🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Vàng xưa Ebooks Nhóm Zalo MỤC LỤC Trong bão tuyết Vàng Xưa Ngọn lửa Nhà ba hộ Cõi ảo Một người Đức Lá Bùa Vườn Maria Vết sẹo Ám ảnh BTrong bão tuyết ây giờ là tháng 12. Sau Noel, tất cả, cả thời gian, dường như đóng đông lại bởi nhiều ngày lễ và nguyên nhân chính là thời tiết quá tồi tệ. Băng như pha lê bọc lấy cây cối, treo như thạch nhũ, rủ dưới đường thoát nước ngang mái nhà. Mặt sông, hồ đanh cứng một lớp băng trong suốt. Và, gió xoáy thổi ào ào những hạt trắng rắn cưng như cát, suốt từ sáng qua đêm, ngày lại ngày. Mọi năm ấm hơn, thời điểm này hoa Forytchia(1) đã bắt đầu xé vỡ băng giá, xé toạc lớp vỏ khô rộp vì bỏng lạnh, khoe những mầm tơ để ít bữa rực hoa rộm ràng như nắng hạ. Năm nay, Forytchia khi cành trơ khấc lá, chao đảo thảm hại trong bão gió, cố lay lắt sống qua cái buốt cứng hàm của mùa đông. Trước đó ba tháng, tại vùng hắn ở có đứa bạn bị những người đồng hương đột vòm(2). Bọn chó hoang tha đi của gia chủ, bạn gái vợ chồng hắn 15 ngàn Euro tiền hàng. Lại cách đây không lâu, tám nhà nữa bị cạy tung cửa. Chúng khuân đi cả đồ vật cũ. Tin ấy như một đợt gió hoang mang ập vào nhiều gia đình Việt lương thiện. Vợ hắn sợ hãi, nhưng cô tin ở kinh nghiệm và bao sự từng trải của chồng. Hắn bình tĩnh dặn thằng con riêng của vợ: "Tao ở nhà thì không nói gì. Nhưng đi vắng, bọn trộm có lọt vào, cứ cho nó lục. Đừng sợ, đừng chống cự. Chẳng thằng nào trên đời này đẩy cửa là bắn luôn, hay chém phăng đầu chủ nhà. Còn nếu nó đông mà tao ở nhà, con chỉ có trách nhiệm gọi điện thoại cho cảnh sát. Còn lại là việc của tao”. Đứa trẻ vừa mười tám tuổi, đứng trước hắn, bấy lắm! Nếu ai hơi tinh đời, nhận ngay ra nó như một chú dê tơ vừa nhu nhú mầm sừng và đối diện là con sói già. Nó nhìn bố dượng không chớp và “dạ” nhẹ. Thực ra, thằng bé cũng từng nếm trải. Năm còn ở Hà Tây với ông cậu, cũng từng lang thang trốn nhà đi bụi mấy tháng. Còn khi bà ngoại và ông cậu tống nó ra khỏi nhà, chút xíu nữa nó đã trở thành bụi đời chuyên nghiệp trên sân ga Hàng Cỏ. Nhưng quả thực, nó chưa thấy ai như “lão già” này. Cái gì cũng không lọt khỏi mắt lão, dù một lời nói dối xâu vừa lỗ kim. Tuy nhiên, ở đời không thể chủ quan được! Đừng khi nào để mình rơi vào cảnh huống bị động! Hắn nghĩ vậy và tìm cách giấu tiền. Tổng số 25 ngàn Eu. Hắn đếm hai lần số tiền trước khi niêm phong chiếc phong bì chống ẩm, lại viết số tiền lên mặt phong bì, cẩn thận ghi ngày tháng. Hắn để tiền trên hốc nóc tủ ngoài hành lang, nơi có hộp công tác(3) lõm vào. Hắn nghĩ, giấu chỗ này, tưởng sơ sài nhưng sẽ gây bất ngờ. Hắn chặn hai cuốn địa chỉ điện thoại nặng chịch lên cái gói tiền. Tại đó có cái hốc nhỏ, nếu ai kéo cuốn điện thoại, túi tiền sẽ rơi ngay xuống đó mà chạy xuống đằng sau chiếc tủ cao nặng đã bị phích bằng hai bộ ốc vào tường. Việc giấu tiền sau ngày bạn hắn bị đột vòm. Ba tháng rồi! *** Hôm ấy là chúa nhật. Gió thổi khốc liệt hơn. Lạnh tới mức hắn và vợ nghỉ hai buổi chợ. Thời gian ngày nghỉ như dài ra, trôi chậm lại. Hai buổi chợ mất đứt hai trăm Eu là ít! Đúng vào tuần lương của Đức. Đúng ngày sát Noel! Vợ hắn cứ đi ra lại đi vào. Luôn chép miệng và ngó ra ngoài trời. - Năm nay việc buôn bán thực quá tồi tệ. Mình đã ăn lẹm vào vốn cái . Bù vào tiền ăn của nhà ta, chi nước thải, nước nóng trội ra, và điện, chi chữa xe, tiền bảo hiểm sức khoẻ, từ năm thêm thằng con em, bảo hiểm ép tăng nữa. Tất cả hơn tám ngàn - Hắn nói với vợ. "Vâng, em biết. Từ khi đổi tiền mới, cái gì chẳng tăng giá. Tốn kém!” Người vợ đang nhặt nhạnh mấy túi ni lon bao bì gấp xếp cẩn thận, để dùng cho bao việc lặt nhặt trong nhà, mà nhẽ ra phải chi mấy chục sent từng tháng. - Đồng US lại tụt rồi! - Hắn nhả khói thuốc lên trần nhà. Tách một cái, mẩu thuốc bay lên lọt đúng vào cái gạt tàn để cách hắn hai tầm với. Màn hình nhoang nhoáng chuyển từ tin tài chính sang tin Mỹ mang lính đi chuẩn bị choảng nhau. Khuôn mặt hắn bị ánh sáng hắt ra, nhợt nhạt, hơi lạnh. Cái đi văng cũ, da mềm mầu huyết dụ, vừa là chỗ ngủ của hắn vừa là nơi tiếp khách, phát ra tiếng kêu ọt ẹt. - Ông xem thế nào. Kỳ phép này của ông, mang US về mà chi. Em tính, để Euro lại, sau này có giá đấy - Tiếng người vợ nói vọng vào. “Ừ, sẽ mang tiền US về. Cô ở lại khi tuyết, gió quá đừng tham mà ra chợ. Bây giờ hai đứa đã có tuổi. Có giầu thì giầu rồi. Ngộ nhỡ, cô ốm lăn ra thì chả bõ. Tôi thu xếp xong mọi việc ở Hà Nội sẽ sang ngay với ba mẹ con.” Hắn nhẩn nha. Cái câu có giầu thì giầu rồi mỗi lần gã nói làm người đàn bà đau thót tim. Chị vẫn thế. Số tiền hơn bẩy chục ngàn US gửi mẹ đẻ của chị ở Hà Tây đã tiêu tan trong một năm. Mẹ chị đã dùng tiền ấy đầu tư cô em bà ở Sài Gòn. Bà dì chị phá sản, tiền tan như khói. Chị đau xót cắn môi mỗi khi nghĩ lại. Không tin mẹ thì tin ai? Dầu khi ấy hắn đã can, chị biết gửi ai giữ tiền hơn mẹ chị. Hai đứa chưa lấy nhau, chia tiền sòng phẳng xong, phải gửi về nhà. Hắn, nam giới, chôn tiền ở đâu chả được. Chị, nữ nhi, chắc nhất là gửi mẹ. Thôi thì cơ sự đã như vậy, chả nhẽ con lại cắn xé, ăn thịt mẹ trở lại. Chị chỉ trách mẹ một điều, vì tham lãi to mà tự động sử dụng số tiền ấy. Vỡ lở rồi cũng không dám nhận lỗi về mình, lại chửi chị, thành người mang tiếng. “Con cái gì, nó là hạng chỉ nghĩ tiền mà quên tình mẹ con!” Cắn răng mà nuốt nuớc mắt với họ đương. Chị chỉ biết khóc. Phải rồi, ở quê, ai cũng nghĩ chị giầu có, tiền như nước. Về phép, cả họ có quà. Có ai biết cái nỗi tha hương, mặt gục vào tuyết giá, nhịn ăn nhịn tiêu, nhịn cả tình cảm. Hừ, cái đau nhất là sau đó để hắn, chồng chị có thể khinh rẻ. Trong khi tiền hắn chôn ở anh em, bè bạn hắn cứ nguyên vẹn, lại sinh sôi ra. Đau lắm. Đau quá. Giá như chết được! Khi ấy, chị đã nghĩ, chết mà hai thằng con, đứa khỏi nghiện, đứa không bỏ học thì dám chết. Chết cho nhẹ mình mình, để con cái vơ vất sống như con chị, người ta còn đào mả lên mà nguyền rủa! Sự ấy diễn ra lâu rồi. Thế mà nhớ lại, đau thắt! Nước mắt cố kìm lại vẫn lã chã. Khổ quá, chị biết mẹ tiêu dùng thế nào, vặn hỏi cho rõ từng khoản, lập tức đứa con chị bị đuổi khỏi nhà! “Chị nhiều tiền, nuôi lấy nó, kẻo mang tiếng tôi là ở nhà trông cậy vào tiền ở nước ngoài. Tôi là con ở nuôi anh em chị. Bây giờ lại là vú già nuôi con chị ư?” Trời ơi, người chứ có phải là cục đá mà gói mang con đi ngay được. Vậy mà thằng bé thốc tháo ra khỏi nhà. Anh ấy nghe tin, khẩn cấp bay về, “Gia đình tôi sẽ nuôi nó!” Chị vẫn biết ơn chồng khi hắn đón thằng bé về nhà bố đẻ rồi lại tìm cách đưa được sang với chị. Nghĩ đi tính lại, chị thường đổ cho số kiếp. Kiếp người đàn bà mang chữ Quý, ngày nào ông giáo già ở làng đã bảo số con lận đận, mãi tới già được lộc của con cái! Đấy là ngày ấy chị như nụ hoa tầm xuân vừa hé. Nõn nường nhất huyện. Tin sao được! Càng lớn lên chị càng tự biết mình đẹp. Không đẹp, sao thời ấy bao họa sĩ về làng, tới tận nhà xin vẽ chân dung chị. Tưởng là lấy cái người họa sĩ ấy, thế mà trời không cho, anh đi bộ đội chưa đầy hai năm thì mẹ chị dứt khoát bắt chị lấy người bạn của ông cậu chị. Rồi tan. Tan là phải. Chị có yêu chồng đâu. Hai năm đi Đức, chắt chiu được đồng nào, chồng cũ tiêu hết, hai đứa trẻ trốn học không biết, về phép lần đầu tưởng cắn răng mà xum họp lại hóa ra chuyến về chỉ cãi nhau về tiền. Chửi tục, cật vấn, lục soát, thậm chí hít ngửi cả cái bờ áo chị mỗi khi ra phố về. Trăm cái giả định hư đốn đập vào đầu chị. Năm sau ra tòa. “Ngôi nhà này mày đừng bao giờ quay về nhé”. Khốn nạn, nào chị cần gì của cải, mặc cho cái ngôi nhà ấy tuy của cơ quan phân cho anh ta nhưng ai đã tu sửa, nâng tầng, ai đã nuôi con cả mười năm bao cấp mà gã thì suốt năm tháng lênh đênh tứ xứ với cái nghề đo đường và cái máu xoè bài! Tưởng sau cái đau chồng con sẽ hết hạn má hồng, lại tới hạn chính mẹ đẻ chị gây nên. Thằng lớn ở với chồng và dì ghẻ chán đời nghiện ngập. Dỗ nó cai nghiện, ngon ngọt bao ngày về phép, vừa bước chân chưa hết hơi chăn hai mẹ con, đã nghe tin nó lại đâu vào đấy. Đôi khi chị không hiểu được thời cuộc bây giờ. Người chồng cũ không nói làm gì. Gã coi chị là kẻ thù là nhẽ thường tình, có thể hiểu được. Còn mẹ chị? Tại sao lại như vậy? Cứ nghĩ tới mẹ là như có một cục cứng chồi từ đâu đẹn cứng lên ngực. Nào chị có phải kẻ bất hiếu. Chị nhớ bao nhiêu là bao nhiêu những ngày còn nhỏ. Những ngày bao cấp về nhà, cha mẹ bòn vón cho gia đình chị. Chị cũng chu toàn tất cả mọi sự với mẹ khi có đồng ăn, đồng để. Thế mà đùng một cái, cả thiên hạ làm giầu, mẹ đốc chứng làm giầu, lỡ mang cả số tiền lớn như thế đánh bạc với đời, để tới cơ sự này? Hay là bởi chị cứ rộng rãi quá, làm ai trong nhà cũng nghĩ, sang Đức này có thể xúc vàng ngoài hè phố, hái đâu cũng ra tiền. Khổ quá, giá như người ngoài thì đã đành. Chính là con người chị tin tưởng nhất ở cõi đời sau những tan nát của chị. Cũng tưởng đi nước ngoài kiếm tiền thì an ủi cho cái phận mình. Thế mà chính cuộc đi kiếm tiền này, lại là cuộc li loạn của bao nhiêu điều mà một người đàn bà như chị chẳng bao giờ muốn mang tiền ra đánh đổi! Trong bao đau đớn khi chia tay với chồng cũ, chị nhận được sẻ chia từ người đàn ông bây giờ là chồng chị. Vừa về ăn ở với nhau nơi đất khách. Mâm cơm cúng tổ tiên cũng là mâm cơm cưới với hơn mười kẻ cùng cảnh chưa hả hết mùi rượu duyên rổ rá cạp lại, thì mọi tai họa cứ sồn sồn kéo tới từ sau nỗi đau thứ hai. Khổ quá, tệ nhất là trong số tiền mà mẹ phá đi cũng có cả tiền của anh ấy. “Anh cứ đưa tiền rồi ở đây em gửi mẹ mua lấy mảnh đất mà dung thân về già của hai đứa mình”. Cuộc đời luôn chênh vênh thế nào. Chị thở hắt ra nghĩ tới hơn hai chục năm qua, từ ngày đi lấy chồng, như trời phạt chị. Bây giờ, điều an ủi duy nhất là thằng thứ hai qua được bên này. Chị trút được mối lo nặng nề bấy nay. Thằng bé lại biết sợ bố dượng. Cũng may là chưa khi nào nó ăn cắp của ông ấy. Nghĩ tới con, chị lại trào nước mắt. Hình ảnh thằng cả bị bố nó xích vào chân giường như lưỡi dao đâm ngập vào tim chị… *** Hắn chợt bật dậy. Thế là chỉ còn hơn tuần nữa hắn lại được trở về Hà Nội. Được nhìn thấy những ngôi nhà, đường phố, nơi hắn lớn lên. Gặp bè bạn và tha hồ bốc phét với chúng trên đê chó. Nghĩ mà khoái. Có lẽ phải tính toán lại số tiền mang về chi cho việc bốc xây mộ song thân, lại cho việc xây nhà sắp tới trên mảnh đất năm chục mét mà ngày xưa hắn kịp mua, trước khi giá đất cứ vùn vụt nhao lên. Hắn đi ra hành lang. Chợt nhìn lên nóc tủ nơi hắn giấu tiền. Cuốn sách hơi lòi ra ngoài. Hắn chột dạ. Nhẩy phắt lên, luồn tay vào. Có đường lạnh chạy dọc sống lưng. Hắn giật tung hai cuốn sách nặng. Cái hốc trơ trọi. Một con nhện hoảng hốt chạy từ nóc trần sát đó và những sợi tơ mầu khói chăng ra cả tay hắn. - Mẹ nó cầm tiền ở đây à? Hắn giật giọng hỏi. Người vợ từ bếp chạy ra. Tiền nào? - Tiền tôi dấu đây này. Đâu? Người vợ hoảng hốt mặt tái xám đứng như trời trồng giữa hành lang căn hộ. Gần hai chục phút sau, cái tủ bị tháo vít khênh ra. Nhìn rõ dăm con gián nhỏ xíu chạy hốt hoảng. *** Cả nhà bị lật, rũ tung từng thước thảm. Những cuốn sách và toàn bộ giường tủ, quần áo. Những chậu cây, đáy ti vi và cả đằng sau những bức tranh. Đã bốn tháng nay hắn có ngó ngàng gì tới số tiền đâu. Công việc làm ăn quá hối thúc hàng ngày cũng chả để hắn và vợ thở nữa là ngó vào cái thứ coi là nguồn vốn dự trữ kia. Trời ơi, đây là toàn bộ số tiền sau hơn mười lăm năm còn lại từ bàn tay chai cứng như thép của hắn. Có thể đùa được đâu! Mười lăm năm xa quê, lang thang ba bốn nước, bao nhiêu chuyện xảy ra. Bao người thân yêu nhất mất đi mà hắn chẳng thể có mặt để dẫu là chỉ khóc. Gia đình cũ tan nát. Gặp người đàn bà cũng có sự đau đớn tương tự, gắn bó. Tưởng xây dựng được tổ ấm mới. Tiền đã mất hơn bẩy mươi ngàn rồi. Còn lại khoản cuối này, khoản từ ngày cha hắn mất, hắn tổng động viên tiền quay lại Đức. Hắn đi đi lại lại không nói. Nhưng thực ra trong hắn biết bao câu hỏi. Ai? Ai đã lấy số tiền này. Hắn cố gắng bình tâm. Cách đây hơn hai tháng, lần ấy hai nhà Việt Nam nữa ở liền khu hắn sống, bị bọn trộm cùng một lúc chờ gia chủ ra khỏi nhà đã cậy cửa tự nhiên khuân đi tất cả cái gì có giá trị. Hắn có bàn với vợ di chuyển số tiền xuống hầm. Rồi sau đó vì công việc, hình như không làm việc ấy. Nói chính xác hơn là vợ chồng có bàn, rồi sự làm ăn túi bụi của vụ Noel làm cả hai không kịp tiến hành thay nơi cất tiền xuống hầm nhà. Hay là vợ hắn? Hắn hỏi lại vợ lần nữa. Người vợ yên lặng một lát, rồi ngửng lên nhìn vào đứa con gái đang đứng nép bên cánh cửa: “Không, em hoàn toàn không tự động làm việc ấy.” Họ vẫn kiên nhẫn lục lại lần nữa khắp các phòng. Họ lục tung cả thùng rác, lục cả vào đống sách vở của đứa con gái còn nhỏ. Lại xuống tận tầng hầm nơi vợ và hắn dự tính chuyển tiền xuống đó dưới những tấm gỗ đẹp mà hắn nhặt nhạnh để định đóng một giá sách cho thằng con riêng của vợ. Không, những thanh gỗ đầy bụi. Không một vệt tay! Đứa con gái sáu tuổi đứng tựa vào cánh cửa, giờ bước tới ngã vào lòng mẹ. Nó không hiểu việc gì đã xảy ra. Nó thấy khuôn mặt rất Boese(4) của cha nó. Nó thấy bộ mặt sợ hãi tái nhoét của anh nó. Nhất là khuôn mặt mẹ nó khi nào cũng săm sắp nước ở mắt! Từng ấy với nó, một đứa bé sinh ra ở Đức, là một sự ghê gớm quá rồi. Nó khóc. Hắn lôi tuột đứa trẻ vào phòng ngủ của hai mẹ con, ấn xuống giường. Ngủ đi! Bố sẽ tìm thấy tiền, ông già Noel sẽ tới gửi nhiều quà Noel cho. Hắn dỗ con. Con bé sợ hãi nhìn cha nó. Ôm cổ cha nó mà hôn rối rít. Bình thường chả mấy khi nó làm vậy. Nhưng hôm nay nó sợ. Sự sợ hãi vốn là bản năng của con người ta? Cũng chẳng thể hiểu ai đã dậy loài người điều đó ngay từ khi chập chững vào đời, hay là cuộc sống luôn bất trắc đã ngấm từ máu cha mẹ vào tận nhau thai? Hắn cắn môi, nhếch mép hé gượng cười, nói với con: “Con đừng sợ. Ngủ đi.” Hắn hôn vào má con bé như cắn. Đêm, không ai chợp mắt tới sáng. Hắn đi đi lại lại, hết bật nhạc lại xem ti vi. Rồi yên lặng, rồi hét lên. Chỉ có câu hỏi duy nhất miết xoáy lên trần chạy vang cả ba phòng trong căn hộ: “Tiền! Tiền ấy ai lấy? Trộm? Đứa nào? Ai? Sao nhà không có vết cậy cửa? Sao chúng không khuân cái đầu DVD thu phát mode nhẹ tênh, có bán lại ở chợ Việt Nam cũng được cả ngàn? Ai?” Họ không tìm ra câu trả lời. Suốt ba tháng qua, không có khách ngủ lại. Có ngủ lại cũng là ngủ với hắn hay với vợ, sao có thể biết tiền ở đâu mà ban đêm mò ra lấy rồi chuồn? Vô lý, vô lý! Chỉ có tao và mẹ mày biết. Mày có biết không? Nó ở đâu? Cứ như thế tới khi mặt trời soi rõ những con gió vẫn quất mạnh ném tuyết ngập tới nửa mét trên thị xã, trên cánh đồng. Bữa ăn nguội buổi sớm thực yên lặng. Nghe rõ tiếng bánh mỳ khi bẻ ra thả vào sữa. Tiếng nuốt sữa của đứa trẻ. Một lát, hắn nói chậm, nhưng gằn: - Một mất mười ngờ. Bây giờ chỉ có ba người. Không ai ngoài chúng ta. Tao? Mẹ mày hay mày? Chả nhẽ tao lại ăn cắp tiền của tao? Mẹ mày thì không rồi. Mẹ mày không thể phản bội lại tao. Điều ấy mày chắc hiểu. Hắn nuốt một ngụm Netcafe rồi nhìn vào mặt thằng bé. - Mày nghĩ kỹ đi. Tao không khẳng định mày lấy. Nhưng tao hỏi, mày có vô tình thấy nó mà giấu đi không? Hay là mày tưởng số tiền ấy của khách rơi ra? Mày biết tính tao đấy. Tao căm thù nhất trên đời tính ăn cắp. Nhặt được của cải, không phải của mình làm ra cũng là sự ăn cắp. Là phản bội, nhất là bây giờ mày biết số tiền ấy là của tao, của mẹ mày, của chính cả mày và em mày. Nhưng tao thề có tổ tiên tao, nếu mày thú nhận, xin lỗi mẹ và em. Tao sẽ tha thứ. Tao chỉ van mày từ nay nên thành thực. Đừng nói dối và giấu tao điều gì. Đừng trách tao nghi mày. Nghĩ kĩ đi. Mày thiếu trung thực với tao, dẫu là khi mới bước chân sang đây tao đã nói cả trăm lần về điều ấy. Mày luôn trốn học đi chơi. Mày bỏ đi cả tuần kì tết năm trước sang nhà chú Tâm khi tao và mẹ mày về Việt Nam. Bao nhiêu cái lặt vặt nữa, chứng nào tật ấy. Vậy sao tao có thể tin mày? Mày hứa với tao học chăm chỉ, học lý thuyết lái xe. Tất cả chỉ là hứa suông. Mày thích chơi điện tử, vào nét hơn là rèn luyện để trở thành người đàn ông đủ tài mà chống chọi với cuộc sống! Người vợ ngồi né mặt, với nhìn sang đứa con gái nhỏ. Thằng bé thì cúi gầm mặt xuống. Tất cả những điều ấy không sai với nó: - Nhưng con không lấy và không biết số tiền ấy. Con thề! - Thề! Tao thề được như mày. Vậy ai đã lấy tiền? Hắn chau mày. Giọng nhỏ, đanh sắc và cặp mắt sáng tóe lửa như mũi mác phóng vào mắt thằng nhỏ. - Con thực không biết! Thằng bé lé mắt lên yếu ớt nhìn dượng nó. Nó hiểu, con người này đã đối xử với nó rất tốt. Tốt hơn cả cha nó. Chả thế nó từng nói với bà giáo Hega trong kỳ nghỉ đông vừa qua: “Dượng tao rất được, ông ta biết tao ốm. Biết tao bất kỳ ở đâu khi cha đẻ tao không bao giờ biết tao đang ở đâu từng ngày. Chỉ tội dượng tao tính nóng hơn lửa. Ông ta rất thương mẹ con tao. Bà hiểu không?” Nó lí nhí : “Quả thực con mải chơi. Con từng ăn cắp ở nhà. Nhưng từ ngày sang đây con không ăn cắp. Con biết bố rất ghét và con đã thề với bố về điều ấy rồi! Còn con có lỗi là còn hay nói dối. Con sợ bố mẹ mà nói dối chứ con không muốn nói dối!” - Mày sợ. Mày sợ nên để con chim mày luôn mồm kêu yêu nó, chết rét trong lồng, khi mày chạy đi chơi suốt cả tuần lúc tao và mẹ mày vắng nhà. Mặc kệ băng giá hành hạ con vật. Vậy ai tin mày? Nếu mày là con đẻ tao, tao sẽ đập chết hiểu chưa. - Bố ơi ! con xin bố tha cho anh! Đứa bé gái cất tiếng, nó sắp khóc. Nó chạy từ lòng mẹ nó tới bên anh. Tự nhiên người đàn bà nước mắt chảy lã chã. Thằng bé cũng âm thầm khóc. Yên lặng. Hắn dịu giọng: - Mày nghĩ kỹ đi. Ai cho mày ngày hôm nay? Tao đã quỳ xuống van nài bố tao, chị tao nuôi tạm mày khi mày đói gầy trên sân ga trở về với mẹ mày. Tao lại chạy ngang chạy dọc đưa mày sang đây cho mày hết cái cảnh có mẹ mà như không. Tao sắm cho mày từ cái áo tới cái quần. Tự tay tao. Tao cũng từng như van mày, hết ngọt tới sẵng rằng là đàn ông thì phải kiêu ngạo mà từ tay mình làm ra tiền. Mày nghĩ lại đi con. Tao với mày chả ruột thịt gì. Sao tao lại cắn răng nhớ thương con tao ở quê hương để chăm cái đứa chẳng máu mủ như mày? Bởi vì mẹ mày đấy hiểu chưa con. Mày thấy nó rơi ra mà nhặt được thì đưa cho mẹ mày. Tao thề, hai thằng đàn ông, thề có hương hồn cha mẹ tao, rằng tao sẽ không trừng phạt… Hắn nghẹn lại vì xúc cảm thực sự. Không khóc, nhưng giữa ngực hắn có một dòng chì chảy nóng rẫy bò ngoằn ngoèo trong từng đường gân mạch máu. Hắn cố giữ mặt lạnh: - Thôi tao nói vậy là đủ. Cho mày suy nghĩ từ giờ tới tối. Nếu mày chứng minh được tiền này người ngoài vào lấy. Hay là vợ tao, mẹ mày lấy tiền của chính chúng tao? - Hắn cười gằn - Mày nói đi! Sự thật! Tao không cần nói tới nó nữa. Tao sẽ lại làm lại từ đầu. Tuy là mày biết đấy, cơ hội kiếm tiền chẳng bao giờ như ngày hôm qua. Tao già rồi. Nhưng tao sẽ không sợ. Tao yêu thương tất cả, nhưng tao căm thù sự phản bội và không sợ bất cứ khó khăn nào, nhất là nó tới từ kẻ thù của tao ở đời. Tao chống cự đến cùng! Mắt hắn đột nhiên tóe sáng. *** Bóng tối bắt đầu trùm lên thị xã. Ngoài kia, tuyết vẫn trùng trùng rơi. Chỉ còn một ngày nữa là Noel. Những ngọn nến điện, những đèn hoa nhấp nhánh sáng cháy trên các khung cửa muôn nhà, nhập nhòa vào từng đợt tuyết trắng như sữa trên mặt kính, làm khung cảnh đêm huyền kỳ thêm. Con bé bám tay vào thành cửa sổ. Nó nhìn sang dẫy nhà bên kia đường. Tại đó có mấy người đi lại thấp thoáng trong gió. Ở nhà nó đang xảy ra điều gì? Bằng giờ này mà vẫn chưa thấy ông Noel tới. Mọi năm ông già ấy với cái áo đỏ tươi và chiếc mũ cũng đỏ tươi đã tới phát quà cho nó. Chắc năm nay ông ấy giận gia đình nó mà không tới. Muốn ông Noel tới, phải học giỏi và không được cáu kỉnh. Bố nó nói vậy. Nó thì học tốt rồi, vậy thì chỉ tại bố mẹ nó đang cáu kỉnh mà ông Noel không tới thôi. Quay lại nơi hai bố mẹ nó đang ngồi bên nhau nói chuyện rất nhỏ, nó hỏi: Tại sao bây giờ ông Noel chưa tới, papa? Mẹ nó nhìn đứa con cố nói nốt một câu với chồng: “Em nhục lắm rồi. Đã hỏi nó rất kỹ rồi. Em van anh đừng tống nó về Việt Nam. Cho nó tới Muenchen đi vặt lông gà vậy. Nó về nhà chắc nghiện như thằng anh nó. Thế thì em tự vẫn!” Hắn ôm con gái vào lòng, vuốt tóc đứa con gái. Mọi năm giờ này hắn đã đóng bộ ông già tuyết từ hầm đi lên giả giọng ồm ồm, xì xồ tiếng Đức, phát quà cho con hắn. Bây giờ thì bụng dạ nào mà làm việc ấy. Hắn nói dối: “Con à, năm nay bão, xe hươu của ông ấy hỏng bánh rồi, ông ấy cũng già hơn cả ông nội con, không tới được đâu!” “Thực không Papa? Ai nói cho papa biết xe ông ấy bị hỏng?” Hắn ôm đứa nhỏ vào lòng: “Bố gọi điện hỏi rồi mà. Nhưng thế nào ông ấy chả gửi quà cho con. Để sớm mai bố ra mở hộp thư. Chắc có quà con ạ. Ông Noel tốt lắm. Bây giờ ngủ đi!” Tuyết vẫn ù ù đập vào cửa cho tới sáng. Phòng thằng lớn vẫn lom dom cái đèn học. Ánh sáng chiếu qua khe cửa hở một vệt như mũi lao đâm sang nơi hắn ngồi hút thuốc suốt đêm. Hắn ôm mặt muốn khóc mà chẳng thể. Hắn nhớ lại cả cuộc đời hắn. Khuôn mặt luôn khó đăm đăm của người vợ cũ. Ngôi nhà nhỏ của tổ tiên mà khi chia tay, hắn cắt phăng như cắt một khúc ruột, cho đứt con người nguyền rủa kia bởi vì đứa con gái bệnh tật. Những ngày trôi dạt bên Nga. Cái phòng nhỏ khói a xít lơ lửng, dầy đặc quyện che kín cả trần nhà. Cuộc di dời đầy mạo hiểm qua nhiều biên giới. Hắn chưa khi nào thua ai cả. Vậy mà tại đây hắn mất mát bao nhiêu mà cuối cùng lại bị phản bội. Trời ơi. Giá mà hắn biết rõ ai lấy số tiền này. Hắn sẽ đâm ngập dao vào giữa tim kẻ nào ăn cướp cạn của hắn. Hoặc bắn nát đầu mà ném vào rừng cho