"Võ công tuyệt học tiểu thuyết Kim Dung 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Võ công tuyệt học tiểu thuyết Kim Dung Ebooks Nhóm Zalo VÕ CÔNG TUYỆT HỌC TIỂU THUYẾT KIM DUNG By Đông A Sáng Copyring Đông A Sáng Smashwords Edition MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU Chương một : KHÁI QUÁT VỀ VÕ HỌC KIM DUNG Chương hai:VÕ CÔNG VÀ CÁC NGÀNH NGHỆ THUẬT Chương ba : VÕ CÔNG VÀ HỌC THUẬT Chương bốn:VÕ CÔNG VÀ THÀNH TÀI Chương năm:CON RỒNG PHONG THANH DƯƠNG SÁCH THAM KHẢO AUTHOR mailto:htt//blog,%20smahwords.com LỜI NÓI ĐẦU Tiểu thuyết Kim Dung có sức hấp dẫn và gần gũi với hàng triệu triệu người, từ quê hương Trung Quốc đến Việt Nam, Nhật Bản, Indonesia, Maylaysia, Singapore và chắc sẽ còn đi xa đến nhiều nước trên thế giới. Song song với sự hâm mộ, nhiều nhà phê bình văn học đã để tâm nghiên cứu tiểu thuyết Kim Dung và nhiều cuốn sách đã được xuất bản; vô hình trung đã hình thành một môn học mới gọi là “Kim Dung học”, tương tự môn Hồng học (Hồng lâu mộng học). Sở dĩ, tiểu thuyết Kim Dung có sức hấp dẫn kì lạ, ngoài bốn yếu tố là võ, hiệp, kì, tình, còn cho chúng ta thấy chân trời bát ngát của văn hóa Trung Hoa : từ các loại tuyệt học võ công đến thơ ca, thư pháp, nhạc, vũ đạo, các môn học thuật khác như âm dương, ngũ hành, dưỡng sinh, kinh lạc; sách còn đề cập các kinh điển nổi tiếng, thể hiện các luồng tư tưởng qua các thời đại và nhân sinh quan của người Trung Hoa, tất nhiên trong đó còn thể hiện quan niệm của tác giả về cuộc sống. Tất cả những vấn đề trên được thể hiện rất sinh động, liền lĩ với nhau như máu thịt, khó mà phân biệt, giữa văn và sử, giữa quá khứ và hiện tại, giữa thực và hư, giữa ngồn ngồn cuộc sống và sự phong phú của liên tưởng, tưởng tượng. Mỗi bộ tiểu thuyết của Kim Dung như một cây có nhiều cành, mỗi cành có nhiều nhánh, mỗi nhánh có vô số lá hoa và quả. Riêng cuốn sách trên tay quý bạn, với trên 40 dẫn chứng, trích trên 10 cuốn tiểu thuyết, mục đích nêu 3 vấn đề liên quan đến văn hóa Trung Hoa, qua 3 thủ pháp nghệ thuật của Kim Dung : 1. Mượn võ công để giới thiệu nghệ thuật, kinh điển, tư tưởng triết học nhân sinh Trung Hoa :Kim Dung đã kết hợp tài tình giữa võ công với các ngành nghệ thuật (thơ, thư pháp, âm nhạc, nhạc cụ, vũ đạo), kinh điển nổi tiếng (Kinh Dịch, Đạo đức kinh, Nam hoa kinh) và triết học nhân sinh (Nho, Đạo, Phật, Mặc, Bách gia). 2. Mượn võ công để phát ngôn về học thuật : Thông qua mối quan hệ giữa võ công và học thuật, Kim Dung mượn việc học võ công để bàn về phương pháp học các học thuật khác. 3. Mượn võ công để chở đạo lí : Kim Dung đặt vấn đề mối quan hệ giữa võ công và thành tài, trong đó nêu tài năng, đạo đức của người thầy và học trò, phân biệt nhân tài và nô tài. Ông nêu cao vị trí người thầy và việc đào luyện nhân tài, là những vấn đề bất cứ thời đại nào, xã hội nào cũng phải hết sức coi trọng, dù trong lãnh vực võ học hay các ngành văn hóa khác. Với ba thủ pháp nghệ thuật vừa nêu trên, cọng hưởng với loại thể đồng thoại, ngụ ngôn , cuốn sách này sẽ đem lại cho quý bạn nhiều điều : Cảm nhận được chân trời bao la của văn hóa; nhận ra được những điều tâm đắc trong học thuật nhưng chưa có dịp bộc lộ; hiểu thêm về việc đào luyện nhân tài, bản sắc nhân tài, bi kịch nhân tài trong cuộc dâu bể của lịch sử. Ngoài ra, Kim Dung đã vận dụng thành công loại văn chương ý tại ngôn ngoại, thể hiện triết lí nhân sinh Trung Hoa một cách dí dỏm. Trang tử nói : Bậc thượng sĩ nghe Đạo thì cười, không cười sao gọi là Đạo ? Vì vậy, đọc trang nào trong cuốn sách này, bạn sẽ mỉn cười; nụ cười giàu chất triết lí, sẽ giúp bạn quên những mệt nhọc, ưu phiền, quẳng gánh lo để vui sống. Tương tự, quý bạn sử dụng ảo diệu các chiêu trong Hàng long thập bát chưởng, rồng thiêng lui về tạm ẩn dưỡng sức, tĩnh tâm, ở vực sâu (Tiềm long), để ngày mai đủ sức bay lên đồng ruộng (Hiện long tại điền) và vút lên trời cao (Phi long tại thiên). Chương một: KHÁI QUÁT VỀ VÕ HỌC KIM DUNG I. VÕ –HIỆP – KÌ – TÌNH Các nhà nghiên cứu cho rằng, tiểu thuyết Kim Dung có sức hấp dẫn là do hội đủ 4 yếu tố là võ, hiệp, tình, kì : 1. Võ: Võ là vô số các loại hình võ công, từ nội công, ngoại công, khinh công đến các loại binh khí, ám khí. 2. Hiệp: Hiệp là giang hồ hành hiệp, là sự long tranh hổ đấu giữa chính và tà, giữa thiện và ác; cuộc chiến đấu ngang sức, ngang tài, bên tám lạng, bên nửa cân, ai cũng ra sức tranh ngôi bá chủ, hiệu lệnh thiên hạ. 3. Tình:Tình là tình yêu nam nữ với trăm màu ngàn vẻ, từ mối tình chớm nở, tương tư, sầu muộn đến mối tình khắc khoải, hi vọng, tuyệt vọng, ngang trái, yêu và hận, hận và yêu. 4. Kì : Kì là kì lạ, mới mẻ : những pho võ công kì lạ, những chiêu thức kì lạ, quỷ quái; những cuộc tình kì lạ; tình tiết đôi khi mang màu sắc thần thoại cổ xưa nhưng lại vô cùng mới mẻ. Bốn yếu tố trên, hài hòa tạo thành những đoạn, những chương, thành cuốn tiểu thuyết hoàn hảo, đạt trình độ nghệ thuật cao, gọi là mỹ. II. CÁC LOẠI VÕ CÔNG, BINH KHÍ VÀ ÁM KHÍ Các nhà nghiên cứu cho rằng, Kim Dung không phải là một võ sư nhưng đã lập ra trường phái võ học trong tiểu thuyết, gọi là "Kim Dung võ học". 1. Các loại võ công, các pho võ công: Tiểu thuyết Kim Dung đưa ra nhiều môn võ công, từ nội công, ngoại công, khinh công đến các môn binh khí, ám khí. Từ những pho võ công kinh điển như "Cửu âm chân kinh", "Cửu dương chân kinh", "Thái huyền kinh", đến những võ công, các bí kíp do các môn phái hoặc cá nhân sáng tạo như "Thái cực kiếm","Càn khôn đại na di", "Hàng long thập bát chưởng", "Tiêu dao du", "Ngọc Nữ kiếm pháp", "Thảng thi kiếm pháp"," Đường thi kiếm pháp", "Lăng ba vi bộ", "Đả cẩu bổng pháp","Bạch cốt trảo","Kim Xà Bí kíp". 2. Các đòn thế : Về đòn đánh thì vô số, những chiêu quen thuộc như Hắc hổ du tâm, Mãnh hổ hạ sơn, Mãng xà xuất động, Kim kê độc lập, Lý ngư đã đỉnh, Kim ngọc mãn đường, Hữu phụng lai nghi, đến những chiêu mà những cao thủ chưa từng nghe qua như Vô trung sinh hữu, Đà nê đới thủy. 3. Binh khí và ám khí: Xưa nay, người ta nói có 18 loại binh khí, nhưng trong tiểu thuyết Kim Dung có hàng trăm loại, từ loại đao kiếm quý như Đồ long, Uyên ương đao, Trọng kiếm, Tử Vi nhuyễn kiếm đến loại vũ khí bình thường như Mộc kiếm, Kim địch. Về ám khí thì cũng rất nhiều như Phù dung châm, quân cờ tướng, đồng tiền, đá, băng phiến. Nhờ nhiều loại võ công, nhiều pho võ công, nhiều loại võ công, hằng hà sa số chiêu thức, nhiều món binh khí, ám khí đã tạo nên sự phong phú như rừng, lôi cuốn người đọc. II. MƯỢN VÕ LẬP NGHỀ 1. Võ công sáng tạo võ công: Muốn tạo nên sự phong phú về các môn võ công, Kim Dung đã dùng thủ pháp võ công sáng tại ra võ công, chiêu này liên hoàn với chiêu khác, thế này liên hoàn với thế khác (Kim Ngọc mãn đường, Tam phân kiếm thuật); từ pho kiếm này sáng tạo ra pho kiếm khác (Tình nhân kiếm pháp), từ một tiếng hét cũng có thể trở thành một chiêu thức kinh hồn táng đỡm (Tạ Tốn, tiên thanh đoạt nhân). 2. Nhân vật võ công : Tiểu thuyết Kim Dung đôi lúc không tách rời con người võ biền với con người nho nhã đầy bụng văn chương. Nói cách khác, đa số nhân vật tiểu thuyết là văn võ toàn tài ( Lục Phỉ Thanh, Trần Gia Lạc, Trương Tam Phong, Trương Thý Sơn, Nhạc Bất Quần). 3 .Thuần văn chuyển hóa thành võ: Có lúc ông lấy văn chương làm cảm hứng từ thơ trữ tình, thơ Đường, thơ Lý Bạch, phú) sáng tạo võ học, gọi là thuần văn chuyển hóa thành võ; hoặc từ võ học mở ra chân trời văn chương, gọi là thuần võ chuyển hóa sang văn (Bách hoa tá quyền, Thảng thi kiếm pháp, Ám nhiên tiêu hồn chưởng, Phu thê đao pháp). 4. Võ công với các loại hình nghệ thuật: Kim Dung đã hòa hợp võ công với các loại hình nghệ thuật khác rất thuần thục như võ công với thư pháp; thư pháp, cõ công và thơ Lý Bạch; võ công với âm nhạc; dụng cụ âm nhạc, vũ điệu; võ công với nhưng dụng cụ âm nhạc (Ỷ thiên Đồ long công, Tạ Tốn thi thư pháp, Kim địïch tú tài, Thiết tranh và ngọc tiêu). 5. Tận dụng kinh điển dưỡng sinh: Kim Dung cũng lấy tài liệu từ các pho kinh điển dưỡng sinh Trung Hoa, mô phỏng động tác các loài động vật, biến hóa thành võ công (Đả cẩu bỗng pháp, Hàm mô công, Hầu quyền, Áp hình quyền, Đường lang quyền, Linh xà quyền, Nê thu công, Thập đoạn cẩm). 6. Các ngành học của tạp gia Kim Dung dựa vào tạp gia, tức là các ngành học của Trung Hoa như binh pháp, y học, kinh mạch, huyệt đạo, dược học ứng dụng vào võ công (Viêm viêm công). 7.Bách gia: Tiểu thuyết Kim dung ảnh hưởng sâu đậm những tư tưởng triết học truyền thống Trung Hoa, gọi là bách gia (trăm nhà) như Nho gia, Đạo gia, Phật gia, Mặc gia … tạo nên những pho võ công mang đặc trưng của mỗi học thuyết (Thái cực, Cửu âm, Cửu dương, Càn – Khôn. Tiêu dao du, Bào Đinh giải ngưu. Phục ma khuyên. Thái huyền kinh). 8. Kinh điển truyền thống: Kim Dung khai thác triệt để các pho kinh điển Trung Hoa là Kinh Dịch, Đạo đức kinh của Lão tử, Nam hoa kinh của Trang tử để đưa vào võ công. Về Kinh Dịch, Kim Dung dùng bát quái (quẻ đơn : Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài), trùng quái (các quẻ kép : Bát thuần Càn, Vô vọng, Quy muội …), các hào từ (Phi long tại thiên, Kháng long hữu hối); lấy năm yếu tố ngũ hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ), đôi khi kết hợp với can chi (Giáp, Ất, Bính, Đinh … ) địa chi (Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ …), hoặc phối hợp với y học (kinh lạc, huyệt vị) để tưởng tượng ra những pho võ công hoặc những chiêu ác liệt, hoặc lấy cương bổ khuyết vào những võ công chí nhu của Đạo gia (Hàng long thập bát chưởng Đại hồng quyền.Dương Quá thuộc phái Cổ Mộ là chí nhu, sau đó học thêm các loại võ công có tính cương, tạo thành cương nhu tương tế). Về Đạo gia, Kim Dung vừa dựa vào Đạo đức kinh, Nam hoa kinh để sáng tạo ra các môn võ chí nhu, một là nhằm hóa giải môn võ chí cương, lấy nhu khắc cương (Hoàng Dung học Tiêu dao du, có tính nhu, bổ cứu cho Quách Tỉnh học Hàng long thập bát chưởng, có tính chí cương. Trương Tam Phong học Cửu dương chân kinh có tính cương, phối hợp với nhu, sáng tạo Thái cực kiếm, lấy nhu chế cương, dùng vòng tròn Thái cực để tạo nên các chiêu pháp chu chuyển theo vô số vòng tròn lớn nhỏ). Sự phân chia Kinh Dịch và Đạo gia có tính chất tương đối để dễ phân tích, vì Kinh Dịch được gọi là sách đứng đầu của các kinh điển Trung Hoa, cả Nho gia, Đạo gia, các môn học khác đều dựa vào đó làm căn bản cho học thuyết và lí luận. Những thủ pháp vừa nêu trên của Kim Dung, gọi là mượn võ để chuyên chở, xiễn dương các ngành nghệ thuật, các kinh điển đặc sắc Trung Hoa, gọi là tá vũ nhi lập nghệ. III. MƯỢN VÕ ĐỂ PHÁT NGÔN VỀ HỌC THUẬT Thông qua các pho võ công, các chiêu thức, các đòn đánh, phương pháp học võ, Kim Dung muốn phát ngôn về học thuật; có thể quy về những điểm chính sau: 1. Cảnh giới học thuật: Người Trung Hoa cho rằng, sáng tạo hội họa, thư pháp đạt đến đỉnh cao, không ai bắt chước được, gọi là xảo đoạt thiên công, xảo diệu đoạt cả quyền tạo hóa. Tương tự, người học võ hoặc học các môn nghệ thuật khác, ngay cả học làm đồ tể cũng phải đến cảnh giới nghệ thuật cao, gọi là Đạo thì mới gọi là thành công. Ví dụ: Trần Gia Cách tuy rất giỏi Bách hoa tá quyền, thu thập võ công hàng trăm nhà, tuy đánh ngã nhiều đối thủ, nhưng chưa đạt đến cảnh giới nghệ thuật, Đạo. Sau khi đọc Nam hoa kinh của Trang tử ở động nước A Lý, mới đạt đến đỉnh cao. Đạo là bao trùm tất cả, nên phối hợp được với Dư Ngư Đồng; âm nhạc, vũ điệu, võ công chỉ là một. 2. Xuất thần nhập hóa: Dù học một chiêu pháp cũng phải rèn luyện, đạt đến trình độ xuất thần nhập hóa (Nhất chỉ thiền). 3. Ứng dụng và trải nghiệm: Học phải ứng dụng, trải nghiệm cả cuộc đời mới đạt đến đỉnh cao của võ công, tuyệt thế võ công hoặc tuyệt đỉnh của học thuật (Kiếm mộ với 3 thanh kiếm :kiếm sắc, Trọng kiếm, Mộc kiếm tiến đến vô kiếm thắng hữu kiếm). 4. Giải quyết vấn đề cuộc sống: Võ công cũng như các ngành học thuật khác, đều bắt nguồn từ cuộc sống và giải quyết những vấn đề cuộc sống (Kim Xà Lang Quân học từ loài rắn, chiêu hậu phát chế nhân, đưa vào Kim Xà bí kíp). 5. Con người sinh động: Người dạy, người học không nên chấp nhất, câu nệ (Kiếm tông, Khí tông), sự chấp nhất câu nệ chỉ tạo ra những con người máy móc, trâu gỗ ngựa gỗ, mà cần phải thâu thái những tinh túy của các môn phái, các học phái khác, phương pháp học hay nhất là học ở kẻ thù (Nhạc Bất Quần xuẩn tài, có tài mà ngu xuẩn, dạy Lệnh Hồ Xung câu nệ vào Khí tông, Kiếm tông, học chiêu nào cũng phải theo quy củ, phép tắc bất di bất dịch. Thanh Phong Dương truyền Độc Cô cửu kiếm, con người sống động, làm chủ kiếm, không để kiếm làm chủ người). 6. Những tầng bậc trong việc học: Người học võ muốn thành tài nên lấy chất phác, giản dị làm gốc, sau đó mới lưu ý đến kĩ xảo; không nên dựa vào chiêu thức, kiếm chiêu, mà phải lãnh hội ý, kiếm ý, của chiêu thức. Những người lạnh hội được kiếm ý, bí quyết có thể ứng biến linh hoạt (Thái tổ trường quyền, Độc Cô cửu kiếm). Văn hóa là những gì còn lại sau khi đã quên, quên hết thì lại càng tốt (Thái cực kiếm). 