giờ 30 phút và buổi chiều từ 14 giờ 30 phút đến 17 giờ 30 phút. Các học trò học “gạo” lắm nhưng chúng tôi vẫn có thì giờ đi “bát” phố (theo lối nói bây giờ gọi là học rất chăm những vẫn có thì giờ đi dạo phố), cùng ngồi với nhau bên vệ cỏ bờ hồ Hoàn Kiếm, tổ chức các đội bóng đá và thi đấu với nhau.” Và ông còn dành thời gian để suy nghĩ về đất nước mình. “Tôi luôn luôn nghĩ đến ngày đất nước thoát khỏi sự thống trị của người Pháp. Nhiều bạn học chia sẻ ý kiến này với tôi. Có cả những bạn học các trường khác thường ngồi với nhau bàn bạc chiến đấu thế nào để giải phóng đất nước. Ý tưởng chính của chúng tôi là yêu nước như thế nào. Chúng tôi thường nói với nhau những đề tài ấy bên ngoài nhà trường. Chúng tôi nói theo cách riêng của bọn học trò chúng tôi. Chúng tôi còn non nớt, thơ ngây lắm, không biết phải chiến đấu như thế nào”. Đó là những lời than vãn nói lên tình cảnh chung của mọi người hoạt động cách mạng ở Việt Nam. Quả thật họ không biết phải chiến đấu ra sao. Khoảng cuối năm 1934, Giáp đỗ tú tài phần thứ hai hay còn gọi là tú tài toàn phần. Có được bằng cấp nên không phải mất nhiều thì giờ để kiếm việc làm. Ông đã xin được một chân dạy Lịch sử và Pháp văn ba giờ một ngày tại Trường tư thục Thăng Long. Trường này do Huỳnh Thúc Kháng làm hiệu trưởng[7]. Trường Thăng Long thực sự là nơi hun đúc tình cảm yêu nước và hoạt động cách mạng, tạo cho Giáp niềm say mê háo hức. Có việc làm, có thu nhập, ông muốn tiếp tục học lên nữa. Càng ngày ông càng cảm thấy đảng Tân Việt hoạt động thiếu kỷ luật, ông không còn hăng hái với hoạt động của Tân Việt và ngày càng quan tâm hơn đến chủ nghĩa cộng sản thuần túy. Ông muốn biết nhiều hơn về kinh tế và chính trị. Vì vậy, ông xin vào học khoa Luật Trường Đại học Hà Nội và được nhận vào học. Nhưng công việc dạy học ở trường Thăng Long và việc học ở khoa Luật chưa thỏa chí. Ông cho xuất bản tờ báo riêng của ông. Ít lâu sau ông thấy quá bận rộn vì công việc mà trước đây ông không thể tưởng tượng nổi. [1]Thực ra Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Thị Quang Thái đã quen nhau từ trước. Năm 1928, lần đầu tiên hai người gặp nhau khi Quang Thái đến nhờ Võ Nguyên Giáp giới thiệu vào hoạt động trong phong trào học sinh ở Huế (BT). [2] Võ Nguyên Giáp, Đặng Thai Mai, Võ Thuần Nho, Nguyễn Thị Quang Thái bị giam tại nhà lao Thừa Phủ - Thừa Thiên Huế, chứ không phải nhà tù Lao Bảo ở Quảng Trị (BT). [3] Quê gốc của gia đình cụ Nguyễn Huy Bình ở làng Mọc, Nhân Chính, Hà Nội (BT). [4] Nguyễn Thị Minh Khai là con cả, Nguyễn Thị Quang Thái là con thứ trong gia đình có tám người con (BT). [5] Bà Đặng Bích Hà sinh năm 1928, kém Đại tướng Võ Nguyên Giáp 17 tuổi (BT). [6]Tương đương với tốt nghiệp trung học cơ sở của Việt Nam hiện nay (ND). [7] Có lẽ tác giả nhầm, Hoàng Minh Giám làm hiệu trưởng Trường tư thục Thăng Long (BT). “Họ đặt hy vọng vào một sự nghiệp chung” Thời gian dạy học ở trường Thăng Long và học Luật, Võ Nguyên Giáp tiếp tục ở trọ nhà giáo sư Đặng Thai Mai. Ông được học sinh kính trọng và được ca ngợi là dạy giỏi. Một trong những học trò của ông, Tôn Thất Bình bắt đầu có những ý nghĩ tốt về ông. Ông hoàn toàn thích hợp với tâm thức của nhà trường mà ai đó đánh giá là nơi vun đắp tình cảm chống thực dân và nơi diễn ra các cuộc thảo luận về tương lai nước Việt Nam. Học sinh ở độ tuổi từ 14 đến 18, chương trình học của nhà trường tương đương với chương trình của học sinh trung học phổ thông. Võ Nguyên Giáp sử dụng lịch sử để đạt được mục tiêu chính trị của mình. Ông nghĩ rằng dạy môn lịch sử sẽ giúp ông làm cho học sinh thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước. Sau này, nhiều học trò cũ vẫn nhớ những buổi dạy của thầy giáo Giáp. Ông Nguyễn Đình Tú kể lại: “Thầy Giáp được học sinh thật sự kính trọng. Đó là một người yêu nước vững vàng rất tận tụy, trung thành. Thầy luôn luôn nói cần phải hất cẳng người Pháp. Dĩ nhiên thầy không bao giờ nói về chủ nghĩa cộng sản, mà chỉ nói chủ nghĩa quốc gia. Vì vậy, trong mắt chúng tôi khi đó thầy là một nhà yêu nước, chứ chúng tôi không nghĩ thầy là một người cộng sản”. Võ Nguyên Giáp là một người cộng sản nhiệt thành đã biến những giờ dạy lịch sử thành một diễn đàn chính trị. Một học sinh khác, sau này cũng đi theo chủ nghĩa cộng sản và di cư vào Nam năm 1954 đã nói ông nổi tiếng trong đám học sinh là diễn giảng rất giỏi về các đề tài lịch sử, đặc biệt là lịch sử quân sự. Nhiều học sinh cũ của ông nhớ về ông như một “chiến binh cuồng tín, không mấy khi mỉm cười và không để ai thuyết phục được ông trong bất cứ lĩnh vực nào”. Ông còn nhớ “thầy Giáp có thể vẽ trên bảng đen những chi tiết cụ thể nhất về từng trận đánh của Napoleon.” Ông Bùi Diễm, cựu đại sứ của Ngô Đình Diệm tại Mỹ, thời đó là một cậu bé 13 tuổi, đã nhớ về Võ Nguyên Giáp như hình ảnh của một con người bị “qủy thần ám ảnh về cách mạng và các trận chiến.” Thầy giáo Giáp dạy về lịch sử nước Pháp từ năm 1789 đến giữa thế kỷ 19. Ông trình bày vấn đề theo cách riêng của mình. Bắt đầu buổi học, ông đứng trước lớp nhìn thẳng vào học sinh và nói: “Có rất nhiều sách nói về lịch sử nước Pháp thời kỳ này. Nếu muốn tìm hiểu, các em có thể tham khảo. Tôi sẽ chỉ nói với các em về hai chủ đề: Cách mạng Pháp và Napoleon.” Nửa thế kỷ đã qua, ông Bùi Diễm không bao giờ quên được phương pháp sư phạm của thầy Giáp: “Sự miêu tả chi tiết về mức độ xa hoa cũng như đồi bại của Marie Antoinette đã đưa học trò đến một nhận định không chút nghi ngờ về số phận dành cho nền quân chủ Pháp. Thầy Giáp sôi nổi kể về Ủy ban Cứu quốc, Công xã Paris, về cuộc sống và cái chết của Danton và Robespierre.” Võ Nguyên Giáp như bị hút hồn về cuộc Cách mạng Pháp và những nhân vật thời đó. Ông Bùi Diễm nhớ lại: “Võ Nguyên Giáp không phải chỉ là nhà sử học đơn thuần, ông còn là một trạng sư say mê, bênh vực chính nghĩa của lịch sử.” Đi đi lại lại một cách mạnh mẽ trong lớp, Giáp “mô tả lại từng hành động cho thấy rõ sự phát triển trong chiến thuật và chiến lược của Napoleon”. Từng trận đánh lớn khi Napoleon dẫn quân lính xông thẳng vào đội hình của quân đội các nước châu Âu hay từng cuộc giao tranh của các đơn vị nhỏ, Võ Nguyên Giáp đều nhớ chi tiết. Ông muốn học trò của ông hiểu “tại sao một đội long kỵ binh (kỵ binh cận vệ của nhà vua) lại được bố trí ở vị trí chính xác như thế hay đội cận vệ của Napoleon đã nổ súng đúng lúc như thế nào để giành chiến thắng”. Lớp học im phăng phắc, đám học trò thiếu niên đang ở tuổi hiếu động bị cuốn hút vào những câu chuyện kể hết sức hấp dẫn như sống lại đến từng chi tiết võ công hiển hách của Napoleon. Võ Nguyên Giáp nói rằng ông giảng giải kỹ về các trận đánh của Napoleon đơn giản vì ông có trách nhiệm phải giảng về Cách mạng Pháp. Vì vậy, ông phải nghiên cứu kỹ chiến lược và chiến thuật của Napoleon. Có một thời gian ngắn, đám học trò hay gọi ông với biệt danh “ông tướng” hay “Napoleon” vì ông say sưa giảng về chủ đề quân sự trong Cách mạng Pháp (56 năm sau, được hỏi về các biệt danh đó, vị “tướng về hưu” đã lâu chỉ phá lên cười với sự vui vẻ). Theo lời đồn đại, “dáng đi và cách nói của Giáp giống hệt Napoleon, nói những câu ngắn gọn, đầu hơi cúi, tay thọc vào túi áo vét.” Theo miêu tả của các bạn đồng nghiệp, ông là “một con người có vẻ mặt điềm tĩnh, lạnh lùng như một người chơi poker đang suy nghĩ nên hạ con bài nào, nhưng lại hay giận dữ giữa những phút im lặng như hòn đá.” Người ta kể lại, một hôm một giáo sư hỏi ông: “Không chơi kiểu Napoleon à?” Giáp trả lời: “Mình sẽ là một Napoleon!” Có thể ông đã nghĩ đến điều đó, vì khá lâu sau, trong những cuộc trả lời phỏng vấn, ông hay có điệu bộ như hoàng đế Napoleon đang độc thoại trước các nhà báo. Giáp