chó sói cắn đi từng mảnh. Sự nghi ngờ bao giờ chả là nghi ngờ! Hắn không phải là loại người làm điều không có bằng cớ. Cuộc sống cũng bao lần oan uổng ở quân ngũ, ở cơ quan, ở đời, nên hắn thận trọng. Còn chính xác thằng chó ấy lấy tiền nhỉ? Hắn đau đớn chừng nào bởi như vậy không chỉ là mất tiền! Hắn nhớ tới ngày xin gia đình hắn đón thằng nhỏ về nhà, cha hắn là con người của ngày xưa thủng thẳng: “Dây bầu đeo lấy quả bầu. Thế gia tộc hai đằng của nó đâu?” Hắn quỳ xuống, đây là con của người đã chia sẻ bấy nay với con ở bên đó. Con không thể bỏ rơi bè bạn khi hoạn nạn. Con sẽ lấy cô ấy làm vợ. Nó là người. Cha hãy vì con mà thương nó. Thế mà bây giờ thằng ấy dám phản bội lại hắn. Hắn giận dữ miết tay xuống cạnh bàn. Ngón tay cái hắn ứa máu. Hắn chả thấy đau. Thản nhiên liếm. Hắn đau khổ tới cùng cực. Thực ra, con người như hắn thật đáng thương. Khuôn mặt hắn có vết sẹo dài trên trán. Đấy là vết thương của chiến tranh, ngày hắn đánh vào giải phóng thị xã Tuy Hoà. Còn cái vết sẹo to như con giun ngoằn ngèo chạy từ bả vai tới xuống tận cổ tay trái là nhát dao kỷ niệm của đám thợ hoàn kim tại Nga, vừa là ân nhân vừa tí nữa là kẻ thù của hắn. Ân nhân vì khi nuớc Nga sụp đổ, hắn mất hết cả tiền sau chuyến đi tận Cáp Ca đổ bột nghệ bị đám cướp lạ chí súng vào đầu mà lột sạch. Đang lang thang ngoài ga, đói tưởng chết thì gặp họ lôi về nhà cho ăn, cho mặc và cho cả chân giúp việc tách vàng trong cái phòng ngột ngạt. Tí nữa là kẻ thù vì bữa tiệc cuối năm, say, cả lũ say mèm vì hơn mười chai Vốt Ca. Thỏi vàng vừa cô lại trong túi quần hậu của tay nhóm trưởng không cánh mà bay sau giấc ngủ trên thảm, giữa đám vỏ chai và thức ăn bữa bãi. Thế là chúng kéo hắn, cái thằng vô gia cư bị nghi ngờ nhất vừa mới quen chưa đầy ba tuần lên, với sợi dây dù trói ngược cánh tay, treo lơ lửng trong phòng bếp. Hắn có chôm đâu mà khai? Con dao bếp Nga sắc đã lướt nhẹ từ vai tới cổ tay để máu rỏ lõng võng như cắt tiết gà xuống nền bếp. Người ta lại lập tức hạ hắn xuống cấp cứu và theo luật giang hồ hắn được tặng lại nhát dao ấy cho kẻ cứa hắn, khi thằng mất vàng tìm thấy thỏi vàng nửa kí rớt ra sau bồn cầu toa lét hồi đêm trong trạng thái say sỉn. Có thể sự oan uổng ấy, làm hắn thận trọng hơn với thằng bé trong vụ này. Thận trọng thôi, chứ khả năng nó chôm là nhiều. Bởi hai trường hợp khác nhau. Hắn hư đốn giang hồ nhưng không có tiền sử trộm vặt. Hắn giang hồ cũng vì biết bao điều của cuộc đời mà thực ra hắn sẽ giữ được bộ mặt không tới nỗi nào khi được sống trong ăn học tử tế và đừng đói nghèo. Vâng đúng như vậy. Hắn bất giác sờ tay lên đôi má sọp lại. Giá đầy đặn hơn. Giá xóa đi nét phong trần, con mắt sáng và cái mũi thẳng, đôi môi trái tim hồng lại, phải là một khuôn mặt đẹp của đàn ông! Tiếng đồng hồ vẫn tích tắc từng giây đủ cho cả ba con người trong ba phòng nghe rõ. Chỉ có đứa con gái nhỏ là ngủ. Nó mê gì? Môi son hé cười và đôi tay hồng nắm lấy búp bê cô Công Chúa Tuyết. *** - Tôi đồng ý. Ngay sau tết tây thằng con bà sẽ đi xuống phía Tây chỗ bọn thằng Tuấn Tanh nhổ lông gà. Nó không được ở đây nữa. Để cho thằng Tuấn Tanh trị nó, cho nó biết thế nào là lễ độ. Không học hành gì nữa. Mà cũng còn đâu tiền cho nó ăn học tiếp. Mười tám rồi. Ở Đức này, mười tám là phải tự lập. Các bà mẹ như cô không học ra điều gì khi xem phim tài liệu về đại bàng sao? Đại bàng mẹ lấy cánh đủn con xuống vách đá, khi con chim nhỏ vừa đủ lông. Con chim non chấp chới, sợ hãi đập cánh và nó nhao vào luồng khí bay lên! Muốn con bà thành đại bàng hay mãi mãi như con gà nhép nép vào cánh mẹ? Vả lại khi hai thằng đàn ông phản bội nhau, không tin nhau, thì sống cạnh nhau tất có ngày có hậu họa. Tôi không sợ nó, nhưng tôi sợ chính tôi! Tôi hy vọng cái ưu điểm của con bà là chăm chỉ lao động, rèn rũa bấy nay sẽ giúp nó nên người. Còn ở lại với tôi. Không thể được! Tôi cũng nhắc lại với bà là nếu tôi phát hiện chính xác, nó đã lấy tiền của tôi, thì bà liệu tìm nó và phải quỳ xuống trước em nó. Tôi sẽ biết, trước và sau sẽ biết. Số tiền ấy không thể là cái kim mà giấu được. Nó phải tiêu. Phải gửi về cho bố đẻ nó. Phải mua xe mới chẳng hạn…! Hắn và vợ bỗng đồng loạt thở. Không phải thở dài. Tiếng thở hắt ra, nhưng ở hai người đều có ý nghĩa khác nhau tới đối nghịch. Bên ngoài có tiếng chuông. Thằng bé ra mở cửa. Đó là bạn gái vợ chồng hắn. Một người đàn bà tứ tuần, quắt queo như trái quéo héo. - Em nghe tin hai bác có việc không may! Có mỗi mình em ngủ lại đêm ấy. Anh chị ơi, em cũng bị đập hộp, mất tiền sao mà nỡ lòng nào nhặt được tiền của hai bác! Chưa đặt đít đã đặt mồm - Hắn nghĩ - Ai bảo cô nhặt tiền? Người đàn bà sà tới bên thằng nhỏ: “ Cô mong cháu lên làm, mà nhà có việc không đi làm sao không báo cô? Cô không gọi điện cho mẹ cháu thì sao cô tìm ngay người khác thế chân cháu. Khổ quá anh ạ. Quán ế cả năm, bây giờ tụi nó mới đi mua sắm. Em bỏng rộp hết cả tay vì dầu đây mà vẫn phải lăn vào. Thôi, cháu còn nghỉ đông có hai tuần. Việc xảy ra đã rồi. Để cháu lên làm tiếp với em xem sự thể ra sao. Gớm, khổ anh chị quá. Nhà em mất tiền còn cái quán nó đỡ chứ anh chị thì… ấy, hay năm nay chị cũng sao Thái Bạch chiếu như em nhỉ? Người đàn bà kéo đứa con trai và vợ hắn vào phòng nhỏ. Từ đó vọng ra tiếng rì rầm. Hắn yên lặng hút thuốc tại phòng khách và nửa tiếng sau, lòng hắn đau thắt, rối bời khi nghe rõ tiếng thét của thằng con vợ trong phòng: - Con sẽ tự tử, con sẽ chết để chứng minh cho cô và dượng là con không biết gì! Dẫu sao, hắn vẫn là tên giang hồ có gốc gác của một gia đình tử tế. Hắn nhẩy bổ như cắt bay vào phòng thằng nhỏ. Hắn nhìn rõ, thằng bé nước mắt lưng vực. Người đàn bà đang ôm lấy đứa trẻ và vợ hắn lại ôm lấy vai người đàn bà. Hắn quay ra ngoài. Ôm lấy đầu gục xuống mặt đệm sa lông. Lấy cái gối úp lấy mặt. Nửa tiếng sau. Hắn ra chốt cửa, sau khi người đàn bà và thằng bé lí nhí chào hắn. Từ hành lang vọng lên tiếng bàn bạc rì rào. Tiếng nhỏ nhưng bay lên, đập vào trần, rót xuống đôi tai tinh như tai chó sói của hắn: - Hay là cô và cháu ra ngân hàng vay tiền nói là sửa chữa quán để bù tiền mất của cha mẹ cháu? Có tiếng thằng bé, không rõ lắm: cô muốn gì cháu cũng làm… Tiếng xe nổ máy êm êm. Hắn hình dung ra chiếc xe của họ bò loằng ngoằng trượt trên con đường còn nhầy nhục giá băng. Trời lại sắp tối rồi và tuyết vẫn không ngừng rơi. *** Mười một giờ đêm. Chỉ còn tiếng nữa là hết sang ngày Noel. Con bé đã ngủ. Người vợ hắn giấu mặt xuống gối, nhưng thực ra không ngủ. Thế là đã ba đêm hắn không ngủ. Hắn rất mệt. Hắn tới bên bàn thờ thắp một nén hương cho cha mẹ hắn và bật nhạc . Tiếng nhạc giao hưởng làm thần kinh hắn dịu lại. Hắn uống một cốc vita tổng hợp và dựa lưng vào đi văng. Bóng người mở cửa rón rén vào hành lang. Bóng đen tới cửa nhìn hắn. Hắn nín thở vẫn giả vờ ngủ. Bóng đen tới bên chỗ hắn giấu tiền và trèo lên bậc gờ tủ. Hắn bật ra nhanh như tia chớp giật tóc bóng đen và tung đầu gối lên. Hắn giang tay chém như máy vào gáy cho đối thủ tới khi chỉ còn là cái xác mềm nhũn. Hắn cười. Rút con dao bấm ấn nút và cứa mạnh, đứt rời bàn tay thằng chó ăn trộm gọn như vết đạn cắt mà hắn nhìn thấy ở đâu. Sợi gân giật làm hắn tối mắt. Cái mặt bị lật ngửa và hắn nhận ra khuôn mặt quen thuộc của đứa con vợ. Hắn thét lên, không thể như vậy! Tiếng thét làm người vợ choàng tỉnh. Chị chạy ra, chồng chị vẫn đang vật vã trên đi văng và nói gì ú ớ. - Anh! Tỉnh dậy, tỉnh dậy! - Hắn choàng tỉnh. Ngơ ngác ngồi dậy. Mồ hôi rỏ đầm đìa trên khuôn mặt phong trần của hắn. Đèn bật sáng trưng. Mười hai giờ kém bốn phút. Bây giờ là sắp sang ngày 25 tháng cuối cùng của năm. Hắn để vợ quay lại với con. Ra vốc nước lạnh vỗ vào mặt. Tự nhiên sau giấc ngủ, hắn thấy nhẹ lòng, dẫu buồn tê tái. Hắn tới bên con trong phòng ngủ. Tự nhiên hắn nhìn vào cái tủ đựng đồ chơi của con. Những ngăn kéo xếp nhiều đôi tất xinh xinh và những con giống xinh xinh. Như có một ma lực xui kiến, hắn mở ngăn kéo sát đất, mò tay vào cái hộc bé dưới thanh gỗ vừa rộng đúng bàn tay dài sáu chục phân. Bàn tay hắn đụng vào hai tập giấy. Cái sức nóng ở tiền hay cảm giác của máu sói làm hắn giật thột. Đây rồi! Hắn giật ra, ánh điện chiếu sáng hai gói tiền. Mà tại sao hai gói tiền? Cái gói của hắn, dầy hơn, bên trong. Giấy còn nguyên niêm phong và dòng chữ hắn ghi. Cái gói mỏng hơn, bên ngoài. Tung ra một sấp tiền Mỹ và Euro. Không hiểu sao hắn bình tĩnh đến thế. Hắn quay người lại giơ hai tập tiền lên: “Ai giấu tiền vào đây? Lại cả tập tiền này nữa?” Người vợ lật sấp người lại, nhao lên: - Trời ơi! Tiền à? Thấy rồi à? Trời ơi, con ơi.- Chị líu cả lưỡi. Hắn lạnh lùng: - Hãy giải thích ngay lập tức vì sao bà phản tôi. Tiền này ở đâu ra? Hắn quẳng tập tiền mỏng xuống một cách khinh bỉ xuống đất! Người vợ òa khóc. Chị quỳ xuống thảm. *** - Hãy cho em nói. Anh hãy giết em đi, nhưng cho em nói lời cuối! Đây là tiền em ăn cắp của hai chúng ta giấu riêng. Nó là hai ngàn bẩy trăm US và hai trăm rưỡi Euro. Hôm qua, chính hôm qua em sợ quá giấu vào đó. Vâng, mỗi ngày em lấy ra năm ba chục và cất riêng. Còn em không biết tại sao số tiền kia ở đấy. Anh và em cũng có lần bảo giấu nó vào đấy nhưng có ai làm đâu nhỉ? - Chị suy nghĩ một lát rồi trở nên bình tĩnh - Sau đó anh bảo mang xuống hầm! Hãy giết em đi. Chỉ từng kia tiền ăn cắp, em đủ tội đủ chết vì phản bội anh. Vâng, em đã phản bội. Từ ba năm nay, anh luôn cáu mỗi khi em gửi tiền về cho con trai em. Vâng nó nghiện, nó láo với anh, nó khốn nạn, nhưng nó là con em. - Tự nhiên giọng người vợ rất chậm và rành rọt. Chậm cùng với những giọt nước mắt chậm đổ xuống mặt thảm - Nhưng em hy vọng nó sẽ hết nghiện. Anh đã thù nó tới xương tủy khi nó chửi anh. Anh đã nuôi thằng em nó và dạy nên người. Nhưng chắc anh sẽ chẳng bao giờ cho nó một đồng sau này, nếu nó có vợ và con. Anh là đàn ông, anh tỉnh táo hơn và chỉ ra biết bao điều em lầm lỡ, nhưng anh ơi, anh không biết trái tim của em đau đớn cực khổ ra sao, khi nghĩ dù thoáng tới hòn máu của em, dẫu nó là hòn máu khốn nạn. Vì thế em quyết định chuẩn bị một chút thôi cho nó… Hãy giết em đi. Em ích kỷ, phản bội anh, con gái và… Nhưng bốn năm nay không làm ăn ra tiền, em sợ, sợ tới ngày nào đó chúng ta sẽ không còn một đồng dự trữ. Chúng ta còn có xã hội ở đây. Không sợ rét và đói. Thằng bé em nó sẽ lớn lên đi làm và không lo gì. Còn thằng kia. Giọt máu của em? Người đàn bà bò lết tới chân hắn. Nước mắt ngập đầy hốc mắt của đôi mắt mà bao lần hắn đã thương xót hôn vào… Ngay khi đó con bé gái thức giấc. Nó bật ngay ra lao vào mẹ nó và ôm ghì lấy cổ mẹ. Mẹ, Ma ma, Ma mi! Nó rối rít gọi. Hắn đứng như trời trồng. Khi ấy, từ đâu như có trăm ngàn mũi mác cắm sâu và ngoáy mãi, tàn nhẫn vào con tim hắn. Khuôn mặt câm lạnh. Nhưng thái dương hắn, sợi máu rần rật vì biết bao điều, chớp mắt phanh phui, đan nhau: chà đạp, hành hạ, cởi phá những điều trong u tối, với cả sự hoan lạc tới điểm cuối của kẻ biết được bí mật của sự thật. Không hiểu sao, dẫu là còn mong manh tơ vò điều chưa tỏ, hắn chợt nhớ tới khuôn mặt đẫm máu của thằng con vợ trong mơ. Hắn ngắt lời vợ: - Thôi câm đi! Gọi ngay điện cho con. Nó là người đầu tiên phải biết rằng chúng ta đã tìm thấy tiền. Điều ấy quan trọng nhất. Còn tôi và bà sắp chết cả rồi. Hiểu chưa? Đồ… Hắn nghẹt lại. Nói rồi hắn quay phắt ra phòng khách. Ngồi xuống ghế. Lần đầu tiên sau hơn 15 năm lưu lạc, hắn khóc. Lòng hắn có một điều mênh mang rất buồn mà hắn, và chỉ hắn biết lí do của nó. Người vợ chạy từ phòng sang. Đứa con gái lon ton sau mẹ. - Gọi eng gọi eng về! Nó nói tiếng Việt thực ngọng nghịu dễ thương. - Con nó về từ hơn một tiếng rồi! Cửa hàng đã đóng cửa. Hắn nhíu lông mày. Đầu hắn vọt ra câu hỏi. Hơn một tiếng sao chưa về tới nhà? Hay là? Hay là không có xe Bus? Hay là nó còn đang lê trong đường tuyết, đường rừng từ bến Bus về nhà? Hắn vơ vội áo lông dầy, vọt xuống cầu thang, không nói với vợ nửa lời. Hắn chạy ra ô tô. Nổ máy. Trời lạnh, tiếng kin kít của máy đề mãi mới nổ được càng làm cho hắn sốt ruột. Đừng, đừng, mọi sự đừng xấu nhé! Hắn nhấn ga cho xe chồm rẽ tuyết và lao hệt như viên đạn bay xé gió, tuyết về con đường rừng vắng tanh. Hắn bật đèn pha cháy rực cả con đường trắng xóa. Tới mười phút sau không chính xác, chiếc xe quay một vòng bên bìa rừng cạnh một bóng nhỏ ngồi im như tạc bằng đá trên một thân cây gỗ nằm ngã xuống bìa rừng từ đầu cơn bão tuyết vụ đông khi ấy. Hắn hối hả mở cửa xe, hối hả lao như con sói vào đứa con non của sói. Hắn nhìn thấy khuôn mặt thằng bé. Đôi mắt vẫn nhắm. Trên vai áo khoác dạ, những bông tuyết trắng muốt, tinh khiết, sáng rực dưới ánh đèn pha ô tô. Hắn ôm choàng tới đứa con. Thọc tay vào ngực đứa trẻ xoa lấy xoa để…. Nửa giờ sau. Hắn và người vợ ngồi bên đứa trẻ được xoa tuyết toàn thân, rồi ủ chăn ấm đã tỉnh dậy. Ngơ ngác nhìn. Hắn cười. Nụ cười sau bốn ngày chết nay lại hồi sinh. Nụ cười làm khuôn mặt hắn đẹp lạ lùng. Cái đẹp của người đàn ông giang hồ từng trải và đau khổ khi được cười hạnh phúc. - Con ơi thấy tiền rồi! Thằng bé nhỏm dậy. Nó ngơ ngác và, chợt hiểu và, cũng cười. Ba con người, đúng hơn là bốn con người ôm chầm lấy nhau và họ đều im lặng để nước mắt người này quyện với nước mắt người kia. *** Những ngày sau đó, không ai lục vấn số tiền lớn kia, hắn hay vợ hắn hay con hắn, đã cất. Bố ai mà nhớ ra trong mấy ngày tuyết gió có bao nhiêu trận tuyết? Vả lại mọi điều quan trọng nhất đã sáng tỏ. Đấy là hắn nghĩ vậy. Cũng thực kì lạ, cái lão trời già lắm chuyện. Gió như thế, bão như thế mà thoắt một cái, băng lại tan và mặt đất hiện ra. Mặt đất đen tuyền nhưng không lạnh. Ven đường, cạnh chỗ thằng bé ngồi hơn một giờ trong đêm, có bụi hoa Forytchia, cành chua chúa vươn mãi. Mới ấm một tẹo thôi mà đã chi chít mầm vàng chói. Màu non ấy, ai nhìn kỹ đều cho là nắng sớm đọng vào đó báo hiệu xuân sẽ về... 24/12/2002- Nước Đức Vàng Xưa Để nhớ LA C on tầu lừng lững như viên đạn khổng lồ, dài, rời ga Hàng Cỏ, đưa chúng tôi lên đường. Đầu máy Diesel nặng nhọc, phì phò rồi bỗng gấp gáp hú còi, giật mạnh, khẩn cấp xuyên thẳng vào màn đêm. Cuộc gặp đầu tiên bàn về chuyến đi này cách đây có hai tháng mà mọi công việc chuẩn bị nhân sự, tiền, mua sắm thức ăn, trang bị nhanh đến không ngờ. Hơn bẩy chục kg vàng! Hơn nửa triệu US! Trời ơi, nếu tìm được nó? Mà nhất định tìm được! Ta sẽ đổi đời! Trong đêm trước, tôi nói như mơ mấy lần với vợ câu ấy. Không biết bọn kia có ngủ không? Đêm nay, tôi lại sẽ trằn trọc. Tôi không ngủ như ngày nào. Tiếng bánh sắt nghiến vào đường ray chao chác hối hả. Qua những ô cửa tươi sơn, kính trong vắt chưa sập, ánh sáng như lưỡi kiếm vàng lạnh liên tục chém loang loáng. Con tầu mỗi khi gặp chuyến ngược tuyến, cứ tưởng như đứng lại hay thời gian trôi ngược. Tại sao tôi không nghĩ về viễn cảnh của ngày mai? Người đời, khi sắp đưa chân vào một hoàn cảnh mới, rực rỡ hơn, liệu có chợt nhớ ngày bĩ cực như tôi không? Giải phóng Sài Gòn một cách bất ngờ. Trở về nhà bất ngờ. Tất cả làm lại từ con số không. Một năm lần mò khắp nơi kiếm việc làm. Ăn bám anh chị. Công việc nào dành cho một kẻ văn hóa hết phổ thông? Chuyên môn không! Có chân bảo vệ bãi cát xây dựng. Phúc chán! Lấy vợ. Sinh con.. Nhìn cát mênh mông, trắng phớ bay mù mịt sau những chuyến xe mà nhớ! Những bữa cơm hai vợ chồng chỉ có hai bìa đậu phụ. Miếng ăn đùn đi đẩy lại thành miếng ăn thừa. Đĩa rau muống chấm nước mắm khăm khẳm. Gia tài chỏn vỏn cái giường gỗ phân phối theo giấy đăng kí, mọt nghiến suốt đêm. Tủ lạnh chị gái tôi thương em mà cho, có trăm nốt rỉ đen, thủng lỗ chỗ như bị đạn bắn. Nó là nhà máy sản xuất đá để bán cho hàng nước chè bên kia hè đường, luôn rỗng mùi thịt cá. Tôi nghĩ tới những mẩu thuốc lén nhặt trên mặt đất. Tôi gặm ăn cả kỉ vật. Con dao găm Mỹ, chiếc Ponso rằn ri. Áo choàng mưa sĩ quan hậu cần phát trước lúc ra quân. Cả cái bật Zippo nhặt lên ướt máu của người lính ở Quảng Trị, Mậu Thân 68. Vỏ khắc: “Please! Don´t tell about Vietnam because I have been there(5)” và bên kia, đứa con gái trần như nhộng dạng háng cười nhoe nhoét. Tôi trằn trọc. Tầu qua một cung đường đang sửa, chưa ổn định, lắc đi lắc lại. Tôi nhìn bóng đầu ai trên trần toa, nghĩ tới cái chảo đãi vàng cũng lắc đi lắc lại như thế. Ngã ba suối cạn. Hai seo cát như đôi vú mẩy cứng thanh xuân, giữa lòng ngã ba suối lấp lánh. Mùa khô trong khu rừng ấy, ba thằng đi kiếm cá đụng phải. Bắt đầu, thằng Phương phát hiện, cái quần đùi rách tướp tua của tôi, trên những sợi bông dính nhiều bụi tấm, vàng lấp lánh dưới ánh sáng mặt trời. Vốc cát, reo lên! Vàng! Dân gốc Hàng Bạc. Nhà tao bốn đời làm vàng, đánh bạc, tao không lầm! Phương hét lên. Chúng tôi đắp đìa, đãi vàng, lắc, nhặt, thổi, dầm chân trong con suối suốt cả tuần. Dòng suối từ đâu đổ về, đâm thẳng vào vách núi rồi cuộn vòng sang trái. Nước xoáy mãi vào đá, tạo thành những cái hốc nhẵn tròn. Bao nhiêu năm? Nước chảy, quẩn, dồn tích mãi, sàng lọc tự nhiên vàng đọng xuống từng hốc chạt dầy tới nửa gang tay. Vàng mỏng tang như vẩy nhót. Thổi khô, bay phát sáng trong nắng. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy vàng. Phương bảo, đây là vàng bẩy, gọi là vàng cám, vàng sa khoáng. Tôi nhìn, bụi vàng như vảy nhót. Hơn bẩy chục cân chứ chả ít. Đóng vào sáu cái túi cát Mỹ. Hì hụi như thế rồi vàng chẳng để làm gì, giết thời giờ vô vị sáu thằng trông cái kho sắp sập. Thằng Hội dân Đông Anh, làng đúc đồng truyền thống, lấy đất nặn nồi. Đắp lò hun than. Quạt quạt thổi thổi. Vàng cũng chảy ra. Phương khoe, có a xít, vài hóa chất nữa, tao sẽ lấy ra vàng mười tuổi. Đúc thành mấy thoi bằng ngón tay rồi lại bỏ đấy. “Giá như chúng mình đào được một nồi thịt kho hay một bao gạo trắng nhỉ?” Tôi nghĩ, khi một đêm đi gùi đạn về đói thót ruột. Đã hai năm, sắn trừ bữa nên hay mơ gạo, thịt. Hay nói món nọ món kia. Muốn chất đạm thì săn thú, bắt cá. Tiêu chuẩn bồi dưỡng sĩ quan, người ốm, thương binh là đạn. Mười viên đạn một quý! Mùa khô thú biến mất tăm. Đói quá hóa điêu. Hội bảo, bây giờ có, tao ăn hết bốn kí thịt luộc! Để qua ngày, cái bụng bớt bồn chồn, lấy cả cọng khoai ngứa dại nấu nhừ với nhúm bột cá. Rau tàu bay, độn vào bột sắn giả bánh khúc! Hôi mùi dầu! Lùng bắt tiệt cả chuột dưới gầm kho. Chuột béo nhẫy. Sao chúng sung suớng thế, no nê, phởn phơ, chí choé đú đởn suốt đêm? Giá mình là chuột? Mỡ từ những lũ chuột thui vàng ươm cháy xèo xèo trên dàn lửa. Răng nhe trắng ởn. Nước dãi nuốt ừng ực. Còn cái giống khoai dại dai như đỉa. Ninh mấy lửa, tưởng nhừ tướp mà xơ đầy, khi nuốt lắng nhắng vướng trong họng, phát nôn. Thế mà lại vớ được vàng! Thằng Hội treo cả sáu túi vàng lên cái cần cối giã sắn. Nhờ sức nặng của vàng, sắn thành bột làm bánh nhanh hẳn lên! Rồi cũng chẳng đứa nào tha thiết với vàng nữa. Thằng Bảo dọa: “Đời lính, đi trận, vớ vàng xui lắm. Tụi mình, thế nào cũng có thằng chết!” Nó đi trước tôi có vài tháng nhưng hay ra giọng cựu binh ở Tây Nguyên. Nói tới chết thì ai chẳng sợ. Có kiêng có lành. Tự nhiên, những túi vàng ám ảnh cả bọn về những cái xui xẻo ngoài trận mạc vốn thường nhật như cơm bữa. Nửa năm sau, bất ngờ có lệnh rời khu kho vũ khí đã rỗng. Mặt trận chuyển hướng. Lại xuyên rừng. Cái đời lính căng hải(6) suốt năm, suốt tháng. Vứt mẹ nó đi! Báo lên trên cũng chả ai để ý tin chuyện có thực. Thêm rách việc! Năm trước, bộ tư lệnh bị vố lừa vụ “người rừng” nên các bố cảnh giác. Thôi, cho vào hang đánh dấu. Biết đâu nay mai có đứa sống mà tìm. Ra trận súng đạn là chính. Đi trận ăn sướng hơn trông kho. Thay vì cái thứ vàng vô tích sự, chỉ mang cái xui tới, là tám bơ gạo, cá sấy và thịt nai khô. Lương khô BA hai phong. Mì chính nửa lạng. Sướng thế, bỗng chốc dồi dào thế. Chỉ tội, gạo mới lĩnh mà lúc nhúc bọ đen tanh tách nhảy. Bảo về đơn vị cối. Còn lại về bộ binh. Chúng tôi đi cùng đất tới Sài Gòn. Hội sau mất tích. Nó mất tích kì lạ. Kì lạ như bí mật của câu chuyện nó thổ lộ. Trước trận cuối cùng, nằm ở Mũi Lớn, nó hỏi tôi, hòa bình rồi về đâu? Về Hà Nội chứ về đâu! Nó nhăn đôi lông mày rậm đen nhánh, thốt lên: “Ông còn có nơi về. Đây chẳng biết về đâu?” Tôi gạn mãi, nó dặn đi dặn lại không được kể lại chuyện nó. Bắt mang danh dự thằng lính ra thề. Gia đình nó có hai anh em. Thằng anh vừa cưới vợ một tháng, xung phong đi bộ đội. Khi bom Mỹ bắt đầu đánh xuống miền Bắc, thanh niên tòng ngũ như trẩy hội. Đa số chúng tôi đi bộ đội diện ấy. Hội khi 17 tuổi cũng đi nhưng không như thế. Nhà có người đi rồi, chú nó chủ tịch xã. Ai bắt nó đi! Xung phong cũng khó. Anh nó đi một năm, hai năm, ba năm biệt tin. Nó ở chung với chị dâu và bố. Một bữa, đi cầy về trời mưa tầm tã. Bố đi họp dưới huyện. Chị gọi em vào xê thóc tránh dột. Chái nhà hẹp. Đụng chạm. Quần áo ướt bết da thịt, cơ thể phô phang trần trụi, khêu gợi. Hơi thở, hơi nóng từ hai con người hừng hực bốc ra. Chị dâu, con gái thơi thới, vừa biết mùi trần tục mà chồng đã vắng xa biền biệt. Thế là xảy ra chuyện động trời. Nó nghẹn ngào nhớ từng chi tiết. Em cũng chả biết sao lại thế. Em mới mười sáu tuổi... Chị em kéo tay em ấn xuống, nắm cái ấy. Chị đè nghiến em dưới nền đất. Lăn lộn. Hổn hển. Hai con chó liếm láp, cắn nhau vội vã. Ăn vụng. Làm liều. Miền trung du, tổng động viên, nam giới như mì chính cánh. Chị dâu thoả mãn, búi lại tóc, ưu tư nói: “Chú giống anh như đúc. Đi, đứng, cười, mùi nách...” Mấy tháng sau nó luôn tránh cái nhìn của chị. Dứt khoát không nhìn chị. Có thế thôi mà chị nó chửa. Cắn lưỡi không khai ai làm. Vợ bộ đội đi Nam chiến