🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Việt Nam máu lửa
Ebooks
Nhóm Zalo
Thông tin eBook
VIỆT NAM MÁU LỬA
Tác giả: Nghiêm Kế Tổ
Nhà xuất bản: Mai Lĩnh - 1954
Lê Thy đánh máy từ bản scan của sách xuất bản từ năm 1954 Ebook: Cùi Bắp
Nguồn: Wordpress.com
Để tưởng niệm các đồng chí đã bỏ mình vì nước
và thân tặng các chiến sĩ đang tranh đấu
…tranh đấu không ngừng cho sự sống còn của TỔ QUỐC
Nghiêm Kế Tổ
TỰA
T
rận đại-chíến thứ hai đã chính-thức kết-liễu từ 1945 do sự đầu-hàng không điều-kiện của các lực-lượng Phát-Xít Đức-Ý-Nhật.
Các dân-tộc đã tưởng rằng, nhân-loại sẽ vui vẻ dắt tay nhau trên đường kiến-thiết, sẽ tu sửa lại những thành-phố nát-tan vì bom đạn, sẽ phát-triển sức sống mới dưới ánh sáng của khoa-học văn-minh.
Các dân-tộc đã tưởng rằng, con người vừa trả qua một đe-doạ ghê-gớm của những hung-thân ác-quỷ, sẽ tự-giác trong tư-tưởng, thanh-toán mọi xấu-xa nhơ-nhớp còn tồn-tại, sẽ tự-giác giải-thoát mình và tự đặt nhiệm-vụ giải-thoát người khác khỏi sự mọi rợ của xích-xiềng áp-bức.
Nhưng buồn thay!….
Trận đại-chiến thứ hai vừa chấm dứt thì trận đại-chiến thứ ba đã lại bắt dầu và tính-chất lưỡng-diện của nó vẫn chẳng ngoài: xâm-lăng – tự-vệ.
Đúng ra, người ta có thể nói trận chiến-tranh thứ ba đã bén rễ từ ngay trong lòng trận đại-chiến thứ hai. Chúng ta thấy rằng cuộc ký-kết 1945 thật chưa xứng đáng với những chữ: Thế-giới đình-chiến. Và nếu muốn, nhân-loại thực ra cũng chẳng cần dùng đến chữ “kết-liễu” hay “đại-chiến thứ ba” vì lẽ thời-gian của chiến-cuộc vẫn là một thời-gian liên-tiếp, con người vẫn tàn-sát con người , có khác chăng chỉ là một vấn
đề thu-hẹp và biến-đổi hình-thái chiến-tranh.
Nhớ lại những cuộc họp mặt Đồng-Minh, những Yalta, những Téhéran….ở đó nhân-loại đã nhìn rõ-ràng thấy những mâu-thuẫn nóng sẽ xẩy đến trong tưong-lai quốc-tế.
Cuộc đình-chiến ký-kết năm 1945 đã thực-hiện song-hành với những hành-động mới: chiến-tranh tiếp diễn dưới hình-thức cục bộ ở Trung-Hoa, ở Cao-Ly, ở Việt-Nam, ở Phi-Luật-Tân, ở Nam-Dương, ở Mã Lai, ở Trung-Đông, ở Cận-Đông, ở Phi-châu… đấy là chưa kể chiến-tranh trên những giải đất khác dưới hình-thái: chiến-tranh lạnh, chiến-tranh cân-não, chiến-tranh tâm-lý
Trận đại-chiến 39-45 đã để lại trong đầu óc của con người thời-đại những dư-âm ghê-gớm: tiếng bom, tiếng đạn, tiếng rú ghê hồn của Tử-Thần trên không-trung…Những dư-ảnh của quặn đau: phố-phường tan hoang, đất lành tung nổ trong đó con người xương thịt thoắt biến thành tro tàn bụi khét.
Dư-âm và dư-ảnh ấy đã có sức-mạnh kìm hãm giống người trên đường tương sát, nhất là cảng ngày nhân-loại càng phát-minh thêm những phương tiện mới-mẻ trong khoa-học giết người. Cũng vì dư-âm và dư-ảnh ấy cho nên chiến-tranh chưa bùng nổ một cách toàn-diện và tổng-lực. Chưa bước sang giai-đoạn kinh-khiếp mà người ta vẫn mệnh-danh là : Đại-chiến thứ ba, trận chiến-tranh Nguyên-tử.
Nhân-lại biết kinh sợ cho nên “đợt kinh-khủng” chưa thể tái diễn ở hoàn-cầu, trái lại người ta cũng đã ra công dẹp bớt những cuộc xung-sát địa-phương, sự cố-gắng ấy thật đã là một ưu-điểm của nhân-loại. Chúng ta thấy rằng lò lửa Cận-Đông đã được dập tắt dần, rồi Trung-Đông, rồi Nam-Dương, Phi-Luật Tân, Mã-Lai cũng vậy.
Ở Triều-Tiên và Trung-Hoa, tiếng súng cũng đã ngớt, người ta cố tránh dùng những phương-tiện nóng. Nói chung, ở khắp mọi nơi tuy chưa hẳn được hoà-bình nhưng cũng có thể đã tạm gọi là yên tiếng súng. Riêng ở Việt-Nam, Việt-Nam chưa có hoà-bình.
Việt-Nam là một lò lửa đã từ 9 năm nay. Ở đấy lửa cháy liên-tiếp trong những năm ròng, thiêu-tàn sức sống của muôn vật; ở đấy những con người nối đuôi nhau dài vô tận: chết âm-thầm, đau-đớn. Cuộc đổ máu ở Việt-Nam đã trường-kỳ nhất, gay-go nhất, huyền-ảo nhất.
Trường-kỳ, bởi vì bởi vì người Việt-Nam đã chống lại chế-độ của người ngoại-quốc từ nhiều thế-kỷ nay.
Gay-go, bởi vì đã có bao nhiêu anh-hùng liệt-sĩ Việt-Nam phải bỏ mình và đã có ngay bao nhiêu mầmnon của đất nước tiếp-tục sự-nghiệp đấu-tranh.
Huyền-ảo, bởi vì ở Việt-Nam, lòng tin-tưởng thường chọi nhau với tù-đày, trí cương-quyết thường chọi nhau với sức tàn sát, những cánh tay gầy thường chọi nhau với những súng ống tối-tân… Thực ra, không phải người Việt-Nam chỉ mới chiến đấu từ 9 năm gần đây, không phải chỉ mới nổi dậy từ khi mặt trận Việt-Nam Độc-lập Đồng-Minh thành lập. Người Việt-Nam đã chiến-đấu từ trước năm 1930 khi ở Việt-Nam các đảng-phái cách-mạng thành-lập, hơn nữa người Việt-Nam đã chiến-đấu từ lâu rồi, âm thầm chiến-đấu, nối tiếp chiến-đấu… Và còn chiến-đấu cho đến khi nước nhà độc-lập, nước nhà thống nhất, nước nhà tự-do trong hoà-bình tiến-bộ, trong nhân-loại thái-bình.
Trước đây, Thế-giới ít biết đến Việt-Nam vì Việt-Nam chỉ là một quốc-gia xinh-xẻo với dân-số tý-hon mười lăm triệu.
Ngày nay, khoa-học giao-thông đã nối liền mảnh đất Việt-Nam với thế-giới, và cũng ngày nay thế-giới mới có dịp hiểu cái xứ xa-xôi nhỏ bé đó thực ra đã chứa đựng những con người không kém những con người của thiên-hạ văn-minh, thế-giới mới có dịp biết cái khối dân-số tý-hon đó đã chứa đựng một sức mạnh trong những sức mạnh vô biên của nhân-loại.
o O o
9 năm qua, trận chiến nóng ở Việt-Nam là một trận chiến cục-bộ đối với hoàn-cầu. Đã là một trận chiến-tranh cục-bộ tất-nhiên nó liên-hệ đến vận-mệnh chung, ngoài phạm-vi ranh-giới. 9 năm qua, trận chiến Việt-Nam tuy đã mang nhiều tên khác nhau như chiến-tranh thuộc-địa, chiến-tranh
Quốc-Cộng, nhưng thực ra, đứng-đắn mà nhận-xét, cuộc chiến-tranh hiện-tại vẫn chỉ là một giai-đoạn trong cuộc chiến-đấu trường-kỳ của dân-tộc Việt-Nam từ một thế-kỷ nay.
Để tất cả những người Việt-Nam có dịp nghiên-cứu mọi sự việc đã xẩy ra trong những năm ghê-gớmnhất của Tổ-quốc, để nhắc-nhở cho tất cả những ai thường hay lãng quên nhiệm-vụ, cố ý thoát-ly đời sống của mình ra khỏi hệ-thống chung của Quốc-gia Dân-tộc, để trình-bầy một cách thiết thực quá-trình chiến đấu của nhân-dân Việt-Nam trong khoảng thời-gian 9 năm trường, quá trình ấy thường khi bị ngoại-quốc tóm-tắt một cách sai lầm trên một số trang sách báo, chúng tôi cố-gắng soạn quyển VIỆT-NAM MÁU LỬA ra mắt độc-giả.
Cố-gắng đứng ở vị-trí khách-quan, siêu đảng-phái để nhận-định và trình-bầy mọi sự việc đã xẩy ra, phân-tách qua-loa những tư-tưởng chủ-quan của những vai trò phái-đảng hay ngoại-quốc đã biểu-diễn phô bày trên đất nước , chúng tôi còn có một hoài-vọng đặc-biệt là sưu-tầm để tự nghiên-cứu và để mọi người cùng có dịp nghiên-cứu bằng cách tổng-thu kết-hợp những tài-liệu mỏng-manh trong một trang duy nhất: trang VIỆT-NAM MÁU LỬA.
VIỆT-NAM MÁU LỬA không phải là một cuốn sử vì VIỆT-NAM MÁU LỬA còn khiếm sót nhiều trong những phạm-vi: cách-mạng sử-liệu, vấn đề thời-gian, nhân-vật, sự sống và sự hoạt-động của nhân dân, sinh-hoạt kinh-tế, chính-trị v.v…
VIỆT-NAM MÁU LỬA cũng không phải là một cuốn phiếm-luận vẩn-vơ vô căn-cứ vì VIỆT-NAMMÁU LỬA đã chứa đựng một số tháng ngày đứng-đắn, một số nhân-vật đang chiến đấu cho giải đất thân yêu của chúng ta, một số tài-liệu tuy ít ỏi nhưng vô cùng xác thực.
Về phương-diện tài-liệu, chúng tôi có thể nói rằng đó là những tài-liệu sống và quý-giá mà chúng tôi đã may mắn sưu-tầm được để đem ra cống-hiến.
Có thể rằng, một số người có thiên-kiến sẽ lên án tác-giả là đã trình bầy xuyên-tạc nhưng, dù sao, sự thực vẫn là sự thực, và ở đây tác-giả chỉ biết trình-bầy những điều mắt thấy tai nghe để rồi mỗi độc-giả sẽ tự nhận-định và suy-xét theo lập-trường, quan-niệm của riêng mình.
Tuy nhiên, chúng tôi cũng tự thấy chưa được hài lòng về số lượng của tài-liệu, đó là lời xin lỗi thứ nhất của tác-giả.
Lời xin lỗi thứ hai là sự hành-văn, lời văn không được gọt sửa kỹ-lưỡng có thể không làm vừa lòng độc-giả. Khuyết-điểm ấy do thời-gian viết đã quá cấp-bách và ngắn-ngủi.
Lời xin lỗi thứ ba là sự sắp xếp những sự-kiện nhắc đi nhắc lại một vài vấn-đề. Sự thực đó là một dụng-ý của chúng tôi dù rằng những sự-kiện khác nhau cũng thường khi đòi hỏi phải kể đi – kể lại một nguồn phát sinh ra mọi việc.
Ước mong rằng VIỆT-NAM MÁU LỬA sẽ đem đến cho các bạn độc-giả một chút gì mới lạ trong quan niệm về cuộc chiến-tranh đang diễn biến trên giải đất yêu dấu của chúng ta.
NGHIÊM-KẾ-TỔ
(Mạnh hạ năm Giáp Ngọ 1954)
CHƯƠNGMỘT
A- Những nét lớn trong lịch-sử dân-tộc
C
á-tính quốc-gia trong quá-trình tranh-đấu của dân tộc
1- Chúng ta ngày nay tự hào và vinh dự khi đọc lại lịch-sử dân-tộc. Sức sinh-hoạt mạnh-mẽ, óc tổ-chức quy-củ. Dân Việt-Nam không bao giờ có thể diệt-vong.
Quá-trình tiến-hoá của dân-tộc trên 4000 năm là quá-trình tranh-đấu của tổ-tiên, của cha ông chúng ta. Trên quãng thời-gian dài dặc ấy, tâm-huyết người dân ngày càng hun đúc, lòng hêu nước xót nòi, ngày càng tăng. Chúng ta tự hào với thành-tích, sự-nghiệp vĩ-đại của tiên-nhân, kiêu-hãnh khi lật trang quốc-sử hùng-cường, oanh-liệt.
Vàng có thử lửa mới rõ là vàng tốt, người có trải gian nguy mới nổi bật giá-trị con người . Dân-tộc cũng vậy. Nếu không có gian-lao thử thách, sao tỏ rõ được chí-khí quật-cường.
Suốg giòng lịch-sử, người dân Việt biết đoàn-kết, biết siết chặc hàng-ngũ – đã đẩy lui được ý-chí xâmlăng miền Bắc, lập nền tự chủ – đã dẹp tan loạn phương Nam, mở mang bờ cõi – và gần đây, không hổ danh là giống nòi Hồng-Lạc, đã tranh-đấu không ngừng ngăn cản sóng xâm-lăng. Ý-chí ấy, quyết-tâm ấy, đoàn-kết ấy, ai là kẻ không hay ?
Qua các thời-đại, chí-khí quật cường, tinh-thần tự-chủ đã tượng-trưng bằng hành-động của biết bao anh hùng dân-tộc.
– Hai Bà Trưng diệt Hán cứu dân thoát vòng nô-lệt (40 sau Thiên-chúa giáng-sinh) – Phá quân Lương, Lý-Bôn lập thời-kỳ tự-chủ II (544-602)
– Diệt tan quân Nam-Hán, Ngô-Quyền mở đường vinh-quang cho đất nước sau 3 lần Bắc-thuộc (939- 965)
Lòng thương yêu nòi giống, lòng thương yêu Tổ-quốc non sông là bó đuốc soi đường cho dân-tộc. Nào anh-hùng Lý-Thường-Kiệt bình Khâm-châu, Liêm-châu, Ung-châu (thuộc Quảng-đông – Quảng tây) đánh tan quân Tống trên sông Như-Nguyệt (Sông Cầu – 1075)
Nào Kiệt-liệt Trần-Quốc-Tuấn diệt quân Nguyên trên bến Vạn-Kiếp (1284), trên Bạch-Đằng-Giang (1287)
Nào anh-hùng Lê-Lợi đánh đuổi quân Minh (1427)
Nào anh-hùng áo vải Nguyễn-Huệ đại phá quân Thanh (1789)
Qua các triều-đại, tinh-thần quốc-gia và khả-năng sinh-tồn của dân-tộc đã được đánh dấu bằng sự nghiệp Nam-tiến.
Từ Bắc phương tràn xuống, sau khi đã bám chắc được đồng lũng Bắc Việt, để tránh khỏi tiêu-diệt giữa sức ép của hai nền văn-minh tối-cổ hùng-hậu: Ấn-Độ và Trung-Hoa, muốn sống, dân-tộc Việt-Nam chỉ còn một cách là di dân lần lần về phương Nam.
Những cuộc hưng binh của Lê-Đại-Hành (981), Lê -Thái-Tôn (1044) để dẹp cái “bệnh” quấy nhiễu của Chiêm-Thành, chỉ là dấu hiệu báo trước ý-định di dân của một dân-tộc thông-minh, quy-củ, có tổ-chức và đầy sức sống. Đấy là ý-định thoát thai tất nhiên trong hoàn-cảnh địa-dư và tinh-thần của một dân-tộc luôn luôn tiến-bộ như dân-tộc Việt.
Sự-nghiệp di dân vĩ-đại đã được đánh dấu đều đều.
Chúng ta thử kiểm-điểm những kết-quả của tiền-nhân.
– Năm 1069, Chế-Cư, vua Chiêm-Thành, dâng cho Thánh-Tôn nhà Lý 3 châu: Địa-Lý – Ma-Linh – Bố Chính (thuộc Quảng-Bình – Quảng-Trị)
– Năm 1306, Chế-Mân dâng cho Nhân-Tôn nhà Trần đất Châu-Ô và Châu-Rí (Thừa-Thiên) – Năm 1402, Ba-Đích-Lai dâng cho nhà Hồ đất Chiêm-Động và Cổ-Lũy (Quảng-Nam – Quảng-Ngãi) – Năm 1470, nhà Lê lấy đất Đồ-Bàn, Đại-Chiêm
– Năm 1611, Nguyễn-Hoàng lấy Phú-Yên
– Năm 1653, Chúa Hiến lập Thái-Ninh-Phủ (Khánh-Hoà)
– Năm 1693, Chúa Nguyễn lập Thuận-Phủ (Phủ-Bình-Thuận)
– Năm 1698 đến 1714, dân-tộc Việt-Nam lan đến Đồng-Nai Hạ rồi đến Hà-Tiên, cắm mốc cuối cùng của sự-nghiệp mở mang bờ-cõi
Năm 1802, Đức Thế-Tổ Gia-Long thu gồm giang-sơn về một mối, dân Việt-Nam sống tưng-bừng trong nền Độc-Lập thống-nhất, phú-cường.
Dân-tộc đã thành-công trong sự-nghiệp di dân vĩ-đại, dân-tộc đã tránh được sự thôn-tính của Bắc phương, đã thoát được ảnh-hưởng ở bên kia bờ Cửu-Long-giang và đã lập được một nước Việt-Nam hùng mạnh, thống-nhất suốt từ Ải Nam-Quan đến đầu mũi Cà-Mâu. Người Việt tự bảo-vệ giống-nòi, do đó phát huy khả-năng dân-tộc
Mỗi bước tiến về phương Nam chỉ là mỗi cuộc “tấn-công để phòng thủ”. Tính-chất của nó tương-đồng với ý-nghĩa của chiến-tranh tự-vệ chống Bắc-phương. Không thể ai chối cãi được tinh-thần bảo-vệ giống nòi, trong sự-nghiệp phát-triển quốc-gia dân-tộc.
Từ năm 1862 đến năm 1945, nước nhà bị rời vào ách nô-lệ nhưng, 83 năm, con cháu oanh-liệt của tiền nhân vẫn chiến-đấu không lúc nào ngừng, mặc dù thủ-đoạn thống-trị của Tây-phương khoa-học hơn mánh khoé cai-trị của người Trung-Hao trước. Coi thường súng đạn, coi thường giam cầm đầy ải, biết bao nhiêu hoạt-động cứu quốc vẫn kế tiếp nhau, biết bao nhiêu phong-trào khởi-nghĩa vẫn thay phiên nhau: Nào “Cần-Vương” của những Văn-thân bắt nguồn trong Khổng Mạnh.
Nào “Duy-Tân” với làn sóng văn-minh Âu – Á.
Nào “Dân-Tộc Giải-Phóng” với tư-tưởng cách-mệnh quốc-gia, quốc-tế.
Mỗi phong-trào tuy có khác nhau về hình-thức, nội-dung, nhưng kỳ chung, mục-đích đầu tiên cũng vẫn là: cứu dân, cứu nước
Vì đâu dân-tộc Việt có óc tự-cường, không hề bị tiêu-diệt trước hành-vi thôn-tính của vũ-lực ngoại bang, trước ảnh-hưởng thấm-nhuần của mọi triết-lý Đông – Tây?
Chỉ vì dân-tộc Việt-Nam biết yêu nước, biết đoàn-kết, biết tranh-đấu. Không một sức mạnh nào lay chuyển nổi dù sức mạnh đó tàn-bạo đến bực nào.
Cá-tính quốc-gia đã được tượng-trưng bằng mọi hình, mọi vẻ.
Người Việt-Nam từng chịu Trung-Hoa đô-hộ trên một nghìn năm, trong khi họ đem sang ta dao bén, giáo dài. Họ đã mang theo cả khuôn-khổ của nền văn-hoá vĩ-đại hòng thôn-tính ta cả về thể-xác lẫn tâm hồn. Nhưng nhầm thay, dân-tộc Việt sẵn có một cá-tính giống-nòi — luyện hợp với thủy-thổ, sinh-hoạt khí hậu — đã biết thành cá-tính quốc-gia chỉ có phát-triển nhịp theo hoàn-cảnh, điều-kiẹn chứ không bao giờ
có thể suy-vong.
Qua bao thế-kỷ, từng thấm nhuần Đông-triết, nay thêm tiếp-xúc văn-hoá Thái-Tây, người dân Việt đã biết dung-hoà và gìn giữ những gì là thích-hợp, tự tạo ra bản-năng đặc biệt và không bị hoàn-toàn chi phối.
Cá-tính Quốc-Gia đã được chứng-minh bởi lịch-sử:
– Người Việt học NHÂN, NGHĨA, LỄ, TRÍ ,TÍN TRUNG-QUÂN, ÁI-QUỐC của Khổng – Mạnh. Nhưng người “tôi” Việt không “trung” với “Thiên-triều”; người dân Việt không “nhân” với bè lũ Thoát Hoan, mà cũng không hề “nghĩa” với bè lũ Tôn-Sĩ-Nghị.
– Trọng LÃO giáo, PHẬT giáo, THIÊN-CHÚA giáo, học vị-tha, bác-ái, suy “Điềm-tĩnh”, “Vô-vi” nhưng trước hung-tàn bạo-ngược của ngoại-bang, người dân Việt biết đứng dậy xua đuổi quân thù. – Thấm nhuần lý-thuyết của Locke, của Voltaire, của Rousseau, nhưng không dung những kẻ “tự-do” đi cướp “nhân quyền” để “phát-triển nhân-quyền”.
Trên một nghìn năm tranh-đấu chống ngoại-xâm đã chứng-minh tinh-thần dân-tộc. Dân-tộc Việt ngày càng rèn dũa. phát-triển cá-tính quốc-gia trên mọi mặt.
Quân-sự:
Người Trung-Hoa dạy Tôn-Ngô Binh-pháp.
Người Việt đã quốc-gia-hoá Tôn-Ngô Binh-pháp: Binh-pháp của nhà Lý khiến cho Tống-triều phải học lại. Binh-Thư Yếu-Lược của nhà Trần đã đẩy lui quân Nguyên.
Chính-trị, Văn-hoá, Xã-hội:
– Thái-độ mạnh bạo trong cuộc cải-cách văn-hoá như sự phát-triển chữ Nôm trong thời-kỳ chữ Nho toàn-thịnh.
– Thực-hiện cải-cách cai-trị, thuế-má, điền-địa mặc dù trên đất nước Trung-Hoa những để tử của Khổng – Mạnh vẫn còn rụt-rè.
Quá-trình tiến-hoá của dân-tộc, qua bao lớp sóng phế-hưng , qua bao cuộc xâm-lăng của ngoại-bang đã không bị kiệt-quệ hoặc mất tính-chất thuần-túy quốc-gia, trái lại, đã nẩy nở thêm chí quật-cường lòng yêu nước thương nòi vô bờ bến trong tâm-can người dân nước Việt.
B- Những ngày tàn của một chế-độ
Qua ngót nghìn năm sống hiên-ngang với nền tự-chủ, đến cuối thế-kỷ 19, đường Việt lại bắt đầu vướng xích xiềng nô-lệ.
Người Pháp dùng chánh-sách “Tầm Thực” (tầm ăn dâu) chiếm miền Nam nước Việt (Hoà-Ước 1862) rồi lấn dần, lập cuộc Bảo-hộ Bắc, Trung (Hoà-Ước 1874 và Hoà-Ước Harmand 1883). Kế tiếp chánh-sách “tầm thực”, chánh-sách “Chia Để Trị” được áp-dụng triệt-để, kết-quả: quyền nội-trị của Việt-Nam dần thu hẹp như “miếng da lừa”, ngày một mất tính-chất, có hình-thức, thiếu nội-dung (Hoà Ước 184 và 1883), không còn giá-trị thực-tế nữa.
Vòng thuộc địa bắt đầu.
CHÍNH-TRỊ
Bắc. Trung, Nam có riêng mỗi xứ một chế-độ. Mỗi chế-độ một tổ-chức khác nhau và hình-thúc có vẻ dân-chủ:
– Nam-Việt có Thống-Đốc. Thống-Đốc lập ra Hội-đồng Thuộc-địa, Hội-đồng hàng Tỉnh, Hội-đồng Thành-phố.
– Trung-Việt có Khâm-Sứ làm việc “bên cạnh” nhà Vua. Khâm-Sứ coi việc “ngoại-giao” bằng cách quyết đoán mọi việc và chủ toạ Viện-Cơ-Mật. Khâm-Sứ lập Hồi-đồng Dân-biểu và đặt Công-sứ cho mỗi tỉnh.
-Bắc-Việt có Thống-Sứ. Thống-Sứ “hợp-tác” với Kinh-Lược Việt-Nam thay Vua định việc và chỉ phải tâu với Vua những việc đã làm. Mỗi Tỉnh có một Công-Sứ trực tiếp cai-trị. Thống-Sứ lập ra Hội-đồng hàng Tỉnh , Hội-đồng Dân-biểu.
Việc cai-trị 3 Xứ đặt dưới một Ông Toàn-Quyền. Toàn-Quyền phụ thuộc Bộ Thuộc-Địa Pháp. KINH-TẾ:
Pháp thành-lập Sở Địa-Chất, Sở Mỏ đầy đủ để khai-thác tài-nguyên. Nhân-công của thuộc-địa nhiều và rẻ tiền khiến Pháp tận-lực lợi-dụng khai-khẩn trồng-trọt, mở-mang kỹ-nghệ nhẹ để thu lợi: – Nào mỏ than Hòn-Gay, Uông-Bí, mỏ vàng Bồng- Miêu, mỏ sắt Cao-Bằng…
– Nào đồn-điền cà-phê Yên-Bái, Phú-Thọ, Chi-Nê, đồn-điền cao-su Thủ-Dầu-Một, Biên-Hoà. -Nào nhà máy giấy Đáp-Cầu, nhà máy đường Hiệp-Hoà, nhà máy xi-măng Hải-Phòng, nhà máy diêmBến Thủy, nhà máy sợi Nam-Định, nhà máy Rưọu, nhà máy Điện, nhà máy Nước v.v… Việc xuất-cảng, nhập-cảng bị nắm trọn quyền. Thuế-má, điền-thổ được cải-cách thích-hợp theo nguyên tắc muôn thuở của chánh-sách thực-dân.
QUÂN ĐỘI:
Một ngân-sách to lớn trên 100,000,000 đồng được thu lập để tổ-chức quân-đội, mục-đích giữ vững địa vị “Bảo-Hộ” tổng thu quyền-lợi kinh-tế.
GIÁO-DỤC:
Trường công mỗi tỉnh không quá hai trường. Trường tư không có phép mở tự-do. Sự học gián-tiếp bị hạn-chế chỉ cốt có đủ số người dùng trong các công, tư sở Pháp. Đã vậy việc học hành lại hết sức khó khăn, vì phải đủ nhiều “điều-kiện cần-thiết” mới được nhập trường hay thi-cử.
XÃ-HỘI:
Ngoài mấy công-việc đáng ghi nhớ như tẩy trừ bệnh dịch-hạch, đậu mùa, chó dại thì dân Việt-Nam vẫn phải “ưa” dùng thuốc Bắc rẻ tiền, dễ bề mời thầy, gọi thuốc. Lý-do: nhà thương ít ỏi, “đốc-tờ” ít ỏi. Từ năm 1940, Toàn-Quyền Decoux cố-gắng bù đắp những lỗ hổng của quá-khứ:
– Cải-tổ Chính-phủ Nam-Triều (1942)
– Nâng cao Việt ngữ bậc Tiểu-học
– Cho phép thành-lập Hội Truyền-Bá Quốc-Ngữ
– Lập thêm trường ở hương-thôn
– Mở mang Đại-Học-vụ
– Công-chức Việt và Pháp tương-đối ngang ngạch về lương-bổng và đối-đãi.
– Phong-trào Thanh-niên Khoẻ của Thiếu-tá Ducoroy
– Đường sá cầu cống, thủy-nông, thành-phố được mở man sửa chữa.
Nhưng buồn thay, quá-trình “mở-mang khai-hoá” thuộc-địa của người Pháp đã làm cho Việt-Nam kémtin-tưởng. Những cố-gắng của Toàn-Quyền Decoux không gây được tiếng vang nào. Chế-độ cai-trị và chánh-sách đối xử trong 83 năm qua đã gián-tiếp giúp Nhật-Bản lật đổ chính-quyền. Nhật-Bản tuyên-bố giả Độc-Lập cho Việt-Nam sau ngày 9 tháng 3-1945 và nêu rõ mục-đích thiết-lập Đại Gia-Đình Đông-Á.
Việt-Nam Độc-Lập?
Trong lịch-sử các dân-tộc trên thế-giới thử hỏi có dân-tộc nào lại được may-mắn hưởng độc-lập dễ dàng theo liểu của Việt-Nam ?
Toàn dân Việt đã thấy, sau khi vua Bảo Đại tuyên-bố hủy-bỏ tất cả những Hiệp-Ước ký giữa Việt – Pháp từ xưa để sửa-soạn tổ-chức một nước Việt-Nam Độc-Lập, thì tại Nam- Việt, Yoshio Minoda chiếmđịa-vị Thống-Đốc, nguyên Đại-sứ Yokoyam thay chân Khâm-Sứ Pháp ở Trung-Việt và ngoài Bắc nhà ngoại-giao T.Tsukamoto nắm chặt cơ-quan cai-trị….
Song song với quyền cai-trị của các “Cố-Vấn” Nhật, chính-sách khủng-bố của quân-đội Machijiri, Tsushihashi, Sadao Kawamura được áp-dụng triệt-để làm hậu-thuẩn.
Việt-Nam chỉ độc-lập trên giấy tờ!!
Chính-sách thống-trị mới, vừa thâm-thúy vừa ích-kỷ vừa kiêu-ngạo độc-ác của quân-đội Thiên-Hoàng, vừa do hoàn-cảnh chiến-tranh khiến dân ta càng thêm đói cực, chết chóc kể hàng triệu. Tâm-can người Việt-Nam hun-đúc trên 80 năm Pháp thuộc, nay người Nhật tưới thêm, dầu lửa cứu quốc nhất định phải bùng lên.
Chế-độ của Pháp, của Nhật, hay chế-độ thực-dân-địa nói chung đã đưa đến kết-quả dĩ nhiên: ngày lịch sử 19 tháng 8 năm 1945.
CHƯƠNG HAI
1.- CHÍNH PHỦ TRẦN TRỌNG KIM
C
hiến tranh hoàn cầu lần thứ II bùng nổ. Một việc trọng đại làm thay đổi cuộc diện thế giới như vậy, người Việt Nam không hề tỏ thái độ của mình. Hoặc ủng hộ Đồng Minh, hoặc theo ‘’Trục’’ hay ít nhất, đối ngoại phải tỏ rõ lập trường, đối nội, phải tích cực chuẩn bị giữ mình.
Hiểu tiền đồ dân tộc, rõ sự liên hệ mình với người, biết nhìn trước thời cuộc, chỉ có những người làm chính trị, những đảng phái cách mệnh, hay một số các người được gọi là trí thức. Phải chăng đại đa số dân Việt Nam không biết đọc, không biết viết, không có dịp tập hợp dưới cờ Cứu Quốc, đã không theo dõi được tình hình, không kiểm điểm nổi bước tiến của Lịch Sử dân tộc ? Phải chăng, với tình hình thế giới, người Việt Nam quá lãnh đạm thờ ơ ?
Nước Pháp thua ư ? Thì kẻ chiến thắng Pháp cũng là kẻ chiến thắng Việt Nam.
Ngước Pháp được ư ? Người Việt vẫn trong vòng cương tỏa, có chăng vài ‘’tù nhân’’ được ân xá, vài ngày lễ chiến thắng, điểm binh, công chức nghỉ phép, học trò được chơi…
Thế này hoặc thế khác, người dân Việt vẫn phải còng lưng làm việc, đóng thuế (có khi nặng hơn trước để bù vào chiến tranh phí), vẫn mù chữ (vì dốt nát giúp sự cai trị được dễ dàng), vẫn không được tự do ngôn luận, lập hội, lập đoàn…Nghĩa là người dân không thay đổi gì hết, nếu có, cũng không đáng kể gì. Tại sao dân Việt Nam lại thờ ơ như vậy ?
Vì chế độ thuộc địa trên đất Việt đã khắc sâu vào tâm khảm người dân những nét đáng buồn. Trên giải đất thân yêu có những phản ảnh lúc tế nhị, lúc bạo tàn. Sự thay đổi làn không khí âm u của non thế kỷ, dù không khí mới nhẹ hay nặng, việc đó không chắc lợi lộc gì cho Việt Nam cả. Trạng thái tâm lý đã như vậy, nhưng tinh thần ra sao ? Phải chăng qua 80 năm trói buộc, tâm hồn người Việt đã bị trơ mòn đến nỗi tê liệt óc tranh đấu quật cường ?
Không!!
Bản tính người Việt suy nghĩ và trầm lặng.
Người dân Việt hằng nhắc tới hành động yêu nước trong những phong trào khởi nghĩa của Cha, Anh. Người dân vẫn chờ đợi, chờ đợi một cái gì mới mẻ sẽ đến.
Năm 1939, chiến tranh thế giớ thực sự bắt đầu.
Trục là kẻ thù của Pháp: Nhật Bản ở phe Trục. Nhật là người Á Đông, hình dáng giống Trung Hoa và Việt. Nhật cũng hấp thụ đạo lý Khổng Mạnh, cũng dùng chữ Nho: Huynh đệ với Việt Nam về phương diện tinh thần! Người dân Việt biết thế.
Năm 1940, muốn đánh tập hậu và chặt đường tiếp tế Tưởng Giới Thạch, quân đội Thiên Hoàng cố tình đổ lỗi cho Pháp, tìm cớ để mượn đường Bắc Việt hành quân. Đã kém vế với Hitler ở chính quốc, Pháp phải ôn hòa với Nhật ở Đông Dương, vì xét thực lực mọi mặt, Nhật Bản nắm ưu thế rõ ràng.
Sau một hồi tin đi mối lại, dưới sự hăm dọa của quân đội Phù Tang, Đô Đốc Decoux, người vừa thay thế chức Toàn Quyền Đông Dương của Tướng Catroux, dằn lòng cho Đại Tá Nhật đem quân lực vào Bắc Việt, ‘’mượn’’ Hải Phòng làm trạm dừng quân, ‘’mượn’’ căn cứ Gia Lâm, Lào Kay, Phủ Lạng Thượng cho Không Quân Hoàng Gia. Đối lại, chánh phủ Nhật phải tôn trọng chủ quyền Pháp ở Đông Dương và bảo đảm hành vi quân đội.
Tháng 9.1940, quân Nhật đặt chân lên đất Việt Nam theo thỏa hiệp đã ký kết.
Thoạt đầu bóng người quân nhân Nhật Bản cũng gây được đôi chút cảm tình với người dân Việt: có lúc lính Nhật cho trẻ con kẹo, bánh, thuốc lá, có lúc họ vào chơi nhà dân chúng, vái bàn thờ một cách lễ độ, có lúc họ đánh người Pháp bênh người Việt ngoài đường phố…Thái độ ấy người dân Việt thường tỏ ra bằng lòng.
Về sinh hoạt, người Nhật liên tiếp mở hiệu buôn, nhà thầu, tương đối giảm bớt được một số người thất
nghiệp, có người đã trở nên giàu có…Hàng của họ bán rất rẻ, vải có, thuốc có (Thời kỳ này, ngoại phẩmbên Pháp không sang được).
Chữ Nho như trỗi dậy sau 80 năm tưởng chừng đã chết. Việt và Nhật có thể bút thoại, người ta bắt đầu sưu tầm ‘’bước tiến’’ loại sách báo Tân A, ‘’Vương dương Minh’’ thấy xuất hiện. Người dân quen dần với những chiếc xe nhà binh màu đất, với kiểu quần áo cắt lùng thùng, với cây kiếm dài lê thê, với tiếng giầy đinh lệt xệt…Một đôi khi, từ cái mũ (lưỡi trai) thốt ra câu tiếng Việt, người dân nghĩ đến Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, rể của Hoàng Tộc Phù Tang, bàn tán đến Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội.
Nhật thắng Pháp thêm một điểm, dân chúng Việt Nam quay nhìn sức mạnh của con cháu Thái Dương Thần Nữ, tơ tưởng đến lòng tốt của người Nhật Bản.
Chính khách của Thiên Hoàng xúc tiến đẩy mạnh phong trào nào giúp Đảng Đại Việt, Việt Nam Phục Quốc, Cao Đài, Hòa Hảo, v.v…
Đồng thời với những vụ rối loạn, bạo động ở Sài Gòn, Cần Thơ, Rạch Giá, Bạc Liêu, Đồng Tháp Mười (1940), Nghệ An, Đô Lương (1941), Pháp phải dùng đến bom triệt hạ, người Nhật đã biết lợi dụng lòng yêu nước của người Việt để xoa nặn lòng ái quốc của dân tộc Việt Nam , mục đích đẩy Pháp đến đường cùng.
Giữa lúc Pháp và Nhật tranh dành nhau, kèn cựa đối phó nhau, phong trào Việt Minh phát triển: Mối lo âu cho Nhật lẫn Pháp.
Việt Minh là hai chữ tắt của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, do một số các người cách mệnh quốc tế lãnh đạo, thành lập năm 1941. Phương châm: ‘’Bài Phong, Phản Đế, Diệt Phát Xít’’ giải phóng dân tộc Việt Nam, hợp tác với mọi lực lượng chống Phát Xít, tiêu diệt thực dân và đế quốc chủ nghĩa.
Việt Minh tố giác Nhật Bản bề ngoài mơn trớn dân ta, bề trong giết ngấm, giết ngầm. Nào ‘’mua’’ thóc, nào ‘’khuyến khích’’ trồng đay, trồng gai thay cho ngô, lúa. Người Nhật có phương tiện ‘’giản dị’’ hơn người Pháp, thích hợp hơn người Pháp: dân ta, kẻ nào làm ‘’rối trật tự’’ chắc chắn được đi nếm vị ‘’âmdương’’, ‘’tầu bay, tầu thủy’’[1] tượng trưng thuần túy của ‘’Võ sĩ đạo’’ và thường thường, kẻ ‘’có tội’’ được trả nợ non sống dưới đường kiếm sắc.
Tinh thần người dân Việt lại lung lay. Tâm lý người dân Việt lại thay đổi. Một số người lại tiếc rẻ hình dáng cũ. Quân đội Nhật hung ác quá.
Người Nhật đào thêm hố chia rẽ giữa Pháp và Việt. Thái độ bàng quan của Việt do đó ngày càng rõ. Phái thân Nhật phát triển hoạt động. Pháp cố gắng liên lạc với Đồng Minh. Tiềm lực giải phóng quốc gia dân tộc của Việt Nam liên tục chuyển mình.
Đùng một cái Matsumoto gửi tối hậu thư cho Decoux (20 giờ ngày 8.3. 1945), mười tiếng đồng hồ sau, cờ mặt giời phất phới tung bay trên thủ đô nước Việt.
9.3.1945!
Tòa nhà của Pháp nỗ lực xây trong 80 năm đằng đẵng sụp đổ trong khoảng khắc.
Sau khi đảo chính, Tổng tư lệnh quân đội Nhật ở Đông Dương tuyên bố: ‘’Người Nhật trao trả Độc Lập cho Việt Nam để cùng nhau lập khối Đại Đông Á’’[2]
Ngày 11.3.1945, Vua Bảo Đại tuyên bố hủy bỏ tất cả những hiệp ước ký với Pháp từ xưa và chánh phủ Việt Nam tin tưởng ở nhiệt thành, đẹp đẽ của Nhật: Việt Nam Độc Lập.
Báo chí lại bắt đầu xuất bản. Các đảng phái công khai xuất hiện: Phục Quốc, Đại Việt Quốc Gia Liên Minh, Thanh Niên Ái Quốc Đoàn v.v…
Tuy niên dân chúng vẫn thờ ơ, chưa thấy điều gì mới lạ. Để giải quyết vấn đề tâm lý, Nội các của các ông Thượng Thư giải tán.
Sau khi chuẩn y cho Nội Các cũ từ chức, Vua Bảo Đại triệu tập nhân tài ra giúp nước. Tình trạng bi đát lúc giao thời: Nạn đói tung hoành trên đất Bắc, đốt thóc khai than tại miền Nam, toàn thể bộ máy hành chính bị tê liệt, sự đi lại bị kiểm soát ngặt nghèo. Thêm vào đó nạn chợ đen và bom Mỹ. Một đạo Dụ ra đời tạm thỏa lòng dân mong đợi:
Nước Việt Nam Độc Lập đã có một Nội Các mới (17.4.1945) do Cụ Trần Trọng Kim làm Thủ Tướng
với các Bộ:
Ngoại Giao: Trần Văn Chương
Nội Vụ: Trần Đình Nam
Kinh Tế: Hồ Tá Khanh
Tài Chính: Vũ Văn Hiền
Tiếp Tế: Nguyễn Hữu Thi
Giáo Dục Và Mỹ Thuật: Hoàng Xuân Hãn
Tư Pháp: Trịnh Đình Thảo
Thanh Niên: Phan Anh
Giao Thông Công Chính: Lưu Văn Lang
Y Tế Cứu Tế: Trương Như Định
Đó là Nội Các đầu tiên với những tên Bộ nghe tân tiến. Chính phủ Nam triều trước ngày 9.3.1945 gồmcó 6 Bộ do ông Phạm Quỳnh lãnh đạo:
Bộ Lại: Phạm Quỳnh (Nội Vụ)
Bộ Hộ: Hồ Đắc Khải (Tài Chính)
Bộ Lễ: Ưng Ủy (Tư Pháp)
Bộ Học: Trần Thanh Đạt (Giáo Dục)
Bộ Kinh Tế: Trương Như Định
Việc thành lập Nội Các mới đã giải quyết vấn đề tâm lý dân chúng một khoảng khắc. Người dân tỏ cảmtình khi nhận thấy số đông các vị Bộ Trưởng là những người tương đối có tài có đức. Cụ Trần Trọng Kimlà một học giả danh tiếng, tài năng và đức hạnh của Cụ nhiều người đã biết. Lòng ái quốc từng được diễn đạt qua những tác phẩm của Cụ. Nay đứng lãnh đạo chính phủ với khẩu hiệu Dân Vi Quý của Vua Bảo Đại. Quốc dân tỏ vẻ tín nhiệm chính phủ mới cũng như Hoàng Đế tín nhiệm [3]
Ngày 3.5.1945, Hoàng Đế Bảo Đại ban bố một Bản Tuyên Chiếu lời lẽ súc tích, cứng cỏi, quảng đạt và vô cùng sáng suốt:
‘’ Chư Khanh,
Nội Các này là chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam Độc Lập sau 80 năm thuộc quyền ngoại quốc thống trị.
Trong thời gian đó, dưới chính thể eo hẹp của người ngoài, dù có tài năng ra giúp nước cũng thể thi thố được gì.
Nay nhờ được Hoàng Quân Đại Nhật Bản, nước nhà đã được giải phóng.
Những người ra gánh vác việc nước ngày nay là được cái vinh dự tối cao, mà cũng là đảm đương một trách nhiệm rất to và chịu một sự hy sinh rất nặng.
Trẫm đã lựa chọn khắp nhân tài trong nước, kén lấy những người có học thức, có kinh nghiệm để đảm đương việc nước trong buổi bây giờ. Trẫm chắc rằng chư khanh sẽ làm chức vụ không phụ lòng Trẫm ủy thác và lòng dân kỳ vọng.
Điều cần nhất là phải gây sự đồng tâm hiệp lực trong toàn thể quốc dân. Phải đoàn kết chặt chẽ các giai tầng xã hội và luôn luôn giữ mối liên lạc mật thiết giữa Chính phủ và nhân dân. Chính phủ ngày nay không phải phụng sự một cá nhân hay một đảng phái nào cả. Dân nô lệ nhất thiết ỷ lại ở người, dân độc lập nhất thiết trông cậy ở mình. Trông ở mình thì phải gắng sức hy sinh mới mong sinh tồn phát đạt được ở giữa cõi đời cạnh tranh kịch liệt ngày nay.
Dân một nước Độc Lập là dân biết ham tự do mà cũng trọng kỹ luật, giữ trật tự thì sự trị an được dễ dàng mà chính phủ mới lo cải tạo quốc gia được.
Muốn cải tạo quốc gia, chính phủ cần hành động cho có quy củ, nghĩa là phải có Hiến Pháp. Hiến Pháp tương lai của Việt Nam sẽ căn cứ vào hợp nhất quốc gia, sự quân, dân cộng tác và những quyền tự do, chính trị, tôn giáo cùng nghiệp đoàn của nhân dân.
Một Hội Nghị Lập Hiến sẽ căn cứ vào những nguyên tắc kể trên mà khởi thảo một bản Hiến Pháp. Nhưng trong lúc chiến tranh nầy, những vấn đề quốc kế dân sinh rất là phiền phức và khẩn cấp. Chính phủ phải có đủ quyền mà giải quyết những vấn đề đó mau chóng.
Còn về phương diện dân, sẽ có những cơ quan cố vấn đặt trong toàn quốc hay trong các địa phương để bầy tỏ ý kiến với chính phủ và liên lạc chính phủ với nhân dân.
Đồng thời một ủy ban sẽ nghiên cứu những sự cải cách như sự nghi lễ, quốc kỳ và quốc ca v.v… Trẫm biết nó dễ mà khó: Trên con đường độc lập của nước nhà còn biết bao là nỗi khó khăn nhưng Trẫm tin rằng một dân tộc trên 20 triệu người như dân Việt Nam ta, đã có 2000 năm lịch sử, vẻ vang oanh liệt, chẳng kém gì người, sẽ đủ sức vượt qua mọi sự khó khăn, đủ sức gánh một phần trách nhiệm trong việc kiến thiết nền thịnh vượng chung ở Đại Đông Á và đi tới địa vị một dân tộc hùng cường trong thế giới được.’’
Sau khi quốc dân được nghe tuyên chiếu, đến lượt Nội Các rõ ràng nhấn mạnh những việc phải thi hành ngõ hầu xây dựng một nước Việt Nam trường cửu:
Về kinh tế sẽ được định lại thuế khoá cho công bình, duy nhất, nâng cao trình độ sinh hoạt của dân chúng.
Về chính trị, hợp nhất mọi giai tầng xã hội, xây đài kỷ niệm để ghi ơn các vị anh hùng đã hy sinh vì nòi giống, sẽ tìm cách để những chính khách còn phiêu lưu nơi hải ngoại trở về Tổ Quốc, những án tiết về chính trị sẽ xóa bỏ.
Về xã hội, việc tiếp tế lương thực cho nhân dân ngoài Bắc được xúc tiến để diệt nạn đói đang hoành hành.
Về hành chính, diệt trừ nạn tham nhũng
Về tư pháp, trù tính việc thống nhất pháp luật để tránh lạm quyền hành chính và tư pháp…
Dân Việt Nam có vị Vua trẻ tuổi, có chính phủ tận tâm và nhiệt thành. Nhưng buồn thay dưới áp lực của người Nhật vì đại đa số dân chúng Việt Nam còn bỡ ngỡ trước những vấn đề chánh trị cho nên trên thực tế kết quả công việc chẳng được là bao.
Nhưng mặc dầu ở vào tình thế khó bề phát triển khả năng, Hoàng Đế cũng đã hướng dẫn được chính phủ tích cực hoạt động, đã gây được một ý niệm tốt đẹp với quốc dân.
Tuy Nhật Bản tuyên bố trao Độc Lập cho Việt Nam nhưng họ vẫn trực tiếp chỉ huy thực tế nền cai trị: Yoshio Minoda cầm quyền chính thay Thống Đốc Pháp ở Nam Việt. Trung Việt có Khâm Sứ mới Yokoyamkiêm ‘’ngoại giao’’. Bắc Việt, T.Tsukhan lo giữ chức Thống Sứ. Mỗi tỉnh một viên Công Sứ Nhật, mỗi sở một Ở địa hạt kinh tế, Nhật càng phát triển cường quyền:
– Bắt dân ta bỏ cấy lúa, trồng đay, trồng gai cho chúng dùng (Một trong những nguyên nhân gây ra nạn đói).
– Các sở mỏ hoặc bị trưng thu, hoặc bị dưới quyền ‘’cố vấn’’.
– Kỹ sư và giám đốc Pháp, Việt, chịu ăn lương của các Công ty Nhật Bản: nguyên liệu sản xuất bao nhiêu, được chuyên chở bấy nhiêu lên tầu buôn Nhật.
– Xe cộ bị trưng thu cho nhà binh, nhà cửa cũng chung số phận. Gia dĩ đường xe lửa đã bị gián đoạn bởi sự oanh tạc của Đồng Minh, cũng bị quân lính Nhật đặc quyền dùng….
Ở địa hạt quân sự. Nhật tuyển mộ binh lính với danh nghĩa gia đình Đại Đông Á, tăng cường công tác
gián điệp.
Giữa hoàn cảnh ấy, chúng ta hãy kiểm điểm thành tích nội các họ Trần:
– Chính phủ lấy Cờ Vàng Quẻ Ly thay Cờ Long Tỉnh. Đặt quốc ca bài Tiếng Gọi Thanh Niên của Lưu Hữu Phước thay cho bài Đăng Đàn Cung.
– Chương trình giáo dục mới được áp dụng. Tiếng Việt Nam làm căn bản của nền Tiểu Học và Trung Học.
– Những quan lại tham nhũng bị thanh trừ, thay thế bằng những vị liêm khiết…
– Bắc Việt: Khâm Sai Phan Kế Toại tích cực chống nạn đói, lập ban Cứu Tế, cải tổ ngạch quan lại. Ông Đốc Lý Trần Văn Lai phá bỏ tượng đồng trong thành phố, vết tích nền thống trị ngoại bang. – Trung Việt: Ông Tổng Trưởng Phan Anh đôn đốc hai ông Tạ Quang Bửu, Phan Tử Lăng tổ chức Thanh Niên Tiền Tuyến và Thanh Niên Xã Hội (Thanh niên xã hội chưa kịp ra đời thì nội các đã cải tổ)
– Nam Việt: Bác Sĩ Phạm Ngọc Thạch thành lập Thanh Niên Tiền Phong. Bác Sĩ Nguyễn Văn Thinh tổ chức tải gạo cứu tế cho đồng bào Trung, Bắc.
