" Vạn Xuân 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Vạn Xuân Ebooks Nhóm Zalo VẠN XUÂN YVELINE FÉRAY Dịch giả: Giáo sư Nguyễn Khắc Dương Với sự hỗ trợ của Bộ Văn Hoá Pháp NHÀ XUẤT BẢN VĂN HỌC & SUDESTASIE Tái bản năm 2002 Hiệu chỉnh tháng 09/2021 Mục lục Lời giới thiệu Lời phi lộ Đôi lời cảm tạ Đoạn mở đầu TẬP I: NHỮNG MỐI TÌNH PHONG NGUYỆT – Năm Kỷ Mùi (1379) CHƯƠNG 1 CHƯƠNG 2 CHƯƠNG 3 TẬP II: MỰC VÀ BÚT – Năm Kỷ Mùi (1379) CHƯƠNG 1 CHƯƠNG 2 CHƯƠNG 3 CHƯƠNG 4 TẬP III: ĐÔNG QUÂN (HOÀNG TỬ TẠI PHƯƠNG ĐÔNG) – Năm Ất Sửu (1385) CHƯƠNG 1 CHƯƠNG 2 CHƯƠNG 3 CHƯƠNG 4 CHƯƠNG 5 CHƯƠNG 6 TẬP IV: THAY TRỜI TRỊ DÂN – Năm Canh Thìn (1400) CHƯƠNG 1 CHƯƠNG 2 CHƯƠNG 3 TẬP V: PHƯƠNG NAM ĐÃ BÌNH ĐỊNH – Năm Bính Tuất (1406) CHƯƠNG 1 CHƯƠNG 2 CHƯƠNG 3 CHƯƠNG 4 CHƯƠNG 5 TẬP VI: VỊ ANH QUÂN HOÀNG TỬ THÔNG THÁI – Năm Đinh Hợi (1407) CHƯƠNG 1 CHƯƠNG 2 CHƯƠNG 3 CHƯƠNG 4 TẬP VII: CON RỒNG ĐẤT LAM SƠN - Năm Bính Thân (1416) CHƯƠNG 1 CHƯƠNG 2 CHƯƠNG 3 CHƯƠNG 4 CHƯƠNG 5 TẬP VIII: HOÀN KIẾM - Năm Giáp Thìn (1424) CHƯƠNG 1 CHƯƠNG 2 CHƯƠNG 3 CHƯƠNG 4 CHƯƠNG 5 TẬP IX: TẤN BI KỊCH VƯỜN LỆ CHI - Năm Mậu Thân (1428) CHƯƠNG 1 CHƯƠNG 2 CHƯƠNG 3 CHƯƠNG 4 Đoạn kết Các bài phỏng vấn của tác giả và dịch giả Nữ sĩ Pháp Yveline Féray nghĩ gì? "Duyên nợ" và "sự cố" quanh tiểu thuyết "Vạn xuân" Lời giới thiệu Nguyễn Trãi đã mất đúng 550 năm (1442-1992). Có ngờ đâu một nữ sĩ Pháp, cách xa Nguyễn Trãi hơn 5 thế kỷ và hơn vạn dặm đường, lại đã phục hiện được cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi với một sự hiểu thấu tâm lý sâu sắc như vậy. Không chỉ có chân dung của vị anh hùng, của nhà thơ vĩ đại, mà còn có bức tranh toàn cảnh của thế giới. "Vạn Xuân" quả thật là một bản anh hùng ca lớn về nền văn hiến Đại Việt đầy khí phách và nhân hậu. Thật là sự diệu kỳ của nghệ thuật! Chị Yveline Féray! Chị hút nhụy từ đâu để có được giọng văn hào khí ấy, để có được sự trực giác lung linh và sâu thẳm ấy, khi viết về cuộc chiến đấu hào hùng của quân khởi nghĩa và của nhân dân và khi đoán biểu được tâm hồn Nguyễn Phi Khanh và Trần Thị Thái, tâm hồn Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ qua hai cuộc tình duyên đẹp đẽ mà như có dấu ấn của số mệnh in vào? Tôi nghĩ: trí tuệ, tâm hồn hiện đại của chị phải có những ăng-ten viễn thông để bắt được những luồng sóng ngắn, dài của quá khứ, quá khứ của một giống nòi và quá khứ của nhân loại, những làn sóng phát từ những số phận, từ mỗi hồn người. Chị đặc biệt nhạy cảm với cái gọi là fatum1 nằm trong cuộc sống. Cái bi kịch của Nguyễn Trãi có phải là một tâm hồn lớn phải sống trong một xã hội chật hẹp, ngặt nghèo không? Và vấn đề của thời đại Nguyễn Trãi có phải là vấn đề xây dựng và sử dụng quyền lực sao cho hợp với lòng dân và vận nước? Một tác phẩm nói về những sự kiện và những con người cách đây 5 thế kỷ lại mang tính thời sự không ngờ... Chị Yveline thân mến! Sự thành công rực rỡ của chị làm tôi càng tin tưởng rằng: các dân tộc rất khác nhau và mỗi dân tộc có một bản sắc độc đáo của mình, nhưng nhân loại là một, văn minh là một. Chị là một chiếc cầu giao nối, bởi vì hai đầu cầu - nền văn hoá Pháp và nền văn hoá Việt Nam - chị đều hiểu thấu. Niềm tin tưởng ấy làm tôi vui và làm các độc giả của chị sẽ vui. Chúc chị có nhiều sáng tác mới thành công và trẻ mạnh như "Vạn Xuân". NICE 13/04/1992 HUY CẬN Lời phi lộ Vào năm 1980, nhằm mục đích thâu nhập các đại biểu xuất sắc nhất của nền văn hóa mỗi quốc gia vào gia sản phổ quát của toàn thể nhân loại, Cơ quan Liên Hiệp Quốc đặc trách Văn hóa Giáo dục và Khoa học (UNESCO) đã tổ chức lễ kỷ niệm 600 năm ngày sinh NGUYỄN TRÃI, nhà nhân văn lớn và cũng là một thi hào Việt Nam ở thế kỷ 15. Chính vào thời điểm ấy mà tôi có dịp biết đến con người Nguyễn Trãi, cùng thân thế và sự nghiệp của ông: vừa choáng ngợp trước sự cao đẹp biết bao hùng tráng, vừa tê tái trước biết bao là thảm kịch! Tuy nhiên bấy giờ Nguyễn Trãi chỉ mới hiện diện nơi tôi qua hình ảnh một vị đại thần ngày xưa, ngồi chễm chệ như bất động dưới bộ áo phẩm phục màu xanh được vẽ trên những tấm áp-phích do người Cuba thực hiện nhằm tổ chức dịp lễ. Thế rồi, không hiểu định mệnh nào đã liên kết tôi vào số phận đặc biệt của con người ấy, để thúc ép tôi phải ghi chép lại toàn bộ lịch sử của con người ấy, nhờ một chuỗi cơ duyên may mắn. Nhưng phải làm như thế nào đây? Về cuộc đời hết sức phong phú của con người ấy, nhiều lĩnh vực quan trọng vẫn còn đang nằm trong bóng tối. Nhiều tài liệu còn thiếu vắng: phần bị tiêu hủy, phần lại thất lạc qua bao cuộc xâm lăng, do khí hậu phong thổ, do côn trùng gặm nhấm và cũng còn do sự sao nhãng thờ ơ của con người. Cho đến nay, chưa ai từng thử mạo hiểm vạch lại toàn bộ đầy đủ cuộc đời của Nguyễn Trãi. Ở Việt Nam, khá nhiều tác phẩm đã viết về ông nhưng chỉ mới là những bản văn mang tính cách tiếp cận nhằm vào từng điểm, từng khía cạnh nào đó, mặc dù rất uyên bác. Phần lớn các bản văn ấy nhấn mạnh đến đời sống chính trị và sự dấn thân của ông vào cuộc kháng chiến chống quân Tàu. Nhưng chính lĩnh vực này cũng vẫn còn được tranh luận và các sử gia Việt Nam cũng còn có nhiều quan điểm dị biệt. Những thông tin trước đây do nhà Đông phương học lỗi lạc Emile Gaspardone trình bày trong các giáo trình tại Pháp Quốc Học viện (1953-1954) về thân thế và sự nghiệp của "Nhà ái Quốc vĩ đại bị giày vò ngay trong chính Tổ Quốc mình" hiện nay cũng đang được xét lại dưới ánh sáng của những khám phá mới. Tóm lại, không thể đặt vấn đề viết một tiểu sử theo như người ta quan niệm ở Tây phương. Nhưng, trong lúc các sử gia thấy phạm vi công trình nghiên cứu của mình về đề tài này bị hạn chế, thì trái lại tôi bỗng nhớ đến những bài giảng của thầy dạy tôi, ông Georges Duby, chất liệu phong phú đầy tính tiểu thuyết, lại mở ra cho nhà viết truyện những vùng rộng lớn bao la cho trí tưởng tượng. Chúng ta hãy ngẫm xem: Cuộc đời có thể gọi là "phiêu lưu" của Nguyễn Trãi, một cuộc đời muôn vẻ không thiếu một mặt nào: Từ phút chào đời một cách khá đặc biệt, rồi tài năng văn chương và chính trị xuất chúng cho đến mối tình lớn lao vào lúc xế chiều của ông đều in dấu lên một thời điểm then chốt của lịch sử Đại Việt (Việt Nam), then chốt đến nỗi nếu như đất nước ấy bị sáp nhập vào nước Trung Hoa, dưới đời Minh và bị đồng hóa, thì cục diện vùng Đông Á chắc đã khác hẳn rồi. Định mệnh một cá nhân và định mệnh cả tập thể nương tựa, nuôi dưỡng lẫn nhau, cho nên viết về Nguyễn Trãi tức là viết về Đại Việt. Tôi hoàn toàn đồng ý với câu nói của Bernard Guenée: "Định mệnh của một con người có thể giúp ta hiểu lịch sử một thời đại, nhưng ngược lại, chỉ lịch sử thời đại người ấy sống mới giúp ta hiểu được định mệnh con người ấy". Vì thế, cuốn sách này không nhằm trình bày một cuộc đời được tiểu thuyết hóa, hay một tiểu sử được thêm màu mè văn vẻ. Dự phóng của tôi nhằm vào chỗ khác, các vị Giáo sư, các nhà nghiên cứu, các cán bộ ngành đại học Việt Nam ở Hà Nội đã mở rộng tất cả mọi cánh cửa lớn thuộc về quá khứ của họ để cho một phụ nữ Pháp - rất mạo muội như tôi. Họ đã hiểu một điều: Xuyên qua tấn bị kịch của một nhà nho đạo hạnh, cuốn sách này sẽ là một cuốn tiểu thuyết về một nền văn hóa vào chính cái thời điểm mà cả một dân tộc đứng lên bảo vệ bản sắc và tự do của mình. Theo cách nói của người Việt Nam thì đây ví như một hình thức "Khai sinh ra một Quốc gia". Chúng ta đừng quên rằng, ròng rã bao nhiêu thế kỷ, quả là một quy luật thường hằng của lịch sử Đại Việt, để tự thể hiện chính mình, đã từng phải, vừa dựa vào, vừa chống lại Trung Quốc, là nhân vật thứ ba "hoành tráng" kế sau Nguyễn Trãi và nước Việt, của thiên tiểu thuyết này. Lại thêm một điều khó khăn này nữa mà chúng ta phải nhận thức cho rõ là: giữa hai cái thế giới (Trung Quốc - Việt Nam) liên kết hết sức chặt chẽ với nhau trong cùng một nền văn hóa - Văn hóa Trung Quốc - vẫn tồn tại những sự khác biệt và có khi cả những sự đối kháng. Từ đó chúng ta mới khám phá được cái khả năng phi thường của người Việt Nam trong việc "đồng hóa" mọi nguồn vốn liếng ngoại nhập bằng cách "bản quốc hóa" chúng. Sự thể như đương nhiên vạch ra con đường định hướng cho toàn bộ tác phẩm. Nhưng trước hết, xin đừng viện vào một cái cớ quá dễ dàng là có sự hiện diện của một quan sát viên Tây phương luôn luôn có mặt như một kẻ trung gian cần thiết phải có để quan sát, suy xét với cặp mắt của một độc giả phương Tây. Tôi xin đề nghị: chính vị độc giả ấy hãy dấn thân đóng khung vào trong cái thế giới Á Đông lưỡng diện này (Trung Hoa - Việt Nam): không còn dựa vào những tiêu chuẩn quen thuộc của mình, nghĩa là độc giả ấy sẽ đi vào bên trong (hoặc đứng từ bên trong) một nền văn hóa có những cách suy tư, biểu lộ, ứng xử khác với mình và có thể khiến mình khó chịu nữa! Nói tắt một tiếng, đây là một nền văn hóa có tính cách hết sức "viễn dương". Tôi mong rằng vị độc giả ấy, qua cái quy trình truy tầm của tôi, đi đến chỗ đo lường được cái sức mạnh quyến rũ đáng ngại của một thế giới dị biệt. Trong một sự có thể gọi là cuồng nhiệt, nhưng dù sao cũng vẫn được kiềm chế, tôi cương quyết vượt qua mọi trở ngại đã biết trước cũng như bất ngờ, nhất định khiến cho độc giả say mê kinh ngạc như chưa từng bao giờ có. Và tại sao tôi lại cứ che đậy lâu hơn nữa: Một đề tài lớn ắt sẽ kéo theo một tham vọng lớn. Xin nói rõ ngay, tôi nhắm đến mục đích viết một tác phẩm cổ điển Hán Việt của thế kỷ 15 trực tiếp bằng tiếng Pháp, tác phẩm này tương đương một cuốn "Bên dòng nước" vùng châu thổ sông Hồng. Dù cho dự tính của tôi kể ra có phần quá mức, những vị từng trao đổi với tôi ở Hà Nội đều tỏ ra có nhã ý - và điều này tôi rất ghi ơn - không bao giờ làm cho tôi nản chí. Ngược lại, cùng một cung cách như ông Trần Đằng, chủ bút tờ "Thông tin Việt Nam" và cựu thư ký của Hoàng đế Bảo Đại, mọi người đều nhấn mạnh đến tính cách độc đáo trong dự phóng của tôi, xem như là một "Tiến trình tổng thể mà từ trước đến nay chưa có ai bắt tay vào". Điều ấy càng khiến tôi chẳng bao giờ mất niềm tin tưởng. Cuối cùng xin độc giả đừng hiểu lầm điều này: Sẽ thật bất công nếu nghĩ rằng tác phẩm "cổ điển" này chỉ muốn bao vây độc giả trong một bức màn chỉ phủ đầy bụi bặm của những thế kỷ xa xưa, trong khi thực ra đề tài chính yếu của cuốn sách - là vấn đề quyền lực - sẽ tất nhiên đưa độc giả tiếp xúc với những vấn đề muôn thuở - và do đó sẽ mang đầy tính thời sự. Trước hết, phải nói rằng đối với một người phương Tây, thực khó mà hiểu được thấu đáo mối tương giao phức tạp giữa "Trung Quốc và Việt Nam". Đối với Trung Quốc, người anh cả phương Bắc, người dân Việt buộc phải cùng sống chung đời đời kiếp kiếp, cái ông anh mà họ phải vừa đề phòng vừa dàn xếp ổn thỏa, trong lúc họ vẫn chiến đấu. Trong mối tương quan ấy lòng ái quốc của nhân dân Việt Nam như được khích lệ, dựa trên nguyên tắc "Nếu Trung Quốc là một thế giới, thì Việt Nam cũng lại là một xứ sở". Người Việt Nam chiến đấu là chiến đấu cho làng mạc của mình, để bảo vệ hàm răng đen và các phong tục tập quán của mình và mối tương quan ấy cũng là nơi biểu hiện một đường lối ngoại giao tinh tế. Một mặt, không cho phép làm "mất mặt" người bạn phương Bắc, và mặt khác, giữa lòng những cơ cấu của một chế độ thực dân áp bức, mọi hình thức quyền lực đều được áp dụng. Với tất cả những điều ấy, độc giả có thể thiết lập mọi so sánh trong tương quan giữa nước Pháp và Việt Nam ở thế kỷ 20. Đây là những nẻo đường đa dạng và tất yếu của quyền lực mà con người phải đi theo, qua các cuộc thăng trầm của lịch sử. Nào là quyền bính bị thoán đoạt, quyền bính phải bảo vệ nhân danh chính thống, nào là mãnh lực của tình yêu, của dục tính, của cái bụng, nào là quyền lực theo lòng ước mơ, quyền lực của thế giới hữu hình với những thế lực vô hình xuyên qua. Thôi thì đề tài này biến thiên mọi cách, giao thoa với nhau, chồng chéo lên nhau. Chúng ta sẽ gặp lại trong tác phẩm này một chủ đề không bao giờ múc cạn được: Đó là mối tương quan giữa kẻ cầm quyền và giới trí thức (giữa nhà vua và kẻ sĩ). Về mặt này, cặp song đôi Lê Lợi - Nguyễn Trãi không thể nào không làm ta nhớ đến các cặp song đôi lừng danh trong lịch sử chẳng hạn như Beckett - Henri II, Richelieu - Louis XIII và gần chúng ta hơn Mao Trạch Đông - Chu Ân Lai, De Gaulle - Malraux. Sự cao thượng vĩ đại của Nguyễn Trãi là luôn luôn biết chọn lựa và phục vụ Đức hạnh (theo nghĩa Khổng giáo là lòng nhân ái đối với hàng lê dân) chống lại mọi sự lạm dụng quyền bính, cho dù là quyền bính của Hoàng đế. Một sự phản kháng bằng cách từ bỏ theo tinh thần vô-vi của đạo Lão hoặc là dưới hình thức gián nghị nghiêm khắc nhưng kính cẩn. Bởi vì đối với một nhà nho, ngay trong lúc bênh vực kẻ nghèo hèn, vẫn không hề thiếu sót bổn phận đầu tiên của mình là phục tùng ngôi Thiên Tử. Chính vì thế, một độc giả phương Tây ít nhiều am tường về lịch sử chính trị thời nay cũng sẽ thỉnh thoảng có khuynh hướng liên hệ hình ảnh nhà cải cách Nguyễn Trãi với một Mendes France trong nỗ lực vô vọng thiết lập một chính quyền bền vững, nhà ái quốc Nguyễn Trãi đeo đuổi một lý tưởng thanh bần và công bằng với một Hồ Chí Minh; nhà hiền triết Nguyễn Trãi, chủ hòa và lãng tử với một Gandhi. Độc giả sẽ say sưa kinh ngạc trước tài năng đa dạng của kẻ sĩ Việt Nam này vì ông ta vừa là một thi hào, một nhà viết văn cừ khôi, vừa là một chiến lược gia có tầm mắt viễn thấu, một nhà ngoại giao tài tình, một nhạc sĩ lịch lãm, một nhà địa lý thông thái và là một nhà sư phạm tuyệt vời. Lúc ấy độc giả sẽ hiểu được rằng tấn thảm kịch thực sự của Nguyễn Trãi là tấn thảm kịch của một vĩ nhân sống trong một xã hội quá ư bé nhỏ. YVELINE FÉRAY Đôi lời cảm tạ Tôi Xin chân thành cảm ơn: - Ông Pierre-Richard Féray, sử gia chuyên về Đông Á. Năm 1980, sau khi từ cuộc hội thảo quốc tế được tổ chức tại Hà Nội chuyên đề Nguyễn Trãi trở về, ông đã kể lại cho tôi nghe câu chuyện thật đẹp đầy bi tráng của nhân vật này đồng thời khuyến khích tôi viết nó lên thành sách. Với lòng kiên trì không hề suy chuyển, ông là độc giả đầu tiên và cũng là người phê bình sát sao nhất của tôi. - Ông Bernard De Fallois, bấy giờ là giám đốc nhà xuất bản Julliard, đã tín nhiệm và giúp tôi phương tiện tài chính, nhờ đó vào cuối năm 1982 tôi được sang Việt Nam để chuẩn bị việc xây dựng tác phẩm này. - Ông Paul Schneider (Bút hiệu Xuân Phúc) nhà Việt Nam học, chuyên gia chữ Nôm, thi sĩ kiêm tác giả nhiều bản dịch các kiệt tác phẩm Việt Nam là "Kim Vân Kiều" của Nguyễn Du (thế kỷ mười tám) và "Quốc âm Thi Tập" của Nguyễn Trãi (Nhà xuất bản C.N.R.S.). Nhân danh tình bạn chân thực, ông đã trao cho tôi những tài liệu trong văn khố của ông, đã cho tôi thừa hưởng sự uyên bác của ông, đồng thời đã sẵn lòng đọc lại bản thảo viết tay dày cộm của tôi. - Các giảng sư đại học, các nhà nghiên cứu, các giáo sư thuộc ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam đã dành cho tôi những cuộc đàm luận lâu giờ, đặc biệt là: - Ông Lê Văn Lân, Giáo sư sử học thời Thượng cổ và Trung cổ. - Ông Phạm Huy Thông, Giám đốc Viện Khảo cổ kiêm Phó Chủ tịch ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam (đã qua đời). - Ông Trần Đình Giản. Chủ nhiệm Ban Địa dư. - Ông Phan Ngọc: Trưởng Bộ môn Ngôn ngữ học thuộc phân viện Đông Nam Á. - Ông Nguyễn Văn Hoan, Giáo sư Viện Văn học. - Ông Hoàng Lê, Chủ nhiệm phân viện Hán - Việt thuộc Viện Hán Nôm. - Ông Trần Đằng, đặc trách môn Văn chương Pháp thuộc Viện Văn học. - Ông Trần Nghĩa, Phó Giám đốc Viện Hán Nôm và quý vị có tên sau đây: - Ông Phạm Văn Đồng, Thủ tướng nước CHXHCN Việt Nam, suốt bao năm đã thương tình lo lắng cho tiến trình cuốn tiểu thuyết của tôi. - Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người tôi rất mang ơn khi sử dụng phần cốt lõi những chủ đề của ông về tư tưởng quân sự của Nguyễn Trãi. - Ông Hà Văn Lâu, Đại sứ Việt Nam tại Pháp. Tình bạn và lòng quan tâm thường xuyên của ông là sự cổ vũ quý báu đối với tôi. - Ông Nguyễn Đình Thi, văn sĩ. Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam, ông rất hùng biện trong khi trao đổi với tôi về tâm lý Nguyễn Trãi. - Ông Đặng Thái Mai, Chủ tịch Hội Văn nghệ sĩ Việt Nam (đã qua đời). Ông từng tâm sự với tôi là trải qua bao tang tóc và thăng trầm trong cuộc sống của mình, ông vẫn luôn luôn tìm thấy nguồn an ủi... nơi Molière. - Ông Cù Huy Cận, thi sĩ, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, kiêm nhà ngoại giao tại cơ quan văn hóa khoa học giáo dục của Liên Hiệp Quốc (UNESCO), ông đã đọc hàng trăm trang đầu của bản thảo tôi viết và ngỏ lời với tôi: "Tôi tin cậy vào trực giác của bà". - Ông Nguyễn Khắc Viện, Giám đốc Nhà xuất bản ngoại văn. Những tài liệu được xuất bản cũng như các bản dịch của ông rất thiết yếu đối với tôi. - Ông Diệp Đình Hoa, Nhà dân tộc học. - Ông Nguyễn Từ Chi, nhà Nhân chủng học kiêm nhà Kháng chiến, ông có biệt tài kể chuyện và làm say mê thính giả với vốn liếng khoa học uyên bác của mình. Tiếp đến là quý vị đi nghiên cứu tại Pháp gồm: - Ông Cao Hữu Lang, chuyên viên chữ Nôm. - Ông Vũ Đức Phúc, người rất lưu tâm đến những cảnh trận địa của tôi đã giúp cho tôi những nhận xét hữu ích. - Ông Tô Việt, sinh viên Luật, nhiều lần là dịch giả của tôi. Ngoài ra tôi cũng xin cảm ơn: - Bà Pasquel - Rageau, sử gia kiêm Quản thủ thư viện E.F.E.O. Bà vẫn thường trông thấy tôi lui tới dãy hành lang của ngôi nhà đáng kính của bà. - Ông Georges Condominas, Nhà Dân tộc học, tác phẩm nổi tiếng toàn cầu của ông là đèn pha rọi chiếu cho tôi. - Ông Hoàng Xuân Hãn, Giáo sư lỗi lạc đã giúp tôi về những điểm đang được tranh luận liên quan đến cuộc đời Nguyễn Trãi. Tập thể giáo sư thuộc Cédrasemi (riasem) tại Sophia Antipolis (Valbonne) gồm: - Ông Ayache, bà và ông Le Bourdiec, quý ông Ferlus Paillard, Pottier, quý bà Bénédicte Milcent, Cao Thị Liêu đã giúp đỡ tôi trong việc sưu tầm tài liệu. - Hội thân hữu Pháp - Việt và Tổng thư ký của hội là ông Charles Fourniau. - Tổng liên đoàn Việt Nam ở Pháp và đặc biệt Phân viện Phát sóng và các cổ động viên của phân viện là bà và ông Pinot. Bản danh sách dài này chắc chắn vẫn bỏ sót một vài vị ngoài ý muốn của tôi, tuy nhiên trước khi kết thúc, tôi không quên cảm ơn: Quý giáo sư bà và ông Cosserat đã cho phép tôi đến căn hộ sáng sủa của họ ở Baumettes thành phố Nice để tham khảo sưu tập đầy đủ và quý hiếm của bộ B.A.V.H. (Tập san của bè bạn cố Đô Huế). Các nữ độc giả của tôi. Jacqueline Hubert suốt bao năm trời vẫn trung thành say mê từng bản thảo của tôi và đặc biệt là bản "Vạn Xuân"; quý bà Madeleine Verrier và Janine Musy đã giúp tôi hoàn chỉnh cuốn sách này dù có lẽ họ không hề ngờ tới. Đoạn mở đầu Niên hiệu Xương Phù thứ năm (1381), đời Trần Phế Đế, một kỳ thi tiến sĩ đã được tổ chức ở Thăng Long kinh đô của nước Đại Việt. Cùng với các sĩ tử ứng thi, Nguyễn Phi Khanh đến trường thi trong ánh sáng lờ mờ của những ngọn đuốc. Vì kỳ thi kéo dài nhiều tuần, chàng phải mang đầy đủ lều chõng trên vai và trước ngực đeo ống quyển đựng mực, giấy và các cây bút lông. Đó là một thanh niên có tài năng đặc biệt. Chàng đã thi đậu cả hai kỳ thi hội và thi đình, được xướng danh thái học sinh trong tiếng trống, đứng hàng thứ hai trong tam khôi là Bảng Nhãn. Như truyền thống đã quy định, chàng nhận được cân đai áo mão từ tay Đức Vua là đấng Thiên tử, được dùng bữa với các quan lớn trong Bộ lễ và được dạo chơi dưới những tàn cây treo đầy gấm vóc màu đỏ trong vườn Ngự Uyển và được rước qua các phố xá ở kinh đô. Tuy triều đình thừa nhận sở học của chàng như thế nhưng lại không bổ dụng làm quan, lệnh trên đã gạt chàng qua mắt bên. Người ta đã đưa ra lý do: "Chàng thanh niên ấy đã phạm thượng nghiêm trọng. Không nên thu dụng". Nguyễn Phi Khanh phải lui về bản quán sau lũy tre xanh làng Nhị Khê, tỉnh Hà Tây, mở trường dạy học không hơn một ông tú bình thường. Dù sao, vị tôn sư Chu Văn An đã chẳng thích ẩn mình dạy học ở vùng thôn dã hơn bọn nịnh thần trong triều đình sao? Và chàng đã tìm được sự động viên và an ủi trong tình yêu của người vợ thuộc dòng dõi hoàng tộc, trong sự học tập và lòng khâm phục của các môn sinh và xóm làng. Thật vậy, nếu việc thi cử là điều vinh dự cho kẻ sĩ thì danh tiếng của một ngôi làng có một vị khoa bảng như thế khỏi phải nói. Khắp nơi trong tỉnh, một số rất đông các sĩ tử tìm đến làng Nhị Khê học tập và ngôi trường của thầy Nguyễn Phi Khanh trở nên quá nhỏ. Không hiếm khi người ta thấy các học trò phải ngồi nghe thầy giảng bài trên những chiếc thuyền ở cái ao trước nhà. Không thể để học trò học hành trong mưa nắng, gió bão, thầy Nguyễn Phi Khanh đã chỉ cho họ một góc vườn, truyền cho họ phải phát quang để ngày hôm sau dựng lên một phòng học mới. Đó là một nơi hoang dã chỉ có lau sậy mọc thành bụi rậm khô cằn. Truyền bảo học trò xong, chàng trở vào nhà cùng vợ con và không nghĩ đến chuyện đó nữa. Tối hôm ấy, một đêm trong trẻo giữa thu, đắp chăn nằm ngủ bên cạnh vợ, chàng thấy trong mơ: ... Dưới bầu trời vần vũ, sấm chớp vây quanh, thình lình chàng thấy một người đàn bà đang đau đớn quằn quại vì sắp sinh con, tiến lại gần chàng. Dù phải mang bào thai nặng nhọc, người đàn bà ấy dường như lướt đi nhẹ nhàng uyển chuyển giữa các bụi cỏ. Cách chàng vài bước, nàng dừng lại và cúi đầu nói: - Tiện nữ biết rằng tiên sinh không chỉ có sở học quảng bác mà còn là người đạo cao đức trọng, nên tiện nữ cầu xin tiên sinh vui lòng hoãn lại dự định của tiên sinh chỉ một ngày thôi để tiện nữ, là một kẻ đã bao phen chìm nổi lênh đênh, tìm được một nơi nương náu khác trước khi rời bỏ góc vườn kia. Chàng vừa trịnh trọng cất lời hứa sẽ chấp nhận ước vọng của người đàn bà ấy thì nàng đã liền biến đi trong gió nhưng vẫn còn để lại cho chàng ấn tượng về cái nhìn cháy bỏng không chút dao động của nàng. Sáng sớm, Nguyễn Phi Khanh thức dậy với cảm thức về một bổn phận phải hoàn thành. Chàng định thắp cái đèn nhựa thông nhưng mặt trời đã lên cao. Chàng nghe tiếng vợ chàng sau bức mành khe khẽ hát ru đứa con nhỏ nhất của họ và chàng nhớ lại giấc mộng đêm qua. Chàng vội vã bước xuống vườn và thấy các học trò của mình đã dậy rất sớm và đã phát quang góc vườn và chàng hối tiếc vì chúng đã vâng lời mình. Nhưng khi nghe bọn trẻ kể lại chuyện chúng đuổi đánh một con rắn đang mang trứng và con rắn này phải chạy trốn để lại một khúc đuôi dính máu, Nguyễn Phi Khanh cảm thấy một nỗi xao xuyến khôn tả làm lòng chàng quặn lại. Tuy đã dùng kiến thức của một nhà nho, phải vượt lên trên sự mê tín dân gian, không sợ bùa ngải và ma quỷ, tâm trạng bất an cứ kéo dài. Không muốn cho ai đoán biết tâm trạng đó, chàng gượng cười, rung chuông gọi đám học trò vào lớp học ban sáng. Đêm hôm sau, chàng đang ngồi đọc sách trong tiếng võng đưa con kẽo kẹt, thình lình chàng như bị ai bắt buộc