🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Việt Nam Văn Hóa Và Du Lịch
Ebooks
Nhóm Zalo
VIỆT NAM VĂN HÓA VÀ DU LỊCH
Trần Mạnh Thường biên soạn
Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
Phát hành theo thỏa thuận giữa Công ty Văn hóa Hương Trang và tác giả. Nghiêm cấm mọi sự sao chép, trích dịch hoặc in lại mà không có sự cho phép bằng văn bản của chúng tôi.
GPXB số 317-96/XB-QLXB
TNKHXB số: 29/XBYH
In ấn và phát hành tại Nhà sách Quang Bình 416 Nguyễn Thị Minh Khai, P5, Q3, TP HCM Việt Nam
Published by arrangement between Huong Trang Cultural Company Ltd. and the author.
All rights reserved. No part of this book may be reproduced by any means without prior written permission from the publisher.
VIỆT NAM
VĂN HÓA VÀ DU LỊCH
TRẦN MẠNH THƯỜNG
TRẦN MẠNH THƯỜNG biên soạn
NGUYỄN MINH TIẾN hiệu đính
VIỆT NAM
VĂN HÓA VÀ DU LỊCH
NHÀ XUẤT BẢN THÔNG TẤN
HÀ NỘI
VIỆT NAM
VĂN HÓA VÀ DU LỊCH
Nhà xuất bản Thông Tấn
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Việt Nam là cửa ngõ thông ra vùng Đông Nam Á. Việt Nam là một quốc gia có hàng ngàn năm văn hiến với bao danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, văn hóa rộng dài khắp đất nước. Cha ông ta đã để lại trên nước non này biết bao thành quách, đền đài, chùa chiền, miếu mạo..., lớp nọ nối tiếp lớp kia. Cả đất nước là một bảo tàng lịch sử, văn hóa của 54 dân tộc cùng chung lưng đấu cật xây dựng nên đất nước này.
Việt Nam, đất nước giàu tiềm năng du lịch. Ngày nay trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế, chúng ta đang từng bước hội nhập với khu vực và thế giới trên nhiều lĩnh vực, trong đó du lịch với tư cách là một ngành “công nghiệp xanh” đóng vai trò hết sức quan trọng. Nó vừa là một ngành kinh tế mũi nhọn, vừa đảm đương chức năng thông tin, tuyên truyền, trong mối quan hệ
giao lưu văn hóa.
Để góp phần quảng bá nền văn hóa và tiềm năng du lịch Việt Nam, Nhà xuất bản Thông Tấn cho ra mắt bạn đọc cuốn “Việt Nam Văn hóa và Du lịch” của soạn giả Trần Mạnh Thường. Với non một nghìn trang sách, từ nhiều nguồn tư liệu phong phú, soạn giả giới thiệu với bạn đọc một bức tranh toàn cảnh về nền văn hóa đa dạng và lâu đời của dân tộc Việt Nam từ địa lý, danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử văn hóa đến lễ hội, phong tục, tập quán... của 64 tỉnh thành trên cả nước. Hy vọng cuốn sách sẽ là một cẩm nang quý cho bạn đọc trong và ngoài nước muốn tìm hiểu về văn hóa và du lịch Việt Nam.
Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
NHÀ XUẤT BẢN THÔNG TẤN
7
PHẦN I
LÃNH THỔ VIỆT NAM
I. NHỮNG CON SỐ ĐÁNG NHỚ
_ Diện tích đất liền: 331.689 km2
_ Lãnh hải: Rộng 12 hải lý, tính từ đường cơ sở
_ Vùng đặc quyền kinh tế: Rộng 200 hải lý, tính từ đường cơ sở
_ Thềm lục địa: 700.000 km2 (kể cả hai quần đảo: Hoàng Sa và Trường Sa)
_ Tọa độ đất liền: Kinh tuyến : 102008’ đến 109028’ Đông Vĩ tuyến : 8027’ đến 23023’ Bắc _ Dân số: trên 81 triệu người
_ Dân tộc: 54 dân tộc, trong đó dân tộc Việt (Kinh) chiếm 90%, 10% còn lại là dân số của 53 dân tộc.
II. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ
Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thuộc phía Đông bán đảo Đông Dương, nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á, phía Bắc giáp nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, phía Tây giáp Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và Vương quốc Campuchia, phía Đông, Nam và Tây Nam giáp biển Đông.
Việt Nam vừa gắn liền với lục địa châu Á, vừa nối liền với biển Đông, con đường đi ra Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Việt Nam lại ở ngã tư đường hàng không và hàng hải quốc tế từ Bắc xuống Nam và từ Đông sang Tây, nối liền châu Á với châu Đại Dương, Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương.
Trong tương lai không xa sẽ có tuyến đường sắt, đường bộ xuyên Á nối liền với các nước chung quanh.
8
ĐỊA HÌNH
Dải đất Việt Nam có dạng cong hình chữ S, rộng hai đầu, giữa thót lại, từ điểm cực Bắc ở vĩ độ 23023’ Bắc tại xã Lũng Cú, trên cao nguyên Đồng Văn, huyện Đồng Văn, Hà Giang, đến điểm cực Nam trên đất liền ở vĩ độ 8027’ Bắc tại xóm Mũi, xã Rạch Tàu, huyện Ngọc Hiển (Năm Căn) Cà Mau, kéo dài 15 vĩ tuyến.
Chiều ngang phần đất liền từ điểm cực Tây ở kinh độ 102008’ Đông nằm trên đỉnh núi ở khu vực ngã ba biên giới Việt Nam - Lào - Trung Quốc, thuộc xã A Pa Chải, huyện Mường Tè, Lai Châu, đến điểm cực Đông trên đất liền ở kinh độ 109028’ Đông tại mũi Đôi trên bán đảo Hòn Gốm, huyện Vạn Ninh, Khánh Hòa, nằm trọn trong múi giờ thứ 7 GMT.
Khoảng cách chiều ngang từ biên giới phía Đông (không kể thềm lục địa) nơi rộng nhất ở Bắc bộ là 600 km, Nam Bộ là 400 km, nơi hẹp nhất ở Quảng Bình 50 km.
III. ĐỊA HÌNH
Sự khác nhau về địa hình giữa các khu vực thể hiện ở cấu trúc địa hình và các dạng địa hình chủ yếu:
1. RỪNG NÚI
Núi
Các hệ núi chính: Sự hình thành và phát triển lãnh thổ lâu dài và phức tạp đã tạo cho Việt Nam một hoàn cảnh tự nhiên khá độc đáo. Ba phần tư diện tích đất liền là đồi núi, nhưng là đồi núi thấp, trừ một vài vùng đồng bằng, châu thổ rộng lớn, đâu đâu cũng nhìn thấy cảnh núi rừng trùng điệp. Đặc biệt dọc miền Trung, rừng núi và đồng bằng xen kẽ nhau.
Độ cao địa hình dưới 1.000 m (so với mực nước biển) chiếm 85%. Núi cao trên 2000 m chỉ chiếm khoảng 1%. Trong số những đỉnh núi cao của Việt Nam có đỉnh Phanxipăng thuộc dãy Hoàng Liên Sơn (Lào Cai) cao nhất là 3.143 m.
Việt Nam có 4 vùng núi chính, mỗi vùng mang đặc điểm riêng:
9
LÃNH THỔ VIỆT NAM
Vùng núi Đông Bắc: kéo dài từ thung lũng sông Hồng ra đến vịnh Bắc Bộ, trong đó có nhiều danh lam thắng cảnh, những hang động kỳ thú như động Tam Thanh, Nhị Thanh (Lạng Sơn), hang Pắc Bó, Ngườm Ngao, thác Bản Giốc (Cao Bằng), hồ Ba Bể
(Bắc Kạn), núi Yên Tử, Vịnh Hạ Long với những hang động nổi tiếng: động Thiên Cung, hang Đầu Gỗ, hang Trinh Nữ... (Quảng Ninh). Vùng núi Đông Bắc có đỉnh Tây Côn Lĩnh cao nhất là 2.431 m.
Vùng núi Tây Bắc: từ biên giới phía Bắc giáp Trung Quốc tới miền Tây của dải đất miền Trung. Đây là vùng núi cao hùng vĩ nhất nước, có Sa Pa (Lào Cai) ở độ cao 1.500 m so với mặt nước biển quanh năm mát mẻ, có Điện Biên Phủ di tích lịch sử “chấn động địa cầu”, có đỉnh Phăngxipăng cao 3.143 m, nơi sinh sống của các dân tộc anh em Thái, Mường, Dao.
Vùng núi Trường Sơn Bắc: là hệ núi gồm các dãy núi song song và so le chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, kéo dài từ miền Tây Thanh Hóa đến tận cùng là dãy Bạch Mã đâm ra biển ở vĩ tuyến 160 Bắc. Khác với địa hình núi Tây Bắc, thấp dần về phía Đông Nam, địa hình Trường Sơn dựng cao, tạo nên hai sườn không đối xứng, sườn Đông đổ dốc xuống đồng bằng ven biển. Trong vùng núi Trường Sơn Bắc có nhiều cảnh quan kỳ thú như động Phong Nha - Kẻ Bàng, di sản tự nhiên thế giới, có đèo Ngang mỹ lệ, có đèo Hải Vân hùng vĩ... Đặc biệt đây là đoạn đầu của đường mòn Hồ Chí Minh nổi tiếng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Vùng núi Trường Sơn Nam: nằm ở phía Tây các tỉnh Nam Trung Bộ. Sau những dãy núi đồ sộ là một vùng Tây Nguyên rộng lớn. Trường Sơn Nam là một khối núi và cao nguyên. Địa hình núi đổ dồn về phía Đông, tạo nên bờ biển chênh vênh, sườn dốc đứng. Phía Tây là cao nguyên đất bazan, địa hình tương đối bằng phẳng có độ cao từ 500 - 1000m. Đây là vùng đất còn chứa đựng bao điều bí ẩn về cuộc sống của các dân tộc ít người Ba Na, Xơ Đăng, Mơ Nông, Ê Đê, Vân Kiều, Cơ Ho... và còn có bao động
10
ĐỊA HÌNH
thực vật quý hiếm đến nay chưa biết hết được. Tại đây còn có Đà Lạt, thành phố trên cao nguyên, được xây dựng cách nay tròn 110 năm, một nơi nghỉ mát, an dưỡng, du lịch lý tưởng.
Rừng
Rừng và đất rừng Việt Nam chiếm khoảng 50% diện tích là nơi hội tụ nhiều loài thực vật, động vật của vùng Đông Nam Á và thế giới, trong đó có nhiều loài động vật quý hiếm đã được ghi vào sách đỏ và có nhiều loại gỗ quý như lát hoa, đinh, lim, sến, táu, pơmu... Ngoài gỗ, rừng Việt Nam có nhiều đặc sản có giá trị
xuất khẩu: cánh kiến đỏ, nhựa thông, hồi, trẩu, quế...
Rừng Việt Nam có nhiều khu rừng quốc gia được bảo vệ nghiêm ngặt, nơi đây còn là những khu du lịch sinh thái bền vững như: vườn quốc gia Cúc Phương (Ninh Bình), rừng Ba Vì (Hà Tây), rừng Cát Bà (Hải Phòng), rừng Pù Mát, Vũ Quang (Hà Tĩnh), rừng Cát Tiên (Đồng Nai), rừng Côn Đảo, rừng ngập mặn Bạc Liêu, Cà Mau...
Dưới lòng đất rừng có nhiều khoáng sản quí như thiếc, kẽm, bô xít, bạc, vàng, ăngtimoan, đá quý, than đá, dầu mỏ, khí đốt... Đặc biệt nguồn nước khoáng rất phong phú, hầu như nơi nào cũng có, như suối khoáng Quang Hanh (Quảng Ninh), nước khoáng Kim Bôi (Hòa Bình), nước khoáng Bang (Quảng Bình), nước khoáng Thạch Bích (Quảng Ngãi), suối khoáng Hội Vân (Bình Định), Vĩnh Hảo (Bình Thuận), Dục Mỹ (Nha Trang, Khánh Hòa)...
2. ĐỒNG BẰNG
Nước ta có hai đồng bằng lớn: đồng bằng châu thổ sông Hồng và đồng bằng châu thổ sông Cửu Long.
Đồng bằng châu thổ sông Hồng (còn gọi là đồng bằng Bắc Bộ), rộng khoảng 15.000 km2, được hai con sông Hồng và sông Thái Bình bồi đắp phù sa. Đây là cái nôi, địa bàn cư trú của người Việt từ thuở dựng nước. Nền văn minh lúa nước được tạo ra từ vùng đồng bằng này.
11
LÃNH THỔ VIỆT NAM
Đồng bằng châu thổ sông Cửu Long (còn gọi đồng bằng Nam Bộ) rộng khoảng 36.000 km2, hơn gấp đôi đồng bằng sông Hồng. Đây là vùng đất phì nhiêu, điều kiện khí hậu thuận lợi, là vựa lúa lớn nhất nước, hằng năm xuất khẩu gạo nhiều nhất của Việt Nam.
Đồng bằng ven biển miền Trung hẹp chiều ngang, bị chia cắt thành nhiều cánh đồng nhỏ. Đồng bằng miền Trung chia làm 3 dải: sát biển là cồn cát, đầm phá, giữa là vùng thấp trũng, dải trong cùng được bồi tụ thành đồng bằng. Trong sự hình thành đồng bằng ở đây, biển đóng vai trò quan trọng, nên đất chua mặn, lại gặp khí hậu khắc nghiệt lụt lội, hạn hán triền miên nên năng suất lúa không cao.
3. TRUNG DU
Nằm chuyển tiếp giữa đồng bằng, và miền núi là các đồi bằng có độ cao dưới 300 m, độ cắt xẻ giữa các quả đồi trung bình 50 - 60 m, tối đa là 100 m. Càng gần đồng bằng đồi càng thấp, thu nhỏ, thung lũng mở rộng. Dải đồi trung du rộng nhất nằm ở rìa đồng bằng Bắc Bộ và thu hẹp ở rìa đồng bằng duyên hải miền Trung.
4. SÔNG NGÒI
Trên lãnh thổ Việt Nam có hàng nghìn con sông lớn nhỏ. Dọc bờ biển cứ khoảng 20 km lại có một cửa sông, do đó hệ thống giao thông thủy khá thuận lợi. Hai hệ thống sông quan trọng là hệ thống sông Hồng (miền Bắc) dài 500 km với nhiều phụ lưu, và hệ thống sông Cửu Long (miền Nam) dài 220 km, chia thành 2 nhóm sông: Tiền Giang và Hậu Giang đổ ra biển Đông qua 9 cửa sông.
Hầu hết các con sông Việt Nam chủ yếu chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Tuy vậy vẫn có một số sông chảy theo hướng vòng cung, uốn dòng theo các cánh cung của núi, như sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam...
12
ĐỊA HÌNH
Sông ngòi Việt Nam có tổng lượng chảy dồi dào nhưng không đồng đều trong năm, giữa mùa mưa và mùa khô. Lượng nước trong mùa mưa chiếm 70-80% lượng nước cả năm. Hệ thống sông Hồng hằng năm đổ ra biển khoảng 122 tỷ m3 nước. Tổng lượng nước đổ ra biển hằng năm của hệ thống sông Cửu Long khoảng 1.400 tỷ m3. Sông ngòi nước ta mang nhiều phù sa. Trong đó các con sông miền Bắc có lượng phù sa trong nước cao hơn các con sông miền Nam. Đặc biệt là sông Hồng có lượng phù sa lớn nhất (trung bình khoảng 1000 gr/m3). Vào mùa lũ, lượng phù sa có thể lên tới 10.000 gr/m3 nước.
5. BIỂN VÀ BỜ BIỂN
Bờ biển
Bờ biển Việt Nam dài 3.260 km, cả ba phía Đông, Nam và Tây Nam đều hướng ra biển Đông (một bộ phận của Thái Bình Dương). Biển Việt Nam có diện tích rộng gấp nhiều lần so với diện tích đất liền.
Bờ biển Việt Nam có nhiều bãi biển đẹp như: Trà Cổ, Đồ Sơn, Đồng Châu, Sầm Sơn, Cửa Lò, Lý Hòa, Cửa Tùng, Thuận An, Non Nước, Mỹ Khê, Văn Phong, Nha Trang, Vũng Tàu, Hà Tiên... Có nơi núi ăn lan ra biển tạo thành vẻ đẹp kỳ thú, như vịnh Hạ Long đã được UNESCO ghi vào danh sách Di sản tự nhiên của thế giới.
Do điều kiện tự nhiên độc đáo, bờ biển Việt Nam có nhiều hải cảng quan trọng như: Cửa Ông, Hải Phòng, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Cam Ranh, Sài Gòn, Vũng Tàu...
Vùng biển
Biển Việt Nam là vùng biển nóng quanh năm, nhiệt độ nước trên mặt bao giờ cũng cao hơn nhiệt độ không khí. Nhiệt độ nước mùa hè ở biển Bắc là 250C, mùa đông là 210C, ở miền Trung mùa
13
LÃNH THỔ VIỆT NAM
hè là 280C mùa đông là 250C, ở miền Nam là 290 C và 270C. Độ mặn trung bình nước biển Đông là 340 C, về mùa mưa độ mặn giảm xuống còn 320C, đến mùa khô tăng lên 350 C.
Trong vùng bờ biển Việt Nam có hai dòng hải lưu lớn: một hải lưu hướng Đông Bắc - Tây Nam, phát triển mạnh vào mùa đông, và một hải lưu hướng Tây Nam - Đông Bắc, hoạt động trong mùa hè. Cả hai dòng hải lưu đó hợp thành một vòng tròn thống nhất.
Biển Việt Nam có chế độ thủy triều khá phức tạp. Những vùng từ bờ biển Móng Cái - Quảng Bình, Đà Nẵng - mũi Kê Gà (Bình Thuận), mũi Cà Mau - Hà Tiên, đều có chế độ nhật triều. Các đoạn bờ biển còn lại có chế độ bán nhật triều.
Đảo
Biển Việt Nam còn có vùng thềm lục địa rộng lớn với khoảng 4.000 đảo lớn nhỏ. Chỉ riêng vịnh Bắc Bộ đã chiếm phần lớn số đảo và tập trung chủ yếu ở vịnh Hạ Long, Bái Tử Long. Các đảo lớn là Cát Bà, Cát Hải, Cô Tô, Bạch Long Vĩ, Hòn Mê, Cồn Cỏ, Cù Lao Chàm, Hòn Tre, Phú Quý, Phú Quốc, Thổ Chu, Côn Sơn...
Giữa vùng biển Việt Nam còn có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Quần đảo Hoàng Sa thuộc thành phố Đà Nẵng, gồm hơn 30 đảo đá, cồn cát san hô, bãi đá ngầm rải rác trên một vùng biển rộng khoảng 15.000 km2.
Cách Hoàng Sa khoảng 240 hải lý1 về phía Nam là quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hòa, gồm 100 đảo nhỏ, bãi đá ngầm, bãi san hô, nằm rải rác trên một vùng biển rộng khoảng 18.000 km2.
Cách Vũng Tàu 98 hải lý là Côn Đảo gồm 14 hòn đảo lớn nhỏ. Dưới thời thống trị của thực dân Pháp và Mỹ ngụy, Côn Đảo là địa ngục trần gian, nơi bọn thực dân đế quốc giam cầm, tra tấn, giết chóc dã man nhiều chiến sĩ cộng sản và người dân Việt Nam yêu nước.
1 Một hải lý tương đương tương 1.852 mét
14
KHÍ HẬU
IV. KHÍ HẬU
Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, lại ở nửa cầu Bắc, thiên về chí tuyến hơn là phía xích đạo. Vị trí đó tạo cho Việt Nam có một nhiệt độ cao. Nhiệt độ trung bình cả năm là từ 220C đến 270C. Hằng năm có khoảng 100 ngày mưa, lượng mưa trung bình từ 1.500 đến 2.000 mm. Độ ẩm không khí khá cao, khoảng 80%. Trên diện tích Việt Nam, mỗi năm được nhận chừng 600 tỷ tấn nước mưa, tương đương khoảng 20.000 tấn trên một hécta, tập trung phần lớn vào mùa mưa.
Một số nơi gần chí tuyến hoặc vùng núi cao (như Sa Pa, Đà Lạt...), khí hậu có tính chất ôn đới. Việt Nam có nắng suốt 4 mùa. Số giờ nắng khoảng từ 1.500 - 2.000 giờ. Bức xạ nhiệt trung bình năm 100 Kcal/cm2. Mùa hè số giờ nắng khoảng 200 giờ/tháng, mùa đông khoảng 70 giờ/tháng.
Khí hậu Việt Nam với lượng ẩm lớn cùng nhiệt độ cao, đó chính là điều kiện thuận lợi cho cây cối sinh trưởng, đâm hoa kết trái.
Chế độ gió mùa đã làm cho tính chất nhiệt đới ẩm của thiên nhiên Việt Nam thay đổi. Khí hậu Việt Nam có hai mùa rõ rệt, mùa khô rét (từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau) và mùa mưa nóng (từ tháng 5 đến tháng 10). Nhiệt độ thay đổi theo mùa rõ rệt, đặc biệt là các tỉnh phía Bắc, nhiệt độ chênh nhau giữa các mùa là 120C. Các tỉnh phía Nam sự chênh lệch nhiệt độ giữa các mùa chỉ vào khoảng 30C.