Trong lúc chính phủ đang cố gắng ‘’tranh đấu’’ với quân phiệt Nhật để dành lấy tự chủ thực tế, phong trào cách mạng nổ bùng sau bao năm tiềm tiến…
Trước hoạt động mạnh bạo của các đội võ trang tuyên truyền Việt Minh, trước hành vi, tổ chức khôn khéo của các cán bộ Việt Minh, Nội Các Trần Trọng Kim, nội bộ thì bị gò ép vì quyền lực Nhật Bản, thiếu hậu thuẫn tinh thần trong quảng đại nhân dân, thiếu phương tiện vật chất, đã xin từ chức.
Chính quyền chính thức chuyển qua tay Chính phủ mới, chính thể mới: Ngày 19.8.1945 Thời gian quá ngắn ngủi có 4 tháng giời, hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, điều kiện khách quan thiếu, điều kiện chủ quan thiếu: Những cố gắng của Nội Các Trần Trọng Kim dưới sự lãnh đạo của Đức Bảo Đại là một thành công
2.- CHÍNH PHỦ HỒ CHÍ MINH (Dân Chủ Cộng Hòa)
Trong khi các đảng phái chính trị như Phục Quốc, Đại Việt, Cao Đài, Hòa Hảo…công khai hoạt động dựa vào thế lực Nhật Bản, thì từ năm 1941, một đảng cách mệnh lấy tên là mặt trận Việt Minh thành lập hoạt động ráo riết. Mặt trận Việt Minh thoát thai Đông Dương Cộng Sản đảng, do một số người Mác Xít điều khiển, lực lượng cốt cán là những toán du kích Thổ địa phương. Khẩu hiệu tranh đấu của Mặt Trận: Bài Phong, Phản Đế, đoàn kết các giai tầng xã hội, các lực lượng cách mạng, các dân tộc thiểu số, liên kết với tất cả những Xứ bị áp bức ở Đông Dương và hợp tác với mọi phần tử chống Phát Xít.
Từ năm 1941, Việt Minh tích cực hoạt động.
Trên miền sơn cước, xúc tiến thành lập các chiến khu, gây cơ sở cho những đội du kích, thiết lập căn cứ địa và các kho dự trữ. Bắc Việt được chia thành những chiến khu:
– Khu I là trung tâm, gồm có Châu Tự Do và một phần hai Tỉnh Tuyên Quang, Bắc Kạn. Chiến khu Cao Bắc Lạng gồm 3 Tỉnh biên cương Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn.
– Chiến khu II gồm mấy Tỉnh Sơn Tây, Hòa Bình, Phủ Lý, Hà Đông v.v..
– Chiến khu III và IV thuộc miền duyên hải .
– Sau đó, còn chiến khu V, VI, VII, VIII, IX ở Trung và Nam Việt.
Tại các chiến khu, những đội võ trang tuyên truyền được thành lập, với nhiệm vụ đi sâu vào các làng mạc để tuyên truyền cách mạng, thành lập các ổ du kích địa phương, huấn luyện chiến đấu cho dân quân, diệt trừ những phần tử đã liệt vào hạng ‘’phản động’’.
Ngoài những nhà cách mạng quốc gia lão thành, có kinh nghiệm, còn thì ít ai biết Việt Minh là Cộng Sản trá hình.
Khi lãnh tụ Cộng Sản là Hồ chí Minh bị bắt giam tại Trung Hoa (Liễu Châu), hoạt động Việt Minh còn kém cõi. Nhờ sự can thiệp của một Ủy Viên Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội (Nghiêm Kế Tổ) với
chính phủ Trùng Khánh để xin tự do cho ông Nguyễn Tường Tam cũng bị giữ, tiện thể đã vận động cho cả hai người, nên Hồ chí Minh nhờ đó cũng được giải phóng.
Sau khi Hồ chí Minh thoát lao tù, Hồ chí Minh được các tướng lĩnh Trung Hoa thân cộng giúp đỡ tìmcách cho về nước nên Việt Minh càng ngày càng tiến triển hoạt động[4]
Về quân sự, Việt Minh tượng trưng phong trào Kháng Nhật cho nên được quân đội Đồng Minh giúp sức. Nào tiếp tế vũ khí, thuốc men, lương thực, tiền bạc. Nào giúp đỡ sĩ quan, huấn luyện quân sự, sử dụng vũ khí tối tân…Những khu du kích thi nhau phát triển ở Thượng Du, các thanh niên giác ngộ bỏ gia đình, trường học tìm đường lên chiến khu học tập.
Về kinh tài, Việt Minh tìm cách quyên tiền của dân chúng, chuyên chở khí giới, thuốc phiện lậu, cướp các đoàn xe vận tải, kho thóc lúa, tống tiền các quan lại, phú hào, điền chủ để lập Qũy hoạt động. Về tuyên truyền, những sách báo bí mật như Quân Du Kích, Cờ Giải Phóng (Cộng Sản), Cứu Quốc (tổng bộ Việt Minh), Độc Lập (dân chủ đảng) được in và ngầm phát hành trong dân chúng, huấn luyện cho họ hiểu biết, quen thuộc với chính trị và tranh đấu, báo cáo tình hình trong và ngoài nước ngõ hầu người dân được thông thạo, am hiểu tình thế.
Lần đầu tiên dân chúng được làm quen với những tờ báo khổ nhỏ, in thạch bản, những bài hát cách mạng hùng hồn, quyến rũ, những danh từ chính trị cứng cõi, mạnh bạo, những hoạt động oai hùng của quân giải phóng, của Phụ nữ Hồ Ba Bể.
Tại Thủ Đô Hà Nội, những hành động táo bạo khi ẩn, khi hiện của các đội xung phong tuyên truyền trong các trường học, rạp hát, các nơi công cộng đã làm cho dân chúng tin phục.
Dựa vào thế âm u, dầy đặc của núi rừng, Việt Minh đã tận dụng mọi khả năng để chiến đấu mỗi khi quân đội Nhật định lần mò lên tiêu diệt (Một đèo gần Châu Văn Lang thuộc Thái Nguyên được mang tên là Đèo Kháng Nhật, tại đây, du kích quân đã hạ nhiều xe cam nhông của Nhật).
Mỗi việc xẩy ra, hễ hơi có lợi là Việt Minh tận lực tuyên truyền đập thẳng vào tâm trạng chất phác và giầu tưởng tượng của người dân. Do đó Việt Minh hấp dẫn được đông đảo nhân dân theo họ và ủng hộ phong trào. Đám dân chúng đã biến thành những đợt sóng cồn để Việt Minh tha hồ mà thổi.
Từ khi được lòng thán phục của quảng đại quần chúng, Việt Minh hết sức khai thác năng lực của nhân dân. Nào là thúc đẩy thanh niên nam nữ lên chiến khu, xung vào bộ đội. Nào là yêu cầu ủng hộ thóc lúa, tiền bạc. Nào là yêu cầu nhân dân nuôi nấng, che chở cán bộ hoạt động…Thật chẳng thiếu một hình thức nào.
Tóm lại, Việt Minh đã khôn khéo biết dùng sinh lực của nhân dân, để bồi bổ tổ chức, ngược lại, gây được uy thế với nhân dân trong nước. Do đó, Việt Minh, bán chính thức đã được Đồng Minh công nhận là một phong trào chống Phát Xít Nhật Bản.
Được thế danh chính ngôn thuận, đáng lẽ phải liên kết tất cả các đảng phái hiệp lực cứu quốc, đằng này các lãnh tụ Đỏ lại chủ trương chính sách loại trừ. Các lực lượng, các nhóm, đảng khác mầu sắc chính trị lần lượt nằm trong chương trình thanh toán của Việt Minh.
Trong nước, Việt Minh không bao dung các nhóm khác mầu chính trị, khăng khăng đẩy họ vào thế đối lập. Ngoài nước cậy mình đã có tổ chức, cơ sở hoàn hảo, thẳng tay đối xử với các đảng cách mạng quốc gia còn phiêu bạt và các lãnh tụ không cùng xu hướng.
Chánh sách Dĩ Đảng Trị Quốcchưa chi đã nổi bật không dấu diếm khiến mầm chia rẽ, bất hòa đã khởi điểm sâu sắc.
Ngày mồng 9 tháng 3.1945, Nhật lật đổ chính quyền Pháp, đồng thời trao trả chủ quyền cho Việt Nam. Nhưng quốc dân dần dần nhận rõ những hành động dối trá của Nhật. Mặc dầu đã có chính phủ Trần Trọng Kim, Nhật Bản vẫn chiếm đoạt thực quyền cai trị. Bao nhiêu ‘’Cố Vấn’’ Nhật, bao nhiêu chính khách Nhật len lõi và các cơ quan hành chính và chuyên môn, người ta không thể đếm xuể nữa. Sau khi hai quả bom nguyên tử nổ ở Hiroshima và Nagasak, Nhật đầu hàng Đồng Minh không điều kiện. Để nắm lấy thời cơ, Việt Minh gấp rút chuẩn bị Tổng khởi nghĩa.
Ngày 7.8.1945 một cuộc triệu tập ‘’Quốc Dân Đại Hội’’ tổ chức ở Khu giải phóng để bầu Ủy Ban Giải
Phóng Dân Tộc, lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa trước khi quân Đồng Minh đến tước khí giới quân đội Nhật.
Ủy Ban Giải Phóng Dân Tộc gồm có:
Chủ Tịch: Hồ chí Minh.
– Trần huy Liệu
Phó Chủ Tịch: Các Ủy Viên:
– Võ nguyên Giáp – Phạm văn Đồng – Chu văn Tấn
– Nguyễn Lương Bằng – Vũ đình Hòe
– Dương đức Hiền – Cù huy Cận
– Nguyễn văn Xuyến
Một Ủy Ban Quân Sự được chỉnh bị, tập hợp lực lượng du kích quân và võ trang tuyên truyền thành quân đội giải phóng.
Ngày 10 tháng 8.1945, lệnh Tổng khởi nghĩa bắt đầu.
Vì tình hình biến chuyển quá nhanh, cuộc đại hội chưa đủ mặt các đại biểu, thì lệnh khởi nghĩa đã ban bố, một số đông cán bộ mới đi tới nửa đường đã phải quay trở lại.
Tại Trung Du, Việt Minh tiến chiếm một cách dễ dàng. Ở Thủ Đô Hà Nội, dân chủ đảng, một bộ phận trong mặt trận Việt Minh, gồm đa số là trí thức, sinh viên và tiểu tư sản thành thị, trực tiếp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa.
Chiều hôm 17 tháng 8.1945, Tổng Hội Công Chức triệu tập một cuộc mít tinh ở Nhà Hát Lớn Hà Nội để tranh đấu đòi Độc Lập (Trong Tổng Hội Công Chức lúc đó đã có nhiều phần tử Việt Minh hoạt động). Giữa lúc các diễn giả đang hô hào dân chúng, một lá cờ đỏ sao vàng vĩ đại bỗng nhiên xuất hiện và Quốc Kỳ Quẻ Ly từ từ hạ. Từ các ngả, đội xung phong tuyên truyền Việt Minh tiến tới, đồng thời vang lên những khẩu hiệu ‘’Ủng hộ Việt Minh’’. Các cán bộ Việt Minh đàng hoàng chiếm máy phóng thánh để nói trước dân chúng
Một cán bộ phụ nữ (Cô Tâm Kính, người Trung Việt, dân chủ đảng, sau được bầu đại biểu quốc hội) hăng hái kêu gọi dân chúng tham gia và ủng hộ phong trào.
Cuộc mít tinh biến thành biểu tình tuần hành, riễu qua Bờ Hồ, Hàng Đào, Hàng Ngang, giải tán ở Quan Thánh trước thái độ yên lặng của quân đội Nhật.
Ngày 18 tháng 8.1945, các đội tuyên truyền Việt Minh công khai chia nhau đi các phố, các ngả, dùng loa kêu gọi toàn thể dân chúng nội ngoại thành chuẩn bị cuộc biểu tình tuần hành võ trang sẽ tổ chức tại công trường Nhà Hát Lớn ngày hôm sau.
Hà Nội hồi hộp sống giữa rừng biểu ngữ, truyền đơn, cờ đỏ sao vàng la liệt. Thành phố như lên cơn sốt rét, chỗ nào cũng bàn tán xôn xao, mong đợi ngày mai chóng tới để được biết mặt ‘’Việt Minh’’, những con người ngang tàng đã từng đùa rỡn Hiến Binh Nhật, đã từng ‘’chiến thắng’’ quân đội Nhật.
Ngày 19 tháng 8.1945. Tại công trường Nhà Hát Lớn, hàng mấy chục vạn dân chúng đã rầm rộ từ khắp các ngả đường kéo tới, tập hợp dưới sự hướng dẫn của Ủy Ban Khởi Nghĩa. Người ta nhận thấy những đội xung phong tuyên truyền, võ trang bằng súng lục, dao găm đứng trên thềm cao. Ở dưới, những đội cảnh sát với y phục trắng, những đoàn hướng đạo, học sinh v.v…Trước mặt Nhà Hát Lớn, một hàng rào cờ đỏ nghễu nghện, san sát bao vòng lấy vườn hoa. Những vũ khí thô sơ đủ kiểu, đủ hình..từ dao bầu, kéo sắc, kiếm thờ, bù loong, cầy, cuốc, bồ cào cho đến mã tấu, đinh ba, gậy gộc, súng săn…thôi thì đủ thứ, cái gì có thể ‘’đánh người’’ được, đều bị mang ra để biểu dương ý chí
Sau khi nghe lời hiệu triệu của ủy viên mặt trận, dân chúng bị khích động, rầm rộ kéo đến Dinh KhâmSai theo sự hướng dẫn của các đội xung phong võ trang, yêu cầu ông Phan Kế Toại trao lại chính quyền
cho nhân dân. Không tốn một viên đạn, chính quyền được trao lại cho các ủy viên đại diện. (Thực ra, đã có cuộc điều đình từ đêm hôm trước). Đoàn người nhu nước vỡ bờ, vừa đi vừa hô những khẩu hiệu mạnh mẽ, tràn đến Tòa Đốc Lý. Đến đây, Thị Trưởng Trần Văn Lai thức thời, ra niềm nở đón tiếp.
Khi dân chúng tiến đến Trại Bảo An Bình, quân lính Nhật thoạt tiên còn khăng khăng không chịu giao những kho vũ khí, viện cớ để trao trả Đồng Minh. Dân chúng phẫn nộ bao vây hàng mấy tiếng đồng hồ, sau đó quân lính Nhật đành xử nhũn để cho dân chúng chiếm trại.
Công việc chiếm đoạt chính quyền tại các Tỉnh tiến hành rất dễ dàng. Riêng có Hà Đông, khi dân chúng tiến vào Dinh Tỉnh Trưởng bị Quản Dưỡng hạ lệnh cho binh lính bắn chết và bị thương mất một số, nhưng sau Quản Dưỡng cũng bị bắt. (Khi chính quyền đã hoàn toàn về tay Việt Minh, Quản Dưỡng đã bị xử tử hình)
Tại Nam Việt, lực lượng Việt Minh rất kém cõi, nên hoạt động hầu như không có ai biết đến. Ngày 14 tháng 8.1945, các nhóm chính trị gồm các Đảng Độc Lập, Thanh Niên Tiền Phong, Cao Đài, Hòa Hảo, Phục Quốc, Đệ Tứ cùng các đoàn thể trí thức, công chức tập hợp thành một Mặt Trận Liên Hiệp Quốc Gia, mục đích để giao thiệp và trực tiếp nhận khí giới của Nhật trước khi Đồng Minh tới. Đại biểu của Mặt Trận Liên Hiệp Quốc Gia là Trần Văn An, Hồ Văn Ngà và Nguyễn Văn Sâm, Khâm Sai Nam Việt. Các cán bộ Việt Minh lãnh đạo Nam Việt nhận thấy nếu để khí giới lọt vào tay các đảng phái khác, Việt Minh sẽ thất thế.
Do đó, trong một cuộc hội họp, các lãnh tụ Đỏ đã khôn khéo thuyết phục các nhóm khác với lý luận: Nếu những đảng phái thân Nhật đứng ra tiếp thu khí giới, Đồng Minh sẽ viện cớ là đã hợp tác với Nhật từ trước, chủ quyền vì thế khó lòng đạt được, tốt hơn hết Đồng Minh đã biết mặt trận Việt Minh là phong trào duy nhất kháng Nhật, nên để Việt Minh tiếp nhận những vũ khí đó. Các đảng phái đồng ý, cho rằng Việt Minh đại diện là hợp lý.
Được thể, Việt Minh ra luôn công khai tuyên truyền sự hoạt động và hiện diện của Việt Minh trên toàn lãnh thổ, sự thành công Chống Pháp, Kháng Nhật của Việt Minh từ mấy năm nay… Cờ đỏ sao vàng mọc lên như nấm. Đối ngoại, Việt Minh tiếp nhận quyền hành và võ khí của Nhật Bản. Đối nội, Việt Minh thành lập cấp tốc các ủy ban nhân dân địa phương, các sư đoàn dân quân, tăng cường lực lượng Thanh Niên Tiền Phong (lực lượng cốt cán, do Bác Sĩ Phạm ngọc Thạch, lãnh tụ Đỏ lãnh đạo), lấn át dần các đảng phái khác.
Tóm lại, Việt Minh đã hoàn thành ‘’sự nghiệp vĩ đại ‘’của họ mặc dầu thực lực của họ chẳng có gì, chỉ có một thiểu số khôn khéo lãnh đạo. Thời gian và tâm trạng dân chúng đã trực tiếp giúp cho Việt Minh thành công đưa nước Việt Nam tiến đến một bước ngoặt lịch sử.
Thâu đoạt được chính quyền trong tay, Việt Minh thành lập tức khắc các ủy ban để thay thế cho chế độ cai trị cũ tại các thành phố, các tỉnh, phủ, huyện, làng. Tất cả mọi hoạt động đều đặt dưới quyền điều khiển của Tổng Bộ Việt Minh gồm các lãnh tụ Cộng Sản:
Nguyễn lương Bằng, bí danh Anh Cả, Sao Đỏ,
Trần huy Liệu,
Võ nguyên Giáp, bí danh là Dương hoài Nam, đồng chí Văn,
Lý Ban bí danh Hoài Bắc,
Trần đăng Ninh, bí danh To đầu,
Đặng xuân Khu, bí danh Trường Chinh,
Phạm văn Đồng, bí danh Lâm bá Kiệt,
Chu văn Tấn,
Trần tử Bình,
Lê văn Hiến,
Lê Giản,
Trần văn Giầu v.v…
Trước khi Việt Minh chiếm Bắc Việt, từ ngày quân đội Nhật đầu hàng Đồng Minh, Vua Bảo Đại cũng đã nhìn rõ những sự khó khăn sẽ xẩy đến giữa Việt và Pháp cho nên Người đã ra lệnh tổ chức một Hội Đồng Cứu Quốc (18.18.1945) dự định tập hợp tất cả các đảng phái chính trị chuẩn bị một cuộc chiến đấu lâu bền nếu người Pháp còn ngoan cố không chịu nhìn nhận nền tự chủ của Việt Nam.
Để thực hiện ý định đó, Người đã vạch rõ chí quật cường của dân tộc Việt Nam trên 2000 năm lịch sử trong những Thông Điệp gửi cho các cường quốc. Người nhấn mạnh Việt Nam ngày nay đã đủ sức tự chủ và không muốn chịu đựng một cuộc đô hộ nào nữa. Nếu người Pháp cố ý thiết lập lại nền thống trị, họ sẽ thấy ở Việt Nam, mỗi làng là một ổ kháng chiến, mỗi người Việt Nam bạn cũ của Pháp là một kẻ thù mới, những công chức và kiều dân Pháp sẽ phải tự bỏ Việt Nam mà rút đi…Người nhấn mạnh sự cương quyết của dân tộc Việt Nam hiện tại.
Trong khi ấy, tại Thủ Đô Hà Nội đã tràn ngập bóng cờ đỏ sao vàng và một yêu cầu lịch sử của ủy ban giải phóng điện vào Huế yêu cầu Đức Vua thoái vị.
Tại Hoàng Cung, các cận thần của Vua đều vắng mặt. Người ta đã được nghe nhiều đến sự hoạt động của Việt Minh và đã quá sợ sệt cao trào cách mạng. Những tin tức về Việt Minh có lực lượng hùng hậu được Đồng Minh công nhận và giúp đỡ v.v…đã làm sôi nổi Đế Đô. Những tin tức ấy càng ngày càng nhiều, càng ngày càng được phóng đại.
Tiếp đến khi Hoàng Cung nhận được điện của ủy ban giải phóng thì bên cạnh Hoàng Đế trơ trọi đến phút cuối cùng chỉ còn có ông Nguyễn Duy Quang, một người chủ trì thuyết chống Việt Minh. Ngoài ra còn có một vị cận thần hồi đó hết sức khuyên Hoàng Đế đánh Việt Minh. …nhưng Hoàng Đế trả lời không nỡ gây cuộc huynh đệ tương tàn nên mới vui lòng thoái vị.
Ngày 24.8.1945, Hoàng Đế chuẩn y lời yêu cầu của ủy ban cách mạng để vui lòng làm công dân một nước độc lập.
Về mặt tinh thần, cử chỉ ấy thật là một việc phi thường, một hy sinh cực độ. Người quả xứng đáng là công dân số một của nước Việt Nam.
Về phương diện tâm lý, dân Việt Nam phải nhận thấy một niềm bùi ngùi, thương xót nơi Hoàng Đế. Không phải là Hoàng Đế quý ngai vàng bệ ngọc hơn nền Độc Lập của Tổ Quốc Giang Sơn, nhưng chính vì một lẽ rất thành thực là: Hành động của Hoàng Đế thoát thai ở những tin tức sai lầm, xảo trá, phóng đại, phiến diện, những tin tức có tổ chức, có hướng dẫn. Hành động của Hoàng Đế là kết quả của những ý kiến thiên lệch của đám cận thần ‘’Thân Cộng’’. Hành động ấy không hoàn toàn ‘’chủ động’’ và ‘’chín mùi’’ của một vị Hoàng Đề ‘’cô thế’’ giữa đám cận thần ‘’Khi vui thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai…’’
Sự bùi ngùi và lo âu trong thâm tâm của Hoàng Đế có nghĩa là Người nghĩ đến những hậu quả có thể có sau quyết định của Người.
Nói đến thoái vị, phải nói đến phù hợp và ích lợi cho quốc dân, cho Tổ Quốc, nếu không, sẽ là một tội đối với Giang Sơn, đối với Liệt Thánh. Nếu sự thoái vị là kết quả của thủ đoạn chính trị do một nhómngười chủ trương lợi dụng lòng hy sinh cao quý của Người thì tránh sao Hoàng Đế chẳng lo âu.
Nhưng dù sao, lịch sử sẽ không phê phán hành động thoái vị của Hoàng Đế. Lịch sử sẽ riêng chỉ trích thái độ ‘’vỗ tay vào’’ của một số cận thần trong triều đã tắc trách, đã rũ áo trốn trách niếm, phó mặc Hoàng Đế đối phó với biến chuyển của thời cuộc.
Ngày 25 tháng 8 năm 1945, không khí bàng bạc buồn tênh muôn thuở của Đế Đô đã chứng kiến cuộc ‘’bể dâu’’ tại Ngọ Môn Đài. Vị Hoàng Đế cuối cùng của triều Nguyễn cũng như của dân tộc Việt Namnghiêm trang trao Bửu Kiếm và Ngọc Tỷ, biểu hiệu Ngai Vàng cho đại diện cách mạng (Nguyễn lương Bằng) đại diện tổng bộ (Trần huy Liệu, phó chủ tịch ủy ban giải phóng lâm thời và Cù huy Cận, ủy viên). Đồng thời Người tiếp nhận dấu hiệu ‘’Người Công dân thứ nhất của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa’’.
Lá cờ đỏ rực, mầu máu lửa, thấp thoáng ánh sao từ từ được kéo lên Ngọ Môn Đài thay cho lá Cờ Vàng nho nhã Quẻ Ly…
Trước hoan hỷ chất phác của quốc dân, Vua Bảo Đại ban bố một tờ chiếu.
Chiếu rằng:
‘’Hạnh phúc của dân Việt Nam
Độc Lập của nước Việt Nam.
Muốn đạt mục đích ấy, Trẫm đã tuyên bố sẵn sàng hy sinh hết thảy, và muốn rằng sự hy sinh của Trẫm phải lợi ích cho Tổ Quốc.
Xét tới sự đoàn kết toàn thể quốc dân trong lúc này là điều tối cần thiết, Trẫm đã tuyên bố ngày 22 tháng 8 vừa rồi trong giờ nghiêm trọng của Lịch Sử Quốc Gia: Đoàn Kết là sống, Chia Rẽ là chết. Nay thấy nhiệt vọng dân chủ của quốc dân Bắc Bộ lên cao, nếu Trẫm cứ yên vị đợi một Quốc Hội thì e rằng khó tránh được sự Nam Bắc tương tàn, đã thống khổ cho quốc dân lại thuận lợi cho người ngoài lợi dụng.
Mặc dầu Trẫm đau đớn nghĩ đến công lao Liệt Thánh đã vào sinh ra tử đã gần 400 năm để mở mang non sông đất nước từ Thuận Hóa tới Hà Tiên. Mặc dầu Trẫm buồn rầu nghĩ tới 20 năm qua Trẫm ở trong cái cảnh không thể thi hành được việc gì đáng kể cho nước nhà như lòng Trẫm muốn, Trẫm cũng quả quyết thoái vị nhường quyền điều khiển quốc dân cho chính phủ Dân Chủ Cộng Hòa.
Sau khi thoái vị, Trẫm chỉ mong ước có 3 điều:
Đối với Tôn Miếu và Lăng Tẩm của Liệt Thánh, chính phủ mới nên giữ gìn cho có trọng thể. Đối với các đảng phái đã từng tranh đấu cho nền Độc Lập Quốc Gia nhưng không đi sát phong trào dân chúng, Trẫm mong chính phủ mới ôn hòa mật thiết đối xử để những phần tử ấy cũng có thể góp sức kiến thiết quốc gia và để tỏ ra rằng chính thể mới xây đắp trên sự đoàn kết của toàn thể quốc dân.
Trẫm mong tất cả các đảng phái, các giai tầng xã hội, các người trong Hoàng Tộc nên hợp nhất ủng hộ triệt để chính phủ dân chủ để giữ vững nền Độc Lập nước nhà.
Riêng Trẫm trong 20 năm Ngai Vàng Bệ Ngọc, đã biết bao lần ngậm đắng nuốt cay. Từ nay Trẫm lấy làm vui được làm dân một nước Độc Lập, quyết không để ai lợi dụng danh nghĩa của Trẫm hay danh nghĩa của Hoàng Gia mà lung lạc quốc dân nữa.
Việt Nam Độc Lập muôn năm!
Dân Chủ Cộng Hòa muôn năm!
Khâm thử: BẢO ĐẠI.
Bản tuyên chiếu của Hoàng Đế Việt Nam biểu dương một tinh thần siêu việt, đậm đà lòng yêu mến quốc dân, lòng nhiệt thành với non sông, lòng quảng đại hiếm có.
Sau lễ Thoái vị cử hành ở Đế Đô, ngày 2 tháng 9 tại Hà Nội, Hồ chí Minh đọc trước quốc dân bản tuyên ngôn độc lập và tuyên bố nước Việt Nam hoàn toàn tự chủ.
Hồ chí Minh giới thiệu chính phủ lâm thời của chính thể mới:
Chủ Tịch kiêm Ngoại Giao: Hồ chí Minh.
Nội Vụ: Võ nguyên Giáp
Tuyên Truyền: Trần huy Liệu
Quốc Phòng: Chu văn Tấn
Tài Chính: Phạm văn Đồng
Kinh Tế: Nguyễn mạnh Hà
Lao Động: Lê văn Hiến
Thanh Niên: Dương đức Hiền
Giáo Dục: Vũ đình Hòe
Tư Pháp: Vũ trọng Khánh
Giao Thông, Công Chánh: Đào trọng Kim
Y Tế Vệ Sinh: Phạm ngọc Thạch
Xã Hội: Nguyễn văn Tố
Bộ Trưởng không bộ nào:– Cù huy Cận,
– Nguyễn văn Xuân
Chính phủ lâm thời nhấn mạnh trước thế giới những lời mà Cựu Hoàng đã tuyên bố ngày 11.3.1945: Chính phủ lâm thời thay mặt toàn thể dân tộc tuyên bố từ nay Việt Nam không còn ràng buộc phụ thuộc gì với đế quốc Pháp, hủy bỏ mọi Hiệp Ước đã ký giữa Pháp và Việt Nam, thủ tiêu mọi độc quyền của Pháp trên toàn lãnh thổ. Toàn thể dân Việt Nam nhất quyết tập hợp mọi khả năng tinh thần và vật chất, hy sinh tính mạng, tài sản để giữ gìn tự do và độc lập…
Chính phủ lâm thời ra mắt dân chúng được ai nấy đều hoan hô, tỏ tinh thần ủng hộ. Nhìn qua danh sách, những người hằng tâm nghĩ đến quốc gia đều nhận thấy đa số lãnh tụ Cộng Sản nắmgiữ những Bộ trọng yếu. Chính phủ đã ĐỎ, lại chịu quyền chi phối trực tiếp của Tổng Bộ Việt Minh, ‘’ĐỎ hơn một chút’’. Tổng Bộ lại là con đẻ của trung ương đảng Cộng Sản Đông Dương, như thế, ta thấy chính phủ lâm thời ấy quả chỉ là một kiểu ‘’bù nhìn’’.
Bắt tay vào việc, quốc dân ai cũng phải công nhận chính phủ lâm thời phải đối phó ngay với tình thế bi đát, vẫn do nạn đói, nạn lụt, nạn máy bay vừa qua…nhưng thực ra, chính phủ đã đặt công tác tuyên truyền lên hàng đầu và thứ đến là công tác diệt trừ các đảng phái chính trị khác như Đại Việt, Thanh Niên Ái Quốc v.v…
Các ủy ban hành chính thành phố, tỉnh, phủ, huyện, Làng được thành lập. Nơi nào cũng xúc tiến việc tập họp các giai tầng xã hội, các đoàn thể mọc lên như nấm: Thanh niên, phụ nữ, phụ lão cứu quốc, nhi đồng cứu vong, tự vệ phố, tự vệ thành, tự vệ chiến đấu v.v…
Tuy vậy, toàn dân chúng, lần đầu tiên tham gia hoạt động chính trị, cũng thấy vui và ham thích. Sự hamthích nhiều khi quá trớn đã gây nên nhiều chuyện đáng chê trách. Có nơi, con cái sau khi hội họp về, gọi luôn Cha, Mẹ bằng ‘’đồng chí’’, đáng lẽ dò la địch, lại về nhà dò la ngay trong họ để báo cáo lên cấp trên, nhiều thanh niên và phụ nữ cứu quốc ‘’hỗn loạn’’ khiến các bậc huynh trưởng phải bực mình.
Đám con trẻ của thời đại vừa chớm phải nọc ‘’duy vật’’ đã hăng hái bỏ hết thuần phong mỹ tục của cha, ông, tự coi mình là thần thánh.
Những chuyện đau lòng: Bỏ tù bố, giết anh, bỏ vợ, bỏ chồng ‘’không cùng lý tưởng’’ để lấy ‘’đồng chí’’ đã xảy ra không sao đếm xiết.
Trong mấy tháng đầu, ngoài việc tổ chứ hạ tầng cơ sở hành chính, chính trị, phân chia các Khu, các Phố, mở các trường quân chính, đào tạo cán bộ quân sự, chính trị, gây phong trào ‘’Khỏe vì nước’’, ‘’Đời Sống Mới’’…, chính phủ lâm thời tích cực tuyên truyền và sửa soạn bầu cử quốc hội vào tháng Giêng năm1946.
Danh từ ‘’phổ thông đầu phiếu’’ là một mới lạ đối với người dân còn bỡ ngỡ.
Ngày 6 tháng 1.1946, lệnh Tổng tuyển cử được thi hành.
Các lãnh tụ Việt Minh và một số ‘’dân chúng’’ chia nhau ứng cử tại các tỉnh trong toàn quốc. Thường thường danh sách đã được để sẵn gần như chỉ định để dân chúng, trong tâm trạng hào hứng nhất thời cứ việc biên lia lịa.
Từ 9.9.1945, quân đội Tưởng Giới Thạch do Tướng Lư Hán đặt chân lên Bắc Việt để tước khí giới quân đội Nhật. Cùng đi về có những nhà cách mạng quốc gia như Cụ Nguyễn Hải Thần, các ông Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh, v.v…Trên đường hành quân của quân đội Trung Hoa, lực lượng cách mạng quốc gia, nhờ sự giúp đỡ, đã thiết lập luôn được căn cứ địa suốt dọc Lao Kay và Vĩnh Yên.
Đến Hà Nội, phong trào quốc gia mạnh bạo lên tiếng phản tuyên truyền Việt Minh, tố giác hành động Cộng Sản của Việt Minh, thành lập các trụ sở, xuất bản báo chí…Một mối nguy hại lớn cho phe Việt Minh .
Trước tình thế cấp bách có thể bị lộ chân tướng với quốc dân và thế giới, trung ương Cộng Sản đảng Đông Dương tuyên bố tự giải tán. Nhưng họ đã khôn khéo biến hình thành Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mác Xít để che mắt mọi người. Thủ đoạn chính trị ấy vẫn không thể hoàn toàn lừa bịp nổi những chính khách đối lập khiến cho cuộc đấu tranh thật sự giữ những cán bộ hạ tầng tiếp diễn đẫm máu luôn luôn, trong các hang cùng ngõ hẻm, trên hè phố. Các đảng phái đòi thành lập một chính phủ Liên Hiệp.
Dưới sự tranh đấu gắt gao của các lực lượng Quốc Gia, Việt Minh gấp rút tổ chức tổng tuyển cử. Tại Hà Nội, Hồ chí Minh được đắc cử với 98 phần trăm phiếu bầu. Võ nguyên Giáp trúng cử ở Nghệ An với 97 phần trăm phiếu bầu. Phạm văn Đồng, Lê văn Hiến trúng cử tại Trung Bộ. Ngoài ra còn có Cựu Hoàng trúng cử tại Thanh Hóa, và ở các nơi khác, những đảng viên dân chủ đảng: Vũ đình Hòe, Dương đức Hiền, Đỗ đức Dục…
Được đắc cử thực ra không ngoài các lãnh tụ Việt Minh và những người thân Việt Minh. Những người bị nghi ngờ ‘’đối lập’’ không hy vọng gì được tham gia quốc hội.
Nhưng bị áp lực của các lãnh tụ Quốc Gia, Việt Minh ép lòng thêm 70 ghế nghị sĩ cho phe ‘’đối lập’’ của họ. 70 ghế này dành cho Việt Nam Quốc Dân Đảng (50) và Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội (20).
Sau khi chính phủ lâm thời giải tán, Hồ chí Minh tuyên bố quyền tổ chức chính phủ mới do quốc hội định đoạt.
Quốc hội được triệu tập dưới quyền chủ tọa của Cụ Nguyễn Văn Tố quyết định những việc quan trọng: Quốc kỳ, Quốc ca, Hiến pháp và thành lập chính phủ Liên Hiệp.
Quốc hội biểu quyết lấy cờ đỏ sao vàng làm quốc kỳ. Bài Tiến Quân Ca làm quốc ca thay bài Tiếng Gọi Thanh Niên. Nhưng thực ra, cờ đỏ sao vàng, mầu cách mạng quốc tế, là cờ Đông Dưong Cộng Sản đảng đã được quyết định từ trước, cho nên Việt Minh vấp phải sự bất đồng ý của những người Quốc Gia.
Tiểu ban dự thảo Hiến Pháp được quốc hội giao cho nghị sĩ trẻ tuổi Nguyễn đình Thi phụ trách. Chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia được thành lập gồm có thành phần của các đảng phái: Hồ chí Minh: Chủ tịch
Nguyễn Hải Thần: Phó Chủ tịch
Huỳnh Thúc Kháng: Nội vụ
Nguyễn Tường Tam: Ngoại giao
Phan Anh: Quốc phòng
Vũ đình Hòe: Tư pháp
Trần đăng Khoa: Công chánh
Nguyễn Văn Tạo: Lao động
Lê văn Hiến: Tài chánh
Chu bá Phượng: Kinh tế
Nguyễn tấn gi Trọng: Tuyên truyền (Tổng giám đốc)
Trương Đình Tri: Y tế
Huỳnh thiện Lộc : Canh nông
Nghiêm Kế Tổ: Ngoại giao (Thứ trưởng)
Cù huy Cận: Canh nông (Thứ trưởng)
Quân Sự Ủy Viên Hội:
Chủ Tịch: Võ nguyên Giáp
Phó Chủ Tịch: Vũ Hồng Khanh
Cựu Hoàng giữ chức Cố Vấn Tối Cao của chính phủ.
oOo
CỐ GẮNG LỰC CỦA CHÍNH PHỦ HỒ CHÍ MINH
ĐỐI NỘI
Sau việc thoái vị của Hoàng Đế Bảo Đại, chính quyền đã hoàn toàn về tay chính phủ Dân Chủ Cộng Hòa. Gia tài của chính phủ mới là một Việt Nam đầy chết chóc đau thương, nạn đói khủng khiếp vừa qua lại chập chờn xuất hiện, mùa màng nói chung hết sức xấu, tính đến vụ gặt tới, thiếu đến 50 phần trăm vì nạn lụt, sau lụt lại hạn hán, tiền nong không bảo đảm, quỹ hầu như rỗng, nhiều nhà cửa bị bom tàn phá, cầu cống chưa sửa chữa, đường giao thông vẫn hoàn toàn đứt quãng…Thêm vào đó, biết bao việc ngoại lai, rối ren với Pháp ở Nam Việt, cư xử với quân đội Trung Hoa, nạn quan kim…
Trước cảnh tượng như vậy, sự cố gắng của chính phủ phải vượt mức:
Về cai trị các ủy ban nhân dân được thành lập (5.9.45) thay thế những Hội Đồng Kỳ Mục, bãi bỏ chế độ quan lại.
Ngày 12.9.45, bộ trưởng bộ nội vụ Võ nguyên Giáp ký nghị định thủ tiêu chế độ quan lại và quyền quản lý tài phán, tất cả các công chức, quan lại đang tại chức phải ngừng ngay công việc để những con người mới làm việc với chính thể mới. Những nguyên tắc mới được nêu lên:
– Nam nữ được bình đẳng, bình quyền trong hoạt động chính trị trước pháp luật.
– Đối với Thái, Nùng, Thổ, Mán, Mường…những người dân tộc sinh hoạt trên lãnh thổ Việt Nam đều được coi ngang hàng với dân tộc Việt.
– Các nghiệp đoàn, đoàn thể được thành lập. Những lớp xung phong tuyên truyền để đào tạo cán bộ tuyên truyền cho dân làm quen với chính thể mới.
– Về xã hội, luật làm việc 8 giờ được áp dụng.
Để đối phó với nạn đói có thể xẩy ra lần thứ hai, chính phủ đề ra nhiều biện pháp. Thành lập một ủy ban trung ương khuyến khích tăng gia sản xuất ‘’không một tấc đất bỏ hoang’’. Thành lập ủy ban ngũ cốc để tiếp tế. Ngoài những ủy ban đó, những cơ quan chính quyền quân sự, các đoàn thể…mỗi tuần nhịn ăn một bữa để dư khẩu phần gạo cho dân nghèo. Từ bỏ chế độ ăn uống đình đám ở thôn quê trong các ngày hội hè.
Tất cả các biện pháp để chống giặc đói được nghiên cứu và cố gắng áp dụng.
Về kinh tài, chính phủ phải lo hai vấn đề:
– Giải quyết cho bần dân.
– Lấp lỗ hổng quỹ chính phủ.
Chính sách thuế má cũ đã xóa bỏ. Thuế thân, tượng trưng sự ‘’nô lệ’’ phải bỏ hẳn. Ngày 14.9.45. Nghị định bỏ thuế công, thương nghiệp. Hợp tác xã bắt đầu xây dựng. Những nông dân, ai có dưới năm mẫu ruộng đều được miễn thuế điền thổ.
Quỹ quốc gia, trước đã chẳng còn gì, nay lại xóa bỏ mọi thứ thuế, nên chính phủ phải kêu gọi dân chúng đóng thuế mới: Đảm phụ quốc phòng. Công chức và bộ đội lĩnh dư khẩu gạo (Bộ đội mỗi tháng được 20 cân gạo và 5 đồng để tiêu vặt). Những tổ chức quyên tiền cho ngân sách được nghiên cứu và cấp tốc thi hành: Việc bán ‘’ảnh cụ Hồ’’ và tuần lễ vàng thu được hàng triệu.
Do các biện pháp kể trên, một quỹ độc lập được thành hình. Thêm vào đó, tài sản tịch thu của những người mang tiếng là ‘’Việt Gian-Phản Động’’. Các địa phương phả tự giải quyết việc chi tiêu. Quỹ độc lập tương đối cũng giải quyết nhỏ nhẹ được sự chi tiêu cần thiết trong chính phủ.
Cuộc Tổng khởi nghĩa thành công ngày 19 tháng 8 năm 1945 nói chúng không phải áp dụng phương tiện quân sự, nhưng nay lại đứng trước tình thế rất có thể phải đổ máu. Quân Pháp muốn quay trở lại nước Việt Nam, hoạt động của Đô Đốc d’Argenlieu ở Trung Hoa của Tướng Blaizet ở Ấn Độ, tình hình rối ren ở Nam Bộ, là những sự thực đã và đang xẩy ra.
Song song với vấn đề xã hội bắt buộc phải giải quyết cấp tốc, chính phủ Hồ chí Minh đã phải triệt để chú trọng đến mặt quân sự, tăng cường quốc phòng ở mọi mặt, dưới mọi hình thức. Các đội tự vệ, dân quân, du kích thi nhau xuất hiện. Thanh niên nam nữ, kể cả các dân tộc tiểu số, từ 16
tuổi trở lên là đã được luyện tập sử dụng vũ khí thô sơ (súng trường, súng lục) Thậm chí đến những đào thể nhi đồng cũng được khuyến khích tập tành quân sự.
Các trường quân chính được mở liên tục (quân chính ở Việt Nam Học Xá, Đấu Xảo, Bãi Đua Ngựa Hà Nội, trường võ bị Trần Quốc Tuấn ở Sơn Tây, trường Phan Đình Phùng ở Huế…) Những cán bộ quân sự, chính trị đã từng hoạt động đều được qua các lớp bổ túc mới.
Những xưởng làm vũ khí trung ương và địa phương ra sức tăng gia năng xuất và hiệu xuất. Để đủ tiến mau và sản xuất vũ khí, thành lập các đơn vị bộ đội chính quy, chính phủ đã thu thập vàng (tuần lễ vàng), quyên đồng (tuần lể đồng) trong toàn thể nhân dân. Dân ta đã được mục kích những cụ già kệ nệ khuân cả những đỉnh đồng, hạc thờ, lọ đồng cổ, mâm, nồi để ủng hộ chính phủ, thật là vô cùng cảmđộng và kích thích xứng đáng vai con cháu các bô lão trong Hội Nghị Diên Hồng trên 700 năm về trước. Miền Thượng Du Bắc Việt được đặc biệt chú trọng gây cơ sở của trung tâm kháng chiến toàn quốc. Trên bản đồ quân sự, lãnh thổ Việt Nam phân ra thành những chiến khu vĩ đại, mục đích chuẩn bị một cuốc kháng chiến trường kỳ.
Trong khi mải miết về ‘’kế hoạch no dân’’ và ‘’chống xâm lăng’’, chính phủ tận tâm để ý đến công cuộc chống nạn mù chữ.
Một sắc lệnh cưỡng bách học tập, từ 8 tuổi trở lên trai hay gái đều phải biết đọc, biết viết trong thời hạn một năm.
Ba cơ quan được thiếp lập tức khắc để đôn đốc và kiểm soát việc học tập:
– Một ủy ban nghiên cứu phương pháp học tập cho thích hợp với hoàn cảnh điều kiện từng địa phương, từng hạng tuổi.
– Một ủy ban tuyên truyền cốt gây không khí phấn khởi cho việc học tập.
– Một ủy ban đào tạo cán bộ đi huấn luyện và chuyên việc làm sách vở sao cho vừa dễ học vừa rẻ tiền. Trung Học và Đại Học được khuyến khích và giải quyết học bổng cho một số học sinh sinh viên. Ngoài ra chi hội văn hóa cứu quốc ra đời để thu thập và nghiên cứu tài liệu ngõ hầu hướng dẫn, phát triển Văn, Nhạc, Kịch Việt Nam theo con đường mới.
Qua những cố gắng của Việt Minh chúng ta nhận thấy ngoài những ưu điểm, có những khuyết điểm sau đây:
Những cán bộ, hạ cấp lãnh đạo hành chính địa phương, đại đa số, hoặc là các thanh niên mới nhóm, hung hăng, không kinh nghiệm, không kể gì đến lễ độ, hoặc những người thô lỗ, ít học, không chuyên môn, đầy tư tưởng bảo thủ, vị kỷ. Các cán bộ địa phương là tay sai trung kiên nhất, dữ dội nhất…Dân chúng được mục kích luôn luôn cái cảnh bắt bớ, giam hãm đem đi ‘’Khu’’. Hễ ai trốn ‘’trách nhiệm’’ hội họp, ủng hộ…sẽ được gán ngay tiếng Việt Gian-Phản Động. Hai danh từ ấy là Lưỡi Hái của Thần Chết, chẳng nể nang ai, dù cha mẹ họ hàng thân thích, dù những người chuyên làm điều thiện, có đạo đức. Hơn thế nữa, cả những người yêu nước chân chính nhưng không cùng lý tưởng quốc tế và nguy hiểm nhất là những người chót có xu hướng thân mến, quyến luyến Nguyễn Triều. Óc sùng ‘’vương’’, cần phải ‘’thủ tiêu’’!! Những người đó đều bị bí mật theo dõi, điều tra, lên án và có khi bị chết oan. Thành thực mà xét ủy ban nhân dân cấp Huyện hoặc Xã có tính cách ‘’đồ tể’’ hơn là một chuyên nghiệp chính trị hành chánh.
Ai bảo cách mạng ‘’thành công’’ không đẫm máu ?
Suốt một giải đất chữ S những cảnh ‘’biến mạng’’ trong gia đình tiếp diễn kinh khủng khiến co ai không ưa chế độ mới cũng phải cố ưa, ai không thích chế độ mới, cũng phải cố thích, bởi vì, có làm ra bộ ‘’ưa’’, ‘’thích’’, ‘’nhiệt thành’’ thì các ông cán bộ mới để cho yên lành mà làm ăn đóng góp.
Mục đích bình quyền, bình đẳng giữa nam và nữ, giữa dân Thiểu Số và người Kinh, chưa mang lại điều lợi ích gì cho những kẻ được hưởng quyền, trái lại, những người được ‘’hưởng’’ nguyên tắc ấy, phải đóng góp triệt để, người ta thấy xuất hiện những đội nữ binh, bỏ gia đình con cái đi họp, đi hát, đi ‘’gác đêm’’, người ta thấy xuất hiện binh lính ‘’Việt Nam Mới’’ Thổ, Mán, Mèo, lìa bỏ nhà sàn rừng núi, ruộng nương để theo các ‘’đồng chí’’.
Nghiệp đoàn, đoàn thể, thi nhau thành lập, quyền lợi chưa thấy, thấy ngay ở đấy bóc lột được để tổ
chức, kiểm soát tư tưởng có nghệ thuật, ai thiếu đóng góp nguyệt liễm, ai vắng mặt ở những cuộc ‘’khai hội’’, ai ít phát biểu ý kiến là nhất định chịu đựng nhiễu phiền, có khi nguy hại. Vì đó là những phần tử ‘’lừng chừng’’!!
Luật làm việc 8 giờ một ngày nêu ra tưởng chừng sẽ áp dụng để bảo vệ quyền lợi cho giới công nhân, nào ngờ, song song với sắc lệnh này, Việt Minh thi hành khẩu hiệu ‘’Tăng năng xuất cứu quốc’’ nghĩa là ngoài 8 giờ làm việc hết sức, công nhân còn phải nai lưng làm thêm vài tiếng đồng hồ ‘’ủng hộ’’. Hơn nữa, ngày chủ nhật còn là ngày ‘’xung phong’’ làm việc thêm của anh em thợ thuyền để xứng đáng là giai cấp gương mẫu.
Những lớp xung phong tuyên truyền liên tiếp huấn luyện đào tạo thanh niên nam nữ, nhồi sọ dân chúng chất phác bỏ Đình, bỏ Chùa, bỏ lễ nghi thờ phụng tổ tiên, dè bỉu đạo giáo, chỉ xuy tôn có một chủ nghĩa Cộng Sản, lý tưởng Mã Khắc Tư…
Tư tưởng duy vật tuy chập chững nhưng mạnh mẽ như nước vỡ bờ, cha, anh, chú, bác ngang nhau cả. Sự hỗn loạn thê thảm ấy là do hành động của đám cán bộ hạ tầng, vô chính trị, kém cõi, cứng nhắc, chỉ biết nạt nộ dân chúng, cúi đầu trước thượng cấp, thi hành mệnh lệnh máy móc, cực đoan.
Về thuế má, bỏ thuế nọ lại đóng thuế kia, danh từ có khác, nhưng nột dung chẳng khác. Đồng tiền vẫn từ túi dân bỏ ra ‘’hợp pháp’’.
Chúng ta hãy thử tưởng tượng, dưới chế độ xưa, theo truyền thống tự nhiên của xã hội Việt Nam, một người chủ gia đình, đi làm nuôi cả, bỗng nay chỉ còn dư gạo cho riêng mình từng tháng, tương lai gia đình sẽ ra sao ?
Nước sôi, muốn thành lạnh, cũng phải để nguội dần, đằng này, các cán bộ hạ cấp Việt Minh, thi hành càng, chẳng suy tính đến nỗi đau khổ bên trong của gia đình.
Và đây mới chỉ là màn đền ơn báo hiệu một thống khổ trường kỳ cho dân Việt.