quan tâm đến học sinh không phải chỉ trong các giờ lên lớp mà cả trong các buổi gặp gỡ bên ngoài. Thỉnh thoảng đám học sinh đến nhà ông trò chuyện sau những buổi lên lớp và ông luôn cố gắng tác động vào quan điểm chính trị của họ. Ông Bùi Diễm nhớ lại Giáp có bộ Tư bản luận bằng tiếng Pháp trên giá sách. Giáp giục ông (Diễm) nên đọc Marx và các tác phẩm có xu hướng xã hội khác “nhưng tôi không mảy may quan tâm và còn nghi ngờ mô hình Mác-xit mà Giáp đưa ra.” Giáp muốn học trò của mình phải học thật giỏi. Bản thân ông đã chăm chỉ miệt mài học tập trong những năm ở Trường Quốc học Huế, nên ông muốn họ theo gương ông cũng hăng say học tập như thế. Khi học ở Đại học Luật cũng thế. Ông đòi hỏi mình phải học giỏi. Vì vậy, ông để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong các giáo sư dạy ông. Ông ưa thích luật và kinh tế chính trị. Đó là những môn học ông quan tâm từ khi còn làm báo Tiếng Dân. Năm 1947, giáo sư của Giáp ở trường Đại học Luật Hà Nội là Marcel Ner, một đảng viên cộng sản khi nói về Giáp đã nhớ lại “đó là một con người yêu mến tha thiết đất nước mình, say mê chủ nghĩa cộng sản.” Một giáo sư khác thì đánh giá: “Giáp là sinh viên xuất sắc nhất ở trường Đại học Hà Nội lúc bấy giờ […], một con người khao khát học hỏi” nhưng “lại là người hướng nội”. Một giáo sư người Pháp khác của Võ Nguyên Giáp là Gregoire Kherian. Năm 1945, khi Nhật đảo chính Pháp, bọn cầm đầu hiến binh Nhật ra lệnh bắt giữ các giáo sư, nhân viên người Pháp của trường Đại học Hà Nội. G. Kherian lúc này là Trưởng bộ môn Kinh tế Chính trị của khoa Luật được người Nhật cho về trường thu dọn các giấy tờ sổ sách. Ông tìm thấy được hồ sơ của một sinh viên duy nhất - đó là Giáp mà ông muốn che chở. Kherian nói: “Đó là anh sinh viên tôi thích nhất, anh ta học rất giỏi và can đảm”. Khi một nhà báo phỏng vấn năm 1972, Kherian nói: “Tôi còn giữ được hồ sơ của Giáp và một bài báo của Giáp với nhan đề Cán cân thanh toán ở Đông Dương.” Kherian ghi nhận đó là “một bài xuất sắc viết về một đề tài khó. Bài viết trình bày sáng sủa, xuất sắc, có phương pháp và độc đáo”. Tuy nhiên, kỷ niệm kỳ lạ mà Kherian còn giữ được về Giáp là cuối thời gian học đại học, Giáp có cơ hội được rời khỏi Việt Nam để sang Pháp du học. Ông ghi lại: “Giáp đỗ đầu môn Kinh tế Chính trị năm 1938. Hàng năm có một giáo sư nổi tiếng từ Paris sang Việt Nam tự mình chọn lựa sinh viên giỏi, có triển vọng để cho đi học tại Pháp qua một kỳ thi tuyển. Năm đó, là Giáo sư M. Gaeton Pirou. Ông chính là chánh văn phòng của Thủ tướng Paul Doumer. Ông nói với tôi là ông có ấn tượng về kết quả học tập của Giáp và đặt cho tôi nhiều câu hỏi về Giáp. Tôi trả lời anh ta (Giáp) đang có vấn đề với nhà cầm quyền, và đó là con người luôn luôn sôi nổi. Ông Pirou nói: “Phải đưa anh ta ra khỏi môi trường thuộc địa. Hãy tìm cách cho anh ta đến Paris. Anh ta có thể học bất cứ ngành nào theo ý muốn. Người ta sẽ chu cấp cho anh ta ăn học.” Kherian đã chuyển lời đề nghị của Pirou tới Giáp. Anh yêu cầu có thời gian để suy nghĩ. “Ngày hôm sau Giáp trở lại nói anh ta không thể bỏ rơi bạn bè và hành xử như một người ích kỷ”. Học bổng dành cho người khác là Vũ Văn Hiền sau này là một luật gia nổi tiếng. Võ Nguyên Giáp đã từ chối khoản học bổng đặc cách này dành cho ông cơ hội đi Pháp học ngành nào tùy ý. Sự nhiệt tình của ông đối với đất nước khiến ông khước từ mọi nỗ lực của người Pháp muốn tuyển lựa những thanh niên học tập xuất sắc để đem về Pháp “giáo dục lại” mà người ta hy vọng có thể tác động để họ đi theo con đường không có hại cho đế quốc. Nhờ sự giúp đỡ của giáo sư G. Kherian, Giáp đã đỗ cử nhân Luật khoa năm 1937 mặc dù điểm môn Luật hơi kém nhưng bù lại môn Kinh tế Chính trị được điểm xuất sắc. Được hỏi về cảm tưởng của ông lúc đó, Giáp trả lời: “Rất hài lòng”. Trong các môn tự chọn, ông tránh không học Luật thuần túy để sau này chỉ trở thành luật gia. Hơn 50 năm sau được hỏi về tại sao ông không trở thành một luật sư, ông trả lời thẳng thắn: “Tôi không bao giờ mong muốn trở thành một luật sư”. Trong năm 1938, Võ Nguyên Giáp tiếp tục theo học ở trường Đại học Luật Hà Nội, tập trung vào luận án kinh tế chính trị, hy vọng một ngày kia có được học vị tiến sĩ. Là người khao khát đọc sách, ông tận dụng mọi cơ hội thuận lợi để đọc sách tại thư viện, bổ sung vốn kiến thức về lịch sử và chủ nghĩa cộng sản. Ông tham gia ngày càng nhiều vào lĩnh vực hoạt động mới và các kỳ thi đã làm ông đuối sức. Cuối cùng, không thể đồng thời vừa đi học vừa tham gia nhiều hoạt động khác làm ông bận bịu và có những mối quan tâm cấp bách hơn, ông đã bỏ học và không bao giờ đỗ được bằng tiến sĩ Luật hay Kinh tế Chính trị như nhiều tác giả phương Tây khác đã viết. Phải tìm lý do bỏ học này từ hai năm trước đó. Hàng ngày phải đi từ nhà đến Trường Thăng Long dạy học qua phố Tràng Tiền, Võ Nguyên Giáp thường dừng lại ở ngã tư để đọc các bảng tin dán trên tường. Một buổi chiều tháng 5/1936, trên đường trở về nhà, ông đọc được trên bảng tin một mẩu tin về sự kiện quan trọng vừa xảy ra ở Pháp. Mặt trận Bình dân tập hợp nhiều đảng chính trị trong đó có cộng sản và xã hội vừa thắng cử. Giáp thấy như bị kích động. Chính phủ của Mặt trận Bình dân lên cầm quyền ở Pháp nhất định sẽ nới lỏng sự o ép ở thuộc địa. Phải nhanh chóng nắm lấy thời cơ: đã đến lúc phải ra một tờ báo để bày tỏ quan điểm chống thực dân. Võ Nguyên Giáp đem ý kiến đó ra bàn với nhóm bạn bè đều dạy học ở Trường Thăng Long và thuyết phục họ giúp mình thực hiện ý định. Giáp biết có một tờ báo hàng tuần sắp vỡ nợ mà ông chủ báo muốn bán lại. Mọi người chung nhau các khoản tiền tiết kiệm của mình cùng với các thầy giáo Trường Thăng Long mua lại tờ báo Hồn trẻ. Tờ báo đã có giấy phép của nhà đương cục nên Giáp và các đồng sự không phải mất nhiều thì giờ vượt qua những thủ tục hành chính rườm rà để ra một tờ báo mới. Ngày 4/6/1936, Léon Blum, người của Đảng Xã hội Pháp lên làm Thủ tướng. Hai ngày sau, được sự giúp đỡ của bạn bè, tờ Hồn trẻ với ban biên tập mới ra mắt bạn đọc với cái tên Hồn trẻ Tập mới. Đó là tờ báo tiếng Việt đầu tiên kêu gọi dân chủ, ân xá chính trị phạm và biểu thị sự ủng hộ với chính phủ mới của Mặt trận Bình dân Pháp. Đó là một thắng lợi rất lớn. Giáp và các bạn không đủ tiền để in báo với số lượng lớn đủ thỏa mãn yêu cầu của bạn đọc. Tuy nhiên, ra đến số 5, tờ báo bị chính quyền thuộc địa ra lệnh đình bản. Không nản chí, Giáp quyết định không nhượng bộ trước đòi hỏi của nhà cầm quyền. Người ta nói với ông không được ra báo tiếng Việt nhưng không ai ngăn cản ông ra báo tiếng Pháp. Báo Hồn trẻ Tập mới phải đóng cửa, nhưng ngày 16/9/1936, báo Le Travail (Lao động) bằng tiếng Pháp ra mắt độc giả, do Võ Nguyên Giáp làm chủ bút. Hai tuần sau, một người bạn của Giáp đến tòa soạn. Đó là Đặng Xuân Khu, lấy bí danh là Trường Chinh, người rất có ấn tượng về hoạt động của Mao ở Trung Quốc. Ông vừa mới ra khỏi nhà tù Sơn La nơi ông bị giam giữ từ năm 1930 vì hoạt động chống thực dân Pháp. Ông về Hà Nội làm báo, lấy bút danh là Qua Ninh. Giáp tiếp nhận ngay vào tòa soạn Le Travail. Con người này sẽ trở thành một trong số những nhân vật có trọng trách trong Đảng và là ủy viên Bộ Chính trị dưới cái tên Trường Chinh. Đầu năm 1937, thành phần ban biên tập tờ Le Travail được mở rộng khi có thêm Phạm Văn Đồng sau này sẽ là Thủ tướng trong suốt 30 năm. Đồng cũng như Giáp đã học Trường Quốc học Huế. Năm 1931 Phạm Văn Đồng bị Pháp bắt và đưa đi đày ở Côn Đảo đến năm 1937. Từ đó, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp làm việc cùng nhau tại tòa soạn báo Le Travail. Võ Nguyên Giáp rất tò mò về những câu chuyện mà Trường Chinh và Phạm Văn Đồng kể. Họ là