Nhìn chung, khí hậu Việt Nam vẫn có sự thay đổi 4 mùa: xuân, hạ, thu, đông, đặc biệt ở các tỉnh miền Bắc.
Việt Nam chịu tác động mạnh của gió mùa Đông Bắc nên nhiệt độ trung bình thấp hơn so với các nước khác ở châu Á cùng vĩ độ, mùa đông lạnh hơn và mùa hạ cũng ít nóng hơn.
15
LÃNH THỔ VIỆT NAM
Với sự phức tạp của địa hình, lại do ảnh hưởng gió mùa, nên khí hậu Việt Nam luôn luôn thay đổi trong năm, giữa năm này với năm khác và giữa nơi này với nơi khác (từ Bắc vô Nam, từ thấp lên cao).
Khí hậu Việt Nam cũng thường tạo ra những bất lợi về thời tiết như gió bão, lụt lội (mỗi năm trung bình có tới 6-10 cơn bão lớn nhỏ), hạn hán... thường xuyên xảy ra.
V. TÀI NGUYÊN
TÀI NGUYÊN RỪNG VÀ ĐẤT RỪNG
Cách nay nửa thế kỷ, nước ta còn rất giàu tài nguyên rừng. Rừng Việt Nam có nhiều loại gỗ quý: đinh, lim, sến, táu, cẩm lai, gụ, trắc, pơmu... Về thực vật bậc cao có tới 12.000 loài. Cây dược liệu có tới 1.500 loài, trong đó có những loại dược liệu quý, như cây xạ đen. Các lâm sản khác như nấm hương, mộc nhĩ, mật ong... Về động vật, Việt Nam có trên 1.000 loài chim, 300 loài thú. Ngoài những loài thú thường gặp như gấu, khỉ, hươu, nai, sơn dương, còn có những loài quý hiếm: tê giác một sừng, hổ, voi, bò rừng, sao la, công, trĩ, gà lôi đỏ... rừng Việt Nam có khoảng 300 loài bò sát và ếch nhái và vô số loài côn trùng.
Nhưng hiện nay, tài nguyên rừng Việt Nam bị cạn kiệt. Theo thống kê năm 1993, trong tổng diện tích lâm nghiệp 20 triệu hécta, chỉ có 9 triệu hécta đất có rừng, còn 11 triệu héc ta là đất trống đồi trọc. Độ che phủ rừng tính chung toàn quốc là 29%.
Tài nguyên rừng Việt Nam chủ yếu rừng cây lá rộng (4,2 triệu ha) nhưng trong đó diện tích rừng giàu và rừng trung bình còn rất ít, diện tích rừng nghèo1 và diện tích rừng phục hồi chiếm gần 68%. Ngoài ra còn có hơn 900.000 ha rừng tre nứa và rừng hỗn giao tre nứa. Trên vùng núi cao có rừng gỗ lá kim. Ven biển có rừng ngập mặn (gần 10.000 ha). Rừng phòng hộ có diện tích 2,8 triệu ha.
16
TÀI NGUYÊN
Nước ta còn có một hệ thống rừng đặc dụng. Đó là các vườn quốc gia như: Cúc Phương, Ba Vì, Ba Bể, Vũ Quang, Bạch Mã, Cát Tiên...
Rừng Việt Nam hiện không những bị cạn kiệt mà diện tích ngày càng bị thu hẹp, nhất là rừng nguyên sinh. Nhiều động vật, thực vật quý hiếm đang bị khai thác săn bắn bừa bãi nên nhiều loài thú quý đang đứng trước nguy cơ bị diệt chủng, các loại gỗ
quý ngày càng hiếm.
THỦY SẢN
Nước ta có bờ biển dài 3.260 km, vùng đặc quyền kinh tế rộng khoảng 1 triệu km2. Diện tích mặt nước kể cả nước ngọt, nước lợ, nước mặn là nguồn tài nguyên phong phú về thủy sản, trong đó có nhiều loài quý hiếm.
Riêng vùng biển Việt Nam nguồn lợi thủy sản hết sức dồi dào. Các vùng biển ven bờ, các dòng hải lưu, các vùng nước triều mang theo các phù du sinh vật tới, làm thức ăn cho các loài cá tôm... Dọc bờ biển nước ta lại có nhiều cửa sông đổ phù sa ra biển, đó là những nơi tập trung nhiều tôm cá.
Vùng biển Việt Nam có trữ lượng hải sản khoảng 3,0 - 3,5 triệu tấn. Biển nước ta có 6.845 loài động vật, trong đó có 2.038 loài cá. Các loài cá có giá trị kinh tế cao như: chim, thu, nụ, đé, ngừ, bạc má... có khoảng 100 loài. Về cá biển Việt Nam có đủ ba loại: cá nổi, cá tầng giữa và cá đáy, nhưng nhiều hơn cả là cá nổi chiếm 63% tổng sản lượng cá biển. Biển nước ta có tới 1.647 loài giáp xác, trong đó có khoảng 75 loài tôm, 300 loài cua, 300 loài trai ốc, 7 loài mực... Có những loài có giá trị xuất khẩu cao như tôm he, tôm hùm, tôm rồng... Nhuyễn thể có hơn 2.500 loài, rong biển có khoảng 653 loài. Ngoài ra còn có nhiều loại đặc sản: hải sâm, bào ngư, sò, điệp...
Dọc bờ biển Việt Nam có những bãi triều, đầm phá, các rừng ngập mặn. Đó là những khu vực thuận lợi cho nuôi trồng thủy sản nước lợ.
17
LÃNH THỔ VIỆT NAM
Việt Nam lại có nhiều sông, suối, kênh rạch, ao hồ, đầm, phá... là những nơi nuôi thả cá, tôm nước ngọt rất thuận lợi. Cả nước đã sử dụng 350.000 ha diện tích mặt nước để nuôi trồng thủy sản, trong đó Cà Mau chiếm 38% diện tích.
Để việc đánh bắt hải sản có hiệu quả, năng suất cao, nhiều địa phương ngư dân đã đóng nhiều tàu thuyền lớn để đánh bắt xa bờ, đã mang lại hiệu quả kinh tế lớn. Hằng năm nước ta xuất khẩu một khối lượng thủy sản lớn sang thị trường EU, đặc biệt là Mỹ.
KHOÁNG SẢN
a. Nhiên liệu
Khoáng sản nhiên liệu quan trọng ở nước ta là than và dầu khí.
Than có nhiều loại, và có ở nhiều nơi với trữ lượng lớn, chủ yếu tập trung nhiều ở vùng núi Đông Bắc, Quảng Ninh với trữ lượng dự báo 6 tỷ tấn, phần lớn là than gầy (antraxít) có chất lượng tốt. Các mỏ than khác gồm cả than gầy, than mỡ và than nâu, với trữ lượng trung bình chỉ từ 10-100 triệu tấn và đã được đưa vào khai thác như mỏ than Phấn Mễ (Thái Nguyên), Nông Sơn (Quảng Nam), Na Dương (Lạng Sơn). Ngoài ra ở vùng đồng bằng Bắc Bộ và Nam Bộ còn có mỏ than bùn với trữ lượng lớn, đã được các nhà địa chất phát hiện.
Dầu khí ở nước ta có nhiều ở thềm lục địa, đặc biệt vùng thềm lục địa Nam Bộ có trữ lượng khá lớn, đến nay đã khai thác được hàng trăm triệu tấn dầu thô. Đặc biệt nhiều nơi có mỏ khí đốt.
b. Kim loại
_ Bôxít: mỏ bôxít có ở nhiều nơi. Riêng ở Cao Bằng - Lạng Sơn trữ lượng khoảng 30 triệu tấn. Ở Tây Nguyên, bôxít tập trung thành những mỏ lớn, tổng trữ lượng lên tới hàng tỷ tấn.
_ Sắt: có ở Thạch Khê (Hà Tĩnh), Yên Bái, Thái Nguyên cũng đều có và đã đi vào khai thác.
18
TÀI NGUYÊN
_ Crôm: có ở Cổ Định (Thanh Hóa) với trữ lượng 10 triệu tấn, đã đi vào khai thác từ lâu.
_ Thiếc: có nhiều ở Tĩnh Túc (Cao Bằng), Sơn Dương (Tuyên Quang), Quỳ Hợp (Nghệ An).
_ Đồng: phát hiện được ở Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Sơn La, Hà Bắc, Nghệ An, Quảng Ngãi.
Ngoài ra Việt Nam còn có nhiều mỏ kim loại quý: mangan, titan, chì, kẽm, vàng, bạc, thủy ngân, ăngtimoan... với trữ lượng ít và chưa được khai thác nhiều.
c. Khoáng sản phi kim loại
_ Apatit: ở Cam Đường (Lào Cai) có trữ lượng khoảng 500 triệu tấn, chất lượng cao, đã đi vào khai thác từ lâu.
_ Đất sét: có nhiều ở Bảo Lộc (Lâm Đồng), một số nơi ở vùng đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long.
_ Đá vôi: tập trung nhiều ở miền Bắc và Bắc Trung Bộ, với trữ lượng lớn, diện tích phân bố rất thuận lợi cho việc khai thác.
_ Đá xây dựng: như đá hoa cương, granít, cát kết có ở nhiều nơi trong cả nước.
_ Đá quý: hồng ngọc, ngọc lam có ở Yên Bái, Nghệ An.
Nhìn chung tài nguyên khoáng sản Việt Nam khá phong phú về chủng loại và phân bố rộng khắp cả nước. Ngoài các mỏ than, thiếc, apatít, vật liệu xây dựng và dầu khí đã đưa vào khai thác với trữ lượng tương đối lớn, các mỏ còn lại phần lớn là những mỏ
có quy mô nhỏ, trữ lượng không nhiều.
ĐẤT NÔNG NGHIỆP
Các vùng đồng bằng Việt Nam bao gồm hai đồng bằng lớn: đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long, và một số đồng bằng duyên hải nhỏ hẹp miền Trung.
19
LÃNH THỔ VIỆT NAM
ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
Đồng bằng sông Hồng, một châu thổ có hình tam giác cân với đỉnh là Việt Trì và đáy kéo dài từ Quảng Yên tới Ninh Bình, là sản phẩm của sông Hồng và sông Thái Bình. Khi về tới châu thổ, sông Hồng đã trở thành một con sông lớn dài trên 200 km từ Việt Trì đến biển và rộng từ 1-3 km vào mùa lũ. Dòng sông mang theo tổng lượng phù sa trung bình năm lên tới trên 100 triệu tấn. Phù sa sông Hồng bồi đắp cho châu thổ màu mỡ: độ
PH trung bình (7,0), lượng đạm mùn cao. Đó là điều kiện tốt cho năng suất lúa rất cao của đồng bằng sông Hồng.
So với sông Hồng, sông Thái Bình nhỏ hơn nhiều, mặc dầu đó là phần hạ lưu sông Cầu, sông Thương và sông Lục Nam hợp thành. Lượng phù sa sông Thái Bình cũng ít hơn, chất lượng kém hơn.
Trong số các đồng bằng Việt Nam, đồng bằng sông Hồng là vùng đất nông nghiệp được khai phá sớm nhất. Đây còn là cái nôi hình thành dân tộc Việt, là quê hương của các nền văn hóa nổi tiếng trải suốt tiến trình lịch sử văn minh Việt Nam.
Về mặt kinh tế, việc trồng lúa nước đã trở thành nghề truyền thống với trình độ thâm canh cao nhất toàn quốc. Ngày nay, đồng bằng sông Hồng đang giữ vai trò chủ đạo về phương diện kinh tế ở các tỉnh phía Bắc nói riêng và cả nước nói chung.
Ngoài tiềm năng kinh tế nông nghiệp, tài nguyên nước ở đồng bằng sông Hồng dồi dào, nhờ sự có mặt của sông Hồng và mạng lưới sông ngòi dày đặc.
Nhưng để phát triển mạnh nền kinh tế ở đồng bằng sông Hồng, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế có một vai trò hết sức quan trọng. Cho đến nay, hầu như phần lớn cư dân đồng bằng nói chung chủ yếu tham gia sản xuất nông nghiệp. Trong lúc đó, dân số không ngừng tăng lên, diện tích đất canh tác ngày một giảm do đô thị hóa, khả năng phát triển nền nông nghiệp truyền thống đang tiến gần tới giới hạn của nó.
20
TÀI NGUYÊN
Vì vậy, vai trò nông nghiệp trong nền kinh tế đồng bằng phải có sự chuyển đổi. Trong tương lai việc sản xuất nông nghiệp sẽ giảm đi và nhường chỗ cho một số ngành kinh tế khác. Đồng bằng sông Hồng có nhiều nguồn lực để phát triển các ngành công nghiệp. Việc chuyển dịch cơ cấu theo hướng một nền kinh tế công nghiệp sẽ là bước cất cánh nhằm đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, đẩy mạnh các ngành dịch vụ như du lịch cũng góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế đồng bằng sông Hồng. Bởi đồng bằng sông Hồng có nhiều tiềm năng về du lịch, một nơi có nhiều thắng cảnh nổi tiếng, các di tích lịch sử, văn hóa, kiến trúc, một vùng có nhiều lễ hội truyền thống...
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Đồng bằng sông Cửu Long là vùng châu thổ được dòng sông Cửu Long, một trong những con sông dài vào bậc nhất thế giới, bồi đắp nên.
Đây là một đồng bằng thấp, ngập nước, độ cao trung bình 2 m, so với mực nước biển và được cấu tạo bởi phù sa mới, nguồn gốc hỗn hợp của sông và biển.
Đồng bằng sông Cửu Long được khai thác muộn nhất, mới cách nay khoảng 5-6 thế kỷ. Tuy nhiên thế mạnh nổi bật của vùng này là các điều kiện tự nhiên. Trong một thời gian dài, phù sa sông đã làm cho đồng bằng trở nên màu mỡ mà không bị con người can thiệp. Vì thế từ xưa tới nay đồng bằng sông Cửu Long vẫn được mệnh danh là vựa lúa lớn nhất của cả nước. Đồng bằng sông Cửu Long, góp phần rất quan trọng, đưa ngành xuất khẩu gạo nước ta lên đứng hàng thứ hai thế giới.
Đồng bằng sông Cửu Long có nhiều ưu thế hơn về điều kiện tự nhiên so với đồng bằng sông Hồng, và có nhiều thuận lợi cho việc trồng lúa. Đồng bằng có diện tích tự nhiên khoảng 4 triệu ha, trong đó đất sử dụng vào mục đích nông nghiệp 2,53 triệu ha, vào lâm nghiệp 26 vạn ha, vào các mục đích khác 28 vạn ha
21
LÃNH THỔ VIỆT NAM
và số đất còn lại chưa khai thác 93 vạn ha. Được phù sa sông Cửu Long bồi đắp, lại không bị con người can thiệp quá sớm, đất trồng lúa nhiều, gấp 3 lần mức bình quân đầu người so với đồng bằng sông Hồng. Vì vậy, đồng bằng sông Cửu Long đã sản xuất ra khối lượng lương thực lớn nhất cả nước. Nơi đây còn là nguồn sản xuất thực phẩm quan trọng của Việt Nam. Ngoài chăn nuôi gia cầm: vịt, gà... gia súc: trâu, bò, lợn... đồng bằng sông Cửu Long còn là nguồn thủy sản vô tận: cá, tôm, cua...
CÁC VÙNG KHÁC
Tuy không đóng vai trò quan trọng như đồng bằng sông Hồng, sông Cửu Long, nhưng các đồng bằng duyên hải miền Trung có mối liên hệ mật thiết với vùng đồi núi phía Tây, một vùng đất có thế mạnh về cây công nghiệp, thực phẩm như cây điều, cao su, ca cao, hồ tiêu, cà phê... và với vùng biển, thềm lục địa ở phía Đông, một nguồn hải sản quan trọng trong nền kinh tế của miền Trung Việt Nam.
Ngoài ra, nước ta còn có một vùng trung du rộng lớn, nơi đang phát triển mạnh các loài cây lấy dầu như sở, chẩu, quế, hồi... và những cánh rừng chè, cà phê... Đó là những thế mạnh mà không phải nước nào cũng có.
TÀI NGUYÊN DU LỊCH
Du lịch là một trong những ngành có sự định hướng rõ rệt về tài nguyên. Tài nguyên du lịch được xếp vào những nhân tố có vị trí quan trọng hàng đầu.
Tài nguyên du lịch gồm hai nhóm: tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn.
Tài nguyên du lịch tự nhiên
Nước ta quanh năm chan hòa ánh nắng, bốn mùa xanh tươi. Tài nguyên du lịch tự nhiên nước ta vô cùng phong phú đa dạng. Về mặt địa hình, Việt Nam có các dạng địa hình đồi núi, đồng
22
TÀI NGUYÊN
bằng, cao nguyên, bờ biển... tạo nên nhiều cảnh quan đẹp. Với những núi cao như Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Ba Vì (Hà Tây), Sapa (Lào Cai), Bạch Mã (Thừa Thiên), Bà Nà (Đà Nẵng), Đà Lạt... có khí hậu rất gần với ôn đới, có nhiều hang động kỳ khu như hang Pắc Bó (Cao Bằng), Tam Thanh (Lạng Sơn), Thiên Cung (Hạ
Long), Phong Nha (Quảng Bình)..., những thác ghềnh ngoạn mục như thác Bản Giốc (Cao Bằng), thác Pongur, Đambri (Lâm Đồng), với bao đầm phá mênh mông: Tam Giang, Cầu Hai (Thừa Thiên Huế)..., bao hồ nước thơ mộng: Ba Bể (Bắc Kạn), hồ Thủy điện Hòa Bình, hồ Suối Hai, Đồng Mô (Hà Tây), hồ Dầu Tiếng (Tây Ninh)... Lại có những vùng đất lịch sử: Điện Biện Phủ chiến trường xưa, Củ Chi đất thép kiên cường, có Côn Đảo, địa ngục trần gian dưới thời thực dân Pháp và Mỹ ngụy, có Phú Quốc, Trường Sa, Hoàng Sa, đất mẹ kiên trung...
Việt Nam có bờ biển dài 3.260 km với nhiều bãi tắm đẹp nổi tiếng: Trà Cổ, Bãi Cháy (Quảng Ninh), Đồ Sơn (Hải Phòng), Sầm Sơn (Thanh Hóa), Cửa Lò (Nghệ An), Thiên Cầm (Hà Tĩnh), Đá Nhảy (Quảng Bình), Cửa Tùng (Quảng Trị), Thuận An, Lăng Cô (Thừa Thiên Huế), Non Nước (Đà Nẵng), Nha Trang (Khánh Hòa), Ninh Chữ (Ninh Thuận), Vũng Tàu (Bà Rịa-Vũng Tàu)...
Tài nguyên nhân văn
Việt Nam là một đất nước có mấy ngàn năm lịch sử. Điều đó làm cho tài nguyên du lịch nhân văn nước ta hết sức phong phú. Các di tích lịch sử, văn hóa là một trong những tài nguyên hàng đầu của du lịch Việt Nam. Đến năm 2000 cả nước đã có 2.250 di tích đã được Nhà nước xếp hạng trong số 4.000 di tích. Trong đó có 5 di tích thắng cảnh đã được Ủy ban Di sản Thế giới thuộc UNESCO công nhận là di sản thế giới như: Cố đô Huế, Phố Cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn là di sản văn hóa thế giới, Vịnh Hạ
Long, động Phong Nha... Kẻ Bàng là di sản tự nhiên thế giới. Và chắc một ngày không xa, nước ta sẽ còn có một số di tích thắng
23
LÃNH THỔ VIỆT NAM
cảnh nữa sẽ được UNESCO ghi vào danh sách di sản thế giới. Đó là những điểm tham quan du lịch đầy hấp dẫn và cuốn hút du khách.
Việt Nam còn có những vùng du lịch sinh thái với một hệ thống vườn quốc gia đa dạng sinh học như Cúc Phương, Pu Mát, Vũ Quang, Cát Tiên... và một miệt vườn cây trái sông nước miền Tây Nam Bộ. Du lịch mạo hiểm, lên thác, xuống ghềnh, leo núi... đang là mốt của du lịch Việt Nam trong những năm tới.
Việt Nam, vùng đất giàu tài nguyên nước khoáng tự nhiên. Đến nay, chúng ta đã phát hiện hơn 400 nguồn nước khoáng, trong đó có nhiều nguồn nước khoáng nổi tiếng như Thạch Bích, Kim Bôi, Vĩnh Hảo... không chỉ là những nguồn nước uống tốt cho sức khỏe, mà còn là những nơi nghỉ dưỡng chữa bệnh.
24
PHẦN II
LỊCH SỬ VIỆT NAM
I. THỜI TIỀN SỬ
Căn cứ vào di chỉ khảo cổ học tìm thấy ở núi Đọ (Thanh Hoá), Hang Gòn, Dầu Giây (Đồng Nai) và những chiếc răng người vượn tìm thấy ở trong hang Thẩm Khuyên, Thẩm Hai (Lạng Sơn), các nhà khảo cổ học đã khẳng định rằng cách đây hàng chục vạn năm trên lãnh thổ Việt Nam đã có con người sinh sống. Việt Nam được coi là một trong những nơi loài người xuất hiện sớm.