Ngoài kiểu lương theo ‘’khẩu phần gạo’’ và nhịn một bữa ăn, nhân dân còn phải ‘’xung phong’’ mua ảnh cụ Hổ, đóng góp tuần lễ vang, tuần lễ đồng và đủ thứ tuần lễ khác.
Trong khi dân chúng, do lòng ái quốc chân chính bị kích thích, cố công cố sức đóng góp thì các cán bộ Việt Minh, các ‘’quan cách mạng’’ tiêu pha phung phí, tiện ăn, tiện uống, chỉ thấy toàn cán bộ. ĐỐI NGOẠI
(Chính Phủ Dân Chủ Cộng Hòa Với Pháp)
Từ khi cướp được chính quyền, tuy Việt Minh hoàn toàn tự chủ trong công việc, nhưng ai cũng rõ là chủ quyền còn mong manh như trứng để đầu đằng, còn phải tận lực tranh đấu mới may mắn đứng vững được. Những việc lôi thôi với Pháp liên tiếp xẩy ra.
Trong Nam, ngay sau khi thành lập chính quyền nhân dân, cuộc xung đột với Pháp thực sự xẩy ra bắt đầu ngày 2.9.1945.
Ngày ấy, ủy ban Nam Bộ triệu tập một cuộc mít tinh vĩ đại, hàng chục vạn người, làm lễ độc lập. Trước Nhà Thờ Lớn Thành Phố, cuộc hội họp bắt đầu từ 2 giờ chiều. Các đoàn thể đã tề tựu đủ mặt: Thanh Niên Tiền Phong, Cao Đài, Hòa Hảo, Đệ Tứ, Phục Quốc, Bình Xuyên, mang theo khí giới phần nhiều là gậy tầmvông đầu bịt sắt. Thêm vào những tổ chức đó, còn có đoàn cảnh sát súng ống tề chỉnh, đoàn dân miền Hậu Giang mặc toàn đồ đen, dắt dao găm và súng lục, dân chúng chật ních…
Sau khi đại biểu ủy ban Nam Việt đọc tuyên ngôn, bỗng nhiên người ta nghe thấy vài tiếng súng nổ phát ra tại một hãng ô-tô Pháp gần đấy, thế rồi, giữa đám đông nhôn nhao, thét lên những câu ‘’Pháp bắn, Pháp bắn’’. Chẳng ai bảo ai, đoàn thanh niên nam nữ, thậm chí đến cả bà già và con trẻ đều xông cả vào hãng ô tô, người ta nhẩy cả vào Nhà Thờ Thành Phố gần như biến loạn. Tại các ngã đường, các thanh niên có võ khí, tự động bắt người Pháp, từng xâu, từng xâu, đem giam lại một chỗ, có phố bị bắt cả già trẻ chẳng sót một mống.
Chiều dần, tiếng súng thưa thớt, cuộc mít-tinh giải tán hung hăng trong không khí hằn học. Cả Pháp và Việt đều thiệt hại.
Tình hình Nam Việt căng thẳng và điểm máu hồng liên tiếp, cho đến ngày 12.9.45, một Đại Đội Pháp
được thả dù cùng với Tiểu Đoàn Ấn Độ của Anh. Tinh thần Pháp biến đột lên cao khi thấy có quân lính của họ tới và nhất là được Đồng Minh đồng ý (Tướng Anh Graccy), quân đội Pháp đã chia nhau đóng giữ mấy yếu điểm: Bến Tầu, xưởng đóng tầu Nhà Bè, Kho thuốc đạn…
Tình thế mỗi ngày mỗi khẩn trương, Việt nhìn Pháp uất ức. Pháp nhìn Việt khiêu khích, hận thù. Ngày 19.5.45, Cédile tuyên bố trong cuộc họp báo chí: ‘’Việt Minh không phải đại diện cho đa số dân chúng Việt Nam đã bất lực trong việc gìn giữ trật tự an ninh’’.
Đối lại, lực lượng của các Đảng phái kết hợp, tổ chức phá hoại sân bay, các bến tầu. Ủy ban Nam Bộ kêu gọi dân chúng Tổng Đình Công. Việc bắt cóc các người thân Pháp xẩy ra liên tục. Ngày 22.9.45, những quân nhân Pháp tung tăng ra phố. Trước hành vi khiêu khích vài cuộc xung đột lại tái diễn.
Sài Gòn uất ức dưới sức tiến của người Pháp.
Rạng ngày 23.9.45, quân đội Pháp bất thình lình chiếm đóng Sở Cảnh Sát Trung Ương, Kho Bạc, Sở Mật Thám, Tòa Đốc Lý, ủy ban Nam Bộ không kịp trở tay.
Thế là xong!
Toàn thành đã đổi hẳn bộ mặt, ầm ỹ, hoan hỷ vài hôm trước, hôm nay nhường cho nặng nề, căm hờn, thù oán.
Hành động trả thù: Dân chúng Việt Nam bị đánh đập, ngược đãi, bắt bớ, bắn giết tàn nhẫn… Để trả miếng, ngày 24.9.45, một số Pháp kiều bị bắt cóc, ám sát, Nhà Máy Điện bị phá. Ngày 25, nhiệt độ càng tăng, hàng trăm thanh niên Việt bao vây Khu Pháp Kiều. Cuộc hạ sát bắt đầu: Hàng trăm kiều dân Pháp và Pháp lai bị hành hạ, nhiều người bị giết…
Cédile dùng biện pháp quân sự, khí giới được trao cho quân lính.
Trần văn Giầu ra lệnh tổng đình công, tản cư, cấm chợ. triệt lương thực và tuyên bố: ‘’Sài Gòn sẽ thành tro bụi’’.
Sau bao lần điều đình vô hiệu quả, ngày 5.10.45 Tướng Leclerc đến Sài Gòn. Từ ngày đó trở đi, chiến hạm Pháp luôn luôn nhả quân lên bộ. Nam Việt mất dần dưới sự hành động của quân đội Pháp. Căn bản chính trị chưa có gì, nền móng hành chính, không võ khí, không chỉ huy, không lương thực, tan rã từng mảnh lớn, biết thành những đơn vị nhỏ, tự động tìm cơ sở, du kích, đột kích, phục kích. Chiến tranh du kích bắt đầu. Từ dân chúng, những anh hùng dân tộc xuất hiện, nào ôm bom liều mình, nào xung phong gài mìn, nào cảm tử thông tin liên lạc, chết tan xác dưới làn mưa đạn, nào tẩm ép-săng vào mình làm ‘’đuốc sống’’ đốt kho…
Câu nói: ‘’Dân Việt là đồ hèn nhát, nếu mình cứng, họ sẽ rút lui và chạy như chuột’’ của người Pháp nào đó, đã bị những tấm gương hy sinh oanh liệt, trong một thời gian ngắn, quân đội Pháp cũng chiếm đóng tất cả các yếu điểm tại Việt Nam và miền Nam Trung Việt.
Việc ly dị Việt-Pháp không phải là một chuyện dễ dàng, người ta không thể, chỉ bằng lời tuyên bố hay gạch ngay một nét bút mà giật phức được sợi giây giàng buộc đã 80 năm ròng.
Những ‘’lộn xộn’’ xẩy ra trong hồi Đại Chiến Thứ II trên lãnh thổ Việt Nam chỉ là một hình thái chuyển biến, di dịch dĩ nhiên trong thời chiến, mỗi quyết định hoặc thi hành chỉ có nghĩa tạm bợ. Sau chiến tranh, ai khỏe, ai khôn, ai giỏi, người đó sẽ giữ ưu thế trong việc duy trì trật tự mới do hoàn cảnh khách và chủ quan cấu tạo.
Bởi vậy, ngoài những công việc cách mạng nhân dân, chính phủ Hồ chí Minh tập trung ý chí để chuẩn bị, đối phó với Pháp trên mọi mặt chính trị, quân sự, ngoại giao.
Có đối phó được với Pháp mới nói được đến chuyện dân sinh, dân chính, dân quyền. Khẩu hiệu ‘’Độc lập trước đã’’ là phương châm chính của chính phủ.
Quân đội Pháp nhòm ngó Bắc Việt.
Trước tình trạng khẩn trương nguy hại của Nam Việt và tình trạng báo động của Bắc Việt, Việt Minh một mặt gởi cán bộ và bộ đội vào tiếp lực cho miền Nam, một mặt điều đình hòa hoãn với đại diện Pháp tại Thủ Đô Hà Nội. Vì chỉ có thương lượng hòa bình với Pháp, chính phủ mới mong tồn tại. Chiến tranh với
Pháp là vạn bất đắc dĩ trong lúc quốc dân đang bị nạn đói, nạn lụt, hạn hán, đe dọa và nhất là đang lúc uy quyền và thực lực của Việt Minh chưa chuẩn bị hoàn hảo.
Từ tháng 8.1945, Sainteny, một Thiếu Tá Pháp đã có mặt tại Hà Nội.
Cuộc ‘’tiếp xúc’’ giữa cụ Hồ chí Minh và Sainteny khởi đầu còn bí mật. Người Pháp tích cực dùng ngoại giao với Trung Hoa để vớt vát quyền hành tại Việt Nam. Người Việt cũng tích cực dùng áp lực của hiện diện quân đội Trung Hoa để bắt bí Pháp.
Cả hai bên đều có ‘’thể’’
Hàng tuần lại hàng tuần, người ta thảo luận cân nhắc từng chữ để có thể đi đến một thỏa hiệp. Một đôi khi câu chuyện trở nên tắc nghẽn vì lập trường trái ngược và quyền lợi xung khắc. Nhưng trên tấm thảmxanh, giữa bầu không khí biến động ở Thủ Đô Hà Nội, vận mệnh Việt Nam non trẻ vẫn được tiếp tục bàn luận.
Ngày 16.2.1946, nguyên tắc sơ lược được hai bên đồng thuận cụ Hồ chí Minh bằng lòng đàm phán với đại diện Sainteny trên nguyên tắc Việt Nam Độc Lập trong Liên Hiệp Pháp. Thế nào là là Độc Lập và thế nào lại là Độc Lập trong Liên Hiệp Pháp ? Người ta chỉ còn cố gắng tìm cách giải quyết sao cho êm sự Độc Lập ‘’nằm’’ trong Liên Hiệp Pháp.
Vấn đề điều đình giữa Việt Minh và Pháp vấp phải dư luận phản đối của quốc dân. Ngay trong tổng bộ Việt Minh cũng bất đồng ý kiến, nhất là các nhóm quốc gia càng phản đối dữ dội và gán danh từ ‘’phản quốc’’ cho Việt Minh đã cõng rắn cắn gà nhà. Mạnh hơn nữa, họ đã cố gắng tổ chức biểu tình đả đảo chính phủ và đòi trao chính quyền cho Cựu Hoàng Bảo Đại.
Cụ Hồ chí Minh cần phải thuyết phục tổng bộ Việt Minh, thuyết phục các đảng phái quốc gia, thắng được tất cả mới mong có cơ thành tựu cuộc điều đình.
Sau một thời gian ngắn ngủi nhưng hết sức gay go, Việt Minh thỏa thuận với các đảng phái nguyên tắc thành lập một chính phủ liên hiệp kháng chiến, trong đó là 10 vị bộ trưởng. Việt Minh và dân chủ đảng giữ bộ tài chính, giáo dục, giao thông công chánh và tư pháp. Việt Nam Quốc Dân Đảng và Cách Mạng Đồng Minh Hội giữ ngoại giao, kinh tế, canh nông và xã hội, còn lại bộ quốc phòng và nội vụ dành cho hai người không đảng phái. Thành lập một quân sự ủy viên hội trong đó có 9 người mục đích chuẩn bị về phương diện quân sự.
Mọi phản ứng, mọi bất mãn đều được dẹp sau khi thỏa thuận nguyên tắc thành lập những tổ chức trên. Việt Minh và Pháp đàng hoàng công khai đánh nước cờ thỏa hiệp. Đang từ tư tưởng phản đối hoàn toàn các đảng phái đối lập bỗng nhiên chia nửa phần trách nhiệm về việc ký kết với người Pháp. Thủ đoạn chính trị khôn khéo của Việt Minh thật là vô bờ bến khiến cho đang phản đối hóa ra đồng tình. Đám dân chúng chất phác có hiểu đâu những ngoắt nghéo bên trong cho nên chỉ một vài ‘’điệu’’ tuyên truyền của Trần huy Liệu, lòng dân lại hoan hỷ và ủng hộ chí mạng…Nhưng thực ra các đảng phái quốc gia có phải đã mắc mưu lừa bịp không ? Không! Các lãnh tụ phe quốc gia đều thấy rõ sự quay quắt của Việt Minh nên đã cố hết sức tập hợp dân chúng để thúc đẩy phản đối, đòi quyền kiểm soát chính phủ và quân sự ủy viên hội.
Lo sợ không khí phản đối lại bùng nổ mạnh mẽ, Việt Minh tức tốc triệu tập quốc hội và mở rộng theo những nguyên tắc đã thỏa thuận với các đảng phái. Quân sự ủy viên hội gấp rút thành lập để chuẩn bị kháng chiến có Võ nguyên Giáp làm chủ tịch và Vũ Hồng Khanh làm phó. Một ủy ban kiểm soát hoàn toàn trong tay các lãnh tụ Đỏ. Ngoài chủ tịch của ủy ban, cụ Nguyễn Văn Tố mang tiếng là ‘’dân chúng’’ không đảng phái, nhưng xu hướng thân Việt Minh, còn ủy viên toàn là những Phạm văn Đồng, Hoàng minh Giám, Dương đức Hiền…
Nhìn qua chính phủ cải tổ, hình thức hoàn toàn đoàn kết, nhưng bên trong khác hẳn. Cụ Nguyễn Hải Thần, già yếu, nhu nhược, giữ ghế phó chủ tịch làm vì. Địa vị bộ trưởng của Nguyễn Tường Tam, nào có ngoại giao gì đâu, ngoại giao với Pháp thì đường lối chính, Việt Minh đã vạch sẵn mất rồi, chỉ còn có ngoại giao Trung Hoa thì cái thế ‘’anh em nhà’’ của Nguyễn ngoại trưởng với Lữ Hán, Tiêu Văn lại là một điều lợi cho Việt Minh quá. Về nội vụ, cụ già Huỳnh Thúc Kháng, chỉ còn dư gân sức ký những ‘’sắc lệnh’’ đã được thảo sẵn. Riêng bộ quốc phòng của ông Phan Anh thì làm cái nhiệm vụ tức cười nhất là: Kiếm
quân, dưỡng quân và huấn quân, còn việc dụng quân lại hoàn toàn thuộc về Võ nguyên Giáp. Việc ký kết còn đang giang dở tại Hà Nội thì…
Tinh sương ngày 6.3.1946, chiến hạm của quân đội Leclerc đã rập rình qua Lục Đầu Giang tiến vào bến Hải Phòng.
Đại Tá Vũ Hiền, tham mưu trưởng Đệ tam chiến khu ra lệnh Hải Phòng tản cư, bộ đội và hành chính rút lui về Bắc Nội thuộc địa phận Hải Dương chỉ để lại một chi đội đóng tại Hải An. Đất Cảng đột nhiên có bộ mặt chiến tranh rờn rợn, các đội tự vệ nai nịt chỉnh tề, quần áo, mũ sắt, lựu đạn, súng trường, súng lục, kiếm dài, cây cối chặt để ngổn ngang trong đường phố, tủ chè, sập gụ, bàn, ghế được sắp thành chướng ngại vật. Dân chúng ùn ùn kéo qua Cầu Niệm sang Kiến An. Tại Sáu Kho, quân đội Trung Hoa hoàn toàn chiếm đóng, thiết quân luật.
Ngoài khơi, năm chiếc tàu đổ bộ màu xanh nhạt từ từ tiến vào bến, nghển nghện. Một loạt đại bác, liên thanh reo ầm, tiếng đạn bay rít gió, trọng pháo của Trung Hoa rót trúng chiến hạm Pháp. Liền ngay, đại bác từ tàu chiến khạc đạn trả miếng. Hải Phòng trong khói lửa, nhà đổ, cây gẫy, bật lên những tiếng rầm rầmkinh khủng.
Cuộc bắn nhau xẩy ra ngắn ngủi, rồi im hẳn. Tàu đổ bộ của Pháp thoái lui ra khơi. Hải Phòng lại chìmđắm trong yên tĩnh nhưng ấp ủ một không khí nặng nề chết chóc.
Hiệp Định Sơ Bộ ra đời!!
– Pháp công nhận Cộng Hòa Việt Nam là một quốc gia tự do, có chính phủ riêng, quân đội riêng, tài chính riêng trong Liên Bang Trung-Ấn và trong Liên Hiệp Pháp.
– Về sự thống nhất Trung-Nam-Bắc, chính phủ Pháp sẽ thừa nhận sau khi tổ chức Trưng Cầu Dân Ý. – Về phía Việt Nam, chính phủ Cộng Hòa phải sẵn sàng thân mật tiếp đón quân đội Pháp đến thay thế cho quân đội Trung Hoa theo như Hiệp Ước quốc tế đã ký kết.
Hiệp Định Sơ Bộ thỏa thuận cho quân đội Pháp đóng quân tại các địa điểm. Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Nam Định, Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Kay, Hà Giang, Lai Châu, Điện Biên Phủ, Huế, Tourane. – Quân đội Pháp sẽ ở lại trên đất Việt Nam 5 năm, hết kỳ hạn, sẽ có quân đội tiếp phòng Việt Nam thay thế.
Sau khi ký Hiệp Định, hai bên chính phủ phải tìm phương pháp để ngưng các cuộc xung đột hiện tại, quân đội mỗi bên ở yên vị trí nhất định ngõ hầu tạo nên không khí hòa hảo chuẩn bị cho một cuộc thương thuyết sẽ tổ chức tại Hà Nội, Sài Gòn hay Ba Lê.
Qua nội dung của Hiệp Định Sơ Bộ 6.3.1946, người ta thấy người Pháp muốn lợi dụng thời gian để âmmưu thôn tính. Còn Việt Nam cũng cốt lợi dụng thời gian để tổ chức kháng chiến. Trên thực tế, Việt Minh phải đối phó với cả Pháp lẫn Trung Hoa. Lực lượng Pháp đang lan tràn trên lãnh thổ. Quân đội Trung Hoa cũng gây rắc rối không kém, nào nạn tiền tệ, nào sinh hoạt đất đỏ. Việt Minh muốn hoãn xung với Pháp để thanh toán sự hiện diện của Trung Hoa đồng thời lại dựa vào uy thế của quân đội Lữ Hán để bắt chẹt Pháp.
Hiệp Định Sơ Bộ là kết quả tình thế thực trạng của cả hai bên Pháp và Việt.
Thái độ và ý muốn của Việt và Pháp tương phản nhau như mặt trăng và mặt trời. Nhưng cả hai bên đều có nhược điểm bản thân khiến chưa bên nào có thể đánh quỵ ngay được đối phương. Nếu Hiệp Định Sơ Bộ đã giúp Pháp bước đầu để lấn Việt Nam thì Hiệp Định cũng đã giúp Việt Nam tạm ngăn bước tiến của Pháp để chỉnh bị tổ chức.
Hiệp Định đã ký! Phản ứng rầm rĩ nổi lên trong dân chúng. Thanh niên hục hặc, nghiến răng uất ức, những người yếm thế nhắm mắt, thở dài.
Tại Hà Nội, sôi sục bất mãn với việc ký kết giữa cụ Hồ và Sainteny. Để dẹp yên bầu không khí đang căng của Thủ Đô, Việt Minh vội vàng tổ chức một cuộc mít tinh chiều ngày 7.3.1946 để ‘’giải thích’’. Trước dân chúng, Võ nguyên Giáp trổ tài hùng biện:
‘’Nước Pháp đã công nhận nước Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam là một nước Tự Do. Tự do không phải là Tự Trị, tự do hơn tự trị, nhưng chưa phải là Độc Lập. Nếu một khi tự do giữ được, dân ta sẽ tiến tới Độc Lập, độc lập hoàn toàn’’.
Tiếp theo, cụ Hồ chí Minh khuyên dân chúng nên bình tĩnh, giữ kỷ luật nhưng lúc nào cũng phải hăng hái và chuẩn bị. Cụ giơ tay thề với quốc dân không bao giờ bán nước.
Việc trần tình giải thích để dẹp lòng công phẫn bất mãn của dân chúng tạm xong.
Sau khi xẩy ra xung đột ở Hải Phòng, Võ nguyên Giáp xuống Cảng dự cuộc điều đình với hai Bộ ThamMưu Pháp-Hoa mục đích để Pháp dễ dàng đem quân lên bộ.
Quân đội Pháp lục tục lên bến Hải Phòng nào xe 10 bánh nào thiết giáp, chiến xa, súng ống đen sì dưới nắt lạnh nhạt của người dân.
Riêng về phía quân đội Trung Hoa, mấy ông Tướng Tá ‘’con Trời’’ còn ‘’huých’’ thêm cho Pháp một đòn nữa: Để yên cho quân đội Pháp đóng xong đâu đấy, quân đội Trung Hoa liền bố trí, xây lô cốt pháo đài khắp các ngã đường, đặt súng ống nhắm vào các vị trí Pháp, bắt chẹt Pháp phải ‘’bồi thường sự thiệt hại’’ cho quân đội Trung Hoa.
Đến ngày 18.3.46 Tướng Leclerc mới đem được quân lên Hà Nội.
Binh sĩ và đoàn cơ giới Pháp tiến đến Hà Nội giữa hân hoan của Pháp kiều và lãnh đạm thờ ơ của dân chúng Việt.
Sau Hiệp Định Sơ Bộ, Hà Nội như một cái ung thư trong đó các loại vi trùng ra sức ngấm ngầm bành trướng: Việt Minh tăng cường tổ chức phòng ngự, vũ khí, dụng cụ tuôn lên các kho bí mật trên chiến khu, bộ đội, tự vệ ra công luyện tập, những lớp võ bị, quân chính mở liên tiếp để đào tạo cán bộ chỉ huy. Quân đội Trung Hoa ngấm ngầm phá quấy, những vụ xung đột nho nhỏ giữa Pháp và Hoa, giữa Hoa và Việt xẩy ra bằng một nhịp đều đều. Các đảng phái quốc gia cũng không kém. cũng mở võ bị lục quân, cũng gửi cán bộ, võ khí lên chiến khu Vĩnh Yên, Nghĩa Lộ. Còn Pháp thì làm ra mặt, cũng chiếm đóng bừa bãi một vài địa điểm.
Nói chung, tình hình Nam Việt không thay đổi, Bắc Việt càng ngày càng thêm nhiều mâu thuẫn. Việt và Pháp đều cố gắng tiến nhanh đến cuộc thương thuyết mới. Để tiến đến một Hội Nghị chính thức, hai bên thỏa thuận chọn Đà Lạt để trao đổi lập trường.
Ngày 17.4.1946, trong khung cảnh mát mẻ nên thơ ở Cao Nguyên LangBiang, hai đoàn đại biểu Pháp Việt gặp gỡ.
Đoàn đại biểu Pháp gồm có:
Max André: Trưởng Đoàn.
Pierre Messmer: Đổng Lý Văn Phòng Pháp Quốc Hải Ngoại
Bousquet: Quan cai trị
D’Arcy: Chánh Văn Phòng Bộ Quân Đội
Pierre Courou: Chuyên môn về tình hình Việt Nam
Léon Pignon: Quan cai trị
Torel: Cố vấn pháp luật
Clarec: Cố vấn ngoại giao
Conon: Cố vấn tài chính
Ner: Cố vấn giáo dục
Guillanton: Cố vấn kinh tế
Salan: Tư Lệnh quân đội Pháp tại Đông Dương
Bên Việt Nam gồm có:
Nguyễn Tường Tam: Trưởng đoàn bộ trưởng bộ ngoại giao
Võ nguyên Giáp: Chủ tịch quân sự ủy viên hội
Vũ trọng Khánh: Chưởng lý tòa án
Hoàng Xuân Hãn: Thạc Sĩ Toán, Kỹ Sư cầu cống, tốt nghiệp Trường Bách Khoa.
Vũ văn Hiền: Luật Sư, Chuyên môn kinh tế học
Trịnh văn Bình: Giám đốc nhà Đoan
Nguyễn Mạnh Tường: Tiến Sĩ Văn Khoa và Luật Khoa
Cù huy Cận: Kỹ sư canh nông
Nguyễn văn Huyên: Y sĩ
Dương bạch Mai: Viết báo
Cuộc hội họp thoạt đầu đã muôn vàn khó khăn mâu thuẫn. Từ khi ký Hiệp Định Sơ Bộ chưa một việc gì giải quyết nên hồn, kinh tế, chính trị, quân sự, mỗi phương diện, mỗi khó khăn. Nhất là vấn đề nam giải: Chế độ Nam Việt.
Phái đoàn Pháp tuyên bố không đủ thẩm quyền để thảo luận về vấn đề Nam Việt đã được ổn định. Trái lại phái đoàn Việt cực lực phản đối cho rằng luận điệu nói Nam Việt đã dứt chiến tranh là một dối trá không thể tha thứ được.
Trong khi Hội Nghị Đà Lạt ‘’khởi đầu nan’’ thì ở Sài Gòn, một chính phủ địa phương thành lập, đồng thời cử phái đoàn sang Ba Lê để giao thiệp trực tiếp với chính phủ Pháp.
Tin phái đoàn địa phương Sài Gòn đi Ba Lê đến giữa Hội Nghị Đà Lạt làm tăng thêm bầu không khí khó thở.
Tóm lại, lập trường của phái đoàn Việt Nam:
Theo Hiệp Định Sơ Bộ 6.3.46, Việt Nam sẽ thành lập chính phủ riêng, có nghị viện riêng, hiến pháp riêng, quân đội riêng, tài chính riêng, tổ chức cai trị riêng…
Còn lập trường của phái đoàn Pháp:
Các quốc gia tự do phải đặt dưới quyền một Cao Ủy Phủ có Cao Ủy người Pháp. Vị Cao Ủy sẽ điều hòa các hoạt động chính trị quân sự kinh tế văn hóa v.v…Sẽ có một hội đồng các quốc gia liên kết gồm 60 đại biểu (Pháp 10. Cao Mên 10, Ai Lao 10, Nam Việt 10, Trung Việt 10 và Bắc Việt 10).
Về vấn đề Nam Việt, phái đoàn Pháp có vẻ ‘’lơ lửng’’ thiếu thực tế, thiếu thành thực. Kết quả, Hội Nghị Đà Lạt chấm dứt trong hoài nghi ngờ vực, bi quan. Mỗi bên phái đoàn trở về với nhận định riêng, thâm ý riêng.
Hội Nghị Đà Lạt đã tiên báo ‘’Bất khả hợp tác’’ vì lập trường trái ngược của hai bên. Tuy vậy, sau khi Hội Nghị giải tán, chính phủ Việt Nam cũng hết sức thúc đẩy tiến tới một Hội Nghị chính thức. Về phía Pháp, thật sự muốn trì hoãn hội nghị chính thức, phần vì tình trạng Nội Các còn lủng củng, phần thì muốn gây một vài ‘’việc đã rồi’’ trên lãnh thổ Việt Nam để nắm ưu thế khi thương thuyết, thí dụ như chiếm đóng Xứ Mọi Bamêthuột…
Chính phủ Việt Nam, bên trong chuẩn bị kháng chiến, bên ngoài thành lập phái đoàn đi Pháp. Để tận thu khả năng, tiềm lực nhân dân, Việt Minh thành lập Mặt Trận Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam, gọi tắt là Liên Việt. Liên Việt gồm đủ mọi giai tầng trong xã hội. Mặt trận Việt Minh với các đoàn thể cứu quốc, dân chủ đảng, Đồng Minh Hội, Quốc Dân Đảng, đảng xã hội (mới thành lập), các thân hào, thân sĩ, các giới nam, phụ, lão, ấu, Công Giáo, Phật Giáo…
Số người lãnh đạo Liên Việt, ngoài cụ Huỳnh Thúc Kháng (thân Việt Minh) làm chủ tịch, còn toàn Cộng Sản: Tôn đức Thắng phó chủ tịch, Cù huy Cận bí thư, Trần huy Liệu, Phạm ngọc Thạch… Việt Minh cố hòa hoãn, thân thiện với Pháp để đối phó với quân đội Trung Hoa. Loại trừ được quân đội Trung Hoa, có nghĩa là đánh đòn quyết liệt các đảng phái đối lập.
Ngày 28 tháng 5.1946, phái đoàn chính thức khởi hành. Ngoài phái đoàn, Chủ Tịch Hồ chí Minh cũng sang Ba Lê với tính cách riêng. Tháng 7.1946, Hội Nghị họp tại Fontaiebleau gần Thủ Đô của Pháp. Danh sách các nhân viên hai bên gồm có:
VIỆT NAM
Trưởng đoàn: Phạm văn Đồng, phó chủ tịch thường trực quốc hội.
Phan Anh: Bộ trưởng quốc phòng
Trịnh văn Bình: Thứ trưởng tài chính
Tạ quang Bửu: Thứ trưởng quốc phòng
Hoàng minh Giám: Thứ trưởng ngoại giao
Nguyễn mạnh Hà: Đại biểu quốc hội
Bửu Hội: Giáo Sư Trường Bách Nghệ Đại Học Pháp
Nguyễn văn Huyên: Bộ trưởng bộ giáo dục.
Huỳnh thiện Lộc: Bộ trưởng canh nông
Dương bạch Mai: Đại biểu quốc hội
Chu bá Phượng: Bộ trưởng bộ kinh tế
Đặng phúc Thông: Thứ trưởng giao thông
PHÁP
Trưởng đoàn: Max André Nghị sĩ cố vấn Hạt Scine. Nguyên Giám Đốc Pháp Hoa ngân hàng Hà Nội. D’Arcy: Nhân viên văn phòng bộ quân đội.
Bayot: Đô Đốc, Tổng Tham Mưu Phó bộ quốc phòng
Baudet: Công chức chuyên môn về Á Châu Vụ và bộ ngoại giao
Bayen: Cố vấn học chính, Cao Ủy Phủ Đông Dương
Bourgoin: Nhân viên văn phòng bộ quốc gia kinh tế tài chính
Bousquet: Nhân viên bộ Pháp quốc hải ngoại
Gayet: Tổng thanh tra thuộc địa
Gouin: Nhân viên Cao Ủy Phủ Đông Dương
Juglas: Nghị sĩ Cộng Hòa Bình Dân
Lezeray: Nghị sĩ Cộng Sản
Messmer: Chánh văn phòng bộ Pháp quốc hải ngoại
Pignon: Cố vấn chính trị của Đô Đốc D’Argenlien
Rivet: Nghị sĩ Xã Hội (không dự)
Raoul Salan: Thiếu Tướng, Tư Lệnh quân đội Pháp miền Bắc Đông Dương.
Torel: Cố vấn pháp luật, nhân viên Cao Ủy Phủ Đông Dương
Nội dung chương trình nghị sự.
– Giải quyết địa vị Việt Nam trong Liên Hiệp Pháp
– Liên lạc ngoại giao giữa Việt Nam và ngoại quốc
– Vấn đề Liên Bang Đông Dương
– Vấn đề Thống Nhất Việt Nam
Hội Nghị khởi đầu ngay trong mâu thuẫn. Bầu không khí nặng nề chưa chi đã bao trùm cả hai phái đoàn bằng những bài diễn văn nẩy lửa.
Thông Điệp rồi lại Thông Điệp, nhưng không một cuộc thảo luận nào đạt được kết quả. Người ta chỉ nhận thấy những ‘’đình chỉ’’ và ‘’Phá liệt’’
– Về chính trị: Phái đoàn Pháp không giải quyết nổi đề nghị của phái đoàn Việt Nam, viện cớ không đủ thẩm quyền, cần phải chuyển Nghị Án của Việt Nam lên chính phủ Pháp.
– Về ngoại giao: Việt Nam căn cứ vào quyền tự do và bình đẳng trong Liên Hiệp Pháp, muốn có chính sách riêng, tổ chức riêng. Trái lại phái đoàn Pháp sẽ điều khiển ngoại giao của toàn thể Liên Hiệp Pháp, Việt Nam chỉ đóng vai phụ.
– Ủy ban quân sự họp hai buổi, buổi thứ nhất, Pháp nêu 6 điểm mà Việt Nam gọi là ‘’Tối Hậu Thơ’’, hôm sau, Việt Nam đưa ra 9 khoản ước mà Pháp gọi là ‘’Không thể chấp nhận được’’. Về quân sự đình chỉ thảo luận.
– Về văn hóa: Cũng chẳng có kết quả gì sau khi trao đổi thông điệp.
– Về kinh tế, tài chính: Pháp muốn lồng Việt Nam vào hai tròng: Pháp và Liên Bang Đông Dương, ngược lại, Việt Nam chỉ muốn có quan hệ kinh tế tài chính giữa đôi bên mà không chịu phụ thuộc. – Về vần đề Liên Bang Đông Dương, hai phái đoàn cũng chẳng thu được kết quả nào, bên thì muốn Liên Bang là một ‘’Hợp Chúng Quốc’’, bên thì muốn Liên Bang trong phạm vi kinh tế và tài chính. Trong khi Hội Nghị đang vấp phải những mâu thuẫn khó hòa giải, bao chí xuất bản tại Ba Lê (23.7.46) đột nhiên tung tin có một ‘’Hội Nghị Liên Bang’’ sắp sửa họp tại Đà Lạt gồm Đại Biểu Nam Việt, Cao Mên, Lào, miền Nam Trung Việt và miền Cao Nguyên Mọi.
Một quả nổ giữa Hội Nghị Fontainebleau!
Người ta thấy mỉa mai ‘’Hội Nghị Liên Bang’’ tại miền Nam nước Việt khai mạc giữa lúc Hội Nghị của hai phái đoàn chính phủ trên đất Pháp bàn về hợp nhất 3 Kỳ.
Hội Nghị đầu tiên Việt-Pháp có tính cách quốc tế đã bị phá liệt hồi 10 giờ ngày 1.8.1946 sau khi hai trưởng phái đoàn đã tặng nhau những ‘’lâm ly, thắm thiết’’.
Trong khi người ta tưởng sợi giây liên lạc Việt-Pháp đã đứt rồi thì bên trong hai bên phái đoàn vẫn cố gắng tiếp tục cuộc thương thuyết.
Ngày 10.8.46, hai phái đoàn thỏa thuận dự định việc ký kết một Tạm Ước (Modus Viverd). Qua một vài ngày gay go tưởng chừng tan vỡ lần thứ hai. Tạm Ước đã được đột nhiên ký kết giữa Bộ Trưởng Bộ Pháp Quốc Hải Ngoại Marius Moutet với chính phủ Chủ Tịch Hồ chí Minh.
Nội dung Bản Tạm Ước quy định:
– Pháp và Việt phải tín nhiệm lẫn nhau ngõ hầu theo đuổi một chính sách hợp tác ôn hòa, thiết lập bầu không khí êm dịu mở đường cho cuộc thương thuyết sẽ họp chậm lắm là đầu năm 1947. – Việt Nam phải công nhận chính sách quan thuế tiền tệ ở Trung-Ấn, đồng bạc Đông Dương đứng trong khu vực đồng Phật Lăng.
– Trong khi chờ đợi kết quả một Thỏa Hiệp, việc liên lạc ngoại giao với ngoại quốc tạm thời có một ủy ban chung làm việc để bảo đảm sự hiện diện của Việt Nam ở những nước lân bang. – Nếu Việt Nam cần đến các nhà chuyên môn thì sẽ nhờ nước Pháp trước tiên, nếu Pháp thiếu số người chuyên môn để thỏa mãn cho sự đòi hỏi của Việt Nam, Việt Nam sẽ nhờ ngoại quốc khác. – Những người có quốc tịch Pháp ở Việt Nam sẽ được hưởng quyền dân chủ như người Việt và ngược lại những người có quốc tịch Việt Nam trên đất Pháp cũng được hưởng như vậy.
– Mọi hoạt động về khoa học, văn hóa của Pháp sẽ được tự do mở mang trên lãnh thổ Việt Nam, ngược lại cũng vậy.
– Mỗi bên chính phủ đều phải tìm cách chấm dứt sự xung đột hiện tại ở Nam Việt và miền Nam Trung Việt. Tù binh chính trị hay quân sự đều phải được giải phóng.
Sau khi ký kết (14.9.46) cụ Hồ chí Minh đáp tầu Dumont d’Urville về nước (19.9.46) Tại Hà Nội, giữa hoan hô nhiệt liệt của quốc dân, Chủ Tịch loan báo ‘’tin mừng’’. Đồng thời với cuộc bắt tay thân thiện với Pháp, Việt Minh quay mang ngay chính sách loại trừ các phần tử quốc gia trong chính phủ: Sự cải tổ quốc hội và chính phủ bắt đầu.
Ngày 26.10.46, tại Nhà Hát lớn Hà Nội, quốc hội nhóm họp, người ta thấy khiến diện ngót 50 nghị sĩ của phe đối lập. Trong chính phủ, một số bộ trưởng Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đồng Minh Hội tự ý thoái lui: Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh, Trương Đình Tri. Ngày 13 tháng 11 năm 1946, chính phủ ‘’Liên hiệp quốc gia’’ thay đổi:
Hồ chí Minh: Chủ Tịch kiêm bộ trưởng ngoại giao
Nguyễn Vĩnh Thụy: Cố Vấn Tối Cao (Cựu Hoàng đã đi Trung Hoa từ tháng 3.1946)
Huỳnh Thúc Kháng: Bộ trưởng nội vụ
Võ nguyên Giáp: Bộ trưởng quốc phòng
Vũ đình Hòe: Bộ trưởng tư pháp
Lê văn Hiến: Bộ trưởng tài chính
Nguyễn văn Huyên: Bộ trưởng giáo dục
Ngô tấn Nhơn: Bộ trưởng canh nông
Trần đăng Khoa: Bộ trưởng giao thông công chính
Nguyễn văn Tạo: Bộ trưởng lao động
Hoàng tích Tri: Bộ trưởng y tế
Chu bá Phượng: Bộ trưởng xã hội
Hoàng minh Giám: Thứ trưởng ngoại giao
Hoàng hữu Nam: Thứ trưởng nội vụ
Tạ quang Bửu: Thứ trưởng quốc phòng
Trần công Trường: Thứ trưởng tư pháp
Phạm văn Đồng: Thứ trưởng kinh tế
Trịnh văn Bình: Thứ trưởng tài chính
Nguyễn khánh Toàn: Thứ trưởng giáo dục
Cù huy Cận: Thứ trưởng canh nông
Đặng phúc Thông: Thứ trưởng giao thông công chính
Nguyễn văn Tố: Quốc vụ khanh
Bồ xuân Luật: Quốc vụ khanh
Bên trong chính phủ, còn có Hoàng quốc Việt tức Hạ bá Cang, Nguyễn lương Bằng, Trường Chinh tức Đặng xuân Khu toàn là những lãnh tụ Việt Minh cốt cán cả.
Trong lúc toàn quyền về tay Việt Minh, đáng lẽ theo Tạm Ước, tình hình phải dần dần được yên ổn, trái lại, mỗi ngày mỗi biến cố.
Việc lôi thôi quan thuế tại Hải Phòng. Tự Vệ và các lính gác Pháp tại bến bắn nhau về chuyện bắt bớ chiếc thuyền chở muối. Ngày 8.11.46, Hải Phòng báo động. Ngày 20.11.46 súng ở Cảng nổ ran. Đồ đạc bàn ghế, cây cối lại được một lần nữa chặt vứt tung vãi làm chướng ngại vật, các đội tự vệ áo nâu, mũ trận, đặt súng máy lủng củng khắp các ngã đường, dân chúng lếch thếch kéo nhau tản cư qua Cầu Niệm, qua Bến Dá. Trên đường phố, xe tăng, xe phá ụ hục hặc, ình ình, xe 10 bánh tràn đầy binh lính.
Mặc dầu Herckel vả Hoàng hữu Nam cố gắng ký kết ngưng bắn ngày hôm sau (21.11.46) Hải Phòng vẫn phải tiếp nhận Tối Hậu Thư của Đại Tá Pierre Louis Dèbes Chỉ Huy Trưởng Pháp quân miền Duyên Hải. Ngày 23.11.46, Hải Phòng lại chìm đắm trong khói lửa. Chiến hạm Suffren nhả đạn bừa bãi lên đầu người Việt Nam, những mái tranh bùng cháy, những cột khói đen cuồn cuộn ngất trời, sặc mùi máu và thuốc đạn.
Bộ chỉ huy Khu III của Đại Tá Hoàng minh Thảo hạ lệnh đại phá trường bay Cát Bi, những mục tiêu quân sự Pháp. Trong tình thế ấy, người dân Việt chỉ còn một cách bồng bế nhau tản cư, để không biết bao giờ trở lại…
Cơn sốt rét run rẩy Hải Phòng lan dần khắp mọi nơi khó bề qua khỏi. Tại Lạng Sơn, cuộc tranh chấp giữa Việt Minh và quân đội của Đại Tá Sizcire cũng chẳng kém. Lạng Sơn, một Thành Phố nhỏ ở sát biên thùy đã phải tản cư.
Quân đội Pháp chiếm đóng gần hết Tỉnh. Bên kia bờ sông Kỳ Cùng, bộ đội Việt Nam cũng không ngừng nhả đạn vào Thành Phố.
Thêm vào Lạng Sơn, Hải Phòng, những việc ‘’đối đáp’’ bằng lửa đạn liên tiếp xảy ra ở trên đường
Quốc Lộ 1, Bắc Ninh-Nam Định. Trong Nam, Tướng Nguyễn Bình chỉ huy trưởng tăng cường hành binh. Hà Nội có lệnh tản cư. Dân chúng phân vân, lo ngại, dùng dằng. Kẻ ở lại người ra đi tản cư. Từng nhà, người ta chôn bát đĩa, mâm thau, đồ cổ, lọ sành, lọ sứ, người ta chôn vàng bạc của cải, thôi thì từ giầu đến nghèo, dân chúng ai có cái gì có thể chôn thì chôn, có thể cất thì cất, trừ bàn ghế đồ đạc lủng củng nặng nề không thể mang, thể dấu mới chịu.
Đối với chính phủ Hà Nội chẩn bị chiến tranh là chuyển súng chuyển đạn, chuyển cơ quan, chuyển giấy má, tài liệu, vật liệu lên chiến khu, chuyển bộ đội chính quy ra đóng bao vây Thành Phố, thành lập An Toàn Khu tại vùng Hà Đông để sửa soạn đường thoái đã dự tính trước.
Bộ mặt nội thành, chuẩn bị chiến tranh là ụ đất mọc lên như nấm, là xẻ đường đào hố, là cây cối chặt gẫy tứ tung cành lá xùm xòe hòng cản đường chặn lối cơ giới địch.
Đối với dân chúng, chiến tranh trong trạng thái tâm lý, từng đoàn, từng đoàn tiến ra các cửa Ô, từng nhóm, từng nhóm bàn tán xôn sao, sợ sệt nhưng khoan khoái. Bà già trẻ con đã đi nhiều, thanh niên trai tráng, kiểm lại súng lại đạn, lau lại dao găm, dao phay, mã tấu, soát lại lựu đạn ‘’nội hóa’’, lựu đạn chầy, điềm tĩnh, quả quyết.
Hà Nội chuẩn bị gấp rút mọi phương diện, mọi vấn đề, chẳng ai bảo ai, chờ ngày chờ giờ, từng phút từng giây.
Những việc khiêu khích, khủng bố, xung đột, ăn miếng trả miếng giữa binh gia pháp và Tự Vệ xẩy ra như cơm bữa.
Bầu không khí ngày càng nặng nề, càng căng thẳng, càng hằn học, càng bực bội.
Để tiếp vào việc ăn miếng trả miếng, ngày 18.12.1946, quân đội Pháp bao vây, khủng bố khu phố Yên Ninh, xả súng vào hàng trăm gia đình vô tội, bắn lính Việt Nam cùng gác tại Nhà Máy Điện, đối lại Tự Vệ nhả đạn vào lính mũ đỏ Pháp.
Cả Pháp cả Việt, ai chả có thiện chí hòa bình, nhưng hành động đôi bên vô tình đều hướng đến chiến tranh.
Biết rằng trước sau rồi cũng phải xẩy ra, ngày 19.12.46. Võ nguyên Giáp ra lệnh tấn công. Hà Nội Thủ Đô Việt Nam bùng trong khói lửa. Toàn quốc bắt đầu chuyển theo bước luôn vào chính chiến. Đến đây chấm dứt công cuộc đối ngoại với Pháp của chính phủ Việt Minh. Những cuộc thương thuyết hòa bình trên tấm thảm xanh được thay thế bằng hội nghị sắt và máu lửa.
Máu người dân Việt tô điểm thêm non sông, bao thanh niên ưu tú Pháp gục ngã: Vì Lý Tưởng ?? Vì Quyền Lợi ??
CHÍNH PHỦ DÂN CHỦ CỘNG HÒA VỚI TRUNG HOA
Hội Nghị Postdam, năm 1945 quyết định sau khi Nhật Bản đầu hàng, quân đội hai nước Trung Hoa và Anh-cát-lợi sẽ đến Đông Dương giải giới quân đội Nhật, lấy vĩ tuyến 16 làm giới hạn đôi bên. Đại quân Trung Hoa đến Bắc Việt vào hạ tuần tháng 8.1945 dưới quyền chỉ huy của Đại Tướng Lữ Hán gồm có chừng 20 vạn chia làm 2 binh đoàn địa phương quân và hai binh đoàn chính quy quân của Tưởng Thống Chế.
Đoàn quân Trung Hoa sang Bắc Việt, kéo theo cả bầu đoàn thê tử, đôi khi cả những người dân quê ngớ ngẩn, bước thấp bước cao…Sự trà trộn quân với dân khiến cho người Việt Nam không biết đằng nào mà nhận chân giá trị quân đội của Tướng Lữ Hán. Họ chiếm đóng những nơi ở lịch sự, rộng rãi nhất và đã làmcho đời sống dân chúng Việt ngã nghiêng. Nhưng đấy chưa phải là vấn đề đáng để cho chính phủ Việt Minh lo lắng. Lo lắng mấu chốt là quân Trung Hoa đã mang theo cả những nhà cách mạng quốc gia, những người yêu nước đã từng lao đao nơi hải ngoại và cũng đã từng được các lãnh tụ Cộng Sản cho nếm vị chua cay, những ‘’trận đòn chính trị’’.
Song song với cuộc hành quân của quân đội Trung Hoa, các người cách mạng quốc gia tích cực hoạt động. Vũ Quang Phẩm, Hoàng Quốc Chính lãnh đạo các đồng chí Việt Nam Quốc Dân Đảng tiến chiếm Hà Giang, Vũ Hồng Khanh cùng cán bộ chiếm đóng Lào Kay đồng thời giúp đỡ Tù Trưởng Đèo Văn Long đặt nền móng chính trị ở Lai Châu. (Cụ Nguyễn Hải Thần cũng về Hà Nội vài ngày sau Lữ Hán).
Sự có mặt của các đảng phái cách mạng quốc gia là một việc khổ tâm cho Việt Minh, nhất là lực lượng ấy ngày càng tiến triển: Lào Kay, Yên Bái, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Bắc Giang…lần lượt dưới ảnh hưởng của Việt Nam Quốc Dân Đảng và ở miền duyên hải dưới ảnh hưởng của Cách Mạng Đồng Minh Hội.
Mặc dầu Trung Hoa trịnh trọng tuyên bố không hề có dã tâm xâm chiếm Việt Nam, mục đích sự hiện diện của Quân Đội Tưởng Thống Chế chỉ có để giải giới quân đội Nhật đã đầu hàng và giúp đỡ Việt Namthực hiện nền Độc Lập. Dân Việt Nam chỉ hiểu có thể những các lãnh tụ Cộng Sản hiểu hơn nữa.
Các lãnh tụ Cộng Sản Việt Nam biết chắc chắn rằng một nước Trung Hoa Quốc Dân Đảng không bao giờ có mỹ ý bao dung một nước Việt Nam Đỏ. Những việc xẩy ra trên đất Trung Quốc giữa Quốc Dân Đảng và Cộng Sản là những kinh nghiệm sống. Ngày nay quân đội của Trung Hoa Quốc Dân Đảng đặt chân lên đất Việt, thế tất nhiên quân đội ấy phải ủng hộ Quốc Dân Đảng Việt Nam hoặc một vài đảng phái chính trị khác miễn là những đảng phái ấy đừng Đỏ.
Một mặt chính phủ hô hào thân thiện Việt-Hoa chiều chuộc các Tướng lĩnh Trung Hoa, một mặt điều đình thân thiện với Pháp. Đó là chiến thuật ‘’loại trừ địch thủ’’.
Để được vừa lòng Trung Hoa, Việt Minh nhượng bộ dùng thủ đoạn giải tán đảng Cộng Sản Đông Dương, mở rộng quốc hội, cho những người không cùng mầu sắc chính trị được tham dự. Đồng thời Việt Minh không quên thành lập một phái đoàn sang Trùng Khánh gây tình hữu nghị Việt-Hoa. Phái đoàn do Nghiêm Kế Tổ hướng dẫn, có Nguyễn Công Truyền, Hà Phụ Hương. Nhân dịp này, Cựu Hoàng Bảo Đại cũng cùng đi với tư cách riêng.
Phái đoàn đã thành công trong nhiệm vụ thắt chặt tình giao hảo Việt-Hoa sau một thời gian ngắn ngủi tại Trùng Khánh. Phái đoàn đã được Tưởng Thống Chế tiếp đón nồng hậu tại Dinh Chính Phủ, thiết tiệc tại biệt thự riêng ở Sơn Đông v.v…Nói riêng chính phủ Dân Chủ Cộng Hòa đối với Trùng Khánh hãy còn mờ mịt, phần vì mới thành lập, thế giới chưa ai công nhận, phần vì Tưởng Thống Chế còn bận đối phó với Mao Trạch Đông, chưa có thời giờ để chăm chú nhìn đến nước Việt Nam bé nhỏ, hơn nữa người Pháp đã trực tiếp giao thiệp với Trùng Khánh trước khi phái đoàn của Việt Nam gặp Tưởng Thống Chế, do đó sự niềm nở của Tưởng Thống Chế thực ra vì có mặt cá nhân Cựu Hoàng và Nghiêm Kế Tổ một đồng chí cách mệnh mà Tưởng Tổng Tài đã từng biết nhiều về thành tích hoạt động.
Khẩu hiệu: ‘’Việt Nam thân thiện’’ đã giúp Việt Minh dễ dàng trong công việc diệt trừ đảng phái không cùng lý tưởng, dễ dàng ứng phó với Pháp.