những người cộng sản có quá trình thâm niên hoạt động cách mạng, và những câu chuyện của họ về lòng tận tụy hy sinh, về kỷ luật và trật tự, về mục tiêu và phương pháp của Đảng đã cuốn hút Giáp. Giáp càng nghe họ nói càng thấy đảng Tân Việt không thỏa mãn được mong muốn của mình. Ngay cả cánh cộng sản trong đảng Tân Việt có thời gian ông đã giúp sức tổ chức cũng thấy không còn mấy hấp dẫn đối với ông. Võ Nguyên Giáp muốn hoạt động một cách tích cực chống lại người Pháp, và Trường Chinh, Phạm Văn Đồng sẽ đem lại cơ hội cho ông nếu ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Thành lập tháng 2/1930 dưới cái tên Đảng Cộng sản Việt Nam, đảng đã đổi tên theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản ở Matxcova bởi lẽ những người cộng sản Xô Viết nghĩ rằng người cách mạng Việt Nam không đủ mạnh để lật đổ chế độ thuộc địa Pháp. Họ cần phải liên minh với những người cộng sản Lào và Campuchia để lập ra một đảng cộng sản đại diện cho toàn bán đảo Đông Dương. Bị đàn áp khốc liệt, gần như bị hủy diệt sau phong trào Xô Viết năm 1930 - 1931, những người cộng sản Việt Nam còn sống sót trong thời kỳ Mặt trận Bình dân lên cầm quyền ở Pháp từ 1936 đến 1939 đã cơ cấu lại tổ chức đảng và lấy lại vị trí hàng đầu trong công cuộc chống lại ách thuộc địa ở Việt Nam. Năm 1937, sự lựa chọn mới đến với Giáp, ông hăng hái gia nhập hàng ngũ đảng cộng sản. Quá khứ đã giúp Võ Nguyên Giáp có niềm hi vọng về tương lai. Nhờ đọc cuốn sách của Pierre Gourou về người nông dân xứ Bắc Kỳ, Võ Nguyên Giáp đã nghiên cứu và hiểu được điều kiện cũng như cách hành xử của nông dân Việt Nam. Ban đầu là sinh viên, sau là thầy giáo dạy sử, ông hiểu thấu đáo lịch sử và nhân dân nước ông. Suy nghĩ về cuộc nổi dậy của Tây Sơn năm 1771 và mới đây là cuộc nổi dậy không thành của Việt Nam Quốc dân Đảng ở Yên Bái, ông hiểu rõ cuộc nổi dậy chỉ có thể thành công khi kết hợp được việc ủng hộ chính trị của quần chúng với chiến thuật bất ngờ, linh hoạt, cùng lực lượng quân sự chiến lược. Khi quan điểm chính trị đã được xác định rõ ràng, Võ Nguyên Giáp làm việc ở tòa soạn báo Le Travail một cách thận trọng và nghiêm túc, ngày càng có hiệu quả hơn. Một lần ông rong ruổi đạp xe đi từ Hà Nội đến Cẩm Phả phía bắc Hải Phòng để lấy tài liệu viết phóng sự về cuộc đình công của thợ mỏ. Cùng với Trường Chinh (Đảng Cộng sản đã phái Phạm Văn Đồng lấy bí danh Lâm Bá Kiệt đi Hoa Nam), Võ Nguyên Giáp lập thêm nhiều tờ báo khác ra bằng tiếng Việt hoặc tiếng Pháp. Nhờ ảnh hưởng của Mặt trận Bình dân lên cầm quyền ở Pháp lan rộng sang tận Đông Dương, nên nhà cầm quyền thuộc địa buộc phải nới lỏng chính sách kìm kẹp, các hoạt động chính trị được phép hoạt động công khai tuy còn hạn chế, trong đó có việc xuất bản nhiều tờ báo có xu hướng quốc gia. Võ Nguyên Giáp dành nhiều thời gian hơn cho việc viết báo. Ai mà biết còn được tự do ra báo, ra sách đến bao giờ? Ít nhất đã có 11 tờ báo hàng tuần được Võ Nguyên Giáp và Trường Chinh cho ra mắt để rồi đình bản khi nhà cầm quyền cảm thấy bị khiêu khích. Võ Nguyên Giáp còn viết bài cho ba tờ báo khác và ít nhất tham gia vào ban biên tập của hai tờ nữa. Vào thời “tự do” của năm 1937, Võ Nguyên Giáp được cử làm đại biểu tại Đại hội Báo chí Trung Kỳ và Chủ tịch Đại hội Báo chí Bắc Kỳ lần thứ nhất. Không có gì đáng ngạc nhiên khi ông cảmthấy bị chìm ngập trong hàng đống công việc. Trong 7 tháng tồn tại, báo Le Travail của Võ Nguyên Giáp ra được 30 số. Đến thời điểm đó, ông đã hiểu rõ mọi mặt của nghề báo. Ông viết xã luận và viết bài về các sự kiện quan trọng đang diễn ra rồi ông lại đăng lại các mẩu tin ngắn để viết bình luận, tiến hành điều tra và viết phóng sự về các đề tài khác nhau có liên quan đến chủ nghĩa thực dân, đi từ in đá đến in máy quay, rót mực vào rulô rồi quay cho máy chạy, nhiều lần ông tự tay dập các bản mẫu các trang báo. Cáng đáng tất cả các công việc quả là quá sức một con người. Khi ban lãnh đạo Đảng giao công việc khác cho Trường Chinh và Phạm Văn Đồng, họ phải đi xa Hà Nội một thời gian thì chỉ còn một mình Võ Nguyên Giáp đảm nhận mọi công việc ở tòa báo. Ông làm việc từ 6 giờ tối đến 6 giờ sáng, viết và sắp bài cho các báo hàng tuần đôi khi dày tới 48 trang. Ngủ ít, ăn qua loa bữa điểm tâm, rồi ông chạy vội đến Trường Thăng Long cho kịp giờ lên lớp. Tại đây ông truyền bá không biết mệt những ý tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin qua các bài giảng trên lớp, trong các buổi trò chuyện với học sinh, với đồng nghiệp. Đúng là một con người năng động hiếm có! Hàng chuỗi công việc trải nhiều ngày liền như thế khiến ông cạn kiệt sức lực. Ngày 16/4/1937, nhà cầm quyền ra lệnh đóng cửa tòa soạn báo Le Travail. Năm 1938, Trường Chinh và ông, với nhịp điệu làm việc hợp lý hơn, cùng lao vào một công việc quan trọng khác đó là viết một công trình nghiên cứu gồm 2 tập về nông thôn Việt Nam được xuất bản với nhan đề Vấn đề dân cày 1937 - 1938. Cả hai tác giả đều ký bút danh, Võ Nguyên Giáp lấy bút danh Vân Đình và Trường Chinh lấy bút danh Qua Ninh. Cả hai người đều cho rằng cuộc cách mạng cộng sản phải dựa trên nền tảng giai cấp nông dân đồng thời là giai cấp vô sản. Tác giả William Burchett, một người luôn bênh vực mọi luận thuyết cộng sản, miêu tả cuốn Vấn đề dân cày 1937 - 1938 là sự “phân tích bậc thầy”, “một công trình nghiên cứu xuất sắc”, trở thành “nền tảng cho chính sách của Đảng Cộng sản, sau đó là của Việt Minh đối với giai cấp nông dân”. Khoảng năm 1939, Võ Nguyên Giáp đã có vị trí nhất định trong hàng ngũ lãnh đạo của tổ chức cộng sản. Các đảng phái khác đang tan rã, đảng viên tan tác, những người lãnh đạo bị bắt, bị tra tấn hoặc bị xử tử. Nhờ các trung tâm đào tạo ở Liên Xô cũng như ở Trung Quốc, những người cộng sản có thể thay thế người lãnh đạo của họ dễ dàng hơn so với các đảng phái khác không có được sự giúp đỡ từ bên ngoài như vậy. Ngoài Hồ Chí Minh, còn có tên khác là Nguyễn Ái Quốc hiện đang ở Liên Xô, còn lại chỉ có hai người có thể khẳng định họ chiếm các vị trí then chốt trong bộ máy tổ chức của Đảng. Một là Phạm Văn Đồng, là người nhiều hơn Võ Nguyên Giáp 6 tuổi. Người kia là Trường Chinh có nhiều năm thử thách trong nhà tù. Nếu không rơi vào tay nhà đương cục Pháp một lần nữa, Võ Nguyên Giáp hẳn có tương lai rất nổi bật. Việc Võ Nguyên Giáp nhanh chóng khẳng định được vị trí của mình là nhờ vào những nỗ lực vượt bậc của ông, bên cạnh đó là một chút may mắn. Ông đang ở tuổi cường tráng và đã qua con đường học vấn trong những năm tạm lắng, không bị trở ngại vì những cuộc nổi dậy, vì sự chiếm đóng của Nhật hay vì sự đàn áp của Pháp. Ông vừa tham gia công tác cho Đảng lại vừa đi học. Ông kiếm sống bằng những bài viết của mình cho Đảng, qua đó được các cấp bộ đảng đánh giá cao. Những đảng viên khác không được sáng suốt như thế trong việc phân tích những yêu cầu của Việt Nam. Trong cương lĩnh chính trị của họ không có điểm nào nói về vai trò của giai cấp nông dân trong khi những người cộng sản đã biết bài học từ cuộc nổi dậy của nông dân Nghệ Tĩnh từ những năm 1930. Những người cộng sản biết dựa vào các tổ chức quần chúng trong cả nước, biết được thời điểm nào là thuận lợi để có thể giành được sự ủng hộ của quần chúng cần thiết cho sự nghiệp của họ. Vì vậy, trong lúc Võ Nguyên Giáp và Đảng Cộng sản làm việc để chuẩn bị cho tương lai, ông không ngừng tranh thủ sự tín nhiệm của tổ chức. Suốt một thời gian dài, ông chểnh mảng với cuộc sống riêng của mình. Tranh thủ lúc bớt bận rộn, ông đã nghĩ đến chuyện xây dựng hạnh phúc riêng. Đó là vào năm 1939 ở tuổi 28, Võ Nguyên Giáp trở lại Vinh và xin cưới Quang Thái làm vợ. Trên nhiều phương diện, họ tìm hiểu và yêu nhau vì có chung