phải ngẩng đầu lên. Lúc đó, chàng thấy một con rắn cụt đuôi đang quấn mình trên cây đòn dông. Con rắn đã thoát chết dù bị thương, Nguyễn Phi Khanh nghĩ như thế liền cảm thấy nhẹ nhõm, sự sống được bảo tồn. Ngay lúc ấy một vật gì từ mái nhà rơi xuống trên quyển sách đang mở, tạo ra một âm thanh trầm đục. Cúi xuống, chàng thấy lấp lánh trên giấy một vệt đỏ thẫm. Là máu, máu từ thân con rắn. Một giọt máu to rơi xuống vào một chữ nho có nghĩa là Đời (Thế) làm nhòe mặt chữ và thấm ướt ba trang giấy. Rất nhiều năm về sau, khi sắp chết trong cảnh lưu đày ở Trung Hoa, bản thân bị giam giữ trong lúc đất nước bị lệ thuộc, Nguyễn Phi Khanh hẳn phải nghĩ đến con rắn, và với biết bao đau đớn, tin chắc rằng máu của nó vẫn còn tiếp tục nhỏ giọt. TẬP I: NHỮNG MỐI TÌNH PHONG NGUYỆT – Năm Kỷ Mùi (1379) Từ rằng: "Tâm phúc tương cờ, Phải người trăng gió, vật vờ hay sao?" NGUYỄN DU (TRUYỆN KIỀU] CHƯƠNG 1 Dạo đó, niên hiệu Xương Phù thứ ba (1379), Nguyễn Phi Khanh chưa làm mất lòng một ai. Chàng vừa thi đậu cử nhân và cuốn sách mà sau này con rắn sẽ làm vấy máu còn nằm trên kệ sách của một cửa hàng bán sách ở phố Hàng Gai hay Hàng Sứ, nếu không phải là chưa được in ra, hay còn là cây tre chưa được đốn về để làm ra giấy. Một buổi sáng tháng hai, chàng ăn mặc chải chuốt với chiếc áo lương đẹp nhất trong hai chiếc áo chàng có, mang theo giấy thông hành và chậm rãi đi qua các phố xá của kinh đô để đến nơi mà chàng sẽ có một cuộc hội kiến quan trọng. Hôm trước, một sứ giả của Hoàng thành, đem theo lính tráng có xăm trên trán dấu của Thiên tử, đến trong sân nhà họ Trương nơi Nguyễn Phi Khanh đang dạy học cho con cháu nhà ấy: Ngài Nhiếp chính Đại thần cho gọi chàng sáng ngày mai đến dinh của ngài ở nội thành. Lệnh truyền quá bất ngờ nên chàng không kịp báo cho các thầy dạy của mình để xin những lời khuyên bảo. Suốt năm canh, chàng không ngủ được, trằn trọc trên giường, tâm trạng rất lo âu. Kể từ ngày chàng rời quê hương làng Nhị Khê lên kinh đô Thăng Long trọ học, chàng chỉ có một tham vọng duy nhất là chuẩn bị dự các khóa thi ở cấp cao hơn, trái ngược hẳn với các sĩ tử khác thường hay la cà ở nơi ca lâu tửu điếm. Vậy thì ngài Nhiếp chính Đại thần kỳ vọng gì nơi con người kém cỏi, kiến thức ít ỏi của chàng? Làm thế nào ngài biết được chàng, vốn chỉ là một gia sư tầm thường? Chàng rất lo âu đồng thời cũng rất háo hức. Sáng hôm sau, tin đó đã được lan truyền trong khu phố như thể đã được thằng mõ loan báo. Chàng thấy nhiều người láng giềng đã đứng đợi mình. Vốn có lòng yêu quý, họ lo lắng đến công việc của chàng, người này thì chúc mừng, người kia thì trấn an và nói rằng hôm nay thì tốt ngày. Không chần chừ, chàng ra khỏi nhà họ Trương thật sớm vì chàng đã định đến chùa Báo Thiên trước để dâng hương lên Đức Phật. Sau đó, chàng thả bộ một lúc ở bờ hồ Lục Thủy2 để suy nghĩ về thái độ ứng xử thích hợp mà chốc nữa đây chàng phải có. Mặt nước phản chiếu mười hai tầng tháp Báo Thiên với mười hai mái thếp vàng tỏa rạng trong ánh nắng ban mai. Rồi chàng lại băng qua những con đường nhỏ quanh co và đông đúc đến đường Hoa Hòe dẫn thẳng đến chợ phía Đông và Cửa Đông của Kinh thành. Giờ đây, chàng đi dưới những cây hòe đang trổ hoa, giữa tiếng rao hàng quen thuộc của đất Thăng Long đã từng làm chàng vui thích. "Kẹo đây!" giọng rao hàng êm ái của cô bán kẹo kéo. "Phở đây!" giọng mũi của anh bán phở. "Ai lấy ráy tai với lông nhím nào?" giọng nói bỡn cợt của anh thợ lấy ráy tai. Tất cả làm cho chàng lấy lại sự bình thản. Chỉ một tí nữa thôi thì chàng đã làm một vài câu thơ về số phận của một thanh niên thuộc hàng dân dã được gặp một vị quyền cao chức trọng. Dĩ nhiên, sống ẩn dật tốt hơn là sống phô trương và ngay lúc ấy chàng vẫn thích được học tập trong một căn gác xép hoặc đừng bao giờ rời khỏi xóm làng hơn là đi tìm danh vọng lớn lao đầy nguy hiểm. Tuy nhiên, chàng cũng bị sự tò mò cuốn hút. Trong những lần đi dạo khắp kinh đô, chàng trai tỉnh lẻ ấy thường thấy những ông quan ngồi trên lưng voi hay được khiêng võng đi vào Nội thành qua cửa Nam là cửa dành riêng cho họ. Còn Cấm thành, chàng chỉ biết qua sách vở của những nhà thơ như Phạm Sư Mạnh, hoặc là qua lời kể lại của các thầy dạy học mình. Đó là những vị tiến sĩ thi đậu kỳ thi Đình. Họ được hưởng một ân huệ đặc biệt là dạo chơi trong vườn Thượng Uyển nhìn ngắm bao nhiêu là danh hoa dị thảo và các loài cầm thú quý hiếm. Làm sao biết trước được một ngày nào đó số phận may mắn sẽ dành cho chàng đặc ân ấy? Hay tất cả điều đó chỉ là một giấc mộng Nam Kha? Thình lình có những người xô đẩy chàng và kéo chàng về thực tại. Họ đến từ mọi hướng, từ các hàng quán, các cửa phố, các tầng gác và sân sau. Họ chạy vội theo hướng Chợ Đông đến cuối đường. Có phải giặc Chiêm Thành lại đột kích nữa không? Hay triều đình lại ra một chỉ dụ mới? Chính vào lúc đó, chàng nghe tiếng chiêng buồn thảm vang lên. Đằng kia một tốp lính cưỡi ngựa la hét mở đường. Cuối đường, đoàn người nhấp nhô rồi như bò sát đất dần dần lùi lại. Trên lưng voi, dưới chiếc lọng, một vị pháp quan xuất hiện, tiến tới như lướt đi nhẹ nhàng trên đám đông đang cúi rạp xuống để chào. Vị pháp quan đội một cái mũ cứng bằng lụa sơn xanh có quai bằng sắt gài dưới cằm, tay cầm một cái loa vàng. Tiếng chiêng gõ vang lên từng hồi cách đều nhau. Đó là đoàn người áp giải một tên tử tội đưa đến quảng trường chợ Đông hành hình. Trong nháy mắt, Nguyễn Phi Khanh bỗng muốn quay về, tưởng như không cưỡng lại được. Tuy nhiên, chàng lại không làm như thế. Dù chàng có đi chậm lại cũng vô ích, đúng lúc chàng tới được quảng trường, đám đông, bằng một chuyển động bất ngờ đã đẩy chàng lên những hàng đầu. Ở đó, chàng trông thấy người tử tội mang gông rất lớn, khuôn mặt với đôi gò má nhô ra kiêu hãnh. Phía sau tử tội là mẹ hắn đang nài xin người đao phủ thi hành nhiệm vụ cho thật khéo léo với đường đao thật ngọt, không trầy trợt nham nhở. Cảm thấy trước điều phải xảy ra, cậu cử nhân trẻ tuổi rùng mình sợ hãi, hai chân va vào nhau lập cập mặc dù chàng không hề làm cho chúng cử động. Dù sao thì, chàng vẫn đứng đó, kẹt giữa cái bẫy của đám người đứng chết trân, không còn dám nghĩ đến điều gì đang chờ đợi chàng trong nội dinh. Bây giờ đoàn người đi theo đã đứng đầy trung tâm của quảng trường. Các vệ binh tháo gông ra khỏi tử tội, người này ngoan ngoãn quỳ gối xuống cho vệ binh cột mái tóc của hắn vào một cành rủ xuống của cây đa to. Người đao phủ lấy miếng trầu đang nhai đánh một dấu đỏ chót lên gáy của tử tội. Thanh gươm dài của đao phủ lóe sáng trong ánh sáng ban mai. Cái chiêng treo trên cái đòn tre, hai đầu có người vác, không còn vang lên nữa. Chỉ có bà mẹ già đang cầu xin chú em đao phủ vì món tiền bà đã lo lót mà không làm con bà đau đớn. Đám đông im lặng như tờ chờ cho vị quan chấm dứt phát biểu qua cái loa màu vàng những lý do kết tội kẻ phản nghịch. Tên này đã phạm tội "bất nghĩa" vì đã giết một quan chức, tức đã phạm vào một trong "Thập đại tội", do đó đáng bị tử hình. - Các ngươi hãy thi hành bản án! Vị pháp quan ra hiệu. Tức thì một tiếng chiêng đáp lại. Đến tiếng chiêng thứ hai, thanh gươm trong đôi tay đao phủ được huơ lên, quay thành vòng tròn trong không khí và đúng tiếng chiêng thứ ba, lưỡi gươm phập xuống trên gáy kẻ tử tội đã được đánh dấu bằng nước quết đỏ. Máu vọt ra như suối từ tấm thân quỵ xuống, bắn tung tóe, dính vào bốn chân của thớt voi, trong khi cái đầu đã bị cắt đứt đu đưa dưới cành cây đa với một vẻ ngạc nhiên khủng khiếp. Bà mẹ già của kẻ tử tội ngã vật ra. Đao phủ hét lên một tiếng thật to rồi gỡ thủ cấp ra khỏi nhánh cây và để chứng tỏ tài năng hoàn hảo của mình, anh ta tung thủ cấp lên trời cho nó rơi xuống trong một trận mưa máu đang bay. Đám đông tránh ra như sợ sệt một biểu hiện báo oán nào đó của người chết, từ nay phải chịu số phận của một cô hồn đi lang thang mãi mãi. Nguyễn Phi Khanh không chờ những khổ hình dành cho tử tội3 sau khi đã chết. Chen lấn mãi, chàng mới mở được một lối rẽ qua đám đông đang xì xào những tiếng thì thầm chống lại các quan lại, những cha mẹ của dân (dân chi phụ mẫu) hút kiệt máu nông dân, đối xử với họ như bùn đất không hơn không kém, đẩy họ tới chỗ phải nổi loạn ngày càng thường xuyên hơn và khốc liệt hơn. Người mẹ già trút lên trời những lời rên rỉ: làm thế nào thực hiện đầy đủ mọi nghi thức lễ tang trên một cái xác đã bị chặt đầu? Tới được Cửa Đông, Nguyễn Phi Khanh trình diện với trạm gác, tuy bề ngoài bình thản, nhưng khi xuất trình giấy thông hành của ngài Nhiếp chính Đại thần, bàn tay chàng run lên khủng khiếp. Khi những người lính xác nhận rằng phân nửa tấm thẻ chàng có tương ứng với phần nửa họ có, thì họ cho chàng vào. Có hai người trong bọn họ đi theo, sau khi chàng đã bỏ dép. Vì đó là đôi dép duy nhất của chàng mà chàng phải để lại như thế trên ngưỡng cửa nên chàng thích được bảo đảm sẽ tìm lại được. Chàng xấu hổ vì bận tâm đến một chi tiết nhỏ nhặt như thế. Nhưng khi bước qua cổng Minh Triệu, chàng quên hẳn điều ấy để chỉ còn nghĩ đến kẻ tử tội mà cái thủ cấp được xát muối giờ đây được bêu ở quảng trường chợ. Bởi vì sáng hôm ấy, trong vẻ lộng lẫy của Hoàng thành, cùng một lúc chàng phải đo lường mọi sự phân cách giữa tầng lớp quý tộc và thứ dân, và sự khác nhau giữa thành nội và thành ngoại. Và trong khi bước đi trên những phiến đá cẩm thạch giữa cái khung cảnh lộng lẫy này, dọc theo những hành lang này, nơi các nhân vật quyền quý mặc triều phục lóng lánh qua lại, chàng cảm thấy dâng lên một nỗi nhớ nhung mãnh liệt chốn quê nhà, với những con đường làng buổi sáng dưới hàng tre xanh đính sương như đeo ngọc, những con đường viền cỏ ướt cọ nhẹ mắt cá chân chàng... Chưa bao giờ trong đời chàng, từ thuở bé cho tới tuổi đôi mươi, chàng có được sự hồi tưởng quê hương thắm thiết như thế. Chàng sẽ biết được lý do của việc chàng được gọi đến sáng nay mà chàng không thể bỏ qua hay tránh né, từ đôi môi đỏ màu thần sa của một quan chức cao cấp ở một nơi nào đó trong dinh thự lộng lẫy vàng son này, cuối một gian phòng sâu, sau một bức tường. Chàng sẽ gặp ông ta sau khi vượt qua chục cái cổng. Liệu sau đó chàng còn được tự do không? Chàng có còn gặp lại các vị Thầy của mình, những đứa trẻ nhà họ Trương mà chàng đang dạy dỗ? Chàng có còn trở lại với bút, nghiên không? Những người vệ binh dừng lại trước lối vào dinh của ngài Nhiếp chính Đại thần rồi lui gót. Khi người ta loan báo có khách thì cái tin này được lính túc vệ gồm cả trăm người truyền cho nhau từng người một đến tận những gian tiền sảnh. Nơi đây xuống lệnh cho Nguyễn Phi Khanh phải chờ đợi vì lúc này Đại quan đang bệ kiến Đức vua. *** Tiểu thư Thái, con gái thứ ba của Đức ông Trần Nguyên Đán4, buổi sáng ấy thức dậy với niềm tin chắc chắn rằng hôm nay sẽ là một ngày khác hẳn mặc dù trong chốn khuê phòng, mỗi ngày đối với nàng đều giống như ngày hôm trước. Nàng đã nằm mơ thấy một đàn hạc trắng đang bay. Đó là điềm báo trước một biến cố may mắn. Cuộn mình trong cái chăn lụa, nàng vui sướng làm sống lại giấc mơ trong từng chi tiết nhỏ nhất... Những con chim hạc bay rất cao nhưng những chiếc bóng mảnh mai của chúng phản chiếu rõ nét trong nước biết bao! Nàng đi thơ thẩn trên bờ hồ - có lẽ là Hồ Tây, vì thỉnh thoảng nàng đã trông thấy trong lúc lén nhìn từ những tầng cao của dinh thự. Và cùng một lúc, chính nàng cũng là chim... được bay lượn và thấy mình vừa bay lượn vừa dạo chơi quanh bờ hồ nơi những cặp thư cưu5 đang bơi lội, đem lại cho nàng một cảm giác say sưa, ngây ngất và tự do tuyệt diệu làm sao! Quả là một việc khác thường. Thị nữ Thị Nghi bước vào tạo ra một tiếng động nhẹ làm nàng giật nảy mình rồi bỗng nhiên lo âu với ý nghĩ rằng, điều nàng linh cảm đang vụt đến với nàng trước dự đoán. Như thường lệ mỗi buổi sáng, đứa thị nữ quỳ gối bên giường dâng lên nàng một cốc nước để nàng súc miệng. Sau lưng người thị nữ, những cánh phượng hoàng trên bức sáo sáng rực dưới ánh mặt trời mùa xuân. - Tại sao em để ta quá giấc? Có trễ quá rồi không em? - Xin công nương cứ yên tâm, mới giờ Mão6thôi! Thị Nghi nhận lại cốc và dâng lên nàng tách nước trà ướp hoa thơm ngát. - Lệnh bà nhắn bảo công nương sẵn sàng ứng hầu khi Đức ông cho gọi. - Em có biết tại sao không? - Tiểu thư Thái lập tức đứng dậy - Em có biết thêm gì khác không? Nói mau lên. Thị Nghi vốn đã biết tính khí táo bạo của cô chủ nên chỉ lắc đầu ra dấu không biết trong khi vẫn tiếp tục chế nước ấm vào thau đồng một cách buồn bã. Tiểu thư Thái quan sát đứa tớ gái bên trên tách nước và biết chắc rằng sáng nay Thị Nghi lại nhớ nhà. Là người xứ Nghệ An, Thị Nghi theo hầu hạ các phụ nữ khuê các từ ít lâu nay. Tiểu thư thường ái ngại cho nó và an ủi nó. Nàng dạy cho nó những bài cổ thi và nó dạy cho nàng những bài dân ca đầy châm biếm mà nó rất thích ngâm nga. Nhưng hôm nay, nàng không có lòng dạ nào để an ủi nó và mặc cho Thị Nghi cứ việc dõi mắt về hướng quê mà ruột đau chín chiều vì thương nhớ. Về phần mình, tiểu thư Thái đang quá nôn nao sốt ruột. Trong khi nàng nhúng khuôn mặt mình vào chậu nước bóng loáng, nàng tự nhủ: vậy là, vậy là sáng nay cha nàng đòi nàng đích thân đến ứng hầu. Mà hôm nay đâu phải là ngày tế lễ, hay ngày kỵ nhật một vị tiền nhân nào. Những cánh chim trắng trong giấc mơ đã không đánh lừa nàng. Những tiếng quạt mà Thị Nghi đập mạnh xuống để làm vải giường căng lại nhắc nàng nhớ đèn tiếng cánh chim bay. Trái tim trong ngực nàng giống như những con chim bồ câu trong hội thi thả chim, sẵn sàng bay đi ngay khi người ta lấy chiếc đũa đập vào lồng mấy cái. Với đôi tay mảnh dẻ, nàng quấn mái tóc mây thành búi và cài tóc bằng một cây trâm bạc có những tua ngọc rủ xuống. Nàng kéo hộp trang điểm lại gần, lấy ra một lưỡi dao nhỏ có cán bằng ngà. Trước tấm gương kim loại mà Thị Nghi vừa giữ vừa thở dài, nàng tỉa đôi chân mày cho mảnh lại và dài ra như lá liễu, cạo những lông tơ trên trán, tô môi hồng bằng bột đàn hương màu đỏ rồi chà răng bằng một mảnh vỏ cây ổi. Sau đó trong cái rương quần áo hình bán nguyệt, nàng chọn một cái yếm màu lục, mặc thêm một cái áo cánh vừa khít màu vàng nhạt, một cái váy lĩnh màu đen và sau cùng một cái áo dài lụa tứ thân màu trái vải mà nàng khéo léo thắt lại với một dây thắt lưng xinh xắn bằng lụa xanh rất hợp với đôi hài thêu chim phượng. - Mời tiểu thư dùng bữa, Thị Nghi nói. Bữa ăn sáng gồm nhiều món thịt, cá nhưng cô chủ chỉ ăn qua loa. Số thức ăn đủ dùng cho gia đình Thị Nghi ở quê nhà Nghệ An trong cả ngày. Một lần nữa, Thị Nghi lại thở dài. Tiểu thư Thái không thấy ngon miệng như mọi khi. Nàng chỉ đụng đôi đũa ngà trên một vài món rồi ra dấu cho Thị Nghi dọn dẹp. Giờ đây, niềm vui của nàng sa lầy trong sự chờ đợi, tâm hồn người thiếu nữ cương quyết và đam mê ấy, một tâm hồn sẵn sàng chấp nhận cuộc sống gối cỏ nằm sương của khách lãng du lại rối bời với trăm ngàn câu hỏi. Nàng đang bước vào một vùng sáng rạch ròi, ở đó hiện rõ số phận đã định sẵn cho nàng từ bên ngoài, chỉ một lần thôi và mãi mãi. Bởi lẽ nàng đã không nhớ ra rằng qua khỏi tuổi mười lăm, cha nàng - như mọi người cha khác - có thể đã định đoạt xong việc hôn nhân của nàng, đã hứa gả nàng và có lẽ đã đính ước nàng với ai đó. Chính vì thế mà đêm qua nàng đã mơ thấy những cặp thư cưu. Chính vì thế mà sáng nay cha nàng cho gọi nàng. Làm sao mà không lo nghĩ cho được? Nàng chợt có ý định đến soi gương để thử xem nàng có thể tạo ra được ảnh hưởng gì đến một người có thể sẽ là vị hôn phu của mình thì nàng thấy mình thật vô lý. Chỉ có chờ đợi mà không biết được điều gì làm nàng sinh ra nghi ngại. Nhưng kỳ diệu thay, nàng tin chắc rằng cha nàng sẽ hỏi ý kiến nàng trước khi quyết định về nàng. Ông yêu thương nàng hơn các chị em gái của nàng và ông đã chứng tỏ tình thương yêu đó trong cái đêm kinh hoàng hồi năm ngoái khi quân Chiêm Thành cướp phá kinh đô Thăng Long. Lúc đó, ông đã đích thân đến tìm nàng trong phòng, thấy nàng đang run sợ nhưng vẫn tiếp tục đưa tay dạo trên chiếc đàn tranh như không có điều gì xảy ra. Cả hai cha con chạy trốn khỏi dinh cơ trong cảnh hỗn loạn. Bên ngoài, trong ánh đuốc bập bùng, đám người chạy loạn xạ. Nhà vua đem theo các vương phi và tỳ thiếp đã vượt sông qua bờ bên kia. Người ta đồn rằng quân Chiêm Thành sau khi đột nhập vào Nghệ An đã tiến ngược lên theo sông Đại Hoàng, một nhánh của sông Hồng và giờ đây chúng đang ở cửa ngõ của kinh đô. Và cha nàng đã đưa nàng, đi cùng chung cáng chạy nước kiệu thật nhanh làm cho thân thể nàng đau đớn ê ẩm. Nàng không nghĩ đến quân Chiêm Thành đang cướp phá kinh đô và dưới mỗi bước chân chúng đi qua là cảnh tàn phá, tro bụi và xác người. Nàng chỉ nghĩ nàng hạnh phúc biết bao khi cùng đi với cha mình trong cuộc chạy nạn. Dĩ nhiên, nàng thương yêu cha với một tình yêu thương ích kỷ nhưng tình yêu ấy đã đem lại cho nàng một sự minh mẫn mà chẳng cần đến lý luận suy tư. Mặc dù mùa xuân là mùa của việc mai mối nhưng chắc rằng nếu có gì bất ngờ mà cha nàng sẽ đem lại cho nàng, thì cũng không phải là chuyện dựng vợ gả chồng. Thành ra, nàng cảm thấy hoàn toàn bình thản và cầm bút để hoàn thành bài thơ mà nàng đã bắt đầu từ hôm qua trong khi chờ đợi người ta đến gọi nàng. * * * Nguyễn Phi Khanh không biết mình đã kiên nhẫn chờ đợi trong bao lâu ở sân ngoài của dinh phủ. Đột nhiên chàng thấy một cỗ kiệu lớn, xung quanh có lính hầu mang võ khí và nghi trượng, tiến vào một cái cổng khá rộng đủ chỗ cho voi qua. Trước khi vị quan đại thần ngồi trên kiệu bước xuống, Phi Khanh vội tiến đến để chào, vì không còn nghi ngờ gì nữa, chính là đoàn tùy tùng của quan Tư đồ. Tuy nhiên, chàng giữ một khoảng cách thích hợp và cong lưng bái quỳ chờ quan lớn cho phép đứng lên. Một giọng nói nhỏ nhẹ nhưng rắn rỏi cho chàng được miễn lễ và mời chàng đến gần hơn, chàng lùi lại tỏ dấu tôn kính và khi chàng đứng lên, chàng bắt gặp ánh mắt nhân từ của quan Tư đồ, Hoàng thân Trần Nguyên Đán đang đứng trong bộ triều phục rực rỡ dưới ánh nắng, tay cầm gậy. - Ta có nghe nói về thầy là một thanh niên có nhiều triển vọng lớn - ông nói - Chính vì thế ta đã cho gọi thầy. Rồi ông mời chàng vào nội dinh. Các quân hầu đi trước mở những bức màn gấm vóc trước mặt hai người. Họ đi ngang qua những gian phòng lớn có cột và xà sơn son thếp vàng, những vườn cảnh có hồ nước với hòn non bộ, những sân trong với các cây đào đang nở hoa màu hồng đong đưa trước gió. Họ đến tận thư phòng và Hoàng thân đã mời chàng cùng ngồi chung chiếu. Sự giản dị ấy của Hoàng thân làm chàng bối rối. Trong phút chốc, chàng suýt quên mất nghi thức, nhưng rồi để giữ cho hợp lệ "chủ khách", chàng đã từ chối ba lần trước khi ngồi xuống bên cạnh. Hoàng thân bèn truyền cho quân hầu mang nước trà đến. Lúc đó, chàng thanh niên không thể nén được một tiếng thở nhẹ. Quan Tư đồ thấy thế liền nói: - Thầy hãy bình tĩnh và hãy yên tâm. Thứ hạng của thầy trong kỳ thi hương đã chứng tỏ tài năng hiếm có của thầy. Hơn nữa, các thầy dạy của thầy nói rằng thầy trung thực và chân thành. Vì thế, ta thích thầy hơn những người đã được tiến cử cho ta và quyết định giao cho thầy việc dạy dỗ các con ta và đặc biệt là con gái thứ ba của ta cần hoàn chỉnh kiến thức. Nếu thầy chấp nhận, thầy có thể ở trong dinh này, ngoài những giờ lên lớp thầy sẽ được tự do nghiên cứu và đọc sách trong thư phòng này, tới lui tùy thích. Hoàng thân đã nói như thế và Nguyễn Phi Khanh không tin tai mình đã nghe những lời ấy vì trước đó chàng đã tưởng đến đủ thứ, đã tưởng tượng ra hơn một nghìn lẻ một tình huống: chàng có thể bị nhốt vào ngục tối, bị đánh một trăm roi hoặc còn bị kết án phải lao dịch cắt cỏ ngựa trên phố "Hàng Cỏ", tóm lại đủ mọi chuyện, ngoại trừ việc được chỉ định làm gia sư cho một thiếu nữ ở hoàng thành mang trong mình dòng máu của các vua chúa nhà Trần? Chàng đáp lại Đức ông bằng những lời tôn kính nhất và thái độ khiêm cung hoàn hảo nhất rằng đây là một hồng phúc hiếm có, cả ba đời cũng không dễ gì gặp được, và để đền đáp, chàng nguyện đem hết kiến thức và lòng nhiệt thành ra phục vụ. Chàng cảm thấy tự hào, hãnh diện khi nghĩ rằng phúc lộc này đang lan tỏa đến gia đình và quê hương chàng. Sau khi uống cạn chén trà Tàu trong bộ đồ sứ Bát Tràng, chàng chờ đợi được ban lời tiễn khách thì đức ông truyền lệnh: - Cho người gọi Cô Ba! Quay lại phía chàng, ông bắt đầu hỏi han. Có lẽ Nguyễn Phi Khanh đã đối đáp trôi chảy làm Hoàng thân hài lòng vì nhiều lần ngài gật gù mỉm cười tán thưởng. Bấy giờ, tiểu thư xuất hiện với vẻ ung dung và tự nhiên của một người đã từng lui tới thư phòng. Khi vừa thấy Phi Khanh, một vẻ kinh ngạc và khó chịu cùng lúc hiện lên trên khuôn mặt xinh đẹp kiêu kỳ của tiểu thư. Nàng trấn tĩnh, lấy lại sự thoải mái và dường như đối với Phi Khanh đó chính là dấu hiệu của các tiểu thư con nhà gia thế: - Thưa phụ thân, cha đã gọi con? - Nàng cất lời. Nhìn đôi chân mày vòng nguyệt, đôi má hồng và dáng người yểu điệu, mảnh mai như cây liễu non, Phi Khanh tự nhủ nếu nàng lại hé môi cười, chắc không bút mực nào tả nổi. Trong lúc Hoàng thân giải thích lý do sự có mặt của chàng trai, khuôn mặt của con gái ngài trở nên thư thái và lấy lại vẻ rạng rỡ thanh thản. Qua đôi mày mềm mại như tơ tằm, nàng hướng ánh mắt đầy vẻ tinh nghịch về vị gia sư tương lai của mình. Nàng sẽ nghĩ điều gì đây? Phi Khanh tự hỏi, và càng ngắm nhìn nàng, lòng chàng càng xao xuyến. Khi quay về nhà họ Trương. Nguyễn Phi Khanh dường như là một hồn ma từ chốn cửu tuyền trở về: tâm hồn chàng rất xáo động. Lũ trẻ con trong nhà reo hò sung sướng được gặp lại chàng nhưng rồi chúng khóc lóc, kêu than khi biết thầy giáo từ nay phải vào sống trong hoàng thành để dạy học cho một cô học trò, độc nhất, dù đó là một bà quận chúa! Buổi tối hôm đó, chàng tổ chức bữa tiệc chia tay xứng đáng với gia đình họ Trương và tiêu sạch món tiền ít ỏi của mình. Chàng uống rượu nếp và nhận những lời cầu chúc chân thành hay chỉ là hình thức của mỗi người. Phúc thay cho đứa con hiếu hạnh và kính cẩn, biết trợ giúp gia đình khi Hoàng thiên cất nhắc. Cũng như đêm hôm trước, chàng không thể ngủ được. Nếu việc nhậm chức gia sư cũng như mọi khả năng thán phục trước vẻ duyên dáng của cô học trò quý phái có làm cho lòng tự ái của chàng thỏa mãn, thì trong một sự chuyển hướng lạ lùng, giờ đây nó như biến mất và chàng cảm thấy một tình cảm phức tạp mà người ta không dễ gì xóa bỏ được trong nháy mắt. Trái lại, Phi Khanh không phải là một đầu óc nông cạn để vội vàng kết luận từ một ấn tượng mà thôi, chàng đã phải trải qua năm đêm dài thao thức mới nhận ra được rằng tình cảm căn cứ vào một cái gì như là định mệnh: một biến cố không thể đảo ngược vừa xảy đến. Trong cõi trần này, đối với nhà nho, chỉ có đức hạnh là quan trọng, thế mà số mệnh đã đẩy chàng lao vào biển công danh