Trong khi còn nắm được ưu thế, Trung Hoa tích cực hoạt động trên địa hạt tuyên truyền, các báo chí Côn Minh nhấn mạnh đến ‘’dòng máu’’ Trung Hoa trong cơ thể người dân Việt, lý do là Trung Hoa đã từng cai trị người Việt trên nghìn năm lịch sử…nào là quân đội Trung Hoa sẽ cố gắng giúp đỡ Việt Nam Độc Lập, nào là Trung Hoa và Việt Nam có những liên hệ tâm lý và văn hóa…
Trên địa hạt quân sự và chính trị, Trung Hoa tiếp vận cho các đảng phái quốc gia, dùng áp lực quân đội để duy trì và tiến triển hoạt động của Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đồng Minh Hội. Tiến thêm nữa, quân đội Lữ Hán tìm cách gây mâu thuẫn với Pháp.
Ngày 1.4.46 nhân cơ hội 2 chiếc xe hơi Pháp và Hoa đụng nhau tại ngã tư Phố Mỹ Quốc, trước cửa nhà Godart cũ, nhưng vì sự mâu thuẫn đã ăn sâu và sự sích mích, cãi cọ liên tiếp xảy ra quân lính hai bên đã không ngần ngại mà tức khắc nổ súng. Kiều dân Pháp bị vạ lây. Cuộc vật lộn đẫm máu xẩy ra trên hè phố, trước cửa Pháp Hoa ngân hàng, trong tiệm ăn. Tiếng đạn rền nổ liên hồi cho đến chiều, dân chúng Việt Nam mục kích những chiếc xe chở Pháp bị đạn máu chan hòa, những lính Trung Hoa tử thương bên những mô đất ở bờ hồ Hoàn Kiếm.
Sự sích mích cá nhân giữa Pháp và Hoa liên tiếp xảy ra. Trước tình thế ấy, người Việt vẫn duy trì được tinh thần trung lập. Mặc dầu họ bị khích động, nhưng họ vẫn biết tôn trọng kỷ luật, vô hình chung đã phù hợp với chủ trương của Việt Minh, cố tránh sích mích với quân đội Trung Hoa, bình tĩnh đối với Pháp.
Chính sách của Việt Minh đối với Trung Hoa được hoàn toàn kết quả. Sau khi đã cố gắng làm lung lay hệ thống chính trị của Việt Minh, quân đội Trung Hoa thất vọng rút lui vào hạ tuần tháng 6.1946 đúng với thỏa ước Pháp-Hoa.
CHÍNH PHỦ HỒ CHÍ MINH VỚI CÁC CƯỜNG QUỐC
Chính phủ Hồ chí Minh từ khi thành lập đã hết sức tuyên truyền, chú ý gây thiện cảm với các cường quốc để được công nhận. Một khi đã được các cường quốc công nhận, Việt Minh sẽ thỏa sức tung hoành, ngoài, có thể có ưu thế với Pháp, trong, có thể độc tài, đảng trị.
Đối với Anh-cát-lợi, Việt Minh cố chịu cảnh ‘’cười trong nước mắt’’. Trước khi quân đội của Tướng Dougles D. Gracey nhẩy dù xuống Nam Việt, ủy ban nhân dân Nam Bộ đã hớn hở tổ chức những tiệm ăn, tiệm nhẩy dành riêng cho tù binh Anh. Những tù binh sau khi được ra khỏi trại giam Nhật Bản đều được tự do ra vào ăn, nhẩy linh tinh tại những tiệm dành riêng cho họ. Ở đấy lại được uống rượu mạnh không phải trả tiền và được những sinh viên Việt Nam đóng vai bồi hầu bàn. Những anh bồi tân thời ấy có nhiệm vụ xin chữ ký xin cảm tưởng của tù binh sau khi đã tuyên truyền những cái hay, những cái đẹp, những cái quý của dân tộc Việt, một dân tộc trẻ trung, mới dành độc lập có khả năng, có tinh thần. Họ có bổn phận vạch bầy những điều mà người Pháp cố tình dấu diếm khiến cho cường quốc năm châu từng hiểu nhầm, cho những kẻ ở Bán Đảo Đông Dương là con cháu của giống Mọi ‘’Răng đen, ăn thịt người’’.
Đối với lính hồng Mao, người dân Việt miền Nam đối đãi thật quá tốt, nhưng dần dần thái độ ‘’lạnh lùng’’ của người Anh đã ‘’lịch sự’’ ngả về phe Pháp.
Cảm tình Việt dành cho Anh nhạt dần rồi hờn giận.
Riêng chính phủ, tức thời, ra luôn Đạo Luật, Nghị Định cho các Công Ty Anh, Mỹ, Hòa Lan…được tiếp tục doanh nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam. Thủ tiêu các Nghị Định cũ của Toàn Quyền Đông Dương bắt các tù nhân có quốc tịch Mỹ, Anh…phải khai tài sản ở Đông Dương và đặt tài sản ấy dưới quyền hành chính.
Đối với Hoa Kỳ, Việt Minh cố gắng nuôi dưỡng tinh thần thân thiện đã từng được cụ thể hóa khi Việt Minh còn trong bóng tối. Những nhân viên quân sự, những nhà báo Mỹ đặt chân lên Thủ Đô Việt Nam đều được chính phủ ưu đãi đặc biệt. Hơn thế nữa, trong tuyên ngôn độc lập, chính phủ Hồ chí Minh cố ý làmvui lòng Hoa Kỳ (mặc dầu bên trong có một dụng ý khác nữa) đã nêu câu Châm Ngôn trong lời Tuyên Bố về Nhân Quyền của Tổng Thống Hợp Chúng Quốc, Jefferson. Một Hội Việt-Mỹ được thành lập gây tình thân thiện, trao đổi văn hóa bằng cách mở lớp học, dịch sách báo.
Tất cả cố gắng của Việt Minh đối với Hoa Kỳ cũng không kết quả tốt đẹp. Trước kia Việt Minh đã được Hoa Kỳ tiếp tế quân nhu võ khí, nhưng đến khi đã thành lập chính phủ, Mỹ dần dần ‘’đánh hơi’’ thấy mùi ‘’Cộng Sản’’ trong chính sách Việt Minh. Cho nên mặc dầu cố tình gây thân thiện, Tướng Gallagher vẫn ngoảnh mặt làm ngơ, không những thế còn quay nhìn chăm chú vào cá nhân Cựu Hoàng và giai cấp trí thức Việt Nam trong các đảng cách mạng quốc gia nữa.
Đối với Liên Bang Sô Viết, Việt Minh chỉ nhận được lạnh nhạt hầu như tuyệt đối. Người ta chưa hề thấy Điện Kremlin lên tiếng tỏ cảm tình với Việt Nam, ở Liên Hiệp Quốc, ở các Hội Nghị tại Mạc Tư Khoa. Họ cũng chẳng buồn gửi nhân viên sang Việt Nam nhận xét nữa. Những thức giả đều không hiểu tại sao phân bộ Cộng Sản quốc tế Á Đông lại đến nỗi thờ ơ với chính phủ Hồ chí Minh như vậy.
Nói chung, giữa tình thế cô lập, chính phủ Hồ chí Minh đã hết sức cố gắng trong lập trường đối ngoại nhưng buồn thay chẳng rút được kết quả nào đáng kể.
Pháp ? Sự xung đột ngày càng nhiều, Hiệp Định rồi Tạm Ước chẳng qua chỉ là một vài phút tạm thở của hai bên.
Trung Hoa ? Hiệp Ước 28.2.46 ký tại Trùng Khánh đã thực tế phô bày lập trường của Tưởng Thống Chế đối với chính phủ Việt.
Anh ? Tướng Gracey đã cố tình giúp Cédile gây rối ren trong Nam Việt.
Mỹ ? Người Mỹ rất thính mũi, họ lui xa Cộng Sản mà họ còn dìm thêm cho nữa.
Còn Nga ? Sự thờ ơ lạnh nhạt của các ông Chúa Đỏ tại Điện Kremlin phải chăng là một chiến thuật, một thủ đoạn ? Việc ấy chỉ có hỏi các ông trùm Cộng Sản Việt Nam mới rõ.
Người ta nhận thấy chính phủ Việt Minh chỉ trông cậy ở thực tài của mình để gây uy tín trong dân chúng, lôi kéo dân chúng ủng hộ mình ngõ hầu thành lập chủ nghĩa vô sản trên giải đất Việt Nam. oOo
LÝ DO THẤT BẠI CỦA
CHÁNH PHỦ DÂN CHỦ CỘNG HÒA
TÍNH CHẤT QUỐC TẾ
Tiền thân của chính phủ Hồ chí Minh là ủy ban giải phóng dân tộc thành lập dưới quyền chỉ đạo của tổng bộ Việt Minh. Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội bên ngoài là một hình thức tổng hợp rộng rãi đủ màu sắc chính trị, có một mục đích chung: Tranh đấu cho nền Độc Lập Việt Nam. Chủ trương thành lập mặt trận đã được các lãnh tụ Cộng Sản nêu lên từ năm 1935-1936. Hồi đó, các lãnh tụ Cộng Sản có phái đại diện đến Nam Kinh thảo luận với Vy Chính Nam và Nghiêm Kế Tổ để liên hiệp, nhưng việc đó không thành vì Cộng Sản có nhiều hành động không thành thực, đồng thời lại vội vàng đề nghị công khai thủ tiêu danh từ Việt Nam Quốc Dân Đảng để thay thế bằng nhãn hiệu Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội. Mục đích thủ đoạn đó làm cho quốc dân và thế giới sẽ quên dần một đảng phái đã từng có thành tích oanh liệt để chỉ biết có Việt Minh. Vì thế mãi đến 1941 mặt trận Việt Minh mới ra đời công khai, và tất nhiên là vắng bóng Việt Nam Quốc Dân Đảng. Các cán bộ lãnh đạo cốt cán mặt trận đại đa số là những nhà cách mạng dưới quyền chi phối của Cộng Sản đệ tam quốc tế, phân bộ Á Đông. Cụ Hồ chí Minh, sáng lập viên mặt trận chính là cụ Nguyễn ái Quốc, một cán bộ quan trọng quốc tế Cộng Sản. Tuy nhà lãnh tụ cách mạng, lão thành đầy kinh nghiệm ấy đã khôn khéo đổi tên là Hồ chí Minh nhưng cũng không tài nào che mắt nổi các chính khách trên thế giới và các nhà lãnh tụ đảng phái quốc gia Việt Nam.
Riêng tay cụ Hồ đã nhào nặn ra các đảng Cộng Sản ở Đông Dương và số lớn các cán bộ Cộng Sản cao cấp miền Đông Nam Á. Cụ đã có một quá trình tranh đấu vĩ đại cho chủ nghĩa vô sản, đến nay đích thân cụ lại lãnh đạo chính phủ Dân Chủ Cộng Hòa, hỏi ai là người không nhìn thấy con đường mà chính phủ mới sẽ dìu dắt dân Việt Nam ?
Trước khi dân Việt Nam biết các nhân vật Cộng Sản trong chính phủ Hồ chí Minh thì ở ngoại quốc, người ta đã biết rõ rồi, nhất là ở Ba Lê và Trùng Khánh. Hồ chí Minh, Hồ tùng Mậu, Tôn đức Thắng, Võ nguyên Giáp, Nguyễn lương Bằng, Phạm văn Đồng, Trần đăng Ninh, Trần tử Bình, Hà bá Cang v.v…hầu hết ra vào các nhà tù như cơm bữa.
Ở trường hợp nào cũng vậy, những người Cộng Sản đều dùng bình phong che đậy âm mưu hoạt động. Việt Minh che đậy lý tưởng quốc tế bằng lý tưởng quốc gia dân tộc, khiêu gợi và lợi dụng lòng yêu nước chân chính của quốc dân, thỏa mãn tâm lý họ. Về hình thức, danh từ ‘’chính phủ liên hiệp’’ thu gồm mọi xu hướng chính trị. Tại quốc hội, người ta thấy cũng lẫn lộn đủ hạng người: Cộng Sản, quốc gia, dân chúng…
Nhưng bên trong bình phong, các lãnh tụ Đỏ nắm chặt quyền chỉ đạo. Trường Chinh, Sao Đỏ và một số ‘’cán bộ om’’ của Cộng Sản (ít ai biết mặt biết tên) lãnh đạo trong bóng tối, ngoài ra, Nguyễn Xiển, Trần hữu Đức, Trần văn Giầu, chủ tịch Bắc, Trung, Nam đều là đảng viên trung kiên của vô sản.
Trên cao, những ông trùm Cộng Sản giữ quyền lãnh đạo, bên dưới, những ấu trĩ đảng viên hành động. Phần đông những cán bộ cơ sở ‘’ấu trĩ’’, được Cộng Sản kết nạp quãng 1944-1945. Tuy ‘’lính mới’’, nhưng họ tỏ ra quá hy sinh, bỏ nhà, bỏ cửa, bỏ gia đình êm ấm, thoát ly đi xung phong, có khi thí mạng vì công tác vì lý tưởng. Đối với họ, công tác đảng là trên hết. Mọi việc trên đời nếu không phải là việc đảng đều không đáng chú ý. Họ sống chết vì cấp trên, vì đảng, không kêu ca, không oán hận.
Bản thân của chính phủ Dân Chủ Cộng Hòa tỏ ra Đỏ từ đầu đến cuối khiến cho thế giới dân chủ dần dần e ngại, hững hờ, bỏ rơi.
Về sự việc, các cán bộ hành động nhiều khi quá khích. Những thi hành vô tổ chức, hỗn loạn, đã chớp nhoáng xáo lộn nền móng từ ngàn xưa trên đất Việt.
Lãnh thổ Việt Nam từng chịu ảnh hưởng của Đạo Giáo Á Đông, tồn cổ, tồn phong, ngay đến tư tưởng cải lương dân chủ, tự do dân chúng cũng còn chưa thích hiểu, nói chi đến chủ nghĩa Mác-xít, Lê-nin-nít, Sta lin-nít…
Các cán bộ nam của Cộng Sản Việt Nam đã đem áp dụng một chính sách tàn bạo: Phá đình, phá chùa đả kích tôn giáo, đả kích việc thờ phụng tổ tiên, thần thánh, tịch thu ruộng đất, tịch thu tài sản vô tổ chức. Ai không hưởng ứng tình nghi, ai vắng mặt ở phòng họp, thờ ơ lãnh đạm trước phong trào mới, lừng chừng, sẽ
bị điều tra, theo dõi, bắt bớ hành hạ, giam cầm, đôi khi thác oan.
Chính sách khủng bố của Cộng Sản được thi hành dưới bàn tay đồ tể vô vàn cán bộ xu thời, mù quáng và ác độc. Những hành động quá khích, kết quả thì ít, tai hại thì nhiều. Phương châm đại đoàn kết của Việt Minh tự nó đã biến thành một kế hoạch loại trừ và phản đoàn kết đại quy mô. Đối với các đảng phái yêu nước, Việt Minh hoặc công khai thủ tiêu (giải tán Đại Việt, Thanh Niên Ái Quốc v.v…) hoặc dùng biện pháp quân sự (tiêu diệt Việt Nam Quốc Dân Đảng ở Vĩnh Yên, Nghĩa Lộ, Đồng Minh Hội ở Tiên Yên, Phục Quốc ở Lạng Sơn, Cao Đài, Hòa Hảo ở Nam Việt) chỉ đả phá hình thức hoạt động của họ và cố tình kết án không chịu đếm xỉa đến thiện tâm yêu nước tất nhiên của một đảng chính trị. Ngoài việc áp dụng kế hoạch ‘’đại đoàn kết’’ như trên với các đảng phái đối lập, những ban trinh sát, ám sát, Việt Minh mọc lên như nấm, thi hành những chỉ thị bí mật, đẫm máu, gây hoảng hốt trong tâm can người dân lành, chất phác. Đối với Giáo Hội Gia-Tô, lực lượng mạnh mẽ, có tổ chức chặt chẽ, Việt Minh cũng không tha, khẩu hiệu thì ‘’Lương giáo đoàn kết’’, nhưng được thực hiện bằng cấm mở Trường Thần Học của Giáo Hội bằng đổ lỗi cho các Cha Cố đã làm gián điệp cho ngoại bang, ép họ vào tội tàng trữ khí giới bất hợp pháp…Khẩu hiệu ‘’đại đoàn kết’’ của Việt Minh chính là mầm gây chia rẽ giữa đảng phái, giữa tôn giáo, giữa mọi giai tầng trong xã hội nghèo nàn của Việt Nam. Vin vài lý thuyết vô sản, hiểu nghĩa giai cấp công nhân lãnh đạo một cách lệch lạc, các cán bộ Việt Minh đã không nề hà, thủ tiêu mạnh và nhanh những người được gọi ‘’là thống trị tư bản’’ kẻ thù của dân tộc, kẻ thù của các giai cấp cần lao, đa số là trí thức, tinh hoa của đất nước.
Các lãnh tụ Cộng Sản đem áp dụng bao nhiêu thủ đoạn chính trị trong quốc hội, trong chính phủ, nào cải tổ, nào thành lập hội, đoàn mới, tổ chức mới, những hội, đoàn nào, tổ chức nào cũng phải biến thành khí cụ mới, một khi đã thành hình, để Việt Minh lợi dụng.
Mật ngọt chết ruồi!
Thủ đoạn và hành động vô hình hay hữu ý của Việt Minh đã khiến cho những người yêu nước, trong lý tưởng quốc gia không thể nào tin được họ nữa. Mỗi hành động, mỗi lời tuyên bố của Việt Minh đều gặp phản ứng. Sự thể ấy khiến cho ngoài nước, các cường quốc lánh xa, trong nước, dân chúng ngậm đắng, nuốt cay, thở dài mỗi khi nghĩ tới ‘’quốc gia hạnh phúc’’!
THÁI ĐỘ CỦA PHÁP
Lịch sử cho biết, Pháp đã chẳng nề hà, quản ngại đem áp lực quân sự để thôn tình thành trì Việt Nam. Thôn tính xong, chiếm đoạt xong rồi mới nói đến thương thuyết ‘’giảng hòa’’. Phương pháp ấy là cổ truyền của pháp, hay nói cho đúng, của những nước đi chiếm đất đai hồi thế kỷ thứ 19. Sau khi lập được nền đô hộ, lẽ đương nhiên là dân Việt Nam biến thành dân bị trị. Dân bị trị dĩ nhiên bị khinh rẻ, kìm hãm. Song với địa vị bề trên, người Pháp ở thuộc địa nuôi dưỡng tinh thần trịch thượng đối với dân bản xứ, Thái độ trịch thượng, khinh bỉ, coi rẻ dân bị trị đã theo thời gian ăn sâu vào tâm tủy từng người đi thống trị biến sính ra một giống người mới: Thực Dân. Ai đã từng sống với người Pháp sinh trưởng ở Việt Nam cũng phải nhận thấy đa số khác hẳn tính tình người Pháp ở chính quốc. Ở họ thiếu một cái gì của Pháp tinh túy, Pháp văn minh. Người dân Việt Nam chất phác chỉ hiểu nước Pháp thuộc địa, vô hình chung đã đánh giá dân Pháp bằng một thiểu số sống trên đất chữ S.
Do sự kém suy xét, kém sưu tầm, kém nhận định, người ‘’Pháp thuộc địa’’ đã phủ nhận tinh thần dân bản xứ, đã ngộ nhận đức tính của họ, đã đánh giá họ quá thấp. Trái lại, do sự thiển cận của dân ta, đã suy xét thiên lệch và đánh giá người Pháp theo kiểu ‘’cá mè một lứa’’, hai điểm tâm lý trên đã kết cấu và làm khó dễ từ cuộc thương thuyết này đến cuộc thương thuyết khác giữa Pháp và Việt Nam.
Năm 1944, pháp triệu tập một Hội Nghị ở Bazzaville bên Phi Châu để đặt nền móng cho chính sách mới tại đất đai Hải Ngoại, ngõ hầu thích hợp với tình thế sau chiến tranh. Không nhiều thì ít, việc ấy cũng là một tiến bộ trong lịch sử thuộc địa. Một tiến bộ bắt nguồn trong tư tưởng đầy xây dựng, đầy thiện chí của những người Pháp dân chủ (tuy nhiên chưa phải là tuyệt đích). Nhân sau cuộc chính biến tại Đông Dương do Nhật Bản gây nên, chính phủ lâm thời De Gaulle liền cấp tốc cho ra đời Bản Tuyên Ngôn đề cập chính sách của Pháp với các dân tộc trên giải đất chữ S. Người ta nghiên cứu một ý niệm mới: Ý niệm
Liên Hiệp Pháp. Pháp dự định tổ chức Đông Dương thành một Liên Bang 5 xứ Bắc, Nam, Trung, Lào, Mên có chính phủ của liên bang, có quốc hội, có đủ mặt đại biểu theo tỷ lệ dân số…nhưng Pháp vẫn không quên đặt một vị toàn quyền Pháp trên chính phủ Liên Bang. Để chuẩn bị cho chính sách ấy, chính phủ Alger đã phong chức Cao Ủy Đông Dương cho Đô Đốc Georges Thierry d’Argenlieu. Đứng trước hoàn cảnh đã chót thất thế ở Đông Dương do Nhật Bản gây nên, Đô Đốc d’ Argenlieu cố gắng giao thiệp với Trung Hoa, một nước đàn anh ở Đông Á sát nách Việt Nam. Tiến thêm bước nữa, Đô Đốc thúc đẩy ký kết Hiệp Ước Pháp-Mên, Pháp-Lào (27.8.46 và 28.8.46) lập thành thế bao vây Việt Nam trước khi nói chuyện lại với dân tộc Việt.
Về mặt quân sự, Tổng Hành Dinh F.E.F.E.O (Forces Expéditionnaires Française d’Extrême Orient) của Tướng Blaizot đóng tại Calcutta (Ấn Độ) thiết lập đầu cầu dụng binh. Tướng Leclerc bay sang Tokin vận động cho đoàn quân của ông ta được tiến vào đất Việt.
Rồi mọi việc liên tiếp xẩy ra:
Nam Việt, từ những vụ đổ máu ngày 2.9.45 cho đến ngày Tướng Leclerc đặt chân lên đất liền, người Pháp đã hân hoan với bao ưu thế quân sự và chính trị tỉnh lớn tỉnh nhỏ chuyển dần từ tay ủy ban nhân dân sang quân đội Pháp, ủy ban Nam Bộ cuốn khăn gói rút khỏi Thủ Đô Nam Việt, rồi đến số phận các Tỉnh Gia Định, Phú Mỹ, Mỹ Tho, Cần Thơ…chỗ nào cũng lần lượt éo mình dưới gót giầy đinh của bộ đội Commando mũ đỏ, với đoàn xe bọc sắt Massu.
Người Pháp áp dụng võ lực không ngừng, nào tiến chiếm Cao Nguyên Mọi, nào nhảy dù xuống Paksane, Pnompenh, Vân Nam, đã sắp đặt tiến quân binh lính và quan cai trị Pháp nhẩy dù… Tất cả những hoạt động về quân sự của Pháp làm hậu thuẫn cho những cuộc ‘’giảng hòa sắp tới’’. Chính phủ Pháp, phần thì mắc bận việc của chính quốc, phần thì do những báo cáo thiên lệch, nhận định tình hình Đông Dương không hoàn toàn đúng, vô hình chung đã mặc nhiên công nhận những tư tưởng ngoan cố của một số người Pháp có nhiều quyền lợi trên đất Việt.
Thái độ của chính phủ Pháp đương nhiên làm dân chúng Việt hiểu nhầm lòng thành thật và quảng đại của nước Pháp dân chủ, một cường quốc từng có nền văn hóa sáng lạn, sẵn thiện chí dìu dắt các dân tộc còn hèn yếu, đem ánh sáng văn minh của mình cho thế giới soi chung.
Sẵn mầm mâu thuẫn tâm lý ấy, các lãnh tụ Cộng Sản chỉ việc đào cho sâu, khơi cho rộng để đến nỗi ngày bi đát, ngày đẫm máu buồn thảm của hai dân tộc đã xảy ra khủng khiếp, bao hành động bảo thủ vô ý nghĩa của Pháp, của Việt khiến cả đôi bên phải chịu đựng tang tóc, đau thương.
TIỀM LỰC CỦA CHÍNH NGHĨA QUỐC GIA TRONG CHÍNH PHỦ HỒ CHÍ MINH Sau ngày Anh Hùng Nguyễn Thái Học bị xả thân trên đoạn đầu đài, những đảng phái chính trị mưu đồ phục quốc đa số thất tán lưu vong. Tuy vậy, các nhà cách mạng vẫn tiếp tục hoạt động ở Hải Ngoại với mục đích, nhất định, đem vinh quang cho xứ sở. Ngoài hoạt động của những người Việt Nam theo quốc tế Cộng Sản, các thanh niên yêu nước can đảm đều tìm cách lén sang Trung Hoa, gia nhập cách mạng dưới lãnh đạo của Tư Thương Mại, Vy Chính Nam, Lệch Trạch Dân…
Từ năm 1931 đến năm 1945 những đảng phái đua nhau thành lập hoạt động. Rút kinh nghiệm vụ Nguyễn Thái Học các lãnh tụ lợi dụng đủ mọi hình thức, tổ chức hợp pháp, bất hợp pháp. Ngoài nước, Tổng Bộ Việt Nam Quốc Dân Đảng công khai thành lập dưới chỉ đạo của Tư Thương Mại, Vy Chính Nam, Vũ Bá Biên ở Quảng Châu, ở Vân Nam do Vũ Hồng Khanh lãnh đạo. Sau bạo tàn, hợp Đảng Việt Nam Quốc Dân chính thức chính quyền Trung Hoa Dân Quốc công nhận và ủng hộ (Tháng Giêng năm 1834) Tại Nam Kinh.
Năm 1941 tại Liễu Châu, các lãnh tụ Trương Bội Công, Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ, Trần Bảo, Trương Trung Phụng, Nông Kinh Dầu thành lập Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội. Nhưng buồn thay, một số lãnh tụ lão thành vì óc địa vị, quân phiện, đã chia rẽ nhau lại thêm không được lòng Tư Lệnh Đệ Tứ Quân Khu Trương Phát Khuê nên hoạt động của Hội kém bề phát triển, gặp lắm khó khăn, khiến các lãnh tụ Cộng Sản lấn bước tung hoành.
Trong nước, những nhóm chính trị ra đời công khai dưới hình thức tôn giáo như Cao Đài (Lê Văn
Trung, Phạm Công Tắc, Tòa Thánh ở Tây Ninh thành lập năm 1926), nhóm Hòa Hảo (Huỳnh Phú Sổ thành lập tại Châu Đốc năm 1939), cùng các Đảng Đại Việt, Phục Quốc…thành lập trong thời Decoux. Mỗi đảng, mỗi nhóm, mỗi xu hướng chính trị riêng biệt.
Có nhiều cơ sở trong dân chúng, biết hướng dẫn tâm lý quần chúng và khéo tuyên truyền, Việt Minh đã đoạt chính quyền quá dễ dàng ngày 19.8.45 để rồi cấp tốc thi hành chính sách riêng ‘’đặc biệt’’ của họ. Chính sách cực đoan, khủng bố, những phần tử quốc tế đã đem áp dụng mạnh bằng mọi hình thức. Đại Việt, Quốc Gia Xã Hội bị đổ tội đã ‘’tư thông với ngoại quốc làm hại an ninh xứ sở và kinh tế quốc gia’’, lãnh tụ Cao Đài, Hòa Hảo bị khủng bố, Việt Nam Quốc Dân Đảng ở Vĩnh Yên, Yên Bái, Lào Kay. Phục Quốc ở Lạng Sơn, Lộc Bình, Đồng Minh Hội ở Móng Cáy, Tiên Yên bị thẳng tay đàn áp. Ngay giữa Thủ Đô, những trò bắt cóc, ám sát luôn tiếp diễn. Để trừ cái ‘’quốc gia chủ nghĩa’’, Việt Minh kiểm soát, giam cầm, thủ tiêu một số trí thức ái quốc có tư tưởng diệt cộng như Bác Sĩ Nguyễn Văn Thinh, Đốc Phủ Tâm (nguyên Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm) Bùi Quang Chiêu, Hồ Văn Ngà. Cả Tạ Thu Thâu, nhà lãnh đạo đệ tứ Cộng Sản cũng bị các đồng chí đệ tam thanh toán (Họ Tạ đã thác oan tại Quảng Ngãi).
Mỗi đoàn thể trong mặt trận Việt Minh đều có một tổ chức trinh sát: Sưu sách, tình báo, đặc vụ, trinh sát mặt trận, trinh sát quân sự…là những ban chuyên môn dò la hành vi dân chúng. Kẻ nào vô tình hoặc hớ hểnh thốt ra những câu ‘’vô chính trị’’ là tức khắc có tên trong sổ đen và bị chú ý theo dõi.
Trước lưới do thám chặt chẽ, rộng rãi, các đảng quốc gia cũng đối lại bằng bắt cóc, ám sát. Một cuộc vật lộn dao găm, súng ngắn diễn ra kinh khủng. Cả hai địch thủ cũng có nhà tư che mắt dân chúng để thực hiện tra tấn, thủ tiêu đối phương đã bắt cóc được. Những tư thất đó chẳng khác gì loại hắc điếm trong tiểu thuyết kiếm hiệp Trung Hoa. Dân chúng sống chung trong hỗn loạn, không bảo đảm, chẳng biết thế nào là phải, trái nữa.
Nói chung, chính nghĩa quốc gia đã được tượng trưng bằng hai chính sách, đã có những hoạt động điển hình:
– Chính sách ‘’vườn rau áo cá’’, sống yên bình, tỏ khí tiết ‘’giữa thời lố lăng’’.
Chính sách đấu tranh, mạnh bạo công khai đối lập. Chính sách anh dũng, tích cực đó do các người ái quốc, có năng lực, có óc tổ chức, ưa hoạt động, áp dụng dưới 2 góc cạnh khác nhau. Chính khách ngoài Bắc có hoàn cảnh, phần vì sẵn có thực lực và cũng nhân thời thế dựa được thế lực quân đội Trung Hoa, áp đảo Việt Minh trong chính phủ, trong quốc hội, trong tuyên truyền, trong quân sự, khiến cho chính phủ phải cải tổ, quốc hội phải mở rộng, tuyên truyền phải đứng đắn, quân đội phải chịu chung kiểm soát. Ưu thế của các lãnh tụ quốc gia bên cạnh quân đội Trung Hoa rõ ràng đã làm cho Việt Minh chùn bước.
Chính khách trong Nam, nhờ hoàn cảnh địa phương dựa Pháp để đối phó với Cộng Sản. Nhận thấy mối giao hảo Việt-Pháp không dễ bị lý do nhất thời sụp đổ ngay, hai dân tộc Việt-Pháp cần phải để tương thân tương hỗ trên đường kiến thiết, các vị này đã mạnh bạo, gạt bỏ dư luận, cương quyết giao thiệp với Pháp để chống trả Việt Minh. Nhưng khó khăn thay, hình thức nhất thời đã chẳng vừa lòng dân chúng: Cái tâm lý dân chúng yêu nước bồng bột, kém suy nghĩ sâu xa, đã bắt buộc các nhà ái quốc Bắc chí Nam phải chật vật, gian truân sống trên dư luận.
Dựa vào Trung Hoa, một lân bang đã từng thống trị Việt Nam trên nghìn năm lịch sử hay dựa vào Pháp, một cường quốc vừa đô hộ nước nhà trên 80 năm, những nhà chính khách quốc gia mới thành công trong sự nghiệp thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Tự Do dưới lá cờ Bảo Đại.
CHƯƠNG BA
CHÍNH NGHĨA QUỐC GIA
A.- YẾU TỐ TƯỢNG TRƯNG
T
ừ khi Hoàng Đế Bảo Đại hy sinh ngai vàng mong mưu đồ Tự Do, Dân Chủ cho một Việt NamĐộc Lập mới, quốc dân vui mừng với tư tưởng mới mẻ của vị Anh Quân trẻ tuổi, cảm động sâu xa với hành vi cao cả của Người. Cử động siêu phàm ấy đã phơi bầy ra ánh sáng cái quá khứ u ám, nuốt hận dưới thời Pháp thuộc, quá khứ đã khiến cho một vị Hoàng Đế đầy tâm huyết với non sông bị kìm hãm khó bề vùng vẫy.
Chiếu thoái vị của Hoàng Đế Bảo Đại chỉ có giá trị hình thức. Trong tâm can dân chúng, Hoàng Đế Bảo Đại vẫn còn, hình ảnh vị Hoàng Đế thông minh không dễ mỗi chốc đã nhòa được. Mặc dầu đã khôn ngoan đặt Cựu Hoàng vào địa vị Cố Vấn Tối Cao, mặc dầu trên địa hạt tuyên truyền, Việt Minh cố tình làm quốc dân lãng quên vì vua cũ để có thể dễ dàng xuy tôn các lãnh tụ của họ, Việt Minh cũng chỉ thành công có mỏng manh và nông cạn.
Nếu như dân chúng đã tỏ ý thỏa thuận sự việc thoái vị của một quân vương, họ cũng vẫn tỏ thật tình tin mến con người Hoàng Thân Vĩnh Thụy. Vì nhiều lẽ:
Người dân Việt muốn tự do, độc lập nhưng trong khuôn khổ trật tự của đạo lý Khổng-Mạnh, một đạo lý đã từng ăn sâu vào tâm não người dân hàng chục thế kỷ. Nếu dân Việt Nam hớn hở, đón mừng Việt Minh năm 1945, cũng chỉ vì dưới sự đau khổ cùng cực của chế độ Pháp thuộc, Nhật thuộc, qua những tai nạn kinh khủng đói lụt v.v…Người dân cần một bầu dưỡng khí mạnh và mới. Nhưng đến khi đã thoáng nhận chế độ ‘’kim thời’’ cũng chỉ mang lại chết chóc, khủng bố trong tinh thần, phân ly trong gia đình, xáo lộn trong xã hội, xảo trá và quỷ quyệt trong hành động, người dân buồn rầu đã quay nhìn lại con người độc nhất tượng trưng lòng yêu nước của toàn dân: Cựu Hoàng Bảo Đại!
Nhưng Cựu Hoàng là Cố Vấn Tối Cao của chính phủ Hồ chí Minh ? Việc ấy người dân không lẩm lẫn. Họ đã sáng suốt nhận chân tình thế của Cựu Hoàng. Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa. Cựu Hoàng đã gặp cảnh ngộ như vậy. Sự thắc mắc của Hoàng Đế đã được quốc dân thông cảm.
Tuy là một nhân viên cao cấp trong chính phủ Hồ chí Minh, Cựu Hoàng đã quá xa với sự kính trọng của các cán bộ cộng sản. Trong thôn xóm yên tĩnh, nghèo nàn, nếu vô tình một bức chân dung cũ kỹ, màng nhện chăng qua, hình ảnh vị quân vương trẻ tuổi khoác áo Hoàng Bào ẩn dưới một nếp tranh lạnh lẽo, bị người khách lạ nhận thấy, sự chẳng lành sẽ xẩy ra tức khắc. Trước hết, người chủ nhân chất phác sẽ bị mời cất ngay bức hình tượng trưng óc đế quốc, lạc hậu, rồi tiếp đến sự ‘’thăm nom’’ vô hồi của các nhân viên trinh sát với tất cả những lời lẽ khôn ngoan như phản đối, như ôn hòa, như gắt gao, như đe dọa, như tuyên truyền. Những việc tương tự tiếp diễn không ngừng trên khắp giải đất Việt Nam dưới muôn ngàn hình thái. Đôi khi may mắn, khổ chủ được giải thích mềm mỏng để hiểu thế nào ‘’sùng vương’’ là một tội, một tội phản động đối với chính thể mới, đôi khi, chẳng may địa phương lại do một hung thần coi sóc, khổ chủ sẽ được ‘’săn sóc’’ hơn, có thể tiến thẳng tới Cải Hối Thất xa xăm, lạnh lẽo của núi rừng. Ở đây, khổ chủ tha hồ mãi mãi suy nghĩ đến việc treo ảnh vô ý thức của mình.
B.- Ý CHÍ QUỐC DÂN
Nếu Cựu Hoàng tượng trưng tinh thần quốc gia thuần túy, cổ truyền thì Cựu Hoàng đã là cái đích để quốc dân tìm tòi, bộc lộ lòng yêu nước. Sự bộc lộ tuy có bị mất mát, lạc lõng, lang bạt trong các xóm quê xanh ngát nhưng không vì thế mà không thể được tập trung, được nung đúc, được tổ chức, được trình bầy, nói một cách khác, được công khai đương đầu với tinh thần quốc tế cộng sản.
Ý chí quốc dân cứ thế bước, từ Bắc chí Nam bằng những hoạt động tuy khác nhau về hình thức, cách nhau về thời gian nhưng cùng một mục đích, một lý tưởng: Ủng hộ Cựu Hoàng, người tượng trưng lý tưởng
quốc gia, phản đối chính phủ Việt Nam, tay sai của Kremlin cộng sản.
Ngoài Bắc Việt, sau khi bị thất thế, chậm chân để đến nỗi Việt Minh chiếm đoạt được chính quyền, các đảng phái chính trị quốc gia liền đoàn kết lại thành một khối dưới nhãn hiệu Việt Nam Quốc Dân Đảng, một phần nào dựa vào thế lực quân sự Trung Hoa, thiết lập các trụ sở hoạt động, nhằm hai công tác chính: Chính trị và quân sự.
Về chính trị, từ tháng 6.1945, Việt Nam Quốc Dân Đảng tích cực hoạt động trong nước và đối ngoại có một Hội Nghị giữa Trung Hoa Quốc Dân Đảng với phái đoàn Việt Nam Quốc Dân Đảng do Phan Trâm(Bác Sĩ Nguyễn Tiến Hỷ) lãnh đạo.
Phái đoàn đã được các Bộ Trưởng Trung Hoa như Ngô Thiết Thành, Trần Lập Phu, Trần Thành, Trần Khánh Vân, Trịnh Tiềm, Chu Gia Hoa, Trương Trí Trung, Trương Đạo Phan, Vương Thế Kiệt…niềm nở tiếp đãi tại Trùng Khánh và cho phép phái đoàn Việt Nam đi tham quan mọi nơi như Viện phát hành giấc bạc, trường học, công binh xưởng v.v…
Tháng 9 năm 1945, Việt Nam Quốc Dân Đảng xuất bản báo chí mục đích tố cáo trước dân chúng những Việt Minh, độc tài, vô sản…Sau khi đã vạch rõ cho dân chúng biết sự thật, Việt Nam Quốc Dân Đảng tổ chức, dân chúng biểu tình phản đối Việt Minh. Hà Nội mục kích từng đoàn dân chúng đủ các hạng người vác biểu ngữ, tung truyền đơn, xếp hàng trật tự diễn qua. Bờ hồ Hoàn Kiếm, các phố lớn, tới trụ sở của Cố Vấn chính phủ mới, Cựu Hoàng đích thân lãnh đạo việc nước: Dân chúng ủng hộ Cựu Hoàng.
Trong bí mật Việt Nam Quốc Dân Đảng tổ chức trinh sát đối đầu với các bộ phận do thám Việt Minh. Rồi các vụ bắt cóc lẫn nhau bắt đầu một cách kinh khủng. Những vụ ám sát giữa người quốc gia và người quốc tế thi nhau tiếp diễn trong bóng tối. Khủng bố đối với khủng bố.
Về quân sự, tháng 9 năm 1945, giữa lúc Việt Minh lung lay ở Thủ Đô Hà Nội, cờ đỏ sao vàng đã tung bay khắp trên lãnh thổ Việt Nam, các lãnh tụ phe quốc gia có huy động lực lượng tuy kém thế nhưng kỹ thuật chiến đấu vững chắc từ hải ngoại kéo về chiếm Tỉnh Hà Giang thuộc xứ Thái: Vũ Quang Phẩm và Hoàng Quốc Chính chỉ huy trận đánh.
Nghiêm Kế Tổ tại Côn Minh liên tục phát triển lực lượng quân sự giữa đám quân nhân lưu vong của Pháp. Đám quân khố đỏ được giác ngộ rất nhiều, đồng lòng cộng tác hoạt động. Sau khi lãnh tụ Vũ Hồng Khanh đốc sức các cán bộ chiếm lĩnh Lao Kay. Việt Nam Quốc Dân Đảng tiến chiếm đánh đất Yên Bái và tăng cường căn cứ địa Vĩnh Yên khá vững chắc.
Mặc khác, Đồng Minh Hội với Việt Tam Quân hăng hái loạn đả với quân đội của Đệ Tứ chiến khu tại vùng Đầm Hà, Tiên Yên, Mong Cáy, Việt Minh cũng không yên vị.
Đồng bào Công Giáo cũng chẳng chịu kém, mặc dầu cụ Hồ chí Minh, người hiểu rõ lực lượng Công Giáo Việt Nam hơn ai hết, đã đích thân tiếp đón Đức Cha Lê Hữu Từ, Hồ Ngọc Cẩn, đã khôn khéo tổ chức đoàn thể Công Giáo Cứu Quốc, người Công Giáo yêu nước cũng sớm nhận thấy hai chủ nghĩa vô thần và hữu thần không thể cùng nhau sống, nên đã tích cực thành lập một hệ thống phòng ngữ tự vệ khá mạnh với hàng ngàn thanh niên dũng cảm dưới quyền điều khiển của một số Cha, Cố, hăng hái, trẻ trung. Dân chúng được đọc những khẩu hiệu: Đả đảo cộng sản, Ủng hộ chính phủ liên hiệp, la liệt trên tường với vùng Bùi Chu, Phát Diệm…Hoạt động của những người theo chính nghĩa quốc gia khiến Việt Minh chùn bước:
– Dành 70 ghế nghị sĩ cho phe quốc gia.
– Cải tổ và thành lập chính phủ liên hiệp.
– Các lãnh tụ phe quốc gia kiểm soát Quân Sự Ủy Viên Hội (Vũ Hồng Khanh). Ngoại Giao (Nguyễn Tường Tam, Nghiêm Kế Tổ). Kinh Tế (Chu bá Phượng)…
– Báo chí tương đối được tự do công khai đã kích Việt Minh, tự do tuyên truyền chủ nghĩa, tự do tuyển mộ thanh niên…
– Giáo Đường được kính trọng, bất khả xâm phạm, giáo dân được nể vì…
Những người cộng sản cũng đã hiểu rõ lòng dân chúng. Dưới mắt chính phủ Hà Nội. Chiến khu Vĩnh Yên, căn cứ Tiên Yên và vùng Giáo Hội Bùi Chu, Phát Diệm là ba cái gai quá nhọn. Trong Nam Việt, những phần tử chống cộng cũng không thưa phần anh dũng.
Ngay từ phút đầu, trước khi Việt Minh tiến bước các nhóm đảng chính trị như Cao Đài, Hòa Hảo, Việt Nam Độc Lập, Phục Quốc đã hợp nhất để tiếp nhận võ khi ở tay Nhật Bản. Sau khi chót bị Việt Minh thuyết phục để nắm giữ chính quyền, các đảng phái bí mật tập hợp các lực lượng thanh niên làm hậu thuẫn. Tình thế Nam Việt lúc đó kém yên ổn.
Ngày 2.9.45 Việt Minh bắt đầu giữ chính quyền địa phương, ngày 23.9.45 quân đội Pháp đã tấn công. Thời gian quá ngắn khiến sự đấu tranh giữa phe quốc gia và quốc tế không thể phát triển gay go như ngoài Bắc. Công cuộc tranh đấu cho chính nghĩa quốc gia của các Chính Khách miền Nam kiểu cách khác hẳn ngoài Bắc Việt. Khi một số lãnh tụ như Hồ Văn Ngà, Huỳnh Phú Sổ…bị Việt Minh lần lượt thanh toán, các lực lượng còn lại tự phân tán chống lại bộ đội của Trần văn Giầu, riêng lãnh tụ Bình Xuyên đã treo giải thưởng cho ai lấy được đầu chủ tịch Nam Bộ. Một số các nhà trí thức quốc gia như Bác Sĩ Thinh, Đốc Phủ Tâm (nguyên Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm) Bác Sĩ Nguyễn Văn Tùng, tuy có bị cộng sản làm khó dễ nhưng may mắn đã thoát khỏi nanh vuốt sắc nhọn để có thể tiếp tục sự nghiệp chống cộng mà ngày nay quốc dân đã mục kích rõ ràng.
Các chính khách Nam Việt biết trước rằng mối giây liên lạc Việt-Pháp chưa thể nào có thể cắt đứt hẳn. Nhận định khác người được như vậy, các chính khách đã mạnh bạo quả quyết bắt tay người Pháp giữa phong trào chống Pháp đang lên trong dân chúng. Không e dè, sợ sệt một dư luân vô tình và đầy ác ý có thể tổn hại tới uy tín cá nhân, các chính khách miền Nam đã thành thật và đặc biệt sửa soạn con đường giao hảo Việt-Pháp khác hẳn với lối bắt tay của các lãnh tụ Đỏ tại Đà Lạt và Fontainebleau với Pháp, khác hẳn với lối ‘’thân Pháp’’ của Việt Minh cộng sản. Đường lối ấy vô tình chung đã phù hợp phần nào với chính sách của Cựu Hoàng, người chủ trương tranh đấu bằng ngoại giao và chính trị để xây dựng nền độc lập tự do.
C.- ĐỨC QUỐC TRƯỞNG HOẠT ĐỘNG
Bôn Tẩu Trung Hoa
Từ ngày thoái vị, Cựu Hoàng sống một cách giản dị giữa Thủ Đô trong một biệt thự xinh xắn. Cử chỉ thoái vị siêu phàm của một Quân Vương đầy tâm huyết với non sông, Cựu Hoàng đã tỏ cho quốc dân rõ lòng nhiệt thành thân mến quốc dân, trong thái độ ủng hộ chính phủ mới (quan niệm chính phủ một cách đứng đắn), trong lối sống thanh đạm hàng ngày.
Thâm tâm của Người tuy muốn yên vui làm công dân một nước dân chủ, độc lập, nhưng buồn thay, tình trạng đất nước khiến Người phải suy nghĩ: Chính phủ Hồ chí Minh thất bại, các cường quốc xa lánh một chính phủ tượng trưng chủ nghĩa vô sản. Dù Việt Minh có thắng lợi trên trường quốc tế chăng nữa, chẳng lẽ Người lại chịu ngồi im để dân con mất tự do, mất tài sản, mất thuần phong mỹ tục, mất nền văn minh cổ kính, tinh hoa, ngồi im để một lũ vong bản hiện dâng non sông cho đế quốc độc tài. Như thế không những Người có lỗi với giang sơn, tổ quốc, có lỗi với chính bản thân Người và lịch sử sẽ còn phê phán Người sau này nữa.
Cựu Hoàng ở Hà Nội. Người đã mục kích mọi hành động của những người mệnh danh là yêu nước, Người đã quá rõ mặt trái của họ, đã thấy những cảnh tượng xung sát đẫm máu, những huynh đệ thương tàn, những tranh quyền cố vị, đồng thời Người cũng đã rõ lòng dân, ý chí của dân.
Nước nhà muốn được yên ổn cần phải có một người trong được lòng dân, ngoài có uy tín với các cường quốc.
Người đó không ai ngoài Cựu Hoàng Bảo Đại.
Đối với các cường quốc, việc thoái vị của Hoàng Đế không có nghĩa là Người đã rút lui khỏi trường chính trị. Biết Việt Minh là cộng sản, Pháp vẫn mong được trực tiếp nói chuyện với Người. Hoa Kỳ đã cố ý lánh xa chính phủ Việt Minh, người ta không còn thấy các nhân viên, sĩ quan Mỹ tới dự những cuộc họp công cộng, những cuộc mít tinh, biểu tình nữa. Hoa Kỳ đã quay lại phía Cựu Hoàng, chờ đợi. Chỉ cần Cựu Hoàng ưng thuận là Hoa Kỳ sẵn sàng tích cực giúp đỡ, hăng hái giúp đỡ.
Tháng 3 năm 1946, Nghiêm Kế Tổ, Thứ Trưởng Bộ Ngoại Giao trong chính phủ Liên Hiệp Hồ chí Minh, thân dẫn phái đoàn sang Trung Quốc để tỏ ý thân thiện. Buổi tối, trước hôm đi, trong phiên họp riêng
tại Dinh Chính Phủ (cụ Hồ chí Minh, Cựu Hoàng Bảo Đại, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Công Truyền, Hà Phú Hương) sau khi đã vạch rõ ý nghĩa cuộc đi và nhiệm vụ phái đoàn, cụ Hồ chí Minh quyết định cả Cựu Hoàng cũng sẽ cùng đi và phái đoàn phải cấp bách sửa soạn, khởi hành ngay ngày hômsau.
Cựu Hoàng và Nghiêm Kế Tổ không tán thành việc đi vội vàng như vậy và phản đối việc Cựu Hoàng đi Trung Hoa với tư cách một nhân viên trong phái đoàn mà chỉ đi với tư cách một vị Quân Vương đi du lịch. Cụ Hồ chí Minh, thái độ biến đổi bất thường và sau một lát suy nghĩ, chỉ đồng ý Cựu Hoàng ở lại và dục phái đoàn vẫn phải đi ngay, quyết định Nghiêm Kế Tổ lãnh đạo phái đoàn (hai đoàn viên là Nguyễn công Truyền, Hà phú Hương, Việt Minh). Đêm hôm đó, sau cuộc hội nghị, Nghiêm Kế Tổ tới Biệt Thự riêng của Cựu Hoàng, rồi cùng sang nhà bên cạnh gặp Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam. Mọi người đều trình bày lợi hại, khuyên Cựu Hoàng nên xuất ngoại với tư cách một vị Hoàng Đế thoái vị đi du lịch. Cựu Hoàng đồng ý ngay.
Sáng hôm sau, Cựu Hoàng cùng Nghiêm Kế Tổ tới Dinh Thủ Tướng từ giã cụ Hồ và đón hai đoàn viên, cụ Hồ chí Minh thấy sự đột ngột thay đổi thái độ của Cựu Hoàng, rất đỗi kinh ngạc, nhưng chẳng biết tính sao, đành lặng lẽ bắt tay tiễn biệt…
Chiếc phi cơ của Trung Quốc Hàng Không Công Ty đã chở Cựu Hoàng và phái đoàn bay thẳng tới Côn Minh, để lại trong lòng những người cộng sản nhiều thắc mắc, lo âu.