đấu cho làng nước mà chửa!? Lỗi ấy tày trời. Ông bố Hội gọi bố đẻ chị dâu sang. Hai người già uống rượu. Trói con họ vào gốc cau. Cạo trọc đầu. Nửa đêm Hội đứt ngủ. Tiếng la. Chửi, thề độc, kể lể của hai người già đều góa vợ. Tiếng khóc của chị. Gần sáng, nó lẻn ra, liều cắt trói. Cứ cầm tay nhau mà chạy. Lang thang lên tận Điện Biên. Rồi mẹ tròn con vuông. Nhưng lương tâm day dứt. Suy đi nghĩ lại, Hội quyết chí đi tìm anh thú tội. Chỉ có gặp anh thú tội rồi chết. Đơn giản hoảng lên nghĩ vậy. Đi bộ đội. Mà chỉ xin đi B3. Vào tới B3 biết anh nó hy sinh ở Kontum. Thế là nó âm thầm nuốt nghẹn câu chuyện riêng, lì lì sống dở, chết dở. Hoà bình tới đít chợt nhớ ra ngày trở về. Về đâu? Mặt mũi nào về làng? Người ta đã nguyền rủa bố nó cho đến phải hộc máu chết. Nhà vô phúc! Tuyệt tự, chết đường chết chợ! Về với chị nó ư? Giá như anh nó còn mà tha tội. Hội đã muốn chết trăm lần mà chưa chết được. Bom đạn tránh nó, sự sống hành hạ từng đêm không tha. Buổi ấy tôi chả biết khuyên nó thế nào. Tôi nắm bàn tay nó trong đêm tối. Nghe nó khóc. Rồi, đêm sau tiến vào Sài Gòn như cơn bão. Trận ấy mấy lần Hội toàn nhận những nhiệm vụ nguy hiểm nhất. Chẳng chết được. Sống nhăn răng. Xong, trung đoàn lấy hai ba tổ quay lại mấy vùng đóng quân cũ đi thu gom liệt sĩ. Chả ai muốn làm việc gợi đau ấy! Nó xung phong đi. Nghe tin công việc kết thúc là nó mất tiêu trong rừng. Người ta tìm thấy võng, ba lô của nó treo gần con suối. Hổ, thú dữ, bom mìn, sốt rét... Ai biết điều gì đã xảy ra với Hội? Nó đi đúng gần cái vùng vàng xưa. Thôi, nó đi là phải. Sống mà thế thì chết là về, yên, được tha thứ. Thằng Phương thì tiêu trong lần đánh đèo Tuy Hoà. Lúc quàn nó, thấy hai thỏi vàng trong túi cóc. Anh em cho cả vào ni lon gói chôn. Tôi cắn cỏ lạy nó phù hộ và hứa không lộ chuyện vì sao có hai thỏi vàng. Có thể nó là thằng xuống âm phủ xông xênh! Bao nhiêu năm trôi qua, thiên hạ nói đến tiền, vàng làm tôi chảy nước dãi. Thì mình cũng từng có từng ấy vàng. Ba bốn năm tôi đi tìm thằng Bảo giữ cái bản đồ. Sau hoà bình, đứa chết đứa sống. Chả ai biết cái đống vàng ấy. Mỗi lúc bí tiền, con ốm vợ đau. Lại thấy lúc người ta xe ngựa, võng rạp, trong khi, quay đi quay lại, nơi tôi làm việc toàn cát. Cát day dứt tôi. Lại nhớ vàng xưa. Nhớ thời bom đạn, đồng đội sống chết bên nhau, chiến thắng, thất bại, no, đói sẻ chia. Mấy lần có ý tìm Bảo. Nó mất tiêu như thú mùa khô, rừng khộp.. Đã chán tìm thì gặp nó ở chân cầu Long Biên. Mồ hôi nhễ nhại, cha con đủn xe thồ hai cái sọt ăm ắp xu hào, cà chua leo dốc. Nắng hanh chiếu chếch. Lệch lạng hai bóng in trên trời xanh, hằn rõ bóng thằng cụt đẩy xe làm tôi chạnh lòng, vịn tay đẩy giúp. Không ngờ lại là thằng mình tìm suốt mấy năm. Bỏ gánh xu hào cho thằng con đem bán. Hai đứa vào uống rượu, lòng lợn gầm cầu. Xơi hết cả hai sọt bự rau chợ tết. Sọ nó có miếng nhựa phập phồng theo nhịp thở, mềm mềm thay cho miếng xương bị đạn chọc vỡ. Nó chả nhớ gì cả. Nhưng tôi nhớ. Sự mơ giầu làm tôi nhớ. Trí nhớ của tôi giúp nó trở về với dĩ vãng. Thôi bỏ mẹ! Chúng mình giầu to rồi. Nó hét lên khi tôi nhắc chuyện cũ. Thiên hạ đánh mắt nhìn, tưởng hai thằng điên mới trúng mánh. May quá, nó vẫn giữ tấm bản đồ quân sự ghi dấu chốn ấy làm kỷ niệm. Vâng, chúng tôi là lũ mạt hạng, đói đường của thành phố này. Thế nhưng lũ chúng tôi sắp giầu to! Để rủ rê, thuyết phục cái thằng dở khùng ấy cũng chẳng dễ. Chủ nhật tìm tới nhà, nó lại hỏi: “Bản đồ nào nhỉ?” Đến tên tôi nó còn nhầm lẫn lung tung. Lúc thì bảo Sinh, lúc thì “Minh ơi.” Lại, mày có gặp thằng Tam không? Tôi quát: “Tao là Sinh. Mày nhầm thằng Minh nào? Tam nó chết ở bãi Cam rồi mà!” ừ, ừ. Bảo gãi cái đầu đám lởm chởm tóc, đám mông mốc trơ da như trảng rừng bị B52. Cái lứa chúng tôi ra đi suốt hơn mười năm thủa ấy, bây giờ còn mấy ai? Lo sống chưa xong thì lo nhớ làm gì nhiều? “Bố cháu dở hơi ấy mà. Chú chấp làm gì!” Thằng con gã, cao tới mét bẩy. Chân tay xuơng xẩu, cơ bắp. Vợ Bảo đi ra, đi vào hóng chuyện. Thoắt một cái mâm thịt gà bưng lên giữa chiếu rách trải giữa nền đất. Gà ở đâu ra? Gà nhà mình chứ gà nhà ai! Người đàn bà, vai so dúm dó, một bên đít to như lồng bàn, bên kia hóp teo, trơ cả xương chậu, lăng xăng ấn vào tay chồng chai rượu cười xoe xoét. Bác sơi với nhà em bữa cơm rau! Vợ tớ đấy! Nó cũng ở Trường Sơn, lính VT471. Gặp nhau ở trại an dưỡng, nó rủ tớ về đây. Người đàn bà lườm chồng một cái. Trông chả tới nỗi nào! Người ta, khi có động thái sinh động hẳn lên. Con gái mà đứng yên giống như manơcanh. Thời xưa mày ấy, mắt này hẳn đỏm gái. Dân sốt rét nhiều, tóc rụng, tiêm Quynin lắm, mông làm mủ, teo hết cơ. Tôi cười: “Cơm rau?” “Ấy cái giống đàn bà nó thế đấy! Chả dấu. Dịch toi hết rồi, chắc nó lại mượn gà của mẹ nó. Năm ngoái giỗ bố, bảo nó làm con gà cúng, nó dãy như đỉa phải vôi. Kêu, ông có thích ăn thịt gà đâu! Ông thích ăn bánh đúc! Gà béo mướt lông, chùn đít, đéo thịt! Dành cuối năm bán mua trăm ngói chống dột thì cứ nói mẹ nó ra cho nhanh, lại bảo ông không thích thịt, chỉ thích bánh đúc! Chống dột phải chống từ cái bụng trước. Bụng không dột mới lo chống nhà dột. Đằng này bụng ông dột, bố dột, con dột. Giờ thấy hơi vàng bầy biện nhanh thế. Hì hì. Mọi bữa nó cấm cả rượu nữa. Không cay cay thì gặp nhau cũng nhạt thếch!” Tôi dàn hòa, ai chả tham chả ham. Có điều chúng mình là loại hết cửa, chả có chỗ để tham mà ham... *** Đoàn đi tìm vàng của chúng tôi gồm bốn đứa. Tôi được suy tôn làm đoàn trưởng. Thành viên thứ hai của đoàn là Trọng, con trai Bảo. Nó gối đầu lên cái ba lô đầy ắp thức ăn và ngáy vô tư như thổi bễ. “Cho nó đi cho biết thế nào là Trường Sơn!” Bảo hua cái chân cụt: “Nhất nhất theo chú ấy!” Tôi hỏi Trọng: “Tìm được vàng cháu làm gì?” Mua một cái chân gỗ cho ông già! Suy tính một tị nó tiếp: “Mua cái xe bò và làm cái lò gạch” Thế thôi! Đơn giản thế ư? Nó im lặng. Ước mơ của thằng nông dân như những giọt nước. Thằng em tôi ở quê lên Hà Nội, ra phố ngó đăm đăm mấy cái lốp xe. Nó chỉ ước mua được cái xe kéo bánh ô tô. Cái máy xát chạy dầu. Thấy nó phong phanh, tặng cái áo bông cũ. Cười xỉ xả: “Về chữa lại cho bu cháu!” Người thân, ăn no, mặc ấm và làm ăn! Thằng Bảo cụt không đi được, nó muốn lắm, đưa con ra bến tầu. Ngày xưa bố nó đưa nó đi. Bây giờ Bảo đưa con đi. Bảo hôm nào khác gì Trọng bây giờ. Trẻ. Khuôn mặt đầy. Tóc dầy xanh. Má lơ thơ tơ măng. Bàn tay chai vì đào hào và bắn súng. Thế mà sốt trận, đói ăn... rồi thời gian và cái chân cụt, cái đầu vá nhựa. Nó sắp xuống lỗ rồi. Có người kiểm soát vé tới. Thằng Viên làu nhàu nhổm dậy trên võng dù Mỹ. Đây là người thứ ba trong đoàn. Viên kín đáo. Dáng nho nhã, nhẹ nhàng. Mắt sắc, tai dầy, ép nhẹm vào sát sọ. Sách tướng viết, dấu tai là cách của kẻ làm được chính trị. Thế mà gã lại là dân làm ăn? Nghe nói, gã từng tốt nghiệp tổng hợp văn. Đi dạy học, sau bỏ nghề, chạy chợ. Bôn ba lắm. Bảo khoe: “Thằng này cái gì cũng tường. Nó tới đây mua đất trong làng. Thương mình lắm. Có lần thiếu tiền, nó rút ngay hai trăm ngàn biếu nhưng mình đếch nhận”. Viên chưa vợ, ghét đàn bà nhưng lại biết kĩ càng về gái điếm. Đấy là Bảo nghe hơi nồi chõ kể lại. Đêm, Viên trầm ngâm uống rượu. Ngày thì không. Khói thuốc xanh bay thơm phưng phức, hắn hay hỏi mọi người. Lo cho từng miếng cơm ngụm nước. “Mạo hiểm phiêu lưu lắm! Nếu không tìm thấy nơi ấy là cậu mất toi năm chỉ đấy” Tôi bảo gã. Gã cười, chém tay vào không khí: “Một sấp, một ngửa. Tiếng reo này là ù! Trên đời, nhất liều, nhị liều. Được, thua, giặc hay vua như nhau cả!” Tầu vào tới Thanh Hóa rồi. Quân thợ ảnh đang ngủ bỗng bật dậy. - Em vừa mơ anh ạ! Hắn dụi mắt. Quân là người thứ tư. Quân không ở đơn vị tôi, nhưng rất thân tôi từ hồi giải phóng thành phố Sài Gòn. Nó trẻ hơn tụi lính cũ cả chục tuổi. Khi tôi về nhà, nó còn sang Campot, sau lên biên giới phía Bắc choảng nhau nữa. Quân tháo vát. Nhà nó ở Khương Hạ. Làng ấy quanh năm muối cà bát. Nó về nhà thì cha mẹ chết sạch. “Năm anh chị em dành nhau mảnh vườn bằng cái mảnh chó ỉa làm em chán ngán chạy ra vừa học nghề ảnh vừa làm thuê cho ông cậu họ ở Bát Đàn”. Tôi tưởng Quân cũng khá. Ai dè nó nhăn như bị: “Chẳng bõ bèn gì đâu ông ơi! Chụp một cuốn, có thêm tí tiền đấy song cô dâu chú rể nó sai như sai chó. Thôi, trắng mặt ăn tiền, nghệ thuật nghệ thẽo gì! Em chưa có một ngày nghỉ”. Khi ấy, Viên chua: “Nghệ thuật nhất là nghệ thuật làm vua. Bắt cả thiên hạ theo, tất đầy nghệ thuật. Nghệ thuật các anh là đẹp. Thiên hạ thấy đẹp, lạ thì xem, ngó một tí, mấy ai theo”. Đúng. Thợ đám cưới mong chủ nhật, thứ bẩy như mong giỗ. Quân hơn ba chục tuổi. Da dẻ hồng hào. Là lính trận mà nó chưa dính sốt rét. Nó là lính đồng bằng. Quân chưa vợ. Nó bảo, lấy vợ mà không có tiền ư? Vợ nó khinh, con cái khổ lây. “Thứ rách như tổ đỉa, có vợ đẹp con ngoan nhan nhản ra đấy!” Tôi cãi. Vâng, nhưng có thằng nào tổ đỉa mà vợ con mát mặt không! Người ta quen sống vì cái tiếng, cái vỏ, cái nhìn thấy, sờ thấy. Nó nghiêm túc nói. Nó đúng! Tự nhiên tôi nhớ khuôn mặt luôn khó đăm đăm, buồn rười rượi của vợ tôi. Thế là, chỉ có tôi có gánh nặng ở Hà Nội khi đi. Vợ, con gái còn dại. Tôi ôm con vào lòng, trước khi ra ga vào miền trung. Từ Quảng Bình sẽ thuê xe ô tô vào Chooc. Viên bảo, năm 87 nó đánh hàng dép lê Lào, đã ở vùng ấy. Thung thổ ở bàn tay! Nó chỉ vào bàn tay mềm, mát như mỡ đông, dầy dặn, cười. Tại đó, chúng ta sẽ nhờ cánh buôn lậu dắt qua biên giới và vào đường Trường Sơn. Từ đó, có Quân sẽ tiện lắm, nó là bạn lính cũ, tin được, lại thạo bản đồ, xác định hướng nhanh. Lính thiện chiến trinh sát sư 320 cũ ngửi gió, tùy mùa, nhắm mắt cũng biết hướng nào!. Kế hoạch đi được vạch ra chi tiết. Thằng Bảo cụt phải ở nhà nhưng bầy binh bố trận không trật một khấc. Đúng là một cán bộ tham mưu cỡ trung đoàn. Cũng lạ! Một thằng khùng thế, mà khi vạch đường đi nước bước trở nên tỉnh táo lạ thường. “Hừ, mày là tổ trưởng nhé!”. “Rắn phải có đầu!”. Viên đế theo! Chúng tôi lục trang bị cũ ra dùng cho đỡ tốn tiền. Chỉ có Viên là phải mua sắm. Nó khoác nguyên bộ quần áo Mỹ. Áo Nato, quần túi đắp, ghệt Camel, dao găm Phần Lan bén cạo được cả ria cứng. Tăng võng toàn loại nilon nhẹ bấc của Nam Triều Tiên. Ba lô của nhà giầu ra trận bao giờ chả khác. Mùi hồ thơm, khác hẳn cái thứ nùng nục mốc, mùi cá khô của tôi và con Bảo, của Quân. Vợ Bảo làm cơm tiễn cả bọn. Trong khi rượu ngà ngà tôi hỏi Quân, mày có vàng rồi, làm gì? Quân muốn một cái Studio với biển hiệu ảnh Viện Nguyễn Quân thật lớn màu da cam. Em sẽ thuê người. Sẽ cho bọn “thầu giầu” làng ảnh biết lễ độ. Mình không có tiền, mãi mãi làm thuê. Nhục lắm. Thằng Viên tủm tỉm: “Thế là biết! Đã nhục, cố mà thành chủ. Bé cũng là chủ, lớn cũng là chủ. Chủ lớn mới tránh được đời o ép. Muốn làm gì cũng có tự do. Muốn tự do phải có nhiều, thực nhiều tiền!” Được. Một trăm cây vàng lo được chứ gì? Tôi bảo. Quân cười: “Nhiều quá!” Cậu sẽ có 100 cây vàng! Hai đứa cười hoang hoác, tưởng rung cả trời. Quay sang Viên, tôi hỏi, còn cậu? Tôi ấy à! Chơi. Chơi cho hết kiểu chơi. Hắn cười hào sảng. Tôi không tin lời Viên khi ấy. Nó có phải thiếu tiền như cánh tôi đâu! Bỏ ra một cây cho chuyến đi, dễ như trở bàn tay. Thế là còn tham vọng giầu nữa. Dường như biết tôi nghĩ gì, hắn nói: “Ông anh tưởng chơi cũng dễ hả. Ngõ ngách lắm. Mỗi thời một kiểu. Chơi tiền là khó nhất. Siêu nhất!” Tôi thì rõ rồi. Tôi sẽ thoát khỏi cái nghèo đay nghiến. Sửa nhà, nuôi con ăn học tới nơi tới chốn, chứ không học vớ học vẩn, dang dở đời tôi. Tôi sẽ mua xe máy tàng tàng, khỏi phải hàng ngày sang tận bãi bên Gia Lâm, lọc cọc đạp cái xe khung Sài Gòn mang từ hồi giải phóng, lắp phụ tùng nội, nặng như cùm. Tầu tới ga xép nữa rồi lại vùn vụt chạy. Tiếng rao đêm bơ vơ của đám trẻ ở lại sân ga. Tôi hỏi Quân: “Mơ gì?” Quân xúc miệng òng ọc, rồi nhổ phóng ra ngoài cửa sổ. Bụi nước li ti bay ngược lại. “Em mơ thấy chúng nó bắn vào toa tầu.” Những đụn khói hình nấm tung lên sau tiếng nổ trầm. Mảnh bom xoe xoé réo. Bọn F4, F105, F8h thay nhau bay chéo cắt xuống đoàn tầu nhiều đợt bom giây. - Em chạy ngược. Anh chạy xuôi. Chùm lửa sáng trắng khạc ra từ họng súng sáu nòng bên hai cánh bay bắn dọc con tầu. Đạn trên dưới bắn nhau rát tai. Mấy trăm người dân, lính chạy tóe ra hai bên đường như đám ong bị chọc tổ. Người ngã xuống mặt đất như đốn chuối. - Em bảo, về thôi. Vàng đâu mà tìm. Lại thấy những bụi cây lúp xúp bên Campot. Mỗi bụi có một họng súng bắn lén. Mìn ba râu, lá lúa, mìn nhẩy rình rập từng bước đi trên đường mòn, trên mặt đất, dưới gốc cây thốt nốt đang ứ đường mật từng thớ gỗ, mạch cây. Quân kể tiếp : ‘‘Sợ quá chồm dậy. Đã tới Thanh Hóa rồi à? Nhanh thế? Ngày xưa vào tới Vinh, phải hết năm ngày đêm!” Tôi đứng ở cửa sổ. Ngoài đồng kia, trong đêm tối, hình như có bọn trẻ đã nghịch lửa, tro bụi giờ sót lại leo leo cháy trong đêm. Mấy đám đỏ lốm đốm, thỉnh thoảng gió thốc lên, bùng lửa từ tro tàn! Toa đen bịt kín, đám lính trẻ nằm như xếp cá. Ho khục khặc. Tiếng đánh diêm hút thuốc lào xoèn xoẹt. Trong đêm, lính thức và yên lặng. Chỉ có tiếng sắt thép đều đều, chan chát va đập như tiếng đóng đinh dồn dập vào quan tài trong hẻm núi. Và, những khung cửa cứ vùn vụt trôi mãi về phía Nam. Hình ảnh trong cửa sổ trôi ngược về phía Bắc. Bầu trời lỗ chỗ qua mấy chục lỗ thủng trên nóc toa bị đạn xuyên qua từ ngày nào. Thi thoảng lại có tia chớp từ xa lắm, nhằng nhằng và lát sau dội về tiếng ì ì ầm ầm làm rung nhẹ miếng kính vỡ - Mơ hồ, xa xăm. Ven cái ga sắp vào Vinh, lố nhố bóng người dọn dẹp. Mùi cỏ, nhựa cháy, khăm khẳm mảnh thịt sót... Tiếng gọi. Những cáng thương hối hả nối theo nhau dằng dập, thình thịch. Đất dội tiếng chân người. Tầu hỏa hôm nay ban ngày kễu kện chạy. Ban đêm thung dung đèn sáng, hỉ hả kéo còi. Mùi nước hoa của đôi trai gái vừa đi qua bay dọc toa. Tiếng khúc khích. Tiếng nựng trẻ êm êm. Mùi cà phê thơm ngào ngạt từ toa nằm bọc da mới bay lại. Những bao hàng đủ mầu trong các toa tầu. Chúng tôi lẫn vào đám buôn chuyến. Chả ai thèm hỏi một lời. *** Trọng cứ đặt lưng là ngủ. Mới đi bộ hai ngày mà nó đã nhức vai đau chân. Tôi luôn đi cuối cùng. Mùa khô. Chẳng phải hành quân dưới mưa. Vả lại cuộc sống lầm than bấy nay làm tôi, tuổi chẳng còn trẻ, vẫn quen đi bộ. Cái kinh nghiệm đắc dụng nhất, có lý nhất cho thằng lính trở về là thuật đi bộ! Vừa đi vừa nghỉ ngơi bàn chân, thư dãn trong giầy. Giữ hơi, khí lực khi vượt dốc. Đái vào chân, ngâm chân nước muối mỗi tối... Tôi trở về với mùi rừng. Mùi suối. Mùi ngái ngái của cỏ tranh khô nỏ... Tự nhiên, trăm thứ dội về, thơi thới quên cả khó nhọc. Tôi đưa ra bản đồ. Khi nào bắt tới gần Mường Phìn là rẽ ngược chếch đông nam tám độ - Quân xác định. Từ đấy phải hơn một tuần sẽ tới thung lũng giấu vàng. Viên suốt mấy ngày không nói gì. Nó đi lầm lũi, lầm lũi ăn, lầm lũi hút và uống thứ rượu màu ngà thơm lạ đựng trong bình tông Mỹ. Nhưng quả thực tôi không chê ở Viên điểm gì trong mấy ngày hành trình. Nó chẳng một ngày ở lính, thế mà nó chịu nắng, chịu rét, chịu đi không than một câu. Có thể cuộc sống nó giang hồ, rèn nên bản lĩnh như người lính chăng? Thậm chí thằng Quân còn lười, Viên không vậy. Nó dậy trước mọi người, hỏi tôi tỉ mỉ, cách cắm cây làm kiềng sao cho vững vàng, không cháy đổ nửa chừng. Cây nào tươi, tước ngay có thể nấu dưới mưa. Nó tự tay pha chế, nấu nướng làm ai cũng ăn ngon miệng. Khen, nó cười, hay ăn thì lăn vào bếp thôi! Sao dân chơi, dân làm ăn mà chịu khó thế? Biết nhiều, chả bù cho tụi tôi hồi nào bằng tuổi nó. Sự để mắt tới nó của tôi chuyển hướng sang Quân vì vừa về nhà chưa hết mùi lính mà nó đã cứ lánh việc cho người khác. Bực nhất là đi được hai ngày tôi phát hiện ra thằng Quân không phải Quân thời ở với tôi giải phóng Sài Gòn. Nó luôn lấm la lấm lét khi dù chỉ một bụi cây bên đường có con thỏ chạy qua, con chim cút vừa thấy động vụt bay lên. Tôi bảo, mày thế nào vậy? Quân mặt dại như đi táo, cười chóm chém chữa ngượng, dạo này em bị thiếu máu, nên hay giật mình. Thiếu máu cái mẹ gì! Ngày tôi với nó vào Đồng Dù, ở bên cạnh nhau, hồng cầu của tôi có hai triệu. Còn nó bây giờ hồng hào như lửa thế kia. Biết thế! Tôi chợt nghĩ. Nghĩ mà ngượng thay cho nó với thằng Viên. Thế mà Viên chả coi thường Quân tí nào. Hôm leo dốc đỉnh 364, khi biếu không chúng tôi kẹo sâm Nam Hàn để ngậm, Viên cười tươi nói: “Quân ốm nhất đoàn nhưng tinh tai, tinh mắt, tao cho hai viên.” Ngượng quá. Thế mà từng lính chiến! Lúc trước ở biên giới, Viên đi một lát mang về người dẫn đường. Một thanh niên gầy, khô đen như cục than cháy, hai hốc mắt thâm sâu như vừa từ dưới mộ chui lên. Họ lạnh lùng trao đổi ngắn gọn. Trả tiền ngay sau buổi vượt qua biên giới. Tôi nhận ra đường ra trận ngày nào. Ngầm chữ A. Con suối cạn. Hang đá chôn mấy cô gái Quảng Bình. Tiếng khóc râm rứt không nguôi mãi ba bốn ngày mới đứt. Mặt đất đầy mảnh bom, mảnh rocket trộn lẫn trong bụi. Con đường tuyến sinh tử bụi mát lạnh ngập tới bắp chân. Cái xe Jin 130 chềnh ềnh giữa ngầm trọng điểm. Mở cửa, đổ nghiêng ra người chiến sĩ lái. Áo giáp nhôm máu đen. Mắt trừng trừng. Bàn tay trái giữ chặt vô lăng. Phải bẻ gãy ngón cái mới lôi được xác anh ra... Núi đá vùng này xưa lắm vượn đen! Bây giờ đâu hết? Cỏ, lau, sậy, rừng non vươn xanh lại ngút ngàn, che lấp đường ô tô cũ, cố vươn lên khỏi những thân cây cháy, cành không lá, đen đúa chĩa lên trời, thi thoảng sót lại. Nhiều khi vạch lối, phát đường mà đi. Có tiếng ô tô xa lắm, ì ầm bên trái. Tôi nghe như ong ong tiếng máy bay Ov10 lượn suốt đêm ngày trên đầu. Đêm, máy bay C130 ì ì nặng tiếng săm soi. Tôi chỉ núi, chỉ đồi, chỉ rừng kể cho con của Bảo. Thằng bé ngây mắt nhìn. Bố cháu ngày xưa như thế ư? Nó hỏi. Tôi bâng khuâng: “Bố cháu nhanh như cắt. Tinh như cú”. Khungsedon, đi gùi gạo. Sẩm tối lọt vào ổ phục kích. Sương từ thung lũng trào ra dầy đặc bưng mắt. Thằng địch bất ngờ nhao ra chỉa súng vào ngực. Bảo né người nháy cò ba viên, tiêu diệt ngay hai tên bên trái. Tôi thoắt lật, báng khẩu cối cá nhân đánh bay lên trúng hàm của thằng lính chĩa súng. Cú đánh quá gần. Máu phọt đầy mắt, miệng, nóng, mằn mặn. Bảo hô: chạy! Hai đứa dong hai con lợn. Bỏ! Lợn cũng chạy mất tiêu. Ba lô gạo nếp nương vừa mua của dân dính đạn chảy hết không còn một hạt... Đi toi hai ngàn năm trăm Kíp(7)! Năm ấy cả đại đội mất tết chửi hoắng mấy thằng đi lấy thực phẩm! Viên bên tôi cười. Dường như nó biết tôi nghĩ gì. Nó xoa bàn tay mềm vào lưng tôi, nhồn nhột, như ý bảo: “Ông bạn già rồi mà nhớ dai!” Quân bắt đầu có vẻ sốt ruột. Nó hay hỏi, sắp tới chưa? Mới đi có năm ngày, sắp tới rồi. Nhìn bản đồ mày biết cả còn gì. Tôi sẵng! Việc này, thú thực tôi đã bàn kỹ với Bảo cụt khi ở nhà. Chỉ cho tất cả biết hướng đi thôi. Còn vị trí chính xác nơi dấu vàng chỉ có người chỉ huy nắm. Ấy là ngày xưa ở mặt trận vẫn như vậy. Đêm rừng. Khí núi túa ra rất lạnh. Buổi tối, phải đốt lửa sưởi. Mùi săng lẻ bắt lửa, mùi thơm lá rừng, hoa cỏ nỏ, tiếng tanh tách cháy nổ bắn ra. Quân mang theo ít rượu nếp. Chúng tôi lùa được con khỉ già, lông nham nhở, cụt một chân khi nó dạn người nhón nhén ra nhặt cơm vãi. Trọng nhìn thấy. La lên. Bốn người đuổi nó mãi, dồn vào góc suối cạn. Tôi vồ trượt. Viên chém một nhát, nó giơ tay đỡ. Ngọn dao bén đứt lìa bàn tay, theo đà băm giữa mặt. Con khỉ già gục xuống ngáp ngáp. Thui, bóp mắm tôm nướng. Trọng bưng mặt. Thịt dai ngoách như chão. Có lẽ nó là thương binh từ hồi bom đạn? “Trường Sơn chả tới nỗi nào/ đã chơi khỉ lại lạc vào giữa mâm”. Viên ứng khẩu một câu lục bát. Nhân bữa ấy. Tôi kể chuyện săn thú của Bảo cho Trọng. Chuyện đánh nhau. Trọng luôn hỏi, thật thế hả chú? Tôi chân thật, đấy là một thời, muôn người như một. Viên cười, chả như một đâu. Tôi bảo, không như một sao thằng Mỹ bỏ chạy. Đâm đầu vào bụi! Viên cười. Tôi không muốn căng thẳng, im lặng. Bây giờ cuộc sống làm cho khó hiểu những điều đã từng có thực xảy ra trong chiến tranh. Viên không muốn tin hay chẳng hiểu mà tin? Mà sao con người nó nhiều mặt thế? Tốt thì như một vị thánh mà ngang thì đúng là cua. Trọng vẫn ham nghe, lại hỏi, đi mãi như thế, lâu như thế mà chú và bố cháu chịu được? Chịu được! “Không chỉ là chú và bố cháu, sau chúng tôi khi ấy là cả dân tộc.” Tôi nghĩ như vậy nhưng im lặng. Suốt tám ngày đi không có gì xảy ra. Thi thoảng gặp vết chân voi. Bãi phân voi to bè còn nghi ngút khói, chua hăng. Mùi cây bị voi chà ngái hắc. Tôi dặn Trọng: thấy voi chớ chạy. Nó khôn lắm, biết ai hiền, ai ác, ai định hại nó, ai không. Cứ thủng thẳng mà đi! Mùa mưa 72 đói rã họng. Lệnh tiểu đoàn cho bắn một con voi. Thằng Sáu thiện xạ, người Nùng Cao Bằng nhằm bắn con lớn nhất. Con voi bị đạn gầm lên. Sáu chạy. Voi chạy nhanh hơn người. Sáu tụt xuống cái hố củ mài mưa rừng đã xói rộng, lọt thủm hết người. Voi thò vòi vào. Sáu bắn. Thò voi ra. Bắn! Mười ba phát cả thẩy. Không thò vòi nữa. Nó đi vòng quanh Sáu. Dậm! Nghe tiếng súng, người ở nhà đinh ninh có cái khênh, tìm tới. Con voi một ngà đã đổ ềnh, giấu mặt vào bụi lồ ô rậm rạp. Tìm mãi không thấy Sáu. Thấy khoảng đất rừng voi chà nát. Đất lèn đầy vết chân voi. Con chó đại đội cứ cắn nhặng trên mảnh đất ấy. Đào lên, thấy Sáu chết ngồi. Mắt trợn ngược, nước dãi, sắn, rau rừng từ dạ dày ọc ngược ra lẫn máu ướt chua áo Tô Châu. Tay ôm súng. Mắt không nhắm, ngược lên không thấy lòng đen. Còn hai viên đạn. Một lên nòng, một trong ổ. Nó bị lèn sống về với ông bà. Sắp tới vị trí cần tìm, tới ngày thứ chín thì có chuyện. Thằng Quân đi ngoài, hoảng hốt la có người