đầy sóng gió và đá ngầm hiểm hóc. Chỉ cần nghĩ lại cái cách mà tiểu thư con quan Tư Đồ đã chào chàng như muốn nói rằng: "Giờ thì chỉ có hai chúng ta thôi!" cũng đủ làm cho chàng bối rối không biết ứng xử thế nào. Cho dù Hoàng thân có lòng nhân từ đã hứa, chàng không thể ra vào chốn Hoàng thành theo ý mình, cũng không đi về quê hương vào các kỳ lễ hội mà không gặp những trở ngại khó lòng vượt qua. Chàng đâm ra hối tiếc vì đã đỗ đầu khóa thi hương thay vì chỉ đứng vào một thứ hạng khiêm tốn để chàng còn được hoàn toàn tự do. Cuộc sống trong Hoàng thành, như hôm trước chàng đã thoáng thấy, dường như có thể so sánh với một vở tuồng bao gồm những điệu bộ và dáng vẻ bên ngoài. Thế nhưng, chàng thở dài, một thiếu nữ đẹp như tiểu thư này, nhan sắc làm nghiêng thành đổ nước, chàng tin rằng mình chưa từng gặp được một ai! Giờ Mão7 đến, đã thấy chàng có mặt giữa những cây cảnh trong sân giữa và đang thong thả đi vòng quanh bể cá. Dần dần, khu phố thức dậy, chàng nghe tiếng trẻ con gọi nhau từ nhà nọ sang nhà kia, các cậu học sinh chạy qua những cổng phường mà người ta vừa mở. Những mảnh ván cửa trượt của các cửa hàng lướt nhẹ. Ở đằng xa, những người bán hàng rong đầu tiên bám riết theo khách hàng và trong đường phố gần đó, những chiếc xe bò nghiến vành xe giữa mặt đường. Trong khu dân cư của kinh thành này - mà sáu mươi mốt khu phố còn quen thuộc với chàng hơn cả làng quê - giữa đám dân làm thợ thủ công, thương nhân, nông dân và nho sinh, có cả những ngoại nhân từ Chiêm Thành, Trung Hoa, Chân Lạp và Xiêm La đến, Phi Khanh biết cách phải ứng xử thế nào, dù chàng chỉ là một anh chàng dân tỉnh lẻ. Còn ở giữa một gia đình đại quý tộc, chàng không biết gì về cuộc sống, về phong tục tập quán của Triều đình và những mưu đồ của nó. Vả lại cả cách dạy dỗ một tiểu thư quý tộc đối với chàng cũng chẳng thuận lợi gì nếu căn cứ vào ánh mắt chế giễu của nàng. Đứa tớ gái đến múc nước từ bồn nước giật nảy mình khi nhận ra chàng. Một lát sau, Phi Khanh nghe thấy tiếng đứa tớ gái cười ở nhà trong vì nó ngỡ ông gia sư là một bóng ma. Chàng cũng phải bật cười. CHƯƠNG 2 Trong những ngày đầu tiên đến ở hoàng thành, không có điều gì chứng tỏ sự lo sợ của Phi Khanh là đúng. Trái lại, sự thay đổi chỉ có lợi cho chàng. Hoàng thân Trần Nguyên Đán đã sai người dọn sẵn cho chàng một căn phòng trong một cánh của dinh thự, khác hẳn với căn gác xép trên nhà kho mà nhà họ Trương dành cho chàng. Đó là một phòng rộng và sâu được một cầu thang với hai bán lan can trang trí hình rồng dẫn tới. Những tấm sáo nhẹ che kín các khung cửa sổ mà trong mùa này, các tấm giấy phết dầu đã được tháo gỡ. Những cây cột nhẵn bóng như cổ của các thiếu nữ được đặt trên những bệ đá chạm trổ như người ta thường thấy trong các ngôi chùa, và khi chàng ngước mắt lên nhìn sườn nhà nâng đỡ mái chống lại gió bấc với những sống gờ trên mái chạy thành đường uốn cong, chàng cảm thấy rất an toàn. Nhưng điều khiến chàng phải ngạc nhiên là dường như có một ai đó lưu tâm chú ý tạo ra ở đây một bầu không khí thuận lợi cho sự học tập và suy tư. Thật vậy, ngoài cái sập gụ trải chiếu hoa, những bức bình phong và một rương để đựng quần áo, chàng còn có một bàn viết, một ống bút đựng đầy bút mới tinh, một cái tráp đựng thuốc hút và giấy, một túi thơ, mấy cái đèn châm đầy dầu và có cả một đồng hồ nước bằng đồng. Khi Hoàng thân cho chàng một đứa tớ gái nhỏ, mà theo ý chàng là để giúp chàng khỏi chậm trễ trong mọi lúc, với ngòi bút viết phóng nhanh, chàng đã làm một bài thơ ca tụng lòng quảng đại của vị chủ nhà. Tuy nhiên, Phi Khanh có cảm tưởng kỳ cục là bài thơ đề tặng Hoàng thân, dù đó là những câu thơ tự phát tỏ lòng biết ơn, thì Hoàng thân lại không phải là người đáng được đón nhận chúng. Chàng có hỏi con Liễu, đứa tớ gái nhỏ, nhưng nó chỉ cười lấy tay che miệng. Những lúc lui tới từ nơi trú phòng cho đến phòng học của đinh thự, những ngày đầu, chàng gặp rất ít người. Nhưng tất cả đều chứng tỏ với chàng thái độ lịch sự nể vì và sự rộng lượng khoan dung mà người ta dành cho các nho sĩ trong triều đình nhà Trần. Được quan Tư đồ bảo trợ, Phi Khanh cho dù không có kinh nghiệm đi nữa, cũng đủ sáng suốt để biết rằng dưới những cái vẻ bề ngoài ấy, chàng cũng bị những người ao ước địa vị của chàng và phe đảng của họ ganh ghét. Do đó chàng phải cẩn trọng hơn và tránh không phạm vào sự vụng về nào có thể làm cho mình trở thành mục tiêu để người ta nói xấu và chế giễu. Trong chiếu áo dài đen vá lại đã khá cũ kỹ, đội chiếc mũ nho sinh, chàng bước chân một cách đàng hoàng, nghiêm trang và có những thiếu nữ vẫn thường đưa mắt nhìn theo chàng sau những tấm lưới mắt cáo. Tuy nhiên, một sự kiện không ngừng làm chàng phải thắc mắc. Từ buổi sáng đáng ghi nhớ ấy, khi tiểu thư của Hoàng thân Trần Nguyên Đán xuất hiện trong thư phòng trước mặt chàng với vẻ khó chịu mà nàng đã mau chóng chế ngự được, dường như chàng chưa được thoáng thấy nàng. Dù không muốn, chàng cũng cảm thấy bực bội. Chàng chẳng là thầy của nàng sao? Trong lúc đang dạy học cho các anh em trai nàng, nhiều lần chàng nghe tiếng chân của nàng nhẹ nhàng dừng lại trước cửa, một lúc rồi rời bước. Một lát sau, chàng nghe thấy tiếng cười giòn giã từ vườn vang lên, nàng đang chơi cầu với các cô chị ở đó. Được giao trách nhiệm dạy dỗ cho cô tiểu thư là chính, Phi Khanh tự hỏi không biết giải quyết ra sao. Một mặt, chàng quá kiêu hãnh nên không hỏi tiểu thư Trần Thị Thái lý do gì mà không thèm đến lớp, và mặt khác, chàng không dám than phiền điều ấy với Hoàng thân mà chàng thường thoáng thấy trở về sau các cuộc họp ban đêm, khuôn mặt mệt mỏi và lo âu. Bởi lẽ trong ít lâu nay, tình hình đất nước càng sa sút. Phi Khanh tin chắc như thế khi nghe người này người nọ nói trong các lần đi dạo chơi nhàn tản trong Hoàng thành. Các cuộc nổi loạn của tá điền và nông dân nổ ra liên tiếp. Triều đình phải gửi các đội vệ binh ở kinh đô đi dẹp loạn vì các đạo quân ở các phủ tỏ ra ngày càng kém hiệu lực. Người ta nói rỉ tai nhau rằng việc cung cấp binh lương đã gây khốn khổ cho người nào có ruộng lúa, nương dâu hoặc ao cá và kể từ năm ngoái, cho cả những người không có gì, rồi sau đó việc mộ quân gặp phải sự chống đối đến nỗi người ta phải động viên cả các sư sãi. Đây là cơ hội tốt nhất đế một số người trong triều chế giễu ra mặt các kẻ được gọi là tu hành. "Những kẻ khoác lác tinh ranh ấy" - họ nói – "đã quên đi giáo huấn về sự đau khổ và hư vô mà chỉ lo lắng sao cho có nhà cao, vườn rộng, có thật nhiều vàng ngọc và tôi tớ". Đáng cái đời cho bọn chúng, giờ đây chúng cũng bị bắt buộc lội bùn như đám dân quèn! Rõ ràng là từ các cuộc khởi nghĩa nông dân đó, triều đại đang đánh mất niềm tin nơi người dân khốn khổ và cũng với niềm tin ấy, nó đang đánh mất mệnh trời! Về phần mình, Phi Khanh nhất trí với câu nói làm mủi lòng mà Hoàng thân thường nói với các con ngài: "đọc thiên kinh vạn quyển phỏng có ích gì nếu nay tóc cha đã bạc trắng mà cha không làm cho vận mệnh của dân tộc tốt đẹp lên!" Thật vậy, Phi Khanh tự nhủ khi dân tộc đang chịu trăm ngàn nỗi khổ, quan tâm đến một tiểu thư không chịu đi học phỏng có ích gì? Chính vì thế, chàng không nói gì cả. Cũng không ai lưu tâm đến sự vắng mặt lâu ngày của tiểu thư mà cũng không ai cáo lỗi chàng về việc đó. Cho nên, trước những người anh em của nàng, những cậu trai đã quá tuổi để chỏm, đôi lúc chàng phải chỉ trích cái thói tự mãn và lười biếng của những người tự cho mình là vượt lên trên, không cần kiến thức. Chàng thầm mong rằng lời ám chỉ này sẽ được nói lại cho nàng. Tuy lời ám chỉ có làm cho niềm hãnh diện bị tổn thương của nhà mô phạm được nguôi ngoai, nhưng một khi trở về phòng mình, chàng run sợ vì người ta hẳn sẽ bóp méo lời lẽ theo một cách nào đó lúc kể lại cho nàng. Hay là nàng coi chàng như một ông thầy trong đám thầy giáo tầm thường không hơn không kém. Những người này dưới bề ngoài đạo mạo, che giấu một kiến thức ít ỏi, chạy chọt khắp nơi ở thôn quê, cố lập ra một ngôi trường để dạy dỗ các đứa trẻ quê mùa bằng roi vọt. Cứ tưởng tượng như thế là làm cho chàng tức điên lên, không tài nào ngủ được. Chàng ngồi mãi trước cái đồng hồ nước suốt năm canh để suy nghĩ về thái độ chàng phải đối xử với nàng, nếu cuối cùng, ngày nào đó, nàng bước chân vào phòng học và đó là giả sử như có một lúc nào đó nàng sẽ đến. Điều tệ hại nhất là nàng đã gây ra một cơn bão tố tình cảm bực tức mà chàng cứ tưởng rằng không bao giờ mình lại có thể như vậy. Thật vậy, từ ánh mắt đầu tiên, chàng biết rằng sự hiện diện của nàng sẽ gây cho chàng nhiều khó khăn, còn giờ đây sự vắng mặt của nàng lại tạo ra những khó khăn lớn hơn. Trước kia việc sôi kinh nấu sử8 chiếm hết mọi thời giờ, chàng đâu còn thời giờ dành cho phụ nữ, thành ra về vấn đề này chàng như bị chìm ngập trong vực thẳm lúng túng. Một người lịch lãm chắc chỉ coi đó là sự làm dáng tinh quái, thì chàng lại thấy đấy là một hình thức khinh thị cố ý. Chàng không hiểu gì về sự tránh né của tiểu thư Trần Thị Thái và sự vui vẻ quá đáng khi nàng đi dạo chơi trong vườn bên dưới cửa sổ phòng học. Chàng cũng không hiểu việc tiểu thư đi đâu cũng dắt một con hầu mang theo một giỏ sách. Chàng đã theo đòi chữ nghĩa của nhà nho, chàng là một nhà nho, chàng biết rõ lịch sử xưa và nay nhưng không biết cư xử thế nào trước phụ nữ. Chàng tin rằng đây quả là một chuyện nực cười, chàng ước ao được tỏ bày điều đó với một ai. Chỉ có điều, ở hoàng thành, chàng không có một người bạn thân thiết nào. Tình trạng đó kéo dài trong hai mươi ngày, rồi buổi sáng ngày hai mươi mốt, tiểu thư Thái vào lớp thật trễ cùng với đứa thị nữ và đến ngồi ở hàng ghế đầu tiên. Đứa học trò có giọng đọc tốt nhất đang đọc một trang trong sách Kinh Dịch. Mọi việc xảy ra như Phi Khanh đã thường tưởng tượng trong những đêm mất ngủ. Vì vị trí cao trọng của chàng trong Tứ Đại9, chàng đón nhận rất lạnh lùng cái chào kính cẩn của nàng và ra hiệu cho cậu học sinh tiếp tục đọc. Sau đó mọi khuôn mặt, trừ khuôn mặt của tiểu thư, cúi xuống trang sách, chú ý nghe Thầy giải thích, vì đây là một đoạn văn khó. Trong thời gian chàng chú giải dài dòng và tỉ mỉ để tránh những cách giải thích sai lạc, ánh mắt của cô tiểu thư không rời khỏi chàng dù đó là ánh mặt kinh ngạc, lo âu, thán phục hay chế giễu. Phải chăng nàng hiếu học hơn cách nàng biểu lộ từ trước đến giờ? Chàng nghĩ thầm như vậy, tuy bề ngoài vẫn thản nhiên. Sự đột nhập của nàng vào lớp học bất chấp các tục lệ chẳng đáng phải cho một bài học nho nhỏ hay sao? Dù gì, chàng cũng để cho lớp học tiếp tục theo truyền thống tức là người ta phải học những sách nền tảng, kế đó là lịch sử và các truyện ký (kinh - sử - truyện). Do đó lớp học bắt đầu bằng lịch sử nhà Tống, rồi tiếp tục bằng một bài thơ của Chu Văn An dường như để tặng cho buổi sáng mùa xuân hôm ấy một cách thơ ngây: Bách huân bán lãnh trà yên yết. Khê điểu nhất thanh xuân mộng tàn. (Mùi khói thông sắp hết, khói trà đã tắt? Một tiếng chim bên suối làm tỉnh mộng xuân) Khi ba tiếng chiêng vang lên, các học trò đứng dậy ra về, Phi Khanh yêu cầu tiểu thư nán lại chốc lát. Tiểu thư ngạc nhiên nhìn chàng rồi với sự tự tin thường lệ, nàng cho đứa thị nữ về trước và chờ đợi. Khi tiến đến gần nàng với vẻ mặt nghiêm khắc, Phi Khanh không thể không thán phục vẻ mảnh mai của thân hình nàng, tay chân nàng duyên dáng và dung mạo nàng khoáng đạt hồn nhiên như con chim sẵn sàng cất cánh. Chao ôi, có phải tạo vật có thân thể nhẹ nhàng ấy, nhẹ nhàng như chiếc lá đang rơi đã giày vò chàng bao đêm? Nếu trái tim chàng đang rung động, thì khuôn mặt chàng tươi tắn nhưng lạnh lùng như băng giá. - Đối với một người lúc nào cũng sống trong triều đình - chàng nói - thì một tên cử nhân quê mùa chắc hẳn là một cái gì không chịu nổi. Thế là tiểu thư đã đến, đã nghe và thấy sau khi bắt người ta chờ đợi lâu ngày. Tôi chỉ hy vọng rằng sự hiện diện của tiểu thư ở đây hôm nay không phải là hậu quả của thói bốc đồng phù phiếm và ngày mai tiểu thư sẽ trở lại lớp học đúng giờ. Ngay từ câu nói đầu tiên, tiểu thư Thái đã đỏ ửng, mái tóc mây của cô trễ xuống, những sợi tóc mai vẫn được cắt tỉa mỗi sáng như bị nhiễm điện và ánh mắt cương nghị của cô tối sầm lại, tuy nhiên cô mạnh dạn trả lời: - Thưa thầy, thật đáng tiếc nếu thầy có những ý nghĩ xấu xa như thế về em. Khốn nỗi quả thật vẻ bề ngoài làm cho em bị kết tội oan. Nhưng làm sao em vừa có thể đến lớp vừa an ủi cha em đi họp đêm trở về mệt nhọc và lo âu? - Tốt lắm! - Phi Khanh lạnh lùng cười nhếch mép - Nhưng có phải sự mệt nhọc và lo lắng của Đức ông, lệnh tôn cũng làm cô vui vẻ đùa giỡn trong vườn đấy chứ? Chàng ngây thơ nghĩ rằng nàng sắp sửa xấu hổ đến chết được. Nhưng vẻ rạng rỡ của sự chiến thắng lóe lên trong đôi mắt mà nàng vội vàng cụp xuống một cách kín đáo làm chàng mở mắt. Nàng giễu cợt mình, chàng tự nhủ, thế đấy, các tiểu thư trâm anh và giàu có giải buồn bằng cách chế giễu người khác! "Không một hành động, cử chỉ nào của mình mà chàng ta không để ý đến", tiểu thư Thái phấn khởi tự nhủ. "Người nào ở trong triều đình dám thừa nhận như thế, còn chàng ta lại nói ra điều ấy". Khi nàng nhìn chàng lần nữa, chàng đang thu xếp sách vở và các vật dụng, không còn quan tâm đến nàng nữa. Giờ đây, niềm vui ấy đã đủ cho nàng rồi, nàng xin cáo từ và đi tới chỗ Thị Nghi đứng ở dưới hành lang. - Bài thơ của Chu Văn An làm cho chị muốn đi dạo trong vườn - nàng bảo - Trời đẹp quá, hoa đào sao mà dễ thương đến thế. Em hãy để sách vở đó và theo chị. Nàng đi từng bước nhỏ, và ngón tay nàng vò cái dải thắt lưng dài bằng lụa. Nàng có ý định theo dõi từ xa chàng thanh niên đang trở về phòng. Nàng thấy chàng xa dần giữa những hàng cây và cảm thấy thích thú quan sát chàng mà chàng không hay biết. Niềm thích thú ấy cũng giống như niềm thích thú nàng có trong suốt mười lăm ngày nàng tránh mặt chàng. Không khí dưới các cây đào mát dịu như tráng men sứ. - Thưa công nương, vị tôn sư đó được bao nhiêu tuổi xuân rồi? - Thị Nghi hỏi. - Chị không biết, có lẽ hăm mốt hoặc hăm hai. - Ông ấy có vẻ buồn và cô đơn. Theo ý của em, ông ấy cần có một người thương để chia sẻ những nỗi ưu tư. - Em cần gì phải bận tâm về việc ấy! Dáng người cao và mảnh mai của chàng sắp khuất hẳn sau cánh cổng mà nàng không thể mạo hiểm vượt qua. Chàng cô đơn, nàng tự nhủ, ngạc nhiên vì trước nàng, một người phụ nữ khác đã có nhận xét đó. Nàng liếc mắt nhìn Thị Nghi. Phải nói rằng, đứa thị nữ mạnh khỏe này cũng đang đau khổ vì phải xa quê hương. - Nào về thôi! Nghĩ đến buổi chiều dài dằng dặc đang chờ đón mình, nàng ước ao cái đồng hồ nước sẽ trở nên như điên loạn, điểm ngay giờ học của ngày mai. "Thế ra mình hối hả gặp lại chàng đến thế thật sao?" - nàng tự hỏi trong khi Thị Nghi nhặt lại giỏ sách vở rồi cả hai bước vào dinh thự mát mẻ - "hay chỉ vì ở đây chẳng có gì đáng để mình quan tâm?" *** Đêm hôm ấy, Phi Khanh đã tức tối nàng vô lý và phí thời gian đi bách bộ trong phòng bởi vì ngày hôm sau và những ngày tiếp theo, tiểu thư Thái trang điểm như một nàng tiên, luôn có mặt trong giờ học buổi sáng và có khi đến rất sớm. Chàng chỉ căn dặn nàng đến đúng giờ, thế mà chàng thấy nàng và đứa thị nữ ở trong phòng học trước khi lớp học bắt đầu. Chàng vẫn cho rằng hành động ấy chỉ xuất phát từ tính khí thất thường của nàng nhằm lôi cuốn sự chú ý về mình và sự bốc đồng ấy không thể kéo dài, cho nên chàng tỏ vẻ không nhận thấy và không thay đổi thói quen của chàng mỗi sáng là kéo một vài hơi thuốc lào trong phòng học trống trải, đồng thời suy nghĩ về đề tài sắp giảng dạy. Mỗi sáng, chàng nghĩ mình sẽ bước vào một phòng học trống không nhưng tiếng trò chuyện thủ thỉ của tiểu thư Thái và đứa thị nữ báo cho chàng biết họ đã có mặt trước khi chàng bước qua cửa lớp. Lúc đó, không hiểu tại sao, chàng sung sướng vì mình lại lầm, lầm thêm một ngày nữa. Rồi một buổi sáng, chàng lắng tai nghe nhưng không thấy tiếng trò chuyện. Chàng nóng lòng, hy vọng bâng quơ. Chỉ có im lặng và im lặng. Thế là, chàng bực mình kết luận, cơn bốc đồng của tiểu thư Thái đã chấm dứt. Ngay lúc đó, chàng thấy nàng ngồi đọc sách một mình trên chiếu. Nàng không nghe thấy tiếng chân chàng đến nên vẫn cúi chiếc cổ xinh xắn. Một vài lọn tóc rơi ra từ búi tóc thả xuống chiếc gáy trắng xanh tạo nên một vẻ xinh đẹp pha nét hững hờ. Nhìn thấy nàng, nhỏ bé và mong manh như thế, Phi Khanh nhớ đến những cánh bèo tấm trên ao nước ở quê nhà và bất giác chàng chìm vào nỗi nhớ quê hương. Cùng lúc ấy, tiểu thư Thái quay lại, bắt được cảm xúc ấy trên khuôn mặt chàng, nàng cúi xuống mặt đỏ bừng. Không có gì xảy ra thêm nữa. Nhưng kể từ giây phút đó, ánh mắt của vị gia sư trẻ tuổi quyện theo nàng không ngớt. Nàng bắt đầu nghĩ đến chàng ngày lẫn đêm đến độ chàng dường như trở thành nguyên khí của nàng. Nàng tìm đến các anh em trai nàng với mục đích duy nhất là nói về chàng, về phong thái rất độc đáo và sâu sắc của chàng, nhưng lại viện cớ là để trao đổi thêm về ý nghĩa của bài học. Nàng còn gia tăng sự chuyên cần và tập trung vào những môn học khó nhất để chứng tỏ nàng không dốt nát hoặc lười biếng như chàng vẫn tưởng và để sau cùng, nàng phải thú nhận rằng mình đã yêu chàng. "Ta yêu chàng!" nàng say sưa lặp lại với mình, chìm hẳn vào một thứ tình cảm mới lạ mà ngay cả thân phụ nàng cũng là một người ngoài cuộc. Dường như nàng đang chia sẻ tâm hồn với các bậc nữ lưu trong các truyền thuyết tình yêu, của công chúa Tiên Dung và nàng tiên Thể Loan. Tuy nhiên, điều xác thực đó chẳng những không đem lại cho nàng vạn phúc, mà lại là nguyên cớ cho những nỗi dằn vặt mới: khi thì nàng chỉ thấy giữa hai người những hàng rào ngăn cách không thể vượt qua và nàng than thở. Tại sao số phận trớ trêu lại ngăn cách chàng với nàng đến thế. Có thể nàng đã quên rằng dù sao chàng cũng chỉ là một kẻ tôi tớ của cha nàng, nghèo nàn và hơn thế nữa thuộc giới bình dân, và điều ấy những kẻ khác làm sao quên được? Khi thì nàng nhanh nhẹn vượt qua những hàng rào ấy, vì quả là một đam mê như thế - và do dòng dõi cũng như do bản chất nàng phải sống mãnh liệt một đam mê lớn - thì xem mọi vật cản tầm thường ấy nào có ra gì. Phi Khanh chẳng phải là một nho sinh xuất chúng đầy hứa hẹn ở khóa thi sắp đến, và sẽ bước lên những chức quyền cao trọng? Nàng nhớ tới vẻ hiên ngang sinh động trong phong thái và toàn bộ con người chàng và đo lường mức độ khác nhau giữa chàng với những thanh niên quyền quý hời hợt nông cạn trong triều mà đôi khi nàng gặp ở nhà cha nàng hay trong các nghi lễ ở chốn cung đình.. Nhưng vừa tưởng đã giải quyết được đôi chút mọi vấn đề, thì câu hỏi tiên quyết mới đặt ra: chàng có yêu nàng không? Một số dấu hiệu chứng tỏ điều đó. Nhưng rồi sao? "Chàng sẽ yêu mình, nàng tự nhủ, chàng sẽ phải yêu mình!". Do một nét đặc biệt của tính khí kiêu hãnh và ngoan cường, cô tiểu thư càng thao thức đêm đêm, trí tưởng tượng cuồng nhiệt của nàng càng vẽ ra những kế hoạch trốn khỏi khuê phòng, con tim đảo lộn của nàng càng luôn ra những bài thơ nóng bỏng có đến hàng chục bài rải rác xung quanh nàng vào sáng sớm, thì khi có mặt chàng, nàng lại càng bày tỏ một vẻ dửng dưng lạnh nhạt. Không ai có thể tin rằng giọng hát như tan vỡ theo những cung bậc đam mê hòa nhịp với tiếng đàn tranh cũng chính là cái giọng ra vẻ lãnh đạm khi xin gia sư một lời giảng giải. Đến nỗi Phi Khanh vì thiếu kinh nghiệm về phụ nữ và không biết rõ trái tim mình nên cho rằng từ nay không còn gì ngăn cản chàng làm tròn nhiệm vụ mà Hoàng thân Trần Nguyên Đán đã giao phó. Bởi vì nếu tính chất thất thường của tiểu thư Thái đã dẫn đưa cô đến tình yêu thì nó chỉ thúc giục vị thầy trẻ tuổi phải thận trọng. Vì vậy chàng vui lòng đối xử với tiểu thư quyền quý như nàng vốn là thế và luôn luôn trước mắt chàng vẫn và thế: đó là ái nữ của quan lớn Tư Đồ. Chàng cũng không còn quan tâm đến thói ngông của cô học trò bốc đồng ấy và tìm lại được sự thanh thản. Với lòng nhiệt tình mới mẻ và dồi dào, một lòng nhiệt tình không chỉ nhờ Khổng Tử, Mạnh Tử và Lão Tử, chàng tiếp tục hướng dẫn học trò trai gái học hỏi Tứ Thư, Ngũ Kinh cũng như thi phú, văn, sách và các thể loại văn chương khác. Quên đi ánh mắt chế giễu của tiểu thư Thái, chàng lại tiếp tục cái việc dạo chơi thanh thản trong hoàng thành. Nhờ đó chàng khám phá những điều trước kia chàng biết qua sách vở về sự biến đổi liên tiếp của hoàng thành từ thời xa xưa khi vua Lý Thái Tổ thấy một con rồng vàng bay lên từ những bức tường thành và chọn nơi này làm kinh đô. Tuy nhiên, nếu chàng say mê vẻ đẹp của vô số dinh phủ với mái dát vàng dát bạc và ngây ngất trước điệu bộ nhịp nhàng của các đội ngự vệ ở các cổng thành, trước sự dập dìu của các hoạn quan, các thị thần, các quan chức trong những bộ xiêm y và mũ cánh chuồn, thì chàng cũng tiếc nhớ khu thị dân người đi chen chúc, thuyền chiến và thuyền chài nhấp nhô ở cảng Đông Bộ Đầu, xe ngựa chạy trên đê Đại La. Chàng rất nhớ mùi hương của hồ Lục Thủy buổi hoàng hôn, những cuộc trò chuyện với các vị thầy của chàng dưới bóng mát của trường Quốc Tử Giám và cả những ca lâu mà chàng rất ít khi lui tới. Chỉ sau khi không tìm ra một khuôn mặt quen thuộc nào trong hàng người bất mãn ngày càng nhiều đến đánh chuông ở gác Long Trì trong hoàng thành để kêu oan, chàng mới quay về trong sự cô tịch của dinh quan Tư đồ và lao vào việc học. Một buổi sáng, giữa nhóm người đến kêu oan, chàng nhận ra mái tóc bôi dầu của thương gia họ Trương mà một dạo chàng đã làm gia sư trong nhà ông. - Này bác, bác nói cho tôi biết, việc rắc rối nào đã đưa bác tới đây? Người thương gia ném ánh mắt dữ tợn về đối thủ của mình cùng tháp tùng để việc xét xử được thực hiện nhanh hơn, ông nghẹn ngào vì giận dữ. - Từ khi ông cử ra khỏi nhà tôi, tôi gặp nhiều điều xui xẻo. Khi ông ra đi, sự may mắn cũng đi theo! Rồi ông ta kể lại câu chuyện thỉnh thoảng chêm vào lời nguyền rủa. Sau cùng Phi Khanh cũng hiểu ra câu chuyện rắc rối về một thương vụ có liên quan đến một lô nón Mã Lôi quan trọng. Trong vụ này, Trương bị một người đứng trung gian ở tỉnh Hải Dương lừa gạt một món tiền lớn lên đến ba mươi lạng. Tay trung gian kia đã chối phăng: không bao giờ hắn đã nhận tiền cho một vụ buôn bán nón Mã Lôi nào, hắn cũng không bao giờ được ủy quyền của vị Quan lớn thuộc hoàng tộc có độc quyền về món hàng ấy! - Căn nguyên của tệ nạn còn sâu xa hơn nhiều - Trương nói - tên cướp này được các quan án che chở ghê lắm vì họ nhận tiền đút lót của hắn để cùng nhau che chở cho hắn. Đơn độc với tấm lòng thành, làm sao được cấp cao hơn soi xét? Tên thừa lại của Bộ hình phụ trách việc ghi các lời kêu oan vào sổ, sắp sửa đi ra thì được báo cáo về vụ việc. Không còn bận tâm, hắn ra lệnh cho thương gia họ Trương viết một tờ khai và ngày khác trở lại. - Thế