Người ra đi không tùy tùng thân thuộc, cô đơn (Nam Phương Hoàng Hậu và các Hoàng Tử, Công Chúa vẫn còn long đong ở miền Trung nước Việt) nhưng chí cương quyết của Người không vì gia đình mà chùn, nản. Bởi vì, cùng với gia quyến của Người, quốc dân Việt Nam cũng đang quằn quại đau thương: Nam Việt trong khói lửa, máu đào, Bắc, Trung với những vụ ám sát, bắt bớ tra tấn, thủ tiêu, dã man, hung ác, cảnh tương tàn buồn thảm…Cựu Hoàng cương quyết ra đi. Người ra đi tìm nguồn sống cho dân tộc.
Đất Trung Hoa tiếp đón người công dân yêu nước số một của dân tộc Việt. Vì cuộc ra đi của phái đoàn Nghiêm Kế Tổ xẩy ra một cách quá đột ngột, không dùng nghi thức ngoại giao thường lệ giữa hai quốc gia, cho nên nhà đương cục ở Côn Minh không hề hay biết. Phái đoàn tới Côn Minh phải tạm trú ở Khách Sạn Commerce.
Ngay buổi chiều, sau khi Nghiêm Kế Tổ trình Ủy Nhiệm Thư ra mắt tiếp xúc, các nhà đương cục Trung Hoa ở Côn Minh vội vàng tiếp đãi một cách vô cùng trịnh trọng. Họ mời phái đoàn ra ở Biệt Thự riêng nhưng Cựu Hoàng từ chối, tránh phiền phức và tạm ra trú ngụ tại Hoa Viên Lữ Điếm. Ở Côn Minh được ít ngày với ý định đợi tin Ngài Nam Phương cùng gia quyến. Nhưng khi được tin gia quyến Người có ủy ban hành chính Trung Bộ gìn giữ. Người đành cùng phái đoàn quyết định đi Trùng Khánh. Cuộc đi không trống, không kèn, khiến chính phủ Tưởng Giới Thạch không hề hay biết.
Đến Trùng Khánh, lặng lẽ phái đoàn vào trọ tại Khách Sạn Victory Hoise, nhà đương cục Trung Hoa ngay lúc đó được biết tin. Các yếu nhân Trung Hoa khi hay Cựu Hoàng tới Trùng Khánh vội vàng tới tiếp kiến và tỏ ý trách phái đoàn không cho biết trước để chính phủ Trung Hoa có thể tổ chức cuộc đón tiếp trọng thể.
Cựu Hoàng được Tưởng Chủ Tịch tiếp đón ân cần, riêng biệt, ngày ngày đàm luận. Trong thời gian ở Trùng Khánh, Cựu Hoàng đã là Thượng Khách của chính phủ Trung Hoa.
Sau một tháng giời, Cựu Hoàng vẫn ở lại Trùng Khánh. Riêng phái đoàn Nghiêm Kế Tổ trở về nước. Vấn đề đó đã mặc nhiên như vậy. Cựu Hoàng sang Trung Hoa với tư cách cá nhân của một Quốc Vương đi du lịch, không liên lạc gì với phái đoàn ngoại giao, mặc dầu Người đã cùng đi với phái đoàn. Thái độ ân cần đặc biệt của Tưởng Chủ Tịch đã chứng minh chân giá trị, của Cựu Hoàng. Tưởng Chủ Tịch đã tiếp Cựu Hoàng trước khi tiếp phái đoàn, đã đàm luận riêng biệt với Người, đã mời Người đi du lịch NamKinh, Bắc Kinh, Thượng Hải (Cựu Hoàng từ chối).
Phái đoàn Nghiêm Kế Tổ trở về nước, từ giã vị Quân Vương đầy tâm huyết, một mình ở lại trên đất khách, tạm xa lánh quốc dân, đem tài sức xoay lại sơn hà (lúc đó Nguyễn Tường Tam suy cử, một vài bạn cũng từ Việt Nam tới Trùng Khánh tiếp giúp Cựu Hoàng như Lưu Đức Trung, Phạm Văn Bình, Đinh Xuân
Quảng, Bùi Tường Chiểu v.v…
Sau những cuộc tiếp xúc với Tưởng Thống Chế và các yếu nhân trong chính phủ Trung Hoa, tháng 6 năm 1946, Cựu Hoàng tới Hồng Kông, mặt ngoài, Người làm như vẻ một khách du lịch Thành Phố Anh cát-lợi, dự xem một cuộc vui thể thao…bên trong, Người tích cực suy tính một chương trình hoạt động mặc dầu nền tài chính quá eo hẹp đã khiến Người lắm phen thắc mắc.
Tháng 7 năm 1946, các lãnh tụ quốc gia lục tục bỏ Việt Minh xuất ngoại, hòng tính toán lại nước cờ riêng biệt. Nguyễn Tường Tam, trở lại Nam Kinh, Vũ Hồng Khanh, trở lại Vân Nam, Cụ Nguyễn Hải Thần đi Quảng Tây…
Dưới sự khủng bố ghê gớm của Tướng Nguyễn Bình, Tư lệnh miền Nam nước Việt, phần lớn lãnh tụ của các nhóm chính trị Cao Đài, Hòa Hảo… lần lượt rời bỏ Bưng Biền quay về Thành. Những phong trào quốc gia trong và ngoài nước tự tìm nhau kết hợp, đoạn tuyệt với chính phủ Hồ chí Minh và chịu đặt dưới lãnh đạo của Cựu Hoàng Bảo Đại, thành lập mặt trận quốc gia, chống Việt Minh và tranh đấu với Pháp dành Độc Lập cho Tổ Quốc.
Các đảng phái Đồng Minh Hội, Quốc Dân Đảng, Dân Chủ Hội, Xã Hội Đảng, Cao Đài, Hòa Hảo…các yếu nhân từ Nam chí Bắc đã yêu cầu Cựu Hoàng Bảo Đại lãnh đạo phong trào quốc gia chống lại cộng sản, giao thiệp với Pháp ngõ hầu thực hiện thống nhất, tự do cho nước nhà.
Đằng sau Cựu Hoàng, một lực lượng quốc gia đang kiến tạo, đầy quả cảm, nhất trí ủng hộ Người. Tương lai Tổ Quốc, toàn thể quốc dân trông chờ Cựu Hoàng Bảo Đại.
Công khai đoạn tuyệt với Việt Minh, Cựu Hoàng đã tuyên bố với báo chí (Union Fracaire): ‘’Nếu tất cả dân chúng Việt Nam đặt tín nhiệm vào tôi, nếu sự hiện diện của tôi có lợi cho cuộc giao thiệp hòa hảo Việt-Pháp, tôi sẽ sung sướng mà trở lại Việt Nam. Tôi không hoạt động cho Việt Minh, không hoạt động cho đảng phái nào cả, tôi chỉ tranh đấu cho Tổ Quốc…’’
Lời tuyên bố của ông Trần Văn Tuyên, Đặc Ủy Viên của Cựu Hoàng tại Sài Gòn sau khi ở Hồng Kông về qua Hà Nội và Huế, đã nêu rõ đức tính cao cả, quãng đại và ý chí cương quyết của Người trong lập trường tranh đấu.
Cựu Hoàng Bảo Đại không phải là Cố Vấn Tối Cao của chính phủ Hồ chí Minh nữa, nhưng không vì thế mà gạt bỏ hẳn Việt Minh. Ngài sẽ ân cần thỏa thuận cho Việt Minh tham gia ý kiến trong cuộc thương thuyết với nước Pháp do Người hướng dẫn miễn là Việt Minh phải thành thật và đừng tự coi mình hơn các đảng phái khác.
Nếu chính phủ Hồ chí Minh từ chối sự ưu đãi do Người dành cho, sau cuộc thương thuyết, thực hiện được thống nhất, độc lập cho nước nhà, chính phủ do Người lãnh đạo sẽ coi Việt Minh là giặc và chính phủ của Người có nhiệm vụ phải dẹp yên.
Tinh thần quốc gia của Người còn được nhấn mạnh bằng câu nói: ‘’Nếu mai đây, nước Pháp thương thuyết với Hồ chí Minh thì tất cả những người quốc gia sẽ nhất tề nổi dậy chống cả Pháp lẫn Hồ chí Minh’’.
Lập trường của Cựu Hoàng đã rất rõ ràng. Lập trường quốc gia sáng tỏ, đúng ước nguyện quốc dân, được các cường quốc nhiệt liệt hoan nghênh ủng hộ.
Ý chí của Người rất cương quyết. Ý chí có dân làm hậu thuẫn, Người đã nói, đã hành động, điều vui cho quốc dân, điều lành cho giang sơn đất nước.
Trong khi chỉ vì chủ nghĩa vô sản, chính sách dĩ đảng trị quốc, dân tộc Việt Nam chịu quằn quại đồng thời dưới gót giầy đinh cứng nhọn của quân đội viễn chinh Pháp, dưới làn mưa bom đạn, với chiến thuật tiêu thổ, vườn không nhà trống của Việt Minh, ngày 9 tháng 9 năm 1947, hàng đoàn đại biểu từ đất nước bay sang Hồng Kông yết kiến Cựu Hoàng. Đại Biểu miền Nam có: Nguyễn Văn Tâm, Nguyễn Văn Sâm(Mặt Trận Liên Hiệp Quốc Gia) Nguyễn Phan Long (viết báo) Trần Quang Vinh (Cao Đài) v.v…Đại Biểu miền Trung: Trần Thanh Đạt (nguyên Thượng Thư Bộ Giáo Dục) Trần Văn Lý (Chủ Tịch Hội Đồng Chấp Chính Huế) Cao Văn Chiểu v.v…Đại Diện miền Bắc có: Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Tường Long v.v… (thuộc thành phần Hải Ngoại)
Trong khi Cựu Hoàng cùng những Đại Diện các đảng phái, các nhóm chính trị hội họp Hồng Kông tìmđường đi cho xứ sở thì ở nước nhà, khắp chốn, từ nơi núi rừng âm u cho đến nơi đồng chua nước mặn, mầu tang tóc đặc dầy bao phủ, mùi máu, lửa say nồng khét lẹt. Chiến thuật đại khủng bố của Nguyễn Bình miền Nam Việt đối với kế hoạch ‘’cloclo’’ của Tướng Valluy ngoài Bắc (Thu Đông 1947).
Việt Minh khủng bố đại quy mô để ngăn cản nhân dân ủng hộ Cựu Hoàng. Pháp cũng tấn công đại quy mô để tỏ cương quyết đối phó với Việt Minh, ở giữa dân chúng dơ đầu chịu báng. Dân Việt ép mình dưới hai làn mưa đạn. Sự nguy khốn của quốc dân khiến Cựu Hoàng vô cùng chua xót.
Trong lúc các người con ưu tú của quốc gia bao quanh Cựu Hoàng để định đoạt tương lai cho xứ sở, ở trong nước, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Xuân tích cực triệu tập nhân tài làm hậu thuẫn. Ngày 6.12.47 cuộc gặp gỡ đầu tiên công khai Việt-Pháp giữa Cựu Hoàng và Cao Ủy Bollaert trên chiến hạm Duguay-Trouin tại Vịnh Hạ Long.
Cuộc gặp gỡ để dò xét lập trường, để mở đầu mối giây liên lạc đã khiến cho đại diện Pháp phải nhìn nhận thấy lòng cương quyết của Cựu Hoàng trên phương diện Thống Nhất và Độc Lập cho tổ quốc. Không phải vì thiếu sót lực lượng quân sự mà Cựu Hoàng đã phải mềm, nhún với nước Pháp. Trái lại, Người quả quyết hơn bao giờ hết, trong việc đòi hỏi chân chính của Người: Độc Lập và Thống Nhất. Ý chí cương quyết ấy đã làm cho đại diện Pháp có lúc phải cau mày suy nghĩ: ‘’Cựu Hoàng đòi hỏi hơn Việt Minh. Cứng rắn hơn Việt Minh!’’. Một lần nữa, nước Pháp nhận thấy ý chí người dân Việt mà đại diện của họ là Cựu Hoàng.
Trước thái độ gay go của Đại Diện Pháp, Cựu Hoàng quyết định sang Pháp. Ngày 26.12.47, chiếc phi cơ tối tân Anh-cát-lợi cất cánh rời Hương Cảng đã đem theo vị lãnh tụ thân yêu của dân tộc Việt sang trốn trời Âu. Ngài dừng gót ở Biệt Thự riêng, lâu đài Thorenc tại Cannes. Ở đấy, để chính phủ Pháp trực tiếp hiểu rõ lập trường của dân tộc Việt trong cuộc tranh đấu dành Độc Lập Tự Do. Ở đây, để những người Pháp có nguyên nước Pháp, nhận rõ chân giá trị của người Việt Nam: Người Việt Nam mới trong cục diện Thế Giới mới.
Nước Pháp vì quá tự do nên có lắm chính đảng, nào cộng sản, nào Cộng Hòa Bình Dân, Xã Hội, Cấp Tiến, Độc Lập, Liên Hiệp Quốc Dân…Chính phủ và Quốc Hội Pháp là nơi tập họp các chính đảng, là nơi các đảng phái phân chia phần ảnh hưởng. Lắm chính đảng, lắm chính kiến, lắm chủ trương dị đồng, tư tưởng rách rời mỗi phe một mảnh. Tình trạng ấy vô cùng ảnh hưởng đến công cuộc tranh đấu của dân tộc Việt Nam, một dân tộc chưa dứt khoát với vòng cương tỏa Pháp-lan-tây.
Tháng 2.1948, Cựu Hoàng trực tiếp gặp gỡ các Chính Khách tại Kinh Thành Ba Lê, thăm dò ý kiến họ. Trước thái độ không dứt khoát, mâu thuẫn nhau của các nhóm chính trị lãnh đạo dân chúng Pháp công cuộc tranh đấu bằng ngoại giao và chính trị của Cựu Hoàng vấp phải bao nhiêu gay go, khó nhọc.
Xung khắc nhau về vấn đề Đông Dương, bất đồng ý kiến trong Quốc Hội giữa các đảng phái chính trị, giữa các bộ trưởng, Cựu Hoàng thấy con đường của Người đi còn lắm chông gai, trắc trở. Tháng 3 cùng năm ấy, Người quyết định quay trở lại Hồng Kông.
Chọn Hồng Kông! Ngay từ khi còn ở Trùng Khánh, Cựu Hoàng đã sáng suốt nhận thấy, muốn lãnh đạo trực tiếp công việc nước nhà, Người không thể trú ngụ tại Trùng Khánh hay Nam Kinh hay trên một lãnh thổ nào khác biệt, mà đích thân Người phải về Hồng Kông, sát ngay biên giới. Sự hiện diện của Người ở sát cạnh nước nhà sẽ đem lại bao nhiêu dễ dàng cho hoạt động của các chính khách quốc gia, do đó, Người dễ dàng theo dõi cặn kẽ tình hình trong nước, dễ dàng đo đắn mỗi bước tiến, nói chung và nói riêng.
Thái độ của Pháp đầu năm 1948 đối với Việt Nam thật chẳng tiến bộ chút nào so với năm 1946. Pháp muốn bóp nghẹt Việt Minh, muốn diệt tan quân ‘’kháng chiến’’, hy vọng thương thuyết hòa bình với Cựu Hoàng Bảo Đại và những phần tử quốc gia nhưng Pháp vẫn khư khư chưa dám hé răng tuyên bố hai chữ Độc Lập. Chắc Pháp quan niệm rằng một khi tuyên bố Độc Lập là Việt Nam sẽ thẳng cánh mời Pháp kiều cư trú trên giải đất Việt Nam phải sách khăn gói ra tài ? Quan niệm như vậy có nghĩa là Việt Nam sẽ mặc nhiên chiếm đồn điền, hầm mỏ và muôn vàn quyền lợi khác, ‘’của mồ hôi’’ của Pháp trong 80 năm ‘’làm
ăn lương thiện’’. Quan niệm như vậy có nghĩa là nền văn hóa Pháp sẽ bị tiêu diệt trên lãnh thổ Việt Nam. Bởi vì xét cho đúng và đến cùng, giàng buộc nhau để làm gì nếu không thể hưởng quyền lợi phi vật chất thì tinh thần ? Trái lại, Cựu Hoàng tượng trưng một quan niệm khác hẳn: Phải dứt khoát, Độc Lập nước nhà, nền độc lập mà cha ông đã chót lỡ đánh mất trên 80 năm Thống Nhất lãnh thổ vì non sông bị chia xẻ, xé rách. Quan niệm đó là quan niệm của cả một dân tộc, một quan niệm chính xác và đứng đắn, không thể ai nếu đã có giòng máu Việt Nam chạy trong huyết quản, lương thiện biết yêu nước, vi phạm nó, làm tổn thương nó.
Hai năm đầy chết chóc, tốn của hao người để rồi vẫn đi đến chỗ phải thương thuyết trên nguyên tắc Thống Nhất và Độc Lập, Pháp thật đã rút nhiều kinh nghiệm cũng đau thương.
Dư luận Pháp rêu rao rằng điều kiện của Cựu Hoàng nêu ra nhiều nhất hơn điều kiện của Việt Minh. Năm 1946, Việt Minh đã đồng ý thỏa thuận hai chữ Tự Do, lồng Việt Nam trong hai khung: Liên Bang Đông Dương và Liên Hiệp Pháp. Đến nay phe Quốc Gia đòi hơn nữa…Họ đòi Độc Lập!… Dư luận Pháp khó chịu với những câu Độc Lập, Thống Nhất của Cựu Hoàng, khi đã kém thiện chí không chịu nhìn nhận đến vấn đề thời gian: Đã gần hai năm, nhà cửa Việt Nam đã tan nát, gia đình Việt Nam đã bơ vơ, bao cô nhi quả phụ, bao chết chóc đau thương. Sự thể ấy phải đánh giá bằng Thống Nhất và Độc Lập. Cựu Hoàng chỉ chủ trương một việc dĩ nhiên của lịch sử, không đòi hỏi gì quá quắt. Nếu Pháp bảo Pháp cũng tốn tiền, thiệt máu ở trận giặc Đông Dương, việc đó đúng, nhưng người Pháp phải nhận rằng: Trong hàng ngũ kháng chiến, đại đa số không cộng sản vẫn sẵn lòng nghe theo tiếng gọi của Cựu Hoàng khi nước nhà đã được độc lập, lãnh thổ đã được thống nhất. Quân đội Pháp đã bắn vào đầu cái ‘’đại đa số’’ quốc gia kháng chiến ấy, thì việc tốn máu của quân viễn chinh Pháp kiều thuộc địa có nghĩa lý gì đâu.
Lập trường ‘’nhất định’’ của Pháp và nguyên tắc ‘’cứng cõi’’ của Việt Nam chẳng lẽ không có biện pháp nào dung hòa được. Trên thế giới còn biết bao nhiêu rắc rối tơ vò hơn nữa người ta vẩn gỡ được thường huống chi vấn đề Việt-Pháp, vấn đề gia đình và ‘’nội bộ’’, chỉ cần có thiện chí xây dựng, có tin tưởng lẫn nhau.
Giải quyết được Thống Nhất và Độc Lập của Việt Nam tức là Việt-Pháp có thể vui vẻ đề huề trong tình bang giao hữu nghị. Ngược lại, hai dân tộc đã hao người tốn của sẽ hao người tốn của nhiều hơn nữa để rồi cũng phải đi đến một giải pháp thích hợp với trào lưu tiến hóa của nhân loại. Giải pháp thứ hai ai cũng có thể biết rõ sẽ chẳng có lợi gì thêm cho Pháp.
Cuối tháng 4.1948, vài chính khách Nam Việt bay sang Hồng Kông. Việc giải quyết vấn đề thống nhất bắt đầu thành tựu. Trên thực tế, chính phủ Lâm Thời Nam Phần Việt Nam giải tán (chính phủ có tính chất địa phương này thành lập tháng 10.1947 do Thiếu Tướng Nguyễn Văn Xuân làm Chủ Tịch gồm toàn nhân vật miền Nam)
Giải tán chính phủ Nam Phần để tiến tới thành lập một chính phủ trung ương toàn quốc. Cựu Hoàng đã thành công một phần trong sự nghiệp tranh đấu của Người giữa những lời than vãn la ó vô duyên của một số người Pháp thuộc địa chưa thức thời và một số ít phần tử có óc phân ly. Nhưng mặc la ó, mặc than vãn, một chính phủ toàn quốc, nghiễm nhiên ra đời. Cuối tháng 5.1948, tại Hồng Kông, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Xuân đệ trình lên Cựu Hoàng danh sách của chính phủ Trung Ương Lâm Thời Việt Nam:
Thủ Tướng: Thiếu Tướng Nguyễn Văn Xuân.
Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trấn Nam Việt: Trần Văn Hữu
Quốc Vụ Khanh kiêm Tổng Trấn Bắc Việt: Nghiêm Xuân Thiện
Quốc Vụ Khanh kiêm Tổng Trấn Trung Việt: Phan Văn Giáo
Bộ Trưởng Bộ Tư Pháp: Nguyễn Khắc Vệ
Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục: Nguyễn Khoa Toàn
Bộ Trưởng Bộ Kinh Tài: Nguyễn Văn Vinh
Bộ Trưởng Bộ Thông Tin Tuyên Truyền: Phan Huy Đán
Bộ Trưởng Bộ Canh Nông: Trần Thiện Vàng
Bộ Trưởng Bộ Y Tế: Đặng Hữu Chí
Bộ Trưởng Bộ Công Chính: Nguyễn Văn Ty
Thứ Trưởng Dinh Thủ Tướng: Đinh Xuân Quảng
Thứ Trưởng Bộ Nội Vụ: Đỗ Quang Giai
Thứ Trưởng Bộ Lao Động: Ngô Quốc Côn
Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng: Trần Quang Vinh
Thủ Tướng chính phủ mới tuyên bố sẵn sàng ủng hộ và tuân theo Cựu Hoàng để phụng sự xứ sở Việt Nam, đồng thời bên Pháp chính phủ Schuman cũng tỏ ý hoan nghênh việc thành lập chính phủ Trung Ương Lâm Thời Việt Nam. Hành động hòa nhịp đã báo hiệu một tương lai tốt đẹp cho đất nước.
Trong lúc non sông Việt còn đang mịt mùng trong khói lửa, Cựu Hoàng đã đem tia sáng cho tương lai mặc dầu ánh sáng còn yếu ớt.
Ngày 5 tháng 6 năm 1948, trên chiến hạm Duguay Trouin ngoài Vịnh Hạ Long, Cựu Hoàng chứng kiến Cao Ủy Bollaert và Thủ Tướng Nguyễn Văn Xuân ký Thỏa Hiệp, một cái ‘’bắt tay xây dựng’’ đầu tiên của hai dân tộc.
Chữ Độc Lập tôn kính và trìu mến đã mất ngót một thế kỷ, dân việt ngày nay lại được nghe, được đọc, được công khai ấp ủ trong lòng.
Theo Thỏa Hiệp, Pháp công nhận nền Độc Lập của Việt Nam, Việt Nam sẽ tuyên bố gia nhập Liên Hiệp Pháp.
Việt Nam sẽ phải bảo đảm quyền lợi của Pháp trên lãnh thổ Việt Nam và dành cho các kỹ thuật gia Pháp quyền ưu tiên công tác trong công cuộc kiến thiết xứ sở.
Các Đại Diện của chính phủ Trung Ương Lâm Thời Việt Nam và các Đại Diện của chính phủ Cộng Hòa Pháp sẽ được triệu tập để thương thuyết, bàn soạn về vấn đề văn hóa, ngoại giao, quân sự, kinh tài, kỹ thuật.
Trên giấy tờ, nền Độc Lập đã được tạm thời công nhận. Muốn xóa hẳn hai chữ tạm thời, hay nói một cách khác, muốn Độc Lập thực sự, Độc Lập mà từ chính phủ cho đến dân ‘’bạch đinh’’, mọi người đều trông thấy, nhận thực là thấy, Cựu Hoàng và các người con yêu đất nước còn phải tranh đấu nhiều, tranh đấu nữa.
Sau khi chứng kiến việc ký kết Thỏa Hiệp Hạ Long Cựu Hoàng lại rời sang Âu Châu. Người sang đó để đặt thêm viên đá xây dựng cho nước Việt Nam độc lập vững chắc hơn, hoàn hảo hơn. Thỏa Hiệp Hạ Long, bước đầu thành công của Cựu Hoàng, là niềm vui cho dân tộc, điềm lành cho những người dân chất phác dầy lòng yêu nước thì nó lại là nỗi thắc mắc cho hai phái người: Phái Thực Dân Và Phái Cộng Sản.
1.- Thiểu số thực dân Pháp làm quyền lợi ở Việt Nam bao giờ cũng chỉ muốn dân Việt Nam làm nô lệ để họ có quyền quật chết trong hầm mỏ, trong đồn điền cao xu, cà phê bao la rộng rãi, đầy muỗi khổng lồ và ‘’ghẻ hùm’’. Quật chết mới ra tiền, đó là phương châm không thay đổi của lý thuyết thực dân địa. Họ la ó, dóng trống, khua chiêng, quát tháo, đập bàn, đập ghế, đổ tội cho Thiếu Tướng Nguyễn Văn Xuân là người nguy hiểm vì đã yêu nước Việt Nam, là người ‘’quốc gia, đáng sợ’’, để cảnh cáo chính quốc. Họ phản đối cả Cao Ủy Bollaert là người đã thay mặt chính phủ họ, Họ phản đối Thỏa hiệp Hạ Long đổ tội Thượng Sứ Pháp để vứt bỏ ‘’quyền lợi tối thiêng liêng’’ của những người Pháp ở Việt Nam.
Tóm lại, họ muốn cái túi tiền của riêng họ càng ngày càng dầy ra bằng đề nghị cũ cắt Nam Việt ra khỏi lãnh thổ Việt Nam với chế độ thuộc địa, cứ lập lại nền Bảo Hộ Bắc, Trung như trước khi có chiến tranh thế giới, dẹp tan bọn ‘’phiến loạn’’ bằng chiến thuật đánh mau, đánh mạnh…Và lập luận đi lập luận lại, các ông ấy đã chót quên, coi như không ai phải đổ máu trong trận giặc và giá trị của cuộc đổ máu do cần phải được đánh cân bằng. Người dân Việt chết, không chú ý, thanh niên Pháp bị hy sinh cũng thây kệ, tới thiểu số người Pháp không biết điều, chỉ nghĩ đến phệ bụng, tây riêng. Tiếng kêu của các ông ấy, như tiếng vo vo
của loài muỗi mắc trước ngọn gió mát trong bầu trời trong đẹp.
2.- Người cộng sản Việt Nam đã đoạt được chính quyền mùa Thu năm 1945. Đã ngót hai năm, họ lãnh đạo cuộc kháng chiến. Quần chúng theo họ rất nhiều, vì quần chúng yêu nước mà cộng sản đã dựng bình phong ái quốc che đậy lý tưởng của họ. Quần chúng chưa trưởng thành về chính trị nhưng quần chúng có tinh thần yêu nước rạt rào. Họ đập tan những cái gì là chướng ngại vật trên con đường dành độc lập. Nếu như Phong Trào Cần Vương, phong trào khởi nghĩa, những vụ bạo động…trong 80 năm là những gợn sóng lăn tăn, bé bỏng trong quá trình tiềm tiến của cuộc đấu tranh dành độc lập, thì phong trào theo Việt Minh năm 1945 đã là một bộc phát tất nhiên không thể nào kìm hãm được. Lúc sơ khởi công cuộc hoạt động của Cựu Hoàng không khỏi vấp phải phẩm bình của đa số quần chúng nhất là số quần chúng trong ảnh hưởng Việt Minh, nói một cách ‘’địa dư’’ hơn, nghĩa là số quần chúng ở bên kia ‘’lằn mức’’. Đấy là một thực trạng không thể nào không công nhận và cũng không thể nào lên án quần chúng khi họ không bao giờ được biết sự thực, không bao giờ có dịp nghe đích ngôn của vị Quốc Trưởng lưu vong đã xa họ trong thời gian, trong không gian và nhất là qua bầu không khí dầy đặc của một phương pháp tuyên truyền ghê gớm. Lợi dụng những kết cấu tự nhiên đó, Việt Minh chỉ việc bịt thêm cho kín ‘’lỗ thông hơi’’ để nung thêm sức kháng chiến của dân tộc, với mục đích quyết thành lập chính quyền vô sản ở Đông Dương.
Từ khi Cựu Hoàng bôn tẩu Trung Hoa, Việt Minh mặc sức tung hoành trong nước không lo sợ một cản trở tinh thần nào. Cụ Hồ gửi điện cho phái đoàn Nghiêm Kế Tổ bảo cứ việc ở Trùng Khánh muốn bao giờ về nước thì về. Giá nói một cách ‘’trắng trợn’’ thì nghĩa là cụ Hồ bảo những người đã ra đi đừng nên trở lại.
Từ khi Hoàng siêu Hải, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn Thủ Đô, kéo bộ đội rời khỏi Hà Nội, Việt Minh đã áp dụng chiến thuật rút lui để bảo tồn lực lượng. Lực lượng đây, vật chất thì ít nhưng tinh thần thì nhiều. Việt Minh tránh những vụ bị tiêu diệt để quần chúng khỏi hoang mang, để quân đội khỏi mất tinh thần chiến đấu. Sau vụ Hà Nội, hầu hết những tỉnh thành lớn, những trục giao thông quan trọng lần lần lọt vào tay quân đội Pháp. Quân viễn chính Pháp lập các đồn ải để canh giữ những vùng chiếm được. Từ đồn ải, các chỉ huy Pháp tung quân tảo thanh từng khu vực lẻ, áp dụng chiến thuật ‘’vết dầu loang’’ hòng tiêu diệt địch, song song với chính sách ‘’tam quang’’ muốn dân tâm khiếp đảm để bỏ hàng ngũ Việt Minh quay về quy thuận quân đội Pháp. Trận đánh ra Đồng Tháp Mười miền Nam, trận bình định Cao Nguyên Ban Mê Thuột, hay cuộc hành binh LEA chiếm Cao Bằng Bắc Kạn là những tiếng vang lớn làm vững lòng về phía Pháp. Pháp hành quân chớp nhoáng, về phương diện chiến thuật, Pháp thắng thế hoàn toàn, làm chủ động trên chiến trường toàn quốc. Kế hoạch của Pháp dựa vào kỹ thuật, dựa vào khí cụ nặng nề, dựa vào hỏa lực ào ạt và rầm rộ’’.
Trái lại, quan niệm của Việt Minh ngược hẳn, Việt Minh dùng nhu chống cương, dùng thủ chống công, áp dụng chiến thuật du kích. Đối với thắng lớn của quân đội Pháp, Việt Minh trả đũa trận La Ngà, trận TầmVu, trận Sông Lô…Việt Minh tận dụng khả năng tuyên truyền để phát triển tinh thần nhân dân.
Trường Chinh đã vạch rõ 3 giai đoạn phỏng theo 3 giai đoạn của cuộc Trường Kỳ Kháng Chiến của Mao Trạch Đông, đã áp dụng trong cuộc chiến đấu của Hồng Quân Trung Hoa với Quân Đội của Tưởng Thống Chế:
1.- Bảo tồn lực lượng.
2.- Cầm cự.
3.- Tổng phản công.
Cộng sản Việt Nam tuyên truyền cuộc Trường Kỳ Kháng Chiến và huấn luyện chiến lược ấy cho quân đội, cho cán bộ, cho quần chúng chất phác.
Về phương diện quân sự, từ 19 tháng 12 năm 46 đến trận Lô Giang cuối năm 1947, Việt Minh tuyên bố chấm dứt giai đoạn Bảo tồn chủ lực. Trong giai đoạn ấy, Việt Minh đã cố gắng huấn luyện cán bộ, tuyển mộ tân binh, thành lập căn cứ địa.
Biết tin Cựu Hoàng hiện đang hoạt động ở Hương Cảng, tiếp xúc với những lãnh tụ của các nhóm chính trị quốc gia, mưu việc tranh đấu giành lại Thống Nhất và Độc Lập cho đất nước bằng ngoại giao. Chính
phủ Việt Minh vô cùng lo ngại.
Nếu để Cựu Hoàng thành công trong việc điều đình với Pháp, nhất định toàn dân sẽ rời bỏ hàng ngũ kháng chiến quay về với Cựu Hoàng và như vậy, những cố gắng của các lãnh tụ Việt Minh mưu đồ vô sản hóa Việt Nam sẽ bị tiêu ma như công dã tràng.
Với hy vọng làm hành động của Cựu Hoàng trở thành bất hợp pháp, các người lãnh đạo Việt Minh tuyên bố luôn rằng Cựu Hoàng vẫn còn là Cố Vấn Tối Cao của chính phủ Dân Chủ Cộng Hòa, để nhấn mạnh vai trò ‘’độc quyền điều đình’’ của chính phủ họ với Pháp.
Một mặt bộ máy tuyên truyền của Việt Minh nào khẩu hiệu, biểu ngữ, truyền đơn, nào hội họp, mít tinh, biểu tình, rầm rộ phản đối, đả đảo bộ ba Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Văn Sâm, những người mà Việt Minh tưởng rằng sẽ đứng ra thành lập một chính phủ quốc gia đương đầu với họ. Việt Minh đã đặt những chuyện xấu xa gán cho các nhà cách mệnh quốc gia, thêm bớt phóng đại ra để gây công phẫn trong dân chúng, hướng dẫn tâm lý họ, hòng làm tê liệt hoạt động của Cựu Hoàng, làm giảm thanh danh, uy tín của các lãnh tụ phe đối lập.
Mặt khác, chính phủ Việt Minh cải tổ. Tác dụng của sự cải tổ này là để đánh lạc hướng nhận định của các chính khách Pháp, để vờ tỏ thái độ khuynh hữu của chính phủ mình, để nước Pháp ngừng dự định thương thuyết với Cựu Hoàng. Sự cải tổ còn có dụng ý làm cho đa số dân chúng chất phác nông cạn lầmtưởng đó là một chính phủ dân chủ tự do, một chính phủ liên hiệp rộng rãi, tượng trưng tinh thần đoàn kết toàn dân.
Người ta thấy:
Võ nguyên Giáp tách khỏi địa vị một bộ trưởng để nắm giữ chức vụ mới: Tổng tư lệnh quân đội chính quy và dân quân du kích.
Tạ Quang Bửu, không đảng phái (!) giữ ghế bộ trưởng bộ quốc phòng.
Phan Kế Toại (Cựu Khâm Sai Bắc Kỳ thời Nhật) giữ ghế bộ trưởng bộ nội vụ (ba tháng sau mới nhận việc).
Phan Anh giữ bộ kinh tế.
Hoàng Minh Giám giữ bộ ngoại giao.
Chịu nhẫn nại. Chính phủ Pháp phái ông Paul Mus gặp gỡ Hoàng minh Giám nhưng quan điểm trái ngược của hai bên đã khiến cuộc hội kiến Giám-Mus hoàn toàn vô ích, không đem lại một kết quả nào. Cuối năm 1947, Cao Ủy Bollaert đọc một bài diễn văn đặc biệt ở Hà Đông, vạch rõ đường lối cương quyết không chịu ‘’lép vế’’ của chính phủ Pháp.
Hiểu như vậy, chính phủ Việt Minh, tuyệt vọng về biển pháp ngoại giao, đổ dồn vào chỉnh bị lực lượng quân sự.
Với khẩu hiệu ‘’ủng hộ bộ đội’’, Việt Minh mạnh mẽ tuyên truyền hấp dẫn dân chúng. Tất cả các cơ quan quân, dân, chính phải triệt để áp dụng ‘’cần kiệm liêm chính’’ mục đích dự trữ tiềm lực trong cuộc chiến tranh lâu dài. Bộ trưởng tài chính Lê văn Hiến phát hành thêm giấy bạc để đủ chi dùng cho quân sự. Công tác tăng gia sản xuất được thi hành với kế hoạch cụ thể.
Dưới bàn tay họ Võ, bộ máy quân sự được cải tổ vĩ đại. Thiết lập các cơ quan đầu não cầu yếu như:
Cục chính trị dưới quyền Thiếu Tướng Văn tiến Dũng.
Cục tham mưu dưới quyền Thiếu Tướng Hoàng văn Thái.
Cục tình báo dưới quyền Đại Tá Trần Hiệu.
Các khu quân sự trong toàn quốc đều do các tướng lĩnh cộng sản chỉ huy.
Tướng Nguyễn Bình, Tư lệnh miền Nam Việt.
Tướng Nguyễn Sơn, Tư lệnh miền Trung Việt
Tướng Chu văn Tấn, Tư lệnh miền rừng núi Đông Việt Bắc.
Tướng Hoàng Sâm, Tư lệnh miền đồng bằng Bắc Việt.
Đại Tá Bằng Giang, Tư lệnh miền rừng núi Tây Việt Bắc.
Tổ chức không chiến tiến đến có quy củ, phương tiện quân sự được tận dụng để củng cố đường lối chính trị.
Đầu năm 1948, hình thái chiến tranh đã cắt xẻ lãnh thổ Việt Nam rã rời ra từng mảnh, quân đội hai bên đi sát vào hậu tuyến của nhau hình dung một mặt trận xen kẽ sâu và rộng.
Cuộc chiến tranh vô phòng tuyến đã làm nhân dân vô cùng đau khổ. Trong khi hai quân đội rình lẫn nhau để tiêu diệt nhau thì dân chúng bị mắc nghẹt ở giữa hai luồng súng đạn. Người dân lành luôn luôn bị mất trâu bò, sản nghiệp khi xóm làng của họ bỗng chốc biến thành bãi chiến trường.
Việt Minh thúc đẩy những đứa con yêu của đất nước nằm gai nếm mật, ngày uống nước suối, tối phơi sương làm mồi cho muỗi độc, thiếu cơm gạo, thiếu cả thuốc men và cũng tương tự như vậy, những thanh niên ưu tú của nước Pháp Dân Chủ, Văn Minh, ngày ngày ngụp lội trong bùn lầy, len lõi trong rừng hoang, phơi mưa phơi nắng.
Hai bên quân đội luôn tìm nhau để đưa một bên xuống suối vàng và bên còn lại cũng không kém phần ngoắc ngoải.
Vì Tự Do, Dân Chủ ?
Vì đấu tranh giai cấp
NGƯỜI DÂN TRONG CƠN GIÔNG TỐ
Việt Minh lãnh đạo người dân kháng chiến, tiêu thổ kháng chiến. Chiến thuật Bảo tồn lực lượng được tích cực thi hành bên cạnh chính sách Vườn không, Nhà trống.
Nhà cửa san bằng, đô thị tàn phá, đường xá bị cắt xẻ, cầu cống bị phá hủy, của cải nếu chưa kịp mang đi phải đốt cháy.
Dân pháp nhà dân, dân quăng vứt đồ đạc của mình ra đường phố làm chướng ngại vật, dân vót gậy tre, sắm mắc nhọn, dùng kiếm gỗ ra đối phó với súng ống đạn dược.
Già, trẻ, trai, gái vác bị gậy tản cư của ủy ban. Người dân đã tỏ rõ lòng yêu nước vô bờ bến, quyết theo một chính phủ mà họ chắc rằng ‘’quốc gia chân chính’’. Họ quyết trung thành với ‘’Già Hồ’’ mà họ đinh ninh rằng đó là ‘’Người cha yêu độc nhất của dân tộc Việt Nam’’.
‘’Ở lại là Việt Gian’’
Vậy thì không thể ở lại được, người dân Việt không muốn có tư tưởng ‘’ở lại’’. Và rồi, như những chiếc lá lìa cành bị trận cuồng phong thổi liên tiếp, người dân ra đi, bên tai văng vẳng tiếng loa gọi tản cư liên miên trên quãng đường vô định.
Trong đầu óc họ, hình ảnh cụ Hồ và lời thề ái quốc tại vườn hoa Ba Đình vẫn phảng phất: Thề không đi lính cho Pháp! Thề không đưa đường chỉ lối cho Pháp! Thề không tiếp tế cho Pháp!… Người dân chỉ biết thế. Họ có nghĩ đâu đến sự thật trong sân khấu chính trị, hiểu đâu đến tâm tư và bước đường bôn tẩu của Cựu Hoàng, biết đâu đến manh tâm của những người định dẫn dắt họ theo một lý tưởng ngoại lai. Người dân Việt chỉ biết cần phải tản cư để giữ trọn lời thề với non sông. Chiến tranh xẩy ra mau lẹ, quá đến nỗi cụ Hồ cũng chẳng đủ thời giờ nghĩ đến dân con. Thôi thì mạnh ai người ấy chạy, gia đình ai người ấy lo. Ngay đến binh sĩ của họ Võ, nhân viên của Hoàng hữu Nam cũng còn lúng ta lúng túng với súng ống đạn dược, máy chữ, tài liệu, sổ cách để ‘’bảo tồn chủ lực’’ còn nói chi đến những người dân chất phác.
Tất cả đều cố gắng lẩn tránh làn đạn nóng của quân đội Pháp. Tất cả đều thất tán, tung khăn sô áo trước những tiếng gầm kinh khủng của đủ loại khí giới giết người.
Trong cơn hỗn loạn tơi bời, đoàn cơ giới tối tân, từng chiến thắng Berlin còn phân biệt ai là Việt Minh, ai là dân chúng nữa mà chẳng ngang tàng tung ngói bụi trùm khắp đô thị của Việt Nam bé bỏng, ngày đêm
nghiền nát xương thịt trong máu lửa đầy chết chóc hoang tàn.
Chiến tranh phô bầy một hình thái đặc biệt. Ở miền Nam nước Việt, dân chúng chẳng kịp tản cư và bộ đội Việt Minh tan vỡ ngay trong chớp nhoáng. Việt Minh lẫn vào dân chúng. Từ thành thị đến thôn quê, dân chúng, vẫn bám lấy đất sống của mình.
Chìm đắm giữa biển người, quân đội Pháp bỗng nhiên biến thành một loại ‘’lính sen đầm’’ đi tầm nã ‘’quân phiến loạn’’. Dưới mắt người lính Pháp, Việt Minh thành ra vô hình vô ảnh, Việt Minh dễ dàng hành động, dễ dàng ám sát, bắt cóc. Hành động ấy đem lại sự tức giận cho người lính Tây phương và thường khi những giận dữ đó được trút thẳng lên đầu đám dân vô tội.
Người Pháp chiếm gần hết Nam Bộ nhưng bí mật, đất đai vẫn chia rõ ràng hai khu vực ảnh hưởng. Người dân ở vùng ‘’tạm chiếm’’ có cả thẻ căn cước lẫn thẻ công dân. Chỉ lên xe hơi ra cách tỉnh thành ít cây số là có công an Việt Minh hoặc dân quân đón đường hỏi giấy và rồi muốn đi đâu túy ý. Tiền Đông Dương của người dân mang ra khỏi Sài Gòn qua một trạm gác Việt Minh sẽ được ngay cơ quan đóng dấu ‘’Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Độc Lập-Tự Do-Hạnh Phúc’’ lên trên rồi lại trả cho người dân. Ở Nam Bộ, chiến tranh gần như một trò đùa nếu không có những sự tàn sát trong các xóm bị tình nghi. Trên đất Bắc, chiến tranh có đủ mọi hình mọi vẻ.
Nơi đây, người dân chịu hy sinh tuyệt đối, tất cả chiến công của những đơn vị anh hùng, tất cả hành vi chính trị, khôn khéo của mọi chính khách hợp lại cũng không thể sánh nổi tinh thần hy sinh của người dân. Trong khi một số người thức thời đã bay đi ngoại quốc, trong khi quân đội Việt Minh còn non yếu đang tản mác cố gắng tránh làn mưa đạn của quân đội Pháp thì riêng người dân, tuy đau khổ, tuy hỗn loạn, tuy vô tổ chức, đã phải đứng mũi chịu sào trước đoàn cơ giới hung hăng. Từng đợt Spitfire, King Cobra khạc đạn 20 ly ròn hơn pháo Tết, bom lửa bay vù vù, trái phá nổ mù mịt đại liên nhả đạn xuốt tối ngày, và lưỡi lê tuốt trần, nhọn hoắt đẫm máu đào.
Chẳng lẽ chịu chết một cách hèn mọn, người dân vùng dậy ngăn bước tiến của những bánh xe xúc xích, cản bước tiến của những gót giầy đinh để được đủ thì giờ cho những người thân yêu chạy loạn. Thanh niên vùng dậy với mác nhọn với cung tên, với gậy gộc, với dao mòn kiếm rỉ để che trở cho cha mẹ, vợ con đang trào trạt như sóng ngoài đồng lúa giữa cơn bão quẩn của khói lửa. Người dân hy sinh hết cả để tản cư. Đằng sau bỏ lại sản nghiệp của cha ông, và xa dần, xa mãi, xa vĩnh viễn những đứa con thân yêu đang cương quyết và lạnh lùng dang hai tay chắn mũi súng đuổi theo cha mẹ chúng.
Những người con yêu quý của dân tộc, những người dân thuần túy giòng máu Việt Nam hoặc chưa chạy kịp hoặc chưa muốn chạy vì mọi lẽ, vô tình đã hứng tất cả những hung bạo của đòn thù. Đấy là một sự bỉ ổi nhất trong lịch sử: Trả thù.
Sự trả thù hoàn toàn có tính cách cá nhân và địa phương. Tất cả những kẻ đã từng bị quân đội Phù Tang làm nhục, tất cả những kẻ từng bị Việt Minh làm nhục, giờ đây được thể trút oán hờn lên đầu đám dân vô tội. Bắn từng xâu, đâm chết từng xâu, hiếp hàng dàn con gái…và để rồi mãi mãi, toàn thế giới cũng như dân tộc Việt Nam phải ngậm ngùi trầm lặng trước những nấm mồ ‘’nạn nhân chiến tranh’’ cao ngất giữa Thủ Đô Hà Nội.
Tất cả đã ra đi, tung tóe tản mạn bốn phương. Những người tản cư bắt đầu tập hợp thành muôn vàn tổ sống. Hoặc trên khoảng đất rộng ngã ba đường, hoặc tại những phủ huyện lỵ xưa, hoặc trên các sườn đồi thơ mộng, dân chúng dừng chân, trát vách lợp dăm ba quán hàng tìm kế sinh nhai. Sự sống trở lại yên tĩnh trong một thời gian ngắn ngủi.
Những ‘’thị trấn’’ mọc lên như nấm, nho nhỏ, xinh xinh. Người tản cư lại bình tâm, quên chết chóc, sống hồn nhiên với cuộc đời hy vọng, mặc dầu ngày ngày máy bay vẫn đến thám vài ba lượt…đạn dội từng tràng.
Cuộc chiến đấu ngày càng gay go. Những trái bom trút xuống ngày thêm ròn rã.
Lúc đầu, dân chúng còn kinh hoảng vì những loại bom lợn con rơi từ lưng trời, nhưng lâu dần cũng đâmquen. Bom! Đã có hầm trú ẩn. Những kẻ chân yếu tay mềm, muôn thuở tưởng chừng trói gà không nổi mà
nay cũng cuốc, cũng xẻng để đào hố dấu mình. Những kẻ nhát gan, sợ ma sợ quỷ nhất đã thành những kẻ đi đêm mạnh dạn nhất vì họ không sợ ma quỷ bằng sợ những viên đạn hung dữ ban ngày. Đại đa số dân chúng miền quê xa tiền tuyến đã đủ thời giờ để chuẩn bị, ruộng vẫn cầy, mạ vẫn reo. Họ sống ung dung và niềm nở đón tiếp đồng bào tản cư. Thỉnh thoảng một vài mâu thuẫn về phong tục đã đẩy ra nhưng cũng không đáng kể. Người dân thành thị đã mang đến cho người dân đồng quê những cải cách mới lạ về sinh hoạt và ngược lại họ cũng nhận được của đồng bào thôn dã đức tính chuyên cần, giản dị. Rồi đến làng mạc thôn xóm cũng lần lượt bốc cháy vì bom đạn. Người dân đã chung lưng góp sức dựng lại nhà cửa, băng bó lại vết thương. Toàn dân Việt đã biết đoàn kết để an ủi nhau trong hoạn nạn. Số dân tản cư ngày mỗi nhiều. Quân đội Pháp càng ngày càng mở rộng mặt trận.
Những người tản cư cũ lại xê dịch đi chút nữa và những người tản cư mới bắt đầu rời bỏ quê hương, cứ như thế mãi. Dân chúng với cuộc đời vô định đã làm mồi dần cho muỗi độc, cho lam sơn chướng khí, cho bon đạn, cho các trận càn quét…
Hoàn cảnh vật chất đã thay đổi hẳn tâm tình con người. Những cô tiểu thư trước cao quý kiêu ngạo bao nhiêu nay dễ tính, chăm làm bấy nhiêu, bằng lòng gánh nước đỡ mẹ, bằng lòng đeo bị bán hàng rong và đôi khi bằng lòng lấy các anh chàng ‘’mán-xá’’.
Những bà đài các ở thành thị vui vẻ khi đặt quang gánh lên vai kĩu kịt thúng xôi chè hay trầm tĩnh bên gia tài chỉ còn vẻn vẹn một quán nước con con.
Nhưng, tất cả sản nghiệp mất đi, chưa đủ, ngày ngày dơ đầu hứng bom và đạn, chưa đủ, ngày ngày lên cơn sốt rét chưa đủ, người dân còn phải hứng một điều đau khổ về tinh thần trên sức chịu đựng: Những vụ bắt bớ liên tiếp với lời xỉ vả ‘’Việt gian’’.
Nếu quân đội Pháp có bắt được dân tưởng lầm là Việt Minh mà giết đi chăng nữa, sự chết đó cũng không đau lòng lắm bằng theo chính phủ mà chính phủ lại xử bắn vì tội…Việt gian. Thật là cay đắng, mỉa mai và chua xót!!
Những người bắt ‘’Việt gian’’ thường khi chẳng phải là công an mà cũng chỉ là dân như những người tản cư. Đấy là những dân quê giữ nhiệm vụ canh gác làng mạc và nếu mặt trận tràn tới, họ cũng sẽ lại tản cư để rồi cũng có thể bị những người dân vùng khác tình nghi và bắt bớ.