rình nó, ôm quần chạy, thụt chân xuống hố mối. Có quái gì đâu, nó đi trúng dưới cây, chỗ con cầy hôi ăn gắm vừa nhao qua. Tôi nhìn thấy rõ ở cái gốc cây trong bụi rậm những hạt gắm lẫn phân cầy hôi còn bốc khói. Mãi sau này tôi tự hiểu, thời nó ở Căm Pot thoát chết bốn năm lần bị phục kích, bắn trộm nên hư như vậy. Một cành cây chọc qua lớp vải, đâm xiên vào đùi Quân. Máu tươi chảy đỏ xuống gót chân. Băng bó xong, tôi hỏi có đi được không. Quân gật đầu. Tôi biết, nó phải cố. Nó chống cái gậy le, khập khiễng đi theo đoàn. Tốc độ chậm hẳn lại. Nhưng khi ấy sự chịu đựng phi thường của nó cho kịp đoàn tôi lại thấy thằng Quân của ngày ở Đồng Dù. Buổi tối, tôi ngồi bên đống lửa xem lại bản đồ, kiểm tra những điểm cao, chỉ cho Quân và Viên. Nếu bình thường là ba ngày nữa tới nơi. Chúng ta cố gắng năm ngày! Quân gật đầu. Nó nghiến răng theo cho kịp đoàn. Viên nheo mắt nhìn Quân. Thực phẩm đủ cho hơn mười ngày nữa. Tôi rất nghiêm khắc chia ra từng bữa như hồi ở lính. Nhưng nếu cứ đi chậm thế này, phải giảm khẩu phần ăn là cái chắc. Còn lượt về nữa. Ngày hôm sau chân Quân sưng tướng lên. Sáng dậy, nó cà nhắc ra khỏi võng. Nhìn vết sưng của nó, tôi thương quá. Biết làm sao bây giờ. Tôi bảo, hay là để bọn anh võng. Quân nói, không! Mặt nó đanh lại. Lại đi. Nhưng thực ra là thằng Quân lê. Bắt qua ngọn núi nửa mưa, nửa nắng. Được hai tiếng, mù sương bắt đầu thoang thoáng bay lởn vởn rồi lên càng cao càng đặc dần. Nước đọng thành từng hạt nước lớn từ lá rừng trút xuống lộp bộp. Con đường lởm chởm tai mèo ẩm ướt, rồi bắt đầu trơn nhầy rêu. Quân thực sự không thể bước được. Tôi mang ba lô cho nó. Cố lên mày! Ba tiếng nữa qua đỉnh. Bên kia là nắng. Gần thung lũng ấy rồi! Tôi phải đủn đít nó mỗi khi bước qua một tảng đá. Ba tiếng hành quân kéo ra chín tiếng. Trời tối sẫm mới lên tới đỉnh. Quân ngã vật ra xuống bên triền cỏ bên này núi. Thằng con Bảo tới bên tôi, hay là để cháu cõng chú ấy? Không được. Nếu mai cứ thế này sẽ làm võng khiêng Quân. Khiêng thế nào? Viên hỏi. Tôi chặt sẵn cái đòn, buộc võng vào, nói cho Viên việc võng thương, bệnh binh của chúng tôi ngày xưa. Viên bĩu môi: “Có cái bản nào gần đây không?” Không - Tôi chỉ bản đồ - phải một ngày đường. Ngày nào bị thương ở trận Boloven. Bốn đứa ốm võng tôi dưới trời mưa lụt sụt. Tôi luôn mê sảng. Tỉnh, nhìn lên chỉ thấy cái lưng đẫm mồ hôi và tiếng thở như chó chạy của thằng Long Hàng Chai. Nó chết hồi đánh trận cuối cùng ở Đồng Dù, cửa ngõ Sài Gòn. Một đại đội rằn ri địch bọc hậu của Lý Tòng Bá đã xơi tái hai nhăm chiến sĩ, trong đó có Long. Nhẽ ra Long không chết, nhưng nó nhẩy khỏi chiến hào, bắn vào toán địch định khử tôi. Đạn chả kiêng người bạn xả thân vì đồng đội. Nó dính trọn cả quả cối cá nhân bắn thẳng. Đầu bay mất tiêu. Vết cắt gọn như chặt củ chuối. Bọt máu phun ra sủi phì phì, đùn thành bọng máu đỏ tươi từ cái cổ họng đã mất thủ cấp. Thằng cáng đi sau là thằng Chiến Dùng. Gọi tên huý là Chiến Dùng vì với nó, bất kì cái gì cũng đút vào miệng được. Tất cả “dùng được!” Đấy là châm ngôn cửa miệng của nó. Một thằng cao gần mét bẩy. Hồi an dưỡng nặng bẩy chục cân. Khi ấy, còn độc bộ xương lênh khênh thì chóng đói hơn thằng bốn chục cân. Thế là nó phải nhét tất cả cái gì có thể nhét vào bụng. Khốn nạn! Nó vớ phải mỗi cái nấm sót mà tái tím, co giật. Cậy miệng, nhét cái ống nứa, đổ òng ọc cả nửa lạng đường hòa nước đậu vào họng. Lại móc họng, lấy lông công ngoáy cũng không cứu được. Hôm chôn, mùa mưa lấy đâu ra ô tô chở quan. Lồ ô ghép làm quan. Ni lon trải làm chiếu, ba lô làm gối, võng làm chăn. Tôi đút vào túi quần cho nó nửa thanh lương khô BA - 70, quỳ thả một nhúm đất khấn thầm. “Mày sống khôn chết thiêng, cứu anh mấy lần, phù hộ nốt cho anh sống cho tới ngày mai”. Làm thằng lính biết điều chỉ cần biết ngày mai. Ngày mai tức không phải ngày hôm nay. Ngày mai thì bao giờ chả có. Tôi chỉ dám xin khiêm tốn thế cho nên trời muốn tôi sống suốt cả hơn mười năm bom đạn? Mặt trời sớm ra trên đỉnh núi no tròn bằng cái chảo vô tuyến lớn, đỏ sậm. Chim hót vang lừng. Gió lồng lộng thổi những đám mây tơ bay ngang. Thằng Quân kéo tôi ra chỗ quang, chỉ về bên trái. Giữa màu xanh ngút ngàn có làn khói mỏng bốc lên. Một mái nhà trắng bạc hắt nắng. Bản! Bản mới! Quân thận trọng đo la bàn. Khoảng ba ngàn mét! Chệch hướng mình đi. Từ đây tới đó phải một giờ. Anh ạ, đưa thằng Quân gửi lại đó. Viên giọng nhẹ như gió. Tôi ngần ngừ. Viên kéo cái chân Quân lên. Bắp chuối đỏ tím. Khéo hoại thư! Tôi lo lắng. Đêm qua, tôi đã chọc cho nó một phát kháng sinh liều cao. Viên lấy ra viên thuốc màu hồng, đưa miệng, bẻ răng đánh cắc. Đưa cho Quân một góc và bảo: “Nuốt!” Quân nuốt. Một lát, khuôn mặt Quân bớt tái. Viên lại lục mấy cái vòng bạc từ túi cóc ra. Từng này đủ nuôi ba thằng Quân cả năm. “Để nó vận động, nguy hiểm”. Viên nói đúng. Tôi hiểu. “Cả tụi quay xuống đó vậy!” “Không! Mình tôi đưa Quân là đủ. Anh chuẩn bị cơm nước. Tôi về ngay. Xuống dốc mà”. “Thế nào Quân?” Tôi do dự. Quân nhăn mặt. Sự đau đớn thể xác buộc người ta chọn thái độ. Bây giờ vàng có ý nghĩa gì? Nó gật đầu. Nó nhìn tôi: “Em khỏi là theo dấu đuổi theo ngay”. Tôi chân thành, không sợ à? Nó cười, lại không sợ rồi! Tôi nắm tay Quân. Tôi và Trọng nổi lửa. Hơn một tiếng sau Viên quay lại. Nó hổn hển kể: “Dân bản rất tốt. Họ bảo tôi, để nó đấy cả mùa trăng không sợ. Cái cán bộ đi tìm người thân cũng như chúng tao thôi”. Thế yên tâm rồi. Sẽ quay lại đón Quân sau! Viên xoa tay, tu một ngụm rượu. Cậu nói với họ ra sao? Tôi hỏi Viên. “Bọn tôi đi tìm hài cốt liệt sĩ”. “Bản có mấy nhà?” “Năm nhà. Từ đường Chín mới lên đốt rẫy mới”. “Sao không mua lấy con gà hở chú?” Viên mắng Trọng: “Gà qué gì nữa! Mày khi nào cũng nghĩ tới gà!” Từ đây tới đích cũng chẳng xa lắm. Thế mà hay. Khi quay về sẽ vào đó mua thêm gạo và thịt. Tôi thầm tính. Chúng tôi lại đi. Xuống dốc, cả bọn gần như chạy. Tôi phải nói hai đứa từ từ. Máu dộng nhiều xuống bắp là đêm đau đấy! Thoắt, mọi khung cảnh xưa cũ hiện dần ra. Cũng phải ba ngày sau mới tìm thấy ngã ba suối. Nhiều dấu vết bị thời gian xóa nhòa. Viên bám sát tôi. Khi quẩn quanh tìm vật chuẩn, Viên sáng dạ, trách nhiệm. Rồi cũng tìm thấy ngọn núi thấp và con suối. Viên nhao xuống ngã ba suối đầu tiên. Nó lặng lẽ sục tay vào từng hốc đá. Bụi vàng còn sót lại, bám lấm tấm mấy đầu ngón của hắn. Viên nheo mắt, ngắm. Nó liếm bụi vàng. Nó xoa vào mặt. Trọng hét lên nhẩy múa như trẻ nhỏ. Tiếng lanh lảnh âm vang cả núi. Lại nhặt được cái mũ sắt đã mục quai rỉ hoét. Tôi bảo, của bố mày ngày xưa đãi vàng. Trọng chụp cái mũ lên đầu có vẻ khoái trá. Con suối êm đềm chảy. Rừng cây và ngọn núi cũ vẫn thế. Trầm tư, bình yên. Tôi đứng lặng. Tôi mang mấy thẻ hương ra thắp vái tứ phương trên bờ cỏ. Tôi gọi. Chúng mày ơi. Tôi khấn hồn bọn bạn cũ. Khấn thằng Vượng, Chiến Dùng, Long Hàng Chai và Hội. Những kẻ một thời trẻ trai chưa hưởng xái gì. Những kẻ trót dang dở mùi đời, đầy đau khổ mà dám quên đi để chia sẻ nơi mặt trận... Từ đó tới hang giấu vàng nào có xa. Tối rồi. Tôi dẫn cả bọn vào kho súng đạn cũ. Còn dăm cái thùng đạn vẫn yên trong kho. Mầu xanh quân dụng bền, vẫn tươi, mặc thời gian. Dăm gói bộc phá. Kíp nổ, dây cháy chậm. Cái hốc chúng tôi nấu ăn tro than nguội lạnh. Đây là chỗ tôi ngủ. Đây là chỗ thằng Long, thằng Bảo, thằng Hội... Tôi sờ soạng. Tôi cảm giác như tìm lại được điều gì rất khó dùng ngôn từ nói được. Tôi nhặt được cuốn Văn Nghệ Quân Đội trên hộc đá. Đứa nào quên nhỉ? Tấm ảnh bìa, cô gái áo nâu, ngực căng đẹp tươi choàng súng trường! Hồi ấy chúng tôi đều như thế. Cô gái này bây giờ chắc đã lên bà. Gáy cuốn sách lâu năm khô hồ. Tấm ảnh la đà chao xuống nền hang. Một tờ giấy viết rơi theo. Giấy ố vàng, lờ mờ dòng chữ ghi bài hát: “Đánh cho Mỹ cút đánh cho ngụy nhào”. Trọng tìm thấy hai khẩu súng trường Hung bắn tỉa đầy mỡ trong cùng hang. Mấy khẩu súng ấy Long khuân về từ kho nát bên kia núi. Cái kho thời chiến tranh mới nhen nhóm. Thời bọn tôi, ai còn bắn tỉa? Tiểu liên AK 47 liên thanh thay súng phát một. Thùng đạn K44 vỏ thiếc vẩy cá trắng. Đạn vẫn ươm. Tôi lau mỡ đã ô xi hóa đen két trên khẩu súng, chỉ cho Trọng từ khóa nòng tới kính ngắm quang học đã mờ mốc. Phát đạn bắn thử ròn tan bay phá vỡ một chỏm đá. Chúng ta sẽ lấy hai khẩu này cho chuyến về để săn thú. Viên cầm ngay một khẩu, nạp đạn choanh choách. Nó học bắn ở đâu mà bắn xuya ra trò. Đêm ngủ lại hang súng. Lạnh buốt. Phải đốt bộc phá mồi cho gộc củi cháy mới ngủ được. Mùi thuốc. Khét. Thối. Hăng. Gần sáng tôi choàng tỉnh. Hình như có tiếng tru của chó. Tiếng tru miết lên thảm rừng, xa xôi vọng lên. Hay là mê ngủ? Hay là hương hồn đồng đội cũ gọi về? Ngày xưa bọn tôi hay gọi nhau trong rừng bằng tiếng tru chó sói. Tôi lay Trọng, mày có nghe thấy gì không? Trọng ngơ ngác. Viên bật dậy. Lắng tai. Không! Lại yên tĩnh. Qua vạt rừng cháy xưa là tới hang giấu vàng. Hai tiếng đồng hồ. Tôi đi đầu. Có tiếng chó sói tru thật. Rất gần. Quen lắm. Viên giật mình, bắn một phát về hướng động. Đạn đi cao. Tiếng rít căng. Yên lặng. Chỉ còn tiếng thông reo. Tiếng liếu tiếu rộ lên. Có người? Hay thú? Hay chó sói? Thây kệ. Nhanh! Tôi giục. Cái cửa hang rộng thế mà bây giờ bị cỏ lác, cây che gần kín. Rất lạ, vệt đường mòn trên con dốc, màn màn cỏ tơ, ngược lên vẫn rõ. Ai đã vào đây? Vàng còn hay mất? Tôi nhặt một que thuốc đạn pháo(8) dưới đất, đốt, dò dẫm đi vào. Cái hang này nông. Không sâu như hang súng. Cao hơn. Đây rồi! Năm túi đựng vàng bằng bao cát Mỹ dựng nguyên ở góc cũ. Còn một túi nữa đâu? Hay mình lú lẫn mất rồi. Những viên đá xếp quanh đã bị dỡ ra từ khi nào? Ai dựng ở đây nhiều thuốc nổ Tonit thế này? Lại dây cháy chậm từng cuộn và hơn chục hộp kíp. Ai? Hay lâu ngày lú lấp! Trọng nhao tới. Hai chú cháu run lên khi thọc tay vào đám vàng lấp loáng trong ánh sáng trắng, khói đặc của que thuốc đạn xèo xèo cháy. Tôi quay lại: “Viên ơi. Đây!” Tôi giật thột. Không thể tin ở mắt mình. Họng súng của Viên chĩa thẳng vào tôi. Mặt lạnh. Mắt lạnh. Rõ ràng hắn không đùa. - Không được động đậy! Khẩu súng của tôi để cách hơn mét. Tại sao ngu tới vậy! Ngày xưa vũ khí bất ly thân. - Chú Viên ơi. Chú đừng đùa! Súng có đạn. - Đùa hả. Tao bắn nát sọ mày bây giờ. Đá khẩu súng ra bên trái! Thằng bé xạm mặt. Nó từ từ giơ tay quá đầu. Men men vỉa đá lấy chân hất khẩu súng ra xa tôi hơn. “Cháu xin chú”. - Xin cái nõ c..! Mày ấn túi vàng vào các ba lô! Viên sấn tới thằng nhỏ đập cái báng súng vào lưng nó. Cú đánh dường như để rung dọa tôi. Trọng sấp mặt xuống nền đá lạnh. Máu ứa đầm đìa mũi, mồm. Tôi yên lặng. Mũi súng vẫn lăm lăm chĩa vào tôi. Tôi hiểu, cò súng bắn tỉa Hung rất nhạy: “Anh Viên, hãy cẩn thận”. “Tất nhiên là tao rất cẩn thận”. Viên cười. Tiếng cười trong hang âm âm như tiếng ma. Tôi điên lắm nhưng vẫn dịu giọng: “Anh Viên. Tôi hiểu. Nhưng chúng ta chỉ có bốn người. Số vàng chia ra đủ cho anh, cho tôi, cho tất cả giầu có”. Viên có lần nói với tôi nó phải là ông chủ lớn. Tôi không hiểu gì về chủ lớn. Viên bảo làm chủ phải biết điều khiển tiền mẹ đẻ tiền con, tiêu chuẩn đầu tiên là phải có cái đầu lạnh. Phải biết tiền không có họ hàng, anh em, bè bạn. Nhưng cùng phải biết làm như thương người ta, mến người ta, để người ta tận tụy với mình. Gặp vận phải nhập cuộc ngay - Viên than thở - Gặp vận tôi sẽ nhất định giầu. Không ngơ ngơ như bọn cò con, hơi tí thì run sợ. - Giầu có - Viên cười rất nhạt - Biết bao nhiêu là giầu? Chúng mày chỉ cần một phân là đủ, là sướng run lên rồi. Tao thì một cân chưa là gì. Thiên hạ có cả tỉ đô. Tao cần cả tạ, hai tạ. - Rồi anh sẽ từ từ mà làm ông chủ mà! Tôi cắt giọng Viên, thuyết phục. - Im đi. Ông biết gì. Các người đa cảm, thực thà, cả tin lắm và lúc nào cũng từ từ. Đấy chỉ là tư cách, là xưa lắm rồi. Bây giờ cần tốc lực ông anh ạ. Làm tốc lực, kiếm tốc lực và chơi tốc lực. Ông anh không nhìn thấy, mấy thằng hôm qua còn kiết lõ ra đấy, sớm hôm sau đã tễu tện ô tô bóng nhẫy phóng êm ru à? - Mày nỡ chiếm tất cả công sức của bao người chăng? Tôi sẵng giọng. - Không nhiều lời. Nói chuyện với anh chán bỏ mẹ. Làm giầu thì thằng nào chả dính máu. Không dính máu thì phải tưới mồ hôi của người khác lên tiền! Dỡ nhà người ta làm chuồng xí nhà mình. Hiểu chưa? Nào, thằng kia nhanh tay lên! - Viên. Hãy nghe tôi. Hãy để đức cho con cái. Chúng ta có bốn người. Quân sẽ biết tất cả nếu bọn tôi không trở về. Anh làm sao có thể một mình vượt qua hơn bốn trăm cây với số vàng này? - Đức độ! Ông anh hay nghĩ tới tâm hồn, đạo đức. Đạo đức để mình chết mục xương là đạo đức ma. Đạo đức để cha mình ốm không thuốc là đạo đức quỷ. Không có tiền thì lấy gì để thương ai? Thằng Quân nên xuống âm phủ mà tìm. Thế là rõ cả rồi. Thảo nào nó đưa Quân đi nhanh quá. Tôi không ngờ tới cơ sự này. Họng súng vẫn xoay hướng về tôi. Viên hạ lệnh cho Trọng lấy cái dây dù của nó vất ra định trói hai tay tôi. Tôi bảo không cần, khoác nặng thế này tôi làm sao đánh lại anh. Nó cười, thế thì biết điều. Viên ngồi xuống bên tảng đá. Chỗ Bảo vẫn ngồi chơi cờ năm nào. Nó lấy bình tông tu một ngụm rượu. “Chú Viên ơi. Chú cần gì lắm vàng thế?” Trọng vừa ấn vàng vào ba lô vừa van vỉ. - Mày thì còn ngọng lắm con ạ. Mày sống đủ như tao sẽ biết tiền để làm gì. Quay lại tôi, Viên gằn giọng: - Anh nên biết điều. Tôi sẽ suy nghĩ nên để anh sống hay chết. Nhưng nhớ rằng tôi bắn cũng xuya. Tôi tính. Thế là còn cơ hội sống. Tôi dẫm nhẹ vào chân thằng Trọng. Nó chắc hiểu tôi. Và, chú cháu sẻ vàng thành các túi nhỏ cho vào ba lô. *** Nhiều người thường tin vào số phận, không đặt cược tất cả vào ngày mai, bởi cuộc đời của họ có quá nhiều bất ngờ mà chưa khi nào có sự bảo đảm chắc chắn cho họ hôm sau cuộc sống thế nào. Có lẽ tôi nằm trong số người ấy. May và rủi. Đen và trắng. Sự đối nghịch luôn đan trộn, xen kẽ. Tôi cứ đinh ninh, rằng có hai phương án sẽ xảy ra. Viên sẽ buộc hai đứa chúng tôi mang số vàng tới một nơi gần đường bọn buôn thuốc phiện lậu qua biên giới, rồi sau đó bắn chúng tôi, một mình làm chủ số vàng ấy. Hai là nó sẽ thí cho mỗi đứa ít vàng và lặn tiêu. Nhưng khả năng thứ hai rất ít bởi nó đã đang tâm giết chết Quân để nhẹ gánh thì chả tử tế tới vậy. Nhưng có lẽ số phận chưa muốn tôi bi đát như thế. Hang núi bỗng yên tĩnh tới mức tôi nghe thấy tiếng tim thằng Trọng đập thình thịch. Chính khi ấy vang lên tiếng hô sắc nhọn như mũi lao bật khỏi dàn bắn nai của đồng bào dân tộc: - Bỏ súng xuống! Viên quay người lại. Trước cửa hang, sau mô đá có nòng súng động đậy hướng về Viên. Lấp ló áo mầu sặc sỡ. Tình huống quá đỗi bất ngờ cho tất cả. Lại một bóng phụ nữ hiện ra bên trái hang. Cánh nỏ đã giương sẵn. Tiếng tru chó sói thảng thốt rúc lên rất dài từ sau tảng đá, nơi có mũi súng thấp thoáng. Tôi bừng tỉnh. - Không nhận ra à? Đồng đội đây! Giọng ai đó sao mà quen thế, vang lên. Viên hoảng hốt vứt cây súng trong tay. Ngược sáng. Chỉ thấy một bóng người hiện ra lừng lững, râu tóc tung bay trong gió sớm hẳn trên mầu xanh của trời. Khẩu súng bắn tỉa chĩa thẳng vào Viên. Người Rừng tiến lên gần. Tôi nhặt vội khẩu súng của Viên. Tôi nhao ra. Chính khi lộn xộn ấy, rất nhanh Viên nhào vào. Đẩy sấp thằng Trọng. Một phát đạn dường chỉ bắn cảnh cáo. Tiếng đạn cao. Trần hang bay lả tả bụi. Tôi nhìn Người Rừng. Trọng khi đó cũng đã vọt đứng dậy chạy về phía chúng tôi. Chỉ còn Viên trong bóng tối. Nghe tiếng lạch cạch của nòng súng rê trên đá. Khi bên cạnh cứu tinh của chúng tôi, tôi chợt giật mình. Hội! Đúng mày là Hội! Phải không? Tôi thét lên. Này nhé! Nụ cười ấy, khuôn mặt ấy, già nhiều rồi nhưng đôi mắt và đôi lông mày rậm ấy. Làm sao quên được! Người Rừng cười. Cười rung bộ tóc muối tiêu ngang vai, bộ râu cước ngang ngực, tiếng cười vang trong hẻm núi và trên triền rừng âm âm nổi lên, ran ran lan nhanh như có nguời cùng phụ họa. Ông ta ấn nhẹ vai tôi và cả hai nằm xuống. Không nên bao giờ tìm cách lý giải cặn kẽ những sự trớ trêu, kì cục của tạo hóa. Về sau tôi luôn nghĩ như vậy - kể cả khi ngẫm về cái điều nhầm lẫn một cách hết sức như mơ sảng ấy của tôi. - Không! Tôi là Nhơn. Cẩn thận. Khuôn mặt ông trở nên rất nghiêm túc: “Nó nhìn thấy chúng ta rất rõ đấy”. Tôi xoay súng áp má mà vẫn liếc mắt quan sát kĩ cứu tinh. Đúng hơn là ngắm ông, một lần nữa thật kỹ. Hội, cậu lại đùa mình. Thế mà nghe tin cậu mất tích! Tôi nói trong xúc động. Chúng tôi tìm thấy bạn anh trôi trên suối. Đêm qua cứ tru mãi để anh biết sự nguy hiểm. Thấy các ông vào hang có vũ khí, tôi không dám lộ diện vì chưa biết ai đã định giết Quân bạn anh. - Người Rừng giải thích vắn tắt - Lại hỏi, anh là Sinh? - Vâng tôi là Sinh. Khi ấy tôi rất mừng, hiểu ngay Quân chưa chết. Sau này tôi mới rõ, rằng trời chưa muốn để Quân chết. Nó bị Viên dọng cho một đòn vào đầu và hất xác xuống thác. Quân trôi vào đúng bến nước của gia đình Người Rừng và họ đã tới đúng lúc. Người phụ nữ thiểu số từ đầu im như thóc, khi này thi thoảng nhìn tôi và Trọng. Khuôn mặt bà dịu dàng, thản nhiên nhưng tay luôn lăm lăm chĩa nỏ vào hướng hang. Tôi nắm chắc súng lăn sang trái: “Cẩn thận nhé! Nó rất nguy hiểm và liều lĩnh”. Người xưng tên là Nhơn gật đầu. Trong hang bắn một phát. Ổ đạn có năm viên. Một trên nòng là sáu. Tối tính, hắn còn 5 viên. Viên đã vớ được khẩu súng của tôi khi nãy. Viên nhìn chúng tôi chắc rõ hơn chúng tôi tìm hắn. Hắn trong bóng tối. Lại bắn. Hai phát, tôi đếm. Tôi không bắn. Trong hang tối quá. Tôi nói to: “Anh chỉ có bốn viên nữa. Chúng tôi có bốn người. Đạn nhiều. Đầu hàng đi.” Trọng bò lại bên tôi. Mặt nó còn đầy máu. Nó vẫn chưa hết bàng hoàng. “Chú ơi, bắn chết hắn đi!” Giọng Trọng căm hờn. Tôi ấn đầu Trọng xuống. Yên lặng tới ba bốn phút. Tôi bắn ước chừng về phía Viên núp. Một phát, hai phát, ba phát rồi phát thứ tư. Có tiếng kêu thất thanh. “Ối! Xin các bác đừng bắn. Em xin hàng.” Bóng Viên hiện rõ dần. Tay phải ôm vai. Tay trái hắn giơ cao ngang đầu. Hắn đã buông súng. Chúng tôi cảnh giác đứng dậy. Tôi chuyển súng cầm sang tay trái, tiến lên, định tạt cho Viên một cái bạt tai cho bõ ức. Sự việc thực bất ngờ. Trọng, thằng bé liều lĩnh giật lấy súng từ tay tôi: “Để cháu!” Nó bắn rất nhanh phát đạn cuối cùng trong ổ đạn. Đấy là phát đạn của định mệnh. Viên đạn bay vót sạt tai Viên. Đạn bay sâu vào cuối hang và cắm ngập vào ổ kíp mìn - ấy là về sau chúng tôi phán đoán như vậy - Một tiếng nổ tức thì, rất mạnh đã thành một áp lực khủng khiếp quét ngã tất cả mọi cái gì cản đường nó. Toàn bộ hơn ba chục cân Tonit âm thầm bao nhiêu năm, giờ đây được kích thích phát nổ. Tôi bị lật người ra sau, đầu đập xuống đất thấy mình bay trong một lỗ hổng đen ngòm xoáy mãi, xoáy mãi. *** Xoay quay câu chuyện này, sẽ có nhiều câu hỏi “lẽ ra” cho bao cảnh huống hoàn toàn có thể không theo chiều huống đã xảy ra. Nhưng cũng “lẽ ra” sẽ có nhiều điều còn xấu xa thảm hại hơn mà thực tế cuộc đời tôi đã nhìn thấy. Vậy hãy để nguyên lịch sử của câu chuyện đã xảy ra như thế. Những điều thiếu sót, ấu trĩ, lầm lẫn... nhưng vẫn là chuyện đã xảy ra, cái không thể khác đi trong hoàn cảnh. Và biết đâu, có bàn tay của đấng sáng láng đã đùa rỡn tất cả mà tạo dựng. Cũng như khi tỉnh dậy, là lúc tôi thấy Nhơn tóc tai bê bết bụi khói bò lên từ con dốc. Người phụ nữ dân tộc mặt mũi nhom nhem cũng liêu xiêu đi tới. Cây cối bên cửa hang xơ xác. Khói bụi tan ra. Tôi đau xót nhận ra cửa hang trống hoác. Ánh sáng chan chứa chiếu trên nền hang trơ trụi. Khói từ các kẽ đá vẫn lơ thơ bốc lên. Không một dấu vết cũ. Vàng xưa? Chúng tôi tìm thấy Trọng bị ngất, văng ra cách đấy hơn năm mét. Không thấy xác thằng Viên, dẫu rằng Trọng căm thù tới xương tủy, nó muốn “băm xác Viên thành trăm mảnh!” Hơn bẩy chục cân vàng xưa biến mất. Trở thành cát bụi bay về rừng. Có lẽ với thời gian, nó sẽ theo mưa, theo suối, theo sông về tụ hội ở một nơi nào đó, dẫu là lâu lắm. Chúng tôi xuống núi trở về nơi Quân đang chờ đợi. Tôi ôm chầm lấy Quân. Bên cạnh nó một cô gái rất trẻ, đẹp như đóa hoa mai đầu xuân rực rỡ. “Đây là con gái mình. Cháu vừa mười tám tuổi.” Nhơn giới thiệu. Câu chuyện của Người Rừng phải viết riêng một cuốn tiểu thuyết. Dẫu cho là ông ta chính là Hội, hay không phải thế cũng là điều không quan trọng khi ấy. Điều quan trọng là chúng tôi, tất cả sống sót. Quân đã đỡ, dù chưa đi lại được. Vết thương trên đầu được cô gái tươi trẻ hàng ngày đắp lá rừng, úp thêm một cái mũ mây, đan rất khéo màu ngà sáng. Đã lâu lắm tôi lại ngồi nhậu trên nhà sàn khá chắc chắn và bếp lửa, rượu đế và thịt rừng nướng. Chúng tôi kể cho gia đình Nhơn nghe chuyện phiêu lưu. Người Rừng cũng bằng tuổi Hội. Ông nói rành rọt chậm rãi, tôi là Phan Thành Nhơn, lính cũ sư đoàn 320 B. Tôi à lên, bởi chúng tôi thuộc 320A. Câu chuyện của ông như một trong trăm ngàn huyền thoại nhiều vẻ của đời sống lính tráng chúng tôi sau chiến tranh đã được các nhà văn miêu tả. Thôi không bàn chi tiết. Đại để, Nhơn tương tự như hoàn cảnh của anh Hội. Đi biền biệt không tin tức. Thông tin thế nào về quê, rằng Nhơn đã hy sinh. Vậy là người vợ yêu dấu bao nhiêu năm hy vọng kia đi lấy chồng. Lấy ngay em họ Nhơn. Thế là quay lại đơn vị, Nhơn rất hận và buồn. Anh thường xuống thị xã gần nơi đóng quân chơi bời nhậu nhẹt. Một tối, Nhơn uống rượu rất say đã không kiềm chế điên khùng dọa đốt doanh trại. Dọa hóa thật, đơn vị ra tro và cháy lây hai chục nóc nhà của dân. Kỉ luật trả về địa phương. Tỉnh ra, Nhơn thấy cuộc sống thực vô vị, anh lang thang khắp các bản và khi suy kiệt, gần như mất trí, anh ngược