7. Đả phá lối học thuật tầm chương, trích cú: Kim Dung châm biếm loại học thuật tầm chương trích cú, giải thích, chú giải, theo thành kiến, tạo tranh cãi liên miên bất tận, vô bổ. Người biết chữ, đọc quá nhiều sách vở, đa thư loạn tâm, suy diễn phức tạp, chẻ sợ tóc làm tư làm tám, chấp câu từ, lùng nhùng không tìm ra chân lý. Người không biết chữ, không đọc sách, nên tâm không loạn (tuyệt thánh, khí trí), hiểu vấn đề một cách đơn giản, nên dễ tìm ra chân lý, vì chân lý bao giờ cũng đơn giản (Thạch Phá Thiên và bài Hiệp khách hành của Lý Bạch). 8. Sự ngộ nhận: Kim Dung cũng nêu lên những nỗi buồn của người đạt đến đỉnh cao nghệ thuật, đôi khi bị người đời ngộ nhận, lui về quy ẩn (Độc Cô Cầu Bại với Kiếm ma, Kiếm mộ). Những thủ pháp nghệ thuật của Kim Dung mà chúng ta vừa nêu trên, gọi là mượn võ công để bày tỏ ý kiến về việc học và học thuật, tá vũ nhi ngôn học. IV. VÕ DĨ TẢI ĐẠO Xưa nay, chúng ta thường nói văn dĩ tải đạo, dùng văn chương để chở đạo lý, Kim Dung nêu vấn đề khá lạ, gọi là dùng võ để chở đạo lí, bàn bạc những đạo lí triết lí nhân sinh (võ dĩ tải đạo), bàn về những vấn đề thuộc lãnh vực nhân tài học, như việc dạy võ, thành tài, một trong những mục tiêu, phương pháp đào tạo nhân tài, có thể quy mấy điểm: 1. Đức và tài: Trước hết là nói về người thầy dạy võ hoặc dạy bất cứ môn học nào, cần phải có cả đức lẫn tài, có lòng dạ rộng rãi, khí độ cao thượng (Lưu Trùng Dương, Trương Tam Phong). Kim Dung hình như không mấy thiện cảm với mấy ông thầy ngụy quân tử, chấp nhất, hẹp hòi, gian tà (Nhạc Bất Quần). Ông cũng không ưa nhân vật Tạ Yên Khách, thầy không nắm được cốt lõi của học thuật như tượng La Hán có hai tầng lớp, chỉ hiểu lớp ngoài, hiểu sai, còn dạy sai, cố tình giết chết học trò, nên liệt hạng thầy này vào loại sát nhân (Viêm viêm công). 2. Tư chất học trò và sự truyền thụ: Thầy nên căn cứ vào tư chất, tính cách của trò mà chọn lựa phương pháp nhưng tính cách, tư chất cũng chỉ là tương đối, sẽ thay đổi theo thời gian. Ví dụ Chu Bá Thông dạy Hàng long thập bát chưởng cho Quách Tỉnh. Dạy Tiêu dao du cho Hoàng Dung. Hoàng Dung dạy đả cẩu bổng cho Lỗ Hữu Cước, khác với dạy đả cẩu bổng cho Dương Quá. 3. Bản thân là chính: Muốn học thành tài, người học không nên dựa dẫm vào danh môn, vào danh sư, mà nên dựa vào bản thân suy tư và sáng tạo (Trương Tam Phong sáng lập phái Võ Đang); hoặc cần cù, tuần tự nhi tiến (Quách Tỉnh học Hàng long thập bát chưởng). 4. Nhân tài phải biết mình là ai? Người học cần phân biệt đâu là nhân tài, đâu là chỉ thủ đắc một nghề, dù cao siêu đến mấy chưa chắc đã là nhân tài. Học cũng chính là cuộc tìm lại bản lai diện mục, biết ta là ai, đang làm gì và chiến thắng bản thân, là nhân tài. Học để bước lên đệ nhất võ lâm nhưng không biết mình là ai, đang làm gì, không thắng nổi chính mình, cái học ấy chỉ có hại cho bản thân và mọi người, đó không phải là nhân tài; nếu võ lâm giao quyền cho hắn, là giao vận mạng mình cho thằng điên. Ví dụ: Tây Độc thắng Dược Sư, Thất Công nhưng Tây Độc bỏ chạy vì cái bóng của mình. 5. Thông minh – ngu đần, ngu đần – thông minh: Thông thường, người ta chia làm hai loại chính là người thông minh, lanh lợi và kẻ ngu đần, thuần phác. Nhưng đôi khi dùng trí xảo sinh ra giả dối, đó là cái khôn tiểu trí; người ngu đần, thuần phác lại là người đại trí. Hoặc nhà văn cố ý xây dựng nhân vật khéo giả vụng, trí giả ngu, thông minh giả hồ đồ. Ví dụ: Giang Nam lục quái cho Quách Tỉnh là ngu đần. 6. Tẩu hỏa nhập ma: Kim Dung nêu những trường hợp tẩu hỏa nhập ma, tức là không thành tài bởi thầy dạy sai, trò học sai phương pháp, hoặc muốn học nhanh, dục tốc thì bất đạt (Viêm viêm công); hoặc quá nhiều dục vọng, nhiều tham vọng, hoặc vừa học sai, bụng chứa đầy tà ác (Âu Dương Phong, Mai Siêu Phong). 7. Biết đủ, biết dừng: Liều thuốc phòng tẩu hỏa nhập ma là biết dừng, biết đủ, biết mình bất toàn, biết đầy nhưng không cho tràn (Lệnh Hồ Xung học Đại na di tâm pháp). 8. Ranh giới thiện và ác: Tác giả giữa thiện và ác, giữa thành tài và không thành tài mong manh như sợi chỉ, nhanh như một sát na, chóng như tụng một biến kinh, chớp như một chiêu thức (Trương Vô Kỵ và Phục ma khuyên). 9. Nhân tài và nô tài: Kim Dung cũng nêu bi kịch của nhân tài và thời đại, các vua chúa thích nô tài hơn nhân tài, nô tài thành công hơn nhân tài. Có người tự nhận là nô tài, bất tài, bất học vô thuật là con đường kiếm ăn thông thuận, nịnh bợ là nấc thang leo lên đỉnh thành công (Bất tài Vi Tiểu Bảo chí tôn). V. ĐỒNG THOẠI – NGỤ NGÔN – Ý TẠI NGÔN NGOẠI 1. Dĩ vũ tải đạo: Những thủ pháp nghệ thuật vừa nêu trên, gọi chung là mượn võ để chuyển đạo, tá vũ dĩ chuyển đạo, liên quan đến nhân tài học, tạm dịch là dĩ vũ tải đạo. Những thủ pháp nghệ thuật mượn võ để lập các ngành nghệ thuật (tá vũ nhi lập thuật), mượn võ để nói lên ý kiến về học thuật (tá vũ nhi ngôn học), mượn võ để chuyển đạo lý (tá vũ dĩ chuyển đạo). 2. Sự biến ảo của chữ tá: Ba chữ tá vốn đã tạo nên những biến ảo khó lường (giả tá khó lường) cọng với phương pháp ngụ ngôn, đồng thoại (hồn nhiên như trẻ thơ, giàu trí tưởng tượng), tận dụng ý văn chương ý ở ngoài lời (ý tại ngôn ngoại), tiểu thuyết Kim Dung không chỉ làm tạo nên cảnh giới vô tận của võ học, mở ra cảnh tượng bát ngát mênh mông chân trời nghệ thuật - văn hóa, mà còn mang đậm ý nghĩa triết lí nhân sinh Trung Hoa. Chương hai:VÕ CÔNG VÀ CÁC NGÀNH NGHỆ THUẬT 1. CHIÊU KIM NGỌC MÃN ĐƯỜNG (Tiếu ngạo giang hồ) 1) Thanh Phong Dương chỉ điểm kiếm pháp: Thanh Phong Dương nói thao thao bất tuyệt luôn một hồi 30 chiêu thức. Ba chục chiêu này Lệnh Hồ Xung đều học qua rồi. Trong đó còn có mấy chiêu hắn sử còn hết sức tầm thường. Giữa sư huynh sư đệ tập dượt hắn chưa dùng tới. Dù hắn có thi triển đối phó với Điền Bá Quang, nhưng dù sao vẫn chưa đủ uy lực. Bỗng nghe lão già nói tiếp: - Mi còn ngần ngừ cái gì ? Sử dụng liền một mạch ba chục quả là khó thiệt, song mi cứ biểu diễn hết một lượt cho ta coi thử. Giọng lão nói trầm trầm tựa hồ rất đỗi thương tâm, song ngữ khí lại có vẻ rất oai nghiêm. Lệnh Hồ Xung bụng bảo dạ:" Mình cứ tuân theo lời lão chỉ điểm thử một lượt cũng chẳng sao!". Hắn nghĩ vậy, rồi sử chiêu “Bạch hồng quán nhật”. Lúc hắn thu chiêu về mũi kiếm trỏ lên trên không để ra chiêu thứ hai là chiêu “Hữu phụng lai nghi” đâm từ dưới lên trên để quãng giữa một chỗ trống lớn, không nghĩ ra cách nào thi triển cho liền được. Hắn cứ để nguyên mũi kiếm trỏ lên trời rồi đứng thộn mặt ra. Lão tự xưng là Phong Thanh Dương thở dài nói: - Đồ ngu ! Đồ ngu ! Không trách mi là đệ tử của Nhạc Bất Quần. Thật chẳng khác chi cục đất, không hiểu biến hóa. Nghiên cứu về kiếm thuật phải làm sao hươi kiếm như “nước chảy mây trôi” tùy theo ý mình, muốn lên là lên, muốn xuống là xuống. Mi sử xong chiêu “Bạch hồng quán nhật” mũi kiếm hướng lên trên, chẳng lẽ không hiểu thuận thế đảo xuống dưới ư ? Trong kiếm chiêu không có tư thức này thì mi phải tự ý phối hợp thuận chiều đưa tay vào chứ? Câu nói đó thức tỉnh Lệnh Hồ Xung ngay tức khắc. Hắn dừng thanh kiếm lại rồi tự nhiên sử được chiêu Hữu phụng lai nghi. Hắn không chờ cho kiếm chiêu đi hết đường đã chuyển sang chiêu “Kim nhạn hoành không”. Chiêu này vung lên ở trên đỉnh đầu. Tiện đường vòng của thanh kiếm, hắn nhẹ nhàng biến ra chiêu Triệt thủ thức. Lúc chiêu thức vòng vèo chuyển biến thành một màn kiếm quang dầy đặc không còn một kẽ hở, hắn cảm thấy trong lòng khoan khoái vô cùng. Đoạn hắn theo lời lão già tiếp tục sử những chiêu sau cho tới chiêu “Chung cổ tế minh “ thì thu kiếm về. Cả thảy vừa đúng 30 chiêu. Lão già thở dài nói: - Đúng rồi ! Đúng rồi ! Có điều đáng tiếc là hãy còn vụng về nếu đem tỷ đấu với những tay cao thủ dĩ nhiên chưa ăn thua gì song đối với thằng lỏi kia tưởng thế cũng đủ rồi. Mi hãy thử đi coi! Lệnh Hồ Xung tuy không tin hẳn lão chính là thái sư thúc tổ của hắn, song bất luận lão là ai thì võ học này cũng vào hạng cao thủ phi thường không còn nghi ngờ gì nữa. Hắn liền khom lưng kính cẩn thi lễ tạ ơn lão. 2) Lệnh Hồ Xung sử dụng chiêu “Kim ngọc mãn đường”: Lệnh Hồ Xung nói : - Xin mời Điền huynh! Điền Bá Quang đáp: - Điền mỗ đã coi Lệnh Hồ huynh sử hết 30 chiêu tức là đã biết rõ những ưu khuyết điểm mà còn tỷ đấu thì có thắng cũng chẳng vẻ vang gì. Lệnh Hồ Xung nói: - Điền huynh không muốn động thủ càng hay. Vậy xin Ðiền huynh tùy tiện. Tại hạ cần ở lại học hỏi lão tiền bối đây kha khá một chút không rảnh để đi với Ðiền huynh được. Điền Bá Quang lớn tiếng: - Sao lại nói thế được ? Lệnh Hồ huynh không theo Điền mỗ xuống núi, chẳng lẽ để cái mạng này chết uổng về tay Lệnh Hồ huynh chăng? Đoạn gã quay lại nói với lão già: - Thưa Phong lão tiền bối! Điền Bá Quang này là kẻ tiểu tử hậu sinh, không đáng đối chiêu với lão nhân gia. Lão nhân gia mà động thủ thì không khỏi tổn thương đến bề thế. Lão già gật đầu, thở dài rồi từ từ ngồi xuống tảng đá lớn. Điền Bá Quang yên tâm. Gã nạt lớn: - Coi đao đây ! Gã vừa hô vừa vung đao chém Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung né mình tránh khỏi đồng thời phóng kiếm đâm trả. Hắn sử chiêu thứ tư là Triệt thủ thức mà lão già vừa dạy hắn. Hắn phóng chiêu rồi, kiếm khí vẫn tung hoành không ngớt mà kiếm pháp lại nhẹ nhàng linh động. Chiêu số hắn thi triển đây là do lão già chỉ điểm, có chỗ ra ngoài 30 chiêu mà lão già nói trước. Vì hắn lĩnh hội được ý nghĩa câu: Nước chảy mây trôi tùy theo ý muốn nên kiếm thuật tiến bộ khác thường. Lệnh Hồ Xung quay lộn với Điền Bá Quang tỷ đấu hơn 200 chiêu mà vẫn bất phân thắng bại. Nhưng về sau Lệnh Hồ Xung đuối sức dần, Điền Bá Quang quát lên một tiếng thật to cầm đao chém thẳng xuống. Lệnh Hồ Xung thấy khó lòng tránh khỏi liền phóng kiếm nhắm trước ngực đối phương đâm tới. Điền Bá Quang xoay đao lại phang kiếm đánh "choang" một tiếng rùng rợn. Gã không chờ cho Lệnh Hồ Xung thu kiếm về đã buông đao ra nhảy vọt lên đưa hai tay chịt cổ Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung bị nghẹt, thanh trường kiếm liền rớt khỏi tay. Điền Bá Quang quát hỏi: - Ngươi có theo lão gia hạ sơn không thì lão gia bóp chết ? Trước nay đối với Lệnh Hồ Xung Điền Bá Quang vẫn kêu huynh gọi đệ, ăn nói rất từ tốn. Nhưng chuyến này gã phải kịch đấu với hắn hơn 200 chiêu, khí tức nổi lên không dằn lòng được. Gã hầm hầm chịt cổ Lệnh Hồ Xung đồng thời tự xưng là lão gia. Lệnh Hồ Xung nét mặt xám xanh vẫn lắc đầu quầy quậy. Điền Bá Quang nghiến răng nói: - Hai trăm chiêu cũng được 300 chiêu cũng không sao. Lão gia đã thắng thì ngươi phải theo lão gia xuống núi. Mẹ kiếp! Lão gia không đếm xỉa gì tới lời ước 30 chiêu nữa! Lệnh Hồ Xung muốn nổi lên tràng cười rộ, nhưng bị mười đầu ngón tay của đối phương chịt cổ không sao nói cười ra tiếng được. Bỗng nghe lão già thở dài nói: - Đồ ngu xuẩn ơi ! Trong tay không kiếm thì ngón tay là kiếm chứ sao ? Vậy chiêu Kim ngọc mãn đường kia chẳng lẽ cũng cần phải kiếm mới xử được ư? Lệnh Hồ Xung nghe lão nói khác nào một tia chớp lóe ra trong đầu óc hắn. Hắn không nghĩ ngợi gì nữa chìa năm ngón tay phải phóng ra phía trước. Đó là chiêu “Kim ngọc mãn đường”. Ngón giữa và ngón trỏ đâm vào huyệt Đản trung trước ngực Điền Bá Quang. Điền Bá Quang rú lên một tiếng té lăn xuống đất, phải buông 10 đầu ngón tay ra khỏi cổ Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung không ngờ mình vừa đâm một cái mà uy lực lại ghê gớm đến độ làm cho Vạn lý độc hành Điền Bá Quang khét tiếng giang hồ phải té xuống một cách dễ dàng. Hắn đưa tay lên sờ cổ họng vừa bị Điền Bá Quang chịt mạnh rất đau đớn. Ðoạn hắn đưa mắt ngó tên dâm tặc thấy gã nắm khoèo dưới đất, không ngớt co quắp thì không khỏi vừa kinh hãi vừa mừng thầm. LẠM BÀN (Từ võ công sáng tạo võ công) 1.Một trong những tổng quyết hoặc phương pháp luận của võ học phái Kim Dung gồm tám chữ : Tâm tùy (tình huống) mà chọn, tùy tay mà phối hợp (Biệt xuất tâm tái, tùy thủ phối hợp). Hoặc, nước chảy mây trơi tùùy theo ý muốn. Tổng quyết hoặc phương pháp luận võ học Kim Dung gồi hai tầng bậc, hai tầng bậc này quan hệ mật thiết với nhau : Một, tùy tâm mà chọn, tức tùy tình huống mà vận dụng những điều đã học được. Hai, là sự phối hợp giữa tâm và võ công, giữa các chiêu thức, các đòn thế, các loại vụ khí, các loại võ công đã học. 2. Lệnh Hồ Xung đã học qua các chiêu Bạch hồng quán nhật, Hữu phụng lai nghi, Kim nhạn hoành không, Tuyệt kiếm thức. Nhưng khi luyện kiếm Lệnh Hồ Xung không biết tổng quyết Biệt xuất tâm tái, tùy thủ phối hợp, không phối hợp được các chiêu thức, đâm ra lúng túng. Nhờ Thanh Dương Phong chỉ điểm nước chảy mây trôi tùy theo ý muốn, hắn lãnh hội được, phối hợp các chiêu thức, sử dụng kiếm rất linh hoạt, địch với Điền Bá Quang. 3. Lúc Lệnh Hồ Xung tỉ thí bị Điền Bá Quang chẹt cổ, không có kiếm, đành thúc thủ. Dương Thanh Phong chỉ điểm lần nữa, thay ngón tay bằng kiếm, sử dụng chiêu Kim ngọc mãn đường thành công, đánh ngã được Điền Bá Quang. 4. Chiêu thức đã học là kiến thức nhưng không biết vận dụng kiến thức thì kiến thức trở nên vô dụng. Thanh Phong Dương đã ví dụ, học thuộc 300 bài thơ Đường nhưng khi cầm bút không sáng tác được một câu thơ là học vẹt, cái học vô dụng. Kiếm là phương tiện, quá chấp nhất vào phương tiện, quên cái mình sẵn có là ngón tay, cũng là tự mình biến mình thành cục đất, không còn là con người sinh động. 5. Thanh Phong Dương chửi Lệnh Hồ Xung vì hắn học nhưng không quyền biến sáng tạo; ông chửi Nhạc Bất Quần dạy học trò thành cục đất, vì không thầy không chỉ điểm được sự biến hóa sáng tạo cho học trò. 6. Nhân vật trong tiểu thuyết Kim Dung ứng biến, sáng tạo, từ võ công sáng tạo ra võ công hoặc từ kiến thức võ công tìm ra tổng quyết. 