Những cớ để bị bắt trên bước đường tản cư vô định của dân chúng thật là thiên hình vạn trạng. Cô tiểu thư vô tình cầm gương soi trong khi có tiếng động cơ máy bay tận phía chơn trời: Đúng là Việt gian báo hiệu cho không quân Pháp đến bắn phá. Một cái mũ trắng đội trên đầu, một chiếc nón phe phẩy cho mát trên cánh đồng mênh mông, thậm chí một kẻ ngồi ‘’đại tiện’’ trên góc quả đồi trơ trọi cũng bị nghi là Việt gian báo hiệu cho địch. Rồi một vài nén hương châm cắm vô tình trên phần mộ, rồi tờ giấy bạc của bao thuốc lá thơm ném bâng quơ trên bãi cỏ, Việt gian, Việt gian tất…Một học sinh đem theo trong người chiếc bút chì nhiều mầu hay một cụ già mặc chiếc áo sa-tanh cũ trong có mép vải viền tam tài: Đấy là cờ của Pháp, đấy là những dấu hiệu để Việt gian nhận nhau cho dễ. Một cán bộ tình báo cao cấp của Việt Minh chỉ vì đi chiếc xe đạp sơn xanh trắng đỏ đã đến nỗi bị dân quân địa phương giam 6 ngày trong lô cốt trong khi đang ‘’vi hành’’ một miền gần trận địa.
Kinh hoàng của người dân trước việc bắt bớ vì lý do ‘’Việt gian’’ lên đến tột bực. Hơn thế nữa, người dân còn luôn luôn bị hoảng hốt, tưởng tượng xung quanh mình ai cũng thể là Việt gian, có thể bất cứ lúc nào máy bay Pháp cũng nhờ được Việt gian chỉ dẫn bắn phá nơi mình trú ngụ.
Số nạn nhân ‘’Việt gian’’ lên đến hàng ngàn, hàng vạn. Giam cầm, đầy ải hoặc thủ tiêu ? Chẳng ai biết, chẳng ai hay. Được thế, dân quân du kích, công an hay ủy ban kháng chiến cứ việc bắt bớ thẳng tay, không thương tiếc.
Tâm lý bắt Việt gian và tâm lý sợ Việt gian trong vùng Việt Minh kéo dài từ 1946 mãi đến cuối năm1948 mới tạm dịu sau khi xẩy ra một vụ bắt Việt gian kinh thiên động địa tại Việt Bắc. Vụ tổng kiểm soát, hay nói bằng một danh từ mới và thích hợp hơn: Vụ ‘’ráp’’ vĩ đại cả Bắc Việt lẫn Liên Khu IV (nửa nước Việt Nam) đã làm cho hàng ngàn dân chúng chết oan uổng và hờn giận. Không phải riêng dân chúng bị bắt, bị tra tấn, bị thủ tiêu, ngay đến cả trong quân đội, trong đoàn thể trong hàng ngũ
cộng sản, số sĩ quan, nhân viên và đảng viên chịu cực hình cũng nhiều không kém…Bắt bớ và giết tróc liên miên mãi đến khi cụ Hồ chí Minh phải trực tiếp phái đại diện xuống kiểm tra tại các trại giam mới chấmdứt. Nhưng than ôi! Cũng đã hàng ngàn nhân mạng oan khuất xuống suối vàng…
Sự ấu trĩ trong công tác phản gián của Việt Minh, tâm lý giao động và tâm thần hoảng hốt của người dân trước nạn máy bay bắn phá, thả bom đã đem đến sự kiện đẫm máu đào năm 1948. Người dân Việt Nam đau khổ trước cảnh tiêu thổ kháng chiến hoang tàn, làm bia đỡ đạn trước chính sách Tam Quang của quân đội Pháp, thác oan trong lưỡi sắt trinh sát của Việt Minh, đã tự phân làm hai tâmtrạng. Một, nhất quyết hy sinh, nhất quyết theo Việt Minh đến cùng, đã theo thì theo cho chót… Hai chặc lưỡi sách khăn gói quay về. Về để sống trong vùng quân đội Pháp kiểm soát, về để tránh bom đạn, về để tìm lại nhà cửa gia đình, về để sống.
Trong giờ phút mà giá trị người lính là trên cả, trong giờ phút mà những viên đạn vô tình luôn luôn quyết định sống còn của con người, bước đường hồi cư của dân chúng đã phô bầy bao thảm cảnh. Đô thành còn trong tình trạng thiết quân luật, đêm ngày tiếng đạn còn nổ ròn rã.
Kéo nhau quay về, người dân hồi cư phải qua cả chặng gác của Việt Minh lẫn đồn kiểm soát của quân đội Pháp. Nếu Việt Minh bắt được, thanh niên sẽ bị tình nghi là về hàng Pháp. Nếu thanh niên bị gay go ở chặng thứ nhất thì đàn bà con gái cũng khó lòng giữ mình ở những ‘’bốt’’ kiểm soát chặng hai. Khác một điều là ở đây, thanh niên bị kết tội ‘’Việt Minh’’.
Dân hồi cư lũ lượt kéo nhau về Hà Nội. Cũng có nhiều người chẳng phải dân Hà Nội nhưng vì chỉ có Hà Nội là tương đối yên ổn hơn các nơi khác nên họ đua nhau kéo về.
Hà Nội có gì đâu, ảm đạm nặng nề mùi tử khí. Những phố xá sầm uất xưa, nay chỉ còn tro tàn, gạch vụn. Hà Nội tiêu điều tang tóc, hoang tàn, lạnh lẽo đón đám người hồi cư lếch thếch hãy còn bàng hoàng ngơ ngác vì bom đạn.
Trong cơn ly loạn, Hà Nội đã sản sinh ra một loại người mới ‘’Thổ Phỉ’’
Nạn Thổ Phỉ!…Người ta thổ phỉ lẫn của nhau, họ đến những ngôi nhà vắng chủ khiêng tủ chè, sập gụ, tháo quạt máy, lấy mang về xếp đầy nhà, nào hàng hóa, nào két bạc…đôi khi có những kẻ táo tợn nhận chằng cả nhà cả cửa của kẻ khác…(Ngày nay một số thổ phỉ ấy đã biến thành phú ông nghênh ngang ngoài vòng pháp luật)
Người ta chỉ cần cái ăn để sống đã, mọi vấn đề khác hãy xếp lại…Có những bác sĩ, có những giáo sư, có những tiểu thư khuê các đi bán phở, bán cháo, bán sôi…kiếm sống qua ngày đoạn tháng. Dân số đô thị mỗi ngày một tăng, đồng thời vùng quân Pháp kiểm soát ngày một rộng. Chung quanh đô thị, các hội ‘’Tề’’ được thành lập thay cho những ủy ban Việt Minh cũ.
Vùng kiểm soát đã có một bề rộng tương đối được tổ chức quy củ.
Ngoài Bắc, Hội Đồng An Dân của Bác Sĩ Trương Đình Tri ra đời. Ở Huế, Hội Đồng Chấp Chánh được thành lập do sáng kiến của Cụ Trần Thanh Đạt, nguyên Lễ Bộ Thượng Thư Triều Đình Huế. Tại Nam Việt, một chính phủ Nam Kỳ Tự Trị đã có từ năm 1946.
Tình hình Nam Việt khác hẳn Bắc và Trung Việt. Từ mùa Xuân năm 1946, chiến dịch ‘’Caur’’ của Đại Tướng Lelerc đã đem lại an ninh cho phần lớn miền Nam nước Việt. Nền hành chính được chỉnh bị ngay bằng một tổ chức: Hội Đồng Tư Vấn.
Hội Đồng Tư Vấn đẻ ra chính phủ nước Cộng Hòa Nam Kỳ. Từ Bác Sĩ Nguyễn Văn Thinh qua tay Bác Sĩ Lê Văn Hoạch, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Xuân. Chính phủ Nam Kỳ đã ký một bản Modus Vivendi với Pháp để mong tiến tới một Nam Kỳ tách ra khỏi lãnh thổ Việt Nam. Một Nam Kỳ tự do, có quân đội, có ngân quỹ, có Nội Các…
Ở miền Trung, Việt Minh còn kiểm soát nhiều Tỉnh trừ Thành Phố Huế, Tourane…Quân đội Việt Minh rút lui theo chiến lược. Không ngại lẽ thiếu người và hẹp đất. Khối Quốc Gia Liên Hiệp do Cụ Trần Thanh Đạt lãnh đạo đã tích cực hoạt động và tổ chức một Hội Đồng Tham Nghị ra mắt đồng bào Huế. Sau một thời gian ngắn, Hội Đồng Chấp Chánh được thành lập do ông Trần Văn Lý phụ trách để giúp đỡ dân chúng trong tình trạng giao thời khó khăn.
Ngoài Bắc Việt, Bác Sĩ Trương Đình Tri, nguyên bộ trưởng bộ y tế hồi chính phủ Việt Minh còn ở Hà Nội được Pháp mời ra để thành lập một tổ chức hành chính lấy tên là Hội Đồng An Dân Bắc Kỳ với nhiệmvụ thu hẹp trong việc ‘’an dân’’, giải quyết cho dân chúng mọi vấn đề sinh hoạt hàng ngày.
Trên hành động, các cơ quan địa phương Trung-Nam-Bắc cùng làm một nhiệm vụ an dân, nhưng trên địa hạt tư tưởng, cả ba đã có những điểm dị đồng rõ rệt.
Hội Đồng An Dân miền Bắc có một mong mỏi: Thống nhất ba Kỳ, Việt Nam độc lập tự do trong Liên Hiệp Pháp. Thành lập một chính phủ Trung Ương có một khả năng lái con thuyền quốc gia trong giờ phút gay go nguy hiểm. Đấy là một tấm lòng thành thực của những người quốc gia miền Bắc. Chịu sự hướng dẫn của Pháp nhưng tự do và thống nhất, chính sách ấy đã được chính quyền địa phương miền Bắc lẻ loi nhấn mạnh. Chủ trương đứng đắn và hợp thời, tiếc thay đất Bắc là nơi ly loạn nhiều nhất cho nên khó bề tập hợp được lực lượng để chủ động bước tiến. Điều thứ hai là người ta thường có thành kiến với dân chúng Bắc Việt, hóm hỉnh, xáo động, nhiều mưu lắm kế. Tất cả những chủ trương thành thực của Bắc Việt đều bị theo dõi bằng cặp mắt đa nghi và phòng bị. Dưới sự nhìn thiên lệch ấy, các chiến sĩ quốc gia ngoài Bắc chỉ còn biết hết sức nhũn nhặn và mềm dẻo về mọi đề nghị của mình thuộc phạm vi chính trị.
Trong khi các nhà đương cục Pháp còn tỏ vẻ dè dặt với các người quốc gia miền Bắc thì Việt Minh đã hiểu rõ hơn ai hết hiểu tư tưởng nhất quyết đối lập của các nhân sĩ quốc gia rõ tiềm lực của các đảng phái quốc gia, Việt Minh đã thi hành một chánh sách khủng bố tàn ác, hung bạo.
Mùa Thu năm 1947, Bác Sĩ Trương Đình Tri bị Việt Minh hạ sát giữa phố hè Hà Nội và tiếp theo đó là vô vàn các cuộc bắt cóc, ám sát bằng tạc đạn, súng lục, dao găm, những vụ bạo động, phá hoại, đốt nhà, phá chợ…Đa số những người bị tình nghi làm việc cho Pháp hoặc đã có thành tích hoạt động trong đảng phái quốc gia như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt…đều bị ghi vào sổ đen. Dân các thành phố thuôc vùng ‘’kiểm soát’’ run lên trong mọi hành động của các ban ám sát Việt Minh chuyên môn thiện nghệ. Ámsát càng nhiều người Pháp càng ra công bắt bớ. Giữa tình trạng khổ cực ấy, các nhà chức trách lâm thời của Bắc Việt vẫn một lòng một dạ trung thành với đường lối chủ thuyết của mình: Ủng hộ một người có uy tín nhấn trong dân chúng để đưa Việt Nam đến Độc Lập và Thống Nhất trong khuôn khổ dân chủ và tự do. Người đó là Cựu Hoàng Bảo Đại.
Khác hơn một chút, những lãnh tụ miền Trung nhìn thẳng vào vị Quân Vương đang phiêu lưu nơi hải ngoại để đặt hoài vọng thiết tha một nền Quân Chủ Lập Hiến cho đất nước tương lai. Những lãnh tụ này hy vọng với chính thể Quân Chủ Lập Hiến, nước nhà sẽ dễ tiến bước trên đường ngoại giao quốc tế và đối nội để gây uy tín và chóng thu phục lại nhân tâm.
Hoạt động của Hội Đồng Chấp Chính đã gặp nhiều trở lực cũng vì đất đai quá hẹp, dân chúng tản cư chưa về nhiều. Từ Quảng Nam, Quảng Ngãi trở vào thuộc kiểm soát của Việt Minh, riêng phần lớn miền Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên lại là một khu chiến trường dữ dội bực nhất nước Việt Nam. Do đó các lãnh tụ miền Trung khó bề phát triển tư tưởng của mình đi sâu vào dân chúng.
Khác biệt tư tưởng miền Trung và Bắc, một số các lãnh tụ miền Nam lại chủ trương: Nam Kỳ của NamKỳ
Từ mồng 3 tháng 6 năm 1946, chính phủ của Nam Kỳ Quốc đầu tiên đã thành lập:
Nguyễn Văn Thinh: Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Nội Vụ.
Nguyễn Văn Xuân: Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng
Trần Văn Tỷ: Tổng Trưởng Tư Pháp
Lương Văn Mỹ: Ngoại Giao-Giao Thông Công chính và Viễn Thông.
Nguyễn Thành Lập: Tổng Trưởng Tài Chính
Ưng Bảo Toàn: Canh Nông, Thương Mại Kỹ Nghệ.
Nguyễn Thành Giang: Tổng Trưởng Quốc Gia Giáo Dục
Khương Hữu Long: Y Tế, Xã Lao
Nguyễn Văn Tâm: Thứ Trưởng Công An (Toàn Quốc)
Nguyễn Tấn Cường: Thứ Trưởng Công An Thủ Đô (Sài Gòn)
Đứng về phương diện lịch sử, các vị này đã làm một việc khá trái ngược. Tất cả mọi người Việt Nam, có giòng máu Việt Nam đều phải công nhận dân tộc Việt Nam lập Quốc từ khu vực hạ lưu sông Nhị Hà và theo dòng thời gian, dân tộc đã phát triển đến tận miền cát trắng mõm Cà Mâu. Đồng ngôn ngữ, đồng văn hóa, đồng tập quán, mặc dầu phong tục hơi so le một chút do khí hậu và đất đai của hai miền cách biệt, người Việt miền Nam và người Việt miền Bắc vẫn cảm thông với nhau từ hàng thế kỷ. Chỉ vì lý do ở thế kỷ thứ 20 đã đẻ ra một Nam Kỳ thuộc địa khác với Bắc Kỳ và Trung Kỳ Bảo Hộ cho nên hoàn cảnh thuộc địa đã sinh ra tư tưởng lìa chia và phản thống nhất.
Dù sao chính phủ Nguyễn Văn Thinh cũng đã đem lại niềm an ủi cho dân chúng địa phương Nam Việt. Bởi vì ‘’ủy ban nhân dân Nam Bộ’’ chạy rồi, dân chúng thà chịu ‘’tự trị’’ con hơn là bị đô hộ lại. Đó là một lý do tư tưởng đã khiến dân chúng Nam Việt hồi cư sống dưới chính thể Nam Kỳ Quốc. Nhưng thành lập để mà thành lập, tâm lý của dân chúng còn luôn luôn tơ tưởng đến Việt Minh, và cũng bởi vì thái độ của Pháp không rõ rệt ngã ngũ cho nên chính phủ Nguyễn Văn Thinh cũng chẳng thi thố được việc gì để có thể củng cố hệ thống Tự Trị khiến cho đến ngày 10 tháng 11 năm 1946, Thủ Tướng Thinh đã phải tự kết liễu cuộc đời đền ơn Nam Kỳ Quốc.
Dân chúng miền Nam bất mãn trước cái chết đáng thương của một người đầy thiện chí như Bác Sĩ Thinh, đa số chán nản trước lòng ‘’thành thật’’ của người Pháp nên không ai chịu đứng ra lập Nội Các thay thế. Mãi đến ngày 4 tháng 12 năm 1946, một tân chính phủ mới được ra đời:
Lê Văn Hoạch: Thủ Tướng
Trần Văn Mỹ: Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Nội Vụ
Huỳnh Văn Chính: Tổng Trưởng Tư Pháp
Trần Văn Hữu: Tài Chính
Nguyễn Văn Tâm: Quốc Phòng
Lê Văn Định: Canh Nông
Trần Quang Nhứt: Thương Mại Kỹ Nghệ
Nguyễn Phú Khai: Thông Tin
Phan Văn Tiếng: Y Tế
Trương Vĩnh Khanh: Giáo Dục
Lương Văn Mỹ: Giao Thương Công Chính
Võ Đồng Phát: Xã Lao
Diệp Quang Đồng: Thứ Trưởng tại Dinh Thủ Tướng
Trần Văn Kiệt: Thứ Trưởng Xã Lao
Nguyễn Tấn Cường: Thanh Niên Thể Thao
Trong khi ở Bắc và Trung đang bị khó khăn về vấn đề tập hợp lực lượng quốc gia thì vô hình chung, chủ trương thiết lập một Nam Kỳ Quốc đã phù hợp với đường lối ‘’chia để trị’’ của một nhóm người Pháp chưa thức thời. Theo gương ‘’nước’’ Nam Kỳ, các ‘’Thái quốc’’, ‘’Nùng quốc’’, Tây Kỳ quốc’’ được mọc lên như nấm.
Mặc dầu chỗ đó là một chiến thuật đấu tranh của một số lãnh tụ Nam Việt chỉ nhằm mục tiêu diệt cộng, hoặc cho đó là sơ xuất thuộc về tư tưởng đi chăng nữa, chủ trương không hợp thời ấy đã đem lại công phẫm trong toàn dân. Họ đã đồng thanh phản đối sự kiện đó chứng tỏ toàn dân đều sốt sắn mong mỏi Độc Lập, Thống Nhất quốc gia, chán ghét cảnh chia rẽ, thương tàn.
Việt Minh càng dễ bề lợi dụng, nhắm những kẽ hở chính trị đó để tăng cường uy tín cho chính phủ họ và Cựu Hoàng Bảo Đại đã có dịp bộc lộ lòng yêu nước của Người khi Người tỏ thái độ cương quyết đòi phải thủ tiêu chính phủ Nam Kỳ để thành lập một chính phủ trung ương thống nhất.
Nhưng dù có khác biệt nhau trong phạm vi chính trị, cả ba chính quyền địa phương Trung, Nam, Bắc, ra đời giữa một thời gian gay go nhất, đã bình tĩnh hy sinh chịu đựng búa rìu dư luận do đường lối tuyên truyền của Việt Minh hướng dẫn xuyên tạc.
CHÍNH PHỦ TRUNG ƯƠNG LÂM THỜI VIỆT NAM
Tháng 10 năm 1947, Hội Nghị Nam Kỳ đồng thanh cử Thiếu Tướng Nguyễn Văn Xuân đứng ra lập một chính phủ Lâm Thời Nam Phần Việt Nam.
Nội Các Nguyễn Văn Xuân gồm các ông:
Nguyễn Văn Xuân: Thủ Tướng.
Trần Văn Hữu: Phó Thủ Tướng
Các Bộ Trưởng:
Nguyễn Khắc Vệ
Trần Thiện Vàng
Trần Văn Ân
Phạm Văn Hải
Phan Văn Tiếng
Trần Cửu Chấn
Trần Văn Huê
Nguyễn Văn Tư
Trần
Văn Kiệt
Lê Tấn Nẫm
Chủ trương của chính phủ Lâm Thời Nam Phần rất đơn giản:
1.- Xin gia nhập Liên Hiệp Pháp.
2.- Việt Nam sẽ có quân đội
3.- Việt Nam sẽ có ngân sách.
Từ cái thế ‘’chân vạc’’ quân bình giữa bộ ba hành chính địa phương: Hội Đồng An Dân miền Bắc, Hội Đồng Chấp Chánh miền Trung và Nam Kỳ tự trị, riêng miền Nam đã đủ khả năng nhào nặn cái cốt đầu tiên và căn bản cho chính phủ sau này.
Đối với ‘’người kháng chiến’’, chính phủ Lâm Thời Nam Phần sẵn sàng thân thiện. Thiếu Tướng Nguyễn Văn Xuân kêu gọi:
‘’Tôi muốn nói với anh em một cách thành tâm như vầy: Đồng bào thân yêu, anh em chiến đấu vì một nghĩa vụ rất đáng kính trọng, vì một lý tưởng ái quốc và độc lập Quốc Gia. Trí quả quyết, lòng dũng cảmvà tinh thần hy sinh của anh em làm cho người ta phải yêu mến và khâm phục. Nhưng mà cuộc chiến đấu kéo dài với bao nhiêu tàn phá liên miên, bao nhiêu khổ sở tang chế.
Chính ở chỗ các anh em, các anh em cũng nghe kia mà, và nghe rõ hơn, những lời rên than bốc lên từ đồng bãi, sông rạch, những tiếng kêu nói nỗi ão não và thương sót hiện đang lan tràn khắp xứ. Phải chăng nó đưa anh em đến chỗ suy nghĩ lại mà xem xét lại tình thế ? Cử chỉ của anh em đã ghi rồi trong trang sử nước nhà. Anh em có thể ngừng bắn…’’
Không muốn cuộc kháng chiến tai hại kéo dài, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Xuân kêu gọi anh em ‘’ngưng bắn’’, nhưng…dưới sự nhìn một chiều của những người bên kia, ‘’làn mức’’, vấn đề lại…đi ngược lại. Đã không đáp tiếng gọi của chính phủ miền Nam. Việt Minh lại còn nhắm ngay một vài nhược điểm của chính phủ để gây thêm lòng phấn kích, làm chiến tranh tăng lên một mực dữ dội hơn. Sở dĩ một số lớn những người kháng chiến chưa chịu quay về vùng ‘’kiểm soát’’ là vì cá nhân Thiếu
Tướng Nguyễn Văn Xuân chưa đủ tượng trưng lý tưởng quốc gia, và bản thân của chính phủ Lâm Thời Nam Phần còn bộc lộ một ý nệm chưa được thống nhất.
Biết như vậy, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Xuân lẳng lặng qua yết kiến Cựu Hoàng Bảo Đại ở Hồng Kông. Thực tế đã cho biết rằng dân tộc Việt Nam muốn Hòa Bình nhưng Hòa Bình không thể trả giá bằng chia rẽ. Cần phải có một chính phủ thống nhất đầy đủ cả ba Phần, đó là điều mong muốn của toàn thể nhân dân. Hội Nghị đầu tiên triệu tập nhân sĩ ba Kỳ để thống nhất lực lượng họp tại Sài Gòn mùa Xuân năm 1948, lực lượng gây hậu thuẫn cho Cựu Hoàng Bảo Đại.
Sự thành tâm và cố gắng của các người quốc gia đưa đến một kết quả cụ thể: Cựu Hoàng giao cho Thiếu Tướng Nguyễn Văn Xuân nhiệm vụ thành lập một chính phủ Trung Ương Lâm Thời Việt Nam. Tháng 5 năm 1948. Chính phủ Trung Ương thành lập xong.
Thượng Sứ Bollaert đã nhấn mạnh: ‘’Chính phủ Trung Ương Lâm Thời Việt Nam có bổn phận tán trợ và khuếch trương một bầu không khí thuận tiện cho công cuộc phục hồi hòa bình’’. Lời tuyên bố của Thượng Sứ Pháp đã nhận rõ chủ trương và ý định của chính phủ Trung Ương LâmThời Việt Nam và đã tỏ rõ sự hỗn loạn đang diễn ra trên giải đất Việt Nam, một sự hỗn loạn mà tất cả mọi người đều mong mỏi sớm chấm dứt.
Cần phải có ngay hòa bình trên giải đất đã quá đau khổ này, đó là thiện chí xây dựng của tân chính phủ. Nhà quân sự Nguyễn Văn Xuân đứng ra lĩnh một sứ mạng khó khăn và cao cả, thương thuyết để cứu vãn hòa bình, tổ chức một nền hành chính và chuẩn bị sắp đặt một cuộc tuyển cử nghị sĩ. Chính phủ Trung Ương Lâm Thời Việt Nam là một tiến bộ của cả hai bên Việt-Pháp. Bản Tuyên Ngôn ngày 5 tháng 6.1946 của Thiếu Tướng đã nhấn mạnh:
‘’Muốn cho hai bên trở lại bắt tay Công Sứ Pháp và Việt cần phải tương thân, tương tín, tương thành cũng như cần phải nhìn nhận một cách thành thực những điều kiện mới của sự công tác ấy!…’’ Lời tuyên bố đã tỏ rõ cuộc xung đột Việt-Pháp đẻ trong sự thiếu tương thân, tương tín và sự thiếu nhìn nhận một cách thành thực những sự kiện lịch sử đã xẩy ra…
Tìm được lý do vì sao sự giao thiệp Pháp-Việt tan vỡ. Thiếu Tướng Nguyễn Văn Xuân cố gắng đặt lại vấn đề, chỉ có thành thực với nhau, tin cẩn lẫn nhau mới mong tồn tại sợi giây liên lạc. Trong khi Cựu Hoàng còn vắng mặt, chính phủ Trung Ương Lâm Thời đã thi hành một chế độ hành chính phân quyền tại ba Phần:
Ngoài Bắc có Tổng Trấn Nghiêm Xuân Thiện.
Ở Trung có Tổng Trấn Phan Văn Giáo.
Ở Nam có Tổng Trấn Trần Văn Hữu.
Để có thể củng cố và giữ vững chính quyền, Thủ Tưởng Nguyễn Văn Xuân đã không quên chú trọng đến vấn đề quân sự.
Từ mùa Đông khói lửa 1946, sau khi Việt Nam rút lui khỏi các đô thị trên toàn lãnh thổ thì ở mỗi địa phương Trung, Nam, Bắc các người sẵn, có tư tưởng diệt cộng đã tự xây dựng ngay những tổ chức quân sự hợp tác gián tiếp với Pháp chống lại du kích Việt Minh.
Ngoài Bắc, phải nói đến quân lực của vùng đạo giáo Bùi Chu, Phát Diệm. Thoạt tiên, Giáo Khu Bùi Chu còn nằm giữa vùng Việt Minh kiểm soát nhưng các tu sĩ cũng cố gắng thiết lập một hệ thống tự vệ độc lập. Trên hành động, thẳng hoặc có cuộc xung đột nhỏ với quân đội Việt Minh nhưng cả hai bên đều cố gắng nhũn nhặn để chờ thời cơ thuận tiện tiêu diệt nhau. Về phía Việt Minh, họ còn đang mải miết ‘’đoàn kết’’ theo một chiến lược rộng lớn về chính trị cho nên dù thù ghét Đội Nghĩa Dũng vùng giáo khu, các tiểu đoàn Việt Minh vẫn không dám làm to chuyện, còn về phía các giáo sĩ cũng phải tránh gây gổ với quân lực Việt Minh vì biết thế của mình chưa phải lúc.
Ngoài lực lượng quân sự tiếm tàng của đạo giới Việt Nam, ở Bắc Việt, đến khi thành lập Tồng, Trấn, Phủ, vấn đề quân lực của địa phương mới có cơ hội chính thức bàn đến. Những đại đội Vệ Binh bắt đầu được thành lập. Đúng với danh nghĩa của nó, các đội Vệ Binh Bắc Việt chỉ làm có nhiệm vụ canh gác, bảo vệ các cơ quan chính quyền mà chưa được tham gia chiến đấu vì lẽ giản dị là chưa đủ lực bản thân về mọi
phương diện trang bị, kỹ thuật, tài chính, hơn nữa, việc hợp tác với Pháp trên phạm vi chiến trường chưa được đặt thành vấn đề.
Ở Trung Việt, khá hơn một chút, ngay từ lúc Hội Đồng Chấp Chánh ra đời, các lãnh tụ miền Trung đã có phương tiện để tổ chức Bảo Vệ Quân dù nhiệm vụ nhũn nhặn của tổ chức này chỉ hướng về chuyên lo việc an ninh trong một phạm vi nhỏ hẹp. Tính đến đầu Xuân 1948, số quân đã tăng dần đến khoảng 2000 nhưng đại đa số hoặc là cựu binh sĩ già hoặc mới nhập ngũ nên chưa thể nào tính đến chuyện bình định hoặc hợp tác với quân đội Pháp được.
Rất chú ý đến vấn đề quân sự, Tổng Trấn Trung Việt Phan Văn Giáo đã cố gắng chỉnh bị bộ đội địa phương, do đó Việt Binh Đoàn xuất hiện. Tư tưởng được ổn định thì mọi tổ chức đều có đà để tiến mạnh. Ở Trung Việt, tư tưởng Bảo Hoàng được cố kết và vững chãi, nhờ đó Việt Binh Đoàn đã có ngay một chính nghĩa rõ rệt để phụng sự và do đó Việt Binh Đoàn càng ngày càng phát triển với năm câu nhật tụng.
– Cương quyết đem an ninh và trật tự cho dân.
– Quyết hy sinh để giữ danh dự cho Vệ Binh Đoàn
– Vì Tổ Quốc, không vì đảng phái
– Trung thành ủng hộ Đức Quốc Trưởng Bảo Đại.
Trong khi Bắc Việt mới chỉ có được loại bộ đội dùng để bảo vệ cơ quan hành chánh địa phương và Trung Việt đang có một bộ đội rất có tương lai tiến triển thì tại Nam Việt đã có những lực lượng quân sự khá mạnh.
Lực lượng quân sự miền Nam mạnh nhưng kém phần thống nhất. Không kể Vệ Binh Cộng Hòa NamViệt, mấy nhóm Cao Đài, Hòa Hảo và Bình xuyên mỗi nhóm đều có một tổ chức quân sự rất lợi hại cả về phẩm lẫn lượng không những các đơn vị võ trang của các nhóm chính trị ấy đã thiện chiến, họ còn có ngân quỹ riêng để có thể vượt mọi nỗi khó khăn trong vấn đề trang bị. Đủ sức mạnh, sẵn đường lối chống cộng rõ ràng, họ đã thực tế và trực tiếp chiến đấu bên cạnh quân đội Pháp trên khắp chiến trường Nam Việt.
Ngoài các tổ chức quân sự có tính chất địa phương vả riêng lẻ ở khắp lãnh thổ Việt Nam như trên đã nói, chính phủ Trung Ương Lâm Thời đã bỏ ra một số tiền là 2.000.000 đồng để thành lập ngay một Đại Đội chính quy, đó là đơn vị đầu tiên của Quân Đội Quốc gia Việt Nam. Tiến thêm một bước nữa, Thủ Tướng Nguyễn Văn Xuân đã mở trường đào tạo sĩ quan chỉ huy để chuẩn bị nhân tài về mặt quân sự.
Thiếu Tướng Nguyễn Văn Xuân còn có định kiến quy hợp hết thẩy các binh lực Trung, Nam, Bắc như Vệ Binh Bắc Việt, Vệ Binh Cộng Hòa Nam Việt và Vệ Binh Đoàn thành một khối duy nhất lấy tên là Vệ Binh Việt Nam nhưng thật là buồn khi chủ trương thống nhất đó đã gặp nhiều trợ lực đáng tiếc.
Ngoài quân sự, vấn đề xã hội đòi hỏi những biện pháp cấp bách. Nào là dân ở thành thị hồi cư bị mất hết sản nghiệp, chỉ còn hai bàn tay trắng, nào là nông dân ở khắp miền quê, nhà cháy, phương tiện sản xuất không còn, tất cả đều đang vất vưởng với Thần Đói, Thần Rét, lại còn nạn bão lụt, trôi nhà trôi cửa, ngập ruộng ngập nương.
Chính phủ đã phải bỏ ra hàng ngàn hàng vạn để trợ cấp cho dân chúng:
– Mua tặng phẩm cho những người cần lao vào dịp Tết
– Trợ cấp cho dân chúng Thừa Thiên, nạn nhân của chiến tranh
– Trợ cấp cho các miền bị bão lụt ở Bắc Việt
– Trợ cấp cho các giáo sĩ để xây dựng Cô Nhi Viện.
Hoạt động của chính phủ mỗi ngày mỗi tăng tiến. Để đủ tiền bù đắp cho các công tác xã hội, chính phủ đã định lại một vài thứ thuế. Đặt ra thế xa xỉ, đặt ra thuế điền thổ, thuế thổ trạch. Bác bỏ thuế cư trú, một thứ thuế ‘’phản độc lập’’ đối với dân chúng Việt Nam.
Đánh thuế, chính phủ thật đã làm một việc rất khổ tâm trong thời gian mà toàn thể dân chúng đã mất hết cả sản nghiệp cơ đồ. Vì vậy nên các thứ thuế đặt ra chỉ nhằm vào những túi tiền có thể chịu đựng được. Ở địa hạt thanh niên, chính phủ cũng rất chú ý. Biết rõ thanh niên là rường cột của quốc gia, biết rõ tiềmlực của đất nước nằm trong giới thanh niên, chính phủ Trung Ương Lâm Thời đã gây mầm bằng cách khuyến khích học sinh luyện tập thể dục, thành lập Trường Quốc Gia Thanh Niên Thể Dục. Phần lớn thanh
niên còn bị phân tán ở vùng Việt Minh, một phần nữa đã xung vào Quân Đội Quốc Gia của các địa phương Trung, Nam, Bắc số còn lại toàn là những học sinh còn ít tuổi vì vậy chính phủ chú trọng đặc biệt đến học sinh còn ít tuổi vì vậy chính phủ chú trọng đặc biệt đến học sinh trong lúc tình thế chưa cho phép một sự tập hợp rộng rãi.
Để đối phó với nạn mù chữ, chính phủ mở mang công tác Bình Dân Học Vụ. Mở Trường Công Nghệ cao cấp và riêng các học sinh những Trường Công, Kỹ Nghệ được đặc hưởng phụ cấp lương thực trong thời gian theo học. Cử chỉ ấy tỏ ra chính phủ đã săn sóc đến giai cấp công nhân.
Việt ngữ từ lâu bị quên lãng, ngày nay đã được đề cao. Các trường trung học đều đặt khoa Việt Ngữ lên hàng đầu. Học sinh tiến tới dùng Việt Ngữ để chau dồi văn chương, tư tưởng, toán học, khoa học. Khoa thi đầu tiên cấp bằng Tú Tài Việt Nam được mở tại Huế, Hà Nội, Sài Gòn.
Chính phủ Nguyễn Văn Xuân đã ấn định công việc tổ chức ngành tư pháp mới. Tuy buổi sơ khai chưa được toàn thiện, toàn mỹ nhưng từ đấy, ngành Tư Pháp đã tiến bước song song với tình hình mỗi ngày mỗi sáng sủa.
Trong tất cả các vấn đề lớn, riêng việc xây dựng một hệ thống hành chính đã được chính phủ Lâm Thời hết sức chú trọng và đã chi những món tiền khá lớn. Mỗi địa phương Trung, Nam, Bắc đều nhận được hàng chục triệu để sử dụng.
Những ưu điểm về hoạt động của chính phủ Trung Ương Lâm Thời có nhiều thì những khuyết điểm cũng lại rất đáng phàn nàn.
Trong lúc cần gây thanh thế và hậu thuẫn cho Cựu Hoàng Bào Đại, gây uy tính cho Chánh Nghĩa Quốc Gia, trong lúc cần giành dật lại lòng dân chúng đang sôi nổi ở vùng Việt Minh thì ở vùng quốc gia lại mọc lên nhiều việc đáng phê bình.
Một là Thuyết Phân Ly của một nhóm người miền Nam, đó là nọc độc dư rớt lại của một nguồn tư tưởng lạc hậu trong tổ chức Nam Kỳ Quốc cũ kỹ. Giữa cao trào thống nhất đang lên mạnh trong dân chúng, Thuyết Phân Ly đã là một luồng gió lạc hậu, tượng trưng một tư tưởng phản dân tộc, phản thống nhất, phải tiến hóa.
Hai là việc xây dựng Trại An Trí ở Trung Việt. Đang lúc chính phủ cần phải tỏ ra khoan hồng, bao dung và tha thứ những sai lầm của đa số chiến sĩ quốc gia theo kháng chiến thì chính quyền Trung Việt đã coi ‘’cá mè một lứa’’ để xử đối với tất cả những người đã chót theo Việt Minh. Họ chỉ là những người yêu nước, nặng lòng với dân tộc. Họ không phải là cộng sản. Do đó việc mở mang Trại An Trí đã làm lòng dân công phẫm và hoang mang, nghi ngờ. Tình trạng tinh thần ấy khiến Việt Minh dễ lợi dụng làm yếu lực lượng quốc gia mới tập hợp được.
Ngoài Bắc cũng xẩy ra vài việc đáng chê trách như việc chính quyền cho phép mở sòng bạc lớn, việc tiền nong không đứng đắn ở ngành kinh tế…
Giữa lúc sự giao thiệp với Pháp còn gay go giữa lúc Cựu Hoàng, người tượng trưng nền Độc Lập và Thống Nhất quốc gia còn phiêu lưu nơi hải ngoại, giữa lúc chính phủ Lâm Thời còn chập chững trước luận điệu phản tuyên truyền của Việt Minh, các chính quyền địa phương đã vô tình để sơ hở ít nhiều trong khi thi hành nhiệm vụ.
Gạt bỏ hết khuyết điểm nhỏ mọn, chính phủ Trung Ương Lâm Thời Nguyễn Văn Xuân đã thành công phần nào trong việc tập hợp tư tưởng quốc gia đang bị lạc lõng trong khói lửa. Nếu còn nhiều chiến sĩ chưa chịu trở về tham gia hoạt động nhưng chính họ cũng đã lắng tai nghe và đang chăm chú theo dõi, đó là dấu hiệu báo trước của sự thống nhất tư tưởng quốc gia.
Sự thành lập chính phủ Trung Ương Lâm Thời Nguyễn Văn Xuân đã thành công phần nào trong việc tập hợp tư tưởng quốc gia đang bị lạc lõng trong khói lửa. Nếu còn nhiều chiến sĩ chưa chịu trở về tham gia hoạt động nhưng chính họ cũng đã lắng tai nghe và đang chăm chú theo dõi cử chỉ hành động của chính quyền quốc gia. Lắng nghe và theo dõi, đó là dấu hiệu báo trước của sự thống nhất tư tưởng quốc gia.
Sự thành lập chính phủ Trung Ương Lâm Thời là một tiến bộ của phe Quốc Gia Dân Tộc đồng thời cũng là một điềm thất bại thứ nhất chính phủ cụ Hồ trên phương diện đấu tranh chính trị.
CỰU HOÀNG VỚI THỎA HIỆP ÉLYSÉE
Ngày chứng kiến việc ký kết Bản Tuyên Ngôn chung tại Vịnh Hạ Long đã qua. Ngày ấy mới chỉ nêu lên những khởi điểm của mối bang giao Việt-Pháp. Còn cần phải nhiều chặng nữa để có thể phát triển, cụ thể hóa và hợp pháp hóa những hứa hẹn buổi đầu.
Pháp đã kêu gọi dân tộc Việt Nam hãy tin ở lòng thành thực của chính phủ Pháp.
Trong khi ở nước nhà, chính phủ Nguyễn Văn Xuân được thành lập phụ lực vào sứ mạng thương thuyết với nước Pháp, Cựu Hoàng rời bỏ Hồng Kông đi Pháp để đích thân điều đình.
Từ tháng Giêng năm 1949, những cuộc thương thuyết giữa Cựu Hoàng với Hezog trong Bộ Pháp Quốc Hải Ngoại và Cao Ủy mới Pignon luôn luôn tiếp diễn. Sau hai tháng trời họp mặt, nền móng một cuộc gặp gỡ Vincent Auriol-Bảo Đại đã được nặn hình.
Đúng 12 giờ ngày 8 tháng 3 năm 1949, cuộc gặp gỡ được tổ chức tại Điện Élysée. Một bên là Cựu Hoàng Bảo Đại, có mặt các ông Trần Văn Hữu, Bửu Lộc, Vĩnh Cẩn, Trần Thanh Đạt, Phạm Văn Bình, Đinh Xuân Quảng, Hoàng Văn Cơ, Nguyễn Hữu Long, Trần Văn Quế, Trần Văn Đôn, Huỳnh Thiện Tính và một bên là Tổng Thống Vincent Auriol có mặt các ông Queille, Lecourt, Coste Floret, Léon Pignon, Parodi, Jean Porgest.
Hai vị đại diện Việt-Pháp: Bảo Đại và Vincent Auriol long trọng thỏa thuận ký kết một Thỏa Hiệp: THỎA HIỆP ÉLYSÉE
Hạ bút ký sự mất còn cho Quốc Gia Việt Nam, Cựu Hoàng Bảo Đại đã vinh dự tượng trưng dân tộc Việt trong chuỗi ngày gay gắt.
Thỏa hiệp Auriol-Bảo Đại gồm những mục như sau:
– Thống Nhất Việt Nam
– Ngoại giao
– Quân sự
– Tư pháp
– Kinh tài
– Văn hóa
Công điện 8.3.1949 long trọng tuyên bố sẽ không cản trở việc Nam Việt sát nhập vào Việt Nam. nước Việt Nam gồm một khối Bắc Việt, Trung Việt và Nam Việt.
Ngày 23 tháng 4, một Nghị Án đuợc đề xuất với Pháp: Bác bỏ 2 Pháp Chế Nam Việt. Một theo Điều Ước 5.3.1862 dưới triều Vua Tự Đức, đã nhường Biên Hòa, Gia Định, Mỹ Tho và Đảo Côn Lôn cho Pháp sau và đó lại nhường nốt Vĩnh Long, Châu Đốc, Hà Tiên.
Một theo Điều Ước 15.3.1874 cũng dưới triều Vua Tự Đức xác nhận cho Pháp làm chủ Lục Tỉnh. Nhưng còn một biện pháp đề phòng tương lai của Pháp là ‘’sự sát nhập Nam Việt vào Việt Nam sẽ coi như vô giá trị nếu Quốc Gia Việt Nam thay đổi pháp chế trong Liên Hiệp Pháp. (Do đó sau này tại Quốc Hội Pháp, tháng 10 năm 1953, Tướng Aumeran có nêu lại vấn đề Nam Việt).
Ngoài vấn đề sát nhập Nam Phần vào lãnh thổ Việt Nam, ba Tỉnh Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng cũng được chính phủ Pháp trao trả và hủy bỏ pháp chế theo Sắc Lệnh 1888, một Sắc Lệnh dưới triều Vua Đồng Khánh nhường mấy Tỉnh trên cho Pháp.
Với những dân tộc thiểu số ở Việt Nam, Pháp muốn những dân tộc ấy có pháp chế riêng về phương diện hành chính.
Tóm lại, về phương diện thống nhất nước Việt Nam. Thỏa Hiệp Élysée đã có một tiến bộ. Về Ngoại giao chính phủ Việt Nam có thể thỏa thuận với chính phủ Pháp đề cử Đại Sứ Việt Nam đi ngoại quốc. Theo Công Điệp giải thích của chính phủ Pháp, Việt Nam có thể có Đại Biểu ở Tòa Thánh La Mã, ở Trung Hoa và Thái Lan. Nếu Trung Hoa chưa có hoàn cảnh thì có thể thay Trung Hoa bằng Ấn Độ. Muốn đặt Lãnh Sự tại nước nào để bảo vệ quyền lợi của mình, Việt Nam sẽ yêu cầu chính phủ Pháp can thiệp dùm.
Muốn thương nghị và ký kết những điều ước quốc tế quan hệ đến quyền lợi riêng của Việt Nam. chính
phủ Việt Nam được tự do, nhưng trước khi thương nghị, phải thông báo chính phủ Pháp để đem vấn đề ra khảo xét tại Tham Chính Hội Tối Cao Liên Hiệp Pháp. Ngoài ra Việt Nam còn luôn luôn liên lạc với Pháp trong lúc đang thương nghị để Pháp có thể phù trợ đại biểu Việt Nam nếu cần.
Chính phủ Pháp còn cam kết sẽ ủng hộ Việt Nam xin gia nhập Liên Hiệp Quốc khi nào Việt Nam có đủ điều kiện là một nước hội viên.
Điều kiện làm hội viên Liên Hiệp Quốc đã được định rõ trong Điều 4 của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc:
‘’Có thể là hội viên Liên Hiệp Quốc tất cả những quốc gia khác (ngoài những nước sáng lập) ưa chuộng hòa bình và thừa nhận những nghĩa vụ nói trong Hiến Chương này, và Liên Hiệp Quốc xét ra đủ tư cách và sẵn sàng làm tròn nghĩa vụ ấy’’.
Tóm tắt về ngoại giao, Việt Nam sẽ có đủ quyền hành thường lệ, nền ngoại giao riêng, quyền tiếp nhận và phái đại sứ, quyền thương nghị và ký điều ước, quyền xin gia nhập Liên Hiệp Quốc. Nhưng nội dung các quyền hành thường lệ còn chứa đựng ít nhiều rắc rối thuộc phạm vi kỹ thuật và chính trị. Muốn thập phần hoàn hảo, còn phải đợi điều kiện thời gian giúp sức.
Về Quân Sự: Thỏa Hiệp định rằng Việt Nam sẽ có một quân đội quốc gia với nhiệm vụ: – Giữ gìn trật tự an ninh trong nước
– Bảo vệ lãnh thổ Việt Nam, có quân đội Liên Hiệp Pháp giúp sức
– Dự vào phòng thủ cương giới toàn khối Liên Hiệp Pháp chống ngoại xâm.
Quân Đội Quốc Gia Việt Nam sẽ có binh lính và sĩ quan Việt Nam (không được tổ chức quân đội Lê Dương như Pháp).
Sĩ Quan Việt Nam sẽ do các Trường Võ Bị Việt Nam đào tạo.
Quân Đội Việt Nam sẽ tổ chức giống quân chế quân đội Pháp. Chiến cụ sẽ đặt mua của Pháp và quân phí Việt Nam sẽ do Quốc Gia Việt Nam chịu.
Sẽ có quân đội Liên Hiệp Pháp đồn trú ở Việt Nam để làm tròn nhiệm vụ phòng thủ Liên Hiệp Pháp. Được tự do đi lại trên lãnh thổ Việt Nam, quân đội Liên Hiệp Pháp sẽ có thể tuyển mộ người Việt Namvào cơ ngũ.
Thời bình sẽ có một Ủy Ban Quân Sự làm cơ quan thường trực liên lạc giữa hai quân đội Việt Nam và Liên Hiệp Pháp, chung kế hoạch phòng thủ và hợp tác. Ủy ban này sẽ do võ quan tham mưu của cả hai quân đội dự.
Khi có chiến tranh, Ủy Ban sẽ làm cơ sở phát triển và thành lập Bộ Tham Mưu Việt-Pháp dưới quyền điều khiển trực tiếp của một sĩ quan hàng Tướng của Pháp, có Tham Mưu Trưởng người Việt Nam phụ lực. Toàn thể các lực lượng có thể dùng để phòng thủ sẽ hợp chúng lại trong thời kỳ chiến tranh.
Về Tư Pháp, Thỏa Hiệp định cho Việt Nam hai hạng Tòa Án: Tòa Án Việt Nam và Tòa Án Hỗn Hợp. Tòa Án Hỗn Hợp Việt-Pháp xử:
1.- Những vụ kiện về dân sự và thường sự của hai bên nguyên, bị (hoặc một bên, còn bên kia là người Việt Nam) dân Liên Hiệp Pháp, có nghĩa là Pháp và các dân trong Liên Hiệp Pháp ngoài Việt Nam. Ngoại kiều được hưởng đặc quyền tài phán do những điều ước Pháp đã ký kết từ trước.
2.- Những vụ truy tố về hình sự, người bị thiệt là hạng người nói trên (bất luận là dân nước nào). 3.- Những tội phạm đối với nước Pháp (mặc dầu bị cáo là người Việt hay người nước nào). Thỏa Hiệp còn theo nguyên tắc ‘’Hỗ Tương’’, định cho người Việt Nam có quyền kiện quốc gia Pháp
và trái lại, người Pháp cũng có quyền kiện quốc gia Việt Nam. Việc sẽ xử tại Tòa Cai Trị Pháp-Việt và theo luật nước Pháp.
Về Văn Hóa: Trên lãnh thổ Việt Nam sẽ có hai nền giáo dục: Pháp và Việt. Một Học Viện sẽ chung cho hai bên.
Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam sẽ tổ chức một nền giáo dục từ Tiểu đến Đại Học. Tiếng Pháp được ưu đãi và sẽ là tiếng công dụng ngoại giao ở Việt Nam, được dậy ở bậc Tiểu Học và bắt buộc dậy từ Trung Học trở lên.
Pháp sẽ được tự do mở mang các trường công và tư thục có đủ các bậc Tiểu, Trung và Đại Học kể các trường dậy chuyên môn và thực nghiệp. Phải theo luật lệ học chính của Việt Nam nhưng điều kiện tuyển giáo viên Trường Pháp sẽ theo luật Pháp. Học sinh các Trường Pháp học theo chương trình của Pháp và học thêm môn Sử Ký và Văn Hóa Việt Nam.
Người Việt Nam được tự do xin học Trường Pháp và những học sinh ấy bắt buộc phải học thêm môn Việt Ngữ.
Về Đại Học Vụ: Hiện nay vì đang ở hoàn cảnh khó khăn cho nên chỉ có dự định lập một Đại Học Viện chung Pháp-Việt (Mên, Lào có thể tham dự).
Văn bằng cấp Trung Học, sẽ được đem đối chiếu hai chương trình giáo khoa Việt-Pháp để định mức tương đương. Văn bằng cấp Đại Học sẽ được cả hai chính phủ Pháp-Việt coi là công thức. Trường Viễn Đông Bác Cổ thuộc quyền sở hữu của Việt, Pháp, Mên, Lào và không thể chuyển mại được.
Viện Pasteur ở Sài Gòn, Đà Lạt và Nha Trang cũng là của chung của 4 nước nói trên. Riêng ở Hà Nội, Viện Pasteur là của Việt Nam nhưng chính phủ Việt Nam sẽ ký kết hợp đồng với Viện ở Hà Nội giống như hợp đồng đã ký kết với các Viện khác.
Hai chính phủ Pháp-Việt đều có quyền sở hữu, lưu trữ công văn của mình. Các Thư Viện, Cục Túc Mễ, Sở Thiên Văn, Hải Học Viện Nha Trang v.v…sẽ được ấn định bằng khoán thư riêng. Về Kinh Tài: Dân Liên Hiệp Pháp ở Việt Nam cũng như người Việt Nam ở các xứ trong Liên Hiệp Pháp được tự do doanh nghiệp như người bản quốc theo luật lệ bản quốc.