Những di chỉ tìm thấy ở Sơn Vi (huyện Lâm Thao, Phú Thọ), mà giới khảo cổ học gọi là nền văn hoá Sơn Vi, thuộc hậu kỳ thời đại đá cũ, có niên đại cách nay 300.000 năm. Từ văn hoá Sơn Vi phát triển lên văn hoá Hòa Bình - Bắc Sơn, thuộc thời kỳ đồ đá mới, cách nay 5.000 năm.
Với văn hoá Hòa Bình - Bắc Sơn, con người đã biết trồng trọt, đánh dấu bước chuyển từ kinh tế hái lượm, săn bắt sang kinh tế sản xuất (trồng trọt, chăn nuôi). Các cư dân nguyên thủy sống chủ yếu trên các miền đồi núi, trong những hang động, nay đã chuyển dần xuống chinh phục các vùng châu thổ, sống định cư, phát triển nghề trồng lúa nước và các cây trồng khác, đồng thời kết hợp với chăn nuôi, săn bắt và phát triển nghề thủ công đan lát, dệt, gốm... hình thành những cộng đồng làng xóm.
II. VUA HÙNG DỰNG NƯỚC VĂN LANG
CÁC NỀN VĂN MINH CỔ
Vào thiên niên kỷ I trước Công nguyên, trên lãnh thổ Việt Nam xuất hiện 3 trung tâm văn minh đầu tiên gắn với nhà nước sơ kỳ.
25
LỊCH SỬ VIỆT NAM
VĂN MINH ĐÔNG SƠN
Văn minh người Việt cổ ở lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Lam phát triển, bằng chứng tiêu biểu nhất của nền văn minh này là trống đồng Đông Sơn nổi tiếng, vì thế gọi là nền văn minh Đông Sơn. Trên nền tảng của nền văn minh này, một nhà nươc sơ kỳ của người Việt cổ ra đời. Đó là nước Văn Lang của các vua Hùng đóng đô ở Phong Châu (Phú Thọ). Sau 18 đời Hùng Vương, nhà nước Âu Lạc ra đời với Thục Phán An Dương Vương, đóng đô ở Cổ Loa (Đông Anh - Hà Nội ngày nay).
Đây là thời đại để lại nhiều dấu ấn sâu đậm trong lịch sử dân tộc Việt Nam, với truyền thuyết Lạc Long Quân lấy Âu Cơ, sinh ra bọc trăm trứng, nở ra 100 con, được gọi là tổ tiên chung của dân tộc Việt. Truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh, Thánh Gióng, Lý Ông Trọng... nói lên cuộc đấu tranh chống thiên tai, địch họa trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam ta thời cổ đại.
VĂN MINH SA HUỲNH
Tại ven biển miền Trung có nền văn minh Sa Huỳnh (Quảng Ngãi) vào khoảng thiên niên kỷ 1,2 trước Công nguyên. Đó là nền văn minh sơ kỳ của dân tộc Chăm cổ đưa đến việc thành lập nhà nước Chămpa vào đầu Công nguyên.
VĂN MINH ÓC EO
Đây là nền văn minh nổi tiếng ở miền Nam Việt Nam, trải rộng khắp vùng châu thổ Cửu Long. Văn minh Óc eo với nhà nước Phù Nam tồn tại từ đầu Công nguyên đến thế kỷ VI, VII.
Như vậy, thời cổ đại, trên lãnh thổ Việt Nam, cùng song song tồn tại ba trung tâm văn minh: Văn minh Đông Sơn với nhà nước Âu Lạc, văn minh Sa Huỳnh với vương quốc Champa, và văn minh Óc Eo với vương quốc Phù Nam.
26
CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ
Trong quá trình biến thiên của lịch sử cả ba trung tâm đã hội nhập thành nước Việt Nam thống nhất ngày nay từ chòm Lũng Cú trên cao nguyên Đồng Văn (mỏm cực Bắc) đến mũi Cà Mau, Năm Căn (mỏm cực Nam).
III. CÁC THỜI KỲ TIẾP THEO
Sau thời kỳ Hùng Vương, lịch sử Việt Nam là một chuỗi nối tiếp của những cuộc đấu tranh liên tục giành độc lập, tự do, thống nhất. Có thể chia thành ba thời kỳ:
_ Thời kỳ 1000 năm Bắc thuộc
_ Thời kỳ củng cố độc lập và chủ quyền dân tộc, xây dựng và bảo vệ quốc gia phong kiến thống nhất
_ Thời kỳ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
THỜI KỲ BẮC THUỘC
Thời kỳ này kéo dài 1000 năm. Đây là thời kỳ đầy thử thách ác liệt nhất trong tiến trình lịch sử của dân tộc ta. Dưới ách thống trị với chính sách đồng hóa của các triều đại phong kiến phương Bắc, người Việt Nam vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc cũng như ngôn ngữ, phong tục tập quán đã có từ thời Lạc Việt. Về chính trị, nhân dân ta không ngừng đấu tranh giành độc lập dân tộc, chống ách thống trị phong kiến ngoại bang, mở
đầu là cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40-43 sau CN). Bản anh hùng ca của dân tộc chỉ diễn ra ngắn ngủi! Chỉ ba năm sau, đất nước và nhân dân ta lại bị phong kiến phương Bắc đô hộ.
Không cam chịu chính sách đồng hóa, ách áp bức bóc lột ngày một tàn bạo của phong kiến đô hộ phương Bắc, nhân dân ta vùng lên khởi nghĩa dưới sự chỉ huy của Bà Triệu. Khởi nghĩa Bà Triệu (năm 248) là đỉnh cao của phong trào nhân dân thế kỷ II-III, nổ ra trong thời kỳ mà bọn đô hộ có lực lượng hùng mạnh. Cuối cùng Triệu Thị Trinh hy sinh trên núi Tùng (Hậu
27
LỊCH SỬ VIỆT NAM
Lộc, Thanh Hóa). Bà Triệu mất, giặc Ngô càng tăng cường ách áp bức bóc lột, nhưng không dập tắt được tinh thần quật khởi của nhân dân ta. Không có một thế kỷ nào không có khởi nghĩa nhân dân. Không một lúc nào bè lũ đô hộ phong kiến phương Bắc ăn ngon ngủ yên. Vào giữa thế kỷ VI nổ ra cuộc khởi nghĩa Lý Bí dẫn tới thành lập nước Vạn Xuân.
Việc dựng nước độc lập mang tên Vạn Xuân, nói lên lòng tin tưởng vững chắc của nhân dân ta ở khả năng tự mình có thể vươn lên, phát triển một cách độc lập, tự chủ. Điều đó càng khẳng định dứt khoát rằng dân tộc Việt Nam là một dân tộc độc lập, là chủ nhân của đất nước và vận mệnh của mình.
Tuy vậy tập đoàn phong kiến phương Bắc vẫn không từ bỏ chính sách xâm lược đô hộ. Nhân dân ta lại phải đứng lên khởi nghĩa: khởi nghĩa Mai Thúc Loan (722), khởi nghĩa Phùng Hưng (766-791), và cuối cùng Ngô Quyền với chiến thắng Bạch Đằng cuối năm 938 đã kết thúc hoàn toàn thời kỳ Bắc thuộc kéo dài 1000 năm, mở ra thời kỳ độc lập lâu dài của dân tộc.
THỜI KỲ ĐỘC LẬP PHONG KIẾN
Đây là thời kỳ củng cố độc lập và chủ quyền dân tộc, xây dựng và bảo vệ quốc gia phong kiến thống nhất. Thời kỳ này kéo dài khoảng gần 1000 năm, từ đầu thế kỷ X đến giữa thế kỷ XIX.
Đây là kỷ nguyên phục hưng dân tộc và phát triển rực rỡ dưới các triều đại: Triều Lý (1010-1225), Triều Trần (1225-1400), Triều Lê (1428-1527). Trong đó tiêu biểu nhất là nền văn minh Đại Việt với trung tâm văn hóa Thăng Long.
Mở đầu thời kỳ quốc gia độc lập tự chủ, nhà Lý dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long (Hà Nội ngày nay). Phật giáo và Nho giáo chi phối đời sống tư tưởng xã hội.
Về văn hóa, mở Quốc Tử Giám, trường Đại học đầu tiên ở nước ta. Chữ Nôm ngày càng được phổ biến và được vận dụng vào trong sáng tác văn học. Nguyễn Trãi là người tiên phong đề
28
CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ
cao tiếng Việt và đã dùng chữ Nôm để viết văn, làm thơ. Tập thơ “Quốc âm thi tập” của ông gồm 250 bài thơ là một trong những tập thơ Nôm cổ nhất còn lưu truyền đến ngày nay.
Về kiến trúc, nhiều đền đài, miếu mạo, chùa chiền, thành quách, cung điện lần lượt được xây dựng. Các hình thức nghệ thuật dân gian như tuồng chèo, múa hát, rối nước... không ngừng phát triển. Nông nghiệp và các nghề thủ công truyền thống ngày một phát triển.
Là một quốc gia có chủ quyền, trong thời kỳ này, nhân dân ta nhiều lần đã phải đứng lên cầm vũ khí chống trả quyết liệt các cuộc xâm lăng của kẻ thù bên ngoài. Đó là cuộc kháng chiến chống quân Tống ở thế kỷ XI. Nhà trần phải ba lần chống quân Nguyên - Mông vào thế kỷ XIII, do Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn chỉ huy, giành thắng lợi, và cuộc kháng chiến ròng rã 10 năm chống quân Minh vào đầu thế kỷ XV (1418 - 1428) dưới sự
lãnh đạo anh minh của Lê Lợi.
Cuối thế kỷ XVII, chế độ phong kiến Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng. Đất nước bị chia cắt. Đàng Ngoài do họ Trịnh nắm giữ. Đàng Trong do chúa Nguyễn kiểm soát. Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn thắng lợi cuối thế kỷ XVIII, dưới sự lãnh đạo của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ, đánh tan 20 vạn quân Thanh, bước đầu thống nhất đất nước.
Đầu thế kỷ XIX, nhà Tây Sơn bị thất bại, Triều Nguyễn tiếp tục củng cố và thống nhất quốc gia. Nhưng vì bảo thủ, bế quan tỏa cảng, nhà Nguyễn đã để đất nước rơi vào tình trạng trì trệ, lạc hậu. Năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp do triều Nguyễn khởi xướng đã bị thất bại thảm hại. Từ năm 1884, nước ta đã trở
thành thuộc địa của thực dân Pháp.
Tuy đã đặt được nền thống trị trên cả nước, nhưng chính quyền cai trị của thực dân Pháp vẫn phải liên tục đối phó với nhiều cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta từ Bắc chí Nam, từ miền
29
LỊCH SỬ VIỆT NAM
xuôi tới miền ngược. Đó là phong trào Cần Vương cuối thế kỷ XIX, tiêu biểu là những cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Đinh Công Tráng, Trương Định, Nguyễn Trung Trực... rồi đến những phong trào có xu hướng dân chủ tư sản đầu thế kỷ XX. Cuộc khởi nghĩa do Nguyễn Thái Học lãnh đạo, phong trào Đông Du của Phan Bội Châu... nhưng tất cả đều bị thất bại.
Năm 1930, với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập, cách mạng Việt Nam đã giành được thắng lợi vào tháng 8 - 1945.
THỜI KỲ ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Ngay sau ngày giành được độc lập, nhân dân Việt Nam một lần nữa đã phải đứng lên cầm vũ khí tham gia những cuộc kháng chiến trường kỳ ròng rã hơn 30 năm để bảo vệ nền độc lập, tự do cho tổ quốc.
Cuộc kháng chiến lần thứ nhất chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc thắng lợi bằng trận “Điện Biên Phủ chấn động địa cầu” vào ngày 7-5-1954, buộc Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ. Việt Nam tạm thời bị chia làm 2 miền Nam - Bắc, với vĩ tuyến 17 là giới tuyến.
Cuộc kháng chiến lần thứ hai chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đã kết thúc bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử vào lúc 11 giờ 30 ngày 30-4-1975.
Ngày nay, nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đang bước vào thời kỳ mới, mở cửa hội nhập khu vực và quốc tế, đưa đất nước vững bước đi lên, với mục tiêu làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội văn minh, công bằng và dân chủ.
30
NHỮNG MỐC LỊCH SỬ ĐÁNG NHỚ
NHỮNG MỐC LỊCH SỬ ĐÁNG NHỚ
_ Thời kỳ đồ đá cũ: cách nay 300.000 năm. Di tích Người vượn Việt Nam ở núi Đọ, văn hóa Sơn Vi.
_ Thời kỳ đồ đá giữa: cách nay 10.000 năm, văn hóa Hòa Bình.
_ Thời kỳ đồ đá mới: cách nay 5.000 năm, văn hóa Bắc Sơn.
I. TRUYỀN THUYẾT KINH DƯƠNG VƯƠNG - CON LẠC CHÁU HỒNG (2879 - 258 TCN)
_ Theo truyền thuyết thủy tổ dân tộc Việt là Kinh Dương Vương (mộ ở làng An Lữ, Thuận Thành, Bắc Ninh). Kinh Dương Vương lên ngôi hoàng đế năm Nhâm Tuất (2879 trước Công nguyên).
_ Con là Sùng Lãm nối ngôi hiệu là Lạc Long Quân, lấy con gái của Đế Lai là Âu Cơ, sinh một bọc 100 trứng, nở ra 100 người con, tổ tiên người Bách Việt.
_ 50 người con theo mẹ lên núi, 50 người con theo cha về miền biển phía Nam. Người con trưởng trong số 50 người con theo mẹ lên núi được tôn làm vua, gọi là Hùng Vương.
_ Hùng Vương lên ngôi, đặt quốc hiệu là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu. Kéo dài 18 đời, khoảng 2000 năm, các tướng văn gọi là Lạc Hầu, võ tướng gọi là Lạc Tướng. Con trai vua gọi là Quan Lang, con gái gọi là Mỵ Nương.
PHÙ ĐỔNG THIÊN VƯƠNG
Đời vua Hùng thứ 6, giặc Ân kéo quân xâm chiếm nước ta. Nhà vua cho sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giúp nước. Ở làng Phù Đổng có một cậu bé lên ba mà vẫn chưa biết nói. Khi nghe
31
LỊCH SỬ VIỆT NAM
sứ giả rao cầu hiền, cậu bỗng biết nói, bảo sứ giả về tâu với vua đúc một ngựa sắt, một thanh kiếm, một nón sắt, cậu sẽ ra quân diệt giặc. Khi vua cho mang ngựa sắt đến, cậu bỗng vươn vai hóa thành một người to lớn khổng lồ. Giặc Ân đến, cậu cưỡi ngựa sắt đánh cho tan tác. Thắng trận cậu đến núi Sóc Sơn cùng ngựa sắt bay về trời.
SƠN TINH - THỦY TINH
Vua Hùng thứ 18 kén chồng cho Mỵ Nương: hứa gả con gái cho người mang lễ vật đến trước. Sơn Tinh mang đến sớm nhất và đưa Mỵ Nương về núi.
Thủy Tinh đến muộn, nổi giận dâng nước đánh Sơn Tinh. Nước đến đâu Sơn Tinh làm cho núi cao đến đó. Thủy Tinh thua.
II. NHÀ THỤC - QUỐC HIỆU ÂU LẠC (257 - 208 TCN)
_ Thục Phán thủ lĩnh Âu Việt, hợp nhất với Văn Lang của Lạc Việt, xưng là An Dương Vương đóng đô ở Cổ Loa, từ năm 257 đến 208 trước Công nguyên. Quốc hiệu là Âu Lạc.
_ Năm 218 TCN, Tần Thủy Hoàng huy động 50 vạn quân chinh phục Bách Việt. Sau 10 năm bền bỉ chiến đấu, đến khi quân Tần mệt mỏi, Thục Phán tổ chức phản công, bắn chết tướng Đồ Thư. Quân Tần thua trận, mở đường máu chạy về nước.
III. NHÀ TRIỆU VÀ PHONG KIẾN PHƯƠNG BẮC ĐÔ HỘ LẦN THỨ NHẤT (207 - 111 TCN)
_ Triệu Đà đánh Âu Lạc không được vì nước ta có Loa Thành kiên cố, có nỏ thần. Triệu Đà lập mưu cho Trọng Thủy sang ở rể lấy Mỵ Châu con gái An Dương Vương. Trọng Thủy lấy cắp nỏ thần Kim Quy đem về nước. Triệu Đà chiếm được nước ta,
32
NHỮNG MỐC LỊCH SỬ ĐÁNG NHỚ
lập ra Nam Việt đóng đô ở Phiên Ngung (Quảng Đông) kéo dài từ Triệu Vũ Đế (Triệu Đà - 207 TCN) đến Triệu Dương Vương (Triệu Kiến Đức - 111 TCN).
_ Lợi dụng nội tình nhà Triệu bất ổn, nhà Hán sai tướng Lộ Bác Đức và Dương Bộc đánh chiếm Nam Việt và đổi thành Giao Chỉ, chia thành 9 quận, mỗi quận đặt một viên Thái thú.
IV. THỜI KỲ CHỐNG PHONG KIẾN PHƯƠNG BẮC ĐÔ HỘ LẦN THỨ NHẤT - KHỞI NGHĨA HAI BÀ TRƯNG (40 - 43)
_ Thái thú quận Giao Chỉ là Tô Định tàn bạo giết chết Thi Sách (con Lạc Tướng Chu Diên) chồng Trưng Trắc (con Lạc Tướng Mê Linh). Mùa xuân năm 40, Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị nổi dậy đánh đuổi Tô Định chạy về nước. Các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố cũng theo về với Hai Bà Trưng. Đất nước sạch bóng quân thù, Trưng Trắc được suy tôn lên làm vua đóng đô ở Mê Linh từ năm 40 đến năm 43.
_ Dưới trướng của Hai Bà Trưng có 20 nữ tướng tài ba, trong đó đáng chú ý là các nữ tướng: Lê Chân, Bát Nàn, Đàm Ngọc Nga, Phương Dung...
_ Mùa hè năm 42, nhà Hán sai Mã Viện đưa 20 vạn quân đánh chiếm nước ta. Trước thế giặc hung hãn, quân dân ta đã anh dũng chiến đấu, nhưng thua trận. Ngày 6 tháng 2 năm Quý Mão (43), sau khi đã phóng những mũi tên cuối cùng, Hai Bà Trưng đã tuẫn tiết ở sông Hát Giang.
V. THỜI KỲ CHỐNG PHONG KIẾN PHƯƠNG BẮC ĐÔ HỘ LẦN THỨ HAI
_ Đông Ngô cai trị nước ta vô cùng hà khắc. Năm 248, bà Triệu Thị Trinh cùng anh là Triệu Quốc Đạt phất cờ khởi nghĩa, phá tan các thành ấp của quân Đông Ngô.
33
LỊCH SỬ VIỆT NAM
_ Trong 6 tháng, nghĩa quân đã chiếm đất Giao Châu. Vua Ngô hốt hoảng sai danh tướng Lục Dận sang đàn áp cuộc khởi nghĩa.
_ Bà Triệu kiên cường chiến đấu và đã hy sinh trên núi Tùng (Hậu Lộc - Thanh Hóa), lúc mới 23 tuổi.
_ Nhân dân ta vô cùng khổ sở dưới ách đô hộ của nhà Lương, do Thứ Sử Tiêu Tư cai trị. Tháng 1 năm 542, Lý Bí (tức Lý Bôn, ở Long Hưng, Thái Bình), dựng cờ khởi nghĩa. Sau ba tháng chiến đấu, Lý Bí đã chiếm được hầu hết quận, huyện và thành Long Biên.
_ Tháng 2 năm 544 (Giáp Tý), Lý Bí xưng là Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên.
_ Đầu năm 545, nhà Lương cử Dương Phiêu và tên tướng khát máu Trần Bá Tiên mang quân sang xâm chiếm nước ta hòng bóp chết Nhà nước Vạn Xuân non trẻ. Lý Nam Đế bị thất bại ở động Khuất Lão, Lý Thiên Bảo (anh họ Lý Bôn) cùng Lý Phật Tử đem quân vào Thanh Hóa chống lại quân Lương.
_ Lý Nam Đế ốm nặng, trao quyền lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Lương cho Triệu Quang Phục. Triệu Quang Phục đưa quân về Dạ Trạch (Hưng Yên). Tại đây, ông cho quân lính vừa sản xuất, vừa chiến đấu. Ngày 20 tháng 3 năm Mậu Thìn (13-4-548), Lý Nam Đế mất.
_ Sau khi Lý Nam Đế mất, Lý Thiên Bảo xưng là Đào Lang Vương từ 549-555.
_ Cũng sau khi Lý Nam Đế mất, ngày 13-4-548, Triệu Quang Phục lên ngôi vua, xưng là Triệu Việt Vương.
_ Năm 550, Triệu Việt Vương giết được tướng giặc Dương Sàn, chiếm lại thành Long Biên.
_ Tại Cửu Chân (Thanh Hóa), năm 555, Đào Lang Vương mất, binh quyền về tay Lý Phật Tử. Năm 557, Lý Phật Tử đem quân đánh Triệu Việt Vương để giành lại ngôi vua cho nhà Lý, nhưng không thắng.
34
NHỮNG MỐC LỊCH SỬ ĐÁNG NHỚ
_ Lý Phật Tử giảng hòa, chia đất. Để tỏ lòng hòa hiếu, Triệu Việt Vương gả con gái Cải Nương cho Nhã Lang, con Lý Phật Tử.