2. ĐỊCH NHÂN VÀ TÌNH NHÂN KIẾM PHÁP (Thần điêu hiệp lữ) Tiểu Long Nữ thấy Dương Quá gặp nguy hiểm, liền rút kiếm thi triển một chiêu tuyệt kĩ trong Ngọc Nữ tâm kinh, tấn công Kim Luân pháp vương. Chiêu kiếm tài tình, nhanh lẹ, phiêu dật, đến nỗi Hoàng Dung phải thốt lên, khen ngợi : - Hay lắm ! Kim Luân pháp vương thu chưởng lại, né tránh đường kiếm ác liệt của Tiểu Long Nữ. Dương Quá thừa thế xỉa một đường kiếm vào Kim Luân pháp vương, hắn đảo người và tránh được khá dễ dàng. Trong cơn sống chết, Dương Quá nghĩ :" Mình và cô cô dùng Ngọc Nữ kiếm pháp khó mà thắng Kim Luân pháp vương. Chi bằng ta dùng Toàn Chân kiếm pháp, còn cô dùng Ngọc Nữ kiếm pháp may ra mới thắng lão này". Dương Quá gọi : - Cô cô ! Lãng tích thiên nhai. Long Nữ nghe xong vội ra chiêu. Dương Quá cũng xuất kiếm. Nguyên chiêu Lãng tích thiên nhai, tuy cùng một tên nhưng thế kiếm Ngọc Nữ khác với thế kiếm của Toàn Chân nên uy lực rất dũng mãnh, trấn áp Kim Luân pháp vương. LẠM BÀN (Song kiếm hợp bích) 1. Ngọc Nữ kiếm pháp do nữ sư tổ phái Cổ Mộ sáng tạo, Toàn Chân kiếm pháp do Lưu Trùng Dương sáng tạo. Mối tình của Ngọc Nữ và Lưu Trùng Dương có nhiều trắc trở, yêu nhau, nhưng không thể chung sống với nhau. Trong lòng Ngọc Nữ có hận có yêu, có địch, có tình, đó là những cung bậc tâm kinh trong lòng Ngọc Nữ. Ngọc Nữ sáng tạo Ngọc Nữ kiếm pháp với đặc điểm chí nhu, mục đích khắc chế đặc điểm chí cương của Toàn Chân kiếm pháp, tên của những chiêu của Ngọc Nữ tâm kinh có tên như "Toàn Chân kiếm pháp" nhưng khi phát chiêu thì chiêu thức khác nhau. Một cương, một nhu khắc chế nhau, xem nhau như địch thủ nhưng lại lưu luyến, thiết tha, có cay đắng có ngọt ngào, có thất vọng, có hy vọng hổ tương, nương tựa nhau bất tuyệt, tạo nên song kiếm hợp bích (hai làm kiếm tạo nên bức tường kiếm quang). Có thể gọi chung là "Địch nhân kiếm pháp", hoặc "Tình nhân kiếm pháp", kiếm pháp của những cuộc tình trắc trở, cay đắng; khác với "Phu thê đao pháp" hoặc "Uyên ương đao" là những cuộc tình chớm nở tươi đẹp hoặc đã thành vợ, thành chồng. 3. Hiểu được đặc điểm của hai loại kiếm pháp, khi hợp lại với nhau rất nhẹ nhàng nhưng dũng mãnh nên Dương Quá đã gọi tên từng chiêu pháp cùng với Tiểu Long Nữ tấn công Kim Luân pháp vương. 4. Tương tự Dương Thanh Phong chỉ điểm kiếm pháp cho Lệnh Hồ Xung, Dương Quá đã phối hợp hai loại kiếm pháp, sáng tạo một loại kiếm pháp theo tổng quyết Biệt xuất tâm tái, tùy thủ phối hợp. 5.Tình yêu, yêu và hận, địch và tình; kiếm pháp và kiếm pháp sáng tạo ra kiếm pháp. 3. TAM PHÂN KIẾM THUẬT (Thư kiếm ân cừu lục) Tâm hồn của TiêuThanh Đồng chỉ có được một nửa trong trận đánh, còn một nửa kia cứ canh cánh nghĩ mãi về chiếc bao màu hồng trên lưng Diêm Thế Khôi đã chết. Cho nên càng đánh, nàng lại càng thấy kiếm pháp của Lý Mộng Ngọc kỳ diệu thật khó lòng mà đánh thắng để lấy được cái bao hồng. Tiêu Thanh Đồng toát cả mồ hôi ướt đẫm như tắm. Không thể ham đánh mãi, Tiêu Thanh Đồng đột nhiên phóng ra một thế kiếm gọi là "Tam phân kiếm thuật" của phái Thiên Sơn, đánh Lý Mộng Ngọc lùi dần ra sau. Thế kiếm này là tuyệt kỹ của phái Thiên Sơn, không bao giờ truyền cho ai ngoại trừ một vài đệ tử thân tín như Tiêu Thanh Đồng. Lý Mộng Ngọc thấy kiếm pháp của Tiêu Thanh Đồng bỗng nhiên biến ảo vô cùng. Một đường kiếm biến thành ba, kiếm quang hết sức linh động. Có một điều là thế "Tam phân kiếm thuật" này chỉ có công mà không có thủ. Bao nhiêu lợi hại đều tuôn ra hết, không dành lại cho mình một chiêu nào để phòng thaân cả. Thấy Tiêu Thanh Đồng dùng thế "Băng hà đảo tả" đâm tới vô cùng mạnh mẽ, Lý Mộng Ngọc bèn dùng chiêu "Nhất trụ hương" với ý định đánh bạt lưỡi kiếm địch thủ qua một bên. Nhưng chẳng ngờ chỉ còn cách nhau hai thước chiêu kiếm của TiêuThanh Đồng tức khắc lại biến thành thế "Thiên lý lưu sa" gạt lưỡi kiếm của Lý Mộng Ngọc sang một bên rồi cứ thế thẳng đường đâm tới.Lý Mộng Ngọc kinh hãi vô cùng, vội vàng chuyển mũi kiếm trở về trước bụng để bảo vệ. Nhưng thật là kỳ quái, rõ ràng địch thủ đâm mũi kiếm ngay bụng Lý Mộng Ngọc với tất cả sức mạnh nhưng chưa tới đích thì đã chuyển ra thế "Phong quyện trường thảo", từ trên sa xuống như điện xẹt chém mạnh vào cánh trỏ tay trái của Lý Mộng Ngọc làm cho nàng luýnh quýnh chỉ còn nước liều nhảy ra sau một bước. Vừa tránh được lưỡi kiếm lợi hại ấy trong đường tơ kẽ tóc, chưa kịp hoàn hồn thì Tiêu Thanh Đồng lại biến ra thế" Cử hỏa liệu thiên" quay ngược mũi kiếm từ dưới lên trên nhanh như gió, chém sả vào vai trái Lý Mộng Ngọc. Lý Mộng Ngọc vừa tránh khỏi thì Tiêu Thanh Đồng lại ra thế "Tuyết trung kỳ liên" chém tả chém hữu vùn vụt như tên lìa khỏi cung. Mặc dầu Tiêu Thanh Đồng không có ý làm tổn hại đến tánh mạng Lý Mộng Ngọc nhưng cũng ghép nàng vào tình trạng vô cùng khốn đốn. Cả hai giao đấu với nhau một lúc đã khá lâu, không biết là bao nhiêu hiệp. Lý Mộng Ngọc mệt lả cả người, mồ hôi đổ như tắm. Đó là Tiêu Thanh Đồng chỉ dùng có một phần trong "Tam phân kiếm thuật" bí truyền của phái Thiên Sơn. Hễ Lý Mộng Ngọc đón đỡ được một thế kiếm thì Tiêu Thanh Đồng lại biến ngay ra chiêu khác. Nếu là người võ công tầm thường ở ngoài nhìn vào ắt sẽ tưởng là hai người giỡn chơi với nhau, nhưng sự thật đó là một trận đấu nguy hiểm vô cùng, tánh mạng lúc nào cũng như mành chỉ treo chuông. Tiêu Thanh Đồng vây chặt Lý Mộng Ngọc trong vòng kiếm pháp của mình mà không ngừng đâm chém. Mũi kiếm luôn luôn vung ra cách mình nàng chừng một thước rồi lại tấn công tới tấp khiến Lý Mộng Ngọc loạn cả mắt, ù cả tai, và tay chân thì bủn rủn, cứ lùi dần, lui mãi. Kiếm pháp của Tiêu Thanh Đồng vô cùng biến ảo khiến cho Lý Mộng Ngọc không tài nào đoán được. Nếu không nhờ "Nhu vân kiếm" của Lục Phỉ Thanh tận tình chỉ dạy cho để hộ thân trong lúc nguy kịch thì chưa biết tánh mạng nàng sẽ ra sao. Nhu Vân kiếm của Lý Mộng Ngọc thật ra cũng luyện được đến nơi đến chốn. Nhưng nàng quên mất một yếu tố quan trọng là người sử dụng kiếm thuật này phải tự tin, tâm phải vững để lấy tĩnh mà chế động. Nếu nhớ kỹ được điều ấy thì cho dù địch thủ có biến ra bao nhiêu thế kiếm kỳ lạ hay tuyệt diệu đi chăng nữa cũng không không thao túng được đối phương.Hiềm là Lý Mộng Ngọc mới bước chân vào giang hồ, chưa thật sự cùng ai giao đấu nên thiếu hẳn kinh nghiệm chiến trường. Vì vậy khi thấy Tiêu Thanh Đồng sử dụng toàn những chiêu kiếm kỳ lạ thật lanh lẹ, so với kiếm thuật của mình còn hơn bội phần thì tâm thần bỗng dưng hoang mang, mất hết tự chủ. Biết mình chưa phải là đối thủ của Tiêu Thanh Đồng, Lý Mộng Ngọc lừa thế thoát ra được vòng kiếm của đối phương rồi dùng khinh công đào tẩu. LẠM BÀN (Võ công và sự biến ảo) 1. "Tam phân kiếm thuật" là của là tuyệt kĩ của phái Thiên Sơn, do Viên Sĩ Tiêu sáng tạo. 2. Ngay tên gọi, đã nêu nguyên lí của kiếm thuật, một biến thành ba, từ thế" Băng hà đảo tả", biến thành "Thiên lí lưu sa", "Thiên lí lưu sa" lại biến thành "Phong quyện trường thảo". Nhưng thực tế có thể phân thành bốn, thành năm, thành mười. 3. Phương pháp miêu tả "Tam phân kiếm thuật" dựa vào tổng quyến, nguyên lí, từ đó biến ảo đến vô tận. 4. CHIÊU TIÊN THANH ĐOẠT NHÂN ( Ỷ thiên đồ long ký) Tạ Tốn nói: -Tính mệnh hai người thì tôi tha cho, người khác thì không được. Trương Thúy Sơn nói: - Hai kiếm sĩ của phái Côn Lôn là danh gia đệ tử, trước nay chưa làm điều gì ác ? Tạ Tốn bịt mồm chàng lại nói: - Cái gì mà điều ác điều lành, dưới mắt ta không có gì khác nhau cả. Hai người mau xé vải áo, nút chặt lỗ tai, lấy hai tay bịt thêm bên ngoài. Nếu muốn sống thì đừng có sơ hở.Mấy câu đó y nói thật nhỏ tựa hồ sợ người khác nghe thấy. Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố đưa mắt nhìn nhau, không biết y nói thế là nghĩa gì, nhưng thấy y nói hết sức trịnh trọng, ắt bên trong có duyên cớ, đành làm theo lời xé vạt áo nhét vào trong tai, lại lấy hai tay bịt chặt. Đột nhiên Tạ Tốn há mồm to, dường như cất tiếng hú. Hai người tuy không nghe rõ, nhưng không hẹn mà cùng giật nảy mình. Tất cả mọi người trong Thiên Ưng giáo, Cự Kình bang, Hải Sa phái, Thần Quyền môn, người nào người nấy há mồm lè lưỡi, mặt lộ vẻ kinh ngạc, rồi biến ngay thành thống khổ có vẻ như chịu không nổi, không khác gì đang chịu tra tấn. Qua một lát nữa, từng người từng người lăn ra đất, co quắp quằn quại. Cao Tưởng hai người của phái Côn Lôn sau khi kinh hoảng liền ngồi xuống xếp bằng nhắm mắt vận nội công chống lại với tiếng hú. Hai người trên trán từng hạt mồ hôi to bằng hạt đậu rơi xuống như mưa, các bắp thịt mặt liên tiếp giựt giựt, mấy lần cố đưa tay che tai, nhưng tay đến còn cách vành tai chừng vài tấc, lại phải bỏ xuống. Đột nhiên cả hai người cùng nhảy vọt lên cao đến hơn một trượng, rơi bịch xuống đất nằm bất động. Tạ Tốn ngậm miệng ngừng hú, ra hiệu cho Trương Ân hai người lấy vải ra khỏi tai, nói: - Những người này nghe tiếng hú của tôi, tất cả đều bất tỉnh, nhưng sẽ không ai chết. Có điều khi tỉnh lại rồi, thần trí sẽ thác loạn, thành người điên, không còn suy nghĩ được, và cũng không còn nhớ gì những chuyện đã qua. Trương ngũ hiệp, điều ngũ hiệp yêu cầu tôi là tha chết cho tất cả những người trên Vương Bàn Sơn đảo, tôi đã tha rồi. LẠM BÀN (Võ công và tiếng hú của con thú bị thương) 1. Sau này, Tạ Tốn tâm sự với Trương Thúy Sơn :Mỗ rất kính trọng thương yêu và hết sức sùng bái ông thầy của mỗ. Nhưng hắn đã làm nhục mỗ, chỉ trong một đêm hắn giết hết gia đình của mỗ. Từ đó, mỗ không tin vào con người nữa, đến chết mỗ cũng không tin. Ba mươi năm qua, mỗ bầu bạn với bọn cầm thú và tin chúng mà thôi". Do mất niềm tin vào con người, quyết tâm trả thù thầy, ba mươi năm sống cùng cầm thú, tinh thần Tạ Tốn thác loạn, người tranh đoạt Đồ long đao. 2. Tiếng gầm rú của Tạ Tốn, âm thanh mạnh mẽ, thống khổ vô cùng vô tận. Như tiếng gầm rú của con đã thú bị thương sắp chết, bi ai, bi đát vô vàn ! 3. Khi ở trên hoang đảo, Tạ Tốn được sự chăm sóc của Trương Thúy Sơn, Ân Tố Tố và tình thương yêu quý mến của nghĩa tử Trương Vô Kỵ, Tạ Tốn dần dần tỉnh trí, lấy lại niềm tin vào con người. 4. Âm thanh tiếng hú thành chiêu võ công thâm hậu, gọi là " Tiên thanh đoạt nhân", cũng là tên của một trong 36 mưu kế. 5. PHÙ DUNG KIM CHÂM (Thư kiếm ân cừu lục) Một hôm, vào mùa hè nóng bức oi ả, Lý Mộng Ngọc đang ngủ trưa bỗng giật mình tỉnh giấc liền qua thư phòng Lục Phỉ Thanh để nghe giảng, học ít kinh điển. Nàng lắng tai nghe thì thấy bên trong rất im lìm, không có lấy một tiếng động nhỏ. Sợ thầy còn đang ngủ trưa nên Lý Mộng Ngọc không dám vào thẳng thư phòng, e có điều bất tiện. Nàng đến gần cửa sổ, lấy cây trâm bằng vàng trên đầu chọc thủng một lỗ nhìn vào. Chẳng ngờ sau khi nhìn rõ được bên trong, nàng vừa kinh ngạc, vừa mừng rỡ vô cùng.Lục Phỉ Thanh ngồi thiền trên ghế, miệng mỉm cười, tay đưa lên giữa thinh không khẽ búng một cái. Trên tấm bảng treo sát vào tường có tiếng vo ve nho nhỏ từ đâu đưa lại. Lý Mộng Ngọc cứ theo tiếng kêu đó mà trố mắt chăm chỉ nhìn thật kỹ thì thấy trên tấm bảng đối diện với cái ghế của Lục lão sư đương ngồi có mấy chục con ruồi sắp hàng chỉnh tề. Nàng rất lấy làm lạ vì mấy chục con ruồi ấy một khi bay đậu vào tấm bảng ấy thì như bị dính liền vào đó, không động đậy gì được cả. Kỳ lạ hơn nữa là chúng như xếp hàng ngay ngắn giống như lúc nàng trông thấy quân sĩ bày trận thế hay duyệt binh tại võ trường. Mà hình như trên lưng mỗi con ruồi đều có găm một cọng kim châm nhỏ như sợi tóc vậy. Loại kim châm nhỏ bé này nếu đứng xa hơn một chút ắt không thể nào trông thấy được. Chỉ vì lúc ấy vào giờ Mùi giữa trưa, nhờ ánh sáng mặt trời xuyên qua cửa sổ rọi ngay vào tấm bảng ấy nên những kim châm mới lấp lóe phản chiếu lại, và nhờ vậy cho nên Lý Mộng Ngọc mới nhìn thấy được.Bầy ruồi vẫn cất tiếng o o trên bảng. Lại thấy Lục Phỉ Thanh búng tay thêm một cái, một con ruồi khác đang bay lập tức dính liền vào bảng, nhập bọn và chịu chung số phận như những con kia. Tánh trẻ con của Lý Mộng Ngọc bừng dậy mãnh liệt. Nàng cho trò chơi này thích thú cô cùng. Không còn nhẫn nại đứng rình lén bên song cửa sổ nữa, Lý Mộng Ngọc xô mạnh cánh cửa, bước vào trong nói lớn: - Lục lão sư! Thầy hãy dạy cho con phép đó nhé! Lục Phỉ Thanh vẫn giữ nét mặt tự nhiên, nói lảng sang chuyện khác. - Con đã thức dậy rồi đó à? Bữa nay thầy sẽ giảng cho con nghe chuyện Tín Lăng Quân trong Sử ký Tư MãThiên. Lý Mộng Ngọc nũng nịu thưa: - Không! Thầy dạy trò chơi đó cho con trước đi rồi hãy dạy sách vở sau. Con thích cái trò chơi ấy lắm. Lục Phỉ Thanh giả ngơ ngẩn nói: - Nào có trò chơi gì đâu! Lý Mộng Ngọc mới nói: - Cái phép bắt ruồi của thầy ấy mà. Nàng vừa nói vừa xách một cái ghế đẩu đem lại đặt sát chỗ vách có tấm bảng rồi tung mình nhảy lên đứng trên đó xem xét hết sức tỉ mỉ. Sau đó, nàng lấy tay rút từng cọng kim châm trên lưng mỗi con ruồi đem xuống, dùng giấy trắng lau sạch sẽ hết mấy cọng kim châm đó kỹ lưỡng rồi mới trả lại cho Lục Phỉ Thanh. Nàng làm thế cũng giống như trưng bằng cớ rõ rệt để sư phụ không còn chối cãi được nữa, tất phải dạy cho nàng thôi. Tuổi của Lý Mộng Ngọc thì chắc chắn chưa phải là lớn. Nhưng nàng cũng không phải là nhỏ. Dù học được võ nghệ cao siêu, văn chương yên bác, nhưng vẫn giữ được tính trẻ con hồn nhiên. Hễ thấy có gì vui, hay hay thì trước