rừng đi mãi. Tôi lạc hơn tuần trong rừng không biết lối ra, nằm ven suối đợi chết, anh nói. Một người đi rừng cứu sống anh. Đưa anh về ngôi nhà sàn chơ vơ trên miền này. Bản cũ đã cháy hết trong cuộc chiến. Vợ người đàn ông cứu Nhơn là một người đàn bà tật nguyền. Họ cùng đứa con gái nhỏ, chăm sóc anh hết lòng. “Phải tới hơn ba tháng ốm kiệt quỵ vì bao nhiêu đau đớn và suy nghĩ!” Chính con người tật nguyền - bà, bị cụt cả hai chân khi vấp phải mìn cài trong rừng - nhưng lại rất yêu cuộc sống, đã hồi sinh anh. Bà suốt ngày cháo thuốc và véo von hát những bài hát lạ. Rất lạ! Tới giờ Nhơn vẫn không biết. Lời hát anh hoàn toàn không hiểu. Êm, tha thiết luôn luôn vang lên cả trong mơ như liều thuốc kì diệu nâng đỡ anh. Nó như tiếng mưa, tiếng gió, tiếng muông, tiếng thú và tiếng của muôn loài ở nơi xa xăm từ kiếp nào đã thấm. Đó là một điệu hát bây giờ thất truyền! Nhạc điệu ấy làm con người yên tĩnh, lắng gạn hết buồn đau. Anh khoẻ ra và quyết định trở lại quê hương. Như số phận định sẵn, ngày anh định xuống núi, xảy ra chuyện người đàn ông cứu anh bị cảm nặng. Tuổi già ra đi bất ngờ. Thế là anh không thể nhẫn tâm để người đàn bà tật nguyền và cô gái trong khu rừng với sự đau đớn mới, chờ thời gian xoa dịu. Tiếp tục sống. Và, anh tìm thấy hoàn toàn bình tĩnh trong đời sống chính tại khu rừng này. Rồi người đàn bà kia gả con gái cho anh, vì anh và con gái bà quấn quýt bên nhau đã lâu. Ông trời cho họ ngay một mụn gái. Để tới mười tám năm sau chính con họ, cô gái tìm thấy Quân bị Viên đập vào sọ ẩy xuống thác nước. “Tôi đi khắp vùng này. Tìm ra kho súng và kho vàng của các anh. Tôi đã lấy đi một chút để xuống xuôi mua sắm”. Chuyện tập tàng như vậy. Trọng tin sái cổ. Tôi cũng tin nhưng vẫn ngờ ngợ. Nhơn giống Hội. Hay phải chăng, Hội không muốn nhớ lại sự đau đớn của anh đã chôn cất. Anh muốn từ bỏ chúng toàn bộ, như cắt đứt nỗi sầu, mọi di chứng ở cõi sống cũ mà tìm một gương mặt khác? Không thể hiểu được nhiều điều lắt léo của cuộc sống. Tôi nghĩ thế suốt vài đêm mỗi khi thấy động thái, cử chỉ của Nhơn giống Hội quá? Trên đời có nhiều người giống nhau mà. Tôi tự bảo. Hay là tôi nhầm. Lú lấp! Hay là tôi mơ ước bạn tôi, Hội, gặp được may mắn như Nhơn, để được sống thơ thới tới hôm nay mà tơ tưởng như vậy? Một tuần sau tôi và Trọng, con Bảo theo lối Nhơn đưa đường, tắt xuống đường Chín cũ, thuê ngựa về xuôi quay ra Hà Nội. Hai chú cháu mang nặng hai gùi quà của miền sơn cước như hai người bán thổ sản dân tộc. Nhơn tỏ ra hợp Quân, giữ Quân ở lại ít bữa cho vết thương trên đầu và chân lành hẳn. Vả lại Quân cũng dường như quý mến gia đình cứu sống mình. Nó nửa đùa nửa thật bảo: “Cần gì làm ông chủ hở anh? Ở đây làm chủ cả miền rừng đẹp đẽ bình yên này là sung sướng nhất cõi trần”. “Đất ở đây phì nhiêu lắm, mày định trồng cà bát muối hay càfê? Hay trồng cây Con rể đồng đội?” Tôi đùa. Nó ở lại cũng đúng, vì ở Hà Nội chẳng còn ai gắn bó, gần gũi hơn máu thịt, sau bao li loạn của thời cuộc. Chút nữa thì quên nhắc chuyện quan trọng nhất của câu chuyện này. Chúng tôi có hai túi vàng nhỏ nặng tấm lòng đồng đội. Nhơn nói khi người vợ của ông, chị Hơ Len và cô Hơ Lan dúi vào tận tay tôi, Trọng hai túi nhỏ rất nặng . “Đây là phần của các bạn. Chia đều. Nó nằm trong một phần sáu của số tôi đã lấy từ Vàng Xưa của các anh. Còn cái đống kia quên nhanh đi. Có nhiều thế chắc gì đã mang lại hạnh phúc?” Ơ! Lại một phần sáu? Sao trùng hợp thế. Hay là... Tôi rưng rưng xiết tay tay người đồng đội... *** Thay cho đoạn kết: Người đàn ông kể câu chuyện trên đã gần sáu chục tuổi. Tóc bạc, phong trần, khắc khổ. Nhưng đôi mắt sáng chân thực và nhân ái. Gã nói, tin thì tin, không tin thì thôi(9)! Gã rời ghế đá quay ra dắt cái xe máy tàng tàng thong thả nổ máy, biến ngay vào dòng người cuồn cuộn, trong lớp sương mù vừa bay ra bồng bềnh trên đường phố, quanh hồ Gươm. Câu chuyện gã kể dài hai giờ đồng hồ. Trong tay tôi còn cả địa chỉ của gia đình gã và gia đình người có tên là Bảo. Cũng theo lời gã thì gã bằng lòng sống đạm bạc trong ngôi nhà một tầng “không tới nỗi nào và đầy đủ dụng cụ sinh hoạt giải trí cho vợ con”. Nhưng một chi tiết tôi băn khoăn nhất là gã bảo Viên còn sống.” Đã ba lần tôi nhìn thấy Viên sau khi trở về. Một lần trên dòng xe cuồn cuộn ở ngã tư Cầu Giấy. Cách đây hai năm, nhìn thoáng thấy Viên trên ti vi ở một chương trình giới thiệu những người thành đạt tại thành phố X. Lần thứ ba, tôi nắm lấy vai Viên trước cửa một khách sạn lớn ngay tại Hà Nội. Chuyến ấy tí nữa lôi thôi. Viên làm ra vẻ ngạc nhiên, lịch sự gỡ tay tôi, không nói câu nào; còn bảo vệ khách sạn tí nữa làm to chuyện, vì Ông Ta ấy là một thành viên đoàn doanh nghiệp Việt Kiều vừa về nước làm việc với thành phố trên kế hoạch đầu tư mới” Chuyện bịa! Thằng Viên còn sống? Mà biết đâu nó sống dai như thế và lẩn quất ở đâu đây? Tôi, người chép lại câu chuyện này như bị ma ám vì câu chuyện của gã. Khi ấy, chao chác nhìn quanh... Nước Đức, 18/12/2002 Ngọn lửa Tôi nhóm một ngọn lửa Trời xanh đã bỏ tôi Một ngọn lửa để làm bạn nó Một ngọn lửa để dẫn tôi vào đêm đông Một ngọn lửa để sống tốt hơn. E’luard M ột người đồng đội cũ, hơn năm chục tuổi tại Berlin, đã kể cho tôi nghe chuyện này. Tôi chép lại nguyên si, không hư cấu thêm. Việc đặt tên cho chuyện làm tôi suy nghĩ mãi. *** Năm 1972, trung đội chúng tôi đang hành quân thì bị rơi vào ổ phục kích của đối phương. Bấy giờ trời vừa sẩm. Sương mù ở thung sâu mới tràn ra đã quánh đặc đoạn dốc đối phương phục kích, nên tiểu đội tiên phong chẳng phát hiện ra địch. Ngay từ loạt đạn đầu, số anh em tiền quân đã bị tử thương gần hết. Chúng tôi bắn trả quyết liệt, nhưng hỏa lực địch rất mạnh và chủ động. Thoáng một cái, chúng lại gọi máy bay lên thẳng từ Playcu đến. Tình huống xấu, trung đội trưởng trước khi hy sinh ra lệnh rút lui. Tôi lia hai loạt ngắn AK47 vào bụi cây lúp xúp, nơi có ổ đại liên đang khạc lửa, rồi hô anh bạn trẻ: “Quý! Theo tôi!”. Thoắt, tôi lăn mấy vòng rồi nhẩy sang trái, thoát khỏi trảng cỏ. Bên kia, nơi có cánh rừng! Quay lại nhìn, Quý vẫn bám sát. Anh là sinh viên năm thứ nhất Đại học Bách Khoa vừa nhập ngũ, kinh nghiệm chiến đấu chẳng có là bao. Phải khom khom vọt tiến, dựa địa hình, địa vật thì chàng sinh viên cứ thẳng lưng chạy. Sắp thoát hiểm, Quý dính một vài mảnh cối cá nhân. Viên đạn trứng rơi phía chếch phải. Một vùng lửa da cam bùng lên cạnh bóng cậu. Đám khói vừa bốc lên trời, thoáng thấy Quý khựng lại trong giây lát rồi chạy tiếp. Chúng tôi băng qua trảng cỏ và biến vào rừng. Thế là chẳng biết ai còn, ai mất. Trên đầu, mấy chiếc trực thăng vẫn xăm và khạc luồng đại liện xoi xói, đỏ quạch xuống bên kia trảng rừng. Về sau tôi mới biết, chúng tôi đụng tiểu đoàn rằn ri Số Tám chuyên đánh rừng, địch vừa tăng cường từ Sài Gòn lên. Quý và tôi cuối cùng cũng tới một con suối nhỏ. Quý bị thương ở bụng và bắp đùi phải. Máu đã ra ướt đẫm ống quần. Hắn ôm gốc cây nhỏ, trợn trạo nhìn tôi cầu khẩn. Tôi động viên: “Không trúng động mạch đâu! Đừng sợ!” Chúng tôi chỉ có bốn cuộn băng. Tôi băng cho Quý rồi định hướng tìm về chỉ huy sở tiểu đoàn. Khi muốn thoát chết thì người ta hăng lắm. Nhưng tới ngoài vòng hiểm thì mới biết sức đã kiệt. Quý đi rất chậm và luôn gọi: "Mẹ ơi!” Lại nói: "Anh ơi, em chết mất!” Tôi là lính cựu, ở cảnh huống này không lúng túng, nhưng cũng lo cho Quý. Thỉnh thoảng tôi dừng lại kiểm tra, vết thương ở ổ bụng vẫn nhớm rỉ máu. Trời tối rất nhanh. Không trăng sao, lại mây đen ào ào từ mấy triền núi thấp kéo tới. Rồi mưa. Bắt đầu nhẹ hạt, sau mưa như một thác trắng ngút ngàn, sầm sập xối xuống. Vâng, mưa rất lớn đến nỗi khi khát, tôi hứng nước mưa bằng mũ vải, loáng một cái được cả bát nước B52. Ai từng ở Trường Sơn, biết mưa rừng. Mưa lớn tới mức tạo thành dòng nước màn màn cuốn dưới chân. Khắp mặt đất như có trăm ngàn con suối nhỏ. Đoạn rừng nào có đất đỏ, đất nhão ra rất nhanh, thành thứ nhựa quánh, mút chặt lấy dép lốp. Quý luôn luôn vấp ngã. Mỗi lần như thế, hắn ngóc cổ lên nhìn tôi. Mắt như mắt nai. Thương lắm. Tôi vẫn nghiêm khắc: Đứng dậy! Một giờ sau tôi cũng đuối sức. Tôi phải ném ba lô hắn đi, giữ lại khẩu súng. Tất cả nặng chịch như cùm, dằn lên vai tôi. Giật đoạn dây rừng treo hai đôi dép lên cổ. May mắn sao, bên cạnh một cái nương trơ mấy gốc rạ, gốc sắn tơ hơ trên đất, tôi tìm thấy một hầm chữ A ung ủng nước. “Gần về tới nhà rồi” - Tôi lại động viên hắn. “Mày nhìn đây!” Tôi chỉ hầm: “Cái này, chỉ có quân ta mới có. Sắp tới nhà rồi!” Tôi bảo. Đi dưới mưa, ngấm lạnh, Quý sẽ chết! Tôi nghĩ vậy và quyết định: “Ngủ! Mai đi tiếp!” Tôi dìu Quý, gần như ấn hắn chui vào hầm. Tôi lấy nilon trải xuống nền hầm. Lựa chiều cho Quý vào góc hầm và lấy dao găm rạch quần áo, tìm chỗ bị thương. Vết thương ở đùi nông, mảnh đạn hình như chỉ chém trượt. May đấy, nhóc! Tôi nói vậy nhưng vẫn ái ngại nhìn vết chém toác cái miệng đỏ lòm, dài nửa gang tay. Thế mà Quý chạy được hơn bốn, năm cây số đường rừng! - Khá lắm, thằng em ạ, hồi mới nhập ngũ tao không được như mày! Trận đầu, đánh ở Quảng Trị. Tao nằm dưới làn đạn mà cảm giác cả một thác đạn xanh đỏ chi chít, như viên nào cũng nhằm vào riêng tao. Đại đội khối thằng đái ra quần. Thế mà đâu vào đấy. - Tôi bảo Quý và cố ngoác cười cho hắn an lòng. Nhưng thật ra tôi bắt đầu lo. Vết thương ở bụng có thể nguy hiểm. Một lỗ nhỏ hút vào chậu bụng phải. Từ chỗ đó, máu nhễu ra qua mấy lượt băng, đọng thành vệt như tiết đọng. Tôi ấn ngón tay vào chỗ bụng hắn, hỏi, có đau không? Quý bảo, đau, nhưng không đau lắm ! “Không đau lắm thì mừng rồi! Tao tin là chưa thủng ruột” Tôi nói. Quý nhăn mặt rồi cười méo mó. Tôi nghĩ là mảnh đạn không xé đứt ruột và nằm ở đâu đó. “Rồi người ta sẽ tìm thấy nó! Gắp nó ra và thằng em sẽ lại chạy như sáo!” Tôi vẫn đùa hắn! Tôi xé màn làm băng quấn chặt thêm cho Quý. Vừa làm vừa giảng giải: “Nếu có đoạn ruột lòi ra thì phải lấy cái bát úp vào rồi mới băng! Nhớ chưa?” Quý nhăn mặt. “Trời ơi!” Hắn chắc chết thôi, nếu máu cứ ra và lạnh cóng thế kia, tôi thoáng nghĩ. Trong ánh sáng bật lửa zippo của tôi, mặt Quý xám ngoét. Đôi mắt mọi hôm đen, đầy sinh khí thế mà giờ đây trắng nhờ. Hồn phách đi đâu rồi? Hắn rùng mình liên tục rồi run rảy như con cheo(10) sũng nước. Quý hàng ngày là sơn ca của trung đội. Thích hát, giọng tàm tạm. Nhưng khi hát, cái mặt búng sữa, đôi môi mọng hồng vì chưa dính sốt rét, làm giọng hát khoái nghe lắm. Bây giờ hắn chả hát được nữa. Đôi chân choài ườn trên nền bùn lạnh. Cái đầu rũ ra ngửa vào vách hầm. Cổ mềm như cọng khoai nước đã hơ lửa và đôi mắt nhắm. Thở dốc. Phải sưởi cho hắn! Tôi tuốt dao găm, cầm súng trườn ra ngoài hầm. Bên ngoài mưa vẫn như thác. Gió sàn sạt táp từng cơn trên màn rừng. Lần mò trong đêm mãi vẫn không thấy một gốc săng lẻ nào để tước vỏ làm củi. Tôi văng tục, tôi chửi thề. Tôi căm giận nhìn lên bầu trời vẫn tàn nhẫn, lạnh lùng. Mưa vẫn đều đều rót xuống như không hề biết nơi đây có hai sinh mạng mong trời tạnh để sống. Tôi quay lại hầm. Cởi áo ướt của Quý ra. Lấy cái võng quấn thêm cho Quý khi hai hàm răng hắn bắt đầu gõ phách. - Mẹ ơi! - Quý lại gọi. Đôi khi hắn rên rỉ: “Anh ơi, em chết mất!” Tôi nhìn Quý. Đôi mắt Quý nhìn tôi lo âu, tràn ngập sự sợ hãi. Bị thương. Lạc đơn vị. Mưa lạnh và bóng tối, địch có thể vây quanh. Từng đấy với một tân binh là một thử thách lớn! Tôi hiểu! “Không, mày không chết. Đừng kêu như thế , tao sốt ruột!” - Tôi nói với hắn và chợt loé lên ý định. Vốn là quản ca của đại đội, tôi thích văn chương từ thủơ học trò. Chính trị viên cho tôi tùy nghi sử dụng báo chí ngay khi còn ở Quảng Bình. Tôi rất yêu thơ. Sưu tầm nhiều bài thơ chép vào cuốn sổ tay khá dầy. Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội bấy giờ in khá nhiều bài thơ hay của nhiều thi sĩ. Tôi thường tích cóp vốn liếng thơ, đọc thơ cho đồng đội nghe. Tôi cũng làm nhiều bài thơ con cóc, ghi lại cảnh đi gùi, nhớ mẹ, chuyện chúng tôi đánh nhau trên Boloven, Khuonsedon, chiến dịch Lam Sơn 719. Những bài thơ không vần của tôi và anh em cùng với nhiều bài thơ của các nhà thơ chuyên nghiệp, quả thực khi ấy giúp chúng tôi dễ sống hơn. Tất cả kho tàng thơ ấy theo tôi suốt bao năm hành quân, ngủ rừng, đánh trận và khi đã đầy ắp kỷ niệm trong ấy, nó bỗng nhiên trở nên những vật báu không chỉ của tôi mà là tài sản của cả đại đội. Những ngày hành quân xa, nặng, có vất đồ đạc nào thì vất, chứ tập thơ đầy nửa ba lô ấy, tôi dành lấy, luôn mang theo bên mình. Bây giờ phải nhóm lửa lên sưởi cho Quý thôi. - Có đốt nó đi không? - Phải đốt! - Không! Cả 8 năm trời? Gom cóp bao lâu! Bao nhiêu người trong đó! - Phải cho Quý sống! Đốt! Tôi cứ hỏi và đáp như vậy! Tôi ra ngoài hầm bẻ lá rừng tấp kín của hầm. Lại cào con chạch cho nước không thể chảy thêm vào hầm nữa. Tôi vơ đại được vài cành củi khô đẫm nước, bẻ vụn, rải làm nền bếp. Tôi lấy mũ tai bèo, cào bùn ướt trát dầy làm thành cái lò đặt giữa hai đứa. Phải sống đã! Tôi lục ba lô, lôi bọc nilon nặng thơ của đơn vị ra. Các thi sĩ ở trong đó! Cha tôi cũng ở trong đó. Những lá thơ của ông và những bài thơ Đường ông chép nắn nót cho tôi. Lại vài người đã hy sinh ở trong đó! Thằng Hòa Hàng Bột có bài thơ Nhớ Hà Nội tử trận ở đồi Sú. Nó chạy cạnh tôi. Viên đạn 12 ly 8(11) bắn thẳng vào ngực trái nó, phá ra sau một lỗ rõ lớn. Thằng Long Hàng Chai có tờ bích báo tôi giữ bao năm trong ba lô, viết về chị. “Cha mẹ mất. Chị tôi làm ở xưởng than nuôi ba anh em chúng tôi. Hàng ngày, mãi năm sáu giờ tối chị mới về. Mặt chị đen xạm vì bụi than. Chị cười. Chỉ nhìn thấy hàm rằng trắng xóa. Mắt chị tôi đen, hiền. Tôi ước mơ lớn lên đi làm đỡ chị. Chị già, nuôi chị vì chị tôi ba mươi chẳng lấy chồng, cho tụi tôi ăn học!” Đấy, nó viết như thế rồi dán lên báo tường. Nó bị hạ giữa sông Sêpôn rồi chìm mất xác. Tôi bơi cạnh nó. Nhìn thấy khi bị đạn, nghe rõ nó kêu lên, tiếng xé vọt lên trời, thé như tiếng chim non. Phút cuối cùng ấy, cặp mắt của nó ngước tôi hoảng hốt, rồi mất tiêu trong dòng nước trong vắt, cuồn cuộn, đỏ loang máu. Hơn ai hết, tôi biết. Tôi nhặt mấy viên đá ngoài hầm xếp quanh giữ nhiệt. Tôi rút tập thơ chép tay của tôi ra. Trong đêm tối, tôi sờ lên mặt giấy. Dưới ánh lửa zippo, những lá thư của cha tôi đã đổ mầu; thư của cô bạn gái Hà Nội gửi hồi còn an dưỡng ở Quảng Bình. Cắn một viên đạn , dốc thuốc cháy ra. Tôi mồi lửa. Ngọn lửa bùng lên. “Cháy nhanh lên, xua đi bóng tối và khí lạnh.” Tôi thầm mong. Quý nhìn tôi, nhìn ngọn lửa. Khi ấy, mắt nó ánh lên chút ít, có gì tha thiết lắm, không thể tả được. “Thôi, tí nữa mày sẽ ấm lại và không sợ nữa. Bóng tối ai chả sợ, nhất là khi mày chưa thử thách nhiều như tao, hoàn cảnh thế này. Còn trẻ con lắm! Tôi nghĩ thầm. Những bài thơ, dòng chữ trên giấy hiện lên từng dòng rồi biến dạng, mất hút khi ngọn lửa vàng lém vào! Tôi có cảm giác, hình dung, nhìn kỹ, từng bài thơ, từng câu thơ, cả tên của các nhà thơ, lần lượt theo nhau nóng lên, biến thành hơi ấm, lên khói, màn màn bốc ra tan trong hầm. Khói chầm chậm, rất chậm quẩn trên nóc hầm, rồi tất cả theo lỗ thông hơi bay về trời. Trên đầu, máy bay C130 đôi khi vẫn ì ì bay qua. Tiếng bay rất nặng. Chếch phía trái, lại vọng vào lụp bụp một chùm pháo dù. Ánh sáng trắng bùng lên, qua kẽ lá cửa hầm, chém xéo vào. Tôi biết, trên không họ đang tìm chúng tôi. Không! Kệ mẹ chúng mày! Ông ngồi đây và đang đọc thơ cho bạn ông nghe đây! Tôi nghĩ vậy và đọc cho Quý nghe trọn vẹn cả bài Lá Đỏ, Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây, Lời Mẹ Dặn, Núi Đôi... Tôi đọc một lát thì xúc động lắm. Không hiểu sao như vậy. Nước mắt cứ tự động túa ra, đầm đìa má. Chùi đi! Không để Quý biết. Tôi cắn môi, nghiến răng. Không được khóc! Quý vừa mê vừa tỉnh. Đôi khi cậu ấy mở mắt ra nhìn tôi. Và môi run run khe khẽ, rất khẽ hé một dáng dấp nào đó của môi cười. Tôi cũng nhìn hắn. Trong mắt hắn, phản chiếu một ngọn lửa, lửa bập bùng, bập bùng. Tự nhiên tôi thấy đỡ lo và có cảm giác ấm áp, tin là nó sống. Người ta ở cảnh huống ấy, dường như không hiểu sức mạnh kỳ diệu nào, từ tiềm thức hay vô thức nữa. Tôi chỉ nhớ khi ấy tôi không nghĩ gì tới nguy hiểm, loạn lạc, bom đạn. Tôi hành động hoàn toàn theo bản năng của lứa chúng tôi, đồng đội với đồng đội. Tôi, một lính cựu, với một người lính trẻ. Anh ta ước mơ như mình, ham học như mình, giờ cần phải sống để trở về giảng đường đại học! Cả tập giấy thơ dầy đến gang tay theo tôi suốt bao trận chiến đấu, hành quân, vui, buồn, no, đói cứ như vậy vơi dần, vơi dần. - Rừng Trường Sơn ào ào lá đổ/ Em đứng; đứng bên đường/vai ba lô áo bạc quàng súng trường. Đoàn quân vẫn đi lặng lẽ! Tôi đọc. Nhớ hôm đầu vào Trường Sơn vượt qua cái dốc ở binh trạm 32; hôm ấy đổi hai cái quần đùi lấy một tảng thịt nai. Mưa dầm suốt cả ngày đêm năm ấy. Này là Tiểu Đội Xe Không Kính và Tiếng Cười Đồng Chí Coi Kho. - Em ở Thạch Kim sao nỡ đùa anh Thạch Nhọn(12)! Tôi nhớ cô gái ở Kỳ Anh. Hai đứa trú trong cái hầm nhỏ. Tôi đụng vào vai cô mà lòng xốn xang, tim đánh trống loạn hồi. Phải rồi, hàm răng trắng muốt, mắt sáng như sao nhấp nhánh cười. Đôi vú chạm vào nhồn nhột lưng tôi, khi tôi chép bài thơ này vào sổ tay em! Ôi, bàn tay cô ấy mềm mại lắm, chẳng thô ráp như tay tôi. Mà hôm ấy sao mình chỉ dám nắm tay cô ấy thôi nhỉ? Tôi chưa có người yêu. Mười bẩy tuổi yêu làm gì sớm! Đợt nhập ngũ 1965 ấy chúng tôi ra đi sau sự kiện bom Mỹ dội xuống miền Bắc. Còn Quý từng kể, nó có người yêu học ở Đại học Sư phạm. Tôi tưởng tượng, tóc con gái bao giờ chả thơm. Hình như có mùi thơm nào đó tỏa hương, lan ra? Không, mùi khói! Trong tập giấy cũ có lẫn vài tờ giấy thơm, tôi gìn giữ suốt bao năm. Cái con Hoàn có vài sợi tóc bò liếm ở trán đã mua mấy tờ thơm ấy tại triển lãm Vân Hồ, dúi vào tay tôi hôm ra tiễn tôi lên đường. Tôi kẹp vào hai lá thư của nó nét chữ đã ố vàng, giờ cháy quăn queo. Tôi nhìn trân trân vào từng nét chữ mất hút biến vào lửa. Bây giờ nó chắc đang dậy học ở nơi sơ tán! Ngọn lửa bập bùng soi trên khuôn mặt ma xám ngoét của chàng thanh niên măng tơ, Quý của tôi. Ngọn lửa của từng bài thơ với bao nhiêu kỷ niệm của tôi, của những bài thơ mà nhiều người lớp chúng tôi coi như một sức mạnh giúp chúng tôi đã từng sống trong suốt đã gần 8 năm chiến tranh ác liệt, quên đi tất cả, quên đi gian khổ, nguy hiểm để sau đêm thơ đại đội lại lên đường. Hắn cựa mình, môi đen khi này mím lại, giờ dần có chút hồng bợt. Chắc đã bớt lạnh! Gian hầm ấm dần lên. Cứ như vậy, tôi vừa đọc những bài thơ đã thuộc lòng mỗi khi đốt nó cho Quý của tôi hy vọng qua cơn nguy biến. Đôi khi, ngọn lửa cháy sát mấy ngón tay mà tôi không biết cả nóng. Mái tóc bết máu mà Quý thoa lên khi nào bắt đầu khô. Hắn không rên nữa và nằm ngoan ngoãn như con mèo con vẫn thường nằm trong lòng mẹ tôi ngày nào. Tôi bắt đầu đốt dè sẻn từng bài thơ cho đến một giờ sau đó thì mấy cây tre còn tươi cạp vách hầm cũng cảm như có hơi ấm. Chúng tôi cùng thiếp đi, một giấc ngủ kỳ lạ chờ sáng. Tôi mơ thấy mình đọc thơ trong một quảng trường rất lớn và đọc chính những bài thơ con cóc tôi viết... Trời sáng hẳn. Tôi lay Quý dậy. Anh chàng tưởng chết đêm qua ấy, nhờ giấc ngủ và thân thể ấm lại qua một đêm được ủ ấm, giờ đã lóe một nụ cười gượng gạo. Chúng tôi ra khỏi hầm. Ngó lên cao, trời xanh thẳm và có đám mây trắng lạ lùng. Tôi chặt một khúc cây cho hắn và dìu nhau lên đường tìm về đơn vị. Khi ra khỏi hầm. Tôi rũ cái mũ. Lớp tro màu trắng xám lả tả rơi xuống. Đập cho hết đất bùn đã khô trắng. Không tiếc nuối, đã đốt tất cả thơ rồi mà sao buồn ghê! Chiều hôm ấy, chúng tôi tìm được một đơn vị bạn. Quý theo cáng ra Bắc. Tôi quay lại đơn vị chiến đấu tới ngày chiến tranh chấm dứt. Năm 1978, tôi mới biết tin Quý. Lần ấy, anh điều trị hai tháng và quay lại một đơn vị khác chiến đấu. Hết chiến tranh Quý trở về trường học tiếp, sau ra công tác tại một tổng công ty ở Hà Nội. Hôm tới ăn bữa cơm thân mật với vợ chồng cậu chiến binh xưa, Quý vẫn nhớ và nhắc lại cái đêm của chúng tôi năm nào và bảo: “Bây giờ người ta làm thơ không hay bằng dạo xưa anh nhỉ! Em nhớ lắm, lúc mê lúc tỉnh mà vẫn nghe anh đọc thơ, tưởng ở cõi nào vọng về. Bao năm sau chiến tranh, thỉnh thoảng vẫn mơ thấy như vậy. Tỉnh giấc nghĩ lại mà phát khóc”. Vâng, Quý khóc thật. Hắn ngồi trước vợ con, đưa ly rượu trắng cho tôi mà thấy rõ hai hàng lệ trong suốt từ đôi mắt, hôm nay chẳng còn đen nháy, chầm chậm chẩy ra. Tôi uống cạn ly rượu Quý rót tràn. Rượu nặng như bỏng họng, cay sè xông lên mũi. Tự nhiên mắt nhòa đi. Bỗng như có ngọn lửa bập bùng, bập bùng trên Trường Sơn năm xưa cháy trong họng, trong từng thớ thịt mạch máu. *** Người kể chuyện bỗng nhào ra cửa. Có mùi thoáng bén nồi của nồi cháo gạo, theo cánh cửa thông sang gian bếp hé mở, lùa vào phòng. Tôi, người chép lại chuyện này đang đắm chìm trong cảm giác, cảm giác có tiếng va đập, tiếng reo xa thẳm nơi đâu chợt giật mình khi người kể chuyện quay lại oang oang nói, cắt ngang sự suy nghĩ của tôi: - Đấy, Thơ phú văn chương nhiều khi nó dớ dẩn lắm. Tí nữa thì cháy mất nồi cháo của chúng ta. Nồi cháo gà trên tay anh bạn già nghi ngút khói, tỏa mùi thơm trong lành lạnh thật hấp dẫn một cách dễ chịu. Tôi cười: “Dẫu sao khi ấy cũng cứu được một mạng người”. “Vâng, phải rồi. Một mạng người!” Anh bạn già vừa múc cháo vừa nói tiếp: “Không biết những thi sĩ ngày nào bây giờ ở đâu nhỉ? Ai còn, ai mất? Ai vẫn viết và dám sống kiêu hãnh như xưa, như với lớp chúng tôi một thời?”... Nước Đức, 8/2001 Nhà ba hộ