đấy - người thương gia mặt xám lại vì giận dữ kêu lên - tên lừa đảo ấy đã bóc lột tôi đến tận xương vậy mà người ta bắt tôi phải chầu chực tháng này qua tháng khác trước khi minh xét đơn khiếu nại của tôi. Quan trên tha hồ rút tỉa còn dân chúng không biết cầu cứu nơi đâu! Sau khi đã tận tình góp ý cho bác Trương để bác viết lời khai và đơn từ khiếu nại, Phi Khanh buồn bã quay trở về dinh và làm việc cho tới canh tư. Chàng sửa chữa bài tập của học trò, điểm một dấu chấm hoặc khoanh một vòng tròn trước những đoạn văn mà chàng xét thấy là hay. Hoa mơ vừa mới héo tàn, bấy giờ là lúc hoa đào nở rộ. Dưới ánh sáng trăng vằng vặc, Phi Khanh làm những bài thơ hay ngâm nga những bài thơ cổ trong khi đứa tớ gái Liễu sửa soạn pha trà hoặc đốt lò hương. Trong lúc chàng đáp lại tiếng rì rào của gió xuân trong vườn thơm ngát mùi hương bằng những vần thơ đượm tình nhung nhớ theo đề tài "Mơ màng dưới ánh trăng lúc uống trà", chàng không ngờ rằng qua trung gian từ Liễu đến Thị Nghi, tiểu thư Thái sáng hôm sau sẽ có được bản báo cáo chi tiết về tối nay của chàng. Bản báo cáo mà nàng giả vờ lắng nghe với vẻ sốt ruột: - Đèn của gia sư chắc cháy lâu! Hoặc là: Đêm hôm qua chắc ông ý viết nhiều! Điều đó đủ để Liễu phải rót thêm dầu vào đèn hoặc thay bút lông. * * * Cuộc sống chuyên cần và trầm mặc của Nguyễn Phi Khanh tiếp nối nhau hết tối này qua đêm khác giữa cảnh cô quạnh, không bạn bè để cùng làm thơ, không bạn tình để chung chăn gối. Một buổi sáng sau giờ học, một gia nhân từ nội dinh chuyển đến chàng lời của quan Tư đồ mời chàng đến tham dự bữa tiệc ngày hôm sau. Chàng gia sư trẻ tuổi cảm động đến chảy nước mắt vì quan Tư đồ đã vô cùng lịch sự đối xử với chàng như với một kẻ ngang hàng. Kể từ cuộc tiếp kiến đáng ghi nhớ đầu tiên, chàng chưa có cơ hội gặp lại ông, nếu có thì chỉ từ xa khi ông trở về sau cuộc họp ban đêm đúng lúc chàng bước vào phòng học. Chàng hẳn phải vui mừng có dịp trao đổi một vài lời với ngài nếu những kẻ nịnh hót, những kẻ ăn bám các quan lớn luôn luôn có mặt, còn để cho chàng có cơ hội. Chàng rất ngạc nhiên khi đến bữa tiệc, những kẻ được mời chính là các học trò của chàng. Chàng còn ngạc nhiên hơn khi biết được rằng bữa tiệc này có mục đích giới thiệu chàng với toàn bộ gia đình của Hoàng thân. - Tôi lấy làm tiếc rằng bữa tiệc diện kiến này đã không được tổ chức sớm hơn. Hoàng thân mời chàng ngồi vào chỗ bên cạnh ông trên một cái sập lớn, cùng lúc bà vợ chính thất mang dòng máu quý tộc cũng ân cần mời chàng ngồi xuống. Lần đầu tiên trong đời chàng, chàng mới được thưởng thức những món ngon vật lạ trên bàn ăn của một gia đình quyền quý. Trước mặt chàng, trên những chiếc mâm quý giá, những bát sứ Gia Lâm đựng đầy thức ăn, chàng nhớ đã thấy những món ăn như thế, dù chưa được đụng tới, tại nhà quan thủ hiến tỉnh chàng vào các ngày lễ Tết. Có đủ ngũ vị và bát trân, trong đó có món thịt đông làm bằng da tê giác, món gỏi bào ngư, tay gấu, chả phụng, yến sào và bào thai beo cùng với các món ăn khác mà Đức Vua thường dùng như người ta vẫn nói. Nhiều lần, chàng phải nâng cốc uống cạn rượu tiết để tỏ lòng tôn vinh gia chủ. Mặc dù chàng chỉ uống có ba lượt để khỏi mang tiếng là dân ghiền, thứ rượu gồm một phần huyết dê và ba phần rượu nếp ấy làm cho chàng thêm hưng phấn và bạo dạn. Chàng quan sát một lượt các thực khách và sau cùng chàng nhận thấy tiểu thư Thái đang ngồi giữa đám chị em nàng như thể nãy giờ nàng có phép tàng hình. Tới lúc này, chàng quên hẳn lý do mình được mời và nhìn nàng như ngây dại. Phải nói rằng nàng "làm đỏm làm dáng quá sức" như cách người ta thường nói và rực rỡ trong bữa tiệc như một nàng tiên. Một cây trâm bạc thay vì trâm vàng chỉ dành cho búi tóc nhà Vua, lấp lánh như sương mai trên mái tóc đen mượt mà như sơn mài. Hai má nàng phớt hồng như cánh sen và đôi mắt nàng giống như chiếc thuyền đen bỏ neo trên mặt nước sáng ngời. Nàng mặc một áo cánh lót dưới chiếc áo dài, cổ áo cánh khoét rộng, bên trên chiếc yếm màu da cam bằng lụa mềm, thứ lụa do các cung nữ ở điện Long Thủy và Thúy Hoa trong cấm thành dệt và thêu. Do đãng trí, Phi Khanh suýt đưa bát lên miệng, đồng thời lấy đũa và thức ăn vào miệng như thói quen chàng vẫn làm ở nhà cha mình. Sự thiếu sót ấy trong tục lệ ở đây, tức thì giúp chàng lấy lại sự bình tĩnh. Nhưng cái cử chỉ dừng lại đúng lúc vừa rồi đã không thoát khỏi ánh mắt nhận xét của tiểu thư Thái và các bạn nàng. Chàng thấy nàng đang cố nén lại một tiếng cười sau bàn tay, trong lúc một người em gái của nàng thốt ra: - Con chim có tổ, con người có tông. Chị hãy nhìn xem anh chàng! Khi thấy chàng thanh niên lúng túng như thế, sự thỏa mãn vì được dịp trả thù ở tiểu thư Thái đã thắng ý muốn rầy la cô em mình. Thế là tiểu thư bắt đầu cười, Phi Khanh bỗng cảm thấy sự phẫn nộ bắt đầu làm ruột gan chàng lồng lộn lên. Sự phẫn nộ trở thành cơn giận dữ thực sự mỗi khi nhìn nàng. Nàng, trước đó chưa đụng đũa đến món ăn nào, giờ thì lại công khai trình diễn cách gắp thức ăn bằng một đầu đũa, sau đó đảo qua đầu đũa kia, đưa thức ăn vào miệng một cách duyên dáng cố ý cho chàng một bài học về cung cách đứng ngồi ăn nói. Không nén lại được, vả chăng chất rượu giúp chàng thêm bạo dạn, đột nhiên chàng hướng về đám thiếu nữ mà rằng: Khổng Tử có nói rằng: "Khi ta còn trẻ, ta sống trong cảnh hàn vi vì thế ta đã phải tập làm nhiều việc nhưng đó là những việc tầm thường". "Người quân tử có cần phải biết làm nhiều việc không?" - Hoàng thân bổ túc câu trích dẫn đồng thời hướng ánh mắt nghiêm khắc về các cô con gái của ông. - Đúng là phải sợ nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò... và nhất là những học trò nữ. Gia nhân dọn lên món tráng miệng: nào là bánh trung thu, nào là bánh tro mà người ta thường dùng trong Tết Đoan Ngọ, những mâm trái cây trưng bày khéo léo, rồi chè, mứt kẹo nặn thành hình các loài cầm thú. Đích thân bà hoàng, chính thất của quan Tư đồ, phục vụ cho ông giáo trẻ. Phi Khanh tỏ vẻ biết ơn sự ưu ái của bà nhưng chàng giống như người câm phải che giấu sự bất bình phải ăn những món ăn mà nỗi đắng cay còn đọng lại trong lòng. Cho tới lúc tiệc tàn, chàng cố không quay nhìn về hướng tiểu thư Thái. Với tâm trạng của chàng lúc đó, chàng nơm nớp e ngại các ca nhi và nhạc công của Hoàng thân lại vào phòng tiệc làm cho buổi dạ tiệc kéo dài ra. Chàng cảm thấy nhẹ nhõm khi Hoàng thân mời chàng đi qua thư phòng. Chàng khiếu từ bà hoàng chính thất và các tiểu thư cũng như các bà vợ hai, vợ ba, vợ tư và tuần tự các bà kế tiếp mà chính con cái họ được chàng dạy dỗ. Trong lúc chàng rời chân với một vẻ lịch sự lạnh lùng, tiểu thư Thái cảm thấy tim nàng bị giằng xé giữa hai thôi thúc mãnh liệt: một đằng, nàng muốn nói ra trước mặt mọi người ước nguyện của nàng muốn nâng khăn sửa túi cho chàng và đằng khác nàng muốn hạ nhục chàng một cách khủng khiếp vì sự dửng dưng của chàng gia sư mà nàng đã đoái hoài đến, làm nàng tức giận. Dù tâm hồn đang bị những ý tưởng đó làm dao động, nàng vẫn nhẹ nhàng phe phẩy quạt. Cha nàng cùng với Phi Khanh vừa mới đi khuất sau bức trướng gấm, nàng đã nảy ra ý định đến gặp họ khi cơ hội cho phép. Khích lệ bởi ý định đó, thế là nàng, quy tụ chừng hai mươi đứa em trai mà trên chúng, nàng có một uy thế không ai chối được. Một lát sau, người ta nghe tiếng nàng hát bài "Mùa xuân trên tháp ngọc". Mặc dù được Hoàng thân cho phép, Phi Khanh chưa bao giờ tự ý quay lại thư phòng, trong một khoảnh khắc dao động tức khắc được chế ngự, chàng tìm lại nguyên vẹn cảm xúc của lần đầu tiên bước vào chốn này. Cũng với vẻ giản dị dễ mến, Hoàng thân mời chàng ngồi xuống sập gụ bên cạnh ông. - Chúng ta cứ coi nhau như những nhà thơ! - ông nói và điều đó chứng tỏ ông đã đọc những vần thơ tri ân của chàng - ông vỗ hai tay vào nhau - Các nhà thơ cần hút thuốc để tìm cảm hứng. Ông chưa nói hết câu thì các gia nhân đã bước vào đặt cách sập gụ ba bốn thước10 mấy cái điếu dóng sang trọng có khảm xà cừ, rồi họ cho thuốc vào và châm lửa trước khi đưa những the điếu dài bằng rễ trúc đến gần miệng người hút. Sau đó, họ quỳ gối và che giữ ngọn lửa từ xa. Trong đời chàng, chưa bao giờ chàng được hút thuốc một cách sang trọng như thế vì ống điếu của chàng là thứ làm bằng gỗ tạp của nhà nông và dân chài. Suốt mấy phút dài, chàng lắng nghe tiếng nỏ điếu kêu ục ục. Phi Khanh không nói cũng không nhìn thẳng vào người đối diện, chàng hít vào những hơi dài sảng khoái. - Thơ của thầy có nhiều "ý tại ngôn ngoại" - sau cùng Hoàng thân nói bằng một giọng xa xôi - Tôi xin thầy hãy sáng tác một bài thơ để tôi họa lại. Lấy giấy và mực ra, Phi Khanh làm ngay. Vì sự sỉ nhục chàng đã hứng chịu trong bữa tiệc như khơi thêm nỗi sầu nhớ quê và cảnh đầm ấm dưới mái gia đình nên những tình cảm này tự nhiên bộc phát dưới ngọn bút tài hoa của chàng. - Cảm hứng của thầy tự nhiên và chân thật - Hoàng thân nói - vận và lời độc đáo, có thể làm mẫu mực. Tôi sẽ họa lại theo đề tài ấy. Phi Khanh đọc đi đọc lại bài thơ họa của quan Tư đồ với sự ngạc nhiên và thán phục. Bài thơ gói ghém ước mơ của quan Tư đồ muốn treo mũ ở cửa đông môn để quay về miền sơn dã. Ông muốn đổi mũ nhà quan để đội vào nón lá, chân đi hài cỏ, đóng cửa không tiếp những người khinh thường đạo lý, tự mình trồng rau, câu bắt trăng sao và cày bừa mây khói. - Thưa đại quan - Phi Khanh nói - dường như đại quan chưa từng rời khỏi cõi yên hà. Thơ của đại quan quả đáng bậc thầy. Xin ngài tha thứ cho một kẻ thất phu chưa từng ra vào nơi cung khuyết - chàng nói tiếp, và không dám động đến những điều mà chàng đã biết hoặc tưởng mình đã biết về vị trọng thần, qua đám học sinh của mình - nhưng chỉ dám hỏi rằng làm thế nào để những người như Y Doãn, Chu Công có thể trở thành những người như Sào Phủ, Hứa Do? - Ngày xưa - Hoàng thân trả lời - Vua Nghiêu và Vua Thuấn buông tay áo xuống, trị an thiên hạ thế mà đất nước được thịnh trị. Thời buổi ấy đã qua rồi. Hai người im lặng hút thuốc một lúc. Một con suối ẩn khuất ở một nơi nào đó như âm vang với tiếng ục ục của bình thuốc lào. Sau khi cho thêm thuốc vào điếu, các gia nhân lùi lại và rút lui khi Hoàng thân đưa tay ra lệnh cho họ. - Mặc dù chúng ta biết nhau còn rất ít - Hoàng thân nói tiếp - sở thích văn chương lại giống nhau và tính tình xứng hợp. Thầy quyến luyến làng Nhị Khê của thầy cũng như tôi quyến luyến núi Côn Sơn, chính vì thế thầy có thể hiểu được ước vọng của tôi muốn lui về với tùng cúc nơi cố hương. - Tại hạ chia sẻ tình cảm ấy - Phi Khanh nói - tuy nhiên xin đại quan nhớ lại rằng ngài và gia quyến của ngài đã hết lòng vì đại nghĩa. Trong khi kẻ tôi tớ của ngài, chàng nói tiếp với vẻ u uất, chỉ là một nông dân nghèo hèn tài sơ, trí thiển, không có ích gì cho xã hội. Một nụ cười nhẹ nhàng lướt qua ánh mắt của Hoàng thân: - Có phải thầy muốn cho tôi hiểu rằng thầy không thật sự là nhà giáo? - Ông nói với giọng tinh nghịch. - Nhờ Trời, thầy không giống những nhà nho tân trào, tô điểm mình với kiến thức như ngọc trai nhưng khi đã được tiến cử vào một chức vụ cao thì họ tách biệt khỏi quần chúng và khinh rẻ họ - Ông im lặng một lúc lâu trước khi nói tiếp - Đã từ lâu rồi công danh phú quý đối với tôi không khác gì dòng nước trôi đi. Tóc tôi nay đã bạc trắng trong việc thi hành quyền bính và tôi đã đọc nhiều sách nhưng phỏng có ích gì nếu khi quay đầu lại, tôi thấy thẹn mình với khách hoàng quan11. - Ông đẩy xe điếu dài ra và nói tiếp thì thầm như với chính mình - trước mắt tôi, chỉ toàn những điều phiền não! Những lời nói sau cùng này chất chứa đầy nỗi đắng cay và đe dọa làm cho Phi Khanh dựng tóc gáy, tuy nhiên chàng cảm thấy bớt băn khoăn vì ý nghĩa những lời nói ấy đối với chàng vẫn còn chưa rõ. "Nếu mình không biết gì càng tốt", đầy sợ hãi chàng tự nhủ lòng và đồng thời sự đối diện với con người khó hiếu này, một người từng nắm quyền sinh sát trong tay, nay bỗng nhiên tỏ ra rất nhân từ trong nỗi hoài nghi khiến cho chàng ước ao được biết tất cả. Thế là chàng đã dại dột trả lời: - Khi ảnh hưởng của Đức Vua còn chưa bao phủ, đất nước cần có những bậc hiền tài để giúp đỡ Đức Hoàng Thượng cai trị theo chiều hướng công bằng và nhân đạo. Sách xưa đã chẳng nói rằng: "Nếu người quân tử không hành động theo nghĩa, nhân dân sẽ không có mẫu mực để sửa mình!". Có phải ngài cho rằng lúc này không đáng để hành động? Có phải ngài định từ khước cống hiến để rút... - Hoảng sợ vì sự táo bạo của mình. Phi Khanh ngừng lại. Điều không ngờ tới là Hoàng thân chẳng hề tức giận. Ông chỉ mỉm cười trước lòng yêu nước nhiệt thành của chàng gia sư trẻ tuổi, thấm nhuần truyền thống nho gia vốn là linh hồn và lương tâm sống động của dân tộc. - Thầy đang tắm mình trong dòng suối thiện hảo - ông nói - nhưng sách vở của các bậc Tiên Hiền chỉ ra con đường trị nước lý tưởng trong khi chính trị thường đi lạc hướng vào những lối quanh co, ở đó hiền nhân, quân tử bị loại ra khỏi quyền lực. Khi nhân dân xáo động, khi Đế quốc phương Bắc vùng dậy và khi sự nguy khốn từ phương Nam kéo đến, thì triều đại bị lung lay trầm trọng. Trong lúc đó, thì trong đám quần thần của đức Vua, các phe đối lập khích bác nhau, kết bè kết đảng. Những người mà hôm qua còn chiến đấu bên nhau để tái lập nền chính thống thì hôm nay xung đột nhau trong một cuộc chiến một mất một còn, kẻ mạnh hơn dùng ảnh hưởng của mình để loại trừ kẻ khác. Trong những điều ấy, đâu là lợi ích của nhân dân? Nước Đại Việt ta sẽ đi về đâu? Trong lúc lũ sài lang đang quần tụ, tranh đua nhau dùng sự nịnh hót và âm mưu để điên cuồng chiếm lấy quyền lực thì nông dân thiếu đất lại bị sưu cao thuế nặng, họ đang nổi loạn, đê điều hoang phế, việc lao dịch phải ngừng lại bên ngoài những phong ấp rộng lớn. Trước đây việc chi tiêu được tính toán theo mức thu, vào ngày nay, người ta dựa vào sự chi tiêu để định ra mức thu. Một số người leo lên những địa vị cao không có chút tài năng giỏi giang nào ngoài cái tài đánh bóng con người mình. Những người muốn chấm dứt tình trạng đó, có lẽ không có đủ sự khôn ngoan cần thiết để được Thánh Thượng tuyển chọn, nhưng thật ra người ta không thể nói rằng những người hiện đang nghĩ rằng mình lãnh đạo đã chứng tỏ mình có thừa sự khôn ngoan. Nghe những lời đó, Phi Khanh thấy dường như bức màn đột nhiên được xé toang. Những lời ám chỉ được nói lên những lúc chàng có mặt, những mẩu chuyện tình cờ nghe trong các cuộc dạo chơi khắp hoàng thành giờ đây đã thấy ý nghĩa rõ ràng. Cũng thế, tin đồn lan truyền về các phe cánh đang đối đầu nhau ngay bên cạnh đương kim Hoàng thượng, trong lúc Thái thượng hoàng vẫn tiếp tục đứng từ xa lèo lái là điều có thật! Choáng váng vì những lời thổ lộ như thế và cũng đôi chút lo ngại rằng Hoàng thân có thể hối tiếc đã tâm sự với chàng, Phi Khanh tìm mọi cách khéo léo để bày tỏ lòng tôn kính và trung thành với Hoàng thân. Đúng lúc đó, tiểu thư Thái tìm cách bước vào phòng, theo sau là thị nữ mang khay trầu. - Kìa, con cha giỏi quá - Hoàng thân nói khi nhìn thấy con, vầng trán ông trở nên rạng rỡ. Phi Khanh vốn chẳng muốn gặp lại nàng trong ngày hôm nay, phải tự hỏi chàng đã phạm phải tội gì trong tiền kiếp để cô gái lạnh lùng và kiêu kỳ này bắt chàng phải đền trả. Chàng nhẫn nại ở lại dù chẳng còn cảm thấy thích thú gì. Tuy nhiên, chàng không thể không nhìn trộm nàng. Ngồi thật duyên dáng trên đôi gót chân, nàng đưa những ngón tay nhẹ nhàng vuốt phẳng phiu một lá trầu lấy ra từ một cái hộp bằng đồng, rồi nàng nhanh nhẹn sai thị nữ đặt những ống phóng mạ vàng dưới chân sập gụ và đến phụ giúp nàng bổ cau và đảo bình vôi. Khi cau đã bổ xong, mỗi người ngồi qua một bên, cuốn miếng cau có têm vôi trong lá trầu xếp thành đôi cánh chim phượng xinh xắn, tiểu thư Thái ra dấu cho đứa thị nữ. Nó dâng miếng trầu đầu tiên cho ông giáo trẻ trong lúc tiểu thư kính cẩn dâng lên cha nàng miếng trầu nàng đã têm, cha nàng mỉm cười đón lấy. - Này, con gái của cha - ông nói - con đã tuân thủ đúng nghi thức và đã khéo giải quyết một vấn đề tế nhị về ngôi thứ. Cha nhận được kết quả của những bài học cha đã truyền dạy - ông âu yếm tiếp lời, và không ngần ngại trước mặt một người lạ, gọi nàng với cái lên dịu dàng mà chỉ riêng có hai cha con được biết - cha nhận ra đây lòng hiếu thảo của con, Kiều Mai yêu dấu của cha. Trong trường hợp này, Hoàng thân chỉ nghĩ đến vị thứ cuối cùng của ông trong Tứ Đại: Trời, Vua, Thầy, Cha và cái cung cách mà con gái rất yêu quý của ông đã khéo giải quyết vấn đề nan giải. Tiểu thư Thái giả vờ như chỉ thấy trong ý nghĩ của cha nàng một sự ám chỉ về tình nghĩa vợ chồng qua biểu tượng trầu cau. - Thưa cha kính yêu, nếu muốn con hành động khác đi - nàng nói với ông nhưng lại dán ánh mắt nồng nàn vào Phi Khanh - thì chính con phải là hoàng hậu Chiêu Hoàng! Hoàng thân cười vui vẻ. Ông đã không nghĩ ra điều đó! - Đó là dấu hiệu chứng tỏ cha đã già - ông nói - và chẳng bao lâu nữa cha sẽ vào hàng tổ phụ. Đằng sau cái mỉm cười lịch sự. Phi Khanh vô cùng ngạc nhiên, tự hỏi có phải đó là một lời tỏ tình được ngụy trang nhưng chàng lập tức tự nhủ: "Không, con người kiêu ngạo ấy, không thể có ý đó! Chỉ thêm một cách chế giễu nữa mà thôi. Nàng không là hoàng hậu và dù có là hoàng hậu thì mình không bao giờ là Trần Cảnh!". Miếng trầu chàng đang nhai một cách lịch sự có mùi vị nồng và cay đắng. Sau việc Hoàng thân bày tỏ tâm can, thì mọi chuyện như vậy là quá nhiều chỉ trong một ngày. Sau một lát, mà chàng thấy vừa đủ lễ, chàng kính cẩn xin phép được lui gót. Suốt đêm đó và những ngày, đêm kế tiếp, Phi Khanh bị những tình cảm trái ngược giày vò. Tình cảm thân thiết của Hoàng thân vừa lôi cuốn chàng, vừa làm chàng bối rối. Khi thì chàng thấy ở ông một quan Tư đồ đầy quyền lực đã thổ lộ tâm tình với chàng, khi thì chàng thấy một con người đang tức giận vì bị người ta loại trừ. Nhớ lại ánh mắt của tiểu thư Thái làm chàng như bị thiêu đốt, chàng tin rằng mình được nàng yêu, một lát sau chàng không tin như thế và nàng, được giáo dục trong sự quyền quý, đã dùng đến những khuôn mẫu ngày càng tinh vi để cười nhạo một hàn sĩ như chàng. Tóm lại, hết vì Hoàng thân lại vì con gái của Hoàng thân, Phi Khanh đã đánh mất mọi thứ bình an, cho tới sáng, khi chàng thấy nàng sao mảnh mai và trắng muốt như thể nàng từ trong một bức tranh khắc bản bước ra để viết thảo nét chữ trên mặt giấy. Bấy giờ, một sự thay đổi lạ lùng và quyết định đã đến với chàng: sự chấp nhận mù quáng, và toàn bộ bất cứ những điều gì từ nay có thể xảy đến vì nàng, hoặc nhờ nàng. Chàng cố gắng dẹp bỏ tình cảm ấy nhưng chàng cảm thấy mọi việc đã được quyết định từ muôn thuở ở một biên giới cách chàng rất xa, trước khi chàng là núm ruột trong lòng mẹ. * * * Ngày đêm tiếp nối trôi qua. Sau mùa mận, đến mùa bưởi trổ hoa. Căn phòng của Phi Khanh chỉ trong một thời gian ngắn được trang trí bằng một cặp lư đồng, hình đôi rùa đội hạc. Đứa tớ gái Liễu nói rằng không biết từ đâu đến như những lần trước chàng thấy có những chiếc bút lông mới, những thỏi mực hảo hạng ở bàn viết, trà Tàu mới luôn luôn thay trà cũ và dầu đốt đèn. Từ cuộc nói chuyện sau bữa tiệc, Hoàng thân đã có thói quen cho gọi chàng vào lúc chiều tối. Họ nhìn trăng lên, uống trà và làm thơ và chỉ ngừng lại khi nguồn thơ đã cạn và bình trà đã nguội. Bất cứ họ đến nơi nào trong dinh thự mà giờ đây Phi Khanh đã biết hết mọi xó xỉnh, tiểu thư Thái bao giờ cũng tìm gặp họ với đủ thứ mọi lý do này nọ. Đến nỗi gia sư trẻ tuổi không ngừng trông ngóng nàng đến, và giật mình khi nghe tiếng bước chân nhè nhẹ của nàng, và khi bắt được mùi hương ngào ngạt của hoa bưởi cài trên mái tóc nàng tỏa ra. Giờ đây, qua ánh mắt, nàng bày tỏ với chàng một sự dịu dàng đầy dè dặt. Đôi mắt nàng không nhìn chàng với sự chế giễu khiêu khích nữa nhưng chứa đầy tra vấn. Nàng chứng tỏ sự tài tình và mau lẹ khá lỗi lạc khi làm những câu thơ về bất cứ đề tài nào, vần chọn trước là vần nào, làm cho Phi Khanh phải thán phục dù chàng chỉ ngợi khen vừa phải. Những năm sau này, trên con đường lưu đày giữa hai con trai ông, ông phải nhớ lại thời kỳ đó và vai trò duy nhất mà ông có thể nắm được bên cạnh nàng giữa tuổi xuân tươi đẹp nhất của đời ông. Khi con gái ông có mặt, Hoàng thân hiếm khi nói đến việc nước mặc dù nhờ các cậu em trai của nàng, Phi Khanh biết rất rõ rằng nàng biết được phần nào tâm sự uẩn khúc của ông. Người ta có thể nói rằng Hoàng thân muốn biến những buổi chiều thơ ấy thành những giờ phút hài hòa tuyệt đối, có thể làm vơi đi các nỗi buồn bực trong khi gánh vác trọng trách của mình. Vả lại, có một điều lạ lùng: Phi Khanh ngày càng trở thành bạn tâm sự của Hoàng thân thì Hoàng thân càng như hờ hững với việc công. Ông không từ bỏ quyền hành, chính quyền hành dần dà rời bỏ ông. Ông nói không chán về đất Côn Sơn, về những ngọn núi đồi xanh tươi, về tiếng suối tuôn chảy róc rách trên các tảng đá, về những cây đại mà ông đã trồng trong sân chùa, về nơi ẩn dật mà ông vừa mới cho xây cất cạnh đó. Nghe ông nói, Phi Khanh tưởng như thấy được bóng dáng "Núi Phượng Hoàng" từ xa, những con trâu đầm mình trong hồ giữa trưa và dưới chân chàng là những tảng đá lớn phẳng phiu trên sườn đồi sau nhà, nơi mà Hoàng thân mỗi buổi hoàng hôn đến sau khóm trúc xanh ngồi ngâm thơ, vịnh phú... Đến nỗi khi hướng lòng về mảnh đất lý tưởng đó, cách xa những toan tính làm mệt nhoài ở triều đình một ngày đường bằng thuyền mành hoặc hai ngày đi cáng, chàng cũng cảm thấy một nỗi nhớ nhung nào đó. Chàng buông mình vào cơn mơ tưởng những mối tình diễm ảo kín đáo giữa rừng thông, cô thiếu nữ vén áo lên và họ cùng nhau hưởng lạc thú ái ân. Tuy nhiên khuôn mặt của chàng khi đối diện với tiểu thư Thái lại nghiêm nghị và không có một mối bận tâm nào khác ngoài việc học. Thế nhưng, khoảng cách mà Nguyễn Phi Khanh cố duy trì giữa hai người lại chính là điều quyến rũ con gái quan Tư đồ nhiều nhất, từ khi nàng tưởng đã đoán ra được sự lạnh lùng quá đáng của chàng ẩn giấu điều gì. Ví thử Phi Khanh có cố tình vận dụng mọi chiến thuật để chinh phục nàng, thì cũng không có biện pháp nào hay hơn như chàng đã làm. Nàng nhìn đôi môi đầy đặn của chàng, vành môi hơi nhếch lên như cặp môi của Đức Phật, mà mơ ước được hôn lên đôi môi ấy và khi chàng nhấn mạnh một câu hay một chữ bằng động tác của đôi tay, nàng mơ đến lúc đôi bàn tay chàng, to bản của một nông dân với những ngón thanh mảnh của một nho sinh đặt lên người nàng với biết bao uy lực. Tuy nhiên, đôi mắt nàng ngước lên khi về phía chàng, khi về Hoàng thân, lại đầy vẻ trong trắng, ngây thơ của mặt hồ ban mai. Tình trạng ấy được hỗ trợ bởi sự có mặt của quan Tư đồ, chỉ khiến cho hai người trẻ tuổi làm bộ như không biết điều mà người nọ thừa rõ người kia biết rằng mình cũng biết. Một tình trạng sẽ kéo dài mãi cho đến lúc