một lý tưởng. Theo Võ Nguyên Giáp kể lại, “cả hai cùng chung một niềm tin, cùng đặt hy vọng vào một sự nghiệp chung”. Giáo sư Đặng Thai Mai, ân nhân của Võ Nguyên Giáp tán thành việc hôn nhân này. Tháng 3/1939 hai người làm lễ thành hôn. Cô dâu Quang Thái, người nhỏ nhắn, trong ngày cưới mặc chiếc áo dài màu đỏ thêu, chiếc quần dài trắng, đầu vấn khăn vành dây truyền thống gắn vòng kim tuyến vàng óng. Ở thời đó cũng như bất cứ thời nào về sau, Võ Nguyên Giáp không nói ra ngoài với ai cuộc sống của ông với Quang Thái ra sao. Cũng giống như mọi người khác, thường dè dặt ít kể về việc riêng tư của mình. Tuy nhiên, các bạn thân của ông trong những năm sau đó thường nhận xét rằng thời kỳ tiếp theo cuộc hôn nhân đó là thời kỳ hạnh phúc nhất trong đời ông. Không kể những ngày dạy học ở Trường tư thục Thăng Long, ông gắn bó cuộc sống của mình với Đảng cũng như với Quang Thái. Ngôi nhà riêng của đôi vợ chồng trẻ ở ngay cạnh Trường Thăng Long, thường là nơi gặp gỡ chung của các đồng chí trong Đảng để bàn công việc của Đảng. Giáp và vợ thường đóng vai trò chủ tiệc mỗi khi có cuộc gặp gỡ các đồng chí phụ trách của Đảng. Các điều kiện hoạt động chính trị cũng không phải lúc nào cũng như thế. Khi Leon Blum làm Thủ tướng cùng với Mặt trận Bình dân nắm quyền ở Pháp, những người yêu nước có xu hướng quốc gia đủ các màu sắc đều có nhiều thuận lợi để hoạt động. Jules Brevié được Leon Blum cử làm Toàn quyền ở Đông Dương (1937 - 1939) đã thả chính trị phạm, tự do hóa luật báo chí và cho các đảng quốc gia được hoạt động hợp pháp hoặc ít nhất cũng là bán hợp pháp. Đầu năm 1939 nhiều người chống lại chính quyền thuộc địa khấp khởi hy vọng tương lai sẽ còn đem lại cho họ nhiều cơ hội khác để thúc đẩy sự nghiệp của họ tiến lên. Nhưng họ sẽ thất vọng. Mùa hè năm 1939, chính phủ Blum đổ, Daladier lên thay và tại Đông Dương Georges Catroux, một sĩ quan nhà nghề thay Brevié từ tháng 8/1939. Ngày 1/9, Đức chiếm Ba Lan và những ngày hòa bình ở châu Âu nhường chỗ cho cuộc chiến tranh kéo dài sáu năm và lan rộng khắp thế giới. 25 ngày sau, ngày 26/9 chính phủ Pháp cấm Đảng Cộng sản hoạt động ở Pháp cũng như ở hải ngoại và phát lệnh bắt giữ hầu hết những người lãnh đạo quan trọng nhất của đảng. Tại Việt Nam trên một nghìn đảng viên cộng sản không kịp rút vào bí mật, bị bắt trở lại nhà tù. Võ Nguyên Giáp, Quang Thái, Phạm Văn Đồng lo ngại tự hỏi rằng chính họ có thoát được cuộc vây ráp của cảnh sát không? Họ cố không làm gì để mật thám để ý. Võ Nguyên Giáp kể lại: “Mỗi một động thái của tôi đều bị mật thám giám sát chặt chẽ như hồi trước đây khi chúng tôi còn hoạt động báo chí công khai cho Đảng ở Hà Nội”. Có thể cặp vợ chồng mới cưới này phải tạm lánh xa Hà Nội hoặc quay về Trung Kỳ để tránh mọi sự dò xét của cảnh sát. Lực lượng Đức thay đổi nhanh chóng bộ mặt châu Âu. Cuộc xâm lăng Ba Lan mau chóng trở thành thắng lợi của bọn quốc xã. Chỉ trong vòng ba tháng, chính phủ Warsaw sụp đổ. Rồi mấy tháng sau cuộc chiến tranh chớp nhoáng trở thành cuộc chiến tranh kỳ cục, một cuộc chiến tranh bao vây chống lại các nước dân chủ phương Tây trong khi các hoạt động quân sự thu hẹp thành các cuộc giao chiến bằng tàu ngầm, các cuộc bắn phá bằng máy bay tiến công các căn cứ hải quân hay các trận giao chiến ngẫu nhiên giữa các hạm đội hai bên. Mùa xuân năm 1940, một lần nữa Đức lại tiến công. Lần này là Na Uy, Đan Mạch, Bỉ, Hà Lan và Pháp bị đè bẹp. Pháp đề nghị ngừng bắn. Đức nhận ngừng chiến với điều kiện để lại một phần nước Pháp không bị chiếm đóng. Thống chế Pétain, người anh hùng dân tộc của Pháp thời Chiến tranh Thế giới thứ nhất, thành lập ở Vichy một chính phủ trung thành với Berlin. Đồng minh của Đức ở Thái Bình Dương không án binh bất động. Tháng 11/1939 đế quốc Nhật tấn công Trung Hoa đang chao đảo mà Tưởng Giới Thạch thấy chỉ còn hai con đường tiếp nhận viện trợ từ bên ngoài: một là đường Burma[1], hai là đường sắt Hà Nội - Côn Minh. Sau khi Paris thất thủ, nước Pháp sụp đổ và Chính phủ Vichy thành lập, Toàn quyền Catroux cố giữ vẻ ngoài Đông Dương vẫn nằm dưới sự kiểm soát của Pháp. Trước sức ép của Nhật đòi những đặc quyền về quân sự cho quân đội của chúng ở Đông Dương, Catroux cố thuyết phục Hoa Kỳ gửi quân sang Đông Dương can thiệp. Franklin D. Roosevelt từ chối. Một lần nữa Nhật lại lấn tới. Cuối tháng 9 chúng đòi quyền cho quân đội đi qua Bắc Kỳ để đánh Trung Quốc từ phía nam. Cuối cùng Catroux phải nhượng bộ trước yêu sách của Nhật vì lúc đó ông ta không còn sự lựa chọn nào khác. Ông ta ít nhiều bị Chính phủ Vichy chỉ trích mặc dù chính phủ này đã đầu hàng Đức Quốc xã. Catroux bị triệu hồi về Pháp. Ông rời khỏi Đông Dương tháng 7/1940 nhưng không về Vichy chịu tội mà chạy theo phái De Gaulle đang kêu gọi chống Đức, rồi Jean Decoux, tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương của Pháp, thay thế Catroux làm Toàn quyền Đông Dương từ năm 1940 đến 1945. Bộ trưởng Ngoại giao của Chính phủ Vichy ra lệnh cho Decoux cho phép Nhật lập ba căn cứ không quân ở Việt Nam với 6.000 quân đồn trú. Cùng ngày, mặc dù thỏa thuận đã ký, nhưng Nhật vẫn tấn công hai đồn binh của Pháp ở Đồng Đăng và Lạng Sơn. Hai ngày sau, Lạng Sơn đầu hàng và hôm sau toàn cuộc kháng cự của Pháp nhanh chóng tan vỡ. Không phải 6.000 quân như hiệp định đã ký mà là 35.000 quân Nhật được gửi sang Đông Dương nhưng vẫn duy trì sự kiểm soát “ảo” của Pháp với các viên chức thực dân và bộ máy cai trị thuộc địa, song tất cả đều đặt dưới sự giám sát chặt chẽ của quân Nhật. Như vậy, trong suốt cuộc chiến tranh, các nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương đã hợp tác với người Nhật. Pháp cung cấp cho Nhật một số lượng lớn gạo, than, cao su và nhiều nguyên liệu khác. Decoux cố gắng nuôi dưỡng ảo tưởng rằng nước Pháp nắm quyền cai trị Đông Dương, nhưng những người dưới quyền đều sớm nhận ra có một nước châu Á đã làm mất mặt nước Pháp. Chính điều này hoàn toàn thủ tiêu câu chuyện hoang đường về tính không thể thất bại của người da trắng, huyền thoại ấy đã đứng vững gần một thế kỷ ở Việt Nam. Tại miền Nam Việt Nam càng ngày càng có nhiều người có tình cảm thân Nhật, trong khi tại miền Bắc nhiều người bị cuốn hút vào hoạt động của những người yêu nước theo xu hướng quốc gia hoặc cộng sản. Nhưng thời gian qua đi, ngay ở miền Nam, phần lớn người dân cũng từ chối đứng về phía Nhật Bản. Võ Nguyên Giáp và Quang Thái tỏ ra kín đáo, thận trọng, cố gắng sống bình thường như mọi người. Tháng 5/1939, bốn tháng trước khi chiến tranh nổ ra trên cánh đồng Ba Lan, Quang Thái có thai. Càng gần đến ngày sinh, vào mùa xuân năm 1939 hai vợ chồng thường nói với nhau về đứa con sắp sinh và về tương lai của nó sau này. Ngày 4/1/1940, Quang Thái sinh hạ một bé gái và họ đặt cho con cái tên xinh đẹp là Hồng Anh. Như mọi cặp vợ chồng trẻ khác, cả hai đều rất hài lòng và hạnh phúc. Những ngày thanh bình đó chỉ kéo dài vài tháng. Tháng 9/1939, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã quyết định thành lập Mặt trận Thống nhất phản đế và đặt ưu tiên vào việc giải phóng Việt Nam khỏi ách thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc sau này trở thành Hồ Chí Minh hiện đang ở Trung Quốc và đã bắt đầu liên lạc với Ban chấp hành Trung ương Đảng. Mặc dù Quốc Dân đảng Trung Hoa của Tưởng Giới Thạch kiểm soát về danh nghĩa nước Trung Hoa, nhưng đất nước rộng lớn này đang ở trong tình trạng gần như vô chính phủ - một vùng đất thu hút những người cách mạng và bọn phản động đủ loại. Cũng vì vậy Nguyễn Ái Quốc ở đây còn cảm thấy tương đối an toàn. Theo lời khuyên của Nguyễn Ái Quốc, tháng 4/1940, Ban Chấp hành Trung ương quyết định cử Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng sang Trung Quốc. Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ Hoàng Văn Thụ gặp riêng Võ Nguyên Giáp để ra lệnh lên đường. Họ tính đến khả năng sẽ phát động một phong trào du kích bên trong Việt Nam. Võ Nguyên Giáp cho Quang Thái biết dự định của mình. Cô rất phấn khởi đòi được đi với chồng sang Trung Quốc. Võ Nguyên Giáp phản đối, cho rằng như vậy càng gây thêm khó khăn, chuyến đi phải giữ hoàn toàn bí mật. Nếu chỉ có hai người, chuyến đi có thể không gặp nguy hiểm nhưng nay nếu đi cả bốn người thì tình hình sẽ khác. Có thể gây nguy hiểm cho bé Hồng Anh và điều gì sẽ xảy ra nếu khi đi đường bé bị ốm. Đảng đã quyết định cho họ. Quang Thái và chị là Minh Khai sẽ ở lại Việt Nam tiếp tục giữ liên lạc. Chỉ có Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp lên đường. Tình hình càng phức tạp vì lúc đó Phạm Văn Đồng đang ốm và Võ Nguyên Giáp biết rằng sẽ khó mà đi tự do, theo con đường công khai mà không bị mật thám phát hiện. Họ chuẩn bị hành trang rất kỹ và hoàn toàn bí mật. Họ cũng hy vọng Quang Thái sẽ nhanh chóng tìm được một nơi chắc chắn để nhờ trông giữ cháu Hồng Anh để Thái có thể toàn tâm, dốc sức vào hoạt động bí mật. Võ Nguyên Giáp và Quang Thái chia tay nhau trên bờ hồ Tây vào một buổi chiều thứ Sáu, ngày 3/5/1940. Nếu đợi dạy đến hết tuần ở Trường Thăng Long thì Võ Nguyên Giáp sẽ có cả ngày thứ Bảy và Chủ nhật để đi lên biên giới phía bắc. Đợi đến sáng thứ Hai khi Giáp vắng mặt ở trường, người ta mới bắt đầu đặt vấn đề và ngay cả lúc đó, cũng phải mất vài tiếng nữa cảnh sát mới biết tin và ra lệnh báo động thì lúc đó Giáp đã đi xa rồi. Võ Nguyên Giáp rời khỏi trường học như thể đi chơi cuối tuần như thường lệ. Ông kể lại: “Quang Thái, bé Hồng Anh đợi tôi ở đường Cổ Ngư, ngày nay là đường Thanh Niên”. Bế con trên tay hai người sóng đôi theo hồ như mọi người đi dạo mát. Võ Nguyên Giáp đeo kính đen để học trò không nhận ra. Hai người thong thả bước bên nhau, cố giữ thái độ ung dung bình thường như một cặp tình nhân. Điều này đối với Võ Nguyên Giáp không khó nhưng với Quang Thái hẳn là không dễ. “Em hãy ráng tìm người tin cậy gửi con, để có thể rút vào bí mật”. Võ Nguyên Giáp tâm sự với vợ, đặt lên hàng đầu yêu cầu của Đảng. Quang Thái trong tâm trạng bị giằng xé giữa cơn xúc động làm mẹ và sự trung thành với Đảng, cô không cầm được nước mắt, bật tiếng khóc. Một mặt xa chồng mà cô đã tỏ ý muốn đi theo để cùng hoạt động chống Pháp, mặt khác phải ở lại tìm nơi gửi con. Vừa là mẹ lại vừa là người cách mạng, đó là một trách nhiệm quá nặng nề đối với một phụ nữ trẻ tuổi. Họ thong thả quay trở lại đi theo đường Cổ Ngư rồi chia tay nhau xa dần, mỗi người một con đường. Võ Nguyên Giáp bước sang một khúc quanh lớn trong cuộc đời đầy gian lao nguy hiểm. Còn Quang Thái gạt nước mắt quay về nhà với ý định đi tìm nơi ẩn náu chắc chắn cho bé Hồng Anh. Họ sẽ không bao giờ gặp lại nhau nữa. Võ Nguyên Giáp và Quang Thái đã hi sinh hạnh phúc riêng của mình vì lòng yêu nước và lý tưởng chung. Sau khi Võ Nguyên Giáp đi xa và gửi được con, Quang Thái cùng với Minh Khai vội vã đi khỏi Hà Nội trở về làng ở Vinh. Bị cảnh sát truy lùng, Minh Khai bị bắt tháng 7/1940. Trong tù cô bị tra tấn một cách dã man để ép khai ra những tin tức về Đảng Cộng sản và hoạt động của Đảng. Tuy vô cùng đau đớn nhưng cô không hề hé ra nửa lời. Bọn cai ngục đã bịt mắt cô và đem bắn tại Hóc Môn gần Sài Gòn, ngày 25/4/1941. Lời nói cuối cùng của cô là “Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm! Cách mạng Việt Nam thắng lợi muôn năm!” Quang Thái trốn thoát được sự truy lùng của cảnh sát cho đến tháng 5/1941 thì cũng bị mật thám Pháp bắt tại Vinh, thành phố quê hương cô, trong lúc cô đang đợi giờ phút chót chia tay bé Hồng Anh. Trước khi bị bắt, cô đã kịp giao con gái mới một tuổi rưỡi cho cô em, để thu xếp gửi bé về cho ông bà nội ở An Xá trông hộ. Trong nhiều năm ông bà đã nuôi dưỡng chăm sóc cháu nội như cha mẹ nuôi con. Người Pháp đưa Quang Thái về giam tại nhà tù Hỏa Lò ở Hà Nội. Nhiều năm sau, chính nơi này được phi công Mỹ bị bắt đặt biệt danh là Khách sạn Hilton Hà Nội. Quang Thái bị đem ra xử ở tòa án binh vì âm mưu chống lại an ninh của nước Pháp và bị kết án khổ sai chung thân. Điều bọn ác ôn đã làm với người chị cũng được đem ra thi hành với người mẹ trẻ dũng cảm này. Bị tra tấn đến tận cùng, không chịu nổi đau đớn lâu hơn nữa, Quang Thái đã tự tử, theo một số người kể lại, bằng cách nuốt một dải lụa mềm đến nghẹt thở.[2] Theo một báo cáo khác của mật vụ Mỹ thì có một kết cục khác. Người Pháp đã buộc hai ngón tay cái treo người cô lên và đánh cho đến chết. Dù giải thích như thế nào thì Quang Thái đã hy sinh năm 1941 chỉ vài tuần sau khi Minh Khai bị xử bắn. Trong nhiều năm gia đình Võ Nguyên Giáp còn phải chịu nhiều nỗi đau đớn do người Pháp gây ra. Hồng Anh còn nhớ cái chết của ông nội Cửu Nghiêm. Năm 1947, khi Pháp trở lại chiếm đóng tỉnh Quảng Bình, nhiều người dân chạy trốn, Hồng Anh viết: “Ông tôi không chạy đi đâu cả…, ông nói tao già rồi, tao không làm điều gì phi pháp hay có hại cho ai. Ông còn nói ông còn rất nhiều việc phải làm”. Hồng Anh cũng kể lại cô cũng đã phải chạy trốn như thế nào: “Bọn trẻ chúng tôi được người lớn để vào trong thúng rồi gánh đi”. Cô cũng nhớ cái thúng đong đưa theo nhịp chân bước của người gánh. Cô ghi lại: “Tôi không bao giờ gặp lại ông nội nữa”. Mặc dù Hồng Anh không gặp lại ông nội được nữa nhưng Giáp đã cố gắng để gặp cha mình. Năm 1946, trong một dịp đi họp qua An Xá, Võ Nguyên Giáp rẽ về thăm nhà để đoàn tụ với gia đình. Tháng 8/1947 ông Cửu Nghiêm bị Pháp bắt trong cuộc hành quân mở rộng sự kiểm soát ra toàn xứ Trung Kỳ sau khi đã tái chiếm Huế. Ông Cửu bị giam ở nhà lao Huế không xa Trường Quốc học. Bọn cai ngục yêu cầu ông công khai tố cáo hoạt động của con trai. Ông cụ từ chối, Hồng Anh kể lại: “Ông bị chúng tra tấn. Một trong những nhục hình là dùng dây thừng buộc vào cái thanh đỡ va chạm sau xe ôtô rồi cho xe kéo lết đi”. Cuối cùng bị kiệt sức vì những đối xử tàn bạo, ông mất tháng 11/1947. Võ Nguyên Giáp không có cách gì để cứu cha. Lúc này Võ Nguyên Giáp đang ở Việt Bắc, như Hồng Anh đã nhận xét, thi thể ông Cửu bị vùi chung trong một cái hố, gia đình không biết chắc ở chỗ nào mà tìm. “Mãi về sau này nhờ các chú rất dũng cảm (những người Võ Nguyên Giáp cử về) gia đình mới tìm thấy hài cốt đem về mai táng trong nghĩa trang liệt sĩ ở quê nhà”. Nếu phải biết vì sao Võ Nguyên Giáp hun đúc chí căm thù chống thực dân đến như thế thì chuyện người cha bị tra tấn đến chết cũng đủ để lý giải. Mọi cách cư xử của người Pháp đối với Võ Nguyên Giáp và gia đình ông không có gì là khác thường, là ngoại lệ. Cảnh sát và bọn cai ngục Pháp sẵn sàng dùng bất kể phương pháp gì để thuyết phục tù nhân của họ phải nói, kể cả bắt uống no nước rồi giẫm chân lên bụng cho nước bắn ra qua mũi, tai, v.v…, tra điện, nhổ móng tay, móng chân và các hành động man rợ khác. Đối với phụ nữ, họ dùng dòng điện cắm vào chỗ kín mà nhiều người khi ra tù không ai không chịu di chứng, ảnh hưởng đến thiên chức của nữ giới. Bọn cai ngục còn dùng lươn là loài vật có răng nhọn đưa vào họng hay âm đạo họ. Trong các vùng mềm và ẩm đó, con lươn cố vẫy vùng để thoát ra ngoài bằng cách cắn vào thịt nạn nhân. Bọn ác ôn nhìn nạn nhân quằn quại vì những vết cắn và luồng điện giật mạnh. Một lúc sau chúng rút các con lươn ra và bắt đầu cuộc thẩm vấn. Đôi khi có những sự kháng cự rất anh hùng. Một nữ tù nhân hấp hối để giữ vững khí tiết, không khai, đã cắn lưỡi tự vẫn và theo như mọi người kể lại chị đã nhổ cái lưỡi đỏ lòm máu vào bọn thẩm vấn. Năm 1982, Will Brownell, Giám đốc dự án Thư mục về Việt Nam ở Trường