sau phải muốn học cho kỳ được. LẠM BÀN (Văn và võ) 1. Nguyên Lục Phỉ Thanh vốn là một tay đại hiệp của phái Võ Đang, buổi tráng niên, ông thường đi làm việc nghĩa hiệp khắp mấy tỉnh tại vùng Giang Nam và Giang Bắc, tên tuổi lừng lẫy trong giới giang hồ. Lục Phỉ Thanh là một nhân vật trung kiên cự phách của đảng Đồ Long, một tổ chức bí mật chống đối lại triều đình Mãn Thanh. Vào thời vua Ung Chính, thanh thế của đảng Đồ Long rất lớn mạnh, triều đình tưởng là không thể nào diệt trừ nổi. Đến thời Càn Long, nhờ thi hành chính sách đàn áp thẳng tay gọi là Thiết uyển trấn yễm, đảng Đồ Long dần dần tan rã. Các nhân vật lãnh tụ đầu não của đảng thì lớp chết, lớp bị bắt, lớp chạy trốn lánh nạn tản mác đi khắp nơi. Lục Phỉ Thanh may mắn chạy thoát được cạm bẫy của vua Càn Long bủa giăng chặt chẽ ra tận ngoài biên cương. Quan binh Mãn Thanh biết họ Lục là một thủ lãnh nguy hiểm không thể bỏ lơ được nên phái người truy nã Lục Phỉ Thanh gắt gao cùng nơi khắp chốn. Lục Phỉ Thanh là người hết sức cẩn thận lại nhiều cơ mưu, và thêm vào đó lại có võ công tuyệt đỉnh nên mới tránh được đại nạn. Tuy vậy, triều đình Mãn Thanh chẳng lúc nào không lưu tâm đến con người này. Lục Phỉ Thanh cho rằng người đi lánh nạn có ba chỗ troán, tạm gọi là an thân hơn cả laø trong triều, kế đến là trốn trong chợ, sau cuøng làng mạc, đồng quê. Với ý định như vậy, Lục Phỉ Thanh lần hồi trở về nộ địa tìm đến dinh Lý Khả Tú là một vị quan có uy tín, có thế lực vào bậc nhất của triều đình, giả làm một vị đồ nho dạy thi văn từ phú cho ái nữ của Lý tướng quân là Lý Mộng Ngọc. Lục Phỉ Thanh ẩn tánh mai danh ở Hiệp Tây mấy năm nay không muốn ai phát giác hành tung bí mật của mình. 3. Chỉ vì bầy ruồi ác ôn quá đông tác quái trong thư phòng làm cho ông không sao nghỉ trưa được nên bất đắc dĩ phải dùng ngón Phù dung kim châm tuyệt kỹ để trừ hết đám ruồi. Tưởng công việc ấy thần không hay quỷ không biết, cho rằng hôm sau ông sẽ được an nhàn trong giấc trưa mà không bị một con ruồi nào quấy rầy nữa. Ngờ đâu, đứa nữ đệ tử ranh mãnh của ông ta vô tình đến rình ngoài cửa thành thử bí mật bị lộ ra. 4. Chẳng ai ngờ rằng một cụ đồ nho áo dài, khăn đen, móng tay lượt thượt, đôi mắt leo nheo, miệng ngâm vẽ nhịp, có vẻ yếu ớt như trói gà không chặt nhưng lại là môt cao thủ võ lâm. 5. Kim Dung đã chuyển hóa nhân vật võ thành cụ đồ nho, chuyển hóa võ thành văn. 6. BÁCH HOA TÁ QUYỀN (Thư kiếm ân cừu lục) Trần Gia Cách đứng ở mé dưới, chắp tay nói: - Xin tiền bối ra chiêu! Mọi người thấy chàng giữ phong độ nhàn nhã, ung dung tự tại, nhường nhịn, lễ phép, chẳng giống quyết đấu sinh tử chút nào. Người thì thán phục, người thì lo lắng. Chu Trọng Anh giữ đúng lễ của phái Thiếu Lâm, tay trái chắp quyền, tay phải đưa ra mời theo thế "Thỉnh thủ". Nhưng ông biết đối phương tuổi trẻ, lại là vãn bối, chắc chắn không chịu phát chiêu trước, nên không khách sáo nữa. Ông ra chiêu "Tả xuyên hoa thủ", hữu quyền thủ trước bụng, tả quyền đánh vào mặt Trần Gia Cách, nghe vù một tiếng. Phát chưởng này kình lực ghê người, chưởng chưa đến mà chưởng phong đã đến trước rồi. Trần Gia Cách bước thành Hàn nha bộ, tay phải đưa lên gạt phắt chưởng, còn tay trái vẽ một vòng rộng tấn công vào hông của đối phương. Đó chính là chiêu "Đan phụng triều dương" của Thiếu Lâm quyền. Vừa thấy chiên này, cả người của Hồng Hoa hội và Thiết Đảm trang đều phải giật mình. Chu Trọng Anh là cao thủ của Thiếu Lâm quyền thì ai cũng biết, nhưng thật không ngờ Trần Gia Cách cũng thuộc phái Thiếu Lâm. Chu Trọng Anh:"Úi chao!" một tiếng kinh ngạc, nhưng không dám chậm tay, liên tiếp tấn công mấy chiêu "Hoàng Anh lạc giá" rồi "Hoài trung bảo nguyệt", chiêu sau gấp hơn chiêu trước. Trần Gia Cách tới lui tránh né, cũng thi triển Thiếu Lâm quyền rất thuần thục. Quyền thức hai bên giống hệt nhau, tình hình lúc này không giống như tỷ đấu, mà giống như đồng môn đang luyện võ. Tuổi tác hai bên chênh lệch rất nhiều, công lực sâu cạn càng phân biệt, thắng bại thế nào, không nói cũng biết. Quần hùng Hồng Hoa hội đều âm thầm lo lắng, còn người trong Thiết Đảm trang thì thở phào nhẹ nhõm. Chỉ chốc lát, hai bên qua lại đã mười mấy chiêu. Chu Trọng Anh đã luyện Thiếu Lâm quyền mười mấy năm trời, công lực đã đến cảnh giới" lư hỏa thuần thanh". Mỗi quyền cước của ông sung mãn kình lực, lộng gió vù vù. Yếu chỉ của Thiếu Lâm quyền là tâm nhanh, mắt nhanh, tay nhanh, thân nhanh, bước nhanh; nên ông càng đánh càng nhanh, công thủ liền lạc tự nhiên, xoay chuyển tùy theo ý muốn. Bảy mươi hai thế của lộ quyền Thiếu Lâm đầu tiên chưa sử dụng hết một nửa, Trần Gia Cách đã ở thế hạ phong. Chu Trọng Anh đột ngột quát lên, quay người sang trái, xuất chiêu "Phản thân kích bích" nhanh như sao xẹt. Trần Gia Cách vội vã ngửa người ra sau, chưởng chỉ cách người chừng một tấc, suýt nữa không tránh kịp. Quần hùng Hồng Hoa hội đều giật mình kinh hãi. Trần Gia Cách lùi mấy bước, đứng vững rồi tái đấu. Lần này chàng thay đồi quyền pháp, sử dụng "Ngũ hành liên hoàn quyền" của phái Thiếu Lâm, luân phiên thi triển đủ năm ngón "Băng phiên bích pháo hoành". Chu Trọng Anh vẫn dùng Thiếu Lâm quyền đánh trả. Được mấy chiêu, Trần Gia Cách chuyển sang "Bát quái du thân chưởng", chuyển thân không ngừng quanh đại sãnh, dưới ánh nên, trông như có mấy chục người chạy qua chạy lại. Chu Trọng Anh dùng tịnh chế động, cứ trầm tĩnh ứng chiến. Thân pháp của Trần Gia Cách tuy nhanh, nhưng chàng vẫn không chiếm được chút lợi thế nào. Thêm vài chiêu nữa, Chu Trọng Anh vừa phóng tả quyền ra, đột nhiên phát hiện quyền phong của mình đã bị Trần Gia Cách dùng nội lực phong tỏa chặt. Đây chính là chiêu "Như phong tự bế" trong Thái cực quyền. Quyền thế của chàng chậm rãi, thần khí ẩn tàng bên trong, đúng theo bí quyết của nhu chế cương, gặp chiêu phá chiêu, gặp thức phá thức của Thái cực quyền. Mọi người càng xem càng thấy kì lạ. Môn phái Thiếu Lâm và Thái Cực rất khác nhau, quyền ý trái ngược nhau, rất ít có người kiêm học cả hai. Chàng công tử này còn trẻ thế mà đã song tu, thật là quái sự của võ lâm. Chu Trọng Anh cũng phải tập trung chú ý, ứng phó cẩn thận. Lúc này, hai bên công thủ rất chậm, nhưng người am hiểu thì thấy còn hung hiểm hơn rất nhiều so với lúc đấm đá vùn vụt vừa rồi. Hai người tỷ đấu hai mươi mấy chiêu như thế, hầu như đánh chưa đến nơi dã thu về. Trần Gia Cách đột nhiên xuất chiêu "Đảo bối hầu", quyền pháp lại thay đổi. Rồi trong khoảnh khắc, chàng liên tiếp sử dụng lộn xộn những chiêu thức của "Võ Đang trường quyền"," Tam thập lục độ đại cầm mã thủ", "Phân cân tá cốt thủ", "Nhạc gia tán thủ", bốn loại quyền pháp. Mọi người đều thấy quyền pháp của chàng thay đổi liên tiếp thật là hiếm có, không biết chàng còn sử dụng loại quyền thuật nào nữa. Chu Trọng Anh vẫn dùng bất biến ứng vạn biến, sáu đường Thiếu Lâm nhuần nhuyễn ứng phó nhẹ nhàng, thủ thì bảo vệ môn hộ nghiêm mật, công cũng lợi hại vô cùng. Được một lúc, Chu Trọng Anh đột nhiên bước chân trái lên, đạp trúng vạt áo bào của Trần Gia Cách, tả chưởng xuất chiêu "Thảng đảng thiết chưởng" đánh tới hạ bàn. Trần Gia Lạc vội vã lùi lại, bèn cấp tốc sử dụng thân pháp "Lý ngư đả đĩnh" nhảy vọt lên. Nghe soạt! một tiếng, vạt trường bào đã bị xé rách. Chu Trọng Anh lên tiếng: - Đa tạ đã nhường! Trần Gia Cách đỏ mặt lên, phóng chỉ điểm đến hông địch thủ. Hai người lại tiếp tục tỷ đấu. Bấy giờ, người đứng xem lắc đầu. Họ thấy Trần Gia Cách sử dụng "Cầm nả thủ" lại xen lẫn "Ưng trảo công", tay trái phóng "Trường quyền", tay phải dùng "Miên chưởng", khi phát chiêu rõ ràng là "Bát Quái chưởng", khi thu chiêu là "Thái cực quyền", quả là trăm hoa đua nở, loạn xà ngầu, nhìn hoa cả mắt. Bấy giờ, quyền thế của chàng khó mà phân biệt, không sao hiểu nổi đó là chiêu số của môn phái nào. Chu Trọng Anh trong lúc hoảng hốt, chỉ biết múa song quyền bảo vệ phía trước, chân lùi liên tiếp. Ông thấy quyền pháp của đối phương cực kỳ cổ quái, trong quyền, trong chỉ lại xem lẫn những chiêu số đao kiếm, thật chưa gặp cũng chưa nghe bao giờ. Chu Ỷ thấy cha mình lùi lại mãi, bèn lớn tiếng la lên: - Ngươi dùng quyền pháp gì vậy? Loạn xạ như thế thật ra thể thống gì ! Đúng là quyền pháp hồ đồ. Sai bét! Sai bét! Ngươi đánh chiên này lại sai nữa rồi. Tiếng la chưa dứt, bên ngoài sãnh lại có hai người chạy vào, kêu lớn: - Dừng tay lại! Đây chính là Lục Phi Thanh và Triệu Bán Sơn đã đến. Ngay lúc đó, lại nghe có tiếng hô hoán bên ngoài đại sãnh: - Đem nước tới! Chữa cháy! Mau lấy nước! Trong tiếng ồn ào đó, ánh lửa chiếu vào đại sãnh. Chu Trọng Anh đang bị tấn công áp đảo, quyền pháp đã rối loạn rồi. Đột nhiên nghe tiếng chữa cháy, nghỉ tới tài sản cùng gia đình cũng không khỏi lo lắng trong lòng. Vừa phân tâm một chút, đột nhiên chân trái ông tê chồn, huyệt Dương quan trên đầu gối trái bị điểm trúng. Thấy cha loạng choạng sắp ngã xuống đất, Chu Ỷ vội chạy đến đỡõ, kêu lên : - Gia gia! Rồi rút soạt đơn đao, giương ra bảo vệ phụ thân, để phòng địch thủ ra chiêu đoạt mạng, Nhưng Trần Gia Cách không đuổi theo, lùi lại ba bước, lên tiếng : - Xin Chu lão anh hùng nói một câu. Chu Trọng Anh giận giữ nói : - Hay lắm ! Ta thua rồi, phải giao con cho các vị. Đi theo ta. Rồi ông tựa vào Chu Ỷ, đi khập khiễng từng bước vào trong sãnh. LẠM BÀN ( Võ công và văn chương) 1. "Bách hoa tá quyền", quyền thuật độc môn do Thiên trì quái hiệp Viên Sĩ Tiêu sáng lập ra. Hồi trẻ, Viên Sĩ Tiêu ham mê nghiên cứu võ học, kiến thức uyên bác vô song. Về sau, ông gặp chuyện tình cảm không như ý, bèn phát nguyện làm những việc trước đây không ai làm, đánh loại quyền trước đây chưa ai đánh. Ông đi bái phỏng nhiều rất nhiều danh gia võ học, học lén hoặc khiêu khích đánh nhau để xem những chiêu thức của họ. Ông còn kiếm được rất nhiều kiếm phổ của người khác, hoặc là công nhiên cướp đoạt, hoặc là âm thầm đánh cắp.2. Khi đã biết rất nhiều quyền thuật các nhà, các phái, đền tuổi trung niên thì Viên Sĩ Tiêu ẩn cư ở Thiên Trì rồi sáng tạo ra lộ "Bách hoa tá quyền". Quyền pháp này bao gồm cả trăm nhà, mà chỗ kì điểu nhất là chữ "tá", "tá" có nghĩa là sai lệch; mỗi chiêu, mỗi thức đều trông giống như thủ pháp của các phái võ chính tông, nhưng thực tế không phải. Vừa xuất chiêu thì đối phương tưởng là chiêu đó, khi đón đỡ thì mới biết là phương vị tấn công lại không phải thế. Chỗ tinh diệu chính là giống mà không phải, tạo ra được bất ngờ. Ai thấy quyền thế sai lệch như vậy cũng cho là học chưa đến chốn, nhưng vì sai lệch nên đối phương mới không phòng chống được. Đã là cao thủ võ lâm thì kiến văn phải uyên bác, võ học phải tinh thông, nên đối với võ thuật các phái đểu đã có định kiến trong lòng. Vì thế mà không tránh khỏi "Bách hoa dễ địch, giả tá khó lường". 3. Viên Sĩ Tiêu sáng tạo ra quyền thuật này là muốn đánh cho tình địch té nhào, thất bại thê thảm. Nhưng về sau ông lại sở trong lúc điên cuồng lỡ tay đánh chết tình địch thì không hợp lý lắm, nên tự kiềm chế mình, không đi tìm đối phương để động thủ nữa, vì thế mà pho quyền này cả đời ông chưa dùng tới. Đệ tử của ông chỉ có một mình Trần Gia Cách. Thiên Trì quái hiệp đã dạy Trần Gia Cách đủ loại quyền thuật binh đao của các đại môn phái trước, rồi đến căn bản về những môn cầm nã, ám khí, điểm huyệt, khinh công, cuối cùng mới dạy tới "Bách hoa tá quyền". Hôm nay, Trần Gia Cách kịch đấu với Chu Trọng Anh tới hơn trăm chiêu, suýt thất bại, mới hối hận vì mình lỗ mãng. Trước đây chàng chưa bại bao giờ, không khỏi có ý xem thường anh hùng thiên hạ. Sau lần kinh hãi vì suýt bị Chu Trọng Anh đánh bại đành phải đem lộ quái quyền này ra thử lần đầu. 4.Kim Dung đã nêu những loại võ công chính tông như Thiếu Lâm quyền, Bát Quái chưởng, Võ Đang trường quyền, Thái cực quyền, Cầm nã thủ, gọi là" thuần võ". Bên cạnh đó, Kim Dung lại đưa ra phái võ học mới là Bách hoa tá quyền, với tổng quyết, gồm tám chữ là giống mà không phải, tạo được bất ngờ (dĩ thị nhi phi, xuất kì bất ý) xuất chiêu, đối phương tưởng là chiêu đó khi chống đỡ thì mới biết phương vị tấn công lại không phải thế. Tuy, Bách hoa tá có tên gọi rất võ, có tổng quyết tương tự những phái võ chính tông khác, nhưng thực sự loại quyền thuật hư cấu, tưởng tượng, một trong những yếu tố của tiểu thuyết, gọi là "thuần văn chương". 5. Thuần võ, thuần văn hòa quyện với nhau, thành nửa võ, nửa văn, làm cho người đọc đứng giữa thế giới hư thực, tạo nên sức hấp dẫn của tiểu thuyết. 