quan Tư đồ một tối nọ bắt buộc phải vắng mặt khi ông được nhà Vua triệu vời khẩn cấp. Thế là chỉ còn hai người, trừ bà lão bộc thiu thiu ngủ gần ấm trà, đằng kia dưới mái hiên. Đêm tràn ngập khu vườn, đầy sự giao hợp bí ẩn của ngàn hoa, và Nguyệt lão đang ngồi xe tơ thắm dưới ánh trăng. Như thể, từ trước tới giờ nàng tự cưỡng được lại chính mình chỉ là nhờ có sự bảo vệ của người cha, thì hôm nay trong cơn gió lốc của những tình cảm và ước muốn trái ngược nhau, nàng bỗng dưng cảm thấy choáng váng. Một hố thẳm mở ra trước mặt nàng và nàng chao đảo trên bờ vực, sắp sửa rơi xuống. Đối diện với Nguyễn Phi Khanh bất động và im lặng, nàng không có phương sách nào ngoài việc lao mình vào làn sóng của những lời tiết lộ, nói rõ ra những điều mà Hoàng thân chỉ nói cách xa xôi. Đằng sau những phe cánh, những tên người xuất hiện, những hình bóng điều hành, Trần Nghệ Tông, Thái thượng hoàng, các nhà nho mới, bằng nhiều mánh khóe, thủ đoạn thay thế các nhà nho cũ, nhiều chất Phật hơn chất Khổng và trên tất cả từ những lời nói ẩn ý, bí hiểm, một người đang nổi lên và làm cho Hoàng thân cha nàng phải vô cùng lo ngại. Con người ấy mà thời vận nhờ vào hai người đàn bà đều là hoàng hậu, có quyền bính12từ tay của Thái thượng hoàng, người đã được đưa lên đứng đầu Cơ mật viện: một cái tên đáng sợ mà các kẻ nịnh thần phải sụp lạy khi nhắc đến. Người đó là Hoàng thân Lê Quý Ly! Nàng càng nói, Phi Khanh càng hiểu rõ hơn những lời tâm sự của Hoàng thân và vui mừng vì nàng đã chứng tỏ lòng tin cậy đối với chàng. Chắc chắn chàng đã rất ngạc nhiên khi nàng tiết lộ những điều bí mật của Triều đình như thế trong một ngôi vườn vắng lặng và được thế, không phải vì cô học trò kiêu kỳ ấy có chủ tâm muốn thay bậc đổi vai trong tương quan thầy trò nhưng chỉ vì hoảng sợ trước sự cuồng nhiệt của chính trái tim mình. Khi, sau cùng nàng đã im lặng, bối rối vì đã nói quá nhiều, chàng bắt đầu cất lời cảm ơn nàng một cách tinh nghịch vì đã được nàng giảng giải cho mình. Rồi chàng hỏi nàng một câu mà chàng bận tâm từ lâu: - Đã bao ngày qua, quan lớn đã lấy lòng hiếu khách quảng đại mời tôi về ở trong dinh thự của ngài, nhưng có phải chính nhờ cô và nhờ một mình cô thôi mà tôi mới được hưởng một nơi ở trang trí hài hòa tươm tất? Thật tình, nàng không ngờ chàng lại đặt câu hỏi ấy và sự ngạc nhiên làm cho nàng mất hẳn niềm tự tin. Bây giờ, chàng biết hết cả, nàng tự nhủ và không dám nhìn chàng. Nếu chàng yêu mình, chàng phải nói ra! Nếu chàng không yêu mình, chàng cũng phải nói ra! Mặc nhiên nàng đã áp dụng vào trường hợp bản thân mình một bài dân ca mà Thị Nghi đã dạy cho nàng. Trái tim nàng không thể kiên nhẫn được nữa: cha nàng sắp trở về mà sao chàng chẳng chịu nói gì! Phần chàng, chàng cảm thấy xúc động lạ lùng trước vẻ mặt thất thần của nàng. Một lúc sau, chàng nói với một giọng xúc động đến nỗi nàng bắt buộc phải quay về phía chàng, khuôn mặt còn bối rối. - Vậy là, Tiên nữ, chính là cô! Rồi hai bên giáp mặt, họ đứng cùng nhau trong một phút tưởng như dài vĩnh cửu khác nào hai cành anh đào run rẩy giao nhau trước làn gió nhẹ. Chưa bao giờ Phi Khanh chiêm ngưỡng cô gái má hồng ấy gần người chàng như thế, cô gái mà ngay từ phút đầu tiên đã làm trái tim chàng xao xuyến. Một niềm hân hoan vô tận làm chàng ngây ngất. Không cầm lòng được nữa, chàng đưa đôi tay về phía nàng, nàng buông ra một tiếng thở dài. Đúng lúc đó, một tiếng làm tan vỡ cái im lặng của trời đêm trong suốt tựa pha lê. Bà lão bộc dưới mái hiên đằng kia làm rơi vỡ khi đem cất khay trà. Phi Khanh lùi lại hai bước, thọc đôi bàn tay vào tay áo. - Không có gì! - Tiểu thư Thái nói với giọng kiêu kỳ của một cô gái con nhà gia thế. Ngạc nhiên vì thấy Phi Khanh bất chợt cúi chào, nàng quay người lại: cha nàng, vẫn còn mặc triều phục đang phe phẩy quạt tiến về phía họ. CHƯƠNG 3 Từ khi nàng biết chắc Nguyễn Phi Khanh yêu nàng, tiểu thư Thái mất ăn, mất ngủ, suốt đêm ăn nói vu vơ ngày cũng như đêm, tìm cơ hội để được mặt đối mặt cùng chàng. Nàng phàn nàn vì không thể trao đổi với chàng trong lớp học buổi sáng và suốt buổi chiều thẩn thơ mong chờ buổi học sáng ngày mai. Người và vật đều đổi thay. Như thể bất ngờ nàng đã già đi, các em trai mà nàng thường điều khiển trò chơi, thình lình trở thành con nít thực sự dưới mắt nàng, còn các chị em gái nàng vốn kiêu hãnh mình là con nhà hoàng tộc, bỗng chốc trở thành xa lạ. Nàng vẫn luôn luôn hết mực kính yêu cha nàng, vẫn là đứa con cưng chờ cha đi họp trở về, nhưng bây giờ ông lại gây cho nàng một thứ tình cảm ngượng ngùng. Nàng xấu hổ vì lợi dụng sự tiếp tay vô tình của ông để gặp Phi Khanh trong những buổi tối thân mật, nhưng mặt khác, dù nàng chỉ trao đổi với chàng gia sư một vài ánh mắt, một vài bài thơ, nàng cũng thấy không thể từ bỏ được những điều ấy. Tuy một sự thay đổi đáng kể trong thái độ của Phi Khanh là nàng nhận thấy được kể từ cuộc đối diện tay đôi bị gián đoạn, toàn bộ con người chàng biểu lộ một sự dè dặt cẩn trọng mà ít ra người ta có thể nói rằng thái độ ấy không có gì là táo bạo cả. Tiểu thư Thái vì thế đã khóc lóc đắng cay. Quả thật, Phi Khanh phải dừng lại sau khi đã tận hưởng đến độ mê mẩn niềm hạnh phúc yêu đương và được yêu đương. Một vùng sáng tỉnh táo xuất hiện ngay giữa cơn điên rồ hạnh phúc. Chàng giải thích sự trở về của Hoàng thân trong buổi tối đáng ghi nhớ đó như một điềm báo, như lời khuyến cáo phải biết thận trọng, sự thận trọng mà sắc đẹp và thiên hướng về thi ca của cô học trò làm chàng quên mất. "Mình kính thờ cha mẹ mình, chàng tự nhủ, và một kiếp làm người cũng chưa đủ để trả hết ơn sâu nghĩa nặng với cha mẹ. Nhưng gia đình mình là những người nông dân không thuộc một chi họ danh giá nào, trong lúc họ Trần là họ của hoàng gia. Không bao giờ, chàng nói tiếp với một thái độ khiêm nhường cùng cực, họ chấp nhận một cuộc hôn nhân không môn đăng hộ đối như thế. Tương lai nào đang chờ đợi nàng và mình?" Trái tim trong lồng ngực chàng nặng nề như quả mít. Dù sao đi nữa, thì lập luận của chàng đúng đắn: trong câu chuyện này, rõ ràng chỉ mình chàng là có lỗi. Nhưng, không lúc nào chàng tìm được cơ hội để một mình nói chuyện với tiểu thư. Các em trai nàng luôn bu xung quanh nàng như bầy ong mà nàng là ong chúa. Về phần Hoàng thân, gần như là một sự cố tình nào đó, không một sứ giả nào mang phẩm phục màu tím đến vời ông đi chầu Đức Vua vào những buổi dạ đàm. Dù việc này có xảy ra cũng chẳng ích gì, bởi vì đột nhiên tiểu thư Thái không đến với họ trong những lúc ấy nữa. Phi Khanh đã hoài công trông ngóng tiếng hài thêu vang lên trên nền đá, rung động mùi thơm hoa bưởi, chợt nghe tiếng sột soạt của tà áo lụa trong đám tre kẽo kẹt, không còn nàng tiên nào xuất hiện ở cuối ngôi vườn với lông mày vòng nguyệt lờ lững giữa bầu trời đêm thu... Chàng cứ ngỡ mình lùi lại mấy tháng, trở về cái buổi mà nàng còn đầy tính thất thường! Cho rằng đó là cách nàng trả đũa cái vẻ lạnh lùng bất đắc dĩ của mình, chàng đau khổ gấp đôi. Hầu như cùng một lúc, nàng bỏ lớp học buổi sáng. Theo lời giải thích của các em trai nàng, nàng sắp sửa rời họ để đến sống giữa vùng sơn dã với dân sơn cước, chàng chỉ thấy trước viễn cảnh chẳng lành của một cuộc chia ly. Còn có nghĩa gì việc gọi chàng vào hoàng thành với bao phí tổn để chàng làm gia sư hoàn chỉnh học vấn cho một cô tiểu thư chỉ tiếp hưởng công lao dạy dỗ của chàng trong một thời gian ngắn ngủi. Với vẻ mặt thật tự nhiên, chàng hỏi Hoàng thân về lý do của sự vắng mặt ấy, Hoàng thân trả lời một cách tránh né rằng sức khỏe của cô con gái thứ ba bắt buộc cô phải ở nhà, rồi Hoàng thân vội đi qua một đề tài khác và Phi Khanh không dám hỏi thêm nữa. Nhiều năm sau, trong lúc đi đày, Phi Khanh phải nhớ lại thời kỳ đó, để mỉm cười cho sự ngây thơ của mình lúc đó, không hề có một ý tưởng nào về những sự bất ngờ một phụ nữ có thể dành cho mình! Một buổi sáng, chàng có bằng chứng về cuộc chia ly sắp đến. Chàng khám phá một túi thơ làm rất đẹp trên bàn học gần chỗ đặt bút lông. Con Liễu mà chàng trông thấy trong sân sau đang giặt chiếu, lần này thú nhận ngay rằng Thị Nghi đã giao cho nó túi thơ từ tiểu thư Thái gửi đến: - Thưa thầy, có một bức thư ở trong ấy. Cuộn giấy đầy những nét chữ rất đẹp của cô học trò quý phái, đôi chỗ nét chữ run rẩy theo bàn tay người viết: Thiếp, tên Thái họ Trần, nàng viết Từ thủa còn thơ, thiếp đã sống trong lầu son của con nhà phú quý. Thiếp chỉ buông đàn để lại cầm ngọn bút lông. Những tưởng việc sách đèn sẽ làm một băng nhân may mắn? Thân phận cát đằng, thiếp vui mừng được nương tựa vào các hạ. Hai ta như hình với bóng, Nhưng hai ta vẫn chưa trao nhau lời thề hải minh sơn. Chưa hợp cẩn giao bôi dưới ngọn đèn hoa chúc Mà giờ phút chia ly đã điểm Số phận thiếp khác nào số phận công chúa Huyền Trân Nâng tay áo thiếp che dòng nước mắt Từ đỉnh núi cao, nơi số phận bẽ bàng run rủi đẩy thiếp đưa chân, dòng châu lệ sẽ tuôn rơi như mưa đổ Lời chào cuối cùng xin gửi lại Chính vì thế, thiếp dám viết những lời trên. Đọc những dòng chữ ấy, Phi Khanh đau đớn vô cùng, chàng ngất xỉu trên sập gụ. Khi chàng hồi tỉnh, chàng đọc đi đọc lại bức thư nhiều lần. Thật vậy, để qua một bên lời tỏ tình não lòng của Thái, nàng chỉ xác nhận lại, đồng thời nói rõ hơn, một cách xót xa, những sự kiện mà chàng đã biết. Cuộc ra đi lên miền sơn cước, các em trai nàng đã báo cho chàng biết nhưng không giải thích hoặc không biết rằng nó liên quan đến một cuộc hôn nhân có tầm mức quốc sách. Thật vậy, truyền thống chính trị của các triều đại Lý, Trần là củng cố và từ đó thống nhất nước Đại Việt bằng cách gả các công nương quyền quý cho các tù trưởng dân thiểu số để đổi lấy sự phục tùng của họ. Chàng nhìn thấy lại tiểu thư, mảnh mai như mai non, tiến về phía chàng băng qua khu vườn lúc hoàng hôn và chàng quặn đau từng khúc ruột. Chàng rời sập gụ, buồn bã ngồi xuống đất, dựa lưng vào cột nhà, không để ý đến Liễu đang im lặng quan sát chàng qua đôi mắt lá răm. Trước đây làm sao chàng có thể tưởng tượng nổi một ngày nào đó số phận của một tiểu thư xa lạ trong hoàng tộc buộc phải hy sinh cho đất nước làm cho chàng phải nhỏ lệ? Nếu chàng thành thật với chính mình, bởi vì trong thâm tâm chàng đã từ khước mối tình bất khả ấy, thì lẽ ra chàng phải cảm ơn số phận khắt khe đã thay chàng mà quyết định, đồng thời phải nhìn xa hơn để sau cùng được an ủi rằng mình không còn phải run sợ nữa vì nhìn thấy trước mắt toàn những cảnh can qua. Nhưng nàng, đẹp làm sao với sắc đẹp nghiêng thành với tài năng xuất chúng, nàng lại phải rơi vào bàn tay của lũ mọi rợ mặt sắt, mình đầy lông lá nào đó nơi sơn cước. Âm thanh nào để hát ca đối xứng với giọng của nàng? Trong lúc sự ghen tuông như con rắn đang lồng lộn trong lòng, chàng như bị thiêu đốt bởi thái độ phản kháng chống lại cái xã hội chia giai cấp: con gái hoàng tộc thì bị ép uổng hôn nhân, quan lại bị đối xử như khuyển mã và người dân thì như rơm rác. Xã hội đó bắt chàng phải vui mừng vì đành chịu mất má hồng để bảo tồn mạng sống! Chàng đứng dậy, đi dọc rồi lại đi ngang, bước chân cao ngạo, giận dữ. Tất cả các chỉ dụ và nghi thức của xã hội may mắn thay không dễ dàng cắm rễ trong dân chúng. Từ thời khởi thủy, với cuộc hôn nhân giữa công chúa Tiên Dung với chàng dân chài Chử Đồng Tử, nghèo đến nỗi một cái khố cũng không, phép vua đã thua lệ làng. Như thế những người nghèo khó ít nhất cũng được đặc quyền kết hôn không cần người mai mối, theo sự chọn lựa tự do của mình. Chàng nhớ lại một bài dân ca: Nay mừng anh mới ra đây Trầu tươi mở nắp dâng ngay mời chàng! Nếu nàng chỉ là một thôn nữ bình thường, nàng sẽ cùng chàng quỳ lạy năm lạy trước bàn thờ tổ tiên và bàn thờ ông tơ, bà nguyệt. Kể từ đó cha mẹ chàng sẽ trở thành cha mẹ nàng. Họ sẽ chung chăn, chung gối, chung miếng trầu cay và chung gương lược. Bỗng chốc cơn giận của chàng nhường chỗ cho một nỗi buồn mênh mang kéo dài cả ngày như cảm hứng với bầu trời mây đen vần vũ vì mùa nước lũ đã bắt đầu. Chàng ngồi trên chiếc rương gần cửa sổ, không ăn không uống, trầm ngâm nhưng không thể khóc được cũng như bầu trời chưa đổ mưa xuống được. Những đám mây đen như mực cuồn cuộn trôi qua theo hướng gió Tây, bất tận. Sau cùng vào buổi tối, mây trút mưa xuống kinh đô, chỉ trong thời gian chưa nhai giập miếng trầu, mưa đã ngập hết các khu vườn trong dinh, các con đường của thị dân trở thành những dòng thác bùn, chảy ngược lại lấp lối vào các cửa hiệu, mưa tước lá các cây cau mảnh dẻ, làm rách tươm tàu chuối, bứt những hoa lựu đỏ, vùi dưới lớp bùn các cây chông cắm trong hào bao quanh hoàng thành, dày xéo tan tành hoa súng trong hồ Lục Thủy. Mưa biến các xe ngựa thành những chiến thuyền và làm thư giãn thần kinh của các cung nữ đang chăm chú dệt vải và thêu thùa trong cấm thành. Dửng dưng với những giọt nước tạt vào mình, Phi Khanh không động đậy. Nghe tiếng mưa rào rào trên mái nhà như muốn làm bay ngói, chàng cảm thấy một niềm vui ảm đạm, một điều gì đó đang vùng lên giãn nở, đầm đìa trong người chàng thành hàng ngàn rãnh nhỏ như dòng nhựa dồi dào được cơn giông giải phóng. Giữa tiếng gió mưa tầm tã, chàng tưởng như nghe thấy tiếng ai gọi. Có lẽ Liễu và một tớ gái nào khác đã gọi nhau ở cuối sân. Chỉ có điên mới chạy ra ngoài trong cơn mưa như thế. Vẫn còn nghe tiếng gọi, chàng quay lại nhưng căn phòng tối mò, nên không phân biệt được gì. Chàng toan đứng dậy và suýt kêu lên, bóng một vật hay một người vừa lướt qua cửa sổ đụng nhẹ vào chàng. - Ai đó? Chàng hỏi, tâm trí tràn ngập những câu chuyện khủng khiếp về loài ma quái mỏ chim, mũi dài thòng như vòi voi dùng vuốt quắp vào các thân thể những ai đang ngủ để hút máu. Nghĩ rằng đó là bóng ma cà rồng đang quanh quẩn bên mình, chàng lặp lại: - Ai đó? - Xin thầy vui lòng đừng thắp đèn, một giọng nói phụ nữ bên ngoài đáp lại và chàng nhận ra ngay lập tức. Tuy nhiên, điều đó không làm chàng yên tâm. Ma cà rồng có thể tùy ý hóa thân thành đàn ông và nhất là thành đàn bà. Chắc chàng phải giết chết người đàn bà ấy. Bằng một bàn tay run rẩy, chàng đốt đèn. Thật là những ý tưởng không xứng đáng với một nhà nho! Chính lúc đó, chàng thấy nàng trên bậc cửa, quần áo ướt đẫm dán dính vào da và nước từ chiếc dù bằng giấy dầu chảy xối xả đến nỗi chàng thoáng thấy mặt nàng nhợt nhạt xuyên qua nước mưa như một bức màn nước mắt. - Xin thầy tha lỗi về sự thất lễ này - nàng nói, viện cớ trời mưa và nhân lúc chàng còn ngạc nhiên, nàng tự tiện bước vào. - Xin thầy làm ơn cho em trú mưa trong phòng thầy một lát. Phi Khanh không biết nghĩ gì, nói gì và làm gì. Rồi chàng cũng ấp úng được: "Cô hãy vào trong đi", hai cánh tay lọng cọng nhìn nàng nhanh nhẹn gấp dù và đưa đầu ngón tay vuốt nhẹ những giọt nước to đang chảy dọc trên má. Mặc dù nàng có vẻ như đã nhúng mình với cả quần áo vào trong Hồ Tây, khăn vấn và trâm cài cùng y phục nàng thật là lộng lẫy. Nhìn thấy nàng giống một cành hoa bị cơn mưa làm tơi tả, Phi Khanh rùng mình. Chàng muốn nghe lời nàng tắt đèn đi nhưng lại sợ nàng sẽ biến mất đi cùng với ánh sáng. Chàng đứng im như thế để ngắm nàng, thế mà vẫn chưa tin là chuyện thật. Nàng như đọc được tư tưởng của chàng nên vội vã trấn an: nàng không phải là một bóng ma. Vừa nói, nàng có vẻ muốn tìm vật gì ở xung quanh. - Xem này - Phi Khanh nói giọng bối rối - những lư hương của em vẫn ở trước bàn thờ, sự bài trí hài hòa của em vẫn được giữ nguyên. Nghe những lời đó, nàng nhìn chàng, ánh mắt sáng lên. Rồi chỉ vào quần áo ướt đẫm của mình, nàng hỏi: - Ở đây thầy có tấm vải nào cho em quấn choàng vào được không? Không dám đưa nàng chiếc áo cũ kỹ của mình, sau khi tìm kiếm khắp phòng dù biết rằng không kiếm được gì, chàng kéo tấm chăn lụa từ trên giường và đưa cho nàng. Nàng mỉm cười, không cầm lấy và bắt đầu cởi dây thắt lưng giờ đây chỉ còn là một sợi dây thảm hại. Nàng mau lẹ cởi chiếc áo tứ thân đã dính bùn. Lúc này, Phi Khanh với giọng nói không quả quyết đề nghị nàng gọi đứa tớ gái Liễu và hãy rời khỏi phòng. - Mất công vô ích, nàng nói với chàng, vào giờ này nó đã ở cách xa. - Nhún nhẹ đôi vai, nàng đã cởi áo cánh ra, và để chiếc váy dài đã cứng lại vì nước tuột xuống, chỉ còn cái yếm màu xanh da trời trên người - Em chỉ cần gặp một mình chàng thôi. Trước khi số phận khủng khiếp ấy đè nặng trên vai em, em nguyện hiến dâng xương thịt này cho chàng. Đó là nguyên do em đã đến đây. Và nàng cởi sợi dây yếm. Nhìn thấy tấm thân trần mảnh dẻ, chưa từng đụng đến công việc đồng áng hay xốc vác nặng nhọc nào, một tấm thân có nước da mượt mà khêu gợi như cánh hoa mộc lan, Phi Khanh như xiêu hồn lạc phách. Chàng run rẩy. Chàng thu nhặt hết y phục của nàng và cố gắng phủ lên người nàng. - Tôi sợ em cảm lạnh. - rồi chàng cũng thốt được nên lời. Phải chăng, chỉ vì có vải lụa đẫm nước dính vào ngón tay run rẩy ướt át và ấm áp trong lòng bàn tay, mà chàng không tài nào rời ra được. Và chàng càng cố phủ người nàng, nàng càng cố gỡ một đầu chăn khỏi tay chàng, loay hoay như thế họ lại càng sáp lại gần nhau. Giằng co loạn xạ như vậy làm cái đèn rơi xuống, dầu đổ ra bắt lửa và lập tức ngọn lửa cháy loang. Trong động tác tránh ngọn lửa, hai người áp sát kề nhau đến nỗi một lưỡi gươm cũng không len vào tách rời được. Nàng nép vào mình chàng và run lên, tưởng chừng như cái mãnh lực đã thúc đẩy nàng đến đó bỗng chốc rút cạn. Nhưng trong ánh lửa chập chờn rồi vụt tắt, chàng thấy trong mắt nàng rực lên sự thách đố. Đúng lúc đó mưa lại trút xuống mái nhà, một ngọn gió mang nước mưa ùa mạnh vào cửa sổ, ập vào đầu chàng dấy lên sự khát khao hoang dại muốn xé xác cái mớ dịu dàng hết chịu nổi đang hổn hển trong tay chàng. Trong giây phút tối hậu ấy, nàng lảo đảo, nhưng chàng đã bế xốc nàng lên vật ngửa đặt lên mặt chiếu trơn mát như thể nàng bị một cơn lốc xoáy cuốn đi. Một tay chàng cởi áo mình, còn tay kia chàng ghì chặt nàng. Chàng cảm thấy nàng vặn người và chống cự với một sức mạnh dữ dội làm chàng ngạc nhiên. Rồi thình lình chàng cảm thấy nàng không rên rỉ như nín thở, người cong cứng và cứ thế mãi cho tới lúc phút chốc một tiếng kêu như đẫm máu đào, từ bụng vọt lên bật ra trên miệng nàng khi đã quá muộn. Bởi vì không có gì, kể cả vệ binh của Hoàng thân có thể ập vào phòng dưới ánh đuốc, kể cả lưỡi gươm lạnh lùng của đao phủ kề vào gáy chàng, có thể ngăn cản Phi Khanh làm việc chàng đang làm. Chàng không thể lơi lỏng dù chỉ một giây, động tác phi ngựa tàn nhẫn sau khi đã đóng đinh nàng đến bật máu. Chàng phải gieo mầm ngay tại chỗ vào lòng người con gái của quan Tư đồ. Vì đêm nay, chứ không phải đêm nào khác, đã được quyết định bởi cuộc hội tụ của các vì tinh tú. TẬP II: MỰC VÀ BÚT – Năm Kỷ Mùi (1379) Chẳng tham ruộng cả ao liền, Tham về cái bút, cái nghiên anh đồ (CA DAO) CHƯƠNG 1 Trong nửa năm sau của năm 1379, niên hiệu Xương Phù thứ ba, đời Trần Phế Đế, chưa một ai biết đến việc Nguyễn Phi Khanh đã mắc vào cái lỗi lầm ấy mà sau này sẽ khiến Thái thượng hoàng phán bảo: "Chàng trai ấy đã phạm lỗi nặng tới bề trên, không nên thâu dụng". Âm thầm kín đáo, đôi tình nhân sống cuồng nhiệt mối tình phong nguyệt của họ. Còn phải nhiều năm nữa, biên niên sử của nhà vua khi ghi lại việc quan Tư đồ lui về ở ẩn mới đồng thời ám chỉ đến mối tình vụng trộm của cô con gái thứ ba của Hoàng thân - Tiểu thư Thái - với chàng gia sư Nguyễn Phi Khanh, một sự ám chỉ như thế, từ trước tới nay chưa hề có trong lề lối chép sử. Thuở đương thời, trước mắt, ngoài những nghi thức và lễ tiết liên quan đến Nhà Vua và triều đình, việc bổ nhiệm các quan trong chín phẩm, biên niên sử không kể thêm sự kiện nào đặc biệt quan trọng: không có nội loạn cũng chẳng có ngoại xâm. Không phải là nội tình trong nước sáng sủa hơn những năm trước. Thuế khóa và tạp dịch tiếp tục tăng lên, bọn quý tộc chiếm đoạt bất công, các điền trang nhỏ biến mất. Nông dân có đất ngày càng trở thành nông nô. Những người này nổi loạn và vệ binh của nhà vua vẫn phải giúp các binh lính ở các trấn đàn áp họ. Trước những căng thẳng kinh tế và xã hội đó, ai cũng phải nghĩ rằng không có biện pháp nào cứu chữa được và triều đại đang ở trên con đường suy mạt. Một cách nhẹ nhàng, Đấng Hoàng Thiên chỉ gia ân cho Đức hạnh, sẽ lấy lại Mệnh Trời khỏi triều đại đó và nhân dân chỉ yêu thích những vua chúa nhân từ, cũng không còn hỗ trợ triều đại đó nữa. Nhưng, ở cuối triều đại này, người ta sống trong một thời kỳ yên ổn. Nhưng không mấy ai nghĩ rằng, sự bình trị sẽ được lâu dài và tại kinh thành. Trong khi tán ngẫu, thiên hạ thường chỉ bàn đến chuyện thế sự, thăng trầm, và tương lai mờ mịt của đất nước. Tuy nhiên, người ta vui mừng việc Thiên triều nhà Minh còn quá bận rộn thâu gom các thuộc quốc rải rác của một nước Trung Hoa bị quân Nguyên bóc lột, tàn phá nên không đòi nước Đại Việt điều gì hơn việc triều cống thường lệ. Và người ta cũng bàn tán nhiều về những ý đồ của ông vua Chiêm Thành nóng tính là Chế Bồng Nga. Ông vua này đã bỏ thói quen cũ của hai thập kỷ trước, không mở các cuộc tấn công hàng năm vào nước Đại Việt. Có phải như một số người nghĩ, Chế Bồng Nga đang tìm một khí thế mới để loan vào một đất nước đã suy yếu? Người ta đồn rằng Hoàng thân Lê Quý Ly đứng đầu Cơ mật viện, tin tưởng vào sức mạnh của thủy quân nhà Trần từng chiến thắng quân Nguyên13 nên đã khuyên triều đình đem một đạo thủy quân lớn xuống đánh Chiêm Thành để giải quyết dứt khoát một lần, nhưng Thái thượng hoàng, còn chưa hoàn hồn sau cuộc thất trận chua cay năm 1377, đã ngần ngại tiến quân. Đối với những người khác, những cuộc cướp phá của Chế Bồng Nga trong các trấn phía Nam và vùng biển của Đại Việt chỉ là những phản ứng đáng phục nhưng không nghĩa lý gì trước bước tiến chậm chạp nhưng không gì ngăn cản được của những người Việt di cư vào những vùng đất mà dân Chiêm bán du mục đã bỏ hoang. Các thi nhân cho rằng chính ca nhạc Chiêm Thành với nỗi nhớ nhung day dứt đã báo trước số phận của một quốc gia sớm muộn gì cũng phải tiêu vong. Biết rõ tận tường cơ sự, nước Đại Việt tiếp tục kiêng nể anh Cả phương Bắc và dè chừng phương Nam cũng như một số dân tộc hay khuấy rối ở vùng núi. Dù sao đất nước đang ở buổi thanh bình và vì không biết còn kéo dài được bao lâu, mỗi người đều muốn tận hưởng. Buổi chiều, các nho sinh đi thơ thẩn trong vườn Văn Miếu, các đôi tình nhân đi dạo bên bờ hồ, cả khi các cổng phường đã đóng, người ta vẫn đi lại từ khu phố này qua khu phố khác, chứng tỏ rằng người ta chỉ cài chốt sơ sài chẳng hơn gì cái thời ông vua nọ của nhà Trần vốn là một người ham mê tửu sắc, thích đi du hành lê la khắp trong các khu dân cư ban đêm. Các nhà hát ả đào đầy nhóc người. Họ tranh nhau việc cầm trống chầu nhịp theo tiếng hát. Trong các thanh lâu, binh lính và nho sinh say khướt. Họ lắng nghe các ả gái điếm kể