Đại học Colombia đã phỏng vấn tướng Raoul Salan - một trong những tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Ông viết: “Những đòn tra tấn đối với người vợ (của Giáp) đã được khẳng định trong cuộc trò chuyện với Raoul Salan. Ông ta không ưa Tướng Giáp và không khâm phục Tướng Giáp, nhưng ông ta thừa nhận những tội ác chống lại Giáp. Ông ta thừa nhận có áp dụng tra tấn nhưng ông ta cố lẩn tránh bằng cách ghi nhận có áp dụng các tra tấn nhưng do thuộc quyền người Việt tiến hành chứ không phải do người Pháp... Tướng Massu cũng thừa nhận như thế trong cuộc nói chuyện tháng 6/1974”. Lúc đầu khi người Pháp bắt vợ và chị vợ, Võ Nguyên Giáp không biết các hiểm nguy mà hai người phụ nữ đã phải chịu. Lúc này ông đang lên đường đi Trung Quốc, vừa mới rời bỏ công việc dạy học và từ biệt gia đình theo lệnh của Đảng Cộng sản để đi vào một nhiệm vụ lớn lao trong cuộc đời. Rất lâu sau đó ông mới biết tin về việc Quang Thái và Minh Khai bị bắt rồi hy sinh. Ông cũng không biết cả tình cảnh khó khăn mà cô con gái đầu lòng của ông - Hồng Anh - đã phải trải qua. Hồng Anh vừa chịu nỗi đau mất mẹ, vừa đau đớn khi phải nghe tin cha mình bị tra tấn đến chết trong nhà lao Huế. Theo nhiều người đã từng quen biết Võ Nguyên Giáp từ trước thì việc ông trở thành con người sắt đá cương nghị những năm sau không phải chỉ vì ông có tinh thần quốc gia dân tộc hoặc nhiệt tâm tin vào chủ nghĩa cộng sản mà còn do ý muốn trả thù cho những người thân của mình. Hồng Anh đã từng nói về người cha của mình với những lời lẽ đầy thương yêu: “Ông mang trong tâm hồn những vết thương mà thời gian không bao giờ có thể xóa nhòa được.” [1] Đường Burma (Burma Road) dài hàng trăm cây số, nối Trung Quốc với tây bắc Myanmar (BT). [2] Năm 1942, Quang Thái bị Pháp bắt và kết án 16 năm tù. Do sức yếu, đồng thời bị nhiễm dịch thương hàn trong nhà tù Hỏa Lò, nên chị đã mất ngày 21 tháng Giêng năm Giáp Thân tức ngày 14/2/1944 (BT). PHẦN HAI Hà Nội 1941 - 1946 “Không mềm, không ấm” Buổi sáng thứ Hai, khi học sinh tập hợp trước giờ vào lớp ở Trường Thăng Long, học trò của thầy Giáp ngạc nhiên không thấy ông đâu. Trong hành lang, từng nhóm học sinh bị kích động mạnh, xì xào kể lại cho nhau nghe những tin đồn về sự ra đi đột ngột của ông. Một vài người rỉ tai cho nhau nghe tin đồn có máy bay Nga đã đến đón ông. Một vài người khác tin rằng ông ra đi để chỉ huy một đội quân Trung Quốc mới ở vùng biên giới Việt - Trung. Một sự giải thích được nhiều người tán đồng: Ông trốn lên vùng núi ở biên giới Việt - Trung để tránh bọn Phòng Nhì. Được an toàn trong vùng núi hoang sơ này, Võ Nguyên Giáp sẽ tổ chức “hoạt động du kích” chống lại bọn Pháp mà mọi người chán ghét lắm rồi. Giải thích thế là đúng nhưng hãy còn quá sớm. Sau khi chia tay với Quang Thái và Hồng Anh trên đường Cổ Ngư, Võ Nguyên Giáp vội vã rảo bước đi xa dần. Đến chỗ hẹn, một phu kéo xe tên là Minh, người của tổ chức bí mật chạy theo một quãng. Võ Nguyên Giáp nhanh chóng bước lên xe, ngồi lọt thỏm trong thùng xe và Minh kéo xe đi loanh quanh, vòng vèo một đoạn rồi lên thẳng Chèm ở ngoại ô, một nơi an toàn để qua đêm. Ở đó Võ Nguyên Giáp gặp Phạm Văn Đồng và một đồng chí nữa lo tổ chức chuyến đi. Họ phải tách ra đi riêng từng người một và không mang theo hành lý. Hôm sau Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp ra ga Đầu Cầu lấy vé đi Lào Cai, thị xã biên giới trên đường đi Côn Minh ở Trung Quốc để gặp Nguyễn Ái Quốc. Chuyến đi của hai người sang Trung Quốc thật mạo hiểm. Nguy hiểm ở chỗ máy bay Nhật hồi này oanh tạc dữ dội tuyến đường sắt được xây dựng thời toàn quyền Paul Doumer cai trị từ năm 1897 đến 1902. Đường ray đi dọc theo thung lũng sông Hồng xuyên qua nhiều núi cao miền thượng du Bắc Kỳ, có ngọn cao tới 3.000 m. Lúc này đang mùa mưa, con sông đổ ra sông Hồng đầy nước, lũ sông Hồng bắt đầu dâng lên, nước cuồn cuộn chảy, đục ngầu, mấp mé thành cầu. Thường thường cảnh sát hay lên tàu xét hỏi giấy tờ, truy lùng những kẻ vượt biên giới trốn sang Trung Quốc. Vì vậy, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp phải hai lần xuống tàu rồi lại lên, tránh mặt bọn cảnh sát đứng ở sân ga và bậc lên xuống nhìn chằm chặp vào khách đi tàu để phát hiện những cặp mắt lo âu sợ hãi hay hoảng hốt. Hai người xuống cách Lào Cai một ga rồi lại tiếp tục đi bộ lên biên giới. Trước khi đến Lào Cai, hai người vượt qua sông Nậm Ti bằng mảng làm bằng những cây nứa ghép lại ở một bến vắng vẻ. Cuối cùng họ đã đặt chân lên đất Trung Quốc, đoạn đường cuối cùng của chuyến đi cũng không kém phần nguy hiểm so với đoạn đầu tiên. Họ lại đi về phía đường sắt đón tàu đi Côn Minh. Võ Nguyên Giáp nhớ lại cứ mỗi lần nhìn thấy nhân viên đường sắt hay bọn mật thám lên tàu tra xét giấy tờ từng người một trên toa, hai người lại phải lẩn tránh đôi mắt cú vọ của chúng. Cuối cùng họ đã đến Côn Minh. Một đảng viên của đảng bộ Côn Minh đón họ ở phía ngoài ga xe lửa và dẫn họ đến nhà một cơ sở người Việt và dặn họ đợi ở đây, đồng chí Vương sẽ đến gặp. Tuy người ấy không cho biết rõ lai lịch đồng chí Vương là ai nhưng Võ Nguyên Giáp đoán chắc đó là Nguyễn Ái Quốc và rất nóng lòng được hội ngộ. Số lượng người Việt làm ăn sinh sống ở Côn Minh khá đông, Võ Nguyên Giáp có thể hòa nhập dễ dàng với họ mà không bị ai để ý. Ông cũng chỉ là một người Việt như bao người khác. Lực lượng Trung Hoa Quốc dân Đảng thì quá bận bịu với sự xâm lược của Nhật, chẳng còn hơi sức đâu mà truy lùng những người cộng sản Việt Nam được che giấu trong số hàng vạn người Việt ở vùng biên giới phía nam này. Một vài lính hồng quân của Mao Trạch Đông cũng thấy xuất hiện trong vùng và có thể dĩ nhiên giúp đỡ ít nhiều cho họ. Còn người Nhật thì không có gì đặc biệt đáng phải bận tâm. Chúng phần lớn tập trung ở các thành phố hoặc trên các phòng tuyến, còn hậu phương của họ thì rất lộn xộn, ở đó các phe nhóm quân phiệt tha hồ tung hoành như không ai trừng phạt. Mùa xuân qua, mùa hè đã đến, nhưng đồng chí Vương vẫn chưa thấy đâu. Từ cuối năm 1939, ông lúc nào cũng bận rộn lo việc xây dựng cơ sở, thiết lập đường dây liên lạc với tổ chức cách mạng của mình trong các vùng phía nam Trung Quốc, chuẩn bị thời cơ thuận lợi để về nước. Trong thời gian này Võ Nguyên Giáp cũng không cho mình có thời gian rảnh rỗi, ông đọc sách và ghi chép lại các tài liệu. Cuộc sống khi đó lúc nào cũng náo nhiệt. Võ Nguyên Giáp kể lại: “Chúng tôi tự đi chợ và tự chia nhau nấu nướng. Đến lượt tôi do không thạo việc bếp núc, anh em phân công tôi rửa bát. Trong thời gian rảnh rỗi tôi tự đề ra nhiệm vụ học tiếng Hoa. Lúc nào ra khỏi nhà cũng phải cảnh giác vì nơm nớp sợ bọn Trung Hoa Quốc dân Đảng có thể ám sát hoặc trấn lột tống tiền”. Rồi một hôm vào đầu tháng 6 một người của tổ chức đảng đến tìm Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng và đưa họ đến bờ sông Thúy Hồ. Đồng chí Vương đã ngồi sẵn trong thuyền đợi họ. Võ Nguyên Giáp nhận ra ngay đó là đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Đồng chí Vương cất tiếng chào và nói: “Chú Đồng không già đi bao nhiêu nhỉ”, còn với Võ Nguyên Giáp, đồng chí Vương cười nói: “Còn như chú Giáp thì trông tươi như con gái”. Trong những ngày sau đó, ba người thảo luận về các vấn đề hệ trọng, về tương lai của Việt Nam. Đồng chí Vương nói từ nay đồng chí lấy tên mới là Hồ Chí Minh. Võ Nguyên Giáp thấy ở Hồ Chí Minh toát lên một tác phong bình dị, suy luận sáng suốt mà rất hấp dẫn. Ngay từ buổi gặp đầu tiên đó, Võ Nguyên Giáp viết: “Chúng tôi tưởng như đã quen nhau từ lâu”. Hồ Chí Minh thường xuyên gặp gỡ, trao đổi với Võ Nguyên Giáp và cũng coi Võ Nguyên Giáp như người em ít tuổi hơn, đồng thời đánh giá cao khả năng của Võ Nguyên