_ Năm 571, Lý Phật Tử phản trắc bất ngờ đem quân đánh úp, Triệu Việt Vương thua chạy đến Đại Nha thì tuẫn tiết.
_ Diệt xong Triệu Việt Vương, Lý Phật Tử xưng là Hậu Lý Nam Đế, đóng đô ở Phong Châu (Bạch Hạc) từ năm 571 đến năm 602.
_ Năm 602, nhà Tùy sai tướng Lưu Phương đem quân sang xâm lược, Lý Phật Tử hèn nhát đầu hàng. Từ đó nước ta bị nhà Tùy đô hộ.
VI. THỜI KỲ CHỐNG PHONG KIẾN PHƯƠNG BẮC LẦN THỨ BA
_ Nhà Tùy đô hộ nước ta từ 581 đến 618 thì mất, nhà Đường thay thế. Chính sách cai trị của nhà Đường vô cùng hà khắc, nhân dân ta đã tổ chức nhiều cuộc khởi nghĩa đứng lên chống lại.
_ Năm 722, Mai Thúc Loan (quê Mai Phụ, Thạc Hà, Hà Tĩnh) nổi dậy khởi nghĩa giải phóng thành Tống Bình (Hà Nội), được nhân dân suy tôn là Mai Hắc Đế, đóng đô ở Vạn An (Nghệ An). Mai Hắc Đế đem quân ra giải phóng thành Tống Bình (Hà Nội).
_ Nhà Đường cử tướng Dương Tư Húc mang 10 vạn quân sang đàn áp. Mai Hắc Đế thua trận, rồi ốm mất.
_ Năm 791, Phùng Hưng, hào trưởng đất Đường Lâm (Hà Tây) bất ngờ đánh chiếm thành Tống Bình. Tướng giặc Cao Chính Bình lo sợ ốm chết. Phùng Hưng được nhân dân tôn là Bố Cái Đại Vương. Giành chủ quyền được 7 năm thì mất.
_ Con trai Phùng Hưng là Phùng An nối nghiệp được 2 năm thì nhà Đường lại sai Triệu Xương đem quân sang đánh chiếm nước ta vào năm 802.
35
LỊCH SỬ VIỆT NAM
VII. THỜI KỲ XÂY DỰNG NỀN TỰ CHỦ
_ Dưới ách đô hộ nhà Đường, nhân dân ta rất cơ cực, Khúc Thừa Dụ khởi binh đánh chiếm thành Tống Bình, xưng là Tiết Độ Sứ.
_ Nhà Đường buộc phải công nhận Khúc Thừa Dụ là người đứng đầu đất Việt (906).
_ Khúc Thừa Dụ mất 23-7-907, giao quyền cho con là Khúc Hạo. Năm 917, Khúc Hạo mất.
_ Năm 917, Khúc Thừa Mỹ thay cha giữ chức Tiết Độ Sứ của nhà Lương, chứ không phục nhà Nam Hán. Vua Nam Hán sai quân sang đánh, bắt được Khúc Thừa Mỹ, sai Lý Tiến sang làm Thứ sử Giao Châu.
_ Năm 931, Dương Đình Nghệ (người Ái Châu, Thanh Hóa), tướng cũ của họ Khúc, khởi binh đánh đuổi Lý Tiến, giải phóng thành Đại La, xưng là Tiết Độ Sứ.
_ 6 năm sau, Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn ám hại đoạt chức Tiết Độ Sứ. Công Tiễn bị nhân dân nổi lên chống lại, vội sang cầu cứu Nam Hán.
VIII. NHÀ NGÔ (939 - 965)
_ Năm 938, Ngô Quyền, người làng Đường Lâm, Hà Tây, con rể Dương Đình Nghệ, cai quản đất Ái Châu. Nghe tin cha vợ bị Công Tiễn ám hại và vua Nam Hán sai con trai là Hoàng Thao đem quân xâm lược nước ta, ông đem quân giết chết tên phản bội Kiều Công Tiễn và đón đánh quân Nam Hán.
_ Sau chiến thắng vang dội trên sông Bạch Đằng (11-938), Hoàng Thao bị đâm chết, Ngô Quyền lên ngôi vua, đóng đô ở Cổ Loa.
_ Ngô Quyền làm vua được 5 năm (939-944) thì mất.
36
NHỮNG MỐC LỊCH SỬ ĐÁNG NHỚ
_ Em vợ là Dương Tam Kha (con trai Dương Đình Nghệ) cướp ngôi của con trai Ngô Quyền là Ngô Xương Ngập, xưng là Dương Bình Vương (944-950). Ngô Xương Ngập phải bỏ trốn.
_ Năm 950, Ngô Xương Văn, con thứ hai của Ngô Quyền, dùng mưu lật đổ Dương Tam Kha, giành lại ngôi báu cho nhà Ngô. Ngô Xương Văn lên ngôi, lấy hiệu là Nam Tấn Vương (950- 965), đóng đô ở Cổ Loa, cho người đi tìm anh cả là Xương Ngập đón về.
_ Sau khi tìm được anh cả là Ngô Xương Ngập, theo thỉnh cầu của Nam Tấn Vương, được Dương Thái hậu chuẩn tấu, cả hai anh em đều làm vua. Ngô Xương Ngập lên ngôi vua lấy hiệu là Thiên Sách Vương (951), làm vua được 8 năm thì ốm chết (959).
_ Từ sau khi Dương Tam Kha cướp ngôi nhà Ngô, khắp nơi nổi lên loạn 12 sứ quân. Năm 965, Ngô Xương Văn bị chết trong một trận giao chiến ở Thái Bình.
_ Con của Thiên Sách Vương là Ngô Xương Xí nối nghiệp, nhưng thế lực ngày càng yếu, không giữ nổi ngôi vua mà trở thành một trong 12 sứ quân, chiếm giữ vùng Bình Kiều (Triệu Sơn, Thanh Hóa).
IX. NHÀ ĐINH (968 - 980)
_ Đinh Bộ Lĩnh, người động Hoa Lư (con ông Đinh Công Trứ, nha tướng cũ của Dương Đình Nghệ), là con nuôi của Trần Lãm, một trong 12 sứ quân. Trần Lãm chiếm giữ Bố Hải Khẩu (Kỳ Bố, Thái Bình). Trần Lãm chết, Đinh Bộ Lĩnh được trao quyền, xưng là Vạn Thắng Vương, dẹp xong loạn 12 sứ quân năm 968.
_ Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là Đinh Tiên Hoàng, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Đinh Tiên Hoàng phong cho Nguyễn Bặc là Đinh Quốc Công, Lê Hoàn là Thập đạo tướng quân. Đầu năm 970 lại đặt niên hiệu là Thái Bình, không dùng theo niên hiệu của Trung Hoa như trước đây nữa.
37
LỊCH SỬ VIỆT NAM
_ Năm 979, sau khi làm vua được 11 năm, Đinh Tiên Hoàng và con trai là Đinh Liễn bị tên thái giám Đỗ Thích giết chết. Đinh Toàn mới 6 tuổi lên ngôi vua. Nhân sự rối rắm đó, nhà Tống chuẩn bị cho quân sang xâm lược.
X. NHÀ TIỀN LÊ (980 - 1009)
_ Vì lợi ích dân tộc, Thái hậu Dương Vân Nga (vợ Đinh Tiên Hoàng, mẹ Đinh Toàn) theo nguyện vọng của quần thần trao ngôi vua cho Thập đạo tướng quân Lê Hoàn, người Thọ Xuân, Thanh Hóa.
_ Năm 980, Lê Hoàn lên ngôi lấy hiệu là Lê Đại Hành, nhanh chóng tiến hành mọi bước chuẩn bị để đối phó với nguy cơ xâm lược từ phía Bắc.
_ Mùa xuân năm 981, quân Tống theo hai đường thủy bộ ồ ạt tràn vào nước ta. Dưới sự chỉ huy tài giỏi của vua Lê Đại Hành, trong vòng 1 tháng, quân dân Đại Cồ Việt đã đánh tan quân Tống trên cả hai mặt trận thủy và bộ. Quân ta bắt chém tướng giặc Hầu Nhân Bảo.
_ Năm 1005, Lê Đại Hành mất, làm vua được 25 năm. Các con tranh giành ngôi báu. Cuối cùng, con thứ 3 là Long Việt lên làm vua là Lê Trung Tông được 3 ngày thì bị em là Lê Long Đĩnh giết chết.
_ Lê Long Đĩnh cướp ngôi lên làm vua, lấy hiệu là Đại Thắng Minh Quang Hiếu Hoàng đế, vẫn đóng đô ở Hoa Lư. Long Đĩnh tàn ác, dâm đãng, mỗi lần thiết triều phải nằm, tục gọi là Lê Ngọa Triều, làm vua được 4 năm thì mất (1005-1009).
XI. NHÀ LÝ (1010 - 1225)
_ Long Đĩnh mất, con là Sạ còn bé, triều thần tôn Lý Công Uẩn (người làng Cổ Pháp, Từ Sơn, Bắc Ninh) lên ngôi hoàng đế,
38
NHỮNG MỐC LỊCH SỬ ĐÁNG NHỚ
lấy hiệu là Lý Thái Tổ, đặt niên hiệu là Thuận Thiên, vẫn giữ quốc hiệu Đại Cồ Việt và đóng đô ở Hoa Lư.
_ Nhờ sự nuôi dạy của nhà sư Lý Khánh Văn và Lý Vạn Hạnh, Lý Công Uẩn trở thành người xuất chúng.
_ Tháng 7 năm 1010, Lý Thái Tổ hạ chiếu dời đô về Đại La và đặt tên mới là Thăng Long (tức Hà Nội ngày nay), đổi quốc hiệu là Đại Việt. Sau 18 năm trị vì đất nước, Lý Thái Tổ mất năm 1028.
_ Khi Lý Thái Tổ vừa mất, các hoàng tử đem quân vây hãm hoàng thành để tranh ngôi vua với Thái tử. Nhờ lòng dũng cảm và trung thành, Lê Phụng Hiểu đã dẹp tan cuộc nổi loạn và phò Thái tử Phật Mã lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là Lý Thái Tông.
_ Năm 1054, sau khi vua cha Lý Thái Tông mất, Lý Thánh Tông, húy Nhật Tôn, nối nghiệp, thực lòng thương dân, chăm lo cho trăm họ. Lý Thánh Tông mất năm 1072.
_ Con trưởng Lý Thánh Tông là Càn Đức, mẹ là Nguyên Phi Ỷ Lan, lên ngôi hoàng đế năm 1072, lúc mới 6 tuổi, hiệu Lý Nhân Tông. Hoàng Thái hậu Ỷ Lan phải buông rèm nhiếp chính.
_ Năm 1075, biết rõ âm mưu xâm lược nước ta của nhà Tống, Thái úy Lý Thường Kiệt chủ động mang quân sang đánh phá các căn cứ của chúng ở Châu Khâm, Châu Liêm, Châu Ung (Quảng Đông, Quảng Tây), rồi cũng chủ động rút quân.
_ Mặc dầu vậy, đầu năm 1077 nhà Tống vẫn sai Quách Quỳ, Triệu Tiết xua 10 vạn quân và 1 vạn ngựa chiến sang chiếm nước ta, nhưng đã bị quân dân Đại Việt chặn lại ở bờ Bắc sông Cầu, làm cho địch rơi vào thế “tiến thoái lưỡng nan”.
_ Tại phòng tuyến sông Cầu này, Lý Thường Kiệt đã làm bài thơ nổi tiếng “Nam quốc sơn hà Nam đế cư...”, được xem như “Bản tuyên ngôn độc lập” đầu tiên của đất nước ta.
39
LỊCH SỬ VIỆT NAM
_ Trước sức phản công mãnh liệt của quân ta, quân Tống khiếp sợ rút chạy về nước. Nền độc lập nước ta được giữ vững. Lý Nhân Tông mất năm 1127.
_ Vua Lý Nhân Tông không có con trai, lập con trai của người em (là Sùng Hiền Hầu Dương Hoán) làm Thái tử. Năm 1127, Thái tử nối ngôi vua lấy niên hiệu Lý Thần Tông.
_ Lý Thần Tông khuyến khích phát triển nông nghiệp, thực hiện chính sách “ngụ binh ư nông”, cho quân lính luân phiên cứ 6 tháng lại được về nhà cày ruộng, nhờ vậy duy trì được sức mạnh quân đội song song với sản xuất nông nghiệp. Lý Thần Tông mất năm 1138.
_ Năm 1138, Lý Thiên Tộ, con trưởng của Lý Thần Tông, con bà hoàng hậu họ Lê, lên ngôi hoàng đế lúc mới 3 tuổi, hiệu là Lý Anh Tông. Lê Thái hậu nhiếp chính, tư thông với Đỗ Anh Vũ làm triều đình đổ nát. Nhờ có các trung thần như Tô Hiến Thành, Hoàng Nghĩa Hiển, Lý Công Tín... cơ nghiệp nhà Lý được giữ vững cho đến khi vua trưởng thành. Lý Anh Tông mất năm 1175.
_ Lý Anh Tông mất, Thái tử Long Cán chưa được 3 tuổi, bà Chiêu Linh thái hậu muốn lập con cả là Long Xưởng lên ngôi vua, đem vàng bạc mua chuộc Tô Hiến Thành, nhưng ông không nghe, theo di chiếu lập Long Cán 3 tuổi làm vua, hiệu là Lý Cao Tông. Về sau Cao Tông ăn chơi vô độ, không lo việc triều chính, giặc cướp nổi lên khắp nơi. Cơ nghiệp nhà Lý suy đồi. Cao Tông mất năm 1210.
_ Thái tử Lý Hạo Sảm lên ngôi vua, hiệu Lý Huệ Tông. Huệ Tông không có con trai, suốt ngày rượu chè, bỏ bê triều chính. Năm 1224, Huệ Tông truyền ngôi cho công chúa Chiêu Thánh mới 7 tuổi, rồi đi tu. Sau bị Trần Thủ Độ ép phải tự tử.
_ Công chúa Chiêu Thánh lên ngôi, hiệu là Lý Chiêu Hoàng, quyền bính về tay Trần Thủ Độ.
40
NHỮNG MỐC LỊCH SỬ ĐÁNG NHỚ
_ Do sự sắp đặt của Trần Thủ Độ, Lý Chiêu Hoàng lấy Trần Cảnh (cháu Trần Thủ Độ) làm chồng.
XII. NHÀ TRẦN (1225 - 1400)
_ Do sự thúc ép của Trần Thủ Độ, ngày 21-10-1225, Lý Chiêu Hoàng hạ chiếu nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh.
_ Ngày 11-12-1225, Lý Chiêu Hoàng mở hội ở điện Thiên An, trước bá quan văn võ, chính thức cởi hoàng bào mời Trần Cảnh lên ngôi vua, lấy hiệu là Trần Thái Tông, đổi niên hiệu là Kiến Trung. Triều đại nhà Trần bắt đầu từ đây, vẫn giữ quốc hiệu là Đại Việt, kinh đô là Thăng Long.
_ Trần Thái Tông lấy hoàng hậu Chiêu Thánh 12 năm vẫn chưa có con. Sợ nhà Trần không có người nối nghiệp, Trần Thủ Độ ép vua bỏ Chiêu Thánh để lấy chị dâu (vợ của Trần Liễu) là công chúa Thuận Thiên (chị ruột của Chiêu Thánh, lúc ấy đã có thai được 3 tháng) làm hoàng hậu. Giữa Trần Liễu và Trần Cảnh do chuyện này mà sinh bất hòa, nhưng rồi về sau vẫn hàn gắn, thuận hòa với nhau. Hoàng hậu Thuận Thiên sau sinh ra Trần Quốc Khang, thái tử Trần Hoảng, Trần Quang Khải, Trần Nhật Vĩnh, Trần Ích Tắc, Trần Nhật Duật (đều được phong vương) và hai công chúa là Thiều Dương và Thụy Bảo.
CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN NGUYÊN - MÔNG LẦN THỨ NHẤT (1257)
_ Năm 1257, Hốt Tất Liệt sai tướng Ngột Lương Hợp Thai đem 10 vạn quân sang xâm chiếm nước ta. Dưới sự lãnh đạo của Trần Thái Tông, Trần Quốc Tuấn, Trần Thủ Độ, quân ta dùng chiến tranh du kích, thực hiện vườn không nhà trống, tiêu hao sinh lực kẻ thù.
41
LỊCH SỬ VIỆT NAM
_ Đợi cho kẻ thù gặp lúc quẫn bách về lương thực, khốn khổ về bệnh tật, không hợp thủy thổ, ngày 29-1-1258 quân dân ta tổ chức phản công ở Đông Bộ Đầu thắng lợi. Quân Nguyên Mông rút chạy về nước.
_ Trần Hoảng, con trưởng của Trần Thái Tông, được vua cha nhường ngôi ngày 24-2-1258, lấy hiệu là Thánh Tông, đổi niên hiệu là Thiệu Long. Thánh Tông là vị vua nhân từ, chăm lo việc nước. Đối nội, khuyến khích việc khai khẩn đất hoang, khuyến khích học hành, mở khoa thi. Đối ngoại, thực hiện chính sách mềm dẻo nhưng kiên quyết. Thánh Tông ở ngôi được 20 năm, làm Thái Thượng Hoàng 12 năm, mất ngày 25-5-1290.
_ Con trưởng Thánh Tông là Trần Khâm lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là Trần Nhân Tông, đổi niên hiệu là Thiệu Bảo. Ông là một vị vua nhân từ, đức độ, cố kết lòng dân, hết lòng vì dân, vì nước và có tinh thần quyết đoán.
CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN NGUYÊN - MÔNG LẦN THỨ HAI (1285)
_ Tháng 12-1284, vua Nguyên sai Thoát Hoan đem 50 vạn quân sang chiếm nước ta và 10 vạn quân của Toa Đô từ Chiêm Thành đánh ra Nghệ An. Để đối phó, vua Trần Nhân Tông và Thái Thượng hoàng Thánh Tông phong cho Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn làm Quốc công tiết chế chỉ huy quân dân Đại Việt chống quân Nguyên - Mông.
_ Tháng 8-1284, vua Trần tổ chức Hội nghị Bình Than, Hưng Đạo vương tổ chức tập trận ở Đông Bộ Đầu và công bố “Hịch tướng sĩ” khích lệ lòng yêu nước của quân dân.
_ Vua Trần còn tổ chức Hội nghị bô lão ở điện Diên Hồng để thăm dò ý dân nên đánh hay nên hàng. Cả nước đồng lòng “quyết đánh”. Quân dân Đại Việt thể hiện điều này bằng cách xăm vào tay hai chữ “sát thát” (giết giặc Nguyên).
42
NHỮNG MỐC LỊCH SỬ ĐÁNG NHỚ
_ Dưới sự chỉ đạo chiến lược tuyệt vời của Hưng Đạo Vương, để tránh thế mạnh của địch, ban đầu quân ta tổ chức cầm cự, rồi bỏ ngỏ kinh đô Thăng Long, thực hiện chiến tranh du kích. Chờ cho quân địch suy yếu mới tổ chức phản công mạnh. Chỉ trong vòng nửa năm ta giành thắng lợi ở Chương Dương, Hàm Tử, Tây Kết, Vạn Kiếp... Quân Nguyên bị đánh tơi tả. Toa Đô, Lý Hằng, Lý Quán bị chém đầu tại trận. Thoát Hoan chui vào ống đồng trốn chạy về nước.
_ Ngày 6-6-1285, quân dân Đại Việt tiến về giải phóng kinh đô Thăng Long, mở hội ca khúc khải hoàn.
CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN NGUYÊN - MÔNG LẦN THỨ BA (1288)
_ Năm 1287, quân Nguyên do Thoát Hoan chỉ huy, lại ồ ạt vào chiếm nước ta. Dưới sự lãnh đạo tài tình của Quốc công tiết chế Hưng Đạo Vương, quân ta dùng chiến tranh du kích và chiến thuật “vườn không nhà trống” để làm tiêu hao sinh lực địch.
_ Ngày 24-2-1287, Hưng Đức Hầu Quán cho quân mai phục giết được nhiều giặc ở cửa Linh Kinh - Vũ Cao.
_ Ngày 28-11-1287, Phán Thư Thượng Vị Nhân Đức Hầu Toán, đánh lui địch ở eo biển Đa Mỗ (Móng Cái).
_ Ngày 28-12-1287, quân ta bắn chết Sảnh Đô Sự Hầu Sư Đạt của giặc tại ải Nội Bàng.
_ Ngày 8-1-1288, quân ta đánh bắt được 300 chiến thuyền giặc tại biển Đại Bàng, nhiều tên giặc bị tiêu diệt.
_ Tại Vân Đồn, Trần Khánh Dư bị thất trận trước Ô Mã Nhi. Vua Trần bắt về trị tội, Trần Khánh Dư xin ở lại lập công chuộc tội.
43
LỊCH SỬ VIỆT NAM
_ Khánh Dư trở lại, chờ cho Ô Mã Nhi đi qua, lập tức cho quân tấn công đoàn thuyền chở lương thực, thu nhiều chiến lợi phẩm. Tướng giặc Trương Văn Hổ chỉ huy đoàn thuyền, chạy thoát về nước.