Người Pháp, người các xứ Liên Hiệp Pháp tại Việt Nam cũng như người Việt Nam ở các xứ Liên Hiệp Pháp và các xứ Liên Hiệp Pháp cũng được hưởng những lợi ích như nhau trong phạm vi tài sản và doanh sở.
Người Pháp sẽ được tự do đầu tư ở Việt Nam trừ những doanh sở liệt vào ngành có quan hệ về Quốc Phòng thì phải có sự thỏa thuận của chính phủ Việt Nam mới được phép mở.
Thỏa Hiệp để Việt Nam có toàn quyền quản trị nền Tài Chính trong nước. Ba quốc gia Việt-Mên-Lào họp thành một liên hiệp tiền tệ lấy đồng bạc làm đồng tiền duy nhất do một Viện Phát Hành chung cho cả ba nước phát hành.
Đồng bạc sẽ thuộc khối đồng Franc (tiền Pháp) Giá Đồng Bạc và giá đồng Franc không nhất định phải có quan hệ nhưng mỗi khi có sự thay đổi giá đồng bạc hoặc giá đồng Franc thì Pháp phải hỏi ý kiến trước ba nước Việt- Miên-Lào.
Một hối đoái cục được thành lập để quy định cách thức đổi chác tiền bạc nói chung. Ba nước Việt-Miên-Lào còn hợp thành một Liên Hiệp Quan Thuế. Hàng hóa được chuyên chở tự do qua biên giới của ba nước. Hàng xuất nhập khẩu đều cùng chung một thuế xuất.
Kết luận, ngày 14 tháng 6 ở Sài Gòn, Quốc Trưởng Bảo Đại đã nhận Bản Thỏa Hiệp như giấy khai sinh nước Việt Nam Độc Lập. Thật vậy, ‘’khai sinh’’ nghĩa là còn non yếu và thiếu thốn. Quốc Trưởng cũng như quốc dân còn phải tận lực nuôi dưỡng nhiều nữa nước Việt Nam mới có thể trưởng thành, cứng mạnh.
Dĩ nhiên, Thỏa Hiệp Élysée chưa làm thỏa hẳn được lòng dân Việt Nam mong muốn, chưa mang lại tất cả quyền hành mà một nước Độc Lập phải có, nhưng dù sao trong đó cũng đã chứng tỏ được phần nào thiện trí xây dựng của Pháp và đánh dấu một bước tiến trên đường đi tới Độc Lập thật sự của Việt Nam.
Thỏa Hiệp Élysée đã làm một số chính khách thụ động ở Việt Nam tỏ thái độ nguây nguẩy và bắt bẻ. Nhưng muốn nhìn rõ giá trị của Thỏa Hiệp Auriol-Bảo Đại, không nên đặt nó lên bàn mổ xẻ theo một quan niệm cố định mà phải nhìn qua hoàn cảnh không gian và thời gian, qua các yếu tố chính trị đã cấu tạo ra nó. Theo quan niệm đơn thuần và cứng nhắc để nhận xét Thỏa Hiệp chỉ đi đến hậu quả gây hoang mang trong lúc cần phải bình tĩnh tập hợp mọi sự tư tưởng đứng đắn và chính đáng để hoàn bị nền Độc Lập của Tổ Quốc.
Công cuộc tranh đấu giành Độc Lập chẳng phải là một vấn đề dễ dàng và không thể đòi hỏi ở tài năng của riêng một cá nhân nào đặc biệt.
Thỏa Hiệp Élysée được thành tựu không phải cho riêng khả năng chính trị của các người theo chính nghĩa quốc gia và đã đo lường sức kết hợp của những tư tưởng quốc gia trên đất Việt. Thỏa Hiệp 8 tháng 3 năm 1949 là một tia lửa trong bóng tối âm thầm. Căn cứ ở điểm sáng đó, quốc dân chân chính sẽ cùng sát cánh để phụ lục với Quốc Trưởng tiếp tục xây dựng sự nghiệp tương lai. NGÀY VỀ
Công cuộc tranh đấu của Cựu Hoàng nơi hải ngoại kết thúc đã đem lại những giác thư ngày 8.3.1949 những giác thư xác định nguyên tắc Thống Nhất và Độc Lập của Việt Nam.
Đã giành dật lại chủ quyền trên giấy tờ, nay đến lúc cần phải bắt tay vào việc thực hiện những nguyên tắc đã ký kết.
Cựu Hoàng quyết định trở về lãnh đạo việc phục hồi lãnh thổ, xây dựng lại non sông. Ở nước nhà chính phủ Trung Ương Lâm Thời rộn dịp sửa soạn cuộc đón tiếp vị lãnh tụ thân yêu đã bao năm xa vắng.
Truyền đơn, biểu ngữ ‘’Nghênh giá hồi loan’’ tung bay khắp phố.
Toàn dân hồi hộp mong mỏi, đợi chờ một mới lạ, một thay đổi để chấm dứt tình trạng lơ lửng, nửa trắng, nửa đen.
Tháng 4 năm 1949, Hội Nghị Nam Kỳ Biểu Quyết bãi bỏ quy chế của Nam Phần lập nên do hai Hiệp Ước 1862 và 1874. Nền Thống Nhất đã gần hoàn bị.
Cựu Hoàng phái Hoàng Thân Bửu Lộc về nước để giải thích cho toàn thể quốc dân hiểu rõ ràng ý nghĩa của Thỏa Hiệp Élysée. Ngày về của Cựu Hoàng được quy định: 28.4.1949.
Từ ngày cùng phái đoàn Nghiêm Kế Tổ ra đi, cuối Xuân 1946, đến nay ngày về đầu Hạ 1949, tròn ba năm, Cựu Hoàng đã xa đất nước. Ba năm đầy khói lửa hoang tàn, Việt Nam đã thay bộ mặt. Ở Pháp về, Cựu Hoàng đến ngay dinh thự đặt tại Cao Nguyên Lang Bian và lặng lẽ bắt đầu công việc thăm dò dân ý. Một số lớn các nhân sĩ từ Nam chí Bắc được mời đến để trình bầy quan điểm về thời cuộc, trình bày mong muốn của mọi từng lớp dân chúng, nguyện vọng của các nhóm, đảng chính trị. Hai tháng sau, ngày 14 tháng 6, lễ trao đổi Văn Kiện Pháp-Việt cử hành long trọng tại Thủ Đô Nam Việt giữa một bên: Cựu Hoàng Bảo Đại và một bên là Thượng Sứ Léon Pignon.
Buổi lễ đã mang nặng những lời tuyên bố đầy tâm huyết:
‘’Quốc Dân Việt Nam!
Hôm nay đặt chân lên đất Nam Phần, tôi không thể nén nỗi lòng cảm động chứa chan hòa với vui mừng vô hạn.
Lãnh thổ này, giòng Hồng Việt đã dầy công khai thác từ bao thế kỷ. Minh Vương, Ninh Vương và Võ Vương đều kế nghiệp tại đây. Và từ đây, Đức Gia Long cùng biết bao anh hùng hiền sĩ xứ Đồng Nai, Gia Định đã khởi nghĩa Cần Vương hưng nghiệp cả, tô vẽ lại non sông từ Sài Gòn qua Thuận Hóa ra Thăng Long rồi tới biên thùy Trung Quốc.
Bầu nhiệt huyết của tiền nhân vẫn còn sôi chảy trong can trường nòi giống. Trong rừng rậm, nơi bùn lầy, biết bao chiến sĩ quyết hy sinh để phấn đấu cho chính nghĩa.
Lãnh thổ của tổ tiên ngày nay đã quy về một khối. Được như vậy là nhờ chí anh dũng của toàn dân và đồng bào các giới, nhờ tình hữu nghị của dân tộc Pháp. Sau bao năm sống riêng biệt, đồng bào Nam Phần đã tỏ ra là người Việt Nam không bao giờ quên nguồn gốc giống nòi. Trong công cuộc xây dựng lại Quốc Gia. Nam Phần đã đặt viên đá đầu tiên và ghi một công nghiệp vẻ vang trong lịch sử.
Công nghiệp ấy chỉ có thể tồn tại và phát triển được nếu dân tộc ta tiến triển trong kỷ luật, trật tự và an ninh. Nhưng ròng rã từ 4 năm nay, chỉ vì nguyện vọng quốc dân chưa đạt được nên nạn chiến tranh kéo dài, tàn phá đất nước.
Còn cảnh nào thê thảm bằng cảnh hai dân tộc Việt-Pháp xưa nay vẫn tha thiết với hòa bình, yêu chuộng tự do và công lý, mà ngày nay phải dùng đến võ lực, bạo tàn đối phó với nhau. Để chấm dứt thảm trạng ấy tôi không ngần ngại đảm nhận trách nhiệm tìm phương pháp hòa bình
để giải quyết sự xung đột và làm thỏa mãn những nguyện vọng thiết tha của dân tộc. Vì cần phải có một lập trường ở Pháp nên tôi phải tạm nhận địa vị xưa nhưng đối với quốc dân, ý định tôi vẫn không thay đổi. Một lần nữa, tôi trịnh trọng tuyên bố chính thể nước Việt Nam sau này sẽ do quốc dân định đoạt. Quốc dân đã dũng cảm phấn đấu cho nền Độc Lập Tổ Quốc, lẽ dĩ nhiên quốc dân phải là nguồn gốc mọi sự hoạt động của quốc gia, nhưng vì tình hình quốc tế nghiêm trọng và tình thế chính trị hiện tại chưa thuận tiện để đồng bào có thể phát biểu ý kiến rõ ràng sau một cuộc Tổng Tuyển Cử nên tới ngày hôm nay, tôi nhận đứng điều khiển bộ máy quốc gia.
Trước đây nửa giờ đã cử hành lễ trao đổi Văn Kiện với Đại Diện Tối Cao nước Pháp. Như quốc dân đã biết: Cuộc thương thuyết giữa chính phủ Pháp và tôi đã đi tới Thỏa Hiệp ngày 8 tháng 3, Thỏa Hiệp này chỉ là phác họa những nguyên tắc căn bản cho nền bang giao Việt-Pháp trên lập trường Thống Nhất và Độc Lập nước Việt Nam. Thỏa Hiệp ấy đã đánh dấu và là kết quả của tình thế chính trị trong giai đoạn hiện thời. Cũng như các Hiệp Định khác sẽ ký, Thỏa Hiệp 8.3 sẽ do quốc hội Việt Nam sau này chuẩn y.
Quốc Dân Việt Nam!
Theo đúng nguyên tắc Thỏa Hiệp nói trên, sự Thống Nhất lãnh thổ Việt Nam ngày nay đã được thực hiện. Ngày mùng 6 tháng 6 vừa rồi, Quốc Hội Pháp cũng đã biểu quyết long trọng thừa nhận sự sát nhập Nam Phần vào lãnh thổ Việt Nam.
Như vậy thể chế thuộc địa do các Hòa Ước 1862, 1874 tạo nên, đã hoàn toàn thủ tiêu. Nền Độc Lập nước nhà hiện tại và từ nay, nước Việt Nam sẽ tự điều khiển công việc mình trên đường quốc tế cũng như về mặt nội bộ.
Về phương diện quốc tế, nước ta đã có đủ quyền năng của một nước độc lập, quyền ngoại giao riêng, quyền đặt Sứ Quán tại ngoại quốc, quyền tiếp nhận các Sứ Quán ngoại giao, quyền gửi Lãnh Sự đi các nước, quyền điều đình và ký kết những hiệp ước quốc tế cùng là quyền gia nhập tổ chức Liên Hiệp Quốc.
Để thực hiện các quyền ấy, chính phủ thành lập ngày mai có nhiệm vụ phải hoạt động giành cho nước nhà có một địa vị xứng đáng trong khu vực Đông Nam Á Châu. Các việc cần thực hiện ngay là việc đặt các Lãnh Sự tại ngoại quốc và việc cử các Đại Sứ Việt Nam đến các nước định rõ trong Thỏa Hiệp ngày 8.3.
Chúng ta lại thành tâm mong đợi các nước bạn sớm có đại biểu đến nước ta và mau chóng đến ngày nước Việt Nam gia nhập Liên Hiệp Quốc.
Sở dĩ chúng ta cố gắng hành động để có một địa vị xứng đáng trên đường quốc tế là vì chúng ta tin tưởng rằng nước Việt Nam có sứ mệnh phải cộng tác với các nước khác để bảo vệ tất cả những phong thể cho loài người, căn cứ vào lòng yêu chuộng hòa bình, tự do cá nhân cũng là sự tôn trọng tinh thần dân chủ.
Về phương diện nội bộ, sự tổ chức quốc gia hợp ý dân là một vấn đề cực kỳ quan trọng. Danh dự dân tộc thúc giục chúng ta phải hành động sao cho thế giới thấy rõ hình ảnh nước Việt Nam tân tiến, biết trọng kỷ luật, biết yêu công lý.
Trước hết, về mặt hành chính, các cơ quan đặt ra là để làm việc cho dân. Một tổ chức đi ngược nguyên tắc căn bản ấy không thể nào tồn tại được. Vậy cần phải định ngay một quy chế cho công chức toàn quốc. Quy chế ấy sẽ phải tôn trọng những quan niệm thiết yếu và liêm chính, về năng lực cá nhân cũng là việc sử dụng các năng lực ấy cho hợp lý và công bằng.
Một chương trình cải tạo xã hội sẽ được ấn định và thực hiện. Chúng ta phải theo đuổi công cuộc chống nạn mù chữ, mở mang nền giáo dục phổ thông, nâng cao dân trí.
Giới cần lao là gốc của mọi việc canh tân sẽ được chính phủ săn sóc tới, mục đích nâng cao mức sống đồng bào. Những quyền chính trị tốt đẹp đến đâu mặc lòng cũng sẽ mất hết ý nghĩa và không còn ảnh hưởng gì nếu trong nước người dân ăn không đủ no, mặc không đủ ấm.
Bởi thế nên tôi thấy cần gấp phải mở mang kỹ nghệ, khuếch trương thương mại, chấn chỉnh nông
nghiệp, để trên nước Việt Nam mới, mỗi người thợ có một ngôi nhà, mỗi dân cầy có một khu trại. Tôi ước mong những nhà chuyên môn các nước có cảm tình với ta góp sức cùng chúng ta dể chóng thực hiện chương trình kiến thiết mà tôi vừa phá họa.
Lẽ dĩ nhiên, những quyền lợi chính đáng của ngoại kiều được bảo vệ và tôn trọng. Trong phạm vi Đại Gia Đình Việt Nam mới, Nam Phần với tài nguyên trù mật, sáng kiến khả năng với những tập quán cố hữu cần được tôn trọng, sẽ đóng một vai quan hệ trên đường tiến triển sau này. Nam Kỳ là quê hương của chúng ta, nhưng trước kia đối với tôi thường chỉ được coi như nơi tạm nghỉ cho người khách lạ. Nam Phần ngày nay là máu thịt Việt Nam, là gốc nguồn của sinh lực mới, trung tâm ngành hoạt động quốc gia.
Từ nay tôi mong toàn thể quốc dân cùng tôi cố gắng mỗi người sẽ đem hết tâm trí tài năng ra gánh vác một phần nhiệm vụ, lấy việc thịnh suy nước nhà làm trọng, gác bỏ tư lợi và óc đảng phái chia rẽ. Dưới mái nhà quốc gia phục hưng duy nhất, dưới mái từ đường Tổ Quốc trùng tu, tôi tha thiết nhắn nhủ toàn thể quốc dân hãy trở về nới an ninh và hòa mục, để cùng nhau xây dựng một Tổ Quốc xứng đáng mà phụng sự. Bao năm hy sinh của đồng bào là một bảo đảm chắc chắn cho sự thành công. Tin tưởng vào tương lai nòi giống, cùng nhau chúng ta hợp sức và bắt đầu viết trang sử mới của Tân Quốc Gia Việt Nam.’’
Bằng những lời lẽ giản dị, cảm động, Cựu Hoàng nhấn mạnh để quốc dân hiểu rõ từ nay giang sơn đã thu vào một mối, đồng thời nêu những thắng lợi thu được trong cuộc thương thuyết với nước Pháp, vạch rõ chương trình cải tạo hành chính, xã hội, kinh tế, văn hóa và kêu gọi toàn dân đoàn kết, hợp sức lại xây dựng nước nhà
Sau buổi lễ trao Văn Kiện tại Sài Gòn, Cựu Hoàng trở lại Đà Lạt nối tiếp công việc thăm dò ý kiến, thành lập Tân Nội Các thay thế cho chính phủ Trung Ương Lâm Thời.
Cựu Hoàng âm thầm hoạt động, không để ý tới những lời dèm pha, xuyên tạc của bao kẻ đứng ngoài. Một số báo chí Pháp tượng trưng phản ứng của phe thực dân, của phe cộng sản, chê trách Cựu Hoàng đã lợi dụng tình thế, tham lam đòi hỏi quá nhiều, chỉ trích Cựu Hoàng là gàn bướng, cố chấp, đặt điều nói xấu cố ý để Cựu Hoàng mất ảnh hưởng trước quốc dân. Rồi tuyên truyền của Việt Minh, với luận điều xảo trá quen thuộc, thêu dệt và phóng đại những chuyện tưởng tượng quanh Cựu Hoàng mục đích cũng để làm giảmuy tín và thanh danh của Người.
Nhưng Cựu Hoàng vẫn lặng lẽ làm việc, chỉ trả lời dư luận bằng những kết quả công việc đã đạt được và sự tiến triển rõ rệt của mọi ngành hoạt động.
Hành động của Cựu Hoàng đã gây được lòng tin tưởng, mến phục trong dân chúng và khiến cho những đối thủ cũng phải ngạc nhiên, vì nể.
Ngày 2 tháng 7 năm 1949, Cựu Hoàng thành lập xong Tân Nội Các và giải tán chính phủ Trung Ương Lâm Thời.
Nội Các mới gồm những vị sau đây:
Cựu Hoàng Bảo Đại: Quốc Trưởng kiêm Thủ Tướng chính phủ.
Nguyễn Văn Xuân: Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng (Hồi này Thiếu Tướng Xuân đã được chính phủ Pháp thăng lên Trung Tướng).
Nguyễn Khắc Vệ: Tổng Trưởng Bộ Tư Pháp.
Nguyễn Phan Long: Tổng Trưởng Ngoại Giao.
Trần Văn Ân: Tổng Trưởng Kinh Tế Kế Hoạch.
Trần Văn Ty: Quốc Vụ Khanh.
Vũ Ngọc Trản: Thứ Trưởng Nội Vụ.
Phan Huy Đán: Thứ Trưởng Nội Vụ (ở Pháp, không về nhận)
Dương Tấn Tài: Thứ Trưởng Tài Chính.
Hoàng Cung: Thứ Trưởng Can Nông, Cứu Tế Xã Hội Lao Động.
Trần Quang Vinh: Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng.
Lê Thăng: Thứ Trưởng Ngoại Giao.
Phan Huy Quát: Thứ Trưởng Quốc Gia Giáo Dục.
Trần Văn Của: Thứ Trưởng Giao Thông Công Chính.
Nguyễn Tôn Hoàn: Thứ Trưởng Bộ Thanh Niên.
Nguyễn Hữu Phiếm: Thứ Trưởng Bộ Y Tế.
Trần Văn Tuyên: Tổng Giám Đốc Thông Tin.
Đặng Trinh Kỳ: Tổng Thư Ký Chính Phủ.
Ngày 12 tháng 7, Quốc Trưởng ra thăm Huế Kinh Thành cũ, mới ngày nào nhỏ lệ tiễn Quân Vương hômnay đã nghẹn ngào tiếp đón cố nhân. Bốn năm về trước, sông Hương, núi Ngự đã lặng nghe Bản Chiếu Thoái Vị những tưởng rồi đây ngôi báu phải được đền bù bằng sự thịnh vượng của Tổ Quốc, nhưng 4 nămkhói lửa và tang tóc qua, vị Vương trẻ tuổi lại phải trở về để ‘’tạm nhận địa vị xưa’’. Tuy nhiên ý định của Người vẫn không thay đổi. Chính thể của nước Việt Nam sau này sẽ do quốc dân định đoạt.
Ngày 16 tháng 7, trước dân chúng sơ xác của Hà Thành, trước hoang tàn của đất ngàn năm văn vật, Quốc Trưởng tuyên bố những nét đại cương của Chương Trình kiến thiết quốc gia. Quốc Trưởng đã nói đến cơm áo, đến nhà cửa, đến tất cả những thiếu thốn mà quốc dân đang phải khổ cực chịu đựng. Quốc Trưởng nhấn mạnh:
Chính phủ mà tôi trực tiếp lãnh đạo sẽ gắng công ‘’thực hiện một chương trình cải cách xã hội để kiến thiết một chế độ ‘’hợp lý, công bằng và nhân đạo.’’
Muốn cho quốc dân có thể tham gia việc nước bằng cách phát biểu ý kiến rộng rãi, Quốc Trưởng quyết định thiết lập một Hội Đồng Tư Vấn Quốc Gia, một tổ chức gồm các đại biểu dân chúng tham dự. Mặc dầu vùng quốc gia còn nhỏ bé so với vùng Việt Minh kiểm soát, Quốc Trưởng đã tổ chức lại quy chế các công sở, điều chỉnh lại các cơ quan công quyền.
Dưới Nội Các Bảo Đại, thanh niên được đặc biệt chú trọng. Nào lớp Tu Nghiệp, nào những cơ sở huấn luyện thanh niên, thể thao, thể dục. Một vài tổ chức thể thao cố gắng hoạt động như túc cầu, xe đạp, quần vợt và nhất là bóng bàn, Việt Nam đã có tuyển thủ đi dự ở ngại quốc.
Chính phủ mở một Huấn Luyện Hành Chính để đào tạo một loạt cán bộ chính quyền mới thích ứng với hoàn cảnh, nhu cầu và đủ năng lực duy trì chính nghĩa quốc gia tại khắp các địa phương. Về giáo dục, chính phủ ban hành Chương Trình Trung Học mới, giúp đỡ và trợ cấp các sinh viên nghèo, hiếu học và tăng cường công tác chống nạn mù chữ.
Về việc giao thiệp với quốc tế, lần đầu tiên một vị Bộ Trưởng Việt Nam Ngoại Trưởng Nguyễn Phan Long được cử làm Trưởng Đoàn Đại Biểu Việt Nam đi dự Hội Nghị Kinh Tế Đông Nam Á và Viễn Đông (Singapore). Hoàng Thân Bửu Lộc và ông Nguyễn Đắc Khê đi Pháp.
Nội các Bảo Đại đã hết sức hoạt động tuy rằng đó mới chỉ là một Nội Các tượng trưng trong buổi giao thời.
Cả về phương diện quốc gia và quốc tế, Quốc Trưởng còn phải giải quyết những công việc cần thiết khác:
– Quốc Hội Pháp chưa duyệt ý Thỏa Hiệp 8.3.49
– Quyền nội trị của Việt Nam chưa được Pháp hoàn toàn trao trả.
Và nhất là Việt Minh đang cố gắng tăng cường hoạt động trên chiến trường toàn quốc. Để rảnh tay chú trọng đến các công việc trên, Quốc Trưởng đã chuyển quyền cho Tổng Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Phan Long.
Ngày 18 tháng 1 năm 1950, ông Nguyễn Phan Long nhận chức Thủ Tướng để thành lập nội các như sau: Nguyễn Phan Long: Thủ Tướng kiêm Ngoại Giao, Nội Vụ.
Nguyễn Khắc Vệ: Bộ Trưởng Tư Pháp.
Phan Huy Quát: Bộ Trưởng Quốc Phòng.
Dương Tấn Tài: Bộ Trưởng Tài Chính.
Vương Quang Nhường: Bộ Trưởng Quốc Gia Giáo Dục.
Lê Quang Huy: Bộ Trưởng Công Tác và Kiến Thiết.
Lê Thăng: Thứ Trưởng Ngoại Giao.
Trần Văn Chi: Thứ Trưởng Canh Nông.
Võ Duy Thường: Thứ Trưởng Y Tế.
Hoàng Cung: Thứ Trưởng Thương Mại-Kỹ Nghệ.
Lê Văn Ngọ: Thứ Trưởng Xã-Lao
Nguyễn Tôn Hoàn: Thứ Trưởng Thanh Niên Thể Thao.
Đinh Xuân Quảng: Thứ Trưởng tại Dinh Thủ Tướng.
Huỳnh Văn Trọng: Tổng Thư Ký chính phủ.
Nội Các Nguyễn Phan Long được thành lập để thí nghiệm một đường lối chính trị, dò đường đi cho một chính sách đối ngại cương quyết.
Nội Các Nguyễn Phan Long sẵn sàng chịu đựng mọi phản ứng thử thách.
Ngày 3 tháng 2 năm 1950, Quốc Hội Pháp nhóm họp thông qua Hiệp Ước Élysée. Quốc Gia Việt Nam từ nay đàng hoàng góp phần trong Đại Gia Đình Thế Giới Tự Do. Các nước liên tiếp nhau công nhận sự có mặt một quốc gia Việt Nam.
Những sự kiện đó đã khiến cuộc đấu tranh giữa chính phủ quốc gia và Việt Minh trở nên một cuộc tranh chấp quốc tế.
Được các nước trong Khối Dân Chủ chính thức nhìn nhận, Việt Nam khẩn trương ngay những cuộc giao thiệp với quốc tế.
Chính phủ Nguyễn Phan Long đã phái các Đại Biểu đi dự những Hội Nghị:
– Hội Nghị Y Tế quốc tế ở Genève.
– Hội Nghị quốc tế về Ung Thư
– Lễ Phật Đản ở Ấn Độ.
– Đấu xảo quốc tế.
– Hội Nghị Thương Mại Kỹ Nghệ E.C.A.F.E
– Hội Nghị Thương Mại ở Ba Lê.
Đối nội, chính phủ Nguyễn Phan Long tiếp tục công việc của Nội Các Bảo Đại.
Về Hành Chính: Mỗi địa phương Trung-Nam-Bắc có một vị Thủ Hiến điều khiển mọi công việc theo đường lối của chính phủ Trung Ương.
Cơ quan Cảnh Sát Công An chính quy được thành lập. Bành trướng phong trào Thanh Niên-Thể Thao. Mở mang các trường đào tạo cán bộ Thanh Niên Trung Cấp, Cán Bộ Phụ Nữ Trung Cấp. Về Xã Hội: Việc cấp tế nạn nhân chiến tranh cùng việc xây dựng những khu nhà rẻ tiền cho đồng bào nghèo tạm trú được Nội Các Nguyễn Phan Long tích cực thực hiện.
Tháng 3 năm 1950, Việt Minh tăng cường khủng bố để đe dọa và kìm hãm sức tiến triểu của chính phủ quốc gia. Việt Minh làm dân chúng sợ sệt bằng cách đặc phái những phần tử quá khích vào các thị thành gây xáo lộn. Đặc biệt nhất là những vụ biểu tình của học sinh. Việc này đã ảnh hưởng rất nhiều đến nhân tâm và an ninh công cộng. Những sự đáng tiếc xẩy ra giữa học sinh và các nhà đương cục Cảnh Sát Công An là điểm đau xót đối với phe Quốc Gia và là một thắng lợi cho cộng sản.
Lợi dụng cái đã lộn xộn ấy, Việt Minh càng ra công hoạt động, nào ám sát, nào ném lựu đạn, nào đốt nhà, nào cấm chợ…
Tình thế bắt buộc một sự cải tổ chính phủ.
Quốc Gia Việt Nam trong giai đoạn cần một chính phủ hợp thời hơn.
Dưới Nội Các Nguyễn Phan Long, đáng tiếc đã có những luồng dư luận không thức thời chỉ chuyên nghĩ công kích, đả phá cá nhân, chê bai hành động bề mặt của chính phủ mà không để ý tới bề sâu. Ưu điểm thứ nhất: Chính phủ Bảo Đại Nguyễn Phan Long duy trì một đường lối chính trị mạnh. Dưới sự lãnh đạo của Quốc Trưởng Bảo Đại, Thủ Tướng Nguyễn Phan Long đã tiến bước trong đường lối sớm sủa đó. Sự mạnh dạn chưa hợp thời vì phần đối tượng ngoài nước bấy giờ còn cứng mạnh hơn và nội bộ phe quốc gia chưa hoàn toàn đoàn kết thành một khối duy nhất.
Những ai nhận xét đứng đắn cũng phải giữ một ý niệm đẹp về Quốc Trưởng Bảo Đại. Người đã khăng khăng không chịu về nước khi nhận thấy Độc Lập, Thống Nhất chưa được Pháp tích cực nói đến, và về lập trường ngoại giao gay gắt, rắn rõi của Thủ Tướng kiêm Ngoại Trưởng Nguyễn Phan Long.
Nhờ đường lối mạnh ấy, chính phủ sau này dễ dàng trong việc bắt mạch tìm chính sách thích hợp, ngõ hầu tránh được những hiểu lầm đáng tiếc, nhất là đối với ngoại quốc.
Khi nhận thấy thời gian chưa hợp với đường lối chính trị của mình, Quốc Trưởng đã thẳng thắn giải tán Nội Các để tìm người thay thế Thủ Tướng Nguyễn Phan Long. Nhân vật mới sẽ rút kinh nghiệm ở bài học trước và vạch một đường lối mới, mềm dẻo và sát tình thế hơn.
CHÍNH PHỦ TRẦN VĂN HỮU
Cuộc chiến tranh ở Việt Nam đã bán chính thức quốc tế hóa sau khi mỗi bên thế giới dân chủ và cộng sản thừa nhận chính phủ Quốc Gia do Quốc Trưởng Bảo Đại lãnh đạo và chính phủ Dân Chủ Cộng Hòa của cụ Hồ chí Minh.
Quốc tế đã chính thức công nhận sự có mặt một Quốc Gia Việt Nam. Hai phe Quốc-Cộng ở Việt Namđều cố gắng trong cuộc chạy đua quyết định sống còn. Dĩ nhiên, Quốc Trưởng Bảo Đại phải lãnh đạo dân tộc Việt Nam để đánh bại việt cộng, để nhân dân Việt Nam khỏi phải chịu đựng một chính thể độc tài, để công cuộc tranh đấu của những người chiến sĩ quốc gia khỏi thất bại, để Hiệp Ước Élysée, một sự cố gắng của chính phủ Pháp khỏi biến thành giấy lộn.
Thế giới dân chủ phải có mặt ở Việt Nam.
Từ chính phủ Trung Ương Lâm Thời Nguyễn Văn Xuân phần lớn dân chúng vẫn ở trong vùng Việt Minh kiểm soát. Vùng Quốc Gia chỉ gồm vỏn vẹn vài đô thị lớn và những trục giao thông cần thiết cho quân sự. Đã thế, vùng Quốc Gia còn không được an ninh và vì chính sách khủng bố bạo tàn của các cán bộ Việt Minh, còn hỗn loạn vì phương pháp tuyên truyền xảo trá của cộng sản quốc tế đội lốt quốc gia dân tộc. Tháng 3 năm 1950 vùng Sài Gòn, Chợ Lớn còn xẩy ra nào đốt nhà, nào tan chợ, nào bãi khóa…tinh thần dân chúng bị căng thẳng, hoang mang vì những cảnh tượng ghê gớm liên tiếp diễn ra ngay giữa các đô thị.
Những người quá khích nhất định phá rối nền trật tự mới tái lập tại vùng Quốc Gia. Trước tình thế khẩn cấp đó, Quốc Trưởng Việt Nam quả quyết cải tổ Nội Các. Vấn để nhân sự là một việc rất khó khăn trên khoảng đất mà số nhân tài chống cộng đã bị thủ tiêu từng đợt từ 1945. Tình thế bắt buộc phải thay đổi chính phủ, dù thế nào Quốc Trưởng cũng phải cố gắng thảnh lập một Nội Các đặc biệt để có thể đối phó với giai đoạn.
Ông Trần Văn Hữu được Quốc Trưởng chú ý và chỉ định.
Ông Trần Văn Hữu, một nhân vật tuy toàn quốc chưa hẳn biết tiếng nhưng riêng địa phương Nam Việt đã rất rõ những hoạt động của ông, một người quốc gia chống cộng hoàn toàn, trên phương diện ý thức cũng như hành động. Trước những biến cố năm 1946, ông có chủ trương thoát ly Nam Việt ra ngoài Quốc Gia Việt Nam. Chủ trương ấy tuy có thể làm yếu cộng sản nhưng không phù hợp với ý thức dân tộc, do đó ông đã sáng suốt từ bỏ ý kiến bất hợp thời ấy để tham gia giữ chức Phó Thủ Tướng chính phủ Lâm Thời Việt Nam.
Được vời ra giữ trọng trách thành lập chính phủ trong lúc nước nhà đang nghiêng ngửa, chính sách của ông là tập trung tất cả những phần tử chống cộng, tập hợp khả năng ít ỏi trong vùng kiểm soát để đặt vững vàng guồng máy hành chính, cải tổ công việc trong các Bộ, kiến tạo một Quân Đội Quốc Gia Việt Nam và đặt đại biểu ngoại giao ở ngoại quốc.
Ngày 6.5.1950, Nội Các Trần Văn Hữu trình diện Đức Quốc Trưởng gồm những vị:
Trần Văn Hữu: Thủ Tướng Chính Phủ kiêm Ngoại Giao và Quốc Phòng.
Nguyễn Khắc Vệ: Tổng Trưởng Tư Pháp.
Trần Quang Vinh: Tổng Trưởng Quân Lực.
Dương Tấn Tài: Tổng Trưởng Tài Chánh.
Hoàng Cung: Tổng Trưởng Kinh Tế.
Lê Quang Huy: Tổng Trưởng Giao Thông Công Chính.
Vương Quang Nhường: Tổng Trưởng Quốc Gia Giáo Dục.
Đặng Hữu Chí: Tổng Trưởng Y Tế Xã-Lao.
Trần Văn Tuyên: Bộ Trưởng Dinh Thủ Tướng.
Đinh Xuân Quảng: Tổng Trưởng Công Vụ.
Nguyễn Tôn Hoàn: Tổng Trưởng Thanh Niên
Việc lựa chọn nguyên Thủ Hiến Nam Việt làm Thủ Tướng chính phủ đã tạm chấm dứt nhiều nỗi băn khoăn.
Lĩnh sứ mạng cao cả đó, Thủ Tướng Trần Văn Hữu đã tỏ một lòng gan góc, một qý thức quyết chiến, một khả năng dồi dào.
Công việc đối phó đầu tiên của chính phủ là vấn đề an ninh nội bộ, an ninh trong vùng kiểm soát. Có an ninh, dân chúng mới đỡ khổ, mới có can đảm làm ăn, xây dựng lại cơ nghiệp hoang tàn. Thiếu an ninh, chính phủ không thể có uy tín trong dân chúng.
Nhiệm vụ đó thật cực kỳ khó khăn. Nhưng Bộ An Ninh đã thành công vĩ đại sau một thời gian ngắn. Đối phó với các ban khủng bố của đối phương, chính phủ thi hành chính sách ‘’tàn bạo đối với tàn bạo’’. Thủ đoạn ‘’trả đòn’’ dần dần thanh toán được cái nạn ném truyền đơn, ném tạc đạn, bắt trộm và đâm trộm. Tinh thần người dân được ổn định mặc dầu đã có một vài việc quá quắt trong vấn đề bắt bớ giam cầm. Nhưng làm thế nào được, một chính sách ‘’được việc’’ nào chẳng có những điềm thiếu sót ?
Ngành Công An được cải tổ hoàn toàn để phù hợp với công tác an ninh. Được xây dựng trên những phương thức làm việc mới mẻ, hệ thống Công An trong thời gian ngắn đã chạy đều đặn ăn nhịp với sự biến thể của hoạt động Việt Minh. Dân chúng nhận thấy công an, tình báo, tuyên truyền Việt Minh… lấn lượt bị săn bắt ráo riết. Được che chở, người dân trở lại bình tâm xây đắp cuộc đời mới. Người hồi cư đã bắt đầu nhiều nhiều, dân số các thị thành tăng lên một cách lạc quan. Khẩu hiệu Bảo Vệ An Ninh đã có kết quả rất mỹ mãn. Dưới mắt người ngoại quốc, sự an ninh là một lời sự giới thiệu rất hay ho của chính phủ Trần Văn Hữu. Dân chúng và chính quyền đều được thỏa mãn dần dần với sự tiến bộ của tình hình.
Đi đôi với thành tích an ninh, chính phủ Trần Văn Hữu tiến hành rất gấp việc thu hồi chủ quyền nội bộ. Một Hội Nghị mới mẻ được tổ chức. Hội Nghị Pau giữa 4 quốc gia Pháp, Việt, Mên, Lào. Hội Nghị Pau đi vào chi tiết trong việc giải quyết tất cả những thắc mắc về quy chế của các nước Liên Kết: Vấn đề di trú, kế hoạch kinh tế, vấn đề ngoại thương, xuất nhận và tiền tệ. Riêng vấn đề tiền tệ. Việt Nam từ nay có mặt trong một Viện Phát Hành chung ở Đông Dương.
Số lớn các công sở chuyên môn trước khi thuộc quyền Giám Đốc Pháp lần lượt được chuyển sang tay người Việt. Các Công Chức mà Việt Minh đã gạt bỏ vì không hợp với họ dần dần được chính phủ quốc gia nâng đỡ, có chỗ ăn làm nhất định. Chính phủ Trần Văn Hữu đã mang lại yên ấm cho công chức, những bánh xe trong bộ máy chính quyền non trẻ của Việt Nam. Không những họ đủ ăn, đủ mặc, mức sống dĩ nhiên hơn hẳn những người làm việc với Việt Minh, còn có nhiều người được trở nên giầu có do những đặc ân và địa vị ưu đãi trong công sở…
Sau Hiệp Định Pau, chính quyền quốc gia đi dần dần đến chỗ ‘’Việt Nam Hóa’’. Người dân đã hơi làmquen với chính phủ quốc gia mà từ lâu họ nghi kỵ, không chú ý hoặc có chú ý nhưng chỉ chê bai, công kích. Công tác an ninh đã đem lại kết quả đẹp đẽ cho đời sống của dân chúng. Tuy vậy, vấn đề an ninh nói riêng vẫn chỉ là một việc đấu tranh ngăn ngừa kẻ phá hoại lẻn vào hàng ngũ của chính phủ quốc gia mà chưa phải hẳn là một vấn đề mấu chốt trong cuộc chiến tranh với việt cộng.
Muốn kiến tạo một quốc gia theo ý muốn trong hệ thống dân chủ. Chính phủ phải cấp tốc xây dựng ngay một quân đội đủ để chiến thắng kẻ địch hiện tại, đủ để bảo vệ chính nghĩa, đủ để giữ gìn bờ cõi một khi bị xâm lăng.
Hiện nay công việc ngăn ngừa Việt Minh hoàn toàn ỷ lại vào lực lượng Liên Hiệp Pháp. Tình trạng trên phải sớm được chấm dứt nếu Việt Nam muốn xứng đáng với danh hiệu Độc Lập của mình. Để thực hiện ý định đó, Quốc Trưởng ký một Đạo Dụ Tổng Động Viên và chính phủ Trần Văn Hữu lập tức ban hành những biện pháp cần thiết để thi hành Đạo Dụ.
Lớp thanh niên đầu tiên 60.000 người được gọi ra để theo lớp huấn luyện quân sự 2 tháng. Nền móng của Quân Lực Quốc Gia được đắp xây và Quân Đội Quốc Gia Việt Nam thành hình. Người thanh niên Việt Nam, hôm qua, nạn nhân của một chính thể độc tài, nạn nhân của thời cuộc, hôm nay đã là người lính của quốc gia, hiên ngang trong bộ nhung phục, dưới sắc cờ vàng son. Từ 10 đến 100, từ 100 đến 1000, người lính quốc gia Việt Nam lớn dần với trang bị tối tân của nước bạn viện trợ, sánh vai với người lính viễn chinh đồng cam cộng khổ trên mọi chiến trường. Tuy trong thời kỳ măng sữa, tuy chưa được hết lòng tín phục của người, nhưng bóng dáng người lính quốc gia Việt Nam cũng đã đủ tượng trưng rõ rệt ý thức độc lập của một quốc gia thống nhất dưới vị lãnh tụ thân yêu: Quốc Trưởng Bảo Đại.
Trong bài diễn văn của buổi lễ ký Hiệp Định Quân Sự Quốc Trưởng tuyên bố: ‘’Có những kẻ đã nói đến cốt nhục thương tàn. Tôi muốn những kẻ đó phải giải thích rõ ràng hơn về tính chất tấm thảm kịch đang diễn ra trên đất nước Việt Nam. Tất cả những sự tàn phá, tất cả những tang tóc đau thương chồng chất từ 5 năm nay hoàn toàn do một đảng gây nên. Đảng đó bây giờ không còn e dè che đậy là một đảng do người ngoại quốc cầm đầu. Như vậy quân đội quốc gia sẽ không chủ trương một cuộc chiến tranh huynh đệ tương sát mà chỉ chiến đấu để cứu nước khi lâm nguy, chiến đấu để chống với những kẻ cố tâm phá hoại nền độc lập. Những kẻ muốn để một tà thuyết ngoại lai đặt ách đô hộ trên đầu dân chúng nước này sẽ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về những tội đại ác của mình trước lịch sử…’’
Quan niệm của vị lãnh tụ rất rõ rệt. Người không muốn là một tà thuyết nào bay đến phá hủy những thuần phong mỹ tục truyền thống của Việt Nam. Người không muốn một chính thể chính trị nào phá bỏ cá tính quốc gia của dân tộc Việt Nam để buộc dân tộc Việt Nam vào sợi giây quốc tế không tưởng và Người đã lớn tiếng tố cáo Việt Minh là cộng sản, là phản động làm thụt lùi dân trí Việt Nam. Bởi lẽ đó, quân đội quốc gia Việt Nam cần có mặt để làm một việc phải làm: Tiêu diệt lực lượng tay sai của đệ tam quốc tế ở lãnh thổ Việt Nam.
Chính phủ Trần Văn Hữu được vinh dự đặt viên đá đầu tiên trong việc chính thức thành lập Quân Lực chính quy Việt Nam.
Quân đội được kiến tạo để bảo vệ quốc gia, bảo vệ lý tưởng do Quốc Trưởng hướng dẫn. Dựa vào quan niệm căn bản đó, tất cả những bộ đội địa phương khắp Trung, Nam, Bắc sẽ lần lượt được tập hợp, thống nhất dưới lá cờ vàng ba vạch đỏ.
Từ 1948, Trung Tướng Nguyễn Văn Xuân đã muốn quy hợp Vệ Binh đất Bắc, Vệ Binh Cộng Hòa miền Nam và Việt Binh Đoàn Trung Việt làm một dưới nhãn hiệu duy nhất Vệ Binh Việt Nam nhưng hoàn cảnh và tình thế chưa cho phép. Qua Hiệp Ước Élysée, qua Hội Nghị Quân Sự ở Đà Lạt, Quốc Trưởng đã sắc cử Thủ Hiến Phan Văn Giáo làm Trung Tướng Tổng Thanh Tra Quân Đội Toàn Quốc. Đó là bước đầu để gây một quan niệm thống nhất về quân sự. Những nguyên tắc căn bản về việc tổ chức một Quân Đội Quốc Gia Việt Nam được quyết định giữa Quốc Trưởng và Cao Ủy Pháp Letourneau tháng 11 năm 1950 tại Cao Nguyên Đà Lạt đã giúp chính phủ Trần Văn Hữu khẩn trương phương tiện tổ chức Quân Đội Việt Nam.
Trường Võ Bị Huấn Luyện Sĩ Quan mở ở Đà Lạt. Ở đây, những trang thanh niên tuấn tú được chau rồi cả đạo đức lẫn chuyên môn, ở đây đào tạo các cấp chỉ huy tương lai cho quân đội toàn quốc. Ngoài Trường Sĩ Quan Đà Lạt, ở các nơi khác còn có rất nhiều trường huấn luyện hạ sĩ quan và bổ túc quân sự.
Quân Đội của chính phủ quốc gia tuy chưa hoàn hảo nhưng cũng đã làm đối phương nhiều phen kinh khủng. Địch thủ khiếp sợ trước sức chiến đấu mãnh liệt của người lính quốc gia.
Quân Đội chính quy Việt Nam có bổn phận giữ vững nền Độc Lập cần cho hạnh phúc toàn dân tộc, cần
cho nền trật tự chung thế giới. Dưới khẩu hiệu Dân Vi Quý, dành Độc Lập cho xứ sở, xây đắp Hòa Bình cho thế giới dân chủ.
Chính phủ Trần Văn Hữu đã hết sức vun trồng để quân đội quốc gia lớn vùng lên kịp theo sát được quân Liên Hiệp Pháp mục đích tiêu diệt sinh lực thù.
Ngoài việc củng cố nội bộ, xây dựng quân đội, chính phủ Trần Văn Hữu phát triển công tác đối ngoại, gửi rất nhiều phái đoàn đi dự các Hội Nghị quốc tế. Qua những Hội Nghị Pau, Hội Nghị Kinh Tế, Y Học, Lao Động Quốc Tế… Việt Nam còn có mặt tại Hội Nghị quan trọng nhất trong các Hội Nghị quốc tế kể từ sau chiến tranh hoàn cầu lần thứ hai: Hội Nghị Cựu Kim Sơn. Ngồi ngang hàng với các quốc gia trên thế giới, đoàn đại biểu Việt Nam đã phô bày một tâm lý nhiệt thành đối với Đại Gia Đình Quốc Tế, đối với Thế Giới Dân Chủ. Tiếng nói của Việt Nam được các cường quốc chú ý. Quần Đảo Hoàng Sa, Quần Đảo Tây Sa được trả lại Việt Nam, Nhật Bản thỏa thuận bồi thường những sự thiệt hại do chiến tranh gây ra…Đoàn Đại Biểu Việt Nam do chính Thủ Tướng Trần Văn Hữu hướng dẫn đã thành công, mang lại kết quả vật chất và tinh thần cho đất nước. Thắng lợi lớn lao ấy là công của toàn thể nhân dân Việt Nam. Sự tranh đấu mấy năm qua của những chiến sĩ vô danh đã không đến nỗi uống phí. Việt Nam được ngang hàng với các nước trên thế giới ở Hội Nghị Cựu Kim Sơn, đó là thành tích của những người lính hy sinh ngoài trận tuyến, đó là thành tích của những người dân đã tan vỡ cả sản nghiệp đã tản mác, lưu lạc khắp rừng xanh, núi đỏ, đã đổ máu, đổ mồ hôi trên đất nước.
Nói về khả năng, chính phủ Trần Văn Hữu còn đánh dấu được một nấc độ trong sự tiến bộ về phương diện tập hợp nhân tài. Điều khó khăn từ trước tới nay vẫn là vấn đề nhân tài giúp nước. Chính phủ Trần Văn Hữu cũng nhận thấy đó là một điều cần phải giải quyết nếu chính phủ muốn làm được những điều ích quốc lợi dân. Với phương pháp vận động khéo léo, với tư cách riêng của Thủ Tướng, một số người có đầu óc đã chẳng ngại nhẩy ra tham dự chính quyền.
Chính phủ Trần Văn Hữu tích cực xây đắp tư tưởng chống cộng ở Việt Nam và tích cực trình bầy quan điểm đẹp đẽ đó trước thế giới dân chủ. Nhờ lòng nhiệt thành của Thủ Tướng, của chính phủ trong cuộc chiến đấu chống việt cộng, viện trợ của ngoại quốc ngày càng dồi dào. Riêng nước Mỹ đã hết sức chú trọng đến Việt Nam. Các cố vấn Mỹ, các nhà ngoại giao đua nhau sang Việt Nam nghiên cứu. Dựa vào viện trợ Mỹ, Quân Đội Việt Nam sẽ được trang bị tối tân.
Chính phủ Trần Văn Hữu vừa thành lập, tình hình quốc tế đã biến chuyển rất nhanh, ảnh hưởng nhiều đến Việt Nam. Việc thứ nhất là biên cương Việt Nam mở rộng trước Trung Hoa cộng sản, việc thứ hai là cuộc chiến tranh tại Cao Ly. Hai việc lớn đó càng ngày càng chịu ảnh hưởng lên cục diện địa phương Việt Nam. Riêng bóng người Hồng Quân Trung Hoa thấp thoáng ở biên giới đã là một ưu thế mạnh cho địch thủ của phe quốc gia dân tộc…Việt Nam cần phải nhẩy sang một bước khác mạnh hơn, quyết liệt hơn trong giai đoạn đấu tranh thực sự gay go với một kẻ địch đang hùng mạnh.
Tháng 6 năm 1952, Thủ Tướng Trần Văn Hữu tuyên bố hết nhiệm vụ.
Trong hai năm tròn, Nội Các Trần Văn Hữu cải tổ hai lượt. Lượt thứ nhất ngày 20 tháng 2.1951 sau Hội Nghị Pau:
Trần Văn Hữu: Thủ Tướng kiêm Ngoại Giao, Nội Vụ, Quốc Phòng.
Nguyễn Khắc Vệ: Phó Thủ Tướng kiêm Tư Pháp.
Vương Quang Nhường: Tổng Trưởng Phụ Tá Thủ Tướng Phủ kiêm Quốc Gia Giáo Dục. Nguyễn Trung Vinh: Tổng Trưởng Tài Chánh.
Trần Văn Khá: Tổng Trưởng Kinh Tế.
Đặng Hữu Chí: Tổng Trưởng Y Tế.
Dương Tấn Tài: Tổng Trưởng Công Vụ.
Lê Quang Huy: Tổng Trưởng Giao Thông Công Chính.
Nguyễn Duy Thanh: Tổng Trưởng Kế Hoạch
Nguyễn Văn Tâm: Tổng Trưởng An Ninh.
Hoàng Cung: Tổng Trưởng Xã Hội.
Trần Văn Tuyên: Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng.
Nguyễn Hữu Thuần: Bộ Trưởng Ngoại Giao.
Đinh Xuân Quảng: Bộ Trưởng Ngân Khố
Phạm Văn Bình: Bộ Trưởng Thanh Niên.
Nguyễn Trí Độ: Thứ Trưởng Lao Động.
Nội Các thứ ba ngày 8 tháng 3.1952 sửa đổi như sau:
Trần Văn Hữu: Thủ Tướng kiêm Quốc Phòng và Tài Chính.
Vương Quang Nhường: Tổng Trưởng Tư Pháp.
Nguyễn Trung Vinh: Tổng Trưởng Ngoại Giao.
Nguyễn Văn Tâm: Tổng Trưởng Nội Vụ.