7. THẢNG THI KIẾM PHÁP (Liên thành quyết) Thiếu nữ cúi đầu tránh khỏi. Đồng thời cô vung mộc kiếm đâm luôn mấy nhát. Thế kiếm rất cấp bách.Chàng thanh niên lùi lại hai bước để vung mộc kiếm rộng vòng ra. Chàng quát một tiếng lớn, quét ngang thanh kiếm ba nhát.Thiếu nữ chống không nổi, đột nhiên thu kiếm về đứng yên, không đỡ gạt nữa. Cô làm mặt giận hỏi: -Tiểu muội chịu thua rồi được không? Hay là sư ca đâm chết tiểu muội đi? Chàng thanh niên không ngờ cô thu kiếm về một cách đột ngột, không chịu đỡ gạt nữa.Nhát kiếm thứ ba của chàng sắp hớt vào lưng cô khiến chàng hốt hoảng, vội thu chiêu lại. Vì thế kiếm mạnh quá đập trúng vào mu bàn tay trái chàng đánh chát một tiếng. Chàng không nhịn được la lên một tiếng: - Ui chao! Thiếu nữ vỗ tay vừa cười vừa hỏi: - Đã mắc cỡ chưa? Nếu cầm kiếm thật thì cánh tay đó liệu còn được chăng ? Gương mặt đen nhẻm của thanh niên ẩn hiện màu hồng, chàng sẵng giọng: - Vì ta sợ hớt vào người cô, vội thu kiếm về, bất cẩn một chút mà đụng vào tay mình. Nếu là cuộc tỷ thí chân thực thì khi nào chịu nhượng bộ? Rồi chàng quay sang nhìn lão già hỏi: - Sư phụ! Lão nhân gia bình nghị vụ này như thế nào? Lão già cầm chiếc giày đan dở đứng dậy đáp: - Hai người chiết giải năm chục chiêu đầu còn coi được, nhưng mấy chiêu về sau thì chẳng ra trò gì hết! Lão cầm lấy thanh kiếm trong tay thiếu nữ vung lên thủ thế chém xéo xuống, miệng nói: - " Chiêu Ca ông hám thượng lai " này tiếp đến chiêu "Thị hoành bất cảm quá " là phải quét ngang chứ không đâm thẳng. A Phương! Hai chiêu " Hốt thính phún kình phong" ,"Liên sơn nhược bổ đào" thế kiếm phải giống tấm vải mở bung ra. A Vân! Hai chiêu " Lạc nê chiếu đại thư", "Mã minh phong tiểu tiểu" ngươi sử như vậy mới tạm được, nhưng đã gọi là phong tiểu tiểu mà ngươi vận hết sức để sử kiếm thì không đúng cách. Lão dừng lại một chút rồi tiếp: - Kiếm pháp của chúng ta kêu bằng "Thảng thi kiếm pháp" lừng danh trong võ lâm. Chỉ phóng ra một chiêu đã khiến địch nhân té nhào thành cái xác chết. Người nhà tập dượt với nhau tuy không thể đánh thật như vậy, nhưng lúc nào trong lòng cũng phải nhớ tới hai chữ "Thảng thi" là chết ngay đứ đừ. Thiếu nữ nói: - Gia gia ơi! Kiếm pháp của chúng ta rất hay, nhưng cái tên không được dễ nghe. Bốn chữ " Thảng thi kiếm pháp thật khiến người ta phải ớn gáy. Lão già đáp: -Người ta nghe có khiếp sợ mới oai phong chớ! Địch nhân chưa động thủ đã kinh tâm động phách là thua mấy phần rồi. Tay lão cầm kiếm gỗ đem sáu chiêu kể trên diễn lại một lượt. Kiếm chiêu ngưng trọng, tiến thoái nghiêm minh có vẻ lợi hại dị thường. Đôi nam nữ thanh niên này trong lòng rất kính phục, bất giác vỗ tay hoan hô. Lão đưa kiếm trả thiếu nữ nói: – Hai người luyện lại lần nữa. A Phương không được coi là trò đùa. Vừa rồi nếu sư ca ngươi không nhường nhịn thì liệu ngươi còn sống được chăng? Thiếu nữ nghe lão nói bất giác thè lưỡi ra. Đột nhiên cô phóng kiếm đâm tới cực kỳ thần tốc.Thanh niên không kịp đề phòng, vội xoay kiếm đỡ gạt, nhưng đã bị thiếu nữ chiếm mất thượng phong, tấn công ráo riết. Trong lúc nhất thời thanh niên chẳng có cách nào vãn hồi tình thế. Giữa lúc chàng lâm vào cục diện thất bại thì đột nhiên mé đông bắc có tiếng vó ngựa dồn dập. Một người kỵ mã đang chạy nhanh tới. Thanh nhiên quay lại hỏi: – Ai sắp đến đó?Thiếu nữ lớn tiếng: – Đánh thua rồi, đừng cãi chày cãi cối. Ai đến thì mặc người ta, việc gì đến sư ca? Cô vung kiếm rít lên veo véo tấn công ba chiêu liền.Thanh niên hết sức chống đỡ. Chàng tức giận quát hỏi: – Cô tưởng ta sợ cô ư? Thiếu nữ cười đáp: - Sư ca ngoài miệng không sợ, nhưng trong lòng cũng hơi run một tý .Cô phóng kiếm đâm mé tả một chiêu, mé hữu một chiêu cực kỳ linh động. Lúc này người kỵ mã đã dừng ngựa. Hắn không nhịn được reo lên: - Thiên hoa lạc bất tận! Xứ xứ điểu hàm phi! Thật là tuyệt diệu! LẠM BÀN (Từ Thảng thi kiếm pháp đến Đường thi kiếm pháp) 1. Uy Trường Phát giải thích với đệ tử và con gái : - Kiếm pháp của chúng ta kêu bằng "Thảng thi kiếm pháp" lừng danh trong võ lâm. Chỉ phóng ra một chiêu đã khiến địch nhân té nhào thành cái xác chết. Thiếu nữ nói: - Gia gia ơi! Kiếm pháp của chúng ta rất hay, nhưng cái tên không được dễ nghe. Bốn chữ "Thảng thi kiếm pháp" thật khiến người ta phải ớn gáy. Lão già đáp: - Người ta nghe có khiếp sợ mới oai phong chớ! Địch nhân chưa động thủ đã kinh tâm động phách là thua mấy phần rồi. Theo cách giải thích của Uy Trường pháp vì tính thực dụng, uy hiếp đối phương nên gọi là "Thảng thi kiếm pháp" 2. Các câu diễn các chiêu thức của Thảng thi kiếm pháp cọng lại là một bài thơ Đường. Đặc biệt câu : "Lạc nê chiếu đại thư", nguyên văn là "Lạc nhật chiếu đại kì", một câu thơ quen thuộc trong thơ Đường. Người vùng Tương Tây (Trung Quốc) thường đọc chữ "nhật" ra chư" nê", đồng âm khác chữ và nghĩa; chữ "kì" đổi ra "thư", từ vật đổi thành nhân vật. 3. Do bài thơ, do những câu thơ trích dẫn, có thể gọi "Thảng thi kiếm pháp" thành "Đường thi kiếm pháp"; từ thực dụng chuyển thành âm hưởng thơ, từ thông tục chuyển thành thanh nhã. 8.PHU THÊ ĐAO PHÁP (Uyên ương đao) Lâm Ngọc Long chửi Nhiệm Phi Yến: -Toàn do con mụ thối ta này mà ra, nếu mình luyện thành "Phu thê đao pháp", hai người hợp lực thì đâu có sợ lão già mù? Nhiệm Phi Yến nói: - Luyện không thành "Phu thê đao pháp", toàn là do ngươi cả, chứ có phải tại ta đâu? Lão hòa thượng đã bảo, ngươi phải chỉ cho ta, sao ngươi luyện chỉ biết có một mình thôi? Hai người, cứ "anh nói anh phải, chị nói chị hay", cãi nhau không dứt. Viên Quán Nam nghe nói tới "Phu thê đao pháp" liền nói: - Bọn mình có bốn người, theo đứa trẻ, lại cả bà ni cô già, tất cả là đại họa trước mắt. Nếu lão già mù quay lại thỉ chẳng một ai sống sót, các ngươi còn cãi nhau cái gì?" Phu thê đao pháp" là cái chi chi mới được chứ? Lâm Ngọc Long và Nhiệm Phi Yến cứ người này nói một câu, một lúc lâu mới rõ được. Nguyên ba năm trước, hai người mới lấy nhau, thì đã đánh nhau chửi nhau. May sao, gặp được một vị cao tăng thấy hai người hợp nhãn, nên truyền cho họ một pho đao pháp. Pho đao pháp này truyền cho Lâm Ngọc Long và Nhiệm Phi Yến hoàn toàn khác hẳn, một khi hai người luyện thành thục, hợp lực chống địch, hai bên "âm dương khai hạp", phối hợp thành "thiên y vô phùng", một bên tiến, thì bên kia thoái, một bên công, một bên thủ. Lão hòa thượng có nói: - Nếu luyện được đao pháp này, hai người hành tẩu giang hồ, dù cho kẻ địch có cao cường cách nào, cũng không thắng được vợ chồng ngươi. Thế nhưng, một người sử dụng đao pháp này chẳng có ích gì. Ông ta sợ đôi vợ chồng này bất hòa có thể đi đến chia tay, nên mới muốn cho họ luyện kì môn đao pháp, để cho họ có thể ở với nhau lâu dài, không ai dám bỏ ai. Lộ đao pháp này vốn do một đôi vợ chồng ân tình nồng thắm sang tạo, hai người không lúc nào rời nhau, tâm đầu ý hợp, một khi song đao thi triển, hai bên bảo vệ lẫn cho nhau. Nào ngờ, Lâm Ngọc Long và Nhiệm Phi Yến, hai người tính tình nóng nảy, tuy đều học đao pháp của phần mình, nhưng nếu muốn hai bên tương phụ tương thành phối hợp khít khao thì không thể nào làm được. Chỉ luyện ba bốn chiêu, đã không bảo hộ cho nhau, mà lại còn người nọ đấu với người kia nữa. Viên Quán Nam nghe hai người kể xong, chợt nghĩ ra một cách, quay sang nói với Tiêu Trung Tuệ: - Cô nương! Tại hạ có một câu chẳng biết rào trước đón sau, đáng lẽ không nên nói, nhưng sự việc khẩn cấp, bọn mình tính mạng ai cũng lâm nguy. Trung Tuệ tiếp lời: - Ta biết rồi, có phải các hạ muốn hai đứa mình học "Phu thê … Phu thê ?" Nàng nói tới đây, mặt đỏ bừng. Viên Quán nam nói : - Ồ ! Tiểu khả không có ý dám mạo phạm, thực ra! Tiêu Trung Tuệ không nói them với y nữa, quay sang nói với Nhiệm Phi Yến: - Đại tẩu, xin chỉ chỉ cho tiểu muội, hếu ý cùng học được …học được … có thể chống với lão già mù, thì có thể cứu được tính mạng mọi người chúng ta. Nhiệm Phi Yến nói: -Lộ đao pháp này học rất khó. Không phải một ngày, một nuổi mà học được! Tiểu Trung Tuệ đáp: - Học được chút nào hay chút nấy, còn hơn bó tay chịu chết. Nhiệm Phi Yến nói: - Được rồi, để ta dạy cho ngươi. Lâm Ngọc Long, Nhiệm Phi Yến, hai người miệng nói tay diễn, từng chiêu thức dạy cho hai người. Viên Quán Nam và Tiêu Trung Tuệ đứng coi cố sức ghi nhớ. Tuy hai người võ công không phải là kém nhưng" Phu thê đao pháp" thật phức tạp, nhất thời chẳng nhớ được bao nhiêu. Lâm Ngọc Long và Nhiệm Phi Yến, hai vợ chồng vừa dạy được vài chiêu đã mỗi ngưỡi một ý lên tiếng cãi cọ. Hai người dạy, hai người học, mới được mười hai chiêu, thì nghe tiếng người quát từ ngoài cửa vọng vào. -Tặc tiểu tử! Ngươi trốn vào đâu? Một bóng người thấp thoáng, Trác Thiên Hùng tay cầm thiết trượng, đã tiến vào trong điện. Lâm Ngọc Long thấy y tới chẳng những không sợ mà còn nổi cái, quát lên: - Đao pháp của ta dạy chưa xong, ngươi đã đến rồi, đợi thêm một lát được không? Y muốn biểu diễn thân thủ ngay trước mặt Viên Quán Nam và Tiêu Trung Tuệ, liển múa đao lên, chém vào ngang hông Trác Thiên Hùng. Khi đó, đáng lẽ Nhiệm Phi Yến phải sử dụng thức thứ nhất trong "Phu thê đao pháp", múa đao bảo vệ cho chồng, nhưng mụ ta hiếu thắng, sử ngay chiêu thứ hai xông vào tấn công, thành ra cục diện song đao tấn kích. Trác Thiên Hùng vừa thấy đao pháp đối phương để lộ sơ hở, liền dùng thiết trượng, sử dụng chiêu Thâu thiên hoán nhật, gạt song đao ra, tay trái từ dưới bỗng phóng ra, nghe tách tách hai tiếng, hai vợ chồng đã bị trúng huyệt đạo. Nếu hai vợ chồng không sử dụng Phu thê đao pháp còn đấu được một lúc, nhưng vì sử dụng lại để thất cơ lỡ vận, vừa một chiêu đã bị chế ngự ngay. Lâm Ngọc Long giận quá, chửi ngay: - Con mụ thối tha, ta mới đánh chiêu thứ nhất, người phải múa đao hộ vệ bên hông ta mới phải ! Nhiệm Phi Yến bực tức đáp: - Sao ngươi không theo ta chiêu thứ hai? Cứ ta phải theo ngươi là thế nào? Hai người đao còn lơ lửng trên không mà miệng đã cãi vã ỏm tỏi. Viên Quán Nam biết thế sự hôm nay khó mà thoát khỏi tai kiếp, hạ giọng nói với Viên Trung Tuệ. - Tiêu cô nương mau đào tẩu, để tôi cầm cự với y. Tiểu Trung Tuệ không ngờ y lại có bụng dạ hiệp nghĩa đến thế, ngẩn người ra, thấy nóng ran trong ngực, nói: - Không! Chúng ta hợp lực đấu với y. Viên Quán Nam nóng ruột nói: - Cô cứ nghe lời tôi chạy mau. Hôm nay, nêu như tôi không chết, sau này thế nào cũng có ngày gặp lại. Tiêu Trung Tuệ nói: - Không được đâu! Nói chưa dứt lời, Trác Thiên Hùng đã múa thiết trượng xông tới, Viên Quán Nam vung đao chém ra. Tiêu Trung Tuệ thấy chiêu đó, trên vai y lộ ra chỗ trống, không đợi Trác Thiên Hùng trả đòn, liền xông ra múa đao hộ vệ vai cho y. Hai người chưa từng luyện tập, chỉ vì một người muốn người kia chạy trước, người này lại muốn ở lại cho có bạn, hai người đều động lòng hiệp nghĩa, lúc lâm địch tự nhiên lại bảo vệ nhau. Lâm Ngọc Long thấy rõ ràng, kêu lên: - Hay lắm! Chiêu thứ nhất trong "Phu thê đao pháp", "Nữ mạo tài châu vạn hộc sử" hay lắm, dùng thật kì diệu. Viên Quán Nam và Tiêu Trung Tuệ đều đỏ mặt, không ngờ trong cơn nguy cấp, hai người lại thuận tay sử một chiêu vừa mới học, làm sao lại phối hợp không sai sót mảy may. Trác Thiên Hùng vung ngang thiết trượng, đang định tấn công. Nhiệm Phi Yến kêu lên: - Chiêu thứ hai, "Thiên giáo diễm chất vi quyến thuộc". Tiêu Trung Tuệ theo đúng thế mà tấn công. Viên Quán Nam liền giơ ngang đao thủ ngự. Trác Thiên Hùng không thể dùng cách lấy công làm thủ, đành phải lui lại một bước. Lâm Ngọc Long kêu lên: - Chiêu thứ ba, "Thanh phong dẫn bội hạ Giao đài". Viên Trung Tuệ và Viên Quán Nam cùng múa đao lên, gió nghe vi vút. Nhiệm Phi Yến lại nói: - "Minh nguyệt chiếu trang thành kim ốc". Tiêu Trung Tuệ, Viên Quán Nam, hai người nhìn nhau mỉm cười, ánh đao lấp lánh chiếu rọi trên khuôn mặt. Trác Thiên Hùng lại bị dồn, lùi them một bước nữa. Chỉ nghe Lâm Ngọc Long, Nhiệm Phi Yến đọc liên tiếp các chiêu số: "-Đạo quang yễm ánh khổng tước bình -Hỉ kết ti la tại kiều mộc -Anh hùng vô song phong lưu tê -Khước phiến động phòng nhiên hoa chúc - Bích tiêu thanh lý song minh phượng -Kim triêu hữu nữ nhan như ngọc -Thiên kim nhất khắc khánh lương tiêu -Chiếm đoạn nhân gian thiên thượng phúc" Hai người đọc tới đây, mười hai chiêu trong Phu thê đao pháp đã hết, tuy còn hơn sáu mươi chiêu nữa nhưng Viên Quán Nam và Tiêu Trung Tuệ, hai người chưa học được. Viên Quán Nam kêu lên: - Đi lại từ đầu. Một đao chém ra, chính là chiêu" Nữ mạo lang tài châu vạn hộc". Hai người lần đầu sử mười hai chiêu này, phối hợp chưa thuần thục lắm nhưng Trác Thiên Hùng đã tay chân luống cuống, chống đỡ thật khó khăn. Bây giờ, sử lại từ đầu, hai người đã tương thông với nhau, thấy lộ đao pháp này chiêu nào cũng là một câu thơ, nghe thật tình tứ, không khỏi vừa mừng vừa lo, phối hợp"Uyên ương đao" càng càng thêm chặt chẽ, đến chiêu thứ chín là "Bích tiêu thanh lí song minh phượng", song đao múa ra chẳng khác gì loan bay phượng múa, linh động uyển chuyển, Trác Thiên Hùng làm sao chống đỡ nổi? Chỉ nghe một tiếng A !, đầu vai ý đã trúng đao, máu chảy tung tóe. Y biết không địch nổi, đánh thêm sẽ bỏ mạng nơi am ni cô này, liền thu trượng về, nhảy vọt qua tường chạy mất. Viên Quán Nam, Tiêu Trung Tuệ, hai người nhìn nhau, tình trong như đã, nhất thời không biết phải nói gì. Bỗng nghe Lâm Ngọc Long lớn tiếng quát: - Hay quá! Hay quá! "Nữ mạo tài lang châu vạn hộc". Bản tâm y khen ngợi Phu thê đao pháp của mình. Nhưng Tiêu Trung Tuệ nghe thế, mặt lại đỏ bừng, cúi đầu chạy khỏi ni am. Viên Quán Nam đuổi theo đến cửa, thấy bóng sau lưng của Tiêu Trung Tuệ thấp thoáng khuất sau một rặng dương liễu, rồi biến mất. LẠM BÀN (Võ công và thơ trữ tình) 1. Chim uyên, con đực, chim ương, con mái, quấn quýt không rời nhau, tượng trưng cho tình nghĩa vợ chồng nồng đượm, thủy chung; cho nên cũng có thể gọi "Phu thê đao pháp" là "Uyên ương đao pháp". 2. Lâm Ngọc Long và Nhiệm Phi Yến tuy là vợ chồng, luyện Phu thê đao pháp đã lâu, nhưng họ thường cãi cọ nhau, thiếu liên thông, thiếu phối hợp, không ăn ý, nên chỉ một chiêu đầu đã bị thất bại dưới tay Trác Thiên Hùng. 3. Viên Quán Nam và Tiêu Trung Tuệ vốn chưa có tình ý với nhau, chưa phải tình nhân nhưng, với tinh thần trượng nghĩa, họ muốn bảo vệ lẫn nhau, hiểu nhau phối hợp ăn ý nên đã đánh bại Trác Thiên Hùng. Cũng từ luyện" Phu thê đao pháp", dùng "Phu thê đao pháp" đánh bại kẻ thù chung, thì tình trong của họ như đã, nhưng mặt ngoài còn e, chớm nở một cuộc tình. 4. Tính cách của cặp vợ chồng Lâm Ngọc Long, Nhiệm Phi Yến khác tính cách của cặp bạn trẻ Viên Quán Nam và Tiêu Trung Tuệ, nên kết quả sự phối hợp đao pháp khác nhau, võ công luôn gắn với tính cách của con người. 