_ Ngày 8-3-1288, khi nước thủy triều lên, quân ta nhử địch đuổi theo, đến lúc thủy triều xuống, thuyền giặc sa vào trận địa cọc đã được cắm trước, quân ta dưới sự chỉ huy của Hưng Đạo Vương phản công mọi phía. Quân giặc chết như rạ, ta bắt sống Ô Mã Nhi, Tích Lệ Cơ Ngọc, Phàn Tiếp và hơn 400 chiến thuyền giặc. Thoát Hoan khiếp đảm, từ Vạn Kiếp theo đường bộ chạy về nước.
_ Chỉ trong vòng nửa năm, cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ ba của quân dân Đại Việt giành thắng lợi hoàn toàn.
_ Sau 14 năm ở ngôi vua, 2 lần chiến thắng quân Nguyên - Mông, Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con là Trần Thuyên, làm Thái Thượng hoàng, sau xuống tóc đi tu thành Sơ tổ thiền phái Trúc Lâm, Yên Tử.
_ Trần Thuyên là con trưởng Trần Nhân Tông, lên ngôi năm 1293, hiệu là Trần Anh Tông, khéo biết kế thừa sự nghiệp của tổ tiên, quốc gia thái bình thịnh trị.
_ Ngày 18-3-1314, vua Trần Anh Tông nhường ngôi cho Thái tử Mạnh, trị vì được 21 năm, mất năm 1320.
_ Năm 1314, Trần Mạnh, con thứ tư của vua Trần Anh Tông lên ngôi hiệu là Trần Minh Tông. Ông là vị vua có lòng nhân hậu, trọng tài cao, đức độ, nên có nhiều hiền thần dưới trướng như: Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu, Chu Văn An, Nguyễn Trung Ngạn, Đoàn Nhữ Hài...
_ Năm 1329, Trần Minh Tông nhường ngôi cho Thái tử Vượng. Ông mất ngày 19-2-1357.
44
NHỮNG MỐC LỊCH SỬ ĐÁNG NHỚ
_ Trần Vượng lên ngôi vua lúc 10 tuổi, hiệu là Trần Hiến Tông, ở ngôi 12 năm, nhưng việc triều chính đều do Thượng Hoàng Minh Tông điều khiển. Hiến Tông mất 1341.
_ Năm 1341, Trần Hạo, con thứ 10 của Minh Tông, kế nghiệp anh, hiệu là Trần Dụ Tông. Ông là vị vua có học vấn cao, rất thông tuệ, chăm lo việc võ, sửa sang việc văn.
_ Năm 1358, Trần Dụ Tông đổi niên hiệu là Đại Trị. Khi Thượng hoàng Minh Tông mất, các trung thần như Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn cũng mất.
_ Bọn gian thần kết bè, kéo đảng, Dụ Tông rượu chè bê tha. Chu Văn An dâng sớ “Thất trảm” không được vua nghe theo, ông liền treo ấn từ quan. Dụ Tông mất năm 1369.
_ Dụ Tông mất, bão táp cung đình nhà Trần nổi lên. Bà Hoàng Thái hậu đòi lập con nuôi của Cung Túc Vương là Dương Nhật Lễ làm vua. Nhật Lễ lên ngôi muốn cải họ Dương, chấm dứt ngôi nhà Trần, giết Hoàng Thái hậu và Cung Định Vương. Cung Tĩnh Vương hoảng sợ bỏ chạy lên Hà Giang.
_ Năm 1370, các tôn thất nhà Trần khởi binh giết Dương Nhật Lễ rồi mời Cung Tĩnh Vương tức Trần Phủ, con thứ ba của Trần Minh Tông về làm vua, hiệu là Trần Nghệ Tông.
_ Năm 1372, Nghệ Tông nhường ngôi cho em là Trần Kính và lui về Thiên Trường làm Thái Thượng hoàng.
_ Năm 1372, Trần Kính, con thứ 11 của Minh Tông, em Nghệ Tông lên ngôi vua, hiệu là Trần Duệ Tông, làm vua được 5 năm. Trần Duệ Tông là một vị vua cố chấp, gàn bướng, không nghe lời can ngăn của đại tướng Đỗ Lễ, khinh thường quân giặc nên đã bị quân Chiêm Thành giết chết trong trận ở thành Đồ Bàn, Bình Định (1377).
_ Thượng hoàng Nghệ Tông lập Trần Hiệu, con trưởng của Duệ Tông làm vua, hiệu là Trần Phế Đế (1377). Phế Đế là vị vua u mê, nhu nhược, mọi quyền bính về tay Hồ Quý Ly.
45
LỊCH SỬ VIỆT NAM
_ Năm 1378, quân Chiêm Thành đánh ra Nghệ An, cướp phá kinh thành Thăng Long.
_ Ngày 6-12-1388, Thượng hoàng Nghệ Tông giáng Phế Đế xuống làm Linh Đức Đại Vương và bắt thắt cổ chết. Lập con út của mình lên làm vua.
_ Năm 1388, con út của Nghệ Tông là Trần Nhung (cưới con gái Hồ Quý Ly) lên ngôi vua hiệu là Trần Thuận tông.
_ Năm 1389, Chế Bồng Nga đem quân đánh Đại Việt, Hồ Quý Ly đưa quân nghinh chiến, bị thua trận. Thượng hoàng Nghệ Tông sai đô tướng Trần Khát Chân đem quân chặn giặc.
_ Được tiểu thần Chế Bồng Nga là Ba Lậu Kê chạy sang hàng quân Đại Việt, cho biết dấu hiệu thuyền chở Chế Bồng Nga, Trần Khát Chân tập trung hỏa lực bắn trúng thuyền, Bồng Nga trúng đạn chết. Trần Khát Chân chém đầu Chế Bồng Nga đem về triều dâng vua và Thái Thượng hoàng.
_ Ngày 15-12-1394, Thượng hoàng Nghệ Tông mất. Hồ Quý Ly lên làm phụ chính Thái sư, thâu tóm toàn bộ binh quyền.
_ Hồ Quý Ly quyết định dời đô vào Thanh Hóa, xây thành Tây Đô (Vĩnh Lộc). Tháng 11-1397, Hồ Quý Ly bức vua Thuận Tông phải dời kinh về Tây Đô.
_ Tháng 3-1398, Hồ Quý Ly ép Thuận Tông nhường ngôi cho con là Trần Án mới 3 tuổi lên làm vua, hiệu là Trần Thiếu Đế. Hồ Quý Ly tự xưng là Hưng Liệt Đại Vương, rồi sai giết Thuận Tông, mặc dầu Thuận Tông là con rể của ông ta. Thuận Tông ở
ngôi được 10 năm (1388-1398).
_ Ngày 28-2-1400, Hồ Quý Ly bức Thiếu Đế (mới 5 tuổi) nhường ngôi cho mình. Chấm dứt triều Trần sau 175 trị vì đất nước qua 12 đời vua.
46
NHỮNG MỐC LỊCH SỬ ĐÁNG NHỚ
XIII. NHÀ HỒ (1400-1407)
_ Hồ Quý Ly là một nhân vật thông minh, lỗi lạc. Ông có nhiều cải cách táo bạo, toàn diện, có những cải cách đi trước thời đại, đến nay vẫn có giá trị. Nhưng Hồ Quý Ly phạm tội giết vua, kể cả tướng quân Trần Khát Chân. Khi quân Minh sang xâm lược nước ta, Hồ Quý Ly có 1 lực lượng quân sự mạnh, nhưng không được nhân dân ủng hộ, nên thua trận.
_ Ngày 12-1-1401, Hồ Quý Ly nhường ngôi cho con thứ hai là Hồ Hán Thương, xưng là Thái Thượng hoàng.
_ Lấy cớ Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, nhà Minh đem quân sang chinh phạt. Tháng 9-1406, tướng nhà Minh là Trương Phụ đem 40 vạn quân đánh vào cửa ải Pha Lũy (nay là Hữu Nghị quan). Mộc Thạch đem 40 vạn quân đánh cửa ải Phú Lệnh (thị xã Hà Giang).
_ Tháng 12-1406 quân Minh chiếm Việt Trì, nhà Hồ thua trận bỏ chạy vào Thanh Hóa.
_ Ngày 20-1-1407, quân Minh hạ thành Đa Bang (Ba Vì).
_ Ngày 17-6-1407, quân Minh bắt được cha con Hồ Quý Ly đưa về Trung Quốc. Thế là Đại Việt bị đặt dưới ách đô hộ hà khắc của nhà Minh.
XIV. NHÀ HẬU TRẦN (1407 - 1414)
_ Năm 1407, Giản Định Vương Trần Ngỗi, con vua Nghệ Tông dấy binh khôi phục nhà Trần, xưng là Giản Định Đế, nhưng lại nghe gian thần giết oan hai vị trung thần là Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân.
_ Đặng Dung (con Đặng Tất), Nguyễn Cảnh Dị (con Nguyễn Cảnh Chân), căm giận vì cha bị giết oan, mới đem quân từ Thuận
47
LỊCH SỬ VIỆT NAM
Hóa ra Thanh Hóa, đón Trần Quý Khoáng, cháu nội Nghệ Tông đến Nghệ An lên ngôi vua, lấy hiệu là Trùng Quang Đế, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Minh.
_ Tháng 3-1413, vua Trùng Quang sai Nguyễn Biểu sang điều đình với quân Minh. Trương Phụ tráo trở, không khuất phục được Nguyễn Biểu, đã ra lệnh giết ông một cách hèn mạt.
_ Tháng 4-1414, Trương Phụ, Mộc Thạch bắt được vua Trùng Quang Đế, Đặng Dung, Nguyễn Súy. Trên đường giải về Trung Quốc, vua tôi nhà Hậu Trần nhảy xuống biển tự tử. Chấm dứt nhà Hậu Trần.
XV. THỜI KỲ CHỐNG NHÀ MINH ĐÔ HỘ (1414-1427) VÀ NHÀ HẬU LÊ (1428 - 1527)
_ Từ năm 1414, nhà Minh đô hộ nước ta, nhưng nhân dân ta khắp nơi không ngừng nổi lên đấu tranh chống lại.
_ Ngày 7-2-1418, Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, Thanh Hóa, có quân sư Nguyễn Trãi dâng sớ Bình Ngô, có Trần Nguyên Hãn, cháu nội quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, và nhiều hào kiệt tham gia.
_ Khởi nghĩa Lam Sơn là cuộc chiến tranh nhân dân, vận dụng chiến thuật du kích, tiêu hao sinh lực địch, dùng kế sách “vây thành diệt viện” kết hợp thuyết phục đầu hàng. Sau 10 năm kiên trì chiến đấu, nghĩa quân đã phát triển từ thế trận du kích sang tấn công ồ ạt và liên tục thắng lớn, đẩy quân Minh vào tình thế thất bại phải xin cứu viện.
_ Tháng 10-1427, nhà Minh sai Liễu Thăng mang 10 vạn quân sang cứu viện, bị quân ta phục kích đánh tan ở ải Chi Lăng (Lạng Sơn).
_ Tướng Trần Lựu đã chém đầu Liễu Thăng, rồi đưa ấn tín, cờ tiết của Liễu Thăng vào thành Đông Quan. Tướng giặc Vương
48
NHỮNG MỐC LỊCH SỬ ĐÁNG NHỚ
Thông hết hy vọng viện binh nên xin giảng hòa rút quân về nước, thực chất là đầu hàng vô điều kiện.
_ Ngày 16-12-1427, Lê Lợi, Nguyễn Trãi đồng ý cùng bọn Vương Thông dự “Hội thề Đông Quan” để giảng hòa. Chúng thề không bao giờ xâm phạm Đại Việt nữa.
_ Lê Lợi - Nguyễn Trãi lấy đức hiếu sinh cấp lương thảo cho 10 vạn quân Minh được an toàn rút về nước. Từ ngày 29-12- 1427, quân địch bắt đầu rút về, cho đến ngày 3-1-1428 thì rút hết.
_ Đất nước sạch bóng quân thù, nghĩa quân hoàn toàn thắng lợi. Triều đại nhà Lê ra đời từ đây.
_ Ngày 15-4 năm Mậu Thân (1428) Lê Lợi lên ngôi vua tại điện Kính Thiên, xưng hiệu là Lê Thái Tổ, lấy lại tên nước cũ là Đại Việt, đóng đô ở Đông Đô (Hà Nội), đại xá cho thiên hạ, ban bố Bình Ngô đại cáo (do Nguyễn Trãi soạn). Đây là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của nước ta.
_ Lê Thái Tổ mất năm 1433. Lê Nguyên Long, con thứ hai của Lê Lợi lên nối ngôi lúc mới 11 tuổi, lấy hiệu là Lê Thái Tông, đặt niên hiệu là Thiệu Bình.
_ Lên ngôi lúc còn trẻ, lại phải đối phó với nội tình triều đình rất phức tạp, nhưng Thái Tông đủ bản lĩnh không để các đại thần thao túng.
_ Ngày 27-7 Nhâm Tuất (1442), nhân Thái Tông đi tuần miền Đông, duyệt quân ở thành Chí Linh, Nguyễn Trãi mời vua ngự chùa Côn Sơn, nơi ở của Nguyễn Trãi. Ngày 4 tháng 8, vua đến Lệ Chi Viên, cùng đi với vua có Nguyễn Thị Lộ, thiếp của Nguyễn Trãi, được vua yêu quý cho theo hầu. Đêm đó, vua bị
bệnh chết đột ngột, mới vừa 20 tuổi.
_ Bọn gian thần trong triều vu cho Nguyễn Thị Lộ ám hại vua, kết án “tru di tam tộc” Nguyễn Trãi. Ngày 16-8-1442, Nguyễn Trãi cùng ba họ bị hành hình.
49
LỊCH SỬ VIỆT NAM
_ Hoàng tử Băng Cơ, con thứ hai của Thái Tông và thần phi Nguyễn Thị Anh, lên nối ngôi vua vào ngày 12 tháng 8 năm Nhâm Tuất (1442), chỉ mới 2 tuổi, hiệu là Lê Nhân Tông, đổi niên hiệu là Thái Hòa. Thái hậu Tuyên Từ buông rèm nhiếp chính.
_ Tháng 11 năm Quý Dậu (1453) vua 12 tuổi, Thái hậu giao hẳn quyền chính cho vua Nhân Tông. Vua đổi niên hiệu Diên Ninh, đại xá cho thiên hạ.
_ Dương Thị Bí là mẹ Nghi Dân, vì có tội với Lê Thái Tông nên bị phế ngôi hoàng hậu. Nghi Dân vì thế không được lập làm Thái tử, ngấm ngầm mưu toan tranh giành ngôi báu. Đêm mồng 3 tháng 10 năm Kỷ Mão (1459), Nghi Dân cùng thuộc hạ lẻn vào cung cấm giết vua Lê Nhân Tông, lúc đó mới 19 tuổi, làm vua được 17 năm.
_ Nhân Tông chết, Nghi Dân tự lập làm vua, nhưng chỉ được 8 tháng đã bị các đại thần Nguyễn Xí, Đinh Liệt chống đối, giết bọn phản nghịch, giáng Nghi Dân xuống tước hầu, lập hoàng tử Tử Thành làm vua, hiệu là Lê Thánh Tông.
_ Lê Thánh Tông tự Tử Thành, húy Hạo, con trai út của Lê Thái Tông và bà Ngô Thị Ngọc Giao, lên ngôi năm 1460, lúc 18 tuổi.
_ Lê Thánh Tông hết lòng chăm lo việc nước, mở khoa thi, kén chọn hiền tài giúp nước. Bộ luật Hồng Đức nổi tiếng mang niên hiệu đời Lê Thánh Tông, là bộ luật hoàn chỉnh, tiến bộ nhất thời phong kiến nước ta.
_ Hai mươi năm sau (1480) vua Lê Thánh Tông xuống chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi.
_ Năm 1497, Lê Thánh Tông mất, ở ngôi 37 năm. Con trưởng là Lê Tăng nối ngôi, hiệu là Lê Hiến Tông. Ông mất năm 1504, ở ngôi 6 năm.
50
NHỮNG MỐC LỊCH SỬ ĐÁNG NHỚ
_ Ngày 6-6-1504, con thứ 3 của Lê Hiến Tông là Lê Túc Tông, húy là Lê Thuần, lên ngôi vua. Ông là một vị vua ham học hỏi, thân người hiền.
_ Ngày 7-12-1504, vua Túc Tông mất, ở ngôi 6 tháng. Trước khi mất truyền lại lập người anh thứ hai của mình là Lê Tuấn lên ngôi.
_ Năm 1505, Lê Tuấn lên ngôi, hiệu là Lê Uy Mục. Ông là vị vua ham rượu chè, mê gái, thích giết người...
_ Tháng 11-1509, Giản Tu Công Oanh, xưng là Cẩm Giang Vương, đem quân chiếm Đông Kinh, bức Lê Uy Mục tự tử vào tháng 12-1509, ở ngôi vua 4 năm.
_ Lê Tương Dực húy là Oanh, cháu nội vua Lê Thánh Tông, sau khi giết được Uy Mục, xưng đế, và cũng là vị vua ăn chơi. Tháng 5-1514, vua nghe lời sàm tấu giết chết 15 vương công.
_ Lê Tương Dực không nghe lời can ngăn của Trịnh Duy Sản, còn đem Sản ra đánh. Tháng 4-1516, Sản sai người giết Tương Dực.
_ Năm 1516, Lê Chiêu Tông, húy là Ý, cháu 4 đời của Lê Thánh Tông, được Trịnh Duy Sản và Lê Nghĩa Chiêu đón về làm vua.
_ Dưới triều Lê Chiêu Tông, giặc giã nổi lên như ong, dân chúng khổ cực. Mạc Đăng Dung khôn khéo thâu tóm quyền hành, mưu đồ thoán đoạt.
_ Biết được âm mưu đó, Lê Chiêu Tông mưu ngầm với Trịnh Tuy triệt hạ thế lực họ Mạc. Mưu bị lộ, Chiêu Tông bỏ chạy.
_ Năm 1522, Mạc Đăng Dung lập Lê Xuân, em Lê Chiêu Tông làm vua. Lê Chiêu Tông bị bắt giáng xuống làm Đà Dương Vương rồi bị giết. Lê Xuân lên ngôi vua lúc 15 tuổi, hiệu là Lê Cung Hoàng.
51
LỊCH SỬ VIỆT NAM
_ Ngày 15-6 năm Đinh Hợi (1527), Mạc Đăng Dung đem quân vào Thăng Long ép vua nhường ngôi. Bắt vua và Hoàng Thái hậu tự tử.
_ Từ khi Lê Thái Tổ lên ngôi (1428) đến Lê Cung Hoàng bị giết năm 1527, triều Lê trải qua 10 đời vua, trong 99 năm.
XVI. NHÀ MẠC (1527 - 1592)
_ Sau khi chiếm được ngôi vua, tháng 12-1529, Mạc Đăng Dung truyền ngôi cho con là Mạc Đăng Doanh làm vua và mình lên làm Thái Thượng hoàng lúc mới 46 tuổi.
_ Năm 1530, Mặc Đăng Doanh lên làm vua, đổi niên hiệu là Đại Chính. Mạc Đăng Doanh mất năm 1540, ở ngôi vua được 10 năm.
_ Mạc Phúc Hải, con trưởng Mạc Đăng Doanh được Thượng hoàng Đăng Dung lập làm vua năm 1541, đổi niên hiệu là Quảng Hòa. Năm 1546, Phúc Hải chết, ở ngôi vua được 5 năm.
_ Năm 1546, Mạc Phúc Nguyên, con trưởng Phúc Hải lên ngôi vua, còn nhỏ, mọi việc do chú ruột Mạc Kính Điển quyết đoán. Tháng 12-1561, Phúc Nguyên chết do bệnh đậu mùa, ở ngôi vua được 15 năm, lần lượt 3 lần đổi niên hiệu là Vĩnh Định (1546), Cảnh Lịch (1548) và Quảng Bảo (1554).
_ Năm 1562, con cả Phúc Nguyên là Mạc Mậu Hợp mới 2 tuổi lên ngôi vua. Do vua còn nhỏ, Mạc Đôn Nhượng (con út Mạc Đăng Dung) tôn Mạc Kính Điển làm Khiêm Đại Vương trông coi việc triều chính.
_ Tháng 10 Canh Thìn (1580), Kính Điển chết, Mạc Đôn Nhượng thay trông coi việc triều chính, nhưng xao nhãng công việc. Chính sự nhà Mạc ngày một đổ nát.
_ 25-11-1592, thủy quân Lê - Trịnh tấn công, quân nhà Mạc xin hàng, Mạc Mậu Hợp bị bắt chém đầu ở bãi Bồ Đề. Mạc Mậu
52
NHỮNG MỐC LỊCH SỬ ĐÁNG NHỚ
Hợp ở ngôi vua được 30 năm. Nhà Mạc truyền ngôi qua 5 đời, được 65 năm thì mất.
_ Theo lời dạy của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, con cháu nhà Mạc chạy lên Cao Bằng, tồn tại cho đến năm 1677, từ Mậu Toàn, Kính Chỉ, Kính Cung, Kính Khoan và Kính Vũ, thì nhà Mạc tồn tại được 150 năm.
XVII. NHÀ LÊ TRUNG HƯNG (1533 - 1789)
_ Trong khoảng thời gian Mạc Đăng Dung bức vua Chiêu Tông thì con trai là Lê Duy Ninh mới 11 tuổi, được Lê Quán cõng chạy sang Ai Lao. Đến năm Quý Tỵ (1533), được tôn lên ngôi vua trên đất Ai Lao lúc 19 tuổi, sau được Nguyễn Kim đón về nước.