Giáp. Đó là một con người có thể làm được những chuyện lớn cho chủ nghĩa cộng sản và cho đất nước. Chắc là không ai có thể biết giữa hai mục tiêu: xây dựng chủ nghĩa cộng sản và giải phóng đất nước, cái nào là ưu tiên hơn đối với Hồ Chí Minh! Rất nhanh ông nói như ra lệnh: “Chú Giáp sẽ đi Diên An học trường đảng. Nhiệm vụ là học cả quân sự”. Đối với Võ Nguyên Giáp, cuộc gặp hôm đó có mục đích giao nhiệm vụ cho ông là phải nhanh chóng học về công tác đảng đồng thời kết hợp với sinh hoạt nội trú để được đào tạo về quân sự. Sau buổi nói chuyện hôm đó, Hồ Chí Minh rời Côn Minh để đi thăm cộng đồng người Việt ở dọc con đường sắt Việt Nam. Võ Nguyên Giáp thu xếp hành lý và cùng với Phạm Văn Đồng cùng một cán bộ nữa của đảng là Cao Hồng Lĩnh rời Côn Minh đi trọn ba ngày đến Quế Dương. Cả ba người đi trên một chiếc xe tải mang dấu chữ thập đỏ của Trung Hoa Quốc dân Đảng do một đảng viên cộng sản Trung Hoa lái. Cả ba lèn chặt ở phía sau thùng xe trong đống hàng hóa, trên phủ bạt. Thời tiết bên ngoài rất nóng, không khí trong xe ngột ngạt, xe nhảy chồm chồm trên con đường đầy ổ gà và vết bánh xe. Vải bạt phủ hàng ngăn khiến họ không nhìn thấy người lái xe tải trên con đường hẹp, ngoằn nghèo không có cọc chắn bên lề. Hai bên là rặng núi cao chênh vênh ven các vực thẳm. Đó là một chuyến đi không bao giờ phai mờ trong ký ức của Võ Nguyên Giáp. Người lái xe để người ở Tổng hành dinh của Bát lộ quân - tên gọi của Hồng quân Trung Hoa tham gia chống Nhật bên cạnh lực lượng Quốc dân Đảng. Họ đợi xe đò đi tiếp đến Quế Dương. Võ Nguyên Giáp nhớ lại: “Chúng tôi phải đợi lâu đến hàng tuần, trong lòng nóng như lửa đốt”. Trong những ngày chờ đợi Võ Nguyên Giáp sống cùng với binh sĩ hồng quân trong Bát lộ quân và rất sung sướng thấy rằng tất cả mọi người từ người phụ trách ở bàn giấy đến chiến sĩ nuôi quân dưới bếp ai nấy đều biết rõ đồng chí Hồ Quang (một bí danh khác của Hồ Chí Minh). Lương thực hiếm, tiền đi chợ mua thức ăn không nhiều, Võ Nguyên Giáp học trồng rau cải thiện bữa ăn. Trong lúc chờ đợi, Võ Nguyên Giáp dành thời giờ học tập, thường dùng trụ sở của cơ sở đảng địa phương có tên gọi là Việt Nam Giải phóng quân Đồng minh. Ông say mê sách, làm công tác tuyên truyền và đi thăm nhiều đơn vị vũ trang của hồng quân Trung Hoa. Thời gian chờ đợi dài, ăn uống đạm bạc nhưng nhóm cố gắng thích nghi với ý tưởng sớm trở về Việt Nam để bắt đầu cuộc đấu tranh chống Pháp. Nhiều lần khi gặp nhau họ cất tiếng chào hô lớn: “Thời cơ đã đến”. Võ Nguyên Giáp chăm chỉ nghiên cứu chiến thuật, chiến lược, các vấn đề trang thiết bị, huấn luyện, tuyển quân. Năm 1941, theo một nguồn tin ông đã có dịp đến thăm Mao Trạch Đông ở Nam Trung Quốc và rất ấn tượng với những gì mắt thấy tai nghe. Võ Nguyên Giáp đã tự đào tạo về chiến lược, chiến thuật qua nghiên cứu một đội quân cũng chỉ được trang bị yếu kém, thiết bị lạc hậu và chỉ huy là những người không tên tuổi: những người chăn ngựa, những người trí thức không qua trường lớp quân sự, nhưng đội quân đó đã đủ sức chống chọi với lực lượng quân đội của những nước lớn, đó chính là đội quân của những người cách mạng Pháp xuất thân từ nông dân nghèo khổ trong những chiến dịch đầu tiên của Napoleon. Giờ đây Võ Nguyên Giáp lĩnh hội được nhiều điều về Mao Trạch Đông và quân đội cách mạng. Ông như bị thôi miên về các trước tác quân sự của Mao Trạch Đông như cuốn Các vấn đề chiến lược của chiến tranh chống Nhật viết năm 1938. Ông thấy những vấn đề mà Mao Trạch Đông nêu ra và giải quyết cũng là những vấn đề của người Việt Nam. Võ Nguyên Giáp cũng đọc Cuộc đấu tranh ở Tỉnh Cương Sơn xuất bản năm 1928 trong đó vấn đề xây dựng lực lượng du kích đã được giải quyết như thế nào ở Trung Quốc. Võ Nguyên Giáp còn đọc Chiến tranh du kích do Mao Trạch Đông viết năm 1937. Những kinh nghiệm trước đây của Mao Trạch Đông đã ảnh hưởng không nhỏ đến Võ Nguyên Giáp. Dĩ nhiên là cần phải học hỏi từ cuộc cách mạng vô sản ở Trung Quốc để áp dụng những bài học đó trong hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam. Qua nguồn thông tin đó, Võ Nguyên Giáp đã thấy được hai quan điểm về chiến tranh nhân dân mà ông sẽ phải bổ sung bằng những quan sát và cảm nhận của riêng mình. Rút cục, ông đã sáng tạo ra một hình thức mới của chiến tranh du kích nông dân. Cuộc chiến tranh này tất yếu sẽ dần dần lan rộng khắp vùng nông thôn Việt Nam, đồng thời tiến hành những cải cách cần thiết mà không làm chậm thắng lợi cuối cùng. Ông cho rằng những quan điểm của mình không phải lặp lại nguyên xi những lý thuyết của Mao Trạch Đông dứt khoát cho rằng không thể phát động một cuộc khởi nghĩa ở các vùng đô thị bị địch chiếm đóng. Trái lại, ông cho rằng: “Tại các vùng đô thị, đấu tranh chính trị chiếm ưu thế còn ở vùng nông thôn thì đấu tranh vũ trang phải là chủ đạo… Chúng ta đã kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự, ngoại giao”. Ông đã lấy nghệ thuật tiến công kiểu Napoleon làm của mình, tức là biết tiến công địch trên nhiều mặt trận, quan tâm đến việc chia cắt lực lượng địch rồi lần lượt đánh bại từng bộ phận lực lượng đối phương bằng những cuộc tiến công chớp nhoáng. Ông tập trung người và phương tiện chiến đấu đánh vào trung tâm của địch. Và ông đã chiến thắng! Khi thế lực của người Nhật ngày càng gia tăng ở Đông Dương, thì trong con mắt những người theo xu hướng quốc gia và những người cộng sản, nước Pháp chỉ còn duy trì ở Việt Nam quyền lực trên danh nghĩa. Võ Nguyên Giáp tin rằng kẻ thù chính không phải là quân đội chiếm đóng của Nhật Bản. Ông tin rằng cuối cùng lực lượng Đồng minh sẽ đè bẹp lực lượng phe Trục (Đức, Ý, Nhật) và người Pháp sẽ trở lại tái chiếm Đông Dương, đặt lại nền thống trị của họ. “Không ai thấy sói bỏ đàn cừu chừng nào chúng chưa no nê hoặc chừng nào người ta không lấy súng đánh đuổi chúng”. Đó là câu tục ngữ luôn luôn trở lại trong trí nhớ Võ Nguyên Giáp trong những ngày gian khổ sống lưu vong ở Trung Quốc và tiến hành công việc chuẩn bị đón thời cơ cách mạng. Hồ Chí Minh ý thức được rằng thất bại của quân đội Pháp ở Pháp và Đông Dương tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc giải phóng khỏi ách thực dân. Vì vậy, đến tháng 10/1940, tiếp sau cuộc tiến công của quân Nhật ở Lạng Sơn và Đồng Đăng ở Bắc Kỳ, ông cho Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng biết ông muốn gặp lại họ lần này ở Quế Lâm để nối lại các cuộc trò chuyện và hoạch định tương lai. Khi ba người gặp lại nhau, họ có những biện pháp cơ bản đề phòng bọn gián điệp. Cải trang thành những người đi dạo trong những lúc rảnh rỗi tại các vùng ngoại ô Quế Lâm hoặc ngồi trên vệ cỏ dưới bóng cây, họ bàn với nhau về công việc sắp tới. Sau này Võ Nguyên Giáp viết: “Bác ngồi nghe chúng tôi báo cáo và cho ý kiến, gợi ý chúng tôi suy nghĩ về công việc sắp tới”. Trong một cuộc gặp gỡ, Hồ Chí Minh nói: “Trước tình hình mới, thống nhất dân tộc trở thành điều quan trọng bậc nhất. Chúng ta phải nghĩ đến tổ chức một mặt trận dân tộc thống nhất với hình thức tổ chức và cái tên thích hợp… có thể gọi là Việt Nam Độc lập Đồng minh hội. Nhưng như thế thì dài quá, chúng ta gọi tắt là Việt Minh. Mọi người sẽ dễ nhớ”. Hồ Chí Minh nói tiếp về nhiều công việc khác cho nhiệm vụ sắp tới. Ông đã nghĩ đến việc Võ Nguyên Giáp sẽ lo về quân sự vì ông biết người thầy giáo dạy sử này có những kiến thức vững vàng về mặt lý thuyết nhưng phải có công tác thực tế trong nghệ thuật chiến tranh. Lúc này có một nhóm thanh niên Cao Bằng chạy thoát khỏi các cuộc vây ráp của địch vừa mới tới Trung Quốc. Hai sĩ quan người Việt phục vụ trong quân đội Quốc dân Đảng là Trương Bội Công và Hồ Ngọc Lãm đang tìm cách tổ chức họ thành một lực lượng nhỏ có thể hành