5. Các chiêu số của Phu thê đao pháp là tình yêu đôi lứa nên có đủ sắc thái tình cảm : buồn, kính trọng, lo toan, có phẫn uất, có cảm thông, có than thở, có vui, buồn … thể hiện qua từng câu thơ và động tác. Nhưng cái lớn của "Phu thê đao pháp" lòng nhân (nhân ái), muốn bạn, cứu người, cứu mình và chính đó là sức mạnh vô địch (nhân giả vô địch). 6. "Uyên ương đao", "Phu thê đao pháp" chỉ là cái cớ, võ công cũng chỉ là cái cớ, để viết bài thơ tình trữ tình; toàn bộ bài thiệu, chiêu số, là một bài thơ. 7. Tuy nói Phu thê đao pháp có 72 chiêu, thực chất là 12 chiêu chính, vì chỉ có 12 câu thơ, 60 chiêu còn lại là hư số, số thực chỉ 1 phần 6 trong tổng số chiêu. 9. ÁM NHIÊN TIÊU HỒN CHƯỞNG (Thần điêu hiệp lữ) 1) Dương Quá và Chu Bá Thông Chu Bá Thông tuy dùng một cánh tay ứng chiến, nhưng chiêu số thần diệu vô phương, Dương Qúa đối phó không dễ chút nào. Thoáng chốc đã qua hơn hai mươi chiêu, Dương Quá nghĩ thầm, mình tuy có một cánh tay, nhưng đang còn trai trẻ, đã đấu hơn trăm chiêu với một lão nhân ngót trăm tuổi mà vẫn không thắng, thì công phu tu luyện mười mấy năm qua phỏng có đáng gì? Chàng cảm thấy khí dương cương trong kình lực mà Chu Bá Thông phát ra cứ mạnh dần, khác hẳn với khí âm nhu của "Không minh quyền", thì bỗng nhớ đến bộ "Cửu âm chân kinh" khắc trên vách đá trong tòa cổ mộ, lúc này chiêu số mà Chu Bá Thông đang sử chính là lộ "Đại phục ma quyền pháp" trong "Cửu âm chân kinh". Chàng quát to: - Đại phục ma quyền pháp có gì đáng kể! Lão huynh hãy dùng cả hai tay mà chống đỡ" Ám nhiên tiêu hồn chưởng" của đệ này! Chu Bá Thông nghe chàng gọi đúng tên quyền pháp của mình, đã sững lại, lại nghe chàng nói cái gì "Ám nhiên tiêu hồn chưởng", thì càng lấy làm lạ. Chu Bá Thông từ bé đã hiếu võ, có kiến văn cực kỳ quảng bác về các môn pháp võ công trong thiên hạ, nhưng cái tên "Ám nhiên tiêu hồn "chưởng thì lão chưa nghe lần nào. Chỉ thấy Dương Quá tay đưa ra sau lưng, đưa mắt nhìn ra xa, chân không ở thế vững chãi, hở ngực hở bụng, tư thế toàn thân đại kỵ đối với võ học. Chu Bá Thông tiến lên một bước, tay trái nhứ một chưởng thăm dò. Dương Quá làm như không để ý. Chu Bá Thông liền nói: - Cẩn thận này! Rồi tung quyền đánh tới bụng dưới của chàng. Lão sợ đả thương đối phương, nên chỉ sử dụng ba thành kình lực, nào ngờ nắm đấm vừa chạm vào người Dương Quá, thì đột nhiên cơ bụng rung động, đồng thời ngực đối phương lõm vào, tiếp đó bật ra. Chu Bá Thông cả kinh, vội nhảy sang bên trái, nghĩ cao thủ nội gia lõm ngực bụng để tránh đòn là chuyện bình thường, nhưng dùng cơ ngực bụng đả thương đối phương thì lão chưa từng thấy, cũng chưa từng nghe kể. Lòng hiếu kỳ trỗi dậy, lão quát: - Huynh đệ có môn võ công gì vậy? Dương Quá nói: - Đấy là chiêu thứ mười ba trong "Ám nhiên tiêu hồn chưởng", có tên là "Tâm kinh nhục khiêu!" Chu Bá Thông lẩm bẩm: - Chưa từng thấy qua, chưa từng nghe qua! Dương Quá nói:- Đó là mười bảy chiêu chưởng pháp do đệ tự nghĩ ra, lão huynh làm sao biết được. Chu Bá Thông nghe nói là môn võ công do chàng sáng tạo, thì càng cao hứng, nói: - Càng cần phải biết, nhất định phải biết! Lão vung quyền, vẫn chỉ dùng tay trái. Dương Quá ngẩng mặt lên trời, làm như không thấy, vù một chưởng vỗ ngang qua đầu mình, từ trên chéo xuống, chưởng lực hóa thành hình cánh cung, tán lạc tứ phía. Chu Bá Thông biết chưởng lực kiểu này không thể né tránh, bèn giơ chưởng nghênh tiếp, bộp một cái song chưởng tương giao, thân hình lão chao đảo, chỉ vì lão khinh địch, không biết rằng võ công của mình tuy không yếu hơn đối phương, song chưởng lực của lão không thể hùng hậu bằng của Dương Quá. Chu Bá Thông thở ra một luồng trọc khí, nói: - Hay, chiêu này tên là gì? Dương Quá nói:- Là chiêu "Khởi nhân ưu thiên!" Cẩn thận này, tiếp theo sẽ là chiêu "Vô trung sinh hữu!" Chu Bá Thông cười hi hi, nghĩ cái tên gọi "Vô trung sinh hữu" vừa cổ quái vừa lí thú, tên tiểu tử vẫn nghĩ ra được, bèn lại sấn tới. Dương Quá buông tay, hoàn toàn không có ý phòng thủ, đợi khi chiêu quyền của Chu Bá Thông còn cách da thịt mình chừng một tấc đột nhiên chân tay cùng động, tả chưởng, ống tay áo bên phải, hai chân, đầu cổ, ngay cả lưng ngực bụng cũng đều phát ra chiêu thức tấn công đối phương. Chu Bá Thông tuy sớm đề phòng chàng có tuyệt chiêu, song không thể ngờ chàng lại dùng toàn thân công kích, trong chớp mắt đã có mười mấy chiêu đánh ra, gọi là một chiêu "Vô trung sinh hữu", nhưng biến hóa thành mười mấy chiêu thức, ngay võ học tinh thâm như Chu Bá Thông mà cũng luống cuống chân tay. Lão vốn buông thõng cánh tay bên phải không dùng, lúc này đành phải giơ lên toàn lực chống đỡ, mới cản được lộ chưởng pháp này, nói về việc hoàn chiêu, là điều không thể làm được. Chống đỡ rồi, lão nhảy lùi hơn một trượng, đề phòng Dương Quá xuất chiêu quái quỉ gì tiếp đó. Quách Tương kêu lên: - Chu lão gia tử, tiền bối sử dụng cả hai tay chưa đủ! Tốt nhất là mọc thêm một cánh tay nữa. Chu Bá Thông cũng không giận, cười nói: - Con nhãi ranh, mi bảo ta luống cuống chân tay chứ gì? Dương Quá thấy Lão Ngoan đồng hóa giải hết các chiêu thức tấn công bất ngờ của chàng một cách kì diệu, thì không khỏi thán phục, nói: - Chiêu tiếp theo là "Đà nê đới thủy!" Chu Bá Thông và Quách Tương cùng cười, kêu lên: - Tên nghe kì quá! Dương Quá nói: - Tiếp theo còn kì hơn! Tiếp chiêu! Đoạn ống tay áo phiêu động, y như nước chảy, bàn tay trái làm như đang vét lớp bùn nặng ngàn cân. Chu Bá Thông năm xưa từng nghe sư huynh Vương Trùng Dương nói rằng Hoàng Dược Sư sáng tạo một lộ Ngũ hành chưởng pháp, trong chưởng lực ám hợp ngũ hành, lúc này thấy Dương Quá tay áo bên phải là tượng Quý thủy ở phương Bắc, tả quyền là tượng Mậu thổ ởTtrung tâm, vừa khinh linh, vừa trầm mãnh, thì lão không dám xem nhẹ, tay trái sử một chiêu trong "Không Minh quyền" tay phải sử một chiêu trong "Đại phục ma quyền", dùng khinh linh đối phó với khinh linh, dùng trầm mãnh đối phó với trầm mãnh. Quyền chưởng đôi bên đụng nhau, hai người cùng hô lên, cùng lùi lại mấy bước. Bốn chiêu vừa rồi, một già một trẻ đều thầm thán phục đối phương. Dương Quá nghĩ: Từ khi luyện thành "Ám nhiên tiêu hồn chưởng", đến nay mới gặp cường địch nhất là Lão Ngoan đồng, muốn thắng lão quả không dễ. Muốn phân thắng bại thật sự, tất phải tỷ thí nội lực, khi đó không chết cũng sẽ trọng thương, giống như Hồng Thất Công với nghĩa phụ mình cùng bỏ mạng vậy, thì có khổ hay không? Chàng bèn dẹp ngay khí cuồng ngạo, vái dài sát đất, nói: - Chu lão tiền bối, thán phục thán phục, vãn bối xin nhận thua. Rồi chàng quay sang phía Quách Tương, nói: - Tiểu muội tử, vậy là không mời được Chu lão tiền bối đi gặp, chúng ta về thôi! Chu Bá Thông vội nói: - Khoan đã, khoan đã nào! Huynh đệ bảo cái món "Ám nhiên tiêu hồn chưởng" này có những mười bảy chiêu, còn mười ba chiêu huynh đệ chưa thi triển, sao đã bỏ đi? Dương Quá nói: - Chúng ta không thù không oán, hà tất phải thí mạng? Chu huynh đối với đệ rất tử tế, đối với thê tử của đệ cũng rất tử tế, đệ luôn luôn cảm kích. Tiền bối võ công cao siêu, vãn bối xin nhận thua mà. Chu Bá Thông xua tay lia lịa, nói: - Không đúng, không đúng! Huynh đệ chưa thua, ta cũng chưa thắng. Huynh đệ muốn rời khỏi Bách hoa cốc, trừ phi thi triển hết mười bảy chiêu chưởng pháp đã. Lão nghe Dương Quá gọi tên bốn lộ chưởng pháp, nào "Tâm kinh nhục khiêu", "Khởi nhân ưu thiên", nào "Đà nê đới thủy", "Vô trung sinh hữu", tên gọi lý thú, chưởng pháp càng lạ, đến người thường còn muốn xem rốt cuộc là thế nào, huống hồ Chu Bá Thông một là hiếu võ, hai là hiếu kỳ, phải biết cho kỳ hết mới được. Dương Quá nói: - Buồn cười thật. Đệ đã không mời được lão huynh đi chẳng lẽ bị buộc phải ở lại hay sao? Chu Bá Thông khẩn khoản: - Hảo huynh đệ, mười ba chiêu chưởng pháp còn lại của huynh đệ, ta làm sao đoán ra được? Mong huynh đệ đại phát thiện tâm, làm một việc tốt là nói cho ta biết. Rồi huynh đệ muốn học công phu gì, ta cũng sẽ dạy cho. Dương Quá chợt nảy một ý, nói: - Lão huynh muốn học bộ chưởng pháp của đệ cũng hoàn toàn không khó, mà đệ cũng không cần lão huynh dạy võ công; chỉ cần sau khi lão huynh học xong, phải theo đệ đi gặp Anh Cô một phen. Chu Bá Thông mặt mày nhăn nhó, nói: - Huynh đệ có cắt đầu ta, ta cũng quyết không đi gặp Anh Cô. Dương Quá nói: - Đã vậy thì vãn bối xin cáo từ ! Chu Bá Thông nhảy tới chắn đường, đánh ra một quyền, cười lấy lòng, nói: - Hảo huynh đệ, thi triển thêm một chiêu nữa đi. Dương Quá đưa chưởng gạt đi, chàng sử dụng võ công phái Toàn Chân. Chu Bá Thông thay đổi quyền pháp, Dương Quá thủy chung chỉ chống đỡ bằng chưởng pháp phái Toàn Chân và võ công nói trong "Cửu âm chân kinh". Dương Quá muốn đánh bại Chu Bá Thông, vốn không phải chuyện dễ, nhưng nếu chỉ tự bảo vệ mình thì Lão Ngoan đồng cũng không làm gì nổi chàng. Bất kể Chu Bá Thông cố ý để lộ sơ hở, cố ý tỏ ra non kém, chàng thủy chung cũng không mắc lừa. không thi triển thêm các chiêu thức khác của "Ám nhiên tiêu hồn chưởng", ngoài bốn chiêu "Tâm kinh nhục khiêu", "Khởi nhân ưu thiên"," Đà nê đới thủy", "Vô trung sinh hữu", khiến cho Chu Bá Thông càng háo hức muốn biết. Hai người giao đấu ngót một canh giờ, Chu Bá Thông đã cao tuổi, khí huyết đã suy, nội lực dần dần không còn bằng lúc đầu, biết không thể dụ Dương Quá thi triển " Ám nhiên tiêu hồn chưởng", bèn nhảy lùi lại nói: - Thôi, thôi! Ta khấu đầu trước huynh đệ tám cái, bái huynh đệ làm sư phụ, huynh đệ chịu dạy cho ta đi. Dương sư phụ, đệ tử Chu Bá Thông xin khấu đầu! Nói đoạn quì xuống đất. 2) Ám nhiêu tiêu hồn chưởng phát sinh đại uy lực Dương Quá lâm vào hiểm cảnh cực độ, mấy lần định sử dụng "Ám nhiên tiêu hồn chưởng" để đánh bại cường địch, nhưng theo lộ chưởng pháp này, thân phải hợp với tâm, sau khi chàng đoàn tụ với Tiểu Long Nữ, lòng quá sung sướng, làm gì còn chỗ cho tâm trạng "Ám nhiên tiêu hồn? " Tuy gặp nguy cấp, nhưng không có nỗi khổ tương tư ngày trước, nên chiêu thức sử dụng kém hẳn uy lực. Tình cảnh Dương Quá trên đài cao tay không chống chọi, vai và chân bị thương chảy máu, nhóm Quách Tĩnh ở bên dưới nhìn thấy cả, nhưng khoảng cách quá cao xa, không tài gì bay lên cứu trợ. Hoàng Dung chợt nghĩ ra một cách, chạy tới cầm lấy thanh kiếm trong tay Gia Luật Tề, tung cho Quách Tĩnh, nói: - Hãy bắn lên cho Quá nhi! Quách Tĩnh nhận thanh kiếm, lấy hai cái cung cứng chập vào nhau, đặt cán kiếm vào dây cung, tay trái giữ chắc hai thân cung, tay phải kéo căng hai dây cung, rồi buông tay, thanh kiếm bay vút lên, bạch quang loang loáng. Thanh kiếm bay vo vo tới phía sau Dương Quá, chàng phất ống tay áo rỗng cuốn lấy nó, rồi tay trái chộp được thân kiếm. Vừa lúc ấy cái diên luân của Pháp vương đánh tới. Dương Quá đâm một kiếm vào giữa song luân. Nhưng vai trái của chàng đã bị thương, kình lực giảm hẳn. Song luân của Pháp vương dập lại cạch một cái, lại đánh gãy trường kiếm. Mọi người ở dưới đài cao nhìn rõ mồn một, thảy đều thất sắc. Dương Quá thầm biết hôm nay thế là hết, chẳng những không cứu được Quách Tương, mà chính mình cũng bỏ mạng trên đài cao này, chàng buồn rầu nhìn Tiểu Long Nữ ở bên dưới một cái, gọi: - Long nhi, vĩnh biệt, vĩnh biệt, nàng hãy bảo trọng! Đúng lúc ấy thiết luân của Pháp vương đánh tới đầu chàng. Dương Quá trong lòng không còn thiết gì nữa, tuyệt vọng phất ống tay áo, đánh ra một chưởng, chỉ nghe hự! một tiếng, chưởng đó đã trúng vai Pháp vương. Bỗng nghe Chu Bá Thông ở bên dưới reo to: - Chiêu "Đà nê đới thủy" tuyệt quá! Dương Quá sững sờ, chợt tỉnh ngộ, thì ra chàng biết mình sắp chết, thất hồn lạc phách, đánh đại một chiêu, không ngờ lại là chiêu "Đà nê đới thủy" trong "Ám nhiên tiêu hồn chưởng". Theo bộ chưởng pháp này, tâm điều khiển cánh tay, cánh tay điều khiển bàn tay, tâm ý hoàn toàn làm chủ. Nay Dương Quá và Tiểu Long Nữ trùng phùng, lộ chưởng pháp này mất đi thần hiệu, mãi đến thời khắc sinh tử hệ trọng này, lòng chàng nghĩ tới cảnh phải vĩnh biệt Tiểu Long Nữ, vô cùng đau đớn tuyệt vọng, thì "Ám nhiên tiêu hồn chưởng" mới tự nhiên lại phát sinh đại uy lực. Pháp vương vốn đang nắm chắc phần thắng, đột nhiên vai bị trúng chưởng, thân hình lảo đảo, vừa kinh hãi vừa tức giận, liền nhào cả người tới. Dương Quá lùi bước né tránh, sử liên tiếp ba chiêu Hồn bất thủ xả, Đảo hành nghịch thi, Nhược hữu sở thất. Tiếp đó đá một cước, sử chiêu "Hành thi tẩu nhục". Cước này tung ra nửa hư nửa thực, Pháp vương không biết đường nào mà tránh. Hự ! Một cái, trúng ngay giữa ngực lão ta. Pháp vương rú lên một tiếng, hộc ra một ngụm máu tươi ngã lộn khỏi cái đài cao rơi xuống đất. LẠM BÀN (Võ công và bài phú biệt li của Giang Yêm) 1.Dương Quá sau khi chia tay với Tiểu Long Nữ ở Tuyệt tình cốc, không lâu sau được Thần điêu dẫn ra bờ biển luyện công trong hải triều, mấy năm sau trừ nội công tuần tự nhi tiến, không còn gì để luyện thêm, trong lòng lúc nào cũng chỉ nhớ đến Tiểu Long Nữ, dần dần hình tiêu cốt lập, không còn gì hứng thú. Một hôm đứng lặng trên bờ biển rất lâu, tự dưng hoa chân múa tay, lúc này nội công đã tới mức hỏa hầu, mỗi khi xuất thủ đều có uy lực cực lớn, chỉ đánh nhẹ một chưởng đã làm nát bét một con vích lớn đang bò trên cát. Từ đó chàng ngẫm nghĩ, sáng tạo nên một bộ chưởng pháp hoàn chỉnh, gồm mười bảy chiêu, khi xuất thủ khác hẳn với võ công thông thường, sự lợi hại hoàn toàn dựa vào nội lực. Chàng bình sinh được không ít danh gia võ học chỉ điểm, học được khẩu quyết nội công chính tông Huyền môn của phái Toàn Chân, học được "Ngọc nữ tâm kinh" cùng Tiểu Long Nữ, trong tòa cổ mộ được thấy "Cửu âm chân kinh", Âu Dương Phong truyền cho Cáp mô công và nghịch chuyển kinh mạch; Hồng Thất Công và Hoàng Dung truyền thụ "Đả cẩu bổng pháp", Hoàng Dược Sư truyền thụ "Đàn chỉ thần công" và "Ngọc tiêu kiếm pháp", ngoài" Nhất dương chỉ "ra, các môn võ công của Đông Tà, Tây Độc, Bắc Cái, Trung Thần Thông chàng đều học qua, hiện tại dung hội quán thông. Chỉ vì có một cánh tay, không thủ thắng bằng cách biến hóa chiêu số, mà cố ý tương phản với đạo lí võ học. Chàng đặt tên cho bộ chưởng pháp ấy là "Ám nhiên tiêu hồn chưởng", là lấy ý của câu " Ám nhiên tiêu hồn giả, duy biệt nhi dĩ hĩ." 2. Từ khi luyện xong "Ám nhiêu tiêu hồn chưởng" đến giờ, mới gặp Chu Bá Thông là một đối thủ thật sự. Dương Quá tung ba chiêu là "Khởi nhân ưu thiên", "Đà nê đới thủy", "Vô trung sinh hữu"; trong ba chiêu, tập trung ý nghĩa là chiêu "Vô trung sinh hữu", từ không biến thành có, có có, không không, hư hư thực thực, thực hư, hư thực, tức là sự biến hóa của chưởng lực ám hợp ngũ hành đã làm cho Lão Ngoan đồng, vốn là cao thủ, đã phải luống cuống. 