Nhà ba hộ

Ngôi nhà không số. Con đường không tên. Nguyên xưa là đất vật bùn ven hồ của một xưởng than quả bàng, sau bỏ hoang, đầy bụi gai, cỏ, rác, phân, xác súc vật thối. Con đường lồi lõm hiện ra từ các vệt bánh ô tô chở hải sản sơ tán đến cái nhà kho tạm một thời. Người quanh vùng lần theo, đi bộ tắt sang khu bên kia hồ, nơi có đường lớn gần hơn vào trung tâm thành phố.

Lối nhỏ luôn lép nhép bùn. Nước đọng. Những đám cỏ bánh chè. Đôi khi lác đác mấy con cuốc mỏ hồng, chân đỏ, thân đen, ăn lẫn với đám gà nhà. Đường cong như cánh tay ôm dải cúc tần sát cái hồ. Hồ cũng không tên, ba mẫu. Bên cùi chỏ cánh tay là khu tập thể của công ty thủy sản: tám ngôi nhà hai tầng. Xuân và đông nồm, nom như tám con tầu cũ rẽ sương, khói bếp mù mịt. Dải cúc tần lắm dây tơ nguyệt, mùa xuân nhả mớ tóc vàng óng phủ trên mầu xanh đông đã già.

Ngôi nhà quay lưng vào đầu hồi một nhà tầng, mặt ngoảnh đón gió hồ. Nhà rộng bẩy chục mét vuông, lợp lá gồi, xưa là kho tạm chứa cá khô, nước mắm từ ga Giáp Bát về. Hết chiến tranh, kho không cần tới. Cỏ dại mọc xóa vệt ô tô, chı̉ còn vệt đi bộ. Rồi người quay lại Hà Nội như kiến, công ty nhớ tới cái kho bỏ quên hai năm, cải tạo lại, lợp tấm phi-bờ rô-xi-măng, quét vôi vàng, ngăn thành ba phần không đều cho ba hộ.

Thật bất ngờ, ba chủ dọn đến đều là vợ chồng mới cưới. Một tuần, đám phụ nữ đã tường gần hết lý lịch của nhau. Tôi, thương binh phục viên, cán sự ba, phòng bảo vệ công ty, ở gian giữa. Vợ chồng anh Phạn bán lòng lợn tiết canh, cô vợ tên Xuân, con gái lớn của bà phó phòng tổ chức ở chái hữu. Vợ chồng anh Thủ, chị Huyền, cán bộ kiểm nghiệm công ty ở chái tả. Hộ cô Huyền rộng gấp rưỡi hộ của tôi và Phạn. Lý do giản đơn là nó có sẵn bức ngăn gỗ, xưa là nơi thủ kho làm việc.

Được chia nhà là diễm phúc rồi. Mè nheo hơn kém vài thước vuông làm gì!

Sự giống nhau của ba hộ là ba cái cửa vào đều loại gỗ tạp, bản lề sắt luôn kin kít và hở toác trên, dưới, đón gió hồ lồng lộng thổi. Không có gió hồ thì thật không thể nằm trong cái nhà trần thấp lợp xi măng tấm bắt nhiệt như hun ấy. Lại mùa đông, khi gió heo may về, những ống tre hu hú đón gió và bụi đất lả tả bay từ vách tre trộn bùn rơm ngăn giữa hộ tôi và hộ Phạn. Trời nồm, tường sau và trước nhiễm mặn cá khô, tưa nước đọng thành hột, tỏa mùi khăm khẳm, khó thở. Trần bưng bằng cót, kín mà hở. Mùi của ba nhà, tiếng động cứ thông thống từ hộ này sang hộ kia.

Chủ nhật, vợ chồng tôi hì hục dán giấy báo lên biên giới phía trái để che bụi. Phía phải vang lên tiếng đóng đinh cồng cộc, chan chát. Tôi đoán, anh chàng rể của công ty mới đi tây về, xẩm chiều qua, da trắng nhễ nhãi phá hòm gỗ, sớm nay chắc làm xong gác xép, thừa gỗ gia cố biên giới giữa hộ tôi và anh cho vững chắc.

Buổi sáng tuần thứ hai đi xếp hàng lấy nước máy ở đầu nhà A3, gặp ngay Phạn. Hắn đang rửa cái thùng to còn dính cáu mỡ lòng và tiết lợn.

- Chào ông bác! Gớm làm gì mà chèn chắn ghê thế. Để hổng ra một tẹo cho thoáng. Đã bó rì rì các bố lại thi nhau bưng thêm. Đứa đếch nào nghe tiếng phì phò! Em cũng như bác, lúc mải cái ấy thì để ý đến ai.

Phạn bán tiết canh lòng lợn chợ cóc (13). Gã vừa nói vừa đổ òa thùng nước đầy bọt mầu hồng lênh láng khắp mặt đất. Mắt nháy với tôi nom vừa từng trải vừa bất cần.

- Ấy, mình che chắn gì đâu. Bụi quá!

- Nói là nói thế thôi, chứ ông bác có đổ tường xi măng em cũng kệ. Phía em căng cái nilon xanh vừa dịu vừa cách âm hết xảy! Ông bác đi tây hôm qua mới lấy hòm về. Bốn năm cái Kích(14), một đống hàng như núi. Tiên sư! Các bác sướng thật! Chả đầu tắt mặt tối như cánh em!

Tôi không dám trả lời câu chủi đổng bất ngờ ấy, tủm tı̉m cười và lấy thùng nước quẩy nhanh về: “Tớ cũng như ông thôi!”. Phạn có thể nhìn dáng cà nhắc của tôi mà đoán ra điều gì, chắc thế, ái ngại mời với: “Em nói cái bác Thủ thôi! Bác xá cho! Chủ nhật này rỗi, tối, ông anh sang em làm chầu tiết canh nhé. Đừng khách khí ông bác ạ. Trước lạ sau quen!”

Điều mà Phạn vạch ra trần trụi ấy là có thực, nhưng mà không đáng lo. Bởi vốn hay e thẹn nên vợ tôi nhất quyết bất động trong thời gian khi mấy nhà mới đi nằm. Chúng tôi thường rón rén yêu nhau lúc gần sáng. Khi ấy chı̉ có tiếng chuột chạy, tiếng gió đu đưa sáo trên các lỗ tre, tiếng thở, ngáy đều đều của bốn đứa người ở hai hộ bên.

Mọi sự hoạt động của ba hộ, sau ba tuần chúng tôi đã thuộc làu lịch ăn uống, khẩu vị từng bữa, sinh hoạt, yêu nhau. Tất cả như một mùi hỗn tạp song vẫn phân biệt được, nhất là mỗi chiều chủ nhật, ba nhà cùng nổi lửa. Mùi tỏi xào thịt bò của anh Thủ, mùi rau muống xào tóp mỡ của vợ tôi hòa trong mùi rượu đế thơm nức với tiếng mỡ sôi lép bép, béo tanh khi nhà Phạn rán cá.

Mùa hè năm ấy, gió quật từ hồ đem theo cả mùi ngai ngái và hơi tanh của bèo tây và bọt khí lòng hồ. Tôi thường đọc sách tới khuya bên vách đất. Vợ tôi đã lăn ra ngủ, thở đều, đôi chân trắng nõn của nàng gác lên bức ngăn gỗ.