những câu chuyện theo giọng hát nói loại "cung cao" hay "cung thấp" cho tới khi gần sáng. Hai chàng trai trẻ từ cửa khẩu Đông Bộ đi tới, dẫn vào đường Cây Hòe lúc giờ Dậu14. Đây là một đường đông dân nhất. Họ nói chuyện vui vẻ, vừa đi vừa nắm tay nhau. Nào ai đoán được họ đã từng sống bên nhau thời thơ ấu trong cùng một ngôi làng? Khó mà kiếm được một đôi bạn thân bất tương xứng hơn thế. Người cao lớn hơn mặc áo dài đen và quần trắng, là nhà nho ưu tú, Phi Khanh. Bạn chàng, quấn trên cái đầu cạo trọc một chiếc khăn, hai đầu khăn thòng xuống như tai chó xù. Anh luôn chúm chím quay ngang quay dọc tọc mạch nhìn quanh nhìn quất. Anh ta không có dáng dấp của một người ở chốn kinh kỳ. Quần áo anh nhuộm màu củ nâu, thứ quần áo thường dùng của dân lao động thành thị và thôn quê, của lớp dân nghèo. Cứ mỗi bước đi, đôi dép rơm sổ mép của anh lại kêu lẹp xẹp dưới gót chân. Thỉnh thoảng, anh ngạc nhiên ngưng hẳn lại, giậm chân và cái mặt tròn xoay biểu lộ một vẻ têu tếu chất phác, hoặc giả sau khi khạc nhổ lung tung, anh tiếp tục quan sát một cách thô kệch đàn ông, đàn bà hay cả thú vật nào làm anh tò mò. Thăng Long làm anh say sưa hơn cả say rượu. Phi Khanh kìm hãm bớt sự hứng khởi hay sự ngơ ngác của anh chàng, đồng thời nhớ lại sự khám phá của chính mình về thành phố này cách đây vài tháng. Nhưng dù chàng có nói gì về đề tài đó, bạn chàng, Từ Chi vẫn khăng khăng đáp: - Này, anh Cả, anh đã là một tay kỳ cựu ở kinh đô! Đây là lần đầu tiên Từ Chi đến kinh đô, mặc dù Thăng Long chỉ cách làng Nhị Khê của anh bốn mươi dặm15. Anh hoàn toàn phấn khởi vì đã đến kinh đô. Vừa đến nơi, với dụng cụ làm đồ mộc, điếu cày và một ít thuốc hút trong bọc quần áo, anh đã đi lang thang ở chợ Cửa Đông trước khi lấy can đảm đến trình diện ở trạm gác Cửa Đông để hỏi thăm một người tên Nguyễn Phi Khanh, gia sư của con đức ông Trần Nguyên Đán, người anh muốn báo những tin tức ở làng quê. Dù đã đỗ đạt, Phi Khanh bạn anh đã tiếp anh như trong quá khứ khi họ ăn cùng mâm, ngủ cùng chiếu. Nhìn vẻ mặt lo âu của bạn, Từ Chi vội vã trấn an: Anh không phải là sứ giả mang đến hung tin, trái lại là đằng khác. Việc Phi Khanh dọn vào ở trong hoàng thành đã làm cho cha mẹ chàng vô cùng vui mừng. Họ chia sẻ với dân làng những quan tiền đồng và quà cáp mà con trai hiếu thảo của họ gửi về cho họ bốn mươi ngày một lần. Thế là ở tận làng quê, chàng đang từ từ trở thành một nhân vật nổi tiếng gần bằng vị thần bảo trợ của làng. - Anh Cả có biết không, nếu như làng chưa có Thành hoàng thì anh đã có thể là thần bảo trợ của làng rồi? - Từ Chi nói với chàng, hai con mắt tròn và nhỏ của anh ta đầy vẻ tinh nghịch. Phi Khanh nghe nhắc đến làng quê và gia quyến đâm ra nhớ nhà, nên chàng chỉ mỉm cười. Có phải chăng vì Phi Khanh đã ở vào một chức vị quan trọng nên Từ Chi không nhận ra ở chàng người bạn vô tư ngày xưa nữa. Chàng hẳn phải được ăn uống đến chán chê, thế mà Từ Chi thấy chàng lại gầy đi. Không để cho Từ Chi có thì giờ hỏi han, Phi Khanh liền lôi anh ta vào quán gần đó thưởng thức món cháo lòng. Sau khi súc miệng với một ngụm nước trà, họ bắt đầu đi viễn cảnh Kinh đô. Sau khi đã đi xem nhiều chùa, đền, tháp và dinh thự và đã nghe một người hướng dẫn vào bậc uyên bác nhất kể về lịch sử của chúng, anh chàng dân lành thợ mộc Từ Chi gần như đinh tai điếc óc, danh từ và hình ảnh lẫn lộn nhau. May ra anh ta chỉ còn nhớ được là mình đã thấy cảnh mặt trời lặn trên mặt cái hồ nào của kinh thành. Vả lại, hẳn anh cũng sẽ quên mất nếu Phi Khanh không nói đến những con cọp beo sống trên bờ phía Bắc, nơi có một khu rừng rậm cây cối và tre nứa mọc chen nhau. Cá sấu và kỳ nhông thỉnh thoảng xuất hiện giương đôi mắt vàng khè nhìn những thủy tạ và thuyền rồng của Hồ Tây. Theo ý kiến chung, đây là phong cảnh thơ mộng nhất của thành phố. Về phần Từ Chi, anh ta thích những vườn bưởi, vườn long nhãn và vườn mơ nằm dọc theo bờ sông Tô Lịch và nụ cười của các cô gái dưới hàng cây. Anh ta không ngừng ca hát cho tới cửa khẩu để lôi cuốn họ và nhìn những hàm răng đen nhánh hạt na. Nước sông Tô Lịch trong êm Để thuyền anh được cặp bến thuyền mình Dừng tay chèo lại tỏ tình Sông bao nhiêu nước, thương mình bấy nhiêu. Từ Chi hát cho họ nghe, và vừa cười vừa vỗ đùi khi nhận được lời khen chế giễu của một cô trong bọn họ. Phi Khanh nhìn mọi người với ánh mắt khoan dung của một người cha. - Cụ già đáng kính ạ, cụ không nhớ đến cô Thủy Tiên sao mà chẳng buồn hỏi thăm tin tức? Nghe những lời ấy của Từ Chi, Phi Khanh cảm thấy hai tai nóng bừng. Chàng bẻ một nhánh cây và bắt đầu quất vào những bụi cỏ ven đường. Các cô gái vẫn luôn khúc khích dưới vòm cành lá. - Anh không muốn biết nàng mạnh khỏe ra sao à? Hai bà mẹ đôi bên của họ đã đính hôn cho nhau khi Phi Khanh và Thủy Tiên còn chưa sinh ra. Chàng đã quên mất rằng nàng không còn là một bé gái từ lâu rồi vì chàng dồn phần lớn thời gian vào việc học. Chàng chưa hề hát đúm với nàng và trong ngày Tết Trung Thu, chàng không hề chú ý đến những cái bánh đặc biệt, những đóa hoa cắt từ quả đu đủ mà nàng đã làm cho chàng với tư cách của một vị hôn thê. Thủy Tiên không quan trọng hơn một nhúm lông tơ trên cành sậy. Phi Khanh tiếp tục quất mạnh vào cỏ với chiếc roi, cứ từng đợt từng hồi như giật cương, chàng giả vờ không nghe Từ Chi đùa cợt về những con người đối xử tàn nhẫn với người con gái yêu mình và với cây cỏ bên đường. - Này, đi nhanh lên, nếu không chúng ta sẽ không tới được cửa khẩu trước khi trời tối! - Anh Cả à! - Từ Chi kéo lê phía sau chàng với vẻ mặt đến buồn cười - Anh Cả à, nghe em nói này! Lời em nói có hơi quá em xin anh thứ lỗi cho, em chỉ là con người cục mịch như trâu. May thay, anh lại hiểu em. - Thật vậy, anh hiểu chú mày - Phi Khanh mỉm cười thoải mái - Từ bé, anh nuôi mộng làm quan. Trong những điều kiện đó làm sao anh có thể dung hòa niềm vui với vợ con với việc học hành thi cử? Anh cảm thấy chưa sẵn sàng để làm hôn lễ với nàng, chỉ có thế thôi! Sao? Bây giờ đã bằng lòng chưa? Lưỡi chàng trở nên nặng nề vì những lời nói dối mà chàng vừa thốt ra bởi vì nếu Hoàng thân đồng ý cho chàng lấy cô ba, con ông thì chàng đã gắn bó với nàng ngay lập tức trong duyên cầm sắt dù chàng có thi cử hay không. Lúc đó, họ đã đến cửa khẩu và câu chuyện về đề tài ấy chấm dứt. Chưa bao giờ anh nhà quê Từ Chi ấy được thấy đông người như thế và đủ mọi hạng người như thế lui tới, tràn ngập khắp nơi: dân chài chỉ mặc khố, thủy thủ nước da rám nắng, người Tàu chỏm đầu cạo trọc, các đội trưởng với binh giáp giống như của các bức tượng trong chùa ở Nhị Khê, những bà bán hàng người Chàm đội giỏ trên đầu, người Chà Và với thân mình bóng loáng, hành khất quỳ gối van xin, bọn ăn không ngồi rồi, cả kẻ cắp với bàn tay cụt ngón, người hủi với cùi chỏ cụt ngủn rỉ máu, các phụ nữ ghì chặt vào lòng các đứa con mệt lả vì sốt rét, các kỵ sĩ theo sau là những kẻ hầu cận mang hộp trầu và ống điếu có cán dài, ngựa họ đi nước chập không đóng móng, những bà bán hàng ngồi giữa các mâm hàng, thợ cạo râu và lấy ráy tai, xa xa một quan chức đi cáng có lính hầu vác giáo đính cờ đuôi nheo hộ tống... Trên sông, các thuyền mành xuôi ngược không ngừng. Người ta vẽ ở mũi thuyền những con mắt to để "thấy đá ngầm và những đụn cát", tàu chiến và tàu chuyên chở, cả một hạm đội nhỏ thuyền đánh cá của các làng nổi... Cho tới lúc hoàng hôn, vừa đi họ vừa nhớ lại cuộc sống ngày xưa, họ đã dạo chơi trên cửa khẩu đông đúc, không đi được bao nhiêu nhưng mất nhiều thời gian... Giờ đây, họ đang đi ở đường Cây Hòe sau khi không thể bỏ qua việc đi viếng đền Bạch Mã. Theo truyền thuyết, vị vua đầu tiên nhà Lý đã xây dựng cung điện của mình theo dấu chân ngựa trắng để lại. - Này, anh Cả, nếu chúng ta không mệt mỏi thì đây quả là một buổi tối tuyệt vời để đi dạo! Tại sao chúng mình không vào nghỉ trong một cái nhà đằng kia nhỉ? Đúng lúc họ vừa đi qua một thanh lâu. Từ phía sau những bức màn hồng có ánh sáng chiếu lên, người ta nghe tiếng nhạc vọng ra. - Chỉ để uống và nghe vài bản nhạc. - Từ Chi năn nỉ. - Nếu chú chỉ muốn uống và nghe bản nhạc, anh cho rằng một nhà hát cô đầu cũng đủ - Phi Khanh nói. Từ Chi chưa bỏ mất cái sở thích uống rượu và cái thú vui với các má hồng mà anh tưởng rằng có thể tìm được dễ dàng ở đây. - Thôi được - Phi Khanh nói - nhưng anh báo cho chú biết: anh chỉ ở lại đây một lúc thôi. Ở hai bên bàn thờ, chắc chắn để thờ "thần Bạch Mi", có chừng nửa tá khách tìm hoa - đa số là thương nhân - ngồi chung với các cô gái thoa phấn hồng và tô đen mắt. Bên kia bức rèm châu thấp thoáng một nữ nhạc công đang đánh đàn tì bà và một vài bóng người đang cử động. Từ Chi ngồi trên chiếu, cởi hài và xoa bóp những ngón chân, anh không ngừng liếc trộm các cô gái đang cùng với khách nâng chén. Sau cùng, mụ chủ đến không ngớt xin lỗi và mỉm cười hỏi họ muốn gì. Bên ngoài có tiếng nói to rằng họ đi đến đền Bạch Mã và sau đó sẽ trở lại. - Làm ăn phát đạt quá nhỉ! - Từ Chi nhận xét. - Chao ôi - người đàn bà trả lời - chỉ được một thời thôi. Có trời biết kéo dài được bao lâu. Mụ vỗ tay để các cô gái mang rượu đến cho "anh chàng thấp tròn" và nước ngọt làm bằng hoa bưởi cho "anh chàng cao gầy", chẳng có chút gì là kẻ dân chơi say đắm thú yên hoa, mụ tự nhủ, trái ngược hẳn với bạn hắn. Tiếng hát êm dịu sau bức màn tiếp tục: Bên ngoài vòng cương tỏa, em là gái làng chơi Bên trong vòng cương tỏa, em là gái nhà lành, Số kiếp em phải sống đời trụy lạc Gái làng chơi chọn khách làng chơi... Những cô gái đến với Phi Khanh và Từ Chi cũng có vẻ bề ngoài khác hẳn nhau như hai chàng ấy. Một cô thì thấp có khuôn mặt tròn như mặt trăng tên Đào. Cô kia, gầy và cao, đôi mắt nhìn xuống, cô tự xưng mình là "Trinh". - Chúng tôi cũng đã từng biết có một ông quan đã chọn cái tên là Liêm! Từ Chi nói đùa và lấy Phi Khanh ra làm chứng. Hoàn toàn là dân tỉnh lẻ, thế mà Từ Chi lại có vẻ thành thạo với kiểu cách ở thanh lâu. Cụng ly với Phi Khanh xong, anh yêu cầu cô gái phục vụ bạn anh. Cô gái có khuôn mặt như mặt trăng tuân lệnh ngay, còn cô Trinh ngồi kế Phi Khanh lại phục vụ Từ Chi. Anh này khoác tay lên vai cô Đào, nói thì thầm vào tai cô, khen đôi mắt phượng mày ngài của cô. Phi Khanh nhai vỡ từng hạt sen đang ngâm trong nước đường, tìm cách đề chuồn. Ý nghĩ rằng một bức thư hẹn gặp chàng đêm nay giắt trong túi thơ đang chờ chàng trên áng sách hành hạ chàng. Từ cái đêm mây mưa ấy, tiểu thư Thái và chàng đã nhiều lần gặp lại như thế. Trong lúc mỉm cười với Trinh đang sẵn lòng chiều theo ý chàng mà ca hát, nâng ly rồi cùng chung gối với chàng trong một căn phòng gần đấy, chàng cảm thấy lòng chàng như lửa đốt, chàng muốn chạy về hoàng thành. Ở đó, dưới những bức màn the, một cô gái khác đang chờ đợi chàng với sự hứng khởi của ái tình vượt xa tám nghề16 khiêu dâm của gái thanh lâu. - Chao ôi, xin nàng đừng dành cho tôi một chút quan tâm đặc biệt nào cả - chàng nói với cô Trinh làm khuôn mặt cô lập tức tối sầm lại. - tôi không thể ở lại được. Chàng đứng dậy. Nghe những lời ấy, cô gái mặt tròn thì thầm vài câu với Từ Chi và anh này đồng ý. - Nếu bạn tôi đi, không ai buộc cô cũng phải đi. Tôi mời cô ở lại đây. Tôi có đủ sức cho cả hai cô. Cả ba người cùng cười. Sau khi đã hẹn gặp lại Từ Chi ngày mai ở Cửa Đông và trả một túi tiền, thêm vào đó một khoản tiền phụ để gia nhân đưa bạn chàng về phường thợ tiện, Phi Khanh vội quay về hoàng thành. Chàng vừa mới quay lưng đi thì mỗi đồng tiền đồng trong túi được đếm lại đàng hoàng và xỏ vào một chiếc đũa tre. Những người khách khác bước vào. Đó là những thương nhân rất giàu có mà theo lời đồn đại vẫn thường đến chơi cờ tướng ở hoàng cung. "Với cái thằng cha "nhà quê" đó, thì chẳng cần giữ gìn ý tứ gì vô ích". Mẹ chủ vừa chào khách vừa liếc nhìn Từ Chi và tự nhủ như thế. Lúc này Từ Chi đang siết chặt hai cô gái vào người, cọ mình vào đùi họ. Để cho rảnh chỗ, mụ ta đến gần Từ Chi hỏi thẳng thừng anh ta có muốn đi vào ngủ với hai cô gái và ra lệnh cho hai cô cùng rời chỗ. Từ Chi không vì thái độ đó mà bực bội. Dĩ nhiên anh đã quá say. Một tay bá cổ Đào, cô thấp người, một tay quàng qua hông Trinh, cô cao người, anh ta mạnh dạn bước vào một hành lang tối để tha hồ vỗ mông hai ả. Anh để hai cô dẫn vào một phòng chiều dài không hơn hai chiếc chiếu. Nhưng hoặc là thái độ của Từ Chi đã làm hai cô phật lòng, hoặc là cách đối xử của mụ chủ chứng tỏ cho anh thấy rằng mụ ta coi nhẹ hai cô trong nhà này, trong bước đầu, hai cô cũng không tỏ vẻ niềm nở gì lắm đối với Từ Chi. - Nước không mất tiền mua, lau rửa mặt tí đi - một cô nói. - Tiếc là hai bàn tay anh thô ráp quá - cô kia nói. Lúc đó, Từ Chi cởi bỏ quần áo, không quên mỉm cười. Anh ta trưng bày một sự trần truồng đáng sửng sốt. Đó là con thú đẹp nhất mà họ chưa từng thấy, con thú vạm vỡ nhất, dài nhất, đen nhất, căng cứng với sự run rẩy lắc lư không thể kìm lại được y như một thanh gươm sẵn sàng chiến đấu. Hai cô lấy tay che miệng mà cười tiến lại gần, bị thôi miên. - Cả hai cô cho tới muôn năm! Từ Chi chộp lấy họ thật mạnh. - Mặc dù chúng em yếu như cây sậy, anh quả liều lĩnh. - Đào nói bằng một giọng không tự tin lắm - chúng em đã từng biết hơn một... Từ Chi không để cho Đào nói hết, đã vật cô này xuống gối và chỉ bằng vài ba động tác thật nhanh đã lột hết quần áo của cô. Anh ta tại nói to với Trinh đang sửng sốt nhìn chiếc yếm và đồ lót bay ngang qua căn phòng: - Này, còn cô! Cởi thắt lưng ra và lại gần đây! Chắc đàn bà làng Nhị Khê không còn sao? Trinh còn đủ thời giờ đề tự hỏi trước khi nghĩ mình phải chết dưới những đợt tấn công man rợ vào người nàng bằng động tác tới lui cuồng nhiệt của anh chàng thợ mộc như khi anh ta bào ván, anh buông miếng gỗ này để chụp vô miếng gỗ kia không nghỉ, cật lực lục lọi hai tấm gỗ mềm dịu với lưỡi bào lún tận cán, khi ấn mạnh, khi nới lỏng, dẻo dai, vừa kêu gào, vừa lắc lư một cách lạ lùng hai đuôi của chiếc khăn đội đầu. Lúc đầu, hai ả đương đầu một cách can đảm, chà xát nhiệt tình cột sống của anh ta hoặc lấy tay thọc nhẹ vào nách của anh. Nhưng những động tác đó vô ích. Một thanh gươm sắc bén có cần phải mài như dao cùn nhà bếp nữa không? Biết rằng gã đàn ông này quả ngang tầm lời y nói nên hai cô lần lượt đối lại anh ta bằng sự thụ động đầy vẻ dịu dàng. Hỡi ôi, không gì có thể làm chậm lại được sự hăng nồng đầy dương tính ấy. "Cựa quậy chút lên nào" anh hét với họ và càng hăng lên. Đã ứ đầy quá mức, thắt lưng muốn gãy, lại bị cày như ruộng trước khi gieo, hai cô bắt đầu rên rỉ, rồi mỗi lúc một lớn tiếng hơn, xin chàng buông tha. Mụ chủ nghe thấy tiếng ồn ào, những tiếng "Ôi! Ôi! "kỳ dị như đánh dấu mỗi lần Từ Chi tiến công, mụ đến dán mắt vào vách ngăn. Trong quá khứ làm gái điếm của mụ, mụ đã từng ăn nằm với nhiều người, nên mụ tưởng mình biết rành chuyện đó của đàn ông. Trước sức cường dương với sự rắn rỏi vô cùng kích động ấy, một cường lực không lùi bước, cho dù trước hàng trăm cung nữ của Cấm thành, mụ chủ muốn đứt hơi. Mụ chạy đi rót đầy những cốc rượu mà trong cơn bối rối mụ đã làm đổ, rót xong mụ trở lại và gõ cửa. Tiếng gõ cửa hầu như lập tức làm ngưng lại sự quần vật nô giỡn ồn ào bên trong. Mụ nghe tiếng thầm thì và bưng khay bước vào. - Bây giờ thì đã quá thời hạn rồi. - mụ nói với Đào và Trinh. Hai cô này, trong nháy mắt đã chuồn mất sau lưng mụ - Em không giục anh phải đi, mụ âu yếm nói thêm với Từ Chi, trước tiên anh uống chung với em nhé! Khi ngồi xuống trên gót chân mình ở mép chiếu một cách thật duyên dáng, mụ phải cố gắng lắm để không nhìn ngó qua vạt áo hé mở, cái con thú rực rỡ đang nằm yên với vẻ uể oải của một cành hoa trên đùi của Từ Chi. Anh bắt đầu cười, bàn tay duỗi ra. Họ cùng nhau uống rượu. Trong cơn say mơ màng, mụ ngạc nhiên thấy mình tìm lại sự nồng nhiệt của tuổi thanh xuân, dữ dội hơn bao giờ hết khi mụ còn xứng đáng với danh tiếng Hoa Hậu trong một thanh lâu "Thật là của quý trời cho!", mụ nghĩ, mặc dù từ ấy mụ đã già đi và xấu đi nhiều. "Thật là một của trời cho. Bất ngờ làm sao khi gặp được một người đàn ông như thế!". Mụ rót thêm rượu cho Từ Chi uống, đối xử với anh bằng một thứ nghi lễ quá đáng nhằm mục đích tạo cho anh một ấn tượng về những cung cách của phụ nữ đất kinh kỳ. Mụ đã lầm. Từ Chi trong lúc lim dim đôi mắt híp làm bộ ngớ ngẩn, đã mau lẹ nhận ra ở nơi mụ gái điếm già này một người dân chơi ngang tầm cỡ với mình. "Đúng lúc rồi!" mụ lẩm bẩm với mình, như việc thèm muốn mạnh mẽ một người đàn ông mà mới đây mụ xem chẳng ra gì làm cho mụ đánh mất hết mọi sáng kiến như thể mụ chỉ là một ả mới tập sự trong nghề. Câu chuyện họ trao đổi bắt đầu kéo dài như bột nhão, mụ ngỡ rằng anh ta sắp đứng dậy và bỏ đi. Thế là đột nhiên mụ hành động trước: - Tự dưng anh vội vã đi đâu vậy? Và mụ chộp ngay cái đuôi khăn đội đầu của Từ Chi và kéo anh ngã xuống gối. - Em đã chẳng nói rằng thời gian hành lạc hết rồi sao? - Từ Chi nói và lơ đễnh đưa tay thọc vào yếm của mụ. - Chao ôi - anh ta thích chí nói - ngực của em còn rắn chắc hơn là anh đã tưởng khi mới nhìn qua. - Này, từ từ đã nào! Vậy anh làm thế nào mà ở được trong bụng mẹ đủ chín tháng hả? Tuy nhiên, mụ không hề rút chân lại khi Từ Chi gác chân anh lên, ngược lại, mụ làm một động tác khiến Từ Chi rùng mình từ đầu tới chân. Lúc đó, các cô gái điếm do Đào và Trinh tụ tập lại sau bức vách ngăn đã đánh cuộc với nhau, người thì cho mụ chủ, người thì cho anh thợ mộc sẽ thắng. Họ nghe thấy tiếng động của một cuộc đô vật, tiếng gót chân cào trên nền nhà. "Xong rồi", một cô gái nói, "mụ già thắng rồi!". Vì ngọn đèn đã bị thổi tắt, họ không thể thấy gì và phải đành dán lỗ tai vào bức vách. Bên trong, người ta phải nói rằng đó đúng là hai con thú đã bị dục vọng làm cho man rợ đang lăn lộn, đang vồ nhau, đang hổn hển mà không cần biết có người đang lắng nghe, đến nổi các cô gái phải lùi lại vì sợ hãi, tưởng như một lũ quỷ đang đùa giỡn. Họ đến gần khi nghe mụ chủ kêu lên, những tiếng nện vang lên cùng lúc với tiếng va chạm đều đặn của một thân thể rơi xuống với tất cả trọng lượng của nó. - Mụ đang cho hắn chơi trò cưỡi ngựa - một cô trong bọn phì cười - Các chị hãy nghe tay thợ mộc đang phi nước đại kìa! Thật vậy, nhịp điệu càng dồn dập, các cô hầu như cảm thấy trên cổ họ hơi thở của người đàn ông đang thở hổn hển mỗi lúc một nhanh hơn dưới mụ chủ đang điều khiển anh ta ngon trớn. Các cô đánh cuộc mụ chủ tưởng như hốt bạc. Chính lúc đó mụ già ở phía bên kia bức vách bỗng nhiên tỉ tê rồi khóc lên thực sự. Những tiếng thở ra khoái trá tiếp nối nhau chen lấn với những câu "Lẽ nào như thế được!" được thốt ra với một giọng thán phục. Các cô đặt cuộc cho anh thợ mộc đã thắng. Một lúc sau, một khoảnh khắc mà mọi người tưởng như vô tận, mụ chủ không ngớt than phiền với giọng chua chát rằng đêm sắp vội chóng tàn và người đàn ông vừa ngáp vừa trả lời lại: "Không, cảm ơn, quả thật dù có muốn tôi cũng không thể làm thêm nữa, chỉ một lần thôi cũng chịu". Phải chăng là về việc uống rượu? Những cô tưởng thua lại vui mừng, và những cô tưởng thắng lại tiu nghỉu. Thế là mụ già cuối cùng đã thắng!... nhưng, một lần nữa, tiếng ôm ghì hung hăng làm bay cả gối. Bỗng chốc nổi lên những tiếng "Ôi, ôi" kỳ dị của anh thợ mộc. Chà! Thật là một người tình không mệt mỏi. Gặp được một người như thế quả là của hiếm trời cho! Sau cùng đến giờ Mão, một cô đang đứng canh thấy mụ chủ rón rén ra khỏi phòng, phấn son loang lổ, dáng đi thảng thốt. Thế là sự chiến thắng của người thợ mộc hoàn toàn trọn vẹn. Các ả gái điếm này thường ngày hay trò chuyện về đủ thứ ngoại trừ chuyện tình yêu - ví dụ như người ta sửa lại đê điều, giá lúa gạo hay tơ tằm - giờ đây họ lấy chuyện anh chàng này làm trung tâm cuộc trao đổi. Đến nỗi mà câu chuyện họ kể về thành tựu của Từ Chi, qua trung gian các tớ gái nấu bếp, đã lan truyền từ thanh lâu này sang thanh lâu khác và ra ngoài tới chợ, làm cho một số đàn ông nghiến răng ghen tức, một số đàn bà tái xanh mặt vì thèm khát. Chỉ còn một mình, lòng rối như tơ, bẽ mặt bẽ mày, Từ Chi tự nhủ rằng mình đã bị mắc lừa. Hết chỗ nói về việc cung phụng hành lạc cho một mụ già mà còn phải trả tiền cho mụ. Bởi vì mụ chủ, dù có ham mê khoái cảm, cũng chẳng bỏ đi cái thói tham lam như cú vọ của mụ. Lấy lý do rằng nếu mụ không hiến thân thì tất cả các em út trong nhà đều sẽ phải đem nộp cho anh ta, mụ còn phân bua: "Tôi chỉ đòi anh giá rẻ vì nhan sắc của tôi đã tàn phai!" - Mụ đã cuỗm hết món tiền dân làng Nhị Khê dành dụm gửi để mua hàng. Hai bàn tay trắng, không giữ được lời cam kết với dân làng, tránh sao cho khỏi điều nhục nhã và làm hoen ố danh dự của gia đình khi quay về làng? Trong tai anh đã vang lên một tràng những lời nguyền rủa, những lời chửi xéo công khai buộc anh tội ăn cắp. Anh đã thấy những phụ nữ trong làng "nằm vạ", xé quần áo họ ra, gào lên và trút lên đầu anh mọi tội lỗi. Anh sẽ bị các tuần đinh canh giữ, dẫn anh đến lý trưởng để xét xử. Chỉ cần nghĩ đến các cảnh tượng đó, đầu óc tay chân anh bủn rủn. Sáng hôm đó, với bộ mặt hốc hác thảm hại, anh gặp lại Phi Khanh ở Cửa Đông, trong lúc đang tự nguyền rủa cái thói trác táng như rùa của mình. Suốt đêm qua, Phi Khanh cũng không chợp mắt được vì những lý do khác hẳn. Khi về đến hoàng thành, chàng đã không thấy người tình giữa các bức màn rũ quanh giường, chỉ có một mảnh giấy ngắn đưa chàng vào nỗi kinh hoàng. Ngoài những lời tình tứ bướm ong và lời thề nguyền cùng chung nấm mộ sau khi đã sống bách niên giai lão, tiểu thư Thái báo cho chàng một tin quan trọng đặc biệt với nét chữ khó nhận ra. Nàng hẹn chàng ngày hôm sau, sau buổi học ban sáng. Người ta đã phát giác ra bí mật của họ sao? Biết bao tay mật thám với đôi mắt chuồn chuồn, cao tay trong nghệ thuật tàng hình lục lọi khắp mọi xó xỉnh. Người ta sẽ bắt chàng chịu hình phạt nào để làm gương vì chàng là một người thầy mà lại vừa "cầm trịch vừa bẻ măng". Người ta sẽ nhét nhựa thông vào miệng chàng, đóng đinh chàng vào bè tre để thả trôi sông, nếu như người ta không thích dùng hình phạt "Bá đao". Người ta sẽ cắt xẻo từng miếng thịt chàng ném xuống đất khi tiếng chiêng vang lên làm hiệu lệnh, hết miếng thịt này tới miếng thịt khác, máu chàng xối xả trên mặt đất và chàng van xin người ta chặt đầu chàng để chấm dứt ngay sự đau đớn... Nhưng tệ hơn cái chết là tên chàng bị xóa khỏi gia phả, không có người phụng thờ hương khói và không bao giờ cha mẹ chàng còn "mở mặt mở mày" với ai trong xóm làng được nữa. Cảm thấy ớn lạnh đến tận gan, Phi Khanh hết đi ngang rồi đi dọc để lấy lại sự bình tĩnh và cố gắng lý luận. Có phải cuộc hôn nhân của nàng với một người mọi rợ ở vùng núi mà cả hai không còn nghĩ đến nữa, giờ đây đã bất ngờ trở thành hiện thực? Có phải Hoàng thân đã lầm - nghĩ tới điều này Phi Khanh càng thêm ân