động chống Nhật. Hồ Chí Minh giao cho Võ Nguyên Giáp đi gặp gỡ số thanh niên này, tổ chức cho họ một lớp huấn luyện quân sự. Khi quay lại Cao Bằng, họ sẽ trở thành lực lượng củng cố, phát triển phong trào, tổ chức hậu cần và đường dây liên lạc. Hồ Chí Minh quyết định Cao Bằng sẽ trở thành căn cứ cho cách mạng Việt Minh chống Pháp. Có lẽ không phải là tình cờ khi truyền thống cách mạng của Cao Bằng từ trước đến thời kỳ này và Cao Bằng vẫn là trung tâm của phong trào. Ở gần biên giới, Cao Bằng vừa là nơi ẩn nấp vừa là đầu cầu cho các lực lượng vũ trang cách mạng được huấn luyện và sửa soạn ở Trung Quốc tiến về nội địa. Võ Nguyên Giáp nhận lệnh và lên đường đi Tĩnh Tây. Tại đây ông bắt liên lạc với những người Việt Nam và nói cho họ thời cơ đấu tranh giải phóng đất nước đã tới, thuyết phục được gần bốn chục người bỏ hàng ngũ Quốc dân Đảng Trung Hoa về với mình, thành lập đội vũ trang đầu tiên. Võ Nguyên Giáp chọn làng nhỏ Ca Ma làm căn cứ, nơi này gần biên giới ở phía bắc thị xã Cao Bằng. Dường như Võ Nguyên Giáp không bao giờ cho rằng có phương pháp nào khác có thể làm suy yếu sự thống trị của Pháp - Nhật ở Việt Nam. Ngay từ đầu ông đã đề ra nội dung và phương pháp luyện tập đánh du kích theo từng đơn vị nhỏ. Trong khi Võ Nguyên Giáp ra sức huấn luyện số thanh nhiên đó thành một đơn vị vũ trang thì Hồ Chí Minh cử thêm một người khác là Vũ Anh về Bắc Kỳ để xây dựng căn cứ địa sâu trong nội địa gần Cao Bằng. Vũ Anh tìm thấy một cái hang thuận tiện nằm ở sườn núi trong vùng Pắc Bó cách thị xã Cao Bằng 30 km về phía đông bắc và cách Ca Ma khoảng 15 km. Hồ Chí Minh theo dõi chặt chẽ chương trình đào tạo huấn luyện của Võ Nguyên Giáp. Sau này, Võ Nguyên Giáp kể lại: “Người chú ý rất nhiều đến nội dung chính trị cũng như yêu cầu bài giảng phải cô đọng, sáng sủa, rõ ràng và dễ hiểu. Lần đầu tiên làm việc với Người, tôi có ấn tượng sâu sắc về phương pháp. Người đề ra: cụ thể, thận trọng đến cùng. Tác phong làm việc của Người trong lớp huấn luyện đã có ảnh hưởng lớn và hướng dẫn tôi trong công tác quân sự sau này…” Lớp học kết thúc, tất cả học viên đều được lệnh trở về Cao Bằng để gánh vác nhiệm vụ vẻ vang của họ là chống Pháp. Trong những ngày cuối năm 1940, Võ Nguyên Giáp đi đi về về nhiều lần giữa Trung Quốc và Việt Nam để hoàn thành công việc được Hồ Chí Minh giao phó. Ông tự đặt cho mình một bí danh mới: Văn. Và các đồng chí của ông thì gọi một cách thân mật là Anh Văn. Một trong những nhiệm vụ ông được giao phó là quyết định xem những người cách mạng có thể tin tưởng vào sự ủng hộ của đồng bào các dân tộc miền núi phía bắc Bắc Kỳ hay không. Có thể nhờ kiến thức quân sự ngày càng phong phú, có thể còn theo bản năng, Võ Nguyên Giáp hiểu rằng ít có khả năng phát động khởi nghĩa ở vùng nông thôn đồng bằng. Do đó phải xây dựng khối đại đoàn kết giữa các dân tộc ở miền núi: Nùng, Thổ, Mán… Họ có cuộc sống tự cấp tự túc về mặt kinh tế, có nhiều nét khác biệt về văn hóa, xã hội và tổ chức hành chính so với cư dân vùng đồng bằng. Dân số khoảng một triệu và theo lời kể của Võ Nguyên Giáp, “họ hầu như chưa bao giờ biết đến cách mạng. Họ luôn sống trong sự cai trị của thực dân.” Họ có tiếng nói riêng, đôi khi mỗi nhóm lại có thổ ngữ riêng, mặc dù cùng một dân tộc. Đa số phụ nữ không nói tiếng phổ thông và Võ Nguyên Giáp bắt buộc phải học tiếng địa phương, sử dụng hình vẽ để nói chuyện với họ. Dần dần Võ Nguyên Giáp học nói tiếng Tày, tiếng Dao, Hmông, Thổ, Dao trắng và Dao tiền để nói chuyện với những đội viên mới được kết nạp vào các đội tự vệ. Nhờ đó, ông thâm nhập dễ dàng hơn vào cuộc sống của họ, thực hiện chỉ thị của Hồ Chí Minh là cùng ăn, cùng ở, cùng làm với họ để làm công tác tuyên truyền, nâng cao trình độ giác ngộ để họ dần dần đi theo cách mạng. Một tác giả khác đã để lại một báo cáo về công việc của Võ Nguyên Giáp trong thời kỳ này: “Giữa hàng trăm thung lũng ngăn cách nhau, Văn đã mở ra con đường (cách mạng) về phía nam, tự mình hoạt động theo phương pháp ông thường áp dụng: ông đến từng bản làng, đóng vai một nhà nông nghèo tha phương cầu thực, đi xin việc trong những gia đình thiếu người làm mùa vụ để kiếm ăn qua ngày. Ngày ngày qua đi, lúc đầu người ta cũng làm ngơ, không nghi ngờ hay trình báo gì với chức dịch trong bản. Sau một thời gian ông vào làm thì mọi người đã nghe theo ông, thế là ông có chỗ dựa vững chắc. Từ lúc này ông chiếm được cảm tình của dân làng. Họ cung cấp những tin tức cần thiết và lương thực cho đội công tác và ông còn học được tiếng địa phương.” Hồ Chí Minh giao cho Võ Nguyên Giáp dịch các tài liệu tuyên truyền của Việt Minh sang tiếng Pháp, tiếng Dao và tiếng Hmông. Võ Nguyên Giáp rất phấn khởi về công việc này, đã soạn một bài văn vần bằng thổ ngữ trong đó nội dung cốt yếu là tuyên truyền Việt Minh viết dưới dạng dễ hiểu để nhớ. Đó là bài Việt Minh ngũ tự kinh, gồm những câu thơ năm chữ xếp thành vần, thành điệu là một công cụ tuyên truyền đắc lực, đặc biệt thích hợp với đồng bào vùng núi không biết đọc biết viết. Trong bút ký của ông, Võ Nguyên Giáp viết rằng khi đi qua các vùng núi phía bắc đôi khi có thể nghe thấy các bà các chị hát bài ca Việt Minh mà nội dung rút ra từ các câu thơ năm chữ của ông. Điều đó khiến ông rất cảm động. Trong một lần đến khai hội ở một xóm mới tổ chức được cơ sở Việt Minh, ông đã thấy phụ nữ đọc thuộc lòng những câu thơ năm chữ trong lúc giã gạo hay kéo sợi. Tháng 12 năm 1940 Võ Nguyên Giáp đi gặp một người thuộc dân tộc Nùng. Đó là Chu Văn Tấn, sinh năm 1909 ở Thái Nguyên trong một gia đình nông dân nghèo đông con. Chu Văn Tấn trở thành một thanh niên giác ngộ cách mạng và được kết nạp Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1934 sau khi được gia nhập Việt Minh ở chính làng ông. Võ Nguyên Giáp và Chu Văn Tấn coi nhau như “những cốt cán”, có cảm tình với nhau và làm việc với nhau rất ăn ý. Chẳng bao lâu Chu Văn Tấn trở thành một người chỉ huy đội vũ trang cứu quốc quân. Năm 1944, Cứu quốc quân thống nhất với lực lượng quân sự mới của Võ Nguyên Giáp. Chu Văn Tấn từng giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng đầu tiên của Việt Minh sau ngày Tuyên bố độc lập 2/9/1945, và sau này được phong quân hàm thượng tướng. Võ Nguyên Giáp trở thành nhà chiến lược, còn Chu Văn Tấn trở thành một trong những chỉ huy chiến dịch tốt nhất. Họ dạy cho nông dân miền núi biết kết hợp hoạt động quân sự với hoạt động chính trị - một nguyên tắc vẫn thường xuyên được áp dụng trong lịch sử Việt Nam - là một bước cần thiết để tạo ra quân đội vững chắc. Võ Nguyên Giáp quyết định chọn khoảng 40 thanh niên chưa đến 30 tuổi là người dân tộc Nùng[1]để huấn luyện thành nhóm cán bộ Việt Minh đầu tiên. Nhóm thanh niên đó theo học một lớp đào tạo cấp tốc trong 10 ngày giữa một thung lũng yên tĩnh, trong một làng của người Nùng gần biên giới Trung Quốc. Thức ăn chủ yếu là ngô, đêm ngủ ngoài trời. Một ngày bắt đầu bằng việc kiếm củi cho dân bản. Sự giúp đỡ nhân dân ở địa phương chính là cơ sở đào tạo về chính trị và cũng là cách để tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân. Những thanh niên đó hiểu rằng muốn duy trì hoạt động lâu dài phải triệt để giữ bí mật mọi hoạt động của mình. Do đó, ở những nơi đông người và trong mọi tình huống, họ phải tuân theo 4 quy định: 1/ Ban ngày tuyệt đối không đi lại. 2/ Đi chân đất để không để lại dấu vết. 3/ Leo núi không dùng gậy chống để không để lại dấu chân và đầu gậy trên đá hay rêu. 4/ Đêm đến không được vào ngủ trong làng sẽ dễ bị phục kích hoặc gây nguy hiểm cho dân làng. Kết thúc khóa học bao giờ cũng có tổ chức lễ tuyên thệ dưới lá cờ đỏ sao vàng năm cánh. Sau đó nhiều thanh niên trở về làng cũ để giác ngộ