Tất cả quen dần như vậy. Nó cũng giống như ta thở hít thứ không khí làng quê. Hương làng sống ăn đời ở kiếp bao đời với đa số người Việt Nam, nhưng chẳng ai để ý. Khi ra thành phố, vẫn nhơ nhớ một cái gì đó, thiêu thiếu cái gì đó, xưa ẩn dấu trong vô thức, nay có dịp, hong hanh nhớ ra, gợi về cái làng xa kia mà chẳng nhớ rõ mùi gì.

Tuần thứ tư từ khi lấy nhau, vợ tôi ghi một dấu thập to vật trên tờ lịch. Mới chín giờ tối, mà hai nhà bên đã tắt đèn. Tôi đành tắt đèn trần và bật cái đèn ắc quy vẫn dùng khi mất điện.

- Trời nhiều mây, gió nhẹ, nhiệt độ từ 18 tới 25 độ. - Tôi tắt vội đài.

- Tiên sư mấy con phò bán trứng(15). Bảo mấy lần rồi mà nó cứ chèn ngang vào đầu hàng nhà mình.

- Ngày mai anh sẽ bảo nó. Thôi, lại đây! Anh chúa ghét cái thứ khuy cài. Mai anh lên Hàng Đào mua cho em cái loại mới về của Thái! Mềm và đẹp lắm. Sờ vào, mát cả tay!

- Rõ dơ! Tay gì như hòn than thế!

- Gớm… có tiếng khúc khích rồi yên một lát.

Tôi cố tập trung cúi xuống đọc tiếp giáo trình thương phẩm để khỏi mang tiếng là nghe trộm.

- Anh yêu em như thế nào? Có tiếng rất nhẹ từ chái phải vọng sang. - Tiếng Huyền!

Tôi bịt tai lại. Đầu ong ong mà vẫn nghe tiếng rinh rích của bầy chuột đùa chơi trên trần nhà. Bịt tai mới được muơi phút phải bỏ hai ngón tay ra. Khó chịu quá!

- Mùa đông bên kia lạnh lắm. Tuyết trắng xóa. Anh ở nhà một mình ngồi nghĩ tới em!

- Nói dối !

- Thật đấy, đóa hồng của anh!

- Ai tin ma ăn cỗ?

- Nhìn trăng kia kìa. Có nó chứng giám cho anh!

- Bây giờ của anh rồi, ván đã đóng thuyền. Còn yêu thế không?

- Hơn chứ, Cưng ơi! Anh yêu em bằng cả trái tim chı̉ dành cho em!

Tôi chợt nhận ra, trăng lên thật. Tia sáng loang loáng như lưỡi kiếm màu vàng chém xéo qua khe cửa xuống vạt chiếu vợ tôi nằm.

Có tiếng gì chun chút như tiếng mở cái giác chữa cảm khỏi da thịt, như mút bóng từ miếng bóng bay vỡ, vọng từ chái phải. Lại nghe: “Anh thích trai hay gái?”

- Trai gái đều được tuốt! Gì cũng thích.

- Em thích con trai!

- Anh cũng thích con trai!

- Em thích con gái!

- Thôi, gái trai như vậy cả. Đấy! Con gái nhé! - Có tiếng thở. Tiếng cựa mình. Rồi tất cả chìm trong im ắng như tuyệt đối. Một lát lại nghe tiếng sột soạt của áo quần. “Ngày mai anh còn đi lên viện, có cuộc họp rất quan trọng! Thôi, ngủ đi cưng!”

Gió đêm nổi lên. Đập vào chỗ trần nào kẹp không kỹ, dập lên dập xuống. Hình như có tiếng thổn thức. Hay là gió?

Buổi sớm hôm sau tôi ra chợ. Đám hàng rong bán rau và trứng bầy lấn ra hết cả lối đi. Mới sớm mà trời oi lạ. Những người ở ngoại thành kéo ra bán rau tự sản từ tinh mơ, những người buôn từ chợ rau Mơ cũng đã qua nhà tôi rình rịch từ khi trời còn tối. Cái chợ bé mà chẳng thiếu gì. Tôm cá từ mạn Đuôi Cá tươi đành đạch trong các thùng sơn hay trên mẹt. Rau, dưa, hành, thơm, đủ cả. Quầy bán tiết canh lòng lợn ngay đầu chợ. Họ không trông thấy tôi. Tôi nhìn thấy Phạn thoăn thoắt thái lòng cho vợ anh xếp lên đĩa. Mùi cháo dăm hành phả ra thơm ngậy. Tôi nín thở. Tôi quay mặt đi vòng nhanh trốn chạy cái mùi hấp dẫn. Cồn cào! Tới chỗ bán đậu phụ còn nghe tiếng Xuân lanh lảnh: “Nhà em hãm tiết bảo đảm, nước luộc lòng sôi trăm phần trăm. Các bác có chén tới ễnh bụng cũng vô tư đi!

“Này con kia! Ông đã bảo không quang thúng chềnh ểnh chỗ đấy cơ mà. Đổ xe của khách ông bảo”. Tôi quay mặt đi. Giọng Phạn! Có tiếng cười nồng khùng khục của ai đó. Tiếng ai: “Em đi đây, em đi đây!”

***

Tháng sau, phòng quản trị công ty cho người tới chuẩn bị mắc nước cho ba hộ chúng tôi. Người ta đo đạc sau nhà và quyết định đào phía sau một cái hố, xây bể nước. Công việc chẳng cần sự có mặt của tôi nên tối về mới biết công trình ngày mai khởi công. Phạn chạy sang nhà Huyền rồi quay sang nhà tôi: “Anh em ta mỗi người bỏ ra năm ngàn bồi dưỡng thợ. Chúng em tính giá lòng mua, đắt là hai lít chính hiệu Con Nai Vàng(16) nếp lủi. Thôi thì cho bọn nó nhờn mép một tí, không mai bể nước lại rò rı̉ thì chết cả nút.” Vợ tôi lấy tiền đưa Phạn. Gã cầm tiền xı̉a vèo vèo. Xong! Phạn cười, mùi rượu phả vào tôi: “Giầu mà kiết, anh ạ. Nó tưởng em lợi dụng chém nó, hỏi đi hỏi lại mấy đồng bọ, như thanh tra không bằng. Em cần đếch gì mấy cắc đểu(17) của nó”.

Nửa tháng sau bể nước xong. Cái bữa xả nước hồi hộp như đào vàng. Dòng nước trong vắt lừ đừ dâng lên trong bể. Cô Xuân, cô Huyền chốc chốc lại ra ngó xuống. Phạn và tôi xúc đất, than xı̉ làm một cái nền quanh bể. Từ nay chúng tôi đỡ chen chúc tranh nước quanh cái vòi công cộng. Cám ơn công ty. Công ty muôn năm! Phạn tự nhiên hô to như vậy, gã nằm lăn ra đất, sau khi dội ào ào liền mấy xô nước lên cái thân hình khi nào cũng ám lòng lợn và mùi rượu.

Vợ tôi dọn một mâm cơm đậu phụ và đĩa thịt vịt ra chiếc chõng kê ngay đầu hồi nhà Phạn. Dù đã mời gia đình cô Huyền trước, nhưng cô Huyền cười cười từ chối: “Các bác cứ tự nhiên xơi, chứ nhà em hôm nay có hội nghị đã ăn cơm rồi”. “Cán bộ có khác, suốt ngày đi họp, lại đỡ cơm nhà!” - Xuân nói.

- Gớm ! Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì cứt. Ấy, em xin lỗi bác! - Phạn nhìn theo cặp mông căng lẳn của cô Huyền tấm tắc cái quần hồng cô đang mặc để nhận một cái véo rứt thịt của vợ.

Đêm ấy thực là dễ chịu hiếm có. Gió phe phẩy, nhiệt độ chı̉ 18 độ. Tôi nằm xuống cứ thao thức mãi, có thể vì quá chén chăng? Trăng mười bẩy và ánh sáng của muôn ngàn tinh tú loang loáng qua các khe hở phía trước nhà. Tiếng đồng hồ rí rách, chậm và thong thả thế!

- Lần này thì trúng thật rồi anh ạ.

- Nói thật chứ!

- Tiên sư đứa nào lừa anh!

Tôi giật mình nghe tiếng ré lên nghẹt trong họng của Phạn sau đó. Tôi trả vờ ho đánh tiếng. Có tiếng đấm bùm bụp vào da thịt chắc nịch. Yên ắng một lúc, lại nghe :

- Anh yêu em không?

- Yêu!

- Yêu thế nào?

- Yêu đéo chịu được!

- Thật không?

- Đ. mẹ đứa nào nói dối!

Tôi thiếp đi sau tiếng rúc rích, tiếng chân chuột vẫn chạy trên tấm trần cót.

Tôi không hề biết rằng gần sáng hôm đó vợ tôi cũng trúng, bắt đầu có trong người một mầm sinh linh. Sự kiện phải hai tháng sau mới xác định được. Ba tháng sau, vợ cho biết tin ấy, tôi vừa mừng vừa lo. Mừng vì mình sẽ có con. Lo vì cuộc sống thế này, hai miệng ăn với lương lậu chı̉ đủ chi hạt tiện, nay mai thêm trẻ, nuôi nấng ra sao? Tôi không dám nói điều băn khoăn ấy cho vợ biết. Còn vợ tôi thì hớn hở khi thấy nụ cười của tôi trong đêm. Chưa gì nàng đã dự kiến tương lai của cái hoa mới vừa hong noãn. Nào là đi học trường y, trường nhạc, nào là sẽ may cho nó đồ màu xanh; nào là đi học bách khoa hay trở thành nhạc sĩ? Đàn bà trẻ bao giờ cũng lãng mạn như bọn thi sĩ ấy, còn khi đã có con, trăm công ngàn việc, họ có còn vậy không? Tôi không dám cười, lặng kéo vợ vào lòng, nhìn nước mắt vợ cũng lặng ứa và chợt nhớ bao nhiêu mộng ước trước chiến tranh tôi từng có.

Câu chuyện của chúng tôi nói nhỏ thế mà sớm ấy Phạn nghe thấy. Phạn chả hay dậy sớm uống trà rồi đi lấy lòng và tiết từ ba giờ. Vài tháng sau, khi thau bể nước vì con chuột nào ngu ngơ sểnh chân, chết nổi lềnh bềnh, Phạn khoe: “Vợ em cũng có rồi. Ba tháng! Mẹ em sờ bụng, xem tóc gáy bảo: con trai! Vợ chồng anh thì mong cháu đi học này, học nọ chứ con em chả cần học gì hết. Chı̉ cần biết đếm là đủ! Đếm không nhầm là đủ. Con trai cho học hết lớp năm, biết đọc báo. Con gái thì ở nhà giúp mẹ thái lòng, đếm tiền! Hết!”

Phạn nhoẻn miệng cười rồi vỗ vai tôi . Nụ cười của gã ngoắc tận tai, nom vô tư và rất thiện cảm . Nụ cười ấy xóa hết những nét rất sắc cạnh ở khuôn mặt phong trần của gã. Người ta, khi cười rõ hình thiện và ác, có phải thế chăng mà tôi quên đi hết nét mặt vốn dĩ chờn chợn của gã, giữ lại nụ cười ấy suốt bao nhiêu năm phiêu lạc sau này của mình. Bàn tay gã nặng và ấm đặt lên vai tôi. Tôi nghĩ, Phạn không đùa.

Mùa thu năm ấy đến sớm hơn mọi năm. Không gian trước nhà chúng tôi như rộng ra khi gió trở mình đùn hết bèo từ mặt hồ bên này sang bờ bên kia. Vợ chồng tôi cuốc đất, dọn bụi trồng rau ven hồ từ đầu hè. Thu tới, rau muống vừa cằn thì cải lên xanh. Nom rất mát mắt. Thấy vậy, vợ chồng Phạn cũng xí một khoanh. Cô Huyền cũng xí một manh, chạy dọc tới năm chục mét, rào kỹ mà chẳng trồng xới. Vợ chồng Phạn không mát tay, rau cải của họ chưa kín luống đã vàng. Bù lại, mấy hàng ớt của họ rất tốt. Xanh mướt và cho trái ngay. Phạn bảo, gã bứng cả gốc từ nhà bạn nên lạ đất và lắm phân gà mà như vậy, chứ chả giỏi giang quái gì! Con người em như ớt ấy, càng lạ càng tốt, nhiều phân rác càng hay! Lạ là cái gì nhı̉? Tôi chẳng biết gã muốn nói gì. Hắn lại bảo, hơn ba chục tuổi mới biết cái sở trường của hắn là chọc tiết và hãm tiết! Ông anh biết không, thọc con dao vào cái cổ mũm mĩm trắng toát để máu phun ra chói lòa ấy mà, chuyện ấy đâu có giản đơn. Phải biết! Phải xử chính xác lưỡi dao. Không run tay, chệch hướng. Chọc một cái, đứt màng trên. Dí cái thứ hai, trúng tim. Tiết chảy hết, không đổ màu tím, không còn một tiếng kêu. Đấy là nghề! Nghe gã nói mà rởn người.

Những khi rau rộ, chúng tôi tı̉a vài cây tươi roi rói chia cho hai nhà. Đúng là chúng tôi bắt đầu già trước tuổi, hay là khó khăn mà thấy vui vui bên luống rau. Những câu chuyện bên cái vườn ấy lan man đủ thứ. Tôi biết thêm việc Phạn cũng từng ở lính. “Ông đừng nhìn tôi bây giờ mà đánh giá nhé! Tôi từng là học sinh giỏi, chẳng khi nào chịu tổng kết các môn tự nhiên dưới điểm 9 đâu!” Phạn mở màn với câu như vậy.

Phạn vào Bình Trị Thiên hai năm, đánh dăm trận rồi bị thương, ra Bắc điều dưỡng. Cả năm, anh đi xin việc khắp nơi mà không có công sở nào nhận. Sau nhờ bạn đồng ngũ, làm ở lò mổ dạy cho nghề tiết canh lòng lợn, lại tìm cả mối bỏ hàng. Phạn kể “Gia đình tôi gốc ở Nam Hà. Hai đời các cụ kỵ đều đỗ đạt, làm quan cho triều Nguyễn. Đời ông cũng bằng tây, chữ ta đủ cả. Tới đời bố tôi thì ruộng nương cũng chẳng còn mà cái sở học, tiếng tây, những sự biết của ông về Hắc Sơn, Man, Chu Chi, Hê Min Uê(18), đại loại như vậy, trở nên thừa thãi. Chẳng kiếm đủ cơm ở Hà Nội, bố mẹ tôi lên Tuyên Quang khai hoang rồi lại xuôi Hà Nội. Xoay đủ thứ, sau chuyển làm hộp giấy gia công, rang xay cafe. Khi sinh tôi, mẹ tôi chı̉ muốn tôi sau này đủ ăn nên đặt tên tôi là Phạn. Phạn là cơm. Mẹ tôi nói vậy. Người ta đói thì cần cơm. Cha mẹ tôi trong loạn lạc triền miên, nên giản đơn mong tôi có ăn là đủ. Các anh chị tôi tên đẹp lắm, nào Hùng, nào Lan, Ngọc. Chuyện tôi lấy vợ là duyên số. Tôi quen cô ấy trong một lần đi xem phim ở Tháng Tám. Gặp người ta gây gổ với nó. Tôi can thiệp. Sau đó nên vợ nên chồng. Vợ tôi như miếng mỡ gầu, ngu hơn tôi một chút. Cô học chı̉ hết cấp hai. Cái thời sơ tán, đạn bom, đi theo mẹ lang thang suốt trên những chuyến giao hàng. Nồi lành úp vung lành, méo úp méo. Chúng tôi hợp nhau. Trời cho lộc thì chả mấy chốc tay dao tay thớt mà có của ăn của để!”

Đêm ấy tôi nằm nghĩ lại chuyện Phạn. Cái tên là lạ của anh ấy cũng có cả một lịch sử dằng dặc của mấy đời. Đời phức tạp quá hay con người ta trót mơ mộng nhiều nên khi vỡ mộng thì quay lại thực tế với những điều giản đơn nhất? Lạ thật, có còn xứ nào cái tên cũng cõng theo thân phận, ước mơ của một kiếp đời không?

Vài lần, khi cả bọn đang làm vườn, tôi thoắt trong thấy bóng anh Thủ nhìn chúng tôi qua cửa sổ. Cái nhìn rất khó hiểu, gật đầu chào nhau mà tôi vẫn thấy có gì đó không cắt nghĩa. Sao anh ấy không trồng hái gì nhı̉? Tôi tự hỏi khi cô Xuân và vợ tôi vừa nhổ cỏ vừa thì thào. Họ thương cùng kiếp đàn bà mà sao chị Huyền vợ Thủ chưa có gì.

Tôi bước vào năm cuối cùng tại chức nên rất bận. Tuy nhiên vẫn phải chuẩn bị vật chất cho đứa con sắp chào đời. Tôi đi làm thợ hồ, thợ chụp ảnh đám tang, đám cưới, làm điện trong tất cả các ngày chủ nhật, cả ngày lễ, tết. Vợ tôi năng lên bà ngoại lấy tóp mỡ, dưa, thịt kho, cá kho. Vợ chồng Phạn thì xoay ra mua lợn tự mổ, bán kèm thịt. Có hôm, không mổ ̉ơ nhà chủ lợn, Phạn đèo lợn bằng xe đạp về chọc tiết ngay đầu hồi. Hắn làm thế nào mà không có một tiếng kêu. Sáng ra, thấy vệt máu mới biết đêm qua hắn làm lợn ở đó. Tôi bảo, ông khéo thế! Gã hiểu ý tôi cười: “Sợ làng xóm mất ngủ thôi, còn mấy ông bác thuế vụ, có phần cả rồi!”

Vợ chồng anh Thủ vẫn đều đều đi làm. Mỗi sớm, anh dắt xe máy qua cửa nhà thấy tôi gật đầu chào. Bây giờ anh để bộ ria đen nhẫy, cặp kính râm vừa khuôn mặt màu xám nom rất hợp. Mắt luôn nhìn thẳng như chưa bao giờ trông thấy chúng tôi. Tôi nghĩ, mỗi người có một cá tính và sống bên Tây rồi nên như thế. Nhưng Phạn thì phản ứng ra mặt. Một lần đụng nhau ở chỗ bể nước, Thủ vụng về để rơi thùng múc nước xuống mà không sao lấy lên. Phạn nhổ nước bọt ra dáng khinh bı̉, đu xuống lấy hai chân khều cái dây lập lờ lôi lên. Thủ không nói gì, mặt hơi tái, xách xô nước đi về nhà không ra nữa. Cô Huyền ra kín nuớc thay chồng. Phạn múc nước giúp Huyền, lại xách cả hai thùng về để ở đầu hồi nhà Thủ. Không hiểu sao Phạn hay ác cảm với Thủ như vậy?

Sau tết, qua xuân, sang hè, cái bụng vợ tôi cao lên bao nhiêu thì công việc chuyền sang tôi bấy nhiêu. Vợ tôi yếu, người vàng nhớt. Cô ấy chẳng chịu ăn, hơi trở trời là kêu mỏi, đau. Vợ Phạn thì không như vậy. Chị quần quật từ sáng tới tối mịt như chưa từng có chửa. Cái bụng ưỡn ra phía trước, bước chân khuỳnh khoàng nhưng vẫn thoăn thoắt đi trước gánh lòng, thịt chồng gánh. Đúng là trời sinh ra mỗi người một phận. Chúng tôi thường an ủi nhau rằng có con thì hạnh phúc phải trả giá, thêm vất vả, neo bấn. Cô Xuân đôi khi e ngại nhìn vợ tôi rồi lại bảo: “Sướng chán, nom con Huyền kia kìa, có cái đéo gì để sướng như tụi mình đâu!” Lời thì thế, nhưng mặt ngó không có ý ác. Vợ tôi nhăn nhó cười.

Tháng tám vợ Phạn sinh trước. Một thằng con trai rõ to khỏe, bốn cân hai, chân tay mũm mĩm, mắt đen nhìn lơ láo, miệng đỏ tươi như múi quýt hồng. Tôi hỏi Phạn, đặt tên con là gì? Phạn bảo: ‘‘Tiến! Tiến lên ông ạ!”

Hồi ấy, Hà Nội chưa chơi Tá Lả, mới có trò Tiến Lên. Giá có Tá Lả thì chắc Phạn đã đặt tên con là Tá.

Vợ tôi vật vã hai ngày hai đêm trong bệnh viện Bà Mẹ Trẻ Em. Mụn gái chưa đầy ký rưỡi, ủ trong lồng kính, chân tay đầy lông như con chuột con, nom rất thương. Phạn chắc cũng như tôi chı̉ mong mọi việc xong là về nhà với con. Khuôn mặt người ta có hạnh phúc là biết ngay, lúc nào Phạn cũng tơn tớn. Không biết nom mặt tôi có thế không?

Sự thật là như vậy! Nhưng bên niềm vui dễ cảm nhận ấy thì Phạn rất vất vả trong mỗi phiên chợ mà chı̉ có mình anh. Tôi thì khỏi phải kể. Ai đã từng có con ở cái thời bấy giờ, cái thời mà mua một hộp sữa, một lạng sườn nấu cháo cho trẻ cũng phải cân nhắc, đắn đo mãi, phải nhịn ăn, nhịn tất cả mọi sở cầu vật chất, tinh thần của người lớn như thịt tươi, xi nê. Sự ấy, cho tận tới khi con gái tôi biết đi, biết chạy và đến lúc bẩy tám tuổi, chúng tôi chưa hết vất vả vì cháu luôn đau ốm. Tim dị tật, bẩm sinh, phản kháng rất nhậy với đủ mọi thời tiết. Sau, do tiêm gì đó động huyệt, chân cứng nhắc, đại tiện đứng rất tội! Không khí trong nhà luôn căng thẳng, nhất là những ngày nóng bức mà con khóc ngặt nghẽo, mềm lả trong tay người vợ tôi.

Có thể tất cả những điều ấy đã làm cho một thằng tôi, một người quen với cuộc sống 12 năm ở lính, chı̉ quen chấp hành mệnh lệnh, nay trở nên một người hết sức lúng túng chăng? Đi bộ xuyên rừng tốt, kiếm rau rừng tốt, kinh nghiệm tìm nơi ẩn giấu, giữ cái mạng mình tốt, nhưng chả biết gì ở cuộc sống một cặp vợ chồng phải mềm mại giải quyết những khó khăn khi rơi vào hoàn cảnh mà tôi kể trên. Tôi trở nên thường xuyên cáu bẳn vô cớ. Vợ tôi cũng hết cả sự dịu dàng của cô kỹ sư trẻ vừa ra trường. Cả hai kẻ chẳng đứa nào xấu, nhưng ngô nghê trước cuộc sống gia đình vốn chả giản đơn. Sau này nghĩ lại, tôi vừa xa xót vừa ân hận. Nhất là nghĩ tới vợ tôi, người suốt cả thời gian ấy phải chịu đựng quá nhiều, việc cơ quan, việc nhà, việc con cái ốm đau. Song thường là, người ta có gục xuống, thì mới nhận ra điều đã mất. Đã mất đi thì cái gì chứ tình cảm như con chim sổ lồng đã vụt bay mất rồi.

Chúng tôi cãi nhau về những điều rất lặt vặt trong đêm. Từ chuyện tôi hút thuốc nhiều; chuyện đi hôm về tối chẳng buồn nhắn một câu; chuyện sao nhà bừa bộn thế, đến cái đầu tôi luôn hôi, bốc mùi trong căn buồng hẹp! Tất tần tật! Mọi sự cứ sinh sôi, chất đầy, nèn chặt trong cái hộ vốn hẹp tí của chúng tôi. Tháng, năm, những giọt nước mắt khô đi để lại khuôn mặt lầm lì và nặng chình chịnh của vợ cả mỗi khi cơm nước dọn ra; có khi bất ngờ không duyên cớ, những tiếng bát vỡ tan tôi ném vào cái cửa đầy những khe hở. Trong khi đó, cuộc sống của vợ chồng Phạn, Xuân vẫn hùng hục như ngày nào, vất vả hơn, nhưng thực là thứ cây hoang dã bất chấp mọi thời khí, để những khi Phạn dậy muộn, chúng tôi phải nghe một câu chửi rất chói tai của Xuân:

- Trời ơi, đéo mẹ nó chứ, bảnh mắt rồi mà bố con nó còn ôm nhau ngủ như chó thế kia?

***

Khi đứa trẻ đầu mới chập chững biết đi thì vợ Phạn lại chửa. Công việc đòi hỏi cần có người giúp đỡ. Lúc sinh con đầu lòng, mẹ Xuân tới, hai tháng quần quật giặt tã đỡ đần Phạn. Lần này Phạn dứt khoát không muốn mẹ vợ vất vả. Sáng xuống nhà, chiều ngược vào phố. Bà ngoại già rồi, phải ngơi chút xíu chứ! Phạn bảo vậy.

Một cô gái thôn Linh Cầu, đang tuổi xuân thì, em họ Xuân, tên Phượng. Tóc dài mượt đến ngang lưng. Hai tháng trời ra Hà Nội ở nhà trông cháu, không mưa đồng, gió bãi, trắng ra, mắt luôn lấp lánh, đôi má mơn mởn như rắc phấn.

Có người giúp việc, quán xuyến, tháo vát từ trông cháu tới cơm nước, vợ chồng Phạn rảnh rang đan tay làm ăn. Mà đúng khi ấy, Hà Nội đang rộ cao trào nhà nhà nuôi lợn, nên công việc giết mổ, tiết canh rất thuận. Phạn bận bịu lắm, quần quật suốt tháng, suốt năm, nhưng vẫn phởn ra hơn cả hồi mới lập gia đình, lại bớt say ngất ngư. Một bữa Phạn sang tôi bảo, sao vợ chồng tôi không thêm một nhau. Cho có lứa! Cho chó có đàn! Tre ấm bụi! Như cách nói của Phạn. Hắn cười hoắc cái miệng khi ghé tai tôi: “Hay máy ông anh tịt rồi?”

Phạn thừa sức biết gia đình tôi khó khăn ra sao, nhưng điều hắn không thể biết là tôi đã rất nhiều lần phải tự dày vò với mình khi công ty mở chiến dịch giải toả hàng, điều cán bộ bảo vệ đi áp tải. Chı̉ cần phẩy tay một cái, trút ngay vài can nước mắm là có mấy tháng lương. Sự hao hụt vài chục lít nước mắm sẽ được bù trừ dễ dàng bằng nước ruộng. Nhưng tôi không sao làm được cái điều giản đơn ấy. Can nước mắm trở nên nặng như buộc đá mỗi khi định xách nó xuống xe dọc đường. Hay, vì công việc chuyên môn, những lần lập biên bản, giáo dục những người ăn cắp hàng hóa níu tay tôi lại; hay từ điều xa xôi nào, ẩn tàng một cái nhìn như quở trách con người thực tại của tôi khi ấy. Ai nhìn tôi? Mắt vô hình! ở đâu, từ đâu nhı̉? Tôi cũng không tự lý giải ngọn ngành mà chắc Phạn càng không biết. Hay là hắn biết mà không thèm nói, vì có lần thấy tôi đăm chiêu, hắn bảo: “Các ông là hay phức tạp lắm. Đời rắc rối quá rồi, cứ để nó thiên nhiên! (19) Nghĩ nhiều là tổn thọ!”