3. Thông thường, trong võ lâm người ta khoe tuyệt kĩ công phu hơn là dấu tuyệt kĩ công phu, khoe mình tài trí, ít ai tự cho mình ngu si đần độn, hồ đồ. Riêng Dương Quá, sau khi tung ba chiêu vừa làm cho Lão Ngoan Đồng lung túng, vừa gợi trí tò mò Dương Quá không tung chiêu nào khác nữa. Dương Quá vừa dẹp được lòng kiêu ngạo của mình vừa biết nhưng giả như không biết gọi là tàng chuyết, là một trong những tính cách của Dương Quá. 4. Dương Quá thấy Lão Ngoan đồng ham mê học võ như si tình, lại khẩn khoản, chàng nghĩ thầm: Vị tiền bối này cũng là người chung tình như ta, ta còn tiếc gì mười bảy chiêu "Ám nhiên tiêu hồn chưởng?" Rồi Dương Quá miệng nói tay múa, diễn liền mười bảy chiêu từ đầu đến cuối, riêng chiêu" Diện vô nhân sắc", do chàng đang mang mặt nạ, nên chưa hiển thị, chàng chỉ nói cách biến hóa, Chu Bá Thông thông thuộc" Cửu âm chân kinh", có thể lĩnh hội được ngay. Hai chiêu "Hành thi tẩu nhục" và "Cùng đường mạt lộ" thì lão không ngộ nổi yếu chỉ của chúng. 5. Dương Quá chia li với Tiểu Long Nữ, hình dung tiều tụy, lòng đầy thương nhớ, tuyệt vọng, đã sáng tạo ra "Ám nhiên tiêu hồn chưởng". Khi Dương Quá và Tiểu Long Nữ trùng phùng, hội ngộ, lộ chưởng pháp này mất đi thần hiệu. Mãi đến giao đấu với Kim Luân Pháp vương, thân lơ lửng trên cao, mạng sống như mành treo chuông, thời khắc sinh tử hệ trọng, lòng chàng nghĩ tới cảnh phải vĩnh biệt Tiểu Long Nữ, vô cùng đau đớn tuyệt vọng, thì" Ám nhiên tiêu hồn chưởng" mới tự nhiên lại phát sinh đại uy lực, đánh bại Kim Luân Pháp vương. Suy ra, yếu chỉ của "Ám nhiêu tiêu hồn chưởng", là phân (chia li) không phải hợp (tái ngộ, trùng phùng), là chết mới tình ra đường sống, là chưởng pháp của người cùng đường mạt lộ. Lão Ngoan Đồng tuy võ công cao cường, võ học uyên thâm nhưng chưa trãi nghiệm nỗi thống khổ như Dương Quá nên không ngộ nỗi hai chiêu "Hành thi tẩu nhục" và "Cùng đường mạt lộ "là lẽ thường. 6. Ám nhiên tiêu hồn giả, duy biệt nhi dĩ hĩ (Mặt u uất vô hồn, chỉ có biệt li khiến con người như thế) là lấy ý trong bài Biệt phú của Giang Yêm, đời Tề Lương, tức lấy từ ý bài phú biến thành võ công. 7. Theo tinh thần võ sĩ đạo là vô tình, quên tình lấy võ để tranh thắng, Dương Qua dùng võ không thể tranh thắng, nhớ đến tình thì có thể tranh tranh thắng, võ với tình là một. Cảm thông với bài phú biệt li, trãi nghiệm sự biệt li sinh võ, võ sinh từ tình, tình làm cho võ phát sinh đại uy lực. Đó là cái hay của Ám nhiên tiêu hồn chưởng. 10. LỤC MẠCH THẦN KIẾM VÀ LĂNG BA VI BỘ (Thiên long bát bộ) Đoàn Dự còn đang gắng gượng đứng lên, tay trái vẫn bịt chặt vết thương trên trán, bộ dạng cực kỳ hoang mang, thấy tên đầu đà quả toan giết Vương Ngữ Yên thực mà nàng thì vẫn đứng trơ trơ, không biết vì sợ quá nên chết trân hay đã bị người ta điểm huyệt mà chẳng kháng cự né tránh gì cả. Đoàn Dự hoảng hốt không đâu kể xiết, trong cơn gấp gáp liền vung tay ra, tự nhiên chân khí lưu chuyển sử dụng Lục mạch thần kiếm, soẹt soẹt bắn rạt một cái, cánh tay gã đầu đà đã đứt đôi, cả bàn tay lẫn giới đao rơi bịch xuống đất. Chàng vội vàng xông lên, xoay người lại vòng tay cõng luôn Vương Ngữ Yên lên lưng kêu lớn: - Chạy trốn cho mau ! Cánh tay gã đầu đà bị đứt, đau thấu xương tủy, trong cơn cuồng nộ hung tính nổi lên, gầm một tiếng, nhặt cánh tay vẫn còn nắm chặt thanh đao ném thẳng về phía Đoàn Dự, thế đi cực kỳ mạnh mẽ. Đoàn Dự lại chỉ ngón tay phải ra, suỵt một tiếng, một chiêu "Thiếu dương kiếm" trúng ngay thanh đao, giựt bắn lên rơi xuống. Thế nhưng bàn tay đứt vẫn tiếp tục bay tới, nghe bốp một tiếng vả cho Đoàn Dự một cái thật mạnh. Đòn đó khiến cho Đoàn Dự choáng váng mắt hoa lên, chân lảo đảo, kêulớn: - Hảo công phu, tay đã đứt mà vẫn còn đánh người được ! Trong bụng chỉ nghĩ làm sao cứu được Vương Ngữ Yên ra khỏi nơi đây, lập tức thi triển Lăng ba vi bộ chạy ra ngoài. Đám người kêu la rầm rĩ, xông ra chặn lại. Thế nhưng, Đoàn Dự nghiêng trái oẹo phải, vẹo vẹo cong cong vẫn thoát được. Các động chủ, đảo chủ kẻ vung quyền cước, người dùng binh khí tấn công nhưng Đoàn Dự chỉ lạng người là tránh được ngay.Bước chân chàng cực kỳ nhanh nhẹn, cứ theo Vương Ngữ Yên xa xa mà Mộ Dung Phục, Bao Bất Đồng cả bọn không sao biết được. Chỉ trong phút chốc, Đoàn Dự đã cõng Vương Ngữ Yên thoát khỏi trùng vi nhưng sợ người đuổi theo nên chạy miết đến vài trăm trượng, lúc ấy mới ngừng, thở phào một hơi, đặt nàng xuống. Vương Ngữ Yên mặt mày bẽn lẽn nói: - Đừng, đừng! Đoàn công tử, thiếp bị người ta điểm huyệt, đứng không được. Đoàn Dự đỡ vai nàng lên nói: - Được rồi, cô chỉ cho tôi phép giải huyệt, tôi sẽ giải huyệt cho cô nương. Vương Ngữ Yên lại càng sượng sùng, ấp úng: - Không sao! Chẳng cần đâu. Sau một giờ ba khắc, huyệt đạo tự nhiên giải khai, anh không cần phải giải huyệt cho tôi làm gì. Nàng biết rằng muốn giải huyệt cho mình thì phải xoa bóp huyệt Thần phong, huyệt Thần phong lại nằm ngay trên nhũ bộ, cực kỳ bất tiện. Đoàn Dự không rõ lý do, nói: - Nơi đây vẫn còn nguy hiểm, không nên ở lâu, tôi phải giải huyệt cho cô trước rồi mới tính chuyện thoát thân được.Vương Ngữ Yên mặt lại đỏ lên nói: - Không được! Nàng quay đầu, thấy Mộ Dung Phục và bọn Đặng Bách Xuyên vẫn còn đang xung sát trong đám người kia, trong lòng lo lắng cho biểu ca, lập cập nói: - Đoàn công tử, biểu ca tôi bị người ta vây đánh, mình phải tới cứu anh ta ra trước đã. Đoàn Dự tim nhói lên, biết nàng lúc nào cũng chỉ nghĩ đến Mộ Dung công tử mà thôi, đột nhiên bao nhiêu ước mơ trong đầu tan ra mây khói, nghĩ thầm: Mối tình của mình, rồi cũng chẳng đi đến đâu, Đoàn Dự hôm nay làm tròn tâm nguyện cho nàng, vì Mộ Dung Phục mà bỏ mạng thì cũng chẳng sao ! Chàng bèn nói: - Hay lắm, cô đợi ở đây, tôi đi cứu anh ta. Vương Ngữ Yên vội đáp: - Không, không được! Anh không biết võ công làm sao đi cứu người được? Đoàn Dự mỉm cười:- Thế mới rồi tôi chẳng cõng cô ra là gì? Vương Ngữ Yên biết môn Lục mạch thần kiếm của chàng lúc thì linh nghiệm, lúc không, không thể tự ý thu phát nên nói: - Vừa rồi là tại. anh lo cho an nguy của tôi nên mới sử dụng được Lục mạch thần kiếm. Còn đối với biểu ca tôi, anh đâu có coi anh ta được như tôi, chỉ sợ.? chỉ sợ.? Đoàn Dự ngắt lời: - Cô không phải lo, tôi đối với biểu ca cô không khác gì cô cả. Vương Ngữ Yên lắc đầu nói: - Đoàn công tử, việc này quá ư mạo hiểm, không được đâu. Đoàn Dự ưỡn ngực hùng dũng đáp: - Vương cô nương, chỉ cần cô bảo tôi mạo hiểm thì dù có vạn lần chết cũng chẳng từ nan. Vương Ngữ Yên má lại ửng hồng, khẽ nói: - Công tử đối với thiếp tốt bụng như thế, quả không dám nhận. Đoàn Dự lại càng hứng chí nói: - Có gì mà không dám nhận ? Nhận được chứ, được quá đi chứ ! Chàng liền quay đầu, trong lòng cảm thấy hăng tiết tưởng chừng như muốn xông ngay vào trận chiến. Vương Ngữ Yên gọi giật lại: - Đoàn công tử, tôi không cử động được, anh đi rồi chẳng ai ở đây lo, nếu có kẻ gian đến làm hại. Đoàn Dự ngoái cổ lại, gãi gãi đầu ấp úng: - Cái đó... hừ... cái đó...! Vương Ngữ Yên vốn dĩ muốn Đoàn Dự lại cõng mình trên lưng, quay lại trợ giúp Mộ Dung Phục, có điều câu đó quá ư dạn dĩ, không tiện ngỏ lời.Nàng mong cho Đoàn Dự hiểu ý, ngờ đâu anh chàng ngơ ngẩn không hiểu ra, chỉ đứng gãi đầu dậm cẳng xem chừng khó nghĩ.Tai nghe tiếng người la ó càng lúc càng hăng, leng keng leng keng, tiếng binh khí chạm nhau càng lúc càng nhiều, bên Mộ Dung Phục bị đánh càng thêm rát. Vương Ngữ Yên biết rằng bên địch rất lợi hại, lại càng bồn chồn, không còn thẹn thùng gì nữa, nói nhỏ: - Đoàn công tử, phiền anh lại... lại cõng tôi một lần nữa, hai đứa mình cùng quay lại cứu biểu ca tôi, có vậy... có vậy...! Đoàn Dự chợt hiểu ra, dậm chân nói: - Đúng đó! Đúng đó! Quả là ngốc, ngốc quá đi thôi! Sao mình lại không nghĩ ra nhỉ? Chàng bèn khom người xuống cõng nàng lại trên lưng. Lần đầu Đoàn Dự cõng Vương Ngữ Yên, trong lòng chỉ tính chuyện cứu nàng thoát hiểm, ngoài ra không có ý gì khác, bây giờ lại mang thân hình mềm mại của nàng trênlưng, hai tay lại móc chặt lấy hai chân nàng, tuy hai bên còn cách mấy lượt quần áo nhưng cũng cảm thấy da nàng nhẵn nhụi không khỏi tâm thần bay bổng, lập tức lại tự trách mình: "Đoàn Dự ơi Đoàn Dự, lúc này là lúc nào mà sao ngươi còn nổi lòng tà, thật chẳng bằng loài cầm thú! Người ta là một cô nương băng thanh ngọc khiết, tôn quí vô cùng, dù đầu ngươi chỉ nổi một chút tạp niệm bất lương thì cũng đã là mạo phạm đến nàng rồi, đáng đánh, quả là đáng ăn đòn !" Chàng giơ tay lên, vả cho mình hai cái thật đau, rồi xoải chân phóng như bay về phía trước.Vương Ngữ Yên ngạc nhiên hết sức, hỏi: - Đoàn công tử, công tử làm sao thế ? Đoàn Dự bản tính thực thà, lại thêm một niềm kính trọng Vương Ngữ Yên chẳng khác gì tiên trên trời, nên không dám dấu diếm liền đáp: - Nói ra thật là hổ thẹn, trong lòng tôi nổi lên một ý niệm bất kính đối với cô nương, quả đáng đánh đòn ! Vương Ngữ Yên hiểu ngay chàng có ý nghĩ gì, thẹn đến đỏ mặt tía tai. Ngay lúc đó, một đạo sĩ tay cầm trường kiếm, nhảy vọt tới quát lên: - Con mẹ nó, tiểu tử này lại đến phá rối nữa sao ? Y sử chiêu "Độc long xuất động" giơ kiếm lên đâm thẳng vào ngực Đoàn Dự. Đoàn Dự tự nhiên chân bước theo Lăng ba vi bộ, nghiêng người tránh qua. Vương Ngữ Yên nói nhỏ: - Kiếm thứ hai của y ắt là từ trái đâm qua, anh tránh trước qua bên phải đi, đánh một chưởng vào huyệt Thiên tông. Quả nhiên đạo sĩ đó một kiếm không trúng, chiêu thứ hai "Thanh triệt mai hoa" từ bên trái đâm qua, Đoàn Dự theo đúng cách Vương Ngữ Yên chỉ điểm, bước qua bên phải của đạo sĩ, đánh ra một chưởng, trúng ngay huyệt Thiên tông. Nơi đó chính là chỗ nhược của đạo sĩ, chưởng của Đoàn Dự tuy lực không nặng lắm nhưng cũng đánh cho y hộc máu mồm, nằm lăn quay ra. Gã đạo sĩ vừa ngã, lập tức có một hán tử xông lên. Vương Ngữ Yên bụng đầy sách vở, nhỏ nhẹ chỉ điểm, Đoàn Dự cứ đúng thế mà làm, lập tức thanh toán ngay được gã kia. Đoàn Dự thấy thắng địch thật dễ dàng lại có Vương Ngữ Yên ghé miệng bên tai thủ thỉ dặn dò, người ngọc mềm mại trên lưng, hương thơm thoang thoảng, tuy ở nơi chiến trường ra vào sống chết, chung quanh vẫn là cả một bầu trời rực rỡ, là một kỳ cảnh bình sinh chưa thấy bao giờ. LẠM BÀN (Võ công và văn chương) 1. Trong những ngày vừa qua, trong lòng chàng chỉ nghĩ đến một mình Vương Ngữ Yên, cả đến giấc mơ cũng chỉ thấy Vương Ngữ Yên. Trên đường đi theo, Đoàn Dự tự nhủ với lòng mình không biết bao nhiêu lần: "Ta theo nàng một dặm này nữa thôi, rồi sau đó không đi nữa. Đoàn Dự ơi Đoàn Dự, ngươi tự biết mình yêu lầm người, sa chân vào cạm bẫy ái tình không nhấc ra được, thật chẳng đáng mặt là người đọc sáchSao không biết vung kiếm tuệ cắt đứt tơ vương, bờ vực gò cương, quay đầu thấy bến, nếu không thì uổng cả một đời! Kinh Phật có dạy rằng : Nếu biết được sắc là vô thường thì sẽ chán ghét mà rời xa, lòng tham dứt được thì tâm sẽ giải thoát. Sắc là vô thường, mà vô thường là khổ, khổ thì không phải cái ta thực. Nếu biết chán ghét sắc đẹp thì sẽ dửng dưng, dửng dưng tức là giải thoát vậy".Thế nhưng bảo chàng nhìn được sắc của Vương Ngữ Yên là vô thường để từ đó sinh ra chán ghét thì đâu có dễ? Nay thấy Vương Ngữ Yên gặp nguy hiểm, Đoàn Dự ra tay giải cứu. 2.Lăng ba vi bộ, là loại khinh công tuyệt thế trong thiên hạ, Lục mạch thần kiếm là nội công kiếm khí vô hình; khinh công, nội công, khí công hợp nhất khi Đoàn Dự thi triển võ công. 3. Đoàn Dự là người thủ đắc khinh công và nội công kiếm khí là hai môn tuyệt học nhưng lại không hiểu nhiều võ học. Ngược lại, Vương Ngữ Yên không thạo võ công nhưng lại rất thông thạo về võ học, chỉ điểm cho Đoàn Dự các chiêu thức đánh bại lão đạo sĩ, hán tử. 4. Đoàn Dự và Vương Ngữ Yên chưa từng tập luyện võ công cùng nhau, khi nguy cấp phối hợp rất ăn ý, hai mà một, một mà hai, đột phá trùng vây thoát ra khỏi hiểm nguy. 5. Trong sát khí bời bời, nẩy nở tình cảm trai gái, vượt qua những e thẹn thường tình, những ràng buộc lễ giáo hàng ngày. 6. Ngày thường võ công Đoàn Dự rất kém, khi có khi không; nay quyết giải cứu người mình thương thầm nhớ trộm, xuất chiêu ào ào như gió bão, chân khí trong người dũng mãnh lạ thường. 