hận - khi bảo đảm với con gái cưng của ông rằng cuộc hôn nhân ấy chỉ là một thủ đoạn của phe cánh Lê Quý Ly nhằm loại bỏ ông? Hay là ông đã thu xếp một vài tháng trì hoãn cho "Kiều Mai" của ông? Trong trường hợp này, chàng có phần trách nhiệm về điều đã xảy ra. Sau cùng, tại sao một cô gái bình thường rất liều lĩnh lại chẳng có thể đến báo tin cho chàng? Trong cái mớ bòng bong những giả thuyết và những lời cải chính, Phi Khanh như muốn điên lên vì lo âu và phải chờ năm canh dài trôi qua, dài như ba mùa thu vậy. Giờ đây chàng đi qua các ngôi vườn và dinh thự, bước nhanh chân về phía Cửa Đông còn được gọi là cửa "Minh Triệu", thật mỉa mai - để gặp người bạn của chàng, chàng đã gặp Thị Thái và đã hiểu. Tuy chàng cố giữ vẻ đĩnh đạc, dù cảm xúc của chàng không hề như vậy, dáng đi của chàng có gì như lạc lõng và khuôn mặt chàng tái nhợt như mặt trăng. Ngay khi gặp chàng, Từ Chi quên sự cùng quẫn của riêng mình và ngạc nhiên về vẻ mặt xanh xao của Phi Khanh. Về phần mình, Phi Khanh nhận ra lập tức vẻ thiểu não của Từ Chi. - Chào anh Cả! - Từ Chi nói và cảm thấy mình là một người bạn không xứng đáng chút nào trước mặt Phi Khanh. Anh ta đã quên quấn khăn xung quanh đầu. Cái sọ cạo trọc bóng loáng một cách thảm hại. - Chúng ta hãy đi về phía Đại Lộ Hàng cỏ và cửa Đại Hưng - Phi Khanh nói - chúng ta sẽ thấy những đám rước của các quan chức đi họp trên lưng voi. Đó là một điều phải nên xem ở kinh đô, chàng nói thêm. - Anh Cả, em cảm ơn anh. Em không xứng đáng với sự nhọc lòng của anh đối với em và nếu em còn chần chờ chưa tự tử là nhờ còn có anh ở đây. Từ Chi kể lại một hơi cho chàng câu chuyện đêm qua, về chuyện mặc cả của mụ chủ thanh lâu và việc sạt nghiệp của anh ta. Phi Khanh lắng nghe từ đầu đến cuối không nói một lời, không làm một cử chỉ. Âu đó cũng là số mệnh, Phi Khanh tự nhủ. Hôm qua, chúng ta dạo chơi vui vẻ, tay trong tay. Chỉ một đêm cũng đủ thay đổi dòng đời của chúng ta. Nếu trong việc này tôi có thể cứu giúp một người bạn, đến lượt tôi ai sẽ cứu giúp tôi? Và cứu giúp bằng cách nào? Bị những ý tưởng buồn bã như thế làm dao động như mây kéo ngang mày và khuôn mặt chàng biểu lộ một vẻ bối rối u uất. - Anh Cả à, anh có vẻ nghi ngờ những lời nói của em. Em đã để cho lạc thú lôi cuốn, em đã bị miệng lưỡi con đĩ rạc ấy bán đứt! Số phận của em là số phận của một kẻ khốn khiếp đã ăn cắp xóm làng. Nhưng nếu em bịa câu chuyện này ra chắc là em sẽ bị bừa nát lưỡi dưới Âm Ty? - Cả hai chúng ta đều bị đánh lừa - sau cùng Phi Khanh nói - bởi vì tôi đã để lại cho mụ chủ một túi tiền thanh toán mọi chi phí một cách rất hào phóng. Đừng tin vào bọn con buôn ở kinh đô, chúng dâng rượu cho chú làm chú hoa mắt lên với hàng ngàn thứ quà tặng để sau đó chiếm đoạt hết tài sản của chú - Chàng đặt một bàn tay thân ái lên vai và nhìn vào đáy mắt của Từ Chi - Dù rằng ảnh hưởng nhỏ bé của tôi đang bị đe dọa hơn bao giờ hết, tôi hứa với chú, trong vòng ba ngày, tài sản của dân làng Nhị Khê sẽ được trả lại. Vậy đừng lo ngại nữa. Nghe những lời ấy, Từ Chi hớn hở vui mừng. Mắt ứa lệ, anh sụp xuống và nếu Phi Khanh không cương quyết cản lại chắc anh đã lạy tạ ơn chàng trước mặt các bà bán hàng ngồi xổm sau quang gánh của họ. - Anh Cả ơi! Từ Chi trong lúc sôi nổi, đã buông rơi cái túi: điếu cày, thuốc lá và trà rơi vương vãi trên mặt đất. Phi Khanh kéo anh ta đi. - Nhờ anh Cả, em sống lại. - Từ Chi nói tiếp - Và với em, cả gia đình em sống lại! Vì vậy mà em long trọng hứa với anh là em sẽ không bao giờ la cà trong chốn liễu ngõ hoa tường nữa, không tiêu phí dù chỉ một đồng tiền ở chốn thanh lâu, em cũng sẽ không ăn chơi phóng đãng và chỉ tìm người sẽ làm vợ em. Em sẽ phục dịch anh rồi sau đó phục dịch cho con cháu anh cho tới khi tấm thân này tan rã để đền đáp ơn anh. Em xin thề như vậy! Phi Khanh nắm tay anh ta. Họ cùng nhau đi vòng theo bờ thành của hoàng thành tiến về cửa Đại Hưng mà cả hai chỉ đành phải nhìn từ xa, vì chỉ các quan chức được gọi vào chầu Vua mới đi qua cửa đó. Sau khi đã kéo bạn mình ra khỏi cảnh sa đà lỡ bước vì nhớ lại tuổi ấu thơ cùng nhau gắn bó của họ, Phi Khanh, đến lượt mình, không tài nào cưỡng lại lòng ước muốn thổ lộ tâm tình. - Từ Chi này - Phi Khanh bắt đầu nói thật dịu dàng - cuộc sống của anh ở kinh đô đã làm tan vỡ sự đính ước ngày xưa. Vậy anh nhờ chú báo lại cho cha mẹ anh và cô Thủy Tiên biết. Ngoài ra anh không biết điều gì sẽ xảy đến với anh trong những tuần sắp tới. Có lẽ chẳng bao lâu nữa, anh chỉ còn là một hạt bụi ở chốn suối vàng... - Anh nói gì vớ vẩn vậy? Mới hôm qua, anh còn nói toàn chuyện học hành và áo tím lọng xanh nơi hoạn lộ17. Mùi cỏ thơm hăng hăng mà các tù nhân đã cắt ở xung quanh đó trước khi gom lại thành đống dọc theo đại lộ để làm thức ăn cho voi và ngựa, là mùi của chính cuộc sống, của các gốc rễ mạnh mẽ cắm sâu vào đất. Phi Khanh hít mùi vị đó vào đầy phổi, cái cổ áo dài thình lình siết chặt lại. - Đôi khi chỉ một ngày cũng đủ - chàng nói tiếp - đủ để thay đổi dòng chảy của một cuộc đời hoặc để giới hạn chân trời của nó. Dù cái nghiệp của tôi có thế nào, chú hãy nhớ lời chú vừa hứa rằng nếu chú không thể cứu giúp người cha, có lẽ chú sẽ cứu giúp được đứa con. Và một cảm xúc sâu xa làm chàng nghẹn ngào, chàng sáng tác những vần thơ như sau: Tôi xuất thân từ cảnh nghèo hèn Tri thức tôi mỏng như tờ giấy Nhưng, dù áo tôi rách vá Từ phút kỳ ngộ đầu tiên trong thư phòng vương phủ Tôi đã nhận được tình sâu nghĩa nặng nơi nàng Tôi đã cung kính nghe dạy rằng Sự tĩnh toạ làm ta quên trần thế Nhưng mối si tình làm sao dập tắt? Tiếng sáo bay không sánh với thân hình nàng yểu điệu Thịt da nàng trắng muốt vượt xa lồng ngực Tây Thi! Chưa một lời đính ước, Tuy nhiên, vượt qua những lời cấm đoán Chúng tôi đã cùng nhau uống chén giao bôi! Khi mải mê hoan lạc trong màn hoa chiếu gấm Ai là người nghĩ rằng niềm ân hận đã kề bên Ở ngã ba đường, một trong hai phải có người đau đớn đoạn trường! - Tên nàng là Thị Thái - chàng nói thêm - chính là con gái thứ ba của quan Tư Đồ Nhiếp Chính. Từ Chi giơ tay lên trời: - Trời ơi! Trời ơi! Anh Cả, anh đã làm gì? Phải trốn đi thôi! Có ích gì khi đưa mình ra trước hàm rồng? Anh hãy chạy trốn cùng với tiểu thư khỏi tai mắt thế gian để tránh mọi bất hạnh có thể xảy ra. Từ Chi càng khuyến khích bạn anh chạy trốn và quên hẳn việc bạn anh có cách để thu hồi tài sản của dân làng Nhị Khê, thì Phi Khanh càng nghĩ rằng chàng cần phải đối đầu và ở lại. Chàng giải thích cho Từ Chi những lý do của hành động này khi bước chân dưới những hàng cây về hướng Văn Miếu và Khâm thiên giám. Sáng hôm ấy trời có đổ mưa, lau lách đẫm nước uốn mình bên bờ hồ. Trong hồ, bầy vịt trời bơi bì bõm. Một nhóm thiếu nữ bước đi duyên dáng ngược chiều với hai người bạn, gió nhẹ nâng các tà áo dài của họ, nhưng lúc các cô đi qua, Từ Chi giữ lời hứa với Phi Khanh, đã không nhìn họ. CHƯƠNG 2 Thời kỳ hòa bình vẫn còn kéo dài. Người ta đang bước vào tháng tám, tuần trăng trong năm, mùa nước dâng cao và những vụ gặt đầu tiên đã chấm dứt. Dân chúng, dưới lời hiệu triệu của các quan chức hộ đê đã quá mệt nhọc từ ba tháng nay, vì phải ngăn nước sông tràn bờ, nay cũng muốn được nghỉ ngơi. Người ta đã đẩy lùi các nguy hiểm của thiên tai. Ở kinh đô cũng như trong các làng mạc, mọi người đều chuẩn bị đón Tết Trung thu. Sáng hôm ấy, khi ngồi trong cái cáng chỉ có hai gia nhân theo hầu, một người mang ấn quan và nghiên bút trong một cái tráp bạc còn người kia mang theo khay trầu và bình thuốc, Hoàng thân Trần Nguyên Đán chẳng muốn gặp bất kỳ ai. Dĩ nhiên, viễn cảnh gặp lại Hoàng thân Lê Quý Ly có dự phần trong thái độ ấy của ông ta. Những thủ đoạn và vẻ nhã nhặn nham hiểm của Hoàng thân Lê Quý Ly càng ngày càng làm cho ông không chịu nổi. Thêm vào đó là những mối lo âu về chuyện gia đình, không kể đến các cuộc cãi cọ không thể dàn xếp nổi giữa bảy bà vợ, ông bận tâm nhiều nhất đến cô gái thứ ba của ông, tiểu thư Thái. Nhìn cái vẻ uể oải của cô, chưa bao giờ cô xứng đáng với cái biệt danh "Kiều Mai" đến thế! Dù ngày Tết Trung thu đang đến gần, mà thông thường là dịp để nàng đem nhiệt tình và sức lực để giúp các em trai, em gái treo đèn, kết hoa, làm những con thiềm thừ18 hay những tượng tiến sĩ bằng đất, bởi vì đó và ngày lễ chính của thiếu nhi, thế nhưng nay nàng cứ ở miết trong phòng. "Xin lỗi cha, con bị mệt", nàng nói với cha, nàng có vẻ muốn lánh mặt ông. Trong khi chiếc cáng đi về hướng Điện Thiên An, Hoàng thân tự hỏi có phải con gái yêu quý nhất của ông chủ đang bất bình về tình thân hữu ngày càng lớn mà ông dành cho gia sư Phi Khanh, mặc dù người gia sư này trong thời gian gần đây không được thoải mái như ông muốn. Một ý nghĩ khác sắp sửa lóe lên trong đầu óc, thì cáng dừng lại trước dinh, đúng lúc quan Tổng trấn kinh đô và đoàn tùy tùng cũng vừa đến nơi. Đó là một người gầy gò và nhã nhặn mà Hoàng thân rất quý mến, dân chúng đất Thăng Long cũng thế và ở chỗ riêng tư, họ gọi ông là ông Dương, ông quan Đức độ. Ở chức vụ cao cấp ấy, triều đình đòi mọi ứng viên phải đi qua những nấc thang khác nhau trong việc cai trị các quận, huyện và trấn phủ trước khi bước vào các kỳ tuyển hạch khác nhau, do đó không hiếm khi gặp được những người có tài cao đức trọng. Cuộc gặp gỡ này làm cho Hoàng thân dễ chịu và ông tự mình tiến tới kính chào vị Tổng trấn trước. Khi leo lên những bậc thang của dinh phủ, họ vui vẻ trò chuyện về việc chuẩn bị cho cuộc lễ, cho hội Đèn Quang Chiêu ở Cửa Đông kéo dài bảy ngày và bảy đêm. Một quan biên trấn trẻ tuổi trong đoàn tùy tùng quan Tổng trấn còn đoán chắc rằng năm nay điện Quang Chiêu còn trang hoàng thêm những tượng nhỏ nặn hình các ông sư biết cúi đầu theo tiếng sáo để chào Đức Vua. - Người ta đã không nói đến việc dẹp bỏ cái ngữ ấy đi hay sao? - Hoàng thân ngạc nhiên hỏi. - Điều đó sẽ làm cho một số người thích thú đấy! - Quan tổng trấn nói và họ trao đổi với nhau một nụ cười đồng lõa. Khi vượt qua hai hàng rào tua tủa những cây kích, họ im lặng, thay đổi nét mặt và cúi rạp người xuống như thể không có đủ chỗ. Cùng lúc, họ nâng tà áo bên và nín thở, bước lên nơi ngự giá. Đương kim Hoàng thượng tiếp các quan lại ở đó, trong các cuộc bệ kiến trọng thể. Một số lớn các quan chức đeo trên ngực phẩm trật khắc trên một thẻ ngà và tay cầm hốt. Họ đang chờ quân vương đến, xếp hàng dưới bệ rồng, quan võ bên tả và quan văn bên hữu. Sau ba hồi chiêng, bức màn gấm đỏ thêu rồng phụng căng sau long sàng kéo lên. Đức Vua trị vì bước vào giữa tiếng tung hô "Vạn tuế!" của các quan có mặt, bái tay chắp trên trán, quỳ lạy. Đó chỉ là nghi lễ quy định cho các cuộc bệ kiến và cho tới khi mọi cái đầu ngẩng lên lại, không có gì cho phép nghĩ rằng cuộc bệ kiến này có gì khác với các cuộc chầu lần trước. Nhưng lần này lại có một điều khác biệt. Các quan trong lễ phục đang đứng dậy trước bệ rồng như hướng về mặt trời đã nhận rõ ra điều ấy khi họ trông thấy ngồi bên tả bệ rồng, trên một cái chiếu thấp hơn một chút, là Hoàng thân Lê Quý Ly, người đứng đầu Cơ mật viện. Các quan trao nhau cái nhìn lén lút, kẻ thì đầy nghi vấn, kẻ thì thỏa mãn dè dặt, kẻ khác nữa thì căm tức hoặc bực bội nhưng được cùng che giấu bởi những ông quan vốn khôn khéo không để cho người ta đoán biết được về mình. Trong một khắc, một làn sóng ngầm đã đi qua cử tọa. Ngoại trừ một vài tri huyện vừa mới đến, đưa đôi mắt ngây thơ chăm chú nhìn cái cảnh tượng một ông Vua trẻ, hiền lành, mập mạp, môi son, mặc hoàng bào, đầu đội mũ tròn, bên trên chồng một mảnh vuông nằm ngang, trước sau là những hạt ngọc tròn và những viên đá quý treo ở đầu giải tua bằng lụa, mỗi viên đáng giá một cơ nghiệp lớn. Hoàng thân Trần Nguyên Đán suy sụp tinh thần, vụng về che giấu nỗi bực tức dưới cái vẻ mặt bề ngoài bất động. Và đây, ông nghĩ, chính là những con đường quanh co của ân huệ. Mặc dù ông khinh bỉ một con người dùng tài năng của mình chỉ để phục vụ cho tham vọng riêng mình thay vì phục vụ cho nhân dân, ông cũng phải thán phục Lê Quý Ly là một diễn viên khéo léo. Vả lại, Lê Quý Ly chẳng phải là một tay mê chèo hạng nhất sao? Với một vẻ từ tốn dường như là khổ nhục, ông ta ngồi cách vị vua vài bước, làm ra vẻ khám phá từ miệng vua những lời nói mà chính ông ta đã mớm vào. Hoàng thân Trần Nguyên Đán đã từ lâu biết rằng: vai trò của Đức Vua trị vì bị giới hạn vào chỉ có một việc xác nhận, bằng cái hình thức đóng ấn tín nhà vua, cho mỗi hành động của người đứng đầu Cơ mật viện. Hoàng thân Đán biết rõ điều ấy vì ông là người trung thành với Thái thượng hoàng ở cái thuở xa xôi ấy, cái thời mà ông còn chiến đấu bên cạnh ngài chống lại kẻ cướp ngôi Nhật Lễ. Thế là nay không ai có thể không biết đến uy tín lớn lao của con người kia, thân thích và cố vấn ấy của Nhà Vua.19 Nhà Vua trẻ tuổi Trần Phế Đế từ trên ngai vàng cao chạm rồng chỉ diễn tả ý chỉ của Hoàng thân Lê Quý Ly và truyền xuống cho các bề tôi là các quan các cấp. Vậy mà đó là Hoàng đế nước Nam trị vì trên giang sơn nhờ hồng ân của Thiên Thư, Cha và Mẹ của dân (nhưng cũng là người cháu họ có lòng hiếu kính đối với Thái thượng hoàng): - Trẫm - nhà vua nói - đã xuống chiếu để triệu tập các khanh, những quan chức có trách nhiệm để nghe các khanh báo cáo về các phủ huyện của Trẫm, để những báo cáo này không bị các phái viên, quá sốt sắng làm vui lòng Trẫm, làm xuyên tạc đi. Vì vậy, Trẫm ra lệnh cho các khanh bày tỏ lòng mình ra, hãy nhớ đến lời thề trung thành của các khanh đối với Trẫm mà nói ra đừng sợ hãi. Tất cả những gì các khanh nói ra ở đây vì lợi ích của thần dân sẽ được ghi nhận. Trẫm chờ đợi và hy vọng được nghe những lời thẳng thắn! Nói xong, Đức Vua trị vì giơ bàn tay lên. Các quan tuần phủ và tổng đốc đọc một vài bản báo cáo nhưng thật ra chỉ là những lời khẳng định nhạt nhẽo về sự tận tâm hơn là những lời phúc trình rõ ràng. Sau cùng đến lượt một quan tri huyện trẻ tuổi tên Từ Thức, cai trị huyện Tiên Du. Ông này tiến lên và sau khi quỳ trên chiếu để lạy vua, không dám cất lời. Đợi nhà vua phác một cử chỉ nhân từ, ông mới tâu lên: - Hiện nay - ông nói - ân trạch của Đức Vua không được rải khắp muôn dân. Đất nước chưa hoàn toàn hưởng cảnh thái bình. Ở phương Nam, Chế Bồng Nga sủa cắn như chó dại. Ở phương Bắc, đế quốc Trung Hoa gầm gừ như hổ đói. Chiến tranh liên miên không dừng. Việc sưu dịch, tuyển quân, thuế khóa và nhất là khoản thuế thân ba quan tiền giáng xuống những tráng đinh có tên trong sổ bộ, trong khi trước đây chỉ những ai có ruộng đất mới phải chịu thuế đó, tất cả những điều ấy đè nặng trên người dân. Ngày xưa Đức Vua Thái Tông đã cấm việc mua các nông dân nghèo khổ làm nô lệ nhằm mục đích nâng đỡ nền nông nghiệp và hỗ trợ việc thu thuế cũng như việc tuyển binh. Ai mà vi phạm lệnh này đều bị thích dấu vào mặt hai mươi lần và bị đánh một trăm trượng. Ngày nay các điền trang lớn ngày càng gia tăng không kể xiết, nông dân phải đem bán đất, và vợ con, trốn khỏi làng để khỏi phải đóng thuế và bắt đi lính, họ vào các điền trang, phục dịch cho các địa chủ lớn và đương nhiên trở thành nô lệ. Do đó, tại các phủ huyện, những cuộc nổi dậy của nông nô và nông dân nổ ra liên tiếp. Vì thế, cần phải giới hạn diện tích những điền trang lớn và phân chia lại ruộng đất theo chế độ công điền công thổ truyền thống lâu đời. Khi việc cày cấy, gieo trồng được ổn định, khi cơm ăn áo mặc được bảo đảm, lúc đó đất nước được thịnh vượng và nhân dân sẽ hết lòng tận tụy vì Đức Vua. Kinh Thi có nói rằng Mệnh Trời khó mà giữ được, sách Đại Học cũng dạy rằng đấng quân vương phải lấy hành động của mình làm khuôn phép, mẫu mực! Nói xong, Từ Thức quỳ lạy, mắt rớm lệ vì sợ hãi. Bá quan không tin vào lỗ tai mình, và không ai dám có những lời như thế và mọi người đều sững sờ. Đức Vua trị vì đứng dậy, Hoàng thân Lê Quý Ly cũng đứng dậy theo. Ngay cả ông Loan, thái giám tinh tế nhất có tài dự đoán, người được ngủ ngay trong phòng vua ngự, có lẽ cũng lúng túng, không biết được Đức Vua ngạc nhiên hay tức giận vì bất thần mặt rồng biến sắc. Quan Toản tu Quốc sử quán, mải mê ghi lại những hành động và lời nói của buổi chầu, run rẩy đặt bút xuống. Buổi chầu chấm dứt, Đức Vua lui vào. Mọi người sau đó ra về, không nói với nhau một lời. Những suy nghĩ của các quan với vẻ mặt trầm tư được giữ lại sau hàm răng khép chặt của họ lúc họ trở về: người thì trở về khu nhà quan ở thành ngoại hay dinh phủ ở thành nội, người thì đi thuyền, đi cáng về quận huyện. Những suy nghĩ ấy sau cùng cũng được thốt ra từ đôi môi khép kín mà bay ra theo khói thuốc lào và khói trà thơm phức. Chúng luồn ra bên dưới màn trướng và những bức rèm chầu, vượt qua sân trước, chạy dọc theo những con đường phố từ phường này qua phường khác, đi đến các đền, chùa, chợ búa, xuyên qua các khu vườn của Văn Miếu dọc theo bờ hồ, bến cảng Đông Bộ Đầu, từ thuyền mành này sang thuyền mành khác, từ ruộng lúa này sang ruộng lúa khác, để lan truyền đến tận vùng quê. Chẳng bao lâu, thành Thăng Long và vùng phụ cận đều biết những sự kiện và mọi hành vi trong cuộc triều kiến Đức Vua dịp trung thu. Người ta ca ngợi sự chính trực can đảm của quan tri huyện Từ Thức, người ta tán thưởng sự chính xác của lời nói và sự khôn ngoan của các lời can gián của quan tri huyện, và hồi tưởng lại, người ta tiếp tục lo sợ cho ông mặc dù ông đã trở về huyện Tiên Du không gặp gì trở ngại. Đối với nhiều người, biện pháp khoan hồng ấy đối với một ông quan dù địa vị còn thấp nhưng đã không bị giáng cấp khi dám nói, là một dấu hiệu thêm nữa về sự suy sụp của nước nhà. Hơn cả sợ hãi đối với Đức Vua, còn có một sự hãi đáng sợ hơn: sự sợ hãi đối với nhân dân khi họ có quyền nổi dậy dưới sự trị vì của một ông Vua tồi. Một số người cho tới nay chỉ nhìn thấy các nho sinh bằng con đường thi cử văn chương được cất nhắc lên địa vị của kẻ trị dân trị nước, là những con người mơ mộng chỉ biết gán ép các nguyên tắc cổ xưa với thời buổi hiện đại hoặc những kẻ trục lợi dửng dưng với số phận khốn khổ của những người làm việc để phục vụ họ, thì lấy làm lạ vì còn có những ông quan gần gũi với dân hơn họ tưởng. Còn những người khác cho rằng thái độ ấy quá ngây thơ, nên không ngần ngại tuyên bố rằng lời phát biểu của Từ Thức mà mọi người thán phục là do Lê Quý Ly gợi ý vì theo họ nói, đó là những ý tưởng mà người ta vẫn cho rằng chính là của họ Hồ. Đó cũng là quan điểm của Hoàng thân Trần Nguyên Đán. Với tư cách là một thượng thư của triều đình, không phải là ông không biết bất cứ một dự định lớn nào của người đứng đầu Cơ mật viện, nhằm dập tắt cuộc khủng hoảng kinh tế và xã hội lê thê từ hơn một thế kỷ nay. Và lòng chính trực chân thành của ông phải thừa nhận ở Lê Quý Ly những tính chất của một nhà chính trị có tài. Nhưng mặc dù về căn bản, ông đồng ý với sự phân tích của ông quan trẻ Từ Thức, là cần phải giới hạn việc sở hữu ruộng đất, và trả lại số dư cho Nhà nước để đem phân phát cho dân không có đất đai, bởi vì ông thương xót cho người dân nghèo khổ lang thang trên khắp nẻo đường. Nhưng vì là dòng dõi của nhà Trần, ông nhức nhối vì sự thất lễ này, và càng nghiêm trọng hơn khi chính bản thân Lê Quý Ly cho phép điều đó xảy ra. Người ta không thể khuyên can Hoàng đế nước Nam như sửa lưng một ông cai tổng nào đó. Cũng như, người ta không thể cai trị một quốc gia như điều hành một ngôi làng. Những người xuất chúng có quyền đưa ra những lời thỉnh cầu ở triều đình như Chu Văn An dâng biểu đòi xử trảm bảy vị thượng thư nịnh thần, nhưng họ đã thực hiện bằng những lời lẽ đặt Đức Vua lên trên mọi sự khinh suất. Vì thế Hoàng thân không thể không cảm thấy một sự tổn thương sâu sắc. Ông đã tỏ bày với Phi Khanh nỗi chán nản ấy trong một buổi bình thơ. Những buổi này thường làm ông quên đi những nỗi buồn phiền trong công vụ và những nỗi bực dọc trong gia đình. Hơn lúc nào hết, Phi Khanh có vẻ vướng mắc vào một việc khó khăn nào đó. - Thầy thân mến - ông nói - chúng ta giờ đây đã trở thành đôi bạn chân thành và không giấu giếm gì nhau. Tuy nhiên hôm nay có điều gì làm thầy buồn bã. Thầy không tín nhiệm để nói với tôi điều đó sao? Chàng gia sư trẻ tuổi mặt đỏ gay, nói lúng túng và không biết trả lời sao. - Thầy có thấy hơi mát của làn gió thoảng không? - Một lúc sau Hoàng thân nói. - Gió lay động cành trúc. Trăng sáng tuyệt đẹp. Khi thiên nhiên xung quanh chúng ta góp phần làm cho chúng ta say đắm, thế nào mà lại không đáp lại lời mời gọi của chúng? Cầm lấy bút lông, họ bắt đầu cảm tác theo đề tài: "Uống trà dưới ánh trăng với nỗi buồn man mác". * * * Trong những tháng sau đó, nhiều lần Phi Khanh phải hối tiếc vì đã không thổ lộ với Hoàng thân khi ông muốn nghe chàng nói về nói đau buồn của mình. Chàng tự hỏi những động lực nào đã ngăn cản chàng làm điều đó. Sợ bị trừng phạt chăng? Ngay khi biết được tin ấy, chàng đã nghĩ ngay đến một sự trừng phạt chính đáng và chàng không thiếu can đảm. Vả chăng nếu chàng quả là thiếu can đảm, thì chàng đã cùng tiểu thư bỏ trốn, theo lời khuyên của Từ Chi, bạn chàng, với niềm tin hầu như chắc chắn rằng Hoàng thân và gia đình ông sẽ không đuổi theo họ, vì như thế cũng là cất đi được cái gánh nặng phải thấy một sự sỉ nhục hiện thân sống động trước mắt hàng ngày. Tuy nhiên, họ vẫn ở lại. Có lẽ phải tìm lý do trong việc chàng không phải là người duy nhất nắm giữ bí mật và trong những cố gắng của tiểu thư Thái nhằm che giấu mọi người tình trạng của mình. Sau một thời kỳ ngắn mệt mỏi trùng vào dịp Tết Trung thu, tiểu thư đã đi học lại, luôn luôn có nữ tỳ Thị Nghi trung tín đi theo. Nhờ có Thị Nghi, tiểu thư đã thổ lộ cho Phi Khanh biết trong những lúc hiếm hoi nàng có thể rời khỏi khuê phòng, chính nhờ Thị Nghi mà nàng có thể lừa mẹ nàng và qua mặt những người thiếp của cha nàng thường để mắt xem xét khắp nơi. Vẫn như trước kia, nàng phải cư xử với Hoàng thân như một người con gái vô tư và hiếu thảo với một ấn tượng lạ lùng là mình vẫn phải rập khuôn theo một mẫu mực của chính mình. Rồi tuần này nối tiếp tuần kia, vừa ngắn ngủi vừa như bất tận. Những nét ủ dột, mệt mỏi ban đầu giờ đây đã biến mất bởi vì nàng đã bước vào một thời kỳ thai nghén mà người phụ nữ có nước da rạng rỡ và dáng dấp trở nên buông lơi triển nở. Cả những nhà sư chắc cũng không tưởng tượng nổi rằng cô tiểu thư quyền quý trong buổi sáng tinh sương, tay mang của lễ đến chùa là để cầu khấn sự phù hộ của "Mụ bà" bởi vì nàng sắp thành người mẹ. Nhưng với cá tính dũng cảm ương ngạnh của nàng, trong một bước xoay chiều đột ngột, những ngày đêm trôi qua trong nỗi khổ chín chiều sau cùng đã xua đuổi sự sợ hãi ra khỏi lòng nàng. Nàng kiêu hãnh thu gọn mình bao quanh đứa bé, được thúc đẩy bởi một ý nghĩ duy nhất, một ước mơ duy nhất: bảo vệ đứa bé. Vì thế, mỗi sáng nàng đến chùa cầu nguyện, và mang thêm dưới chiếc