_ Lê Duy Ninh lên ngôi hiệu là Lê Trang Tông, đặt niên hiệu là Nguyên Hòa, tôn Nguyễn Kim làm Thượng phụ Thái sư Hưng Quốc công.
_ Tháng 12-1540, Nguyễn Kim đánh chiếm Tây Đô (Thanh Hóa). Nước ta hình thành giai đoạn “Nam - Bắc triều”. Từ Thanh Hóa vào do nhà Lê Trung hưng cai quản, gọi là Nam triều. Vùng Bắc Bộ (gồm kinh thành Đông Đô) do nhà Mạc cai quản, gọi là Bắc triều.
_ Cuộc nội chiến tàn khốc Lê - Mạc kéo dài 50 năm (1543- 1592).
_ Năm 1545, Nguyễn Kim bị tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đánh thuốc độc giết chết.
_ Trịnh Kiểm, con rể Nguyễn Kim, nắm giữ toàn bộ binh quyền.
_ Năm 1546, lấy danh nghĩa phù Lê diệt Mạc, Trịnh Kiểm lập hành dinh vua Lê ở Vạn Lai (Thanh Hóa), nhiều hào kiệt tìm vào phò Lê Trung Hưng.
53
LỊCH SỬ VIỆT NAM
_ Năm 1548, Lê Trang Tông mất, ở ngôi 15 năm. Trịnh Kiểm lập Thái tử Duy Huyên lên ngôi là Lê Trung Tông, lúc 15 tuổi.
_ Lê Trung Tông lên ngôi phong cho Trịnh Kiểm làm Lương Quốc công, quyết định mọi việc triều chính. Năm 1554, nhà Lê mở khoa thi chọn nhân tài.
_ Tháng 1-1556, Lê Trung Tông mất lúc 23 tuổi, không có con trai, ở ngôi được 8 năm.
_ Trịnh Kiểm bàn với các đại thần đi tìm Lê Duy Bang, cháu 6 đời của Lê Trừ (anh thứ hai của Lê Lợi) về lập làm vua, lúc đó 25 tuổi.
_ Lê Duy Bang lên ngôi hiệu là Lê Anh Tông, mọi việc trong triều do Trịnh Kiểm quyết, vua chỉ nghe theo.
_ Nguyễn Hoàng, con thứ hai của Nguyễn Kim nhờ chị gái là Ngọc Bảo (vợ Trịnh Kiểm) xin cho vào trấn xứ Thuận - Quảng. Trịnh Kiểm đồng ý.
_ Tháng 2-1570, Trịnh Kiểm ốm chết. Các con Trịnh Kiểm đánh nhau, giành ngôi báu. Vua Lê Anh Tông trực tiếp điều hành triều chính và dàn xếp mâu thuẫn giữa các con Trịnh Kiểm.
_ Lê Anh Tông phong cho Trịnh Tùng (con Trịnh Kiểm) tước Trưởng Quận công giữ quyền bính.
_ Năm 1573, Anh Tông nghi Trịnh Tùng thoán quyền, đang đêm đưa 4 hoàng tử chạy đến thành Nghệ An. Trịnh Tùng bèn lập con thứ 5 của Anh Tông là Lê Duy Đàm lên ngôi, hiệu là Lê Thế Tông và sai người đi đón vua Lê Anh Tông về. Trên đường về bị Tống Đức Vị ngầm bức hại, rồi phao tin vua tự thắt cổ chết. Vua ở ngôi 16 năm.
_ Cuộc nội chiến Nam - Bắc triều kéo dài gần 50 năm, đến 1591, Trịnh Tùng huy động tổng lực đánh trận quyết định ở Đông Kinh.
54
NHỮNG MỐC LỊCH SỬ ĐÁNG NHỚ
_ Tháng 11-1592, Trịnh Tùng bắt được Mạc Mậu Hợp, chiếm được kinh thành.
_ Tháng 2-1593, Trịnh Tùng đón Lê Thế Tông về lại Đông Đô.
_ Công cuộc Lê Trung Hưng hoàn thành, Trịnh Tùng xưng là Đô Nguyên súy Tổng Quốc chính thượng phụ Bình An Vương, nắm toàn quyền quyết định, vua chỉ nghe theo. Thời kỳ “vua Lê chúa Trịnh” thực sự bắt đầu.
_ Tháng 8 năm Kỷ Hợi (1599), Lê Thế Tông mất, ở ngôi 26 năm.
_ Năm 1599, Trịnh Tùng lập Lê Duy Tân, con thứ của Thế Tông lên làm vua lúc 11 tuổi, hiệu là Lê Kính Tông, đặt niên hiệu Thuận Đức thứ nhất từ năm 1600.
_ Quyền lực trong tay Trịnh Tùng, triều đình chỉ phục tùng nhà Chúa. Trước tình hình đó, Lê Kính Tông lập mưu giết Trịnh Tùng. Nhưng việc bại lộ, Kính Tông bị bức thắt cổ chết năm 1619, ở ngôi 19 năm.
_ Năm 1619, Lê Duy Kỳ 12 tuổi, con trưởng của Lê Kính Tông, được lập làm vua, hiệu là Lê Thần Tông.
_ Tháng 10-1643, Lê Thần Tông nhường ngôi cho con là Lê Duy Hậu (Lê Chân Tông), lên làm Thái Thượng hoàng.
_ Tháng 8-1649, Lê Chân Tông bị bệnh mất, Lê Thần Tông trở lại ngôi vua lần thứ hai.
_ Ngày 22-9-1662, Lê Thần Tông mất, ở ngôi vua 37 năm (hai lần) và Thái Thượng hoàng 6 năm.
_ Năm 1663, Lê Duy Vũ, con thứ của Lê Thần Tông, em Lê Chân Tông được lập làm vua lúc 9 tuổi là Lê Huyền Tông. Ngày 15-10 năm Tân Hợi (1671) Huyền Tông mất, ở ngôi 8 năm.
_ Năm 1672, Lê Duy Cối, con thứ của Lê Thần Tông, em Lê Chân Tông và Lê Huyền Tông, mới 11 tuổi, được lập ngôi vua là
55
LỊCH SỬ VIỆT NAM
Lê Gia Tông. Ông là vị vua đức độ, nhưng ở ngôi được 3 năm ốm chết (1675).
_ Năm 1675, Lê Duy Cáp, 13 tuổi con của Lê Thần Tông, em Lê Gia Tông, được Trịnh Tạc lập làm vua, hiệu là Lê Hy Tông, vị vua được người đời ca ngợi là anh minh đức độ bậc nhất thời Lê Trung Hưng.
_ Năm 1705, Lê Hy Tông nhường ngôi cho con trưởng là Lê Duy Đường để về sống cảnh an nhàn, ở ngôi 30 năm.
_ Năm 1705, Lê Duy Đường lên ngôi vua hiệu là Lê Dụ Tông, nhà vua chủ yếu dựa vào chúa Trịnh Cương.
_ Ngày 20-4-1729, Lê Dụ Tông nhường ngôi cho con là Lê Duy Phường. Tháng 1-1731, Thượng hoàng Lê Dụ Tông mất, ở ngôi 24 năm.
_ Lê Duy Phường lên ngôi vua. Nhưng khi Trịnh Cương mất, Trịnh Giang lên ngôi Chúa (8-1732) đã giáng Duy Phường xuống làm Hôn Đức Công, buộc thắt cổ chết vào tháng 9-1735 (ở ngôi được 6 năm). Trịnh Giang lập con trưởng Lê Dụ Tông là Lê Duy Tường lên ngôi vua.
_ Năm 1732, Lê Duy Tường được Trịnh Giang lập lên làm vua, hiệu là Lê Thuần Tông, đặt niên hiệu là Long Đức. Năm 1735, Thuần Tông mất, ở ngôi 3 năm.
_ Năm 1735, Trịnh Giang lập Lê Duy Thừa, con thứ 11 của Lê Dụ Tông lên ngôi vua, hiệu là Lê Ý Tông, lúc 17 tuổi.
_ Trịnh Giang ngày càng bạo ngược, sát hại công thần, giết vua nọ lập vua kia, nhiều lực lượng nổi lên chống đối, đất nước loạn lạc.
_ Trước tình hình đó, Trịnh Thái phi (mẹ Trịnh Giang và Trịnh Doanh) triệu quần thần đến quyết định đưa Trịnh Doanh lên thay Trịnh Giang để trừ loạn.
56
NHỮNG MỐC LỊCH SỬ ĐÁNG NHỚ
_ Năm 1740, Trịnh Doanh lên ngôi Chúa. Tháng 5-1740, Trịnh Doanh ép Lê Ý Tông nhường ngôi cho con trưởng Lê Thuần Tông là Lê Duy Diêu. 19 năm sau (1759) Ý Tông mất, trị vì được 5 năm.
_ Năm 1740, Lê Duy Diêu lên ngôi hiệu Lê Hiển Tông, là vị vua trị vì lâu vào hàng thứ hai trong lịch sử phong kiến nước ta (46 năm).
_ Năm 1767, Trịnh Doanh mất, Trịnh Sâm lên thay.
_ Tháng 3-1769, Trịnh Sâm truất ngôi Thái tử Duy Vĩ, lập Lê Duy Cận là con thứ hai của Lê Hiển Tông làm Thái tử.
_ Tháng 12-1771, Trịnh Sâm giết Lê Duy Vĩ.
_ Tháng 1-1783, Trịnh Sâm lập Duy Kỳ làm Hoàng Thái tôn, truất Duy Cận làm Sung Nhượng công.
_ Tháng 7-1786, trước khi mất Lê Hiển Tông gọi cho Thái tôn Lê Duy Kỳ (cháu đích tôn của Lê Hiển Tông), truyền ngôi - Lê Duy Kỳ lên ngôi, hiệu là Lê Chiêu Thống.
_ Khi Nguyễn Huệ rút quân về Phú Xuân, tình hình các nơi nổi lên cát cứ. Để khôi phục quyền lực, tháng 7-1788, Lê Chiêu Thống cử Hoàng Thái hậu nhà Lê sang cầu viện Mãn Thanh.
_ Dựa vào thế quân Mãn Thanh, Lê Chiêu Thống trở lại Thăng Long trả thù tàn bạo những người theo Tây Sơn.
_ Mồng 5 Tết Kỷ Dậu (1789), quân Tây Sơn do Hoàng đế Quang Trung trực tiếp chỉ huy, kéo ra Bắc, đánh tan 29 vạn quân xâm lược Mãn Thanh.
_ Lê Chiêu Thống cùng 25 bầy tôi theo tàn quân nhà Thanh sang Trung Quốc sống lưu vong, được 5 năm thì mất.
_ Thời Lê Trung Hưng tồn tại 255 năm trải qua 16 đời vua.
57
LỊCH SỬ VIỆT NAM
XVIII. TRỊNH NGUYỄN PHÂN TRANH (1623 - 1777)
_ Tháng 6 năm Quý Hợi (1623), Trịnh Tùng mất, nội tình vua Lê chúa Trịnh rối ren, dư đảng nhà Mạc do Mạc Kính Khoan cầm đầu kéo quân từ Cao Bằng xuống, Trịnh Tráng (con Trịnh Tùng) phải đưa vua Lê chạy vào Thanh Hóa.
_ Tháng 8 năm 1623, Trịnh Tráng mang quân trở ra đánh tan quân Mạc Kính Khoan, đưa vua Lê trở lại kinh đô. Tạm yên mặt Bắc, Trịnh Tráng lo đối phó với chúa Nguyễn Phúc Nguyên ở Đàng Trong.
_ Trịnh Tráng mất năm 1657. Trịnh Tạc là con thứ hai của Trịnh Tráng nhưng lại được chọn làm Nguyên súy Chưởng quốc Chính Tây Định vương, do đó nảy sinh mâu thuẫn với người anh trưởng là Trịnh Toàn.
_ Năm 1657, Trịnh Tạc sai tống giam và tra hỏi Trịnh Toàn cho đến chết.
_ Năm 1672, Trịnh Tạc ép vua Lê đem quân đánh chúa Nguyễn. Dựa vào thành lũy kiên cố, quân Nguyễn ra sức chống cự.
_ Tháng 12-1672, Trịnh Tạc rút quân về. Từ đó Đàng Ngoài, Đàng Trong ngừng chiến, lấy sông Gianh làm giới tuyến.
_ Năm 1682, Trịnh Tạc mất, con trưởng là Trịnh Căn (tức là Định Vương) nối ngôi chúa. Thời Trịnh Căn, chiến tranh Trịnh - Nguyễn vẫn tạm dừng. Nhưng Trịnh Căn gặp trắc trở trong việc lập người kế nghiệp, vì tất cả con của Trịnh Căn đều chết sớm.
_ Năm 1709, Trịnh Căn mất, chắt là Trịnh Cương (con Trịnh Bính, cháu nội Trịnh Vĩnh; Trịnh Vĩnh là con trưởng Trịnh Căn) lên ngôi chúa, được phong Nguyên soái Tổng quốc Chính An Đô vương.
_ Năm 1714, Trịnh Cương lại được phong Đại nguyên soái Tổng quốc Chính Thượng sư An Đô vương.
58
NHỮNG MỐC LỊCH SỬ ĐÁNG NHỚ
_ Trịnh Cương có quan hệ tốt với vua Lê, chăm lo việc trị nước. Năm 1729, Trịnh Cương đi vãn cảnh chùa Phật Tích, bị bệnh chết, ở ngôi chúa 20 năm.
_ Trịnh Giang là con cả Trịnh Cương lên ngôi chúa. Năm 1793, Giang tự tiến phong Nguyên soái Thống đốc Chính Uy Nam vương. Giang là tên chúa bạo ngược, đã giết vua Lê Duy Phường, lòng người rối loạn.
_ Để trừ loạn, Trịnh Doanh được đưa lên thay Trịnh Giang. Trịnh Doanh lên ngôi chúa, được vua Lê phong là Minh Đô Vương. Trịnh Doanh ban hành nhiều quyết định hợp lòng người, chăm lo chính sự.
_ Năm 1767, Trịnh Doanh mất, ở ngôi chúa 27 năm, Trịnh Sâm là con trưởng nối ngôi, được tiến phong Nguyên soái Tổng quốc chính Tĩnh Đô vương. Ông là người thông minh, quyết đoán.
_ 1769, vì ghen ghét tài năng, đức độ của Thái tử Lê Duy Vĩ, Sâm vu tội cho Thái tử, tống giam và bỏ chết trong ngục.
_ 1770, sau khi đánh tan cuộc khởi binh của Lê Duy Mật, Trịnh Sâm cho mình có công lớn, tự tiến phong Đại nguyên soái Tổng quốc Chính Thượng sư thượng phụ, Duệ đoán văn công võ đức Tĩnh vương.
_ 1774, để khuyếch trương thanh thế, Trịnh Sâm sai Hoàng Ngũ Phúc mang quân vào đánh chúa Nguyễn. Tháng 10 năm đó, Sâm đích thân cầm quân đánh chiếm Thuận Hóa và đặt quan cai trị đất Thuận - Quảng.
_ Năm 1782, Trịnh Sâm mất, ở ngôi chúa 15 năm, con thứ là Trịnh Cán mới 6 tuổi lên ngôi, tước hiệu Điện Đô vương, mẹ là Tuyên phi Đặng Thị Huệ trở thành người điều hành chính sự.
_ Tháng 10 Nhâm Dần (1782), Trịnh Khải, con cả Trịnh Sâm xúi Kiêu binh nổi loạn, truất ngôi Trịnh Cán, truất Đặng Thị Huệ xuống làm thứ dân.
59
LỊCH SỬ VIỆT NAM
_ Năm 1782 Trịnh Cán lên ngôi chúa được 2 tháng bị lật đổ, Trịnh Khải lên thay, tiến phong là Đoan Nam vương.
_ Tháng 6 năm Bính Ngọ (1786), phủ chúa rối ren, quân Tây Sơn với danh nghĩa “Phù Lê, diệt Trịnh” kéo ra Bắc Hà. Quân Trịnh tan tác. Trịnh Khải bị quân Tây Sơn bắt, trên đường giải về Khải đã tự tử, ở ngôi chúa 4 năm.
_ Khi quân Tây Sơn rút về Nam, Trịnh Bồng (con Trịnh Giang) về yết kiến vua Lê. Vua Lê phong là Nguyên soái Tổng quốc chính Án Đô vương (1786).
_ Trịnh Bồng là kẻ lười biếng, không điều khiển được việc chính sự, sau nhiều lần mưu sự thất bại bỏ đi tu (1787). Họ Trịnh từ Thái vương Trịnh Kiểm đến Án Đô vương Trịnh Bồng, nắm quyền 243 năm (1545 - 1787) qua 12 đời chúa.
XIX. CÁC CHÚA NGUYỄN ĐÀNG TRONG (1600 - 1777)
_ Trịnh Kiểm là con rể của Nguyễn Kim. Sau khi Kim bị tướng nhà Mạc đầu độc chết, muốn thâu tóm quyền hành, ngầm hại các em vợ. Nguyễn Hoàng lo sợ, sai người đến yết kiến Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
_ Nguyễn Bỉnh Khiêm ứng khẩu dạy: “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (Núi ngang một dãy có thể dung thân đến ngàn đời). Nguyễn Hoàng hội ý, nhờ chị gái là Ngọc Bảo (vợ Trịnh Kiểm) xin cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa.
_ Năm 1558 được lệnh vào Nam, Nguyễn Hoàng đi ngay, đổ bộ lên cửa Việt, dựng dinh ở Ái Tử, huyện Đăng Dương, Quảng Trị.
_ Nguyễn Hoàng là người khôn ngoan, nhân hậu. Để tránh nghi kỵ, năm 1569, ông ra chầu vua Lê, được vua Lê, chúa Trịnh khen ngợi.
60
NHỮNG MỐC LỊCH SỬ ĐÁNG NHỚ
_ Năm 1570, ông được giao trấn thủ luôn đất Quảng Nam, cho dời dinh vào Trà Bát (tức Cát Dinh) cùng huyện Đăng Dương.
_ Năm 1593, Nguyễn Hoàng đem quân ra Đông Đô giúp Trịnh Tùng dẹp dư đảng nhà Mạc, được vua Lê tấn phong Trung quân đô đốc phủ tả đô đốc chưởng phủ sự thái úy Đoan Quốc công.
_ Để tránh bị Trịnh Tùng hãm hại, Nguyễn Hoàng lấy cớ đem quân đi dẹp loạn ở Nam Định rồi ra biển, đi thẳng về Thuận Hóa. Ông mất ngày 21-5-1613, trấn giữ đất Thuận Quảng được 56 năm.
_ Nguyễn Hoàng mất, con thứ 6 là Nguyễn Phúc Nguyên nối nghiệp năm 1613, sửa sang chính sự, lấy đức độ cai trị, nhân dân kính phục gọi là chúa Sãi. Nghe theo Đào Duy Từ, chúa Nguyễn không nhận sắc phong của vua Lê, không nạp thuế cống cho chúa Trịnh.
_ Chúa Phúc Nguyên mất ngày 19-12-1635, ở ngôi được 22 năm, con trai thứ hai Nguyễn Phúc Lan được truyền ngôi, được gọi là chúa Thượng.
_ Nghe tin Phúc Lan nối nghiệp, người con thứ ba của Phúc Nguyên là Nguyễn Phúc Anh liên kết với chúa Trịnh âm mưu phản nghịch. Phúc Lan đánh bắt được, không nỡ giết, nhưng quần thần xin giết để trừ hậu họa, Phúc Lan đau xót phải nghe theo.
_ Năm 1643, theo yêu cầu của chúa Trịnh, ba tàu chiến Hà Lan trang bị nhiều trọng pháo tiến vào cửa Eo (Thuận An), xâm chiếm nước ta, đã bị thủy quân chúa Nguyễn đánh tan tác.
_ Năm 1648, Trịnh Tráng cho quân đánh vào miền Nam. Phúc Lan thấy người yếu, giao quyền cho con trai Nguyễn Phúc Tần chỉ huy và trên đường rút về thì mất.
_ Nguyễn Phúc Tần lên ngôi năm 1648, được phong tiết chế chủ quân, gọi là chúa Hiền, có công đánh tan quân Trịnh ở sông Gianh, là người chăm lo chính sự, trọng hiền tài.
61
LỊCH SỬ VIỆT NAM
_ Năm 1687, chúa Hiền mất, ở ngôi 39 năm. Nguyễn Phúc Thái, con thứ hai, nối ngôi gọi chúa Nghĩa, được trăm họ yêu mến. Năm 1691, Phúc Thái mất, ở ngôi 4 năm.
_ Năm 1691, Nguyễn Phúc Chu con cả Phúc Thái nối nghiệp, là người hay chữ, văn võ toàn tài, gọi là chúa Quốc, rất mộ đạo Phật.
_ Phúc Chu có công mở đất về phía Nam, năm 1697 đặt phủ Bình Thuận, đặt phủ Gia Định, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn dựng dinh Phiên Trấn.
_ Năm 1702, Phúc Chu sai con là Nguyễn Phúc Phan dùng mưu đánh đuổi 200 quân của công ty Ấn Độ của Anh định chiếm đảo Côn Lôn.
_ Ngày 1-6-1725, chúa Quốc mất, con cả là Nguyễn Phúc Thụ (Ninh Vương) lên ngôi chúa. Ngày 7-6-1738, Ninh Vương mất.