Vợ chồng Thủ, Huyền vẫn chưa có con. Tôi ngửi thấy mùi thuốc bắc đủ loại thơm phức bay sang nhà tôi. Tôi luôn nhìn thấy khuôn mặt đã buồn buồn lại buồn hơn theo năm tháng của Huyền. Anh Thủ vẫn qua cửa nhà tôi mỗi sớm. Cái Mu Kích đã thay bằng chiếc xe Hon Đa đầu bằng máy cộc, long lanh giọt lệ(20) , nhưng khuôn mặt thì chẳng đổi, vẫn là cái gật chào rất lịch sự, bộ ria nhẵn nhụi và kính nâu nhạt.

Năm ấy hay mất điện. Mất điện thì ngày cũng như đêm. Ngôi nhà của chúng tôi biến thành lò thiêu. Riêng chái nhà Thủ ở hướng Nam, lại có bóng cây lớn phủ lên và Thủ trổ thêm cửa rộng đằng hồi, nên rất mát. Buổi chiều, bên hồi ấy trẻ con hai nhà hay làm sân chơi. Phượng cũng bế cháu ra đó cho uống sữa, ăn bột, hóng gió.

Tháng bẩy, Cô Huyền đi dưỡng bệnh trên Tam Đảo một tháng theo tiêu chuẩn công đoàn. Chắc ở nhà buồn, chiều nào anh Thủ cũng ra chơi với trẻ con. Nom người vậy mà dỗ trẻ còn tài hơn cô Phượng. Anh bế con Phạn rung rinh trên tay, cười nắc nẻ. Tôi nhìn ra chợt thấy thương anh. Căn hộ chật ních tiện nghi, lương lậu đủ chi, lại thấy anh luôn có khách tới mua bán đồ phim giấy, chắc kiếm ăn được. Thế mà anh chưa có một đứa trẻ! Nom đôi mắt và cái miệng có ria xanh kia nựng trẻ tươi ron rón, chắc cũng thèm một mụn con?

Cuối tháng bẩy, trời chợt đổ cơn mưa chiều bất ngờ. Cô Xuân từ chợ đội mưa về lấy thêm nước mắm, thấy dãy quần áo chưa kịp rút, ướt sũng trên giây phơi. Xuân ngó vào nhà chẳng thấy cô em đâu. Linh tính thế nào, cô đạp mưa, chạy xô cửa nhà Thủ. “Con em tớ còn ôm cháu. Mặt gục xuống. Thằng khốn nạn đã cởi hết khuy áo của con bé dại dột. Thền lễn vú vê, hêu hếu cả rồi. Tớ điên hết cả người, chả kịp nói gì, lao vào giật con và tát ngay một cái lệch mặt thằng khốn nạn.” Hai tuần sau Xuân vẫn kể hệt như vậy với vợ tôi.

Đêm ấy tôi tưởng tượng lại câu chuyện qua lời thuật của vợ. Tôi thấy Thủ mặt tái với vệt tát đỏ, cúi mặt xuống. Thấy tiên nữ làng quê của tôi hới hải ôm áo đội mưa chạy về nhà. Thấy Xuân chạy ngược ra chợ báo tin dữ với chồng mà Phạn mặt tím lại nhưng vẫn bình thản thái thịt xếp lòng. Tôi nghĩ Phạn sẽ vác dao xông vào băm cho Thủ mấy nhát. Nhất là vợ anh cứ sấn sổ quát: “Bỏ dao thớt đấy cho tôi, về cho nó biết thế nào là mỡ chài với mỡ khổ!”

Vậy mà im như thóc. Tối ấy, Phạn vẫn sang tôi uống trà nhưng lầm lì, không hé răng về chuyện đã xảy ra.

Mưa chiều làm nhẹ không khí cho vợ chồng tôi ngủ thiếp từ chín giờ. Có lẽ hai giờ sáng, tôi chợt tı̉nh vì tiếng thì thào từ nhà Phạn vọng sang: “ Tôi nói như thế đủ rồi. Đàn bà như cô biết đéo gì!”

Có tiếng thút thít. Không biết Xuân khóc hay cô Phượng khóc. Lại nghe.

- Em cô vú vê nòn nõn như thế, làm đếch gì không có đứa thích. Nó chưa tụt quần em cô là may rồi. Xử như cô chả ra sao, lại tan nát hết! Lỗi ở con mả mẹ kia nữa. Con gái phải biết giữ mình. Các bà, cái gì chả đổ tội dâm ô trụy lạc cho đàn ông! Đàn ông, đàn bà đều là đàn. Còn thằng Thủ, tôi có cách của tôi. Sao cho nó sợ mà lại biết rõ bộ mặt nó, cho nó biết rõ cái mặt mình. Khóc gì nữa. Ngủ đi, mai còn chợ. Con Phượng muốn lên thành phố thì thiếu gì chỗ. Bạn bè tôi, dân giang hồ, tứ chiếng, đủ cả! Không thiếu thằng chồng ra chồng. Các bà thời này cứ tưởng, mới một tí là tru lên như chó, khóc thảm như thiên hạ khóc Kiều ấy! Bà biết Kiều không? Hay đếch biết nốt? Cũng như cô em cô thôi. Đẹp mà, thời nào chả chết! Không đẹp thì chó nó dòm, một quan cũng chả đắt, tiền đâu chuộc ông via. Nín ngay cho tôi nhờ! Thế đấy! Chán quá! Đời ơi là đời! Lý thuyết lằng nhằng với cô chán bỏ mẹ. Ngủ đi cho nhanh để mai còn chợ búa!

Tôi bàng hoàng. Thì tôi cũng là thứ chẳng ra gì. Tay đây, vai đây, sức vóc đây mà như bị vòng kim cô thít chặt. Xoay xỏa như thế nào, kiểu nào cho vợ con mát mặt? Tôi nín thở, cắn răng để khỏi đấm mạnh xuống giường.

Buổi chiều hôm sau. Biết Thủ có nhà, Phạn sang rủ tôi sang. Tôi từ chối. Nhưng Phạn quyết kéo tôi đi. Anh không lo! Phạn này chả dẫn ai vào thế cùng đâu, gã nói vậy và kéo tôi xềnh xệch ra cửa.

Cái bàn gỗ lát có tấm kính và bộ uống trà men sứ tây long lanh trước khuôn mặt tái nhợt của Thủ. Tay anh run run nhưng còn chút bản lĩnh để mở cửa, lịch sự mời chúng tôi vào nhà. Đôi mắt Thủ vốn vô hồn, giờ đây nhớt nhát, khó tả quá. Tôi ngoảnh mặt đi chỗ khác, nín thở. Không khí căng, im như khi tôi lên dây mí đàn ghi ta.

Phạn vào đề ngay. Tiếng anh nhỏ, nhưng gằn:

- Nói cho ông biết! Vuốt mặt phải nể mũi! Đánh đĩ thiếu đéo gì nơi. Nó là em tôi! Chúng tôi không phải là chó! Cho ông một nhát thì dễ hơn chọc con lợn. Nhưng như thế thì tiệt cái thứ giềng tỏi xóm gừng. Ông định lợi dụng nó thì phải rứt khoát sang xin lỗi vợ tôi, xin lỗi con Phượng. Còn muốn có con vì vợ thiếu trứng, hoặc yêu thực nó thì báo vợ. Có gan! Tôi cho ông quan hệ thoải mái. Đ…mẹ! Đừng có lập lờ! Hẹn cho ông ba ngày! Nếu không làm thì nói một câu cho nhanh! Nhắc lại, chúng tôi quyết không phải giống chó! Nhưng…!

Phạn chợt dừng nói. Anh đứng phắt dậy. Tôi giật thột nguời.

- Thôi! Đủ rồi! Phạn kéo tôi đứng dậy, đi luôn.

Suốt vài hôm, tôi không thấy bóng Thủ. Hắn biệt đi hai hôm, lại về. Tôi không rõ việc Thủ có gặp Phạn không và nếu gặp thì gặp ở đâu, nhưng thấy Phạn trở lại vẻ tơn tởn xưa. Thậm chí còn tı̉nh bơ huýt sáo như chưa hề có chuyện gì. Mãi nửa năm sau Phạn mới bảo, nó thực hèn, đạo đức giả, cố làm sang, tách ra khỏi hàng xóm láng giềng. Đi mẹ đâu cho khuất chứ còn gầm trời này, phải thở khói bụi này! Nhưng may là nó còn biết thương vợ một chút. Còn không thì em bảo, Phạn này không thích đùa dai.

Chuyện chı̉ biết đến vậy. Mắt gã khi ấy kinh thật! Quắc sáng như điện, chớp lạnh cả sống lưng tôi.

***

Hết đợt nghı̉, Huyền về và sự việc Thủ với Phượng chìm trong lãng quên. Cũng còn do sau đó hai tháng Phượng về quê, thế chỗ là một chị cứng tuổi, cũng em Xuân. Đùng một cái có tin vợ Thủ có mang. Một năm sau sinh một cháu gái rất kháu khı̉nh. Con Thủ đầy tháng, cô Huyền tổ chức đầy tháng cho con, xe pháo chật cả dẫy bên hồ.

Chúng tôi, hàng xóm láng giềng cũng sang mừng vợ chồng Thủ. Vợ tôi và Xuân bàn nhau đi mua quà mừng. Họ mang về một cân đường, hai chục trứng gà, một bộ quần áo lọt lòng rất đẹp trên hàng Đào làm quà mừng đẫy tháng. Từ nhà Thủ, xong việc, Phạn vào tôi uống nước. Hết tuần trà thứ hai, gã ghé vào tai tôi nói: “Ông có thấy con bé giống ai không?” Tôi trừng mắt lên ngạc nhiên. Phạn cười bảo: “Nó chẳng giống ai cả. Thụ tinh nhân tạo đấy! Như lợn ấy mà. Ông không biết chuyện này đâu. Nhưng tôi thì biết rõ!” Tôi có cảm giác bất nhẫn, nhưng lại nhớ lại việc gặp vợ chồng Thủ ở viện bữa nào mà họ cứ né mặt. Có thể như vậy thật. Trầm ngâm một lúc, Phạn lại nói: “Cái hôm nó gặp tôi để nói chuyện con Phượng, có lúc điên tiết, tôi đã tính đạp mẹ nó xuống hồ, thí cho một nhát. Đến lúc nó cúi mặt xuống, kể chuyện rằng vợ chồng phải thụ tinh nhân tạo thì mình lại thấy giận dữ, căm thù cái bộ mặt đểu giả của nó biến đi đâu hết cả.”

Từ ngày có con, Thủ chẳng thay đổi gì, vẫn khuôn mặt như hôm nào, nổ máy xe nhè nhẹ qua cửa nhà tôi.

Gia đình Phạn cũng thêm đứa nữa là ba mống, hai trai một gái. Vợ chồng tôi vẫn ở với nhau. Chúng tôi hoàn toàn tan vỡ về mặt tình cảm nhưng bệnh tật của đứa con gái vẫn níu chân nhau lại. Có bận, tôi bỏ nhà một đêm sau lần tôi thư từ với một bạn gái cũ tận Huế, bị vợ nghi ngờ trai gái, vặn vẹo rồi ném thẳng vào mặt một câu nói khinh bı̉: “Anh là đứa phản bội. Từ bộ đội về, thực khố rách áo ôm! Bây giờ no xôi chán chè lại định mèo mả gà đồng hả. Muốn bỏ mẹ con tôi thì nói cho rõ ràng rồi chia tay!”

Tôi không muốn thanh minh cho sự hèn hạ và kém trải đời của tôi khi ấy. Tôi không đủ sức chịu đựng và hiểu ra nguồn cội câu nói nặng nề của vợ. Tôi cảm thấy bị xúc phạm nặng nề. Tình cảm của cả hai như con chim sẻ già bị bẫy vào lồng, cố vùng vẫy càng xơ xác. Chı̉ còn nước chim tự cắn lưỡi chết hay vụt bay đi khi cửa lồng vô ý hé mở. Như thế, vợ tôi và tôi là hai bóng ma buộc vào đứa con tật nguyền.

Năm 1988, con gái tôi đã hơn mười tuổi. Cơ quan có đợt đi Đức. Tôi quyết định ra đi mong: “Có tiền mà tay vẫn sạch”. “ Cũng nên biết ở xứ khác, người ta sống thế nào” vợ tôi nói vậy. Chúng tôi quyết định, nếu tôi đi thì bán căn hộ ấy để vợ tôi có cái mà chi tiêu chữa chạy cho con. Vợ tôi cũng muốn đi chỗ khác. Cô ấy bảo, đất ấy xúi quá nên con cái không ra gì. Nếu bán hộ ấy, tính cả đất chúng tôi chiếm được trước, sau nhà làm vườn, chái bếp công ty mới làm cho ba hộ sau nhà, vị chi khoảng hai cây rưỡi. Tôi hỏa hồng một phòng nhỏ ở khu tập thể gần nhà mẹ vợ bên Tương Mai còn dư ra vài chı̉. Thế là quyết!

Vợ tôi đánh tiếng cho cô Huyền vì biết cô dóng tiếng mua nhà. Dây dưa hai tuần, ông Thủ dứt khoát chı̉ trả cây tám. Chuyện bán chác nhà tập thể khi ấy chẳng phải che giấu như xưa nên đến tai Phạn. Tối chủ nhật Phạn sang hỏi giá và không bớt một cắc, hẹn tuần sau chồng đủ hai cây rưỡi. Vợ tôi mừng rỡ, sớm sau vay tiền mẹ đặt cọc cái phòng nhỏ nói trên. Đùng một cái, thứ tối thứ hai vợ tôi lại nhận tiền đặt cọc của cô Huyền. Ba cây! căn hộ này ba cây! Vợ tôi báo với tôi giọng mãn nguyện.

Tôi không biết xử lý ra sao. Trời ơi, nửa cây với chúng tôi là cả gia tài lớn. Bảo vợ giữ lời với Phạn thì mất toi nửa cây. Tôi trằn trọc tới nửa đêm nhưng không sang nói lại với Thủ hoặc là thưa lại chuyện với Phạn. Đêm tối, tôi quay về nhà Phạn lầm rầm: “Phạn ơi tha thứ cho vợ chồng tôi!”

Ngày giờ tôi đi Đức được quyết định chính xác. Ngày giờ chúng tôi chuyển đi, bứt khỏi nơi chúng tôi sinh sống, chung đụng mười hai năm trời trong cái nhà ba hộ, đã xác định. Vợ chồng tôi vào đêm trước ngày chuyển nhà không sao ngủ được. Con gái đã ngủ, chúng tôi ngồi yên lặng nhìn nhau không nói một lời. Cô ấy đang nghĩ gì nhı̉? Bao lần tôi tự hỏi.

Phải hai ba tiếng sau đó, cô ấy phá tan sự im lặng, buột hỏi: “Anh có yêu em không?”

Tôi im lặng. Tôi cảm thấy thời gian nặng và chậm tới như ngàn khối bộc phá ở đâu đây. Mãi sau mới nói: “Anh thương em!”. Vợ tôi cắn môi. Nhìn tôi không chớp đến một phút và lặng lẽ đi tới bên cửa.

Đêm ấy, tôi linh tính cảm thấy cuộc đi của tôi là cuộc chạy trốn vô vọng hay cô ấy cũng cảm thấy điều ấy mà mọi sự nói chuyện phút chia tay đều trở nên vô nghĩa và dối trá?

Cuộc dọn nhà diễn ra trước khi tôi đi Đức hai ngày, rất nhanh và không kèn trống. Tôi và vợ sang chào Phạn. Vợ Phạn vẫn cười chúc chúng tôi may mắn. Phạn thì chẳng nói nửa lời. Mắt hắn lơ lơ nhìn đi đâu. Mãi lúc ra cửa gã mới hạ một lời gọn lỏn: “Thôi, ông đi!”

Gã giận là phải! Tôi nghĩ.

Tôi ngoái lại mảnh đất. Con đường. Cái hồ. Ba căn hộ!

Khi ấy bất chợt xuất hiện bẩy sắc huyền ảo của chiếc cầu vồng dẫn từ bên bờ bên này sang bờ bên kia hồ. Tôi dụi mắt. Không! Cầu vồng! Cái hồ nửa nắng, nửa mưa tạo thành cầu vồng, bắt đầu từ cái dải đất bên này vắt sang bờ bên kia.

***

Thực ra câu chuyện chı̉ nên kể đến vậy. Nhưng thật bất công nếu quên nhắc tới việc vợ tôi đã hết sức kiên trì theo đuổi chữa bệnh cho con gái tôi. Qua bàn tay của giáo sư X, với hai lần phẫu, mổ tim và mổ chữa xơ cứng cơ tứ đầu đùi, con tôi hoàn toàn đi lại bình thường. Tất nhiên cũng phải tốn kém. Con gái chúng tôi học xong đại học và ra trường, nay công tác tại một viện khoa học. Nửa năm, sau khi nó khỏi bệnh, tôi nhận được thư và đơn ly hôn của vợ tôi gửi sang. Thư khá dài, nhắc lại thêm đau buồn. Nhưng không bao giờ tôi quên được đoạn thư sau: “Em biết, anh không yêu em. Sự cầu mong một gia đình, sau lần anh cãi nhau với chị dâu anh, dẫn đến việc chúng ta đột ngột quyết định từ mới quen biết thành vợ thành chồng. Đốt cháy giai đoạn, cả em và anh đều ngộ nhận. Tuy mỗi người ngộ nhận một dạng khác biệt. Chia tay, em cầu mong cho anh sẽ chẳng khi nào mắc lại khuyết điểm ấy. Không thể có một gia đình thiếu một tình yêu đích thực…”

Tôi về phép. Chúng tôi ly dị. Tôi thề chẳng bao giờ quay lại nhà ba hộ. Nó không có tội gì, nhưng tôi không muốn nhìn lại quá khứ, kỷ niệm một thời chật chội! Vì thế, mấy năm liền, dù vẫn về Việt Nam ăn tết với anh chị tôi nhưng không khi nào tôi ghé qua nơi đó.

Sự đời chẳng giản đơn giữ một câu thề.

Tết vừa rồi, tôi lại về thì gặp con cả của Phạn đi cùng chuyến, ngồi cạnh ghế. Vô tình hỏi chuyện, mới nhận ra cậu bé mũi xanh lét, ngày nào cha cậu định quyết số phận cậu chı̉ học hết lớp năm, biết đếm là ằ đủ. Thằng mũi xanh ấy, vừa đỗ đại học kiến trúc tại Đức với số điểm cao tuyệt đối và được ở lại để làm tiếp bằng tiến sĩ. Vậy là tôi quay lại nhà ba hộ với sự háo hức qua những lời kể của con Phạn: “Bố mẹ cháu vẫn nhắc tới bác. Mẹ cháu vẫn hay tới thăm vợ bác. Mà sao cả hai bác không đi bước nữa hở bác? Chú Thủ sinh thêm con gái nữa. Vẫn ở đấy, nhưng bây giờ nổi tiếng lắm. Chú ấy lên ti vi, viết cả thơ, mới đỗ tiến sĩ mỹ học gì đó! Cô Huyền lên Hồ Tây xây một biệt thự, sống hẳn trên đó với con. Bố mẹ cháu dạo này bỏ bán lòng lợn tiết canh, chuyển sang mở hai cửa hàng bia hơi. Người làm thuê bây giờ ở quê ra đầy nên bố mẹ cháu không phải đầu tắt mặt tối như trước nữa.”

Tôi bàng hoàng không nhận ra con đường cũ. Một dãy phố dù lộn nhổn nhưng đúng là phố, hiện ra bên hồ không tên xưa. Mặt hồ vẫn nhiều bèo tây và tôi cảm thấy hẹp lại. Tôi chẳng còn trẻ để xúc động, dù nhận ra cái mùi tanh tanh của nước hồ ngày nào. Ngôi nhà của Thủ và Huyền rộng tới hơn bẩy chục mét, cao vót lên với cái tháp tròn Ba Tư. Tháp muốn nghiêng chùm lên ngôi nhà ba tầng của Phạn. Được báo trước, Xuân ăn mặc rõ nuột nà, còn Phạn thì nghiêm chı̉nh trong bộ com lê màu xám rất điệu. Họ đã bốn cháu, nom cũng khác trước, đẫy ra và tóc đều đổ muối tiêu cả lượt.

Chẳng đứa nào chịu chı̉ biết đếm cả! Gã cười toác tận mang tai khi tôi nhắc chuyện cũ và chı̉ sang nhà bên: “Xem kìa! Ông tiến sĩ mỹ học xây cái nhà nửa tây, nửa ta cứ chực nuốt tôi. Tôi thu xếp xong cửa hàng bia hơi nữa cho ổn, sẽ bán đây đi, nhường khu này cho lão và chuyển hẳn đi anh ạ. Con cái đều muốn vậy. Chúng nó bảo, bố mẹ lưu luyến gì đây? Sau này người ta sẽ chẳng phá tất đi để xây lại hết cho mà xem! Bây giờ chả đứa nào nó nghe mình, nên mình khéo phải theo chúng lên khu mới làm nhà mới, cho đời chúng chuyển hẳn sang cái đất khác đi. Ông anh và tôi cố sống chờ xem bọn trẻ chúng nó có cơm cháo gì không rồi nhắm mắt. Mà đếnh ai biết được con tạo nó vần thế nào ông anh nhı̉?”

Phạn đặt tay lên vai tôi. Mắt ấy, môi ấy, hơi rượu thơm nức phả vào tôi để tôi nhận ra hắn đã rũ sạch nỗi bực xưa.

Mưa xuân lắc rắc lẫn trong nắng nhạt. Bụi cúc tần sót bên kia đường mới nhả đám tơ hồng vuơn lên chua chúa những sợi lua rua vàng óng, cố bứt lên, trong ảo huyền mưa nắng, khỏi màu xanh đông già, cũ.

Nước Đức - 2001

Cõi ảo

Cõi ảo

Câu chuyện này bắt đầu trên một trang Web(21) .

Rất nhiều người đọc mục “Tự truyện”, nhưng không một câu hỏi nào của người đọc làm tác giả bài viết, một cô gái trẻ quan tâm cả. Chuyện cô kể về một người mẹ, người đàn bà dũng cảm, kiên nhẫn đi suốt cuộc chiến tranh và hy sinh tất cả cho con bà ăn học nên người.

Người viết vào mục cảm tưởng là một nhà văn: “Thật là một người mẹ rất đáng kính trọng, không tầm thường!” Ông xúc động ghi lại cảm tưởng và xin người viết cốt chuyện để viết một truyện ngắn.

Giọng kể của cô gái rất vô tư và mộc mạc, nhân vật đứa con của người mẹ - người kể - do ghi tên cũng không có dấu nên ông tưởng lầm là con trai. Cô viết Trần Phượng thành Tran Phuong, vì vậy trong lá thư ông dùng đại từ anh để gọi tác giả.

Cô gái trả lời thư người bạn không biết mặt, đồng ý cho ông lấy chuyện cô đã kể làm tư liệu. Trong hai lá thư tiếp đó, hỏi thêm những chi tiết về người mẹ, nhà văn vẫn đinh ninh người viết cho mình là một cậu con trai. Thư nào ông cũng cẩn thận đề dòng cuối: “Tôi thực lòng cám ơn cậu đã trả lời thư tôi.”

Tình bạn của họ bắt đầu như vậy.

Truyện ngắn hoàn thành rất nhanh và trước khi gửi đăng, ông tri ơn người cung cấp tài liệu cho ông bằng cách gửi cho cô gái đọc trước khi đưa in.

Cô gái đọc xong truyện, gửi thư vội cho nhà văn, cải chính rằng, nhân vật trong truyện phải là một cô gái!

Tất cả tình tiết truyện đã được nhà văn cấu tứ rất nhịp nhàng, vì thế việc thay đổi giới tính của nhân vật tạo nên sự phức tạp không cần thiết. Thế là giữa họ có một cuộc cãi vã chừng hai, ba lá thư. Cuối cùng thì cô gái đành chấp nhận sự giải thích có tình có lý của nhà văn.

Vài tuần sau, nhà văn lĩnh nhuận bút, ông muốn gửi cô báo biếu và khao cô một chầu càfê. Thực khó lòng từ chối một lần hẹn êm đềm như vậy. Cô gái nhận lời.

Từ khi biết Phượng là một cô gái, nhà văn vẫn nghĩ về cô với hình ảnh một cô gái bình thường, khuôn mặt luôn có cặp kính cận như cô tả. Đối với ông, qua sự tan vỡ ở mối tình đầu thì hình thức là một khía cạnh quan trọng nhưng không phải là tất cả để nói lên bản chất của cái đẹp, dù hình thức có thể giữ vai trò hệ trọng để gợi cảm, nhưng chı̉ là khởi đầu. Đấy thật đặc trưng cho tư duy của một người từng trải lại đam mê, nắm được mẹo luật sáng tác. Ông đi về phía nơi có quán càfê thanh lịch: Quán Phố.

Trời xuân lây phây mưa bụi. Ông dựng cổ áo măng tô dạ xám lên che ấm lồng ngực. Cái mũ nồi Basque hơi sụp xuống. Chọn bàn trống ngay lối vào, lơ đãng nhìn ra đường phố. Quán Phố hôm nay không nhiều khách lắm. Nhưng cũng tới bốn năm cặp bạn tới ngồi trước khi ông tới. Vài người đi lẻ, dường như không chờ đợi ai. Họ tới đây, có lẽ chı̉ thưởng thức li càfê dưới trời lạnh. Ông chả vội vàng gì, bình nhiên châm một điếu thuốc và lấy tập bản thảo truyện ngắn của một người bạn ra tranh thủ đọc.

Cô gái vừa ở một hội nghị khoa học bàn về quản lý y tế ra. Hôm nay cô là diễn giả. Báo cáo của cô thực xúc tích và gây bất ngờ cho nhiều người. Người ta tặng cô những bó hoa thật đẹp. Cô gái ra khỏi hội trường của viện nhớ tới cuộc hẹn với nhà văn quen trên thư điện tử. Chı̉ còn ba phút! Cô vội vã ra chỗ để xe và thực sự lúng túng với số hoa bồng bênh, bất tiện trên cái làn trước tay lái.

Nhà văn xem đồng hồ. Đã đến giờ hẹn mà cô gái không tới. Ông quan sát toàn tiệm. Không có cô gái nào đi một mình, có hình dáng như ông tưởng tượng cả. Mấy cô gái trẻ có hình thức bình thường thì đi với bạn trai và không mang kính cận. Có hai cô gái rất xinh bên kia bàn đang ríu rít nói về ca sĩ X. Theo ông, X rất sến. Như vậy không phải là Phượng. Phượng hiểu biết, bình dị và nhỏ nhắn. Phượng đi một mình. Cô có kính cận. Đấy là vài đặc tính để nhận biết, do ông suy tưởng qua mấy lá thư của cô.

Cô gái thực ra đã tới gần điểm hẹn. Nhưng cô đã thấm mệt và bệnh tim bẩm sinh của cô làm cô bất chợt cảm thấy choáng váng. Phượng dừng xe lại bên đường vài phút và vô tình làm rớt cặp kính xuống đất khi cô xếp lại bó hoa sắp rơi vì gió. Một mắt kính vỡ tan trên hè đường. Cô gái trẻ sững sờ, bởi vì không có nó, cô nhìn mọi vật đều huyền ảo.

Phượng dắt xe phải tới 15 phút mới tới quán Phố. Như vậy người đợi chờ cô quá 30 phút. Ông trả tiền và đứng dậy. “Có thể do lý do gì đấy, cô gái bận, lỡ hẹn!” Ông bước ra khỏi quán càfê Phố, nghĩ ngay đến ý kiến góp ý với truyện ngắn