7. Đoàn Dự cõng Vương Ngữ Yên, cô ta ghé miệng bên tai thủ thỉ dặn dò, người ngọc mềm mại trên lưng, hương thơm thoang thoảng, tuy ở nơi chiến trường ra vào sống chết, chung quanh vẫn là cả một bầu trời rực rỡ, là một kỳ cảnh bình sinh chưa thấy bao giờ. 8. Đoàn Dự dùng Lục mạch thần kiếm, Lăng ba vi bộ thoát khỏi trùng vây sinh tử; nay lại lọt thõm vào lưới tình Vương Ngữ Yên, dù luyện Lục mạch thần kiếm và Lăng ba vi bộ đến mức tinh thông chắc cũng không thoát khỏi cái bẩy này. 9. Theo các nhà nghiên cứu tiểu thuyết Kim Dung, đoạn trích trên thể hiện được sự mới mẻ (tân), kì lạ (kì), khéo (xảo), đẹp (mĩ), thú vị (thú), vui (lạc), bao gồm tình, cảnh, nhân vật, lí, tâm và vật; đặc biệt là kì nhưng hữu lí, khéo nhưng không trống rỗng (hư). 10. Đọc đoạn văn trên, khó mà phân biệt ranh giới giữa võ công và văn chương, tình yêu và nghệ thuật. 11. Ỷ THIÊN ĐỒ LONG CÔNG (Ỷ thiên Đồ long kí) Trương Thúy Sơn lòng đầy đau thương, căm giận, không cách gì phát tiết, nằm trằn trọc hơn một tiếng đồng hồ. Chàng len lén trở dậy, quyết ý tìm bọn Đô Đại Cẩm đánh một trận cho đã tức. Chàng e ngại đại sư huynh, tứ sư huynh ngăn cản, nên không dám gây tiếng động, rón rén đi ra. Đến đại sảnh, chàng thấy một bóng người, hai tay chắp sau lưng, không ngừng đi qua lại. Trong ánh sáng mông lung mờ ảo, thấy người đó lưng dài vai rộng, bước chân ngưng trọng, chính là sư phụ. Trương Thúy Sơn náu mình sau cột, không dám cử động, tính thầm là phải về phòng ngay. Thế nhưng ắt là sư phụ sẽ hay biết, nếu bị tra hỏi, đành phải nói thực, thì thế nào cũng bị trách mắng. Chàng chỉ thấy Trương Tam Phong đi lại một hồi, ngửng đầu ngẫm nghĩ, bỗng nhiên đưa tay phải, tại không trung làm bút, viết lên thành chữ. Trương Tam Phong cả văn lẫn võ đều thong, ngân thơ viết chữ, học trò đều biết nên không lấy làm lạ. Chàng theo dõi nét bút ở tay, hóa ra ông viết đi viết lại mấy lần hai chữ "tang loạn", rồi lại viết lại viết hai chữ "đồ độc". Trương Thúy Sơn trong lòng rung động, nghĩ thầm: Trong lòng sư phụ đang nghĩ đến "Tang loạn thiếp". Chàng có ngoại hiệu là "Ngân câu thiết hoạch", vốn bởi tay trái sử dụng hổ đầu câu bạc vụn, tay phải sử phán quan bút thép ròng mà ra. Từ khi mang cái tên đó rồi, Thúy Sơn e ngại danh quá kì thực, sợ giới văn nhân chê cười, nên tiềm tâm học phép viết chữ, chân, thảo, lệ, triện, loại nào cũng tập. Khi đó, chàng thấy sư phụ dung ngón tay làm bút, đạt đến tình trạng không nét nào duỗi ra mà không thu vào, không nét nào đi rồi mà không quay lại; chính là bút ý của Vương Hi Chi trong "Tang loạn thiếp". Hai năm trước, chàng đã tập qua "Tang loạn thiếp", biết là nét bút túng dật, mạnh mẽ chắc nịch nhưng không bằng được nét chữ trang nghiêm, cẩn thận, khí tượng vững vàng trong "Lan Đình thi tự thiếp" hay "Thập thất thiếp".Lúc này, chàng thấy sư phụ đưa tay viết liên tiếp: "Hi Chi đốn thủ, tang loạn chi cực, tiên mộ tái li đồ độc, truy duy kháo thậm". Mười tám chữ, mỗi nét, mỗi chữ đểu tran đầy uất hận, bi phẫn, nên bỗng cảm thong được tâm tình Vương Hi Chi khi viết Tang loạn thiếp. Trương Tam Phong viết đi viết lại mấy lần, bỗng thở dài một tiếng, bước tới giữa sân, đứng trầm ngâm một hồi, rồi đưa ngón tay, lại bắt đầu viết chữ. Lần này, theo cách viết chữ hoàn toàn khác hẳn. Trương Thúy Sơn theo nét bút thì thấy chữ đầu tiên là chữ "Võ", rồi đến chữ "lâm", tiếp tục hai mươi bốn chữ, chính là câu người đời thường truyền tụng: Võ lâm chí tôn Bảo đao Đồ Long Hiệu lệnh thiên hạ Mạc cảm bất tòng Ý thiên bất xuất Thùy dữ tranh phong Dường như Trương Tam Phong đang tìm cách suy nghĩ cho ra thâm ý hai mươi bốn chữ này để biết vì cớ gì Du Đại Nham bị thương? Việc này có liên hệ gì đến hai món thần binh lợi khí là Đồ Long và Ỷ Thiên? Chỉ thấy ông viết một lần hai mươi bốn chữ, rồi viết lại lần nữa, mỗi nét bút mội lúc một dài, nhưng đưa tay mỗi lúc một chậm, đến về sau ngang dọc, đóng mở, chẳng khác gì thi triển quyền cước. Trương Thúy Sơn ngưng thần theo dõi, trong lòng vừa mừng vừa sợ, hai mươi bốn chữ kia mà sư phụ vừa viết là một pho võ công thực cao minh, mỗi chữ bao gồm nhiều chiêu, mỗi chiêu lại bao gồm nhiều cách biến hóa. Chữ "long" và chữ "phong" nhiều nét, chư đao chữ hạ ít nét. Thế nhưng nhiều nét mà không rườm rà, ít nèt cũng không thô lậu, lúc thu vào như con sâu co mình, lúc bung ra như con thỏ vụt chạy, lâm li sảng khoái, cương kiện hùng hồn. Nét phóng dật thỉ vi vu nhẹ nhàng như tuyết rơi lả tả, nét nặng nề thì hậu trọng như voi đi, uy nghi như hổ bước. Sau phút giây thảng thốt, Trương Thúy Sơn vội định thần chú tâm ghi nhớ. Hai mươi bốn chữ đó, bao gồm hai chữ "bất", hai chữ "thiên", thế nhưng những chữ đó viết ra hình giống nhau mà ý không đồng, khí tưởng giống mà thần không giống, biến hóa ảo diệu, quả thật là một công trình. Phép viết đó, Trương Tam Phong diễn đi diễn lại, thoáng cái đã hơn hai tiếng đồng hồ, đến lúc trăng lên đến đỉnh đầu, ông hú lên một tiếng dài, tay phải quét từ trên thẳng xuống, như ánh kiếm vung ra, như mũi tên phóng tới, sấm chưa kịp rền, điện chưa kịp xẹt; chiêu đó chính là nét sổ sau cùng trong chữ "phong". Trương Tam Phong ngẩng đầu nhìn trời hỏi: - Thúy Sơn, đường thư pháp đó, con thấy sao? Trương Thúy Sơn giật mình kinh hãi, không ngờ rằng mình ẩn sau cây cột, sư phụ tuy không quay đầu lại nhưng đã biết rồi, vội vàng chạy ra, nói: - Đệ tử có phúc được coi lén tuyệt kĩ của sư phụ, thật là thỏa lòng. Để con gọi các vị sư ca ra để cùng ngưỡng mộ được không ? Trương Tam Phong lắc đầu: - Hứng của ta đã hết rồi, có diễn lại cũng không sao viết được đẹp như thế. Bọn Viễn Kiều, Tùng Khê không biết thư pháp, dẫu có được coi, cũng không hiểu biết bao nhiêu. Nói xong, ông phất tay vào nội đường. LẠM BÀN (Võ công và thư pháp) 1. Ỷ thiên Đồ long công ra đời do ba nguyên nhân sau: Một, Trương Tam Phong vốn là đại biểu cho phái Võ Đang, nhiệm vụ của ông phải không ngừng sang tạo những pho võ công mới, chiêu thức mới cho môn phái. Hai, Trương Tam Phong thông cả văn lẫn võ, ngâm thơ viết chữ đều thạo, nên ông đã dựa vào thư pháp, lấy hai mươi bốn chữ đang được lưu truyền trong giới võ lâm để sáng tạo Ỷ thiên Đồ long công, là điều hợp lí. Ba, Du Đại Nham, cao đồ của Trương Tam Phong bị đánh trọng thương, khiến cho Trương Tam Phong uất hận, bi phẫn, ông cảm thông được tâm sự của Vương Hi Chi, thấu hiểu được "Tang loạn thiếp". Từ chỗ uất hận, bi phẫn, cảm thông, Trương Tam Phong đã đem 24 chữ ra diễn thành võ công. 2. Trương Thúy Sơn, vốn là người đã học qua thư pháp, nay tâm trạng của Trương Thúy Sơn cũng không khác mấy tâm trạng của thầy là bi phẫn, uất ức, nên tâm ý thầy trò tương thông tình ý hợp nhất, lãnh hội được những tâm sự của thầy diễn qua thư pháp võ công. 3. Trương Tam Phong hiểu lòng Vương Hi Chi. Trương Thúy Sơn hiểu thâm ý của người xưa và lòng thầy, nhờ sự lãnh hội ấy mà Trương Thúy luyện rất thành công Ỷ hiên Đồ long công, thấy được những nét vươn ra, nắm bắt chẳng khác gì chim nhạn tung bay, chim điêu xoải cánh, khi vươn cổ, lúc thu mình, thế như mây ban, toàn than nhẹ nhàng lãng đãng, chẳng khác gì đằng vân giá vũ. 4. Văn chương hoặc thư pháp từ tấm lòng đến tấm lòng, có tấm lòng mới hiểu nhau, trải qua cảnh ngộ mới hiểu được người khổ công sáng tạo. Tương tự, võ cũng phải từ tấm lòng đi đến tấm lòng, cũng phải trải qua cảnh ngộ mới lãnh hội được những chiêu thức kì tuyệt. 5. Trương Tam Phong chỉ truyền tâm cho Trương Thúy Sơn, ông không truyền cho các đệ khác, ông cho rằng, Bọn Viễn Kiều, Tùng Khê không biết thư pháp, dẫu có được coi, cũng hiểu biết không bao nhiêu 12. KHI TẠ TỐN THI THƯ PHÁP VỚI TRƯƠNG THÚY SƠN (Ỷ thiên Đồ long ký) Tạ Tốn nói: - Trên chốn giang hồ ai cũng khen ngợi Ngân Câu Thiết Hoạch Trương Thúy Sơn, hôm nay song đầu lang nha bổng của tôi hân hạnh được lĩnh giáo. Còn chiếc hổ đầu câu bằng bạc vụn đâu? Sao ngũ hiệp không lấy ra luôn thể? Trương Thúy Sơn nói: - Tôi không muốn tỉ thí binh khí với tiền bối, chỉ thi viết vài chữ thôi. Nói xong, chàng chậm rãi đi đến gần vách đá nơi ngọn núi ở phía bên trái, hít một hơi dài, hai chân nhún một cái, phóng mình nhảy lên. Võ công của phái Võ Đương vốn dĩ đứng vào bậc nhất thiên hạ, lúc này lại là lúc gặp phải hiểm nguy sống chết, lẽ nào lại không hết sức ra tay? Thân hình tung lên khoảng hơn một trượng, lập tức chàng sử dụng công phu tuyệt kỹ "Thê vân túng", chân phải đạp vào vách núi một cái, mượn sức, lại vọt lên hai trượng nữa. Phán quản bút trong tay nhắm thẳng vào mặt đá, xoẹt xoẹt xoẹt mấy tiếng, đã viết xong chữ "Võ". Một chữ vừa viết xong, thân hình chàng như muốn rơi xuống. Trương Thúy Sơn uốn mình tay trái vung chiếc ngân câu, đã trúng một chỗ nhô ra trên vách, chiếc móc chịu cả sức nặng đong đưa. Tay phải lại tiếp tục viết chữ "lâm" . Hai chữ này, mỗi nét mỗi gạch, đều do Trương Tam Phong đêm khuya suy nghĩ đắn đo mà sáng tạo ra, bên trong bao hàm cương nhu, âm dương, tinh thần khí thế, phải nói là đạt đến cao điểm công phu của phái Võ Đương. Tuy Trương Thúy Sơn công lực còn non, nét bút hằn vào đá chưa sâu mấy nhưng hai chữ rồng bay phượng múa, bút lực hùng kiện, tưởng như dùng khoái kiếm trường thương đục thành. Viết hai chữ xong, chàng viết tiếp chữ "chí", chữ "tôn". Càng viết càng nhanh, chỉ thấy đá vụn lả tả rơi xuống, tưởng như linh xà uốn khúc, trông như mãnh thú vươn mình, khoảnh khắc đã xong hai mươi bốn chữ. Việc khắc chữ lên vách đá có khác gì hính ảnh trong thơ Lý Bạch: Gió rít mưa sa rơi lộp bộp Hoa rơi tuyết thổi rét căm căm" Trên vách viết ra không ngừng lại Một hàng chữ to bằng cái đấu: Bàng hoàng nghe tựa quỉ thần kinh Đâu đâu cũng thấy rồng rắn lượn Quét phải, uốn trái như sấm chớp Khác gì Sở Hán đang giao tranh (Tiêu phong sậu vũ kinh táp táp Lạc hoa phi tuyết hà mang mang. Khởi lai hướng bích bất đình thủ Nhất hàng sổ tự đại như đẩu Hoảng hoảng như văn quỉ thần kinh Thời thời chỉ kiến long xà tẩu Tả bàn hữu túc như kinh lôi Trạng đồng Sở Hán tương công chiến) Trương Thúy Sơn viết đến nét cuối của chữ phong rồi, cả ngân câu lẫn thiết bút cùng đẩy mạnh vào vách núi, uốn mình rơi xuống đất, nhẹ nhàng khéo léo làm sao đứng ngay bên cạnh Ân Tố Tố. Tạ Tốn chăm chăm nhìn ba hàng đại tự trên vách núi một lúc thật lâu, không nói một lời. Sau cùng y thở dài một tiếng: - Tôi không viết nổi, xin chịu thua. Nên biết là từ "Võ lâm chí tôn" cho đến "Thùy dữ tranh phong" tổng cộng hai mươi bốn chữ, vốn do Trương Tam Phong ý đáo thần hội, suy đi nghĩ lại mà sáng chế ra, đều do ở bút ý. Một nét ngang, một nét dọc, một cái chấm, một cái phẩy, đều là toàn do dung hợp những gì tinh diệu nhất của võ công. Giá như chính Trương Tam Phong đến đây, nhưng trước chưa qua một đêm cùng cực suy nghĩ, ắt cũng không có được cái tâm cảnh như thế. Ví dù có suy nghĩ hồi lâu, muốn viết hai mươi bốn chữ lên vách núi, cũng không thể nào đạt được trình độ xuất thần nhập hóa thế này. Tạ Tốn có biết đâu nguyên do bên trong, tưởng rằng vì việc bảo đao Đồ Long trước mắt phát khởi tranh chấp, Trương Thúy Sơn lập tức tự ý viết ra ba hàng chữ mà từ lâu cố lão vẫn truyền. Thực ra, ngoài hai mươi bốn chữ này nếu bảo Trương Thúy Sơn viết những chữ khác, so sánh nét bút yếu mạnh, nông sâu sẽ thấy khác xa ngay. Ân Tố Tố mừng quá, vỗ tay reo: - Thế là ông thua, phải giữ lời nhé. Tạ Tốn nhìn Trương Thúy Sơn nói: - Trương ngũ hiệp đem võ học lồng vào thư pháp, mở ra một con đường mới, khiến cho người người phải mở to mắt, bội phục, bội phục. Ngũ hiệp có điều gì sai bảo, mau nói ra đi. LẠM BÀN (Thư pháp, võ công và thơ Lí Bạch) 1 .Trương Thúy Sơn không thể tỉ võ cùng Tạ Tốn, trong lúc túng thế đã đem Đồ long công, tuyệt học của thầy truyền, để tỉ thí với Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn. Bút pháp của Trương Thúy Sơn, một nét ngang, một nét dọc, một cái chấm, một cái phẩy, đều là toàn do dung hợp những gì tinh diệu nhất của võ công. Tạ Tốn vốn rất kiêu ngạo, nhưng đã phải buột miệng khen: Trương ngũ hiệp đem võ học lồng vào thư pháp, mở ra một con đường mới, khiến cho người người phải mở to mắt, bội phục, bội phục. Trương Thúy Sơn văn võ toàn tài, giỏi thư pháp. Tạ Tốn chỉ giỏi võ, không rành thư pháp, đành phải chịu thua. 2. Để khỏi trùng lặp với đoạn miêu tả Trương Tam Phong, Kim Dung đã thêm vào đoạn tả Trương Thúy Sơn bằng bài thơ của Lý Bạch, tạo thế : Võ công lồng thư pháp, võ công và thư pháp lồng thơ Lý Bạch, võ công, thư pháp và thơ Lý Bạch thành một thể thống nhất. 3. Bách hoa tá quyền, Kim Dung thể hiện từ võ đến văn, hoặc biến từ võ công thành nghệ thuật. Ngược lại, Ỷ thiên Đồ long công, Kim Dung đi từ thư pháp sáng tạo võ công, hoặc biến nghệ thuật thành võ công. 13. KIM ĐỊCH TÚ TÀI (Thư kiếm ân cừu lục) Trần Gia Cách nói với Dư Ngư Đồng : - Phiền thập tứ đệ thổi lên một khúc tiêu. Dư Ngư Đồng liền lấy ống tiêu và hỏi: - Khúc nào ? """