_ Năm 1738, con cả của Ninh Vương là Nguyễn Phúc Khoát lên ngôi chúa, lấy hiệu Từ Tế đạo nhân.
_ Năm 1744, Phúc Khoát xưng vương, hiệu là Võ Vương, đúc ấn quốc vương, lấy Phú Xuân làm kinh đô.
_ Ngày 7-6-1765, Phúc Khoát mất, Trương Phúc Loan lập mưu chọn Nguyễn Phúc Thuần, con thứ 16 mới 12 tuổi lên nối ngôi để dễ bề lộng hành, gọi là Định Vương.
_ Nguyễn Phúc Thuần còn nhỏ, mọi quyền bính do Trương Phúc Loan định đoạt. Trước tình hình đó, tôn thất nhà Nguyễn bắt Trương Phúc Loan nộp cho chúa Trịnh.
_ Quân Trịnh chiếm Phú Xuân đặt quan cai trị Thuận Hóa và năm 1776, cử Lê Quý Đôn vào trấn thủ.
_ Trong khi đó thì nghĩa quân Tây Sơn cũng đã khởi lên, áp dụng chiến thuật giảng hòa với chúa Trịnh để tập trung đánh quân Nguyễn. Năm 1777, quân Tây Sơn giết chết Nguyễn Phúc Thuần, kết thúc 9 đời chúa Đàng Trong.
62
NHỮNG MỐC LỊCH SỬ ĐÁNG NHỚ
XX. NHÀ TÂY SƠN (1778 - 1802)
_ Anh em Tây Sơn vốn họ Hồ, ông tổ ở Hưng Nguyên, Nghệ An, bị quân Nguyễn đánh ra Đàng Ngoài bắt đem về ấp Tây Sơn, Bình Định đổi thành họ Nguyễn.
_ Năm 1773, anh em Tây Sơn phất cờ khởi nghĩa với khẩu hiệu “Lật đổ quyền thần Trương Phúc Loan, phò Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương”.
_ Trải qua 8 năm chiến đấu gian khổ, năm 1778, quân Tây Sơn diệt được chúa Nguyễn. Nguyễn Nhạc lên ngôi hoàng đế, lập triều đại nhà Tây Sơn, niên hiệu Thái Đức.
_ Năm 1784, Nguyễn Ánh (con Nguyễn Phúc Thuần) cầu viện vua Xiêm đưa 20 vạn quân thủy và 300 chiến thuyền xâm lược nước ta, bị Nguyễn Huệ đánh tan ở Rạch Gầm - Xoài Mút.
_ Năm 1786, Hoàng đế Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ đem quân ra hạ thành Thuận Hóa của chúa Trịnh.
_ Trên đà thắng lợi đó, dưới khẩu hiệu “phò Lê diệt Trịnh”, Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc, ngày 25-6-1786 tiến vào Thăng Long.
_ Được tin Nguyễn Huệ chiếm Thăng Long, Nguyễn Nhạc sợ không kiềm chế được Nguyễn Huệ, bèn đem quân ra Bắc Hà.
_ Nghe tin vua Tây Sơn ra, vua Lê Hiển Tông đem trăm quan ra ngoài cõi đón. Nguyễn Huệ ra tận ngoại ô đón anh và tạ tội.
_ Sau khi yết kiến, Nguyễn Huệ được vua Lê Hiển Tông phong Nguyên súy Dực chính phù vận Uy Quốc công. Và với sự sắp xếp của Nguyễn Hữu Chỉnh, vua Lê gả công chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ.
_ Tháng 7-1786, vua Lê Hiển Tông qua đời, Nguyễn Huệ nghe lời vợ, công chúa Ngọc Hân, nghiêng về chọn Lê Duy Cận lên ngôi báu.
63
LỊCH SỬ VIỆT NAM
_ Nguyễn Huệ muốn hỗn việc đăng quang của Lê Duy Kỳ. Tôn thất nhà Lê dọa sẽ từ mặt Ngọc Hân. Công chúa bèn nói với Nguyễn Huệ thu xếp cho Lê Duy Kỳ lên ngôi, hiệu là Lê Chiêu Thống.
_ Năm 1787, từ Bắc Hà trở về, Nguyễn Nhạc chia đất phía Nam làm 3: phía Bắc đèo Hải Vân thuộc Nguyễn Huệ, đất Gia Định thuộc Nguyễn Lữ, Nguyễn Nhạc đóng đô ở Quy Nhơn xưng là Trung ương Hoàng đế.
_ Cuối năm 1788, Lê Chiêu Thống đưa 29 vạn quân Mãn Thanh vào chiếm Thăng Long.
_ Đại Tư mã Ngô Văn Sở bàn với Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích và các mưu thần khác, rút về Tam Điệp, Biện Sơn chờ lệnh.
_ Nghe tin cấp báo, ngày 22-12-1788, trước khi xuất quân ra Bắc Hà, theo nguyện vọng các tướng sĩ, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là Quang Trung.
_ Ngày 26-12-1788, đại quân ra tới Nghệ An, vua Quang Trung cho dừng quân hơn 10 ngày để tuyển thêm quân, nâng quân số lên 10 vạn, 200 voi chiến.
_ 15-1-1789, đại quân ra đến Tam Điệp, vua Quang Trung nói: chỉ 10 ngày nữa thế nào cũng quét sạch giặc Thanh. Nhưng sau khi thắng, ta nên khéo đường từ lệnh mới dập tắt ngọn lửa chiến tranh.
_ Đúng như lời dự báo của vị Tổng chỉ huy, mồng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789), đội quân của Hoàng đế Quang Trung đã đánh tan 29 vạn quân Thanh tại Ngọc Hồi - Đống Đa.
_ Với sách lược và tài ngoại giao khéo léo, Ngô Thì Nhậm đã bình thường được mối bang giao với nhà Thanh.
_ Sứ Thanh vào tận Phú Xuân phong vương cho Nguyễn Huệ, và vua Quang Trung giả sang triều kiến, mừng thọ vua Càn Long 80 tuổi.
64
NHỮNG MỐC LỊCH SỬ ĐÁNG NHỚ
_ Năm 1792, Quang Trung gửi thư xin vua Thanh được sánh duyên cùng công chúa Bắc quốc và xin “mượn” 2 tỉnh Lưỡng, Quảng làm đất đóng đô.
_ Vua Càn Long chuẩn tấu gả công chúa Khuê Các sang đẹp duyên cùng Quốc vương nước Nam, và hứa nhường tỉnh Quảng Tây cho Quốc vương phò mã.
_ Giữa lúc sứ bộ đang vui mừng vì sắp hoàn thành nhiệm vụ, thì được tin vua Quang Trung mất 27-9 Nhâm Tý (1792). Mọi việc đều gác lại.
_ Vua Quang Trung mất, con trưởng là Quang Toản 10 tuổi lên ngôi (1793), đặt niên hiệu là Cảnh Thịnh.
_ Quang Toản quá nhỏ, nên mọi quyền bính vào tay Bùi Đắc Tuyên. Các đại thần trong triều, ngoài trấn nghi kỵ nhau.
_ Bọn gian thần gièm pha, Quang Toản tin thật, rút hết binh quyền của Trần Quang Diệu, sau lại giết đi cùng với Lê Văn Trung.
_ Năm 1801, Nguyễn Ánh đánh ra Phú Xuân, Quang Toản chạy ra Bắc Hà, đổi niên hiệu là Bảo Hưng.
_ Năm 1802, Nguyễn Ánh đánh ra Thăng Long. Quang Toản cùng em là Quang Thùy bỏ chạy, bị bọn thổ hào Kinh Bắc bắt đưa về Thăng Long.
_ Mùa đông 1802, Nguyễn Ánh trả thù Tây Sơn cực kỳ tàn bạo, Quang Toản và toàn gia cùng một số tướng lĩnh bị hành hình.
XXI. NHÀ NGUYỄN - THỜI ĐỘC LẬP (1802 - 1883)
_ Nguyễn Phúc Ánh sinh năm 1762, là con thứ hai của Nguyễn Phúc Luân, cháu nội chúa Nguyễn Phúc Khoát. Năm 1765, Nguyễn Phúc Khoát mất, Trương Phúc Loan lộng quyền
65
LỊCH SỬ VIỆT NAM
phế truất và bắt giam Nguyễn Phúc Luân, lập con thứ 16 của Phúc Khoát là Nguyễn Phúc Thuần mới 12 tuổi lên nối ngôi, nhằm dễ bề khuynh loát.
_ Năm 1773, khi Tây Sơn khởi nghĩa, Nguyễn Phúc Ánh 12 tuổi, theo chúa Nguyễn Phúc Thuần vào Quảng Nam.
_ Mùa Thu 1777, Nguyễn Phúc Thuần tử trận, Nguyễn Phúc Ánh chạy thoát ra đảo Thổ Chu, rồi sang ẩn náu trên đất Xiêm. Từ đó luôn mưu việc khôi phục cơ nghiệp nhà Nguyễn.
_ Tháng 7-1792, vua Quang Trung mất, Quang Toản nhỏ tuổi, nội bộ nhà Tây Sơn lục đục, không chống nổi sức tấn công của Nguyễn Ánh.
_ Năm 1802, Nguyễn Ánh diệt xong nhà Tây Sơn, lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là Gia Long, đóng đô ở Phú Xuân, đặt niên hiệu cũng là Gia Long. Các vua nhà Nguyễn về sau theo lệ này, khi lên ngôi đều lấy niên hiệu trùng với tên hiệu.
_ Năm 1804, án sát Quảng Tây được vua Thanh phái sang phong vương cho Gia Long và đặt tên nước Việt Nam (khác với Nam Việt của Triệu Đà).
_ Để tránh lộng quyền, Gia Long không đặt chức Tể tướng. Triều đình chỉ có 6 Bộ: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công do các Thượng thư đứng đầu.
_ Năm 1815, ban hành bộ “Quốc triều hình luật” gồm 22 quyển với 398 điều.
_ Năm 1820, Gia Long mất, ở ngôi chúa 25 năm, ngôi vua 18 năm.
_ Năm 1820, Nguyễn Phúc Đảm con thứ tư của Gia Long lên ngôi vua, lấy hiệu là Minh Mạng.
_ Minh Mạng tư chất thông minh, hiếu học, năng động, quyết đoán, sùng đạo Khổng Mạnh, quan tâm học hành khoa cử.
_ Ngày 20-1-1841, Minh Mạng mất, trị vì 21 năm. Con trưởng là Nguyễn Phúc Tuyền (sau đổi là Niên Tông) nối ngôi, hiệu là Thiệu Trị.
66
NHỮNG MỐC LỊCH SỬ ĐÁNG NHỚ
_ Tháng 9-1847, Thiệu Trị mất, ở ngôi 6 năm. Nguyễn Hồng Nhiệm, con thứ hai của Thiệu Trị lên ngôi vua, hiệu là Tự Đức.
_ Tự Đức ốm yếu, thiếu tính quyết đoán, nhưng thông minh, có tài văn học, uyên bác về Nho học, Khổng học.
_ Trong số quần thần có nhiều người nhìn xa trông rộng như Phạm Phú Thứ, Nguyễn Trường Tộ... dâng sớ xin vua cải cách mọi mặt, nhưng không được chấp thuận.
_ Tự Đức mất ngày 16-6 Quý Mùi (1883), trị vì 35 năm. XXII. THỜI KỲ PHÁP ĐÔ HỘ (1883-1945)
_ Tự Đức mất, di chiếu lập con nuôi là Ứng Chân (con người anh Tự Đức) lên ngôi vua (1883) hiệu là Dục Đức, nhưng chỉ được 3 ngày thì bị Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết phế truất.
_ Nguyễn Hồng Dật, con út của Thiệu Trị lên ngôi vua tháng 6-1883, hiệu là Hiệp Hòa. Hiệp Hòa rất căm ghét bọn Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết chuyên quyền, nên lập mưu giết đi. Mưu bị lộ, Hiệp Hòa bị ép tự tử ngày 29-11-1883.
_ Ưng Đăng là con nuôi thứ 3 của Tự Đức lên ngôi vua ngày 1-12-1883, hiệu là Kiến Phúc, nhưng bị Nguyễn Văn Tường đầu độc chết, chỉ làm vua được 8 tháng.
_ Ngày 6-6-1884, ký hòa ước Patơnốt chia nước ta ra 3 kỳ chịu sự bảo hộ của Pháp.
_ Kiến Phúc bị giết, Ứng Lịch mới 13 tuổi lên ngôi ngày 1-8- 1884, hiệu là Hàm Nghi. Nhưng lễ đăng quang của Hàm Nghi không được thông báo cho Khâm sứ Pháp, Pháp không thừa nhận.
_ Hai bên thương lượng, tướng Đờ Cuốcxy dọa bắt vua. Đêm 7-7-1885, Tôn Thất Thuyết ra lệnh tấn công đồn Mang Cá.
67
LỊCH SỬ VIỆT NAM
_ Do vũ khí thô sơ, cuộc tấn công thất bại, Tôn Thất Thuyết hộ giá vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Trị.
_ Tại căn cứ Tân Sở, vua Hàm Nghi hạ chiếu “Cần Vương”, kêu gọi quân dân cả nước chống giặc Pháp.
_ Thực dân Pháp dùng kế nội gián bắt được vua Hàm Nghi, đưa về Huế ngày 14-11-1888.
_ Pháp tìm cách dụ dỗ, mua chuộc, nhưng bị vua Hàm Nghi từ chối. Pháp đưa vua Hàm Nghi đi an trí ở Algerie.
_ Sau khi vua Hàm Nghi rời kinh đô ra Quảng Trị, thực dân Pháp đưa Ưng Xụy con nuôi Tự Đức, lên ngôi lấy hiệu là Đồng Khánh (19-9-1885).
_ Đồng Khánh là một vị vua thân Pháp, bị nhân dân oán hận. Ông bị bệnh chết ngày 25-12-1888.
_ Năm 1889, nghe lời vợ Thiệu Trị và vợ Tự Đức, triều đình Huế đón Bửu Lâm mới 8 tuổi về cung làm vua, hiệu là Thành Thái.
_ Bửu Lâm là con Dục Đức (bị phế truất chết trong tù), 4 tuổi phải ra sống ngoại thành. Ông là vị vua ham học, thương người nghèo, thường hay vi hành để hiểu rõ đời sống người dân.
_ Pháp và quan lại bù nhìn muốn phế truất Thành Thái vì không chịu nghe theo họ.
_ Ngày 29-7-1907, Lêvéccơ nói thẳng với vua: Nhà vua không cộng tác với Pháp thì hết quyền, không được ra khỏi Đại nội.
_ Ngày 3-9-1907, theo lệnh Pháp, triều thần dâng dự thảo chiếu thoái vị, do sức khỏe nhà vua không bảo đảm.
_ Xem xong dự thảo, Thành Thái nhếch mép cười ghi hai chữ phê chuẩn rồi quay đi.
_ Ngày 12-9-1907, Pháp đưa Thành Thái đi an trí ở Capxanh Giắccơ. Năm 1916 lại đày ông sang Reuyniông.
68
NHỮNG MỐC LỊCH SỬ ĐÁNG NHỚ
_ Thành Thái làm vua được 18 năm. Sau 31 năm bị đày, năm 1947 ông được trở về tổ quốc và mất tại Sài Gòn ngày 24-3-1954.
_ Năm 1907, Pháp đưa Nguyễn Vĩnh Lan (con Thành Thái) lên ngôi lúc 8 tuổi, hiệu là Duy Tân. Nhưng Pháp không ngờ Duy Tân còn chống đối quyết liệt hơn cả vua cha.
_ Cuối năm 1916, Duy Tân bí mật gặp Trần Cao Vân và Thái Phiên, bàn mưu đánh Pháp.
_ Cuộc khởi nghĩa bị lộ, ngày 6-5-1916, Pháp bắt được vua Duy Tân cùng nhiều chiến sĩ yêu nước.
_ Thuyết phục mãi không được, Pháp đày vua Duy Tân sang Reuyniông, còn Trần Cao Vân, Thái Phiên... bị chém đầu.
_ Sau đó, Pháp lập hoàng thân Bửu Bảo (con Đồng Khánh) lên ngôi, hiệu là Khải Định.
_ Khải Định là ông vua hèn nhát mạt hạng, nên dân Huế có câu lẩy Kiều: “Tiếng đồn Khải Định nịnh Tây, nghề này thì lấy ông này tiên sư.”
_ Ngày 6-11-1925 Khải Định mất, trị vì được 9 năm.
_ Năm 1926, Nguyễn Vĩnh Thụy lên ngôi vua, hiệu là Bảo Đại.
_ Vĩnh Thụy con nuôi Khải Định, được đưa sang Pháp đào tạo từ năm 10 tuổi. Pháp đưa ông lên ngôi vua nhưng vẫn còn học ở Pháp.
_ Sau 10 năm học ở Pháp, ngày 10-9-1932 Bảo Đại về nước, ra dụ số 1 tuyên cáo chấp chánh.
_ Ngày 19-8-1945, cuộc Cách mạng tháng Tám do Đảng Cộng sản Đông Dương và lãnh tụ Hồ Chí Minh lãnh đạo giành thắng lợi.
_ Ngày 30-8-1945, trước 5 vạn dân ở Huế, Bảo Đại tuyên bố thoái vị và trao ấn, kiếm cho đại diện chính quyền cách mạng.
69
LỊCH SỬ VIỆT NAM
_ Bảo Đại tuyên bố “Thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ.”
_ Bảo Đại được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời làm cố vấn cho Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
_ Năm 1946, trong một chuyến đi công cán nước ngoài, Bảo Đại không trở về nước.
_ Tháng 4-1949, Pháp đưa Bảo Đại về nước làm Quốc trưởng bù nhìn.
_ Tháng 10-1956, Bảo Đại bị Ngô Đình Diệm (thân Mỹ) lật đổ, sang Pháp sống lưu vong.
XXIII. CÁC CUỘC KHỞI NGHĨA CHỐNG PHÁP TRƯỚC KHI CÓ ĐẢNG
_ Năm 1859, khởi nghĩa Trương Định. Ông được nhân dân tôn là Bình Tây Đại nguyên soái. Ngày 20-8-1864, Trương Định bị thương nặng, tự sát, nhưng cuộc khởi nghĩa vẫn tiếp tục đến năm 1868.
_ Năm 1861, khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực (tức Nguyễn Văn Lịch) tại Tân An. Năm 1868, ông bị Pháp bắt hành hình.
_ Năm 1886, khởi nghĩa Ba Đình do Đinh Công Tráng lãnh đạo. Năm 1887, cuộc khởi nghĩa bị dập tắt.
_ Năm 1885, khởi nghĩa Bãi Sậy do Nguyễn Thiện Thuật chỉ huy ở Khoái Châu, Hưng Yên. Năm 1889 bị thất bại.
_ Khởi nghĩa Hùng Lĩnh (Thanh Hóa) do Tống Duy Tân khởi nghiệp. Năm 1892, cuộc khởi nghĩa bị đàn áp, Tống Duy Tân bị bắt và anh dũng hy sinh.
_ Khởi nghĩa Hương Khê, do Phan Đình Phùng hưởng ứng “chiếu Cần Vương”, đánh Pháp ở vùng Hương Sơn, Hương Khê, Nghệ Tĩnh từ năm 1885-1896.
70
NHỮNG MỐC LỊCH SỬ ĐÁNG NHỚ
_ Khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo từ năm 1887 đến tháng 12-1913, mới bị dập tắt.
_ Khởi nghĩa Thái Nguyên do Trịnh Văn Cấn (Đội Cấn) lãnh đạo. Đêm 10-1-1918 bị Pháp đánh bại.
_ Cuộc bạo động ở Lạng Sơn năm 1921, do Đội Ấn người Tày tổ chức đánh vào trại lính Khố xanh ở Kỳ Lừa. Cuộc bạo động bị thất bại ít ngày sau đó.
_ Cuộc bạo động Yên Bái do Nguyễn Thái Học (thủ lĩnh Việt Nam Quốc dân đảng) lãnh đạo, nổ ra ngày 10-2-1930, bị Pháp dập tắt nhanh chóng.
XXIV. NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA RA ĐỜI
_ Ngày 3-2-1930, Đảng cộng sản Đông Dương ra đời. dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Ái Quốc, cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công.
_ Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
_ Ngày 19-12-1946, thực dân Pháp quay lại, Hồ Chủ tịch kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống Pháp.
_ Ngày 7-5-1954, quân ta đập tan tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, buộc Pháp ký hiệp định Giơnevơ (20-7-1954).
_ Theo hiệp định, Pháp trao trả độc lập cho Việt Nam, quân Pháp đóng từ vĩ tuyến 17 trở vào. Sau 2 năm sẽ tổng tuyển cử thốâng nhất đất nước.
_ Được Mỹ giúp sức, chính phù bù nhìn của Pháp phá hoại Hiệp định Giơnevơ, từ chối hiệp thương tổng tuyển cử, âm mưu chia cắt đất nước.
_ Mỹ-Diệm ra sức đàn áp cách mạng, ra luật 10-59 tàn sát những người theo kháng chiến cũ.
71
LỊCH SỬ VIỆT NAM
_ Theo lời dạy của Bác Hồ: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, nhân dân miền Nam vùng lên chiến đấu chống Mỹ, ngụy.
_ Ngày 20-12-1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam ra đời. Với sự chi viện của miền Bắc, cách mạng miền Nam liên tục giành thắng lợi.