Lê Văn Hoạch: Tổng Trưởng Canh Nông.
Nguyễn Chánh Hải: Tổng Trưởng Xã Hội Lao Động.
Nguyễn Thành Giung: Tổng Trưởng Giáo Dục Thanh Niên.
Lê Quang Huy: Tổng Trưởng Công Chính Viễn Thông.
Nguyễn Duy Thanh: Tổng Trưởng Kế Hoạch Kiến Thiết.
Nghiêm Văn Tri: Tổng Trưởng Phụ Tá Quốc Phòng.
Phạm Văn Hải: Tổng Trưởng Tài Chánh.
Nguyễn Trác: Quốc Vụ Khanh.
Đinh Xuân Quảng: Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng.
Lý Binh Huê: Bộ Trưởng Thương Mai Kỹ Nghệ.
Đỗ Văn Hoành: Bộ Trưởng Y Tế.
Nội Các Trần Văn Hữu từ chức. Nhìn tổng quát trong ‘’vấn đề thành công’’ của chính phủ Trần Văn Hữu, ta thấy hai điểm rõ rệt.
– Điểm kết quả nói chung về hành động và tổ chức
– Điểm kết quả về tinh thần, tư tưởng.
Nói chung về những kết quả tổ chức và hành động. Chính phủ Trần Văn Hữu chưa được nổi bật, lý do đặc biệt nhất vẫn là vấn đề nhân sự. Nhân tài trong vùng quốc gia quãng 1950 rất ít ỏi. Từ 1945, dưới bàn tay Việt Minh, những phần tử có khuynh hướng quốc gia đều lần lượt bị ‘’thủ tiêu’’ với cái nghĩa rộng rãi của nó:
– Bị xử bắn công khai hay bí mật như Học Giả Phạm Quỳnh, Tuần Phủ Cung Đình Vận, lãnh tụ Tạ Thu Thâu
– Bị đưa đi an trí một số lớn các giáo sĩ, bác sĩ, giáo sư, quan lại cũ
– Bị chi phối hay đồng hóa như Phan Kế Toại, Bùi Bằng Đoàn, Phan Anh, Chu Bá Phượng… Số nhân tài trong vùng quốc gia hiện nay đều đã may mắn thoát khỏi nanh vuốt Việt Minh nhờ xự sơ xuất của các cơ quan Việt Minh địa phương hoặc nhờ sự can thiệp của Quân Đội Quốc Dân Đảng Trung Hoa hoặc nhờ sự can thiệp của quân đội Pháp. Trong số người xót lại, còn cõi vì thời cuộc, đã tự phân ra làmnhiều loại:
– Các chính trị gia già nua, chầy chật vì nghịch cảnh trên trường tranh đấu, chán cảnh đời vì sự nghiệp không thành, xoay ra đi gõ đầu trẻ, viết sách báo sống cho qua ngày.
– Các nhân sĩ đa nghi, coi chính trị là một nghề bạc bẽo, họ hoài nghi, mất tự tin, không tin người và không tin cả chính mình nữa, thỉnh thoảng óc hoạt động nổi lên muốn làm một cái gì nhưng vì nghi ngại, nhát sợ, chùn lại sống an thân và chờ thời…vô thời hạn.
Ngoài những chính trị gia nói trên và một số những nhân tài chỉ có thể góp phần hoạt động về chuyên môn, những người khác còn lại hoặc biến thành lái buôn hoặc sống an nhàn trong gia đình, qua ngày đoạn tháng.
Nhân nạn ‘’khan nhân tài’’ trong vùng quốc gia Việt Nam dùng thêm lối tuyên truyền sâu sắc khiến cho những kẻ có lòng muốn tham gia giúp nước đều luôn luôn sống trong trạng thái tâm lý giao động, lúc muốn ở bên này, lúc muốn ở bên kia, e e, ngại ngại để rút cuộc cứ ngồi ý một chỗ mặc thời gian vô tình trôi…
Chờ thời đây là hoặc là Việt Minh thắng để sẽ cùng tham gia ‘’cách mạng’’ hoặc chờ tới khi nào đau khổ của quốc dân lên đến cực độ, chờ quốc gia đã Độc Lập, Tự Do hoàn toàn như ý muốn rồi mới ‘’chịu’’ xuất đầu lộ diện…‘’Muôn sự khởi đầu nan’’, cái khó khăn lúc đầu ấy đã quá dài, dài từ ngày ra đi của Quốc Trưởng Bảo Đại, qua sự tập hợp của chính phủ Trung Ương Lâm Thời Nguyễn Văn Xuân, qua sự thử thách của lá bài Nguyễn Phan Long rồi đến Nội Các Trần Văn Hữu và…sẽ còn kéo dài, cho đến bao giờ Quốc Gia Việt Nam có một chính quyền vững mạnh, một quân đội hùng hậu, không còn chi đáng lo ngại…
Ngoài số nhân tài không sợ thị phi, không sợ cộng sản hăng hái lăn lộn với lá bài quốc gia, đang hết sức giúp Quốc Trưởng xúc tiến xây dựng một ý thức quốc gia chân chính, một số lớn người khác vì không chịu đựng được chính thể vô sản độc tài của Việt Minh cũng đã lần lượt tìm cách trở về Thành. Muốn sống an ninh, tự do trong vùng quốc gia những người lẩn trốn Việt Minh lại mắc cái bệnh ‘’trùm chăn’’ không chịu tham gia phát triển sự an ninh chung. Bệnh đó cần phải được chính bản thân những con bệnh tự cố gắng thoát khỏi.
Tuy vấn đề tổ chức và hành động của chính phủ Trần Văn Hữu vấp phải yếu tố nhân tài, kết quả chưa được lạc quan lắm nhưng chính phủ của họ Trần cũng đã thắng lợi lớn trên phương diện tinh thần. Trước hết chính phủ Trần Văn Hữu đã đặt viên đá chắc chắn và gọn ghẽ trên lâu đài ‘’Chính Nghĩa Quốc Gia’’. Một chính phủ đường hoàng đặt dưới sự lãnh đạo tối cao của Quốc Trưởng đã lôi kéo dần dần dân chúng từ vùng Việt Minh về. Nếu một số lưng chừng vẫn còn e dè bước đường tiến của chính phủ quốc gia trong giai đoạn thì đa số dân chúng đã tỏ lòng tin cậy Quốc Trưởng đã bỏ chính phủ cụ Hồ, đã hồi cư để hy vọng một đời sống tự do, an ninh và đầy đủ.
Dân chúng từ chối hoài nghi đã tiến dần đến chỗ có thiện chí công nhận vùng quốc gia có một chính phủ quốc gia. Trái với quan niệm xưa kia: Vùng ‘’tạm chiếm’’ chỉ có những ‘’Bù nhìn Việt gian’’ quan niệm tàn ác và tai hại đó đã là một trở lực lớn lao họ những lãnh tụ quốc gia trên bước đường tranh đấu, đã làm mủi lòng người chiến sĩ quốc gia nhưng thật ra quan niệm ấy cũng là một ngọn lửa thử thách trí cương quyết và lòng ái quốc chân chính của từng người.
Thủ Tướng Trần Văn Hữu hết nhiệm vụ nhưng còn lắm chông gai trên bước đường tranh đấu đi đến chính nghĩa, còn làm cản trở, làm đau đớn cả tinh thần lẫn thể xác những người ái quốc. Nhưng đã yêu nước thương nòi thì kể chi đến khó khăn!
Ông Nguyễn Văn Tâm, một người hăng hái, can đảm, đủ nghị lực, đủ đức tính để ‘’chống cộng sản’’ được Quốc Trưởng tin cậy, chỉ định ra tiếp tục bồi đắp thêm ý thức quốc gia.
NHỮNG BƯỚC TIẾN CỦA VIỆT MINH TỪ XUÂN 1950
Sau trận Việt Bắc Thu-Đông năm 1947, cơ quan lãnh đạo kháng chiến Việt Minh tuyên bố với toàn thể dân chúng trong vùng họ kiểm soát: Giai đoạn đầu trong cuộc chiến tranh Việt-Pháp đã chấm dứt để bước sang một giai đoạn mới, giai đoạn cầm cự trong chiến lược trường kỳ.
Cầm cự, theo Việt Minh, là quân đội Pháp không thể nào đẩy lui được họ trên mặt trận toàn quốc. Họ phân tách quân đội Viễn Chính Pháp đã không thể thành công trong lối đánh mau, đánh chớp nhoáng. Nếu bộ đội hùng mạnh của Pháp có thể đi sâu vào vùng Việt Minh kiểm soát thì ngược lại Vệ Quốc Quân cũng có thể len lõi vào hậu địch để trả miếng. Họ mệnh danh bộ mặt mới của cuộc chiến tranh là chiến tranh ‘’cài răng lược’’ hay chiến tranh xen kẽ, ở đó hai quân đội địch thủ sống bên cạnh nhau để bất kỳ tiêu diệt nhau. Lý luận ấy thoát thai ở kinh nghiệm thực tế của mặt trận Việt Bắc. Khi quân đội Pháp xuất toàn lực tiến ngược giòng Lô Giang thì ở đồng bằng các trung đoàn Việt Minh địa phương hăng hái tăng áp lực. Lý luận ấy thoát thai ở chiến trường miền Nam, ở chiến trường toàn quốc nói chung, mà quân lực của Pháp chỉ có hạn, hành động chỗ nảy, bỏ trống chỗ nọ…và lý luận ấy còn căn cứ ở sự tăng tiến của bộ đội Võ nguyên Giáp cả về mặt vũ khí lẫn tinh thần.
Sau khi đã cố hết sức đả kích hành động của Quốc Trưởng Bảo Đại, xuyên tạc những kết quả tốt đẹp
trên Vịnh Hạ Long tuyên truyền phá hủy Hiệp Định Élysée, lên án Nội Các Trần Văn Hữu, Việt Minh thu cường lực, mài nanh dũa vuốt để tiếp diễn những trận đánh căn bản hòng thắng lợi cuối cùng. Được các nước trong thế giới cộng sản chính thức công nhận, chính phủ Dân Chủ Cộng Hòa của cụ Hồ chí Minh không bỏ lỡ cơ hội tuyên truyền và tăng cường luôn sự giao thiệp trong hệ thống cộng sản thế giới len lõi liên lạc với các đảng cộng sản trong Liên Hiệp Pháp nhất là đảng cộng sản Pháp của Thorez và Duclos. Họ đã giúp đỡ việt cộng không ít trên địa hạt tuyên truyền và gây phong trào phản chiến trong dân chúng Pháp, trong hàng ngũ quân đội Viễn Chinh Pháp.
Bộ máy chính quyền Việt Minh hoàn toàn dưới sự chi phối của đảng cộng sản, từ chính phủ trung ương cho đến các ủy ban xã. Hội đồng chính phủ, dưới mắt dân chúng là một phối hợp của các đảng phái như xã hội, dân chủ, liên việt, tôn giáo, các quan lại cũ, nhưng trên thực tế, đại đa số đều là các đảng viên đảng cộng sản và các người thân cộng cả. Chương trình hoạt động của các bộ trong chính phủ đều nằm trong đường lối của đảng cộng sản vạch ra và kiểm soát sự thi hành.
Tổ chức quốc hội của chính phủ Việt Minh từ 1945 không thay đổi và cũng không họp lần nào thêm cả, các nghị sĩ bị tản cư phân tán, người thì xoay ra buôn bán, người đi dậy học…trừ ban thường trực do Tôn đức Thắng, một đảng viên kỳ cựu cộng sản làm chủ tịch vẫn ở bên cạnh chính phủ. Dân chúng hầu như quên hẳn quốc hội. Vai trò quốc hội lu mờ dần trong trí nhớ và người dân cũng không liên lạc gì với tổ chức đó cả.
Nói giản dị, quốc hội biến mình dưới bộ máy chính quyền, riêng đắc lực cho đảng cộng sản. Nói đến những bước tiến của chính phủ Việt Minh tức là nói đến đường lối, chủ trương, đến biến đổi, thăng trầm của đảng cộng sản ở Việt Nam.
Chính trị là một điều tối cần thiết. Việt Minh đặt chính trị lên hàng đầu của mọi vấn đề hoạt động. Để có thể lôi kéo toàn thể dân chúng vào cuộc chiến đấu, Việt Minh tìm một phương thức mới: Đảng cộng sản Đông Dương biến thành đảng lao động Việt Nam.
Tháng 3 năm 1951, đảng lao động Việt Nam ra mắt dân chúng.
Trường Chinh, tổng bí thư của đảng lao động đọc bản tuyên ngôn trước máy truyền thanh nói về đường lối đối nội, đối ngoại của đảng. Đối nội, đảng tự nhận vai trò lãnh đạo tiền phong trong cuộc ‘’Kháng chiến cứu quốc và kiến quốc’’. Đảng sẽ thúc đẩy và khai thác tiềm lực của nhân dân trong cuộc chiến tranh chống đế quốc xâm lăng và kiết thiết một nước Việt Nam mới. Đối ngoại, đảng sẽ phát triển tình hữu nghị của dân tộc Việt Nam với dân tộc Cộng Hòa Sô Viết, nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa và các nước Dân Chủ Đông Âu…
Để đào tạo những cán bộ thật trung kiên, để loại bớt những phần tử thiếu tinh thần, cộng sản ở Việt Namnêu lên vấn đề chỉnh đảng. Chỉnh đảng là một việc tối quan trọng, có chỉnh đảng mới hy vọng thắng lợi. Các lãnh tụ cộng sản giải thích vì sao phải chỉnh đảng. Đây là nguyên văn bản đó: ‘’Trung ương đảng trong kỳ họp hội nghị lần thứ 3 vừa rồi đã quyết định chỉnh đảng là việc chính mà chúng ta phải làm. Chỉnh đảng là một nhiệm vụ chính trị căn bản của đảng cộng sản hiện nay. Đảng từ ngày thành lập, đã trải qua hơn 20 năm hoạt động gian khổ, đã lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam tranh đấu giành được nhiều thắng lợi vẻ vang, Đó là điều mà trong đảng không còn ai có thể nghi ngờ. Đó cũng là điều mà đông đảo quần chúng nhân dân thừa nhận và tin tưởng.
Vì đâu đảng đạt được những thành tích như thế ? Ấy là vì đảng có chủ nghĩa Mác-Lênin, có đường lối và chính sách đúng, có Hồ Chủ tịch lãnh đạo, có cơ sở khắp cả nước, có nhiều đảng viên và cán bộ tận tụy, hết lòng phục vụ nhân dân.
Tuy nhiên, vì đảng ta phải tiến hành đấu tranh cách mạng trong hoàn cảnh gian nan, trước cách mạng tháng 8 thì đế quốc và phong kiến khủng bố và bao vây trùng trùng điệp điệp, trong kháng chiến thì liên lạc khó khăn, nhiệm vụ nặng, công tác nhiều, nên cán bộ và đảng viên nói chung chưa giáo dục một cách sâu sắc và có hệ thống, trình độ tư tưởng còn thấp kém, ảnh hưởng không ít đến việc chấp hành nhiệm vụ và chính sách của chính phủ. Do lập trường và quan điểm giai cấp chưa vững, nhiều đảng viên và cán bộ còn thiếu tinh thần đấu tranh triệt để và bền bỉ cho sự nghiệp cách mạng. Trên tư tưởng chưa phân biệt rõ địch,
bạn và ta, chưa nhận rõ chính sách đoàn kết toàn dân của đảng, chưa nắm vững đường lối trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh, nhận thức về dân chủ và kỷ luật trong đảng chưa rõ ràng và đúng mức, tinh thần phê bình và tự phê bình chưa được thực sự nâng cao, lề lối làm việc quan liêu mệnh lệnh, xa lìa quần chúng, xa lìa thực tế và bệnh tham ô lãng phí còn khá nặng.
Hiện nay cuộc kháng chiến của ta đang ở giai đoạn cầm cự, giai đoạn chuẩn bị tổng phản công, là giai đoạn gay go, gian khổ, trước toàn thể nhân dân, trước mặt trận hòa bình dân chủ thế giới. Đảng ta nhận một nhiệm vụ lớn lao là lãnh đạo kháng chiến chuyển sang tổng phản công thắng lợi. Nhiệm vụ đó nặng nề và phức tạp. Nếu đảng ta không chuẩn bị mình cho đầy đủ, không trừ bỏ được những khuyết điểm và tư tưởng sai lầm nói trên của cán bộ và đảng viên thì trong thời kỳ sắp tới, việc chấp hành chính sách của đảng ta sẽ khó lòng mở rộng thêm thành tích hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của mình.
Chính vì thế mà ta cần tiến hành việc chỉnh đảng. Do chỉnh đảng và đảng rèn luyện, chỉnh đốn và tăng cường đội ngũ để giữ vững trường kỳ kháng chiến và chuẩn bị đầy đủ lực lượng, chuẩn bị chuyển sang tổng phản công. Do đó, chỉnh đảng trở thành một nhiệm vụ chính trị căn bản của đảng ta hiện nay và mỗi cán bộ, mỗi đảng viên đều có trách nhiệm tích cực làm cho cuộc chỉnh đảng lần này thành công.
Chỉnh đảng đồng thời cũng là một nhiệm vụ tổ chức căn bản. Năm ngoài, trong đại hội đồng, Hồ Chủ Tịch đã nêu cao nhiệm vụ phải xây dựng một đảng mạnh mẽ. Người nói: Đảng lao động phải là một đảng to lớn, mạnh mẽ, chắc chắn, trong sạch, cách mạng triệt để. Chính vì muốn chấp hành nhiệm vụ tổ chức đó mà chúng ta tiến hành việc chỉnh đảng.
Mấy năm gần đây, đảng ta phát triển mạnh, số lượng đảng viên lên đến 70 vạn nhưng chất lượng của số đông nói chung còn kém. Hơn 90% đảng viên thuộc thành phần gốc rễ nông dân và tiểu tư sản, tuy đã vào đảng được đảng giáo dục một phần nào và tự bản thân cũng có ít nhiều cố gắng, nhưng chưa gột sạch ý thức tư tưởng tiểu tư sản. Những sai lầm khuyết điểm nghiêm trọng nói trên của cán bộ và đảng viên là do ý thức tiểu tư sản đó gây ra. Xây dựng, chủ yếu là xây dựng về mặt tư tưởng. Tư tưởng có đúng thì hành động mới đúng. Tư tưởng có thống nhất thì mới có ý chí thống nhất, kỷ luật thống nhất, toàn đảng thông suốt muôn người như một. Cho nên xây dựng đảng cốt chính là một quá trình giáo dục, đấu tranh và cải tạo tư tưởng. Đó là đường lối Mao Trạch Đông trong vấn đề xây dựng đảng.
Vì chỉnh đốn tư tưởng rồi mới có thể chỉnh đốn các tổ chức quần chúng, nên hiện nay chỉnh đảng đồng thời cũng là một nhiệm vụ tổ chức căn bản cho đảng.
Chỉnh đảng là một chủ trương đúng mức và kịp thời. Nêu cao chỉnh đảng, quyết không phải là coi nhẹ những thành tích vẻ vang của đảng, phủ nhận những ưu điểm của cán bộ và đảng viên. Không coi thường sai lầm khuyết điểm. Đảng ta mới có thể giữ vững và phát huy ưu điểm, làm trọn nhiệm vụ khó khăn nhưng vẻ vang đối với ‘’nhân dân trong nước và lực lượng hòa bình dân chủ thế giới’’. Chỉnh đảng là một chủ trương kịp thời. Đối với những sai lầm khuyết điểm không những ta thấy cần phải trừ bỏ mà còn thấy có đủ điều kiện để trừ bỏ được. Vì do đại hội đồng toàn quốc năm ngoái đảng ta chung đúc được 21 năm kinh nghiệm đấu tranh cách mạng của giai cấp và dân tộc để lấy đó làm cơ sở tư tưởng và lý luận đã tiến hành chỉnh đảng. Chỉnh đảng là một nhiệm vụ rất quan trọng về chính trị và tổ chức…’’
Để lọc lấy cái phần cần thiết trong cuộc giai cấp đấu tranh, có những Tỉnh miền Trung Du Bắc Việt sa thải gần phân nửa đảng viên các cấp. Một số lớn đảng viên hoạt động trong cơ quan cũng chịu chung số phận trong đợt thanh trừng đầu tiên. Lý do thanh trừng rất phức tạp, có khi vì những cớ xa xôi thuộc về dĩ vãng, có khi vì những lỗi không thể nào tránh khỏi.
Hãy xem một vài để phỏng đoán phương pháp trừng thanh nội bộ của cộng sản Việt Nam. Một bí thư chi bộ bị đoàn thể đem ra nghiên cứu trường hợp anh đã được kết nạp. Cán bộ ấy thuộc giai cấp Tiểu Tư Sản thành thị, tham gia công tác năm 1945 ngay sau ngày ‘’cách mạng thành công’’ tháng 8. Đã năm năm nay, anh bỏ gia đình, bỏ họ hàng chạy theo kháng chiến, đã được đoàn thể tín nhiệm, kết nạp ngay từ 1946, ngày nay đã có một địa vị khá trong chính quyền cũng như trong đoàn thể. Hội nghị kiểu thảo đã họp và nghiên cứu tư tưởng anh vì sao đã theo phong trào cách mạng…Vô tình anh thuộc vào loại ‘’cách mạng hoạt đầu’’. Đa số các người được kết nạp vào tổ chức cách mạng năm 1945-1946 đều thuộc
vào hạng hoạt đầu, ít thành thực, vì sợ chết, vì ham địa vị, vì theo đóm ăn tàn. Lý luận một chiều ấy đã đưa đến quyết nghị là thải anh cán bộ ra khỏi đến bao giờ tư tưởng anh được ‘’giáo dục lại hoàn toàn’’… Cứ cái đà như thế, đại đa số đảng viên được kết nạp khoảng 1945 đều lo ngay ngáy và sửa soạn hành lý…về vườn. Đó là những cớ thuộc dĩ vãng.
Những lý do sốt dẻo thì vô cùng.
Một đồng chí công nhận hoạt động từ năm 1943 rất tích cực nhưng vì văn hóa kém quá, sáng kiến nghèo nàn nên mãi đến cuối năm 1949 mới bò được lên chức huyện ủy trong đoàn thể. Nói về phương diện tiết kiệm thì ‘’đồng chí huyện ủy’’ của chúng ta quả là người số một. Ngoài hai bộ cánh nâu, một cái bút máy ‘’cà cộ’’, đồng chí mua bán tiêu pha một cái gì có thể gọi là ‘’tốn của nhân dân’’, của chính phủ, từ những mẫu giấy con con, từ mẫu các-bon, anh cũng thu và thu vén. Bữa cơm, anh chỉ dùng mấy ngọn rau, vài hột muối hòa với vi-ta-min Ơ (các cán bộ của Việt Minh đặt tên vi-ta-min Ơ cho những trái ớt) còn không, có món gì khác, thậm chí những ngày quốc lễ, kỷ niệm, toàn thể được ‘’đúp-ra-xì-ông’’ anh cũng tập kiên khổ không gắp qua miếng thịt bò thịt lợn…
Thế rồi, một hôm quân đội Pháp tảo thanh một vùng thuộc huyện anh phụ trách. Dân chúng hốt hoảng chạy xô cả vào một xã. Không biết vì lý do chiến thuật tránh càn quét của huyện ủy có khuyết điểm hay vì hoàn cảnh chiến trường gay go, chỉ biết rằng trận càn quét của quân đội viễn chinh đã vô tình ‘’quét’’ luôn cả khoảng hai trăm dân chúng vô tội xuống truyền đài…Sau vụ đó, trung ương đảng bộ khai trừ thẳng tay vì huyện ủy của chúng ta vì lý do đã làm trái chủ trương trong thời gian của đảng và chính phủ. Chủ trương trong thời gian ấy là tiết kiệm máu. Làm đổ máu của những hơn hai trăm nhân mạng nhất là những nhân mạng ấy lại không phải là bộ đội, một lỗi không thể tha thứ được nói về phương diện trách nhiệm của một cán bộ đảng. Anh cán bộ bị khai trừ cũng không vừa, đồng chí định thảo đơn kiện trung ương đảng bộ Việt Nam tại phân bộ quốc tế đông phương, nhưng chắc cũng chẳng đi đến đâu nên đồng chí đành còm lưng làmcái công tác gánh thuốc lào kiếm ăn qua cơn thất nghiệp…chính trị tại một vùng đồi núi.
Gay gắt hơn nữa, vấn đề tư tưởng được tích cực chỉnh bị lại bằng cách thu hồi số lớn cán bộ trong đảng cũng như ngoài đảng đang hoạt động về nằm co một chỗ, anh nào phúc lớn thì được nằm co tại phòng tiếp tân của trung ương cơ quan mình, anh nào vô phúc thì xách ba lô đi tuốt vào…cải hối thất.
Cả hai thứ ‘’Phòng’’ và ‘’Trại’’ đều có mục đích chau dồi tư tưởng mới, lọc bỏ lỗi lầm cũ, nhưng ở Phòng thì còn danh còn nghĩa, chứ đến Trại thì thật là…tù.
Nhưng dù là ở Trại hay ở Phòng, hoặc còn là nhân viên hoạt động cũng đều phải hấp thụ tư tưởng mới, phải ươm tư tưởng mới từ miền Bắc bay qua biên giới, đó là tư tưởng Mao Trạch Đông, một tư tưởng Mác Á Đông Hóa. Dân Việt Nam từng hấp thụ văn hóa Khổng Tử và triết học từ bi của Đạo Phật, rồi gần đây lại Tây triết…tất cả những thứ ‘’Triết’’ ấy đã được Việt Nam Hóa trên giải đất chữ S, tạo ra một hệ thống tâm lý mềm mỏng đầy tâm tình hòa nhã. Từ năm 1945, ngay lúc cách mạng bùng nổ, điểm tâm lý căn bản ấy của dân tộc đã ngăn trở bao nhiêu là đổ máu. Mặc dầu là cách mạng, sự đổ máu ở Việt Nam cũng không phải đáng nên so với các cuộc cách mạng trên thế giới, so với Ba Lê Công Xã, những vụ Bastille hay so với Pétrograd của Nga-la-tư mấy chục năm về trước. Ngay trong các cơ quan quân, dân, chính của Việt Minh, công tác chỉ huy lãnh đạo hoặc thừa hành vẫn đượm mầu thuần túy dân tộc, trong các cơ quan, một tâm lý gia đình vẫn phảng phất, ngoài tình đồng chí, họ còn thương nhau như anh em thân thích…
Mùa Đông năm 1950, khi biên cương mở rộng đón mừng uy thế của Trung Cộng đã đón luôn cả tư tưởng Bác Mao, toàn thể thế giới đã thấy tòa án Trung Cộng liệt tội dâm đãng vào tội phản động hạng nhất nhì, liệt hành vi ăn tiêu xa xỉ vào loại đại hình (dĩ nhiên là dùng tiền túi để ăn tiêu xa xỉ) Toàn thế giới đã rõ Trung Cộng ở tài liệu ‘’Tư tưởng Mao Trạch Đông’’ một tài liệu thuộc loại sách gối đầu giường của tất cả các đảng viên cộng sản không cứ ở Á Đông mà cả ở Âu Châu nữa Mao Trạch Đông nói: ‘’Kẻ tư bản ví như con hổ mạnh trên núi Cảnh Dương mà chúng ta là vũ sĩ Võ Tòng, nếu Võ Tòng nới tay không đánh mạnh và đánh cho thật chết thì con hổ cũng sẽ ăn thịt Võ Tòng’’ Tư bản đây là các nước mang danh nghĩa đế quốc, tư bản đây là những kỹ nghệ gia, thương gia, điền chủ, phú ông và tư bản đây cũng cả là những kẻ vô sản nhưng mang theo mọi tính tình tự cao tự đại, tự ái hay mang theo lòng yêu thương kiểu cổ, kiểu
Khổng Giáo, kiểu Thiên Chúa Giáo, kiểu Tư Sản… Còn chúng ta đây tức là những người đảng viên cộng sản, những người thân cộng sản…
Để làm điển hình cho phong trào trừng thanh nội bộ vụ án Trần Dụ Châu được thành hình. Trần Dụ Châu là cựu Thư Ký Hỏa Xa, đã giác ngộ theo phong trào cách mạng từ năm 1944, qua bao nhiêu thử thách, anh ta đã leo đến bực thang danh vọng. Có uy tín trong đoàn thể cũng như ở chính quyền, anh đã giữ chức Tổng Giám Đốc một ngành cần thiết trong quân đội, anh đã được chính phủ cấp hàm Đại Tá. Trần Dụ Châu bị bắt chỉ vì đi dự bữa tiệc cưới của một nhân viên cấp Phòng. Tiệc cưới tốn kém vài chục con gà và hàng trăm ngọn nến, có thuốc lá ăng-lê và có cả rượu ‘’Boócđô’’…Lúc vào tiệc, một quan khách đã thốt ra những lời đượm mùi ‘’đạo đức cách mạng’’ phê bình sự xa xỉ trong bữa tiệc, trong lúc toàn thể dân chúng và bộ đội ăn cháo, nằm gai nếm mật…Trần Dụ Châu, phần vì không biết quan khách đó là một nghị sĩ quốc hội, phần ngượng mặt vì những lời phê bình chua cay ngay giữa bữa tiệc, chẳng gì, trách nhiệm tinh thần vẫn là ở cấp phụ trách dù tiệc cưới đặt tại tư gia hay xa cơ quan hàng trăm cây số, nên đã thưởng cho vị quan khách vài cái tát tai nên thân…Bữa tiệc chưa tàn, người ta đã bắt ngay vị Đại Tá Giám Đốc đó để sau dăm hôm khẩu cung và điều tra thấy rằng Đại Tá đã có của riêng hàng trăm đô la Mỹ, hàng chục bộ quần áo ga-ba-đi-nơ hàng két rượu mùi và hàng tút thuốc lá thơm và hàng tập ảnh…gái. Những tài liệu ấy tố cáo gì ở Đại Tá ? Nó tố cáo tư tưởng tư sản trụy lạc của một đảng viên trung cấp trong cộng sản, hành vi ăn cắp của một nhân viên cao cấp của chính quyền. Nó dán nhãn hiệu ‘’tối phản động’’ lên thằng người một vị Giám Đốc, nó dẫn đồng chí đảng viên lên đoạn đầu đài, vụ điển hình số một thuộc loại không tiết kiệmvà ăn cắp của nhân dân. Lẽ dĩ nhiên, Trần Dụ Châu cũng lôi theo một số lớn cán bộ xa xỉ và ăn cắp vào Cải Hối Thất để giáo dục lại con người.
Về vấn đề tư tưởng, Trung Cộng đã thổi qua biên giới một luồng gió mới. Luồng gió làm rát mặt những người Việt Nam theo cụ Hồ chí Minh. Không nhận nó không được, đó là một đặc điểm của luồng gió ghê gớm ấy.
Nói đến chính trị, nội các Phạm văn Đồng chủ trương: Dự trữ lực lượng để chờ thời cơ. Muốn vậy, cộng sản phóng đại những thắng lợi của họ trên chiến trường Bắc Việt, đả phá tinh thần sợ Mỹ trong nhân dân, đả kích dữ dội chính phủ quốc gia do Quốc Trưởng Bảo Đại lãnh đạo, nên ý thức căn bản: Vừa đánh giặc vừa bồi dưỡng và tích trữ lực lượng.
Nguyên văn bản báo cáo của Phạm văn Đồng dưới đây để cho mọi người rõ thâm ý của những người cộng sản:
‘’Những thất bại nặng nề của địch trên chiến trường Bắc Bộ làm địch lo ngại. Điều lo ngại đó đã phản ảnh trong dư luận các giới chính trị phản động ở Pháp và thế giới. Đứng trước tình hình này, thực dân Pháp và can thiệp Mỹ đối phó thế nào ?
Sức của Pháp có hạn, Mỹ lại giao cho Pháp nhiệm vụ quân sự khả năng trong khối gây chiến Tây Âu, thêm vào đó, phong trào chống chiến tranh xâm lược Việt Nam mỗi ngày một lan rộng, lên cao nhất là sau thất bại hòa bình. Thế Pháp quẩn, Pháp luôn luôn chạy theo Mỹ để cầu cứu. Nhưng Mỹ cũng đang gặp khó khăn lớn về mọi mặt ở khắp nơi trên thế giới, sức lực Mỹ cũng có hạn.
Vì lẽ trên thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, một mặt bản thân tiếp tục cố gắng, một mặt tích cực và quyết liệt hơn nữa trong việc dùng ngụy quân, ngụy quyền trong việc thi hành chính sách dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh.
Để thi hành chính sách ấy, chúng trọng dụng tên đại gian ác Nguyễn Văn Tâm cùng một bọn phản động lưu manh, khốn nạn nhất trong bè lũ tay sai của chúng. Bọn này không từ chối một tội ác nào trong việc bắt lính, để tăng cường ngụy quân, cướp của để làm quỹ chiến tranh. Dùng vũ lực bắt lính không có kết quả, chúng dùng lừa phỉnh, mua chuộc. Chúng đặt lắm thứ thuế, nhiều nơi chúng thu ngược lại mấy năm trước (từ 1947) và thu thuế trước mấy năm tới. Đồng bào ta ở vùng tạm bị chiếm sẽ khổ cực thêm dưới gót sắt của địch và ngụy. Nhưng sẽ thấy rõ thêm mặt thật Việt gian phản nước của chúng mặc dầu lời nói giả nhân giả nghĩa của chúng, mặc dầu cái trò ‘’độc lập’’, ‘’dân chủ’’, cải cách’’ của chúng. Đồng bào sẽ căm thù chúng hơn và đoàn kết kháng chiến này mà chúng ta đã thắng lợi lớn ở vùng sau lưng địch Liên Khu 3,
Trung Du, Bình-Trị-Thiên v.v…Đó là một cuộc thắng lợi lớn trong công tác duy trì và phát triển cuộc đấu tranh ở vùng sau lưng địch.
Địch cố gắng nhiều trong việc chia rẽ dân tộc, hòng phá hoại khối đoàn kết kháng chiến. Chúng dùng mọi thủ đoạn gian ác để dụ dỗ, lôi kéo đồng bào miền núi, đồng bào có đạo, tìm mọi sơ hở của ta để gây khó khăn cho ta. Nhưng chúng ta không để sơ hở. Chúng ta phải củng cố thêm khối đoàn kết toàn dân một cách thiết thực bằng việc làm, thắt chặt đoàn kết thân ái giữa đồng bào lương và đồng bào giáo, đồng bào miền xuôi và đồng bào miền núi.
Chúng tăng cường chiến tranh gián điệp, từ vùng tạm bị chiếm, vùng du kích đến vùng tự do. Để chống cuộc chiến tranh gián điệp này, chúng ta phải tỉnh táo hơn nữa. Phải phát huy lòng yêu nước và tính tích cực của quần chúng, chỉ có tai mắt của quần chúng mới có thể khám phá được tất cả những âm mưu xảo quyệt của kẻ gian làm tay sai cho địch.
Về mặt kinh tế tài chính, chúng vừa cướp vừa phá, nơi nào không cướp được thì phá đốt. Chúng dùng mọi cách để phá mùa màng, trâu bò, nhà cửa, cầu cống, đê đập v.v…điều đáng đặc biệt chú ý là gần đây địch tìm phá công trình thủy lợi của ta, vậy chúng ta phải chăm chú đề phòng mưu mô phá hoại của địch.
Đó là cuộc chiến tranh toàn diện mà địch đang thi hành để làm yếu sức kháng chiến của ta. Tất cả những điều trên chứng tỏ rõ rệt cho toàn thể đồng bào thấy: Địch càng thất bại thì càng tàn bạo hiển độc, cho nên cuộc kháng chiến của chúng ta phải trường kỳ và gian khổ trước khi đi đến thắng lợi cuối cùng.
Vậy chúng ta phải vừa đánh giặc vừa bồi dưỡng và tích trữ lương thực. Phải đánh giặc khắp mọi nơi, về mọi mặt, thu nhặt về mặt quân sự để tiêu diệt sinh lực địch, để địch yếu dần nhưng không quên đánh giặc về mặt chính trị, kinh tế, tài chính đồng thời phải bồi dưỡng và tích trữ lực lượng của ta về mọi mặt quân sự, chính trị, tư tưởng, kinh tế, tài chính.’’
Việt Minh tranh thủ quần chúng cả ở vùng quốc gia kiểm soát. Nhiều cán bộ lén lút đi sâu vào vùng quốc gia tổ chức cơ sở, họ gây ảnh hưởng từng cá nhân và tuyên truyền không ngớt những thắng lợi bên ngoài của Việt Minh và vạch những sơ suất đào sâu nhược điểm của nền hành chính địa phương dưới sự lãnh đạo của chính phủ quốc gia.
Tận lực khai thác sức lao động để phụng sự kháng chiến, Việt Minh thi hành khẩu hiệu ‘’Giảm chính và tăng hiệu xuất’’
Giảm chính và tăng hiệu xuất!
Tất cả mọi cơ quan quân dân chính đều phải giảm chính.
Giảm chính để tăng cường đơn vị tác chiến, các cơ quan hành chính trong quân đội phải thu hẹp nhân số lại, phá tan hệ thống ‘’bàn giấy’’ và tham mưu’’.
Giảm chính để đỡ hao hụt ngân quỹ chính phủ, các cơ quan chuyên môn nói chung thuộc về chính quyền phải thải bớt nhân viên, thủ tiêu lề lối ‘’tháng lĩnh lương, ngày vớ vẩn’’…
Giảm chính để tiết kiệm sức lao động, các đoàn thể nhân dân phải thu hẹp số nhân viên bàn giấy để thừa người làm các công việc khác cần thiết hơn.
Giảm chính phải đi đôi với vấn đề Tăng Hiệu Xuất những người còn lại phải làm cả những việc của những người bị giảm chính nghĩa là làm gấp 2, gấp 5, gấp 10. Không làm được cũng phải cố mà làm, đó là một bổn phận mà đó cũng là một điều bắt buộc.
Số phận những người bị giảm chính ra sao ?
Dăm năm theo đuổi kháng chiến, nay phải vác ba lô từ biệt anh em, từ biệt cơ quan, không một nỗi niềmnào chua cay, bi đát hơn tâm tình họ lúc ấy. Về ư ? Về đâu ? Gia đình nếu gặp được là một chuyện may mắn, nếu không, hoàn cảnh có thể bầy ra:
Một, có sức lực thì đầu quân.
Hai, không đầu quân được hay không muốn thì về tăng gia cầy cuốc tại những vùng hẻo lánh, người nào may mắn có mẹ nuôi có cơ sở tăng gia sẵn sàng ở miền Đồng Bằng hay Trung Du là một điều phúc. Ba, đi gõ đầu trẻ ở một thôn xã nào để hàng tháng kiếm gánh thóc nuôi sống thân cô. Bốn, trở thành công nhân vận tải, có ít tiền dành dụm sắp một cái xe đạp tàng, xếp lên đó hàng tạ muối
và đẩy suốt từ miền xuôi lên miền ngược, qua rừng, qua núi, qua suối, qua khe, dầm mưa dãi nắng, làmmồi cho muỗi, cho vắt, để sau khi đổi lấy vỏ, lấy củ nâu, lấy nấm, lấy mật, lại xuôi từ đèo heo hút gió xuống tận một phố chợ gần ‘’tề’’.
Năm, nếu không muốn hoặc không có dư năng lực và nghị lực làm nổi bốn nghề nói trên, chỉ còn một cách là ‘’dinh’’. Dinh là vào Thành ‘’Vào Thành’’ là một danh từ bi đát, một ý tưởng kinh khủng của những kẻ có lòng đã sống dăm năm với chính phủ cụ Hồ. Vì trong lưới tuyên truyền của Việt Minh, tất cả những kẻ không chịu sống trong vùng ‘’tự do’’ mà trở về vùng ‘’tạm bị chiếm’’ đều là các loại phản động, tất cả những cường quốc giúp chính phủ của Quốc Trưởng Bảo Đại đều là quân xâm lăng gớm ghiếc…
Tất cả các giác quan đều hấp thụ một lý luận, tâm lý bị hướng dẫn, những người bị giảm chính chẳng khác chi đàn gà có được thả ra cũng vẫn quáng nếu đêm ngày toàn bị nhốt trong tối đen. Người ta chỉ nghĩ đến về Thành khi nào cái thế của người ta là 9 phần chết 1 phần sống. Về Thành, theo quan niệm của những người bị giảm chính là ‘’chết cả thể xác lẫn tinh thần’’, là hết, là mặc cho số phận và cho may, cho rủi. Đó là một điểm đặc biệt, một ưu điểm lớn trên mặt trận chiến tranh tâm lý của chính phủ Việt Minh. Người ta đã thấy những cặp vợ chồng cương quyết chia rẽ nhau vì lẽ chồng cam chịu đi công nhân vận tải, vợ quay trở lại Đô Thành và ngược lại, vợ cam chịu sống hiu quạnh với quán nước bên đường, chồng lạnh lùng đi thẳng vào Tề. Những cảnh ấy là kết quả của chính sách giáo dục Việt Minh. Mùa Thu năm 1950, chính phủ Việt Minh mở trận đánh lớn vào khu Cao-Bắc-Lạng, tình thế quân sự Bắc Việt khẩn trương, phe quốc gia mất vùng biên giới. Thắng lợi của Việt Minh đã làm chấn động dư luận hoàn cầu. Thi đua với chiến dịch biên giới, quân kháng chiến Trung Bộ đánh đắm một chiến hạm của thế giới tự do chở quân sang giúp chính phủ Lý Thừa Vãn…Tất cả đã đánh một dấu phẩy chia giai đoạn cầmcự của Việt Minh ra làm đôi. Chính phủ cụ Hồ tuyên bố phần cuối của giai đoạn 2: Thời Gian Tích Cực Cầm Cự Chuẩn Bị Tổng Phản Công.
Tích cực cầm cự và chuẩn bị…! Tất cả lực lượng Việt Minh đổ dồn vào khẩu hiệu mới mẻ đó. Để lãnh đạo toàn thể dân chúng một cách chắc chắn hơn, hợp thời hơn, tháng 3 năm 1951, mặt trận Việt Minh và Liên Việt tuyên bố sát nhập làm một dưới danh từ Ủy Ban Liên Việt Toàn Quốc. Đó là mặt trận dân tộc thống nhất dưới quyền một chủ tịch cụ Tôn đức Thắng, người cựu lính thủy trong Hải Quân Pháp kiêmtrưởng ban thường trực quốc hội.
Giúp việc chủ tịch Tôn đức Thắng có 3 phó chủ tịch:
– Linh Mục Phạm Bá Trực, đại biểu Công Giáo.
– Hoàng quốc Việt, kiêm chủ tịch tổng liên đoàn lao động Việt Nam.
– Bác Sĩ Lê Đình Thám, kiên chủ tịch ủy ban bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam. Ngoài chủ tịch và 3 phó chủ tịch còn thêm 2 ủy viên: Chu văn Tấn. Đại diện dân tộc thiểu số kiêm chủ tịch ủy ban kháng chiến hành chính liên khu Việt Bắc, kiêm chánh án tòa án quân sự toàn quốc và cụ già Thy Sơn, ông lão râu tóc bạc phơ có phong độ một nhà nho thuần túy.
Ủy ban liên việt toàn quốc thu thập hết sức rộng rãi các tầng lớp nhân dân, mục đích chính là vơ vét thật cặn kẽ giai cấp trí thức và quan lại lưng chừng. Đó là một hình thức tổng thu những cá nhân lẻ loi, những xu hướng phất phơ ngoài lề cuộc kháng chiến, thống nhất lại để chịu dưới quyền một đảng: Đảng lao động Việt Nam.
Trong vùng việt cộng, vấn đề kinh tế tài chính hết sức gay go nguy ngập, do đấy Việt Minh phải cố gắng phát triển tiềm lực kinh tế của nhân dân. Hệ thống mậu dịch rất nghèo nàn vì Việt Minh dùng mọi phương pháp, thủ đoạn để thủ tiêu quyền tự do mậu dịch.
Theo cộng sản, tự do thương mại có nghĩa là tự do ăn cắp. Từ ngày kháng chiến, một số lớn dân chúng tản cư sống bằng buôn bán. Nhờ buôn bán, số lớn đồng bào đã nuôi sống được gia đình trong những ngày điêu linh khổ sở. Nền thương mại rất lưu động vì phải tránh máy bay, tránh mặt trận. Một phần dân chúng cũng nhờ tản cư đi buôn mà trở nên giàu có. Tuy vậy, hình thức thương mại thật nghèo nàn, ngoài cách mở quán hàng ăn, giải khát, ai biết nghề thì hoặc chữa đồng hồ, hoặc chữa xe đạp, hoặc làm thợ cắt tóc còn toàn là loanh quanh với quán hàng tạp hóa với những thứ hàng ‘’ngoại hóa’’ lén lút. Còn một hình thức
thương mại tại vùng đồi núi nữa là buôn măng, mộc nhĩ, nấm hương, tre nứa lá, những lâm sản. Muốn buôn những thứ này, dân chúng phải qua ty kinh tế và xông pha vào thâm sơn cùng cốc mới hy vọng có lời có lãi. Hình thức thương mại đã nghèo nàn nhưng chính sách của đảng lao động là muốn ‘’ỹ lao động hóa’’ con người, ép con người vào công việc tăng gia sản xuất, theo tôn chỉ của đảng, như vậy mới có tiến bộ…
Muốn tiêu diệt dần dần các con buôn, chính phủ bắn một phát đạn thẳng vào túi tiền của những người ưa buôn bán: Đó là thuế công thương nghiệp.
Kinh tế tự do mất đi kinh tế chỉ huy tiến. Ngoài những xưởng giấy, xưởng dệt, xưởng ép dầu của các đoàn thể dân chúng quan quản, kỹ nghệ quốc phòng được mở mang theo mức độ kháng chiến, Việt Minh đã phát triển công việc làm mìn, làm đạn, moóc-ti-ê, làm súng đại bác không giật (SKZ) v.v…
Để điều hòa nền kinh tế chỉ huy, để kịp thời sử dụng hàng hóa và vũ khí, Việt Minh tích cực tổ chức công tác giao thông vận tải. Yếu tố chính của vấn đề vận tải là nhân lực. Trên đường trường xa thẳm xuất hiện loại xe đạp buộc thêm vài cây tre, chở lạc, chở trà, chở củ nâu, chở giấy má…Đường xá bắt đầu được sửa chữa để dùng cho từng đoàn Molotova do Trung Cộng viện trợ. Công việc sửa đường và làm cầu cống hoàn toàn do dân chúng tự tạo. Phòng dân công thành lập tại khắp nơi. Lại một lần nữa Việt Minh động viên dân chúng để phục vụ kháng chiến. Hàng đoàn người, già, trẻ, trai, gái, cơm nắm, áo ôm, đêm đêmxẻng cuốc đắp đường, dầu trong mưa hay trong bão. Sức lao động con người được thúc đẩy dùng đến mức độ cao nhất. Những con đường dài dặc, ngày hôm qua còn lồi lõm, còn bị cắt xẻ do chiến thuật của giai đoạn kháng chiến, ngày hôn nay đã gọn gàng bình thảm lượn quanh đồng ruộng, lượn vòng sườn núi không còn dấu vết của chiến tranh.
Đường giao thông vận tải lớn là những mạch máu chính của cuộc chiến tranh tối tân, là yếu tố mấu chốt của vấn đề phân phối nhu cầu. Bởi lẽ đó nên quân đội Võ nguyên Giáp đặt nan đề giao thông chiến là một việc quan trọng. Hình thái chiến tranh đã thay đổi, đường vận tải lớn trước kia chỉ cần thiết riêng cho Bộ Tư Lệnh Pháp ngày nay cũng trở nên vấn đề sinh tử đối với bộ tư lệnh Việt Minh.
Hiểu như vậy, các cán bộ dân công hết sức thúc đẩy dân chúng đắp đường cho nhanh, xẻ núi cho mau và cũng vì vậy Bộ Tư Lệnh Pháp cố tình phá diệt đường xá, bắn giết đám dân công vô tội. Hàng chuỗi bomđược đoàn phi cơ chiến thuật rắc dọc khắp nẻo đường, hàng tràng đại bác 20 ly tưới xuống ven đường, bờ ruộng, mỗi bóng người cầm quốc xẻng, mỗi bóng người nhấp nhô là mỗi tràng đạn nổ rầm trời.
Những đám dân công làm trong đêm tối siêng năng và quả quyết. Nếu nói về kết quả việc làm của họ đã đem lại ý nghĩa phản quốc gia theo quan niệm của những người quốc gia thuần túy vì lẽ họ đã mang sức lực ra giúp Việt Minh, thì hỏi về tinh thần làm việc của họ, phải công nhận họ xứng đáng là những người con quý của dân tộc Việt Nam. Dưới đường lối tuyên truyền của Việt Minh, họ chỉ biết đắp đường là yêu nước. Cử chỉ của họ đã lột rõ tâm tình đối với quốc gia dân tộc, và tất cả những người có ý thức đều phải nghiêng mình trước những sự hy sinh của họ dưới làn mưa đạn của không quân.
Song song với công tác đắp đường, ngành không và ngành thủy cũng được xây dựng. Phòng không quân bắt đầu tuyển mộ đào tạo sĩ quan các loại: Hoa tiêu, cơ khí…Phòng thủy vận tập trung vào những khả năng chuyên môn, tổ chức việc vận tải trên Lô Giang, trên các giòng suối rộng tổ chức thương thuyền vận tải ở bờ bể Trung Việt và tất cả các triền sông chưa bị vùng quốc gia kiểm soát.
Chính sách kinh tế tài chính của Việt Minh gồm mấy điểm lớn:
– Sản xuất tiết kiệm
– Thăng bằng chi thu
– Lũng đoạn kinh tế vùng quốc gia kiểm soát.
Để tránh nạn đói, Việt Minh hô hào dân chúng tăng gia sản xuất. Trước hội nghị cán bộ chính quyền tháng 3 năm 1951, Chủ Tịch Hồ chí Minh lên tiếng phát động phong trào sản xuất và tiết kiệm. Sản xuất đi đôi với tiết kiệm, đó là khẩu hiệu chính mà toàn thể dân chúng đều phải thực hiện.
Từ cuối năm 1951, đảng lao động Việt Nam đã tung ra khẩu hiệu ‘’Tự Cấp-Tự Túc’’. Những xưởng cán bông, dệt vải, seo giấy mọc lên như nấm.
Giấy: Các cơ quan nói chung từ trên xuống dưới đều phải dùng thứ giấy chế bằng đó, bằng giang.