_ Ngày 5-8-1964, Mỹ gây ra cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc.
_ Tháng 3-1975, cuộc tổng tiến công giải phóng Buôn Ma Thuột mở màn cho cuộc Tổng tiến công mùa xuân 1975.
_ Ngày 26-4-1975, bắt đầu chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
_ Ngày 30-4-1975, chính quyền ngụy hoàn toàn sụp đổ, đất nước thống nhất.
_ Ngày 2-7-1976, Quốc hội khóa IV, Kỳ họp thứ nhất quyết định đặt tên nước là CHXHCN Việt Nam, thủ đô là Hà Nội.
QUỐC HIỆU VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ
Đối với mỗi dân tộc, quốc hiệu luôn là cái tên thiêng liêng nhất, khẳng định sự tồn tại và chủ quyền của một quốc gia, thể hiện niềm tự hào dân tộc cũng như sự bình đẳng với các nước khác trên thế giới.
Qua mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước để có một nước Việt Nam như hôm nay, quốc hiệu nước ta đã trải qua không ít thăng trầm.
Từ buổi bình minh của dân tộc, người Việt đã định cư ở vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Theo sử sách, vào thời bấy giờ có khoảng 15 bộ lạc Lạc Việt sinh sống chủ yếu ở vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ và hàng chục bộ lạc Âu Việt sống cùng với các thành phần dân cư khác.
72
QUỐC HIỆU VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ
Trong các bộ lạc Lạc Việt thì bộ lạc Văn Lang hùng mạnh hơn cả. Do nhu cầu cần có sức mạnh đoàn kết chống ngoại xâm và chống thiên tai, đẩy mạnh sản xuất. Thủ lĩnh bộ lạc Văn Lang đã đứng ra thống nhất tất cả các bộ lạc Lạc Việt và dựng nên nước VĂN LANG, rồi xưng đế, mà sử sách gọi là vua Hùng.
Thời gian tồn tại của nước Văn Lang khoảng từ đầu thiên niên kỷ I trước Công nguyên đến thế kỷ II trước Công nguyên.
Năm 221 trước Công nguyên, Tần Thủy Hoàng cho quân xâm chiếm toàn bộ đất đai của người Việt. Thủ lĩnh liên minh các bộ lạc Âu Việt là Thục Phán được tôn làm người lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Tần.
Năm 208 trước Công nguyên, quân Tần bị thua phải rút về nước, Thục Phán xưng vương, sử sách gọi là An Dương Vương, đồng thời liên kết các bộ lạc Lạc Việt và Âu Việt để dựng nên nhà nước ÂU LẠC, đóng đô ở Cổ Loa.
Năm 179 trước Công nguyên, Triệu Đà, vua nước Nam Việt đem quân đánh chiếm Âu Lạc, An Dương Vương Thục Phán thua trận. Từ đó đất nước ta nằm dưới ách đô hộ của phong kiến phương Bắc trong suốt 7 thế kỷ.
Mùa xuân 542, Lý Bí đứng lên khởi nghĩa đánh đuổi nhà Lương, giải phóng đất nước. Tháng 2 năm 544, Lý Bí lên ngôi hoàng đế, đặt quốc hiệu là VẠN XUÂN, đóng đô ở Long Biên.
Triều đại Lý Bí không tồn tại được lâu. Năm 602, đất nước ta một lần nữa bị rơi vào vòng đô hộ của các triều đình phong kiến Trung Hoa.
Năm 938, Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán với chiến thắng Bạch Đằng vang dội, chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc.
Năm 968, sau khi dẹp yên loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là Đinh Tiên Hoàng và đổi quốc hiệu là ĐẠI CỒ VIỆT (nước Việt lớn), đóng
73
LỊCH SỬ VIỆT NAM
đô ở Hoa Lư. Quốc hiệu này được duy trì suốt từ thời Đinh (968- 979), Tiền Lê (980-1009) và đầu thời Lý (1010-1053).
Năm 1054, Lý Thánh Tông đổi tên nước là ĐẠI VIỆT và quốc hiệu này được giữ nguyên đến hết đời Trần.
Tháng 3 năm 1400, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, lập ra nhà Hồ và đổi tên nước thành ĐẠI NGU (大虞).1 Quốc hiệu này tồn tại cho đến tháng 4 năm 1407, khi quân nhà Minh đánh bại triều Hồ, xâm chiếm nước ta.
Dưới ách đô hộ của nhà Minh, nhân dân ta vùng lên khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo anh minh của Lê Lợi - Nguyễn Trải. Sau 10 năm kháng chiến (1418-1428) thắng lợi. Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi và lấy lại tên nước là ĐẠI VIỆT. Quốc hiệu Đại Việt giữ
suốt thời Hậu Lê (1428-1787) và thời Tây Sơn (1788-1801).
Năm 1802, sau khi đánh đổ triều Tây Sơn, Nguyễn Ánh đăng quang lấy hiệu là Gia Long, mở đầu triều Nguyễn, đổi tên nước là VIỆT NAM. Quốc hiệu Việt Nam được công nhận về mặt ngoại giao và trở thành chính thức vào năm 1804. Tuy vậy, theo lịch sử
nước ta thì hai tiếng Việt Nam đã có từ cuối thế kỷ XIV, ghi trong bộ sách “Việt Nam thế chí” do Hồ Tông Thốc biên soạn. Và đầu thế kỷ XV, hai chữ Việt Nam cũng được Nguyễn Trãi nhắc lại nhiều lần trong cuốn “Dư địa chí”. Và sau này, trong thế kỷ XVI, XVII, tài liệu của các học giả nước ta như Nguyễn Bỉnh Khiêm, hoặc trên các bia ký ở các chùa... đều có nhắc đến hai chữ Việt Nam... Nhiều học giả cho rằng hai từ Việt Nam thời bấy giờ được kiến tạo bởi hai yếu tố: chủng tộc (người Việt) và địa lý (phương Nam).
Năm 1838, dưới thời vua Minh Mạng, quốc hiệu nước ta được đổi thành ĐẠI NAM.
Ngày 19-8-1945, Cách mạng tháng Tám thành công. Ngày 2-9-1945, Hồ Chủ tịch đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
74
THỦ ĐÔ VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ
Ngày 30-4-1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước. Ngày 2-7-1976, trong kỳ họp đầu tiên của Quốc hội Việt Nam thống nhất, toàn thể Quốc hội nhất trí lấy tên nước là CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM.
THỦ ĐÔ VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ
Việt Nam trong buổi bình minh của lịch sử, theo truyền thuyết gồm các triều đại: Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và các vua Hùng. Trong đó các triều đại Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân chưa có sử sách nào xác định được tên nước và thủ đô.
Mười tám đời Hùng Vương (?-258 trước Công nguyên), thủ đô ở Phong Châu, Phú Thọ. Đây là nhà nước độc lập, tự chủ đầu tiên của dân tộc Việt Nam, là Nhà nước Văn Lang với 18 đời vua Hùng. Qua các truyền thuyết còn lưu lại đến ngày nay, cũng như qua các cuộc khai quật khảo cổ của các nhà khoa học đã khẳng định rằng thời đại Hùng Vương là có thật trong lịch sử dân tộc ta. Đó là một thời kỳ chuyển biến mạnh mẽ về các mặt kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa, dẫn đến sự hình thành nhà nước phôi thai đầu tiên trong lịch sử Việt Nam.
Ngày nay, tuy chúng ta biết rằng thủ đô nước Văn Lang ở Phong Châu, nhưng cụ thể ở chỗ nào thì chưa có bằng chứng cụ thể, chỉ biết rằng có thể ở vào khu vực sông Lô gặp sông Hồng, khoảng ngã ba Bạch Hạc đến Đền Hùng, thuộc huyện Phong Châu.
Thời Thục Phán, An Dương Vương (257-208 trước Công nguyên), thủ đô là Cổ Loa.
Năm 257 trước Công nguyên, Thục Phán lên ngôi thay Hùng Vương thứ 18, lấy hiệu là An Dương Vương, đặt tên nước là Âu Lạc và đóng đô ở Cổ Loa (nay thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội).
75
LỊCH SỬ VIỆT NAM
Thục Phán là người có công đánh đuổi quân nhà Tần và cho xây Loa Thành. Cổ Loa nằm ở giữa một vùng đồng bằng rộng lớn, giao thông thủy bộ thuận lợi, dân cư đông đúc, kinh tế ngày một phát triển. Do yêu cầu phát triển của một nhà nước Âu Lạc ngày càng lớn mạnh, nên việc Thục Phán rời bỏ vùng đất đồi núi Phong Châu dời đô về Cổ Loa là một điều tất yếu trong lịch sử
phát triển của dân tộc.
Thời Trưng Vương (40-43), thủ đô là Mê Linh (Vĩnh Phúc).
Năm 208, trước Công nguyên, nước Âu Lạc rơi vào tay Triệu Đà. Triệu Đà sáp nhập Âu Lạc vào vùng đất mà ông đã cát cứ từ lâu, đó chính là vùng thuộc Quảng Đông, Trung Quốc, và cho lập một nước riêng lấy tên là Nam Việt, đặt kinh đô ở Phiên Ngung (nay thuộc thành phố Quảng Châu). Cũng từ đó Việt Nam liên tục bị đặt dưới ách đô hộ của phong kiến phương Bắc hơn 1000 năm. Lịch sử Việt Nam gọi là 1000 năm Bắc thuộc.
Trong thời gian đó, các cơ quan đầu não của chính quyền phương Bắc có thời kỳ đóng đô ở Luy Lâu (nay là Thuận Thành, Bắc Ninh), có khi ở Long Biên (nhưng chưa rõ cụ thể vùng nào), cũng có thời kỳ đóng ở thành Đại La (nay thuộc nội thành Hà Nội).
Trong 1000 năm Bắc thuộc, nhân dân ta liên tục vùng lên khởi nghĩa chống lại phong kiến phương Bắc mà tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng vào năm 40, đánh đuổi được quân Nam Hán về nước. Sau ngày thắng lợi, Trưng Trắc lên ngôi vua, đóng đô ở Mê Linh, Vĩnh Phúc. Cũng có thuyết cho rằng Mê Linh xưa nay là làng Hạ Lôi, thuộc Thạch Thất, Hà Tây.
Thời Tiền Lý (544-602), thủ đô là Long Biên.
Năm 505, nhà Lương cầm quyền ở Trung Quốc sai Lý Tắc làm thứ sử Giao Châu, tiếp tục cai trị nước ta. Mùa đông năm 541 (Tân Dậu), Lý Bí khởi nghĩa chống ách đô hộ nhà Lương, giành được độc lập dân tộc, lên ngôi vua, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên, nhưng không rõ chính xác nay thuộc
76
THỦ ĐÔ VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ
vùng nào, chỉ biết là ở khoảng chung quanh thị xã Bắc Ninh. Lý Bí là người đầu tiên nhận ra vị trí trung tâm đất nước chính là ngã ba sông Tô Lịch và sông Hồng, tức là vùng Hà Nội ngày nay. Vì thế, ngay từ thời ấy Lý Bí đã cho xây tại đây một tòa thành bằng gỗ.
Thời Phùng Hưng, họ Khúc, họ Dương (thế kỷ VIII-thế kỷ X), thủ đô là Đại La (Hà Nội).
Vào thế kỷ VIII, Phùng Hưng đã giành được độc lập cho đất nước, xưng vương, đóng đô ở thành Đại La (Hà Nội ngày nay).
Năm 802, đất nước lại rơi vào tay nhà Đường. Năm 905, Khúc Thừa Dụ1 nổi lên giành quyền tự trị, xưng là Tiết Độ Sứ rồi mới xin mệnh vua Đường, buộc vua Đường phải thuận theo. Năm 931, Dương Diên Nghệ nổi lên chống lại sự đô hộ của nhà Nam Hán. Các triều đại họ Khúc, họ Dương đều dựng quyền tự chủ và đóng đô ở thành Đại La.
Thời Ngô Quyền (939-967), thủ đô là Cổ Loa.
Năm 938, dưới sự lãnh đạo của Ngô Quyền, quân dân ta đã đánh tan quân xâm lược Nam Hán trên sông Bạch Đằng. Chiến thắng Bạch Đằng lừng lẫy đã chấm dứt thời kỳ 1000 năm Bắc thuộc. Mùa xuân năm 939, Ngô Quyền xưng vương, đóng đô ở
Cổ Loa.
Thời Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành (968-1009), thủ đô Hoa Lư, Ninh Bình.
Sau khi dẹp xong loạn 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi vua, hiệu là Đinh Tiên Hoàng đế, đóng đô ở Hoa Lư. Kinh đô Hoa Lư kéo dài được 42 năm, trải qua 2 triều đại Đinh (968-980) và Tiền Lê (980-1009).
Thời nhà Lý (1009-1225), nhà Trần (1225-1400), thủ đô là Thăng Long.
Năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi vua, đổi tên nước Đại Cồ Việt thành Đại Việt. Năm 1010, ông hạ chiếu dời đô về thành Đại La và đổi tên thành là Thăng Long.
77
LỊCH SỬ VIỆT NAM
Cuối năm 1225, nhà Trần thay nhà Lý, tiếp tục đóng đô ở Thăng Long.
Thời nhà Hồ (1400-1407), thủ đô là Tây Đô, Thanh Hóa.
Hồ Quý Ly (1400-1407) sau khi cướp ngôi nhà Trần, dời đô về Thanh Hóa lấy tên là Tây Đô.
Thời nhà Hậu Trần (1407-1414) và Hậu Lê (1428- 1788), thủ đô là Thăng Long.
Sau nhà Hậu Trần, đất nước bị nhà Minh xâm lược. Lê Lợi lãnh đạo cuộc kháng chiến giành lại độc lập dân tộc, lên ngôi vua năm 1428, vẫn giữ quốc hiệu Đại Việt và đóng đô ở Thăng Long, nhưng đổi tên thành Đông Đô (Hà Nội).
Trong thời kỳ Hậu Lê, khoảng thời gian nhà Mạc cướp ngôi (1527 - 1592), thủ đô vẫn là Đông Đô (Hà Nội).
Thời Tây Sơn (1788-1802), thời Nguyễn (1802- 1945), thủ đô là Phú Xuân (Huế).
Cuối 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế. Sau khi đánh tan 29 vạn quân Thanh xâm lược, giải phóng Thăng Long, nhưng vẫn đóng đô ở Phú Xuân (Huế) nhằm đối phó với Nguyễn Ánh.
Năm 1802, Nguyễn Ánh diệt nhà Tây Sơn, lên ngôi vua, lấy hiệu là Gia Long, tiếp tục đóng đô ở Phú Xuân cho đến năm 1945.
Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay, thủ đô là Hà Nội.
Sau cách mạng tháng Tám thành công, Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong kỳ họp ngày 6 tháng 1 năm 1946 đã quyết định chọn Hà Nội làm thủ đô nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
78
PHẦN III
CÁC DÂN TỘC TRÊN ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM
Việt Nam là đất nước của hơn 54 dân tộc. Tất cả đều tin vào truyền thuyết “con Rồng cháu Tiên”, nên luôn xem nhau như anh em một nhà, vì đều là con cháu của Lạc Long Quân - Âu Cơ.
Cùng chung sống lâu đời trên một đất nước, các dân tộc đều có truyền thống đoàn kết, yêu nước, giúp đỡ nhau trong công cuộc đấu tranh với thiên nhiên, đấu tranh xã hội, chiến đấu chống giặc ngoại xâm bảo vệ đất nước.
Trong quá trình chinh phục thiên nhiên, tùy theo điều kiện tự nhiên của mỗi vùng, để tồn tại và phát triển, mỗi dân tộc đều có những sáng tạo riêng để tìm ra những phương thức sống thích hợp nhất.
Ở vùng đồng bằng và trung du, các dân tộc chủ yếu làm lúa nước, dựng nền văn hóa xóm làng với trung tâm là đình làng, là cây đa giếng nước. Nghề nông, làng xóm là nguồn cảm hứng của những làn điệu dân ca quan họ, hát ghẹo, ví dặm (Bắc Bộ), những khúc ca cải lương, bài chòi, hát bội... (Nam, Trung Bộ).
Vùng núi Việt Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên... phương thức canh tác của đồng bào chủ yếu là phát rẫy làm nương... với núi rừng hoang sơ, phương thức sản xuất lạc hậu, là mảnh đất “màu mỡ” cho sự phát sinh, phát triển các lễ nghi đầy huyền bí. Nơi bắt nguồn của những huyền thoại, của những sử thi, trường ca, với những nhạc cụ thô sơ, đàn đá, cồng chiêng, quê hương của rượu cần, nhà sàn...
Dọc theo bờ biển từ Bắc vào Nam, các dân tộc sống bằng nghề chài lưới. Cuộc sống ở đây cũng nhộn nhịp khẩn trương như những nông dân trên cánh đồng ngày mùa.
79
CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, nhờ chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, các dân tộc đều bình đẳng, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, cùng nhau xây dựng đất nước làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ
và văn minh, văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc.
1. DÂN TỘC BA NA
Dân tộc Ba Na có khoảng 174.450 người, địa bàn cư trú trải rộng trên các tỉnh Gia Lai, Kon Tum và phía Tây Bình Định, Phú Yên và Khánh Hòa. Họ thường ở nhà sàn, cửa ra vào mở về phía mái, trên hai đầu dốc có trang trí hình sừng. Giữa làng có một ngôi nhà công cộng gọi là nhà làng, nhà rông với hai mái vồng và cao vút. Đó là nhà khách của làng, nơi diễn ra mọi hoạt động chung của cộng đồng làng như giáo dục thiếu nhi, tổ chức lễ hội, xử án...
Người Ba Na còn có những tên gọi khác như Bơ Nâm, Roh, Kon Kđe, Ala Kông, Kpăng Kông, Rơ Ngao, Rơ Lơng (hay Y Lăng), Tơ Lô, Krem...
Ngôn ngữ Ba Na thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơme.
Dân tộc Ba Na là một trong những cư dân sinh sống lâu đời ở Đông Trường Sơn-Tây Nguyên. Họ là tộc người có dân số đông, chiếm vị trí quan trọng trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội ở cao nguyên miền Trung Việt Nam.
Người Ba Na canh tác chủ yếu trồng lúa rẫy. Cái cuốc là công cụ sản xuất nông nghiệp chủ yếu của tộc người này. Từ đầu thế kỷ XX, việc làm ruộng nước bằng cày ngày càng phát triển ở nhiều nơi. Vườn chuyên canh và đa canh đã xuất hiện từ lâu. Công việc chăn nuôi gia súc, gia cầm trở nên phổ biến. Chó là con vật được người Ba Na yêu quý và không giết thịt. Các nghề thủ công: đan lát, dệt vải, làm đồ gốm, rèn... tuy có nhưng chưa phát triển.
80
DÂN TỘC BỐ Y
Phương tiện vận chuyển chủ yếu của người Ba Na là chiếc gùi, cõng trên lưng của nam cũng như nữ. Gùi có nhiều kích cỡ to nhỏ khác nhau và nhiều chủng loại.
Đối với người Ba Na, làng là đơn vị xã hội hoàn chỉnh. Chế độ mẫu hệ tuy đã tan rã, địa vị nam giới có nâng cao, nhưng phía mẹ vẫn gần gũi hơn. Tàn dư mẫu hệ thể hiện rõ trong quan hệ gia đình, gia tộc và trong hôn nhân. Sau hôn nhân vẫn còn tập quán ở nhà vợ, hoặc ở luân phiên, mỗi bên một thời gian. Chỉ sau khi có con đầu lòng mới dựng nhà riêng.
Hôn nhân của người Ba Na cho phép tự do tìm hiểu. Việc xây dựng gia đình theo nguyên tắc một vợ, một chồng.
Việc giáo dục cho thanh thiếu niên như dạy nghề, huấn luyện chiến đấu, học tập truyền thống văn hóa của cộng đồng... do các già làng đảm nhiệm và được tổ chức ở nhà rông.
Con cái được thừa kế gia tài của bố mẹ bình đẳng như nhau. Người Ba Na thờ nhiều thần linh liên quan tới cuộc sống con người. Mỗi thần có một tên riêng gọi là ông bốc, bà dã. Người Ba Na quan niệm khi một người chết đi hóa thành ma, ban đầu ở
bãi mộ của làng, sau lễ bỏ mả mới về hẳn thế giới bên kia. Lễ bỏ mả là lễ cuối cùng tiễn biệt người chết.
Trong kho tàng văn nghệ dân gian của người Ba Na có nhiều làn điệu dân ca, các điệu múa trong ngày hội, phổ biến là điệu hmon và roi. Nhạc cụ khá đa dạng, gồm bộ dây, bộ hơi và bộ gõ. Trường ca và truyện cổ tích của người Ba Na rất độc đáo và có giá trị. Nghệ thuật chạm khắc gỗ, đặc biệt ở nhà rông, tượng nhà mồ... tuy đơn sơ, mộc mạc nhưng vẫn tinh tế và sinh động.
Người Ba Na có những trò chơi khá phổ biến như: đuổi bắt (đru đra), cướp dây, hất đá, thả diều, đá cầu, đi cà kheo...
2. DÂN TỘC BỐ Y
Dân tộc Bố Y có khoảng 1.800 người, phần lớn cư trú ở các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang. Họ ở nhà nền đất, hai mái lợp tranh, gỗ hoặc ngói, tường đất trình. Nhà có 3
81