yếm bình thường, một cái yếm khác màu sặc sỡ, loại yếm của những phụ nữ mang thai, coi như đế xua đuổi tà ma. Và trong bao trầu đeo ở thắt lưng có những lá bùa mà Thị Nghi đã chuộc về từ thầy phù thủy. Ngày tháng trôi qua như thoi đưa trên khung cửi... Tết Nguyên Đán đã về, trang hoàng với những cành đào, rực hồng trong câu đối đỏ, trong tiếng pháo nổ đì đùng. Đối với mọi người, đó là lễ hội của mùa xuân, lễ hội của người sống và kẻ chết hòa lẫn vào nhau, sự giao hòa giữa âm dương để bước sang một năm mới. Nhưng quần áo mới mà nàng mặc lần đầu trong ngày đầu năm và đêm giao thừa lúc mà mỗi người cố gắng là "một người đàn ông mới", "một người đàn bà mới", cũng như sự hiện diện đầy ơn phúc của các đấng tổ tiên từ thế giới bên kia trở về quây quần với nhau trong dịp này, không còn như trước kia có thể thuyết phục được tiểu thư Thái rằng có thể xóa bỏ quá khứ để bắt đầu lại mọi việc từ buổi sáng ngày đầu năm Canh Thân thiêng liêng ấy, niên hiệu Xương Phù thứ tư (1350). Khi cha nàng biết được, ông có tha thứ cho nàng không? Nàng mừng rỡ vì những việc do nhiệm vụ bắt buộc, như dâng lời chúc tụng Đức Vua trong cung Trường Thọ, buổi hòa nhạc trong sân điện Thái Hòa, yến tiệc ở Thái Miếu, các cuộc Viếng thăm đền chùa Phật giáo và Lão giáo. v.v... tất cả những việc đó giữ cha nàng ở cách xa nàng. Ngày mùng bảy, ngày hạ nêu và cúng tiễn đưa ông bà, Phi Khanh từ quê nhà đã trở lại. Cuộc sống của mọi ngày đã trở lại bình thường. Ngoại trừ tiểu thư Thái phải cảnh giác hơn bao giờ hết vì giờ đây nàng phải rời bỏ y phục lót bông mặc trong mùa đông. Ba tuần lại trôi qua, cho đến lúc tiểu thứ Thái biết rằng từ nay nàng có thể ở cữ bất cứ ngày nào, Thị Nghi gạt sang bàn nỗi nhớ quê hương với cảnh núi non của đất Nghệ An, chuẩn bị cho cô chủ những món ăn đặc biệt khi cô chủ thèm ăn đồ chua chát, đấm bóp cho cô chủ khi nàng bị ốm nghén giày vò khắp cơ thể. Phải chăng, nhờ có đứa thị nữ tận tâm hay nhờ sức mạnh của những lời cầu khẩn, biến cố sắp xảy đến không làm cho cô gái mới mười sáu tuổi đầu sợ hãi. Ngay cả Hoàng đế trên bệ ngọc cũng không có một nhiệm vụ nào quan trọng hơn công việc của nàng. Nàng chẳng bận tâm nghĩ đến, dù chỉ một lần, việc nàng có thể sinh nở bất ngờ vào lúc không thuận tiện nhất, như thể nàng phó thác cho sự quyết định của các vì tinh tú việc chọn ngày lành tháng tốt. Cho đến cái đêm đáng ghi nhớ ấy, như đã được định sẵn, giật mình thức dậy, nàng cảm thấy như có một bàn tay khắc nghiệt siết vào bụng nàng từng chặp một đều đặn. Bấy giờ, nàng biết rằng thời điểm đã đến. Không đốt đèn, nàng đánh thức Thị Nghi đang nằm ngủ trên chiếu dưới chân nàng, và lấy tay nàng bịt miệng nó để nó đừng la lên vì sợ hãi. - Em hãy đi nói với thầy giáo trẻ nên rời khỏi vương phủ ngay, đừng chậm trễ vì đêm nay giờ mãn nguyệt khai hoa sẽ đến. Em nói với thầy giáo đừng nên lo ngại cho số phận của chị mà hãy đi đến nơi đã định trước. Chạy nhanh lên! - Còn lại một mình, nàng nghĩ đến cơn thử thách gần kề. Nhờ đã qua nhiều lần tự nhắc nhủ với mình rằng ở cữ là một việc hết sức tự nhiên nên nàng giữ sự bình tĩnh hoàn toàn. Cắn chặt hàm răng vào chiếc khăn quàng lụa, nàng nằm chờ trong bóng tối, chỉ lo ngại một điều là tiếng kêu khóc của đứa bé sơ sinh sẽ báo động đến các cô em gái của nàng đang ngủ yên dưới cùng một mái khuê phòng. Đó là một đêm mùa xuân trăng sáng. Từ xa, người ta nghe tiếng tắc kè chạy dọc sườn nhà và ở cuối vườn tiếng ếch ương kêu ộp oạp. Nằm dài dưới tấm chăn, hai bàn tay co quắp trên bụng, nhìn qua bức mành cửa tô điểm bằng chim phụng, ánh trăng mùa xuân đang đi theo Phi Khanh trên đường chạy trốn. Chàng phải mau lẹ rời khỏi kinh đô chạy về hướng kinh Bắc, nơi ẩn náu an toàn. Vả lại đêm nay, nàng còn làm được gì khác hơn với tất cả sự khôn khéo của mình? Nàng đang nhìn thấy lại khuôn mặt kiêu hãnh của chàng ủ dột vì lo lắng. "Dù cho cha mẹ không xót thương chúng ta, em thề không bao giờ lấy ai khác ngoài anh, anh Cả ơi", nàng thì thầm, quay mặt về phía ánh sáng nhợt nhạt rọi vào từ cửa sổ. Nàng không biết rằng nàng dao động như thế giữa sự co thắt và ngớt đau trong bao lâu. Một lát sau khi tiếng trống canh ba đã điểm, thình lình cơn đau, thật sự là quặn đau không sao chịu nổi xâm chiếm lấy nàng. Thái cảm thấy cơn đau ấy dâng lên trong người như những nhát dao vằm mạnh và lúc nàng sắp sửa gào lên, bỗng nhiên lại từ từ dịu xuống trong một khoảnh khắc để rồi trở lại lâu hơn và mạnh hơn, ngưng lại lần nữa trong cơn run rẩy của da thịt bị xé rách, rồi lại tiếp tục một cách nghiệt ngã. Cứ mỗi lần cơn đau mới ập tới, Thái tưởng như đứa bé vọt ra khỏi bụng nàng như múi mít tung ra khỏi quả khi lớp vỏ bị nứt toang. Tưởng chừng như những cơn đau này sẽ kéo dài suốt canh thâu mà đứa bé vẫn chưa sinh. Với ngần ấy đau đớn, làm thế nào mà toàn bộ thân thể không giãn ra vỡ tung? Nàng ở dưới đáy sâu của một cái động tối tăm với sự sống ấy đang bị giam giữ trong nàng. Nàng rên rỉ. Tại sao nó không chịu sinh ra, tại sao? Nàng tìm đâu sức lực để bám riết theo nó? Vào lúc sắp tàn canh của cái đêm mà nàng đang giãy giụa, một ngọn đèn được đốt lên, có đôi bàn tay thoa bóp cho nàng, lau thấm mồ hôi và nước mắt đầm đìa trên má, một giọng nói quen thuộc nói với nàng... Đó là giọng nói của Thị Nghi kể lại việc ông thầy trẻ ngay khi được báo tin đã biến mất trong đêm với con ngựa đánh cắp trong tàu. Giờ đây, Thị Nghi đang giục nàng đứng dậy, hai chân dạng ra cho đỡ đau. Tuy nhiên, từ lúc đó không có gì có thể làm nàng bớt đau. Khi ngước lên, qua mái tóc xõa ra, Thái thấy Thị Nghi đi tìm giỏ trấu giấu phía sau bức trướng để đặt đứa bé vào đó. Nhưng những bàn tay khéo léo của đứa tớ gái trẻ có xoa bóp bụng nàng cũng vô ích, đứa bé từ chối, đứa bé giữ nàng, mẹ nó làm tù nhân. Nó sẽ không bao giờ chịu sinh ra, nàng hoảng loạn nghĩ như thế trong khi vẫn đứng chờ đứa bé lọt ra. Máu bắn như tia chảy dọc chân nàng. Đứa bé như không biết rằng nàng đã dùng hết sức để đẩy nó ra khỏi người nàng và ở mỗi cố gắng đau xé nàng ra, nàng lại kêu chính mẹ nàng: Mẹ ơi! Thị Nghi chạy dọc theo hành lang thanh vắng đến tận phòng dành cho các bà phụ nữ. Mặc dù trước khi là thị nữ của tiểu thư, đầu tiên nó đã là con hầu của bà hoàng, nhưng nó chưa bao giờ đi vào khu riêng của bà. Nghĩ đến việc Hoàng thân có thể chung phòng với bà đêm nay, thêm vào cái biến cố mà nó sắp loan báo cũng như cái tội đồng lõa mà chắc chắn người ta sẽ kết án nó, làm cho nó kinh hoàng. Tuy nhiên nó vẫn chạy hết hơi trong đêm như một cái bóng. Khi bà hoàng chạy vội xuống phòng của con gái, bà không có thì giờ để ngạc nhiên hay trách móc. Vừa cất tiếng ra lệnh cho Thị Nghi đi tìm ngay một bà mụ, thì bà hoàng đã đón hứng lấy đứa bé trong một dòng máu tuôn xối. - Xin Trời Phật phù hộ chúng ta! May mắn quá nó là con trai! - Bà thở phào ra, nâng đứa bé lên êm nhẹ như nâng một quả trứng. Đứa bé thật thanh tú nhưng lại mạnh khỏe, nó trân trân nhìn vào bà với một vẻ nghiêm nghị không thể tưởng được. Như thể nó nhớ ra rằng mình phải tự loan báo, nó thốt ra một vài tiếng khóc ngắn dường như chỉ thuần túy vì lịch sự và cùng lúc đó trời rạng sáng, ngày mùng tám tháng ba năm Canh Thân triều đại nhà Trần. Đưa mắt nhìn qua khỏi đứa bé, bà hoàng tìm ánh mắt con gái bà. Thái đã thở đều đặn trở lại, hai mắt nhắm nghiền, một nụ cười khó tả trên khuôn mặt rạng rỡ, như phiêu diêu ở một chốn nào tuy vẫn gắn chặt với đứa con trai đang khóc oe oe. Dao động và lúng túng, bà hoàng ngạc nhiên không thấy mình tức giận hay phẫn nộ trước một điều mà ở vào hoàn cảnh khác, hẳn đã không phải đem lại sự rụng rời mà là niềm vui cho gia đình Hoàng thân. Bà chỉ cảm thấy lòng nặng trĩu trước điều vốn dĩ không thể nào tránh khỏi. Bà chỉ hai mẹ con Thái cho bà đỡ vừa chạy vội đến, và bà lui về sau khi đã nghiêm khắc ra lệnh phải tuyệt đối giữ kín. CHƯƠNG 3 Nằm trên lò than nóng dành cho đàn bà ở cữ, Thái ngắm nghía đứa bé mới sinh trước mặt mình, thằng bé ngủ trong một cái giỏ trấu như bất cứ một đứa bé con nhà nông nào. Dù nàng có hãnh diện đến đâu, thì cả nàng, cả Thị Nghi và bà vú nuôi không nói một lời nào vì có thể lôi kéo tà ma, đó là oan hồn của những đứa bé chết khi mới sinh, của các thiếu nữ lìa đời mà chưa một mảnh tình vắt vai, của những người bị hành hình, người ăn mày, dân đi lang thang chết bụi chết bờ vùi lấp bên đường, những cô hồn vất vưởng vì không ai hương khói tìm cách trả thù người sống. Những gì cần thiết để bảo vệ thằng bé sơ sinh đã được làm đầy đủ. Người ta đã chôn nhau trước cửa chính khuê phòng, khá sâu và xa nơi trồng cây cỏ gà để thằng bé khỏi bị nôn oẹ, mụn nhọt hay sưng mí mắt. Thị Nghi cũng đã treo ở cửa mảnh da rắn và cành gai, dâng hương hoa cho Bà Cô và con ranh, con lộn. Về việc phục vụ bên trong dinh phủ, người ta đã ra những điều lệnh, đứa bé sơ sinh và mẹ nó được săn sóc chu đáo nhưng người ta biệt lập họ nghiêm ngặt và cấm không cho ai được ra vào. Chỉ có Thị Nghi và bà vú nuôi được phép ở lại. Lấy cớ để tránh gió lùa có hại cho đàn bà ở cữ, các cửa sổ được dán lại những giấy dầu và một màn trướng dày che khuất cửa ra vào. Trước cửa có hai vệ binh riêng của ông hoàng đứng gác, hai tên được tuyển chọn trong một đội ngũ cả trăm người. Mặc dù trái tim nàng bàng hoàng khi nghĩ đến cơn giận dữ của cha nàng và đau khổ vì bị tách biệt với gia đình như thế, người thiếu phụ vô cùng thanh thản vì không còn phải che giấu gì nữa. Nàng còn biết tâm sự với ai, nếu không phải với ngọn bút, rằng nàng đã sống bảy ngày20 ở cữ trong một niềm hoan lạc vì tin chắc mình đã thực hiện được cái điều mà chỉ vì nó, nàng mới có mặt ở đời này: sinh ra đứa con trai này, cái đứa bé đang đặt lên tất cả mọi vật, chiều sâu của một cái nhìn vô cùng nghiêm nghị. Trong sức nóng từ lò than bốc lên thân thể nàng lâng lâng nhẹ nhõm, nghĩ đến Phi Khanh ở chốn Kinh Bắc xa xôi khá xa để được an toàn và khá gần để có thể trở về khi nhận được một tín hiệu, nàng cảm thấy một sự tin tưởng sâu xa. Dĩ nhiên với tư cách là một công nương thuộc dòng hoàng tộc, chỉ để dành riêng cho những vương tôn họ Trần, tội của nàng đối với vua và đối với cha đáng phải chết. Tuy nhiên, nàng nghĩ nàng biết rõ tinh thần phóng khoáng cũng như lòng nhân hậu của Hoàng thân cha mình nên hy vọng ông sẽ tha thứ. Nàng mỉm cười với Thị Nghi đang lấy ngón chân đung đưa chiếc nôi, trong đó đứa bé đang nằm. Tuy nhiên, từ ngày mùng tám tháng ba ấy của năm Canh Thân, đời Trần Phế Đế (1380), cái ngày phải được ghi vào ký biên niên của gia đình và sử biên niên của triều đình, một cuộc chiến đấu gay go đã diễn ra trong lòng quan Tư Đồ. Ngày hôm đó, bà hoàng với bản tính dịu dàng và bình thản phải can đảm lắm mới dám báo cho Đấng phu quân đáng kính một cái tin như thế. Trước đó, bà đã cầu nguyện rất lâu trong chùa. Bà đã suy nghĩ nhiều lắm. Bà tưởng như nghe được các lời xúc xiểm thâm độc của bọn tỳ thiếp cũng như những tiếng cười khẩy của triều đình. Trong tâm trí bị giày vò của bà, dần dần nảy ra ý tưởng là trong việc sinh nở bất ngờ này, tất cả đã đưa họ, tức Hoàng thân và bà đến chỗ đứng trước một việc đã rồi. Như một bức màn đột nhiên bị xé toang, một loạt những ấn tượng và quan sát thình lình trở lại trong ký ức. Bình thường, chỉ cần một trong những điều ấy cũng đủ để mở mắt cho bà thấy được bản chất thật sự của mối quan hệ giữa con gái bà với anh chàng gia sư trẻ tuổi. Ở đây có một thứ ma lực rõ ràng là do đôi thanh niên nam nữ đã mắc nợ nhau từ kiếp trước và sự cảnh giác của bà mẹ cũng trở thành bất lực. Giọng nói tức giận của Hoàng thân làm bà hoàng run rẩy như những món đồ sứ xứ Thanh xung quanh bà. Bà chỉ còn biết khiêm tốn lắng nghe điều bà đã tự nói với chính mình về sự thất bại trong việc giáo dục con cái, sự tiếp tay mà kẻ mắc tội đã lợi dụng, sự mất mặt và những lời đàm tiếu của phe Lê Quý Ly. Sau đó bà rút lui, nước mắt đầm đìa. Dưới bước chân bà đi qua, không ai dám ngước mắt nhìn. Bọn tôi tớ lủi trốn vào mọi góc xó, những người làm vườn ở cuối vườn cúi gập người xuống. Về đến những căn phòng trống trải của bà, bà hoàng để mặc cho dòng nước mắt tuôn trào lên má. - Ôi trời ơi! - Bà ngước mặt lên trời rên rỉ vì sau khi gặp chồng, bà thấy rõ ràng là ông hoàng không thể nào tha thứ được. Tội lỗi này quá nặng nề, làm sao xóa sạch được nếu không phải là chính những kẻ phạm tội phải biến mất? Chàng thanh niên ấy xuất thân từ hàng lê thứ21, được nâng lên danh hiệu gia sư, và cô gái ấy được cưng chiều lại quên hết mọi bổn phận, mọi nguyên tắc về ý tứ và đức hạnh. Hoàng thân mà niềm tin bị người ta chà đạp, người này phản bội ông trong tình yêu thương, người kia trong tình thân hữu, chắc ông sẽ không tha thứ. Sự cô lập của người mẹ trẻ với đứa bé sơ sinh là một bằng chứng về điều đó. Hoàng thân đã xua đuổi, lên án họ. Không theo đúng lễ giáo, việc sinh con sẽ không được thừa nhận. Như thế, đứa bé vẫn chưa thật sự hiện hữu, có lẽ nó chẳng bao giờ hiện hữu. Bà lại cảm thấy đứa bé phập phồng trong đôi bàn tay bà nhẹ như một chiếc lá. Bà cảm thấy đảo lộn bởi một cám dỗ bất ngờ là đưa hai mẹ con đi xa ẩn náu nơi nào đó. Phương sách ấy quả là vô ích, chỉ còn lại những lời cầu nguyện, những cử chỉ khiêm hạ. Quỳ gối xuống, bà ép một nắm cỏ bứt ở trong vườn giữa hai bàn tay chắp lại: - Con xin cắn cỏ này, lạy đấng Hoàng Thiên - bà kêu lên - cầu khấn Ngài cứu con của con khỏi kiếp nạn tử vong. Xin Ngài tỏ lòng nhân hậu thương xót con. *** Viên quan làm việc ở Quốc Sử quán đến chép vào biên niên sử như sau: "Hoàng thân Trần Nguyên Đán chỉ biết được mối tình vụng trộm của tiểu thư Trần Thị Thái, con gái thứ ba của ông với gia sư Nguyễn Phi Khanh lúc con gái ông ở cữ, ông tha thứ cho họ và đồng ý cuộc hôn nhân!". Một quyết định như thế chỉ đến với ông sau ba ngày dài tìm kiếm trong những vùng sâu thẳm của tâm hồn. Trước hết, ông phải chiến thắng cơn giận, phải loại bỏ khỏi tâm trí ông mọi ý nghĩ trả thù xuất phát từ một tâm tình kiêu ngạo, nói tóm lại ông phải chấp nhận rằng những gì từ trước đến nay không thể chấp nhận được thì từ nay trở đi chỉ là quy luật của một sự thoái hóa chung. Và để đi đến nhận thức ấy nhờ sự thực hành lâu dài thiền học, trong một trực giác ông biết chắc rằng, trong cuộc phiêu lưu, Phi Khanh trước tiên đã chiều theo sở thích và ý muốn của cô học trò, trước lúc sa ngã luôn theo khuynh hướng riêng mình. Dĩ nhiên chàng gia sư không phải vì thế mà vô tội. Tuy nhiên, vì hiểu rõ Phi Khanh và hiểu rõ con mình, Hoàng thân giờ đây biết rằng mọi sức mạnh của cá tính đam mê của cô này tất nhiên phải làm tiêu tan sự dè dặt thận trọng của chàng kia. Hơn thế nữa, phải kể đến mối đe dọa của cuộc hôn nhân ép uổng với một tù trưởng thượng du mà Lê Quý Ly đã sắp xếp. Chính điều này đã làm cho Thái càng thêm táo bạo để làm một việc mà không một người con gái nào khác ở vào địa vị và được giáo dục như nàng, lại dám làm dù có say mê ai tha thiết. Thái đã đặt tình yêu ra ngoài vòng lễ giáo, coi thường mọi điều cấm đoán, mọi quyền bính thiêng liêng nhất trong một cuộc thách đố tuyệt vọng. Làm sao mà Phi Khanh có thể cưỡng lại được một khi đã bị chinh phục? Thái và Khanh, cả hai đều là những món đồ chơi trong tay một số mệnh vượt lên trên họ và cả chính ông nữa. Tuy nhiên, Hoàng thân đã là người thợ phụ ngây thơ của số mệnh. Giữa bao nhiêu ứng viên được người ta nồng nhiệt tiến cử, chính ông đã đặc biệt chú ý đến anh cử nhân nghèo làng Nhị Khê. Chính ông đã sai lầm không tha thứ được khi cho anh ta về sống trong dinh. Rồi cũng chính ông đã tạo điều kiện thuận tiện cho đôi trai gái được gần nhau bằng những buổi tối làm thơ. Và những lời thổ lộ tâm sự của ông đã tạo ra không khí thân mật như gia đình có hại cho uy quyền của ông. Khi được báo tin, ông đã trách móc bà vợ chính thất rất đáng kính phục của ông về sự thiếu cảnh giác. Nhưng bản thân ông, ông đã đoán biết được gì về mối tình này? Ngoài lời căn dặn lúc bảo Phi Khanh phải coi chừng đối với các cô học trò, vả chăng đó chỉ là một câu nói bông đùa mà thôi, mối ngờ vực duy nhất và thật sự của ông - khi đã quá muộn rồi - đã tiêu tan trước điện Thiên An trong cuộc trò chuyện với vị Tổng Trấn kinh đô. Bởi lẽ ông không bao giờ nhìn thấy dưới mắt ông một người nam và một người nữ, mà chỉ thấy một ông thầy với đứa học trò mà thôi. Do đó nếu ông chỉ là công cụ của ý trời để bảo vệ một mối diễm tình rất đỗi ngoại lệ thì thằng bé mới sinh, hoa quả của mối tình ấy có thể là một người tầm thường được không? Lúc này đây, đứa bé đã có một tầm quan trọng không ngờ. Sau khi đã nhiệt thành phục vụ đất nước, xứng đáng với danh hiệu Thượng công, giờ đây dù mơ ước được lui về làm bạn với núi Côn Sơn, biết đâu Trần Nguyên Đán này lại chẳng còn có một vai trò bên cạnh đứa cháu nhỏ nhất trong dòng họ hay sao? Thật ra khi đi đến kết luận không cần trừng phạt các kẻ phạm lỗi và xác tín rằng sự tha thứ của ông càng hào hiệp và trọn vẹn khi những người khác tỏ ra tàn nhẫn đối với họ, Hoàng thân đã nghĩ nhiều đến lợi ích của đứa bé hơn là lợi ích của cha mẹ nó. Sau khi tìm được kẻ có tội nơi anh ta đang ẩn náu, hôn lễ sẽ được cử hành. Hoàng thân đã quyết định như thế: Lời tha thứ được loan báo và được đón nhận với niềm hân hoan mà ai cũng thừa đoán được. Sau khi đã khóc nức nở trong vòng tay bà mẹ, xúc động vì biết ơn, tiểu thư Thái đã phái gấp một sứ giả đến Kinh Bắc mang theo một mảnh giấy yêu cầu Phi Khanh quay về ngay bởi vì, nàng viết, Hoàng thân cha nàng đã rộng lượng khoan hồng tha thứ. Lập tức, Phi Khanh lên đường về kinh đô, vừa nóng lòng muốn thấy đứa con vừa vô cùng hổ thẹn khi nghĩ đến việc gặp lại Hoàng thân và phu nhân. Không kịp giũ bụi đường, với thái độ hoàn toàn khiêm hạ, chàng đứng ở giữa gian phòng tiếp tân rộng lớn, nơi mà một vài tháng trước đây, bữa tiệc trình diện đã được tổ chức. Quan Tư Đồ mặc chiếc áo dài đơn sơ dùng trong nhà và đội một cái khăn đen. Ông không nói với chàng một lời quở trách mào đầu nào nhưng vẻ buồn bã trên khuôn mặt thất vọng của ông đối với Phi Khanh còn khắc nghiệt hơn những lời khắc nghiệt nhất. - Chuyện dan díu của anh, Hoàng thân nói với chàng, là dấu hiệu của cái thời đại mà tri huyện cảnh cáo Hoàng đế, hoàng thành biến thành một sòng bạc và các quan lớn thành các con buôn. Vì trong quá khứ, anh đã thi đậu cử nhân vào hàng xuất sắc nên tôi đã đặt anh làm gia sư. Ngày hôm nay là ngày anh sẽ bước vào trong gia đình chúng tôi, hơn bao giờ hết, anh phải hết lòng cố gắng dùi mài kinh sử và phát huy tài năng để dự kỳ thi tiến sĩ. Anh đã biết mối tình giữa Trác Văn Quân và Tư Mã Tương Như. Nếu anh có thể được lưu danh vào sử sách trong những thế hệ mai sau, đó là nguyện vọng cao nhất của tôi. Nghe những lời ấy Phi Khanh quỳ lạy, mắt chàng đầy lệ, tràn ngập lòng biết ơn. - Vì có nhiều khó khăn đang chờ đợi anh - Hoàng thân nói tiếp - nên chúng tôi cho phép anh được ở lại đây và chu cấp cho việc bảo dưỡng mẹ con nó và một người vú em cho tới khi dứt sữa, rồi chúng ta sẽ tính sau. Như thế, anh sẽ không phải lo nghĩ gì ngoài việc học tập. Giập đầu xuống đất, Phi Khanh lí nhí trả lời: - Kính thưa Đức ông và Lệnh bà, sự bất xứng của kẻ tiểu sinh khốn nạn này đã phụ tấm lòng tín nhiệm của đại quan, tày đình bao nhiêu thì tấm lòng quảng đại của ngài càng cao cả hơn bấy nhiêu. Dù cả đời mình, tiểu sinh cũng không thấy đủ để đền đáp ơn sâu đối với hai ngài. - Anh đừng hiểu lầm về sự khoan hồng và lòng quảng đại của tôi, Hoàng thân nói. Những cái ấy không phải do chính nơi tôi. Giờ đây, tôi cho phép anh được đến với con trai của anh và là cháu của tôi, để dâng lễ cúng Bà Mụ. Thôi, hãy đi ngay đi! Phi Khanh bước thụt lùi ra khỏi phòng tiếp tân. CHƯƠNG 4 Mặc dù đã có lệnh nghiêm khắc phải giữ kín cái tin về mối tình vụng trộm giữa Trần Thị Thái, con gái của danh thần Trần Nguyên Đán, thành viên của hoàng tộc và người gia sư của cô, Phi Khanh, một nhà nho xuất thân từ hàng lê thứ, đã lan truyền khắp kinh đô, vào tận Cấm thành, như đường bay của con chuồn chuồn. Các cung nữ bàn tán không ngớt về mối tình phong nguyệt ấy, mắt họ mơ màng, ngực họ căng lên với những tiếng thở dài. Dọc theo các hành lang, trong những phòng tiếp tân của hoàng thành, câu chuyện độc đáo ấy chỉ có thể có trong tình sử xa xưa, với mối tình của công chúa Tiên Dung, con gái vua Hùng và anh ngư phủ nghèo Chử Đồng Tử, trở thành trung tâm của mọi câu trò chuyện. Nhiều thi nhân, trong những đêm xuân trăng sáng, phóng bút viết nên những vần thơ lấy câu chuyện tình ấy làm đề tài... Dĩ nhiên, ở triều đình và ở ngoại thành nơi mà cả trẻ con cũng biết đến danh tiếng của Hoàng thân, người ta chắc còn tiếp tục nói dài dài về mối tình diễm lộ đó nếu như quân Chàm đã không thình lình kéo ra đánh chiếm Nghệ An và Thanh Hóa. Người ta vẫn còn giữ lại kỷ niệm đau đớn về cuộc tấn công và cướp phá kinh đô, không ai quên được những đường phố ngổn ngang xác người bị chặt ra từng khúc hay bị nghiền nát dưới những bầy voi của Chế Bồng Nga. Những đám cháy rực trời như vẫn còn trước mắt họ, những tiếng kêu la của các phụ nữ bị lính Chiêm bắt theo làm nô lệ như vẫn còn vang trong tai họ. Người ta nơm nớp sợ quân xâm lăng sẽ không khỏi đi ngược dòng sông Đại Hoàng để một lần nữa chiếm lấy Thăng Long. Theo gương của triều đình, mỗi lần bị quân Chiêm đe dọa đã cho chôn cất các kho tàng trong các hang động, các quan chức nhờ buôn bán mà trở nên giàu có, chôn vùi những bức tượng, đá quý, sừng tê giác và các đồ thờ tự. Xe cộ, thuyền bè túc trực ngày đêm để chạy trốn qua bờ bên kia sông Nhị Hà. Những kẻ nghèo khổ nhất chỉ có việc giữ lấy mạng sống mình, giấu các thuyền mành trong lau sậy bên bờ sông hay đào hố sâu để ẩn náu như vào thời quân Mông Cổ xâm lăng. Chưa bao giờ người ta đi viếng chùa chiền ở kinh thành và ở các vùng phụ cận nhiều như thế. Chưa bao giờ người ta có nhiều ngựa đứng chờ trước những tấm bia có viết hai chữ "hạ mã" (xuống ngựa) ở đền Trấn Vũ. Mặc dù, nhà chiêm tinh của triều đình đã tiên đoán chiến thắng của Lê Quý Ly và tướng Đỗ Tử Bình, Đức Vua trị vì cũng đến cầu nguyên vị Thần mà từ đời nhà Lý đã được tôn lên làm đấng phù trợ Quốc gia. Một lần nữa, người ta đóng những cọc gỗ lim vót nhọn trong các hào sâu của hoàng thành, tăng cường gấp đôi số điếm canh22 các cửa ô dẫn vào kinh đô. Các cổng phường được cài then và canh chừng nghiêm ngặt khi màn đêm buông xuống. Những dân quân rời khỏi ruộng vườn để trở về nhập vào đoàn quân đồn trú của họ. Trước những biện pháp đó, người dân nước Đại Việt hiểu rằng nếu chưa thật sự có chiến tranh thì hòa bình cũng không còn nữa. Trong căn phòng mùa hè sáng sủa, Thái âu yếm nhìn con và tìm hết cách an ủi Thị Nghi đang than vãn cho số phận của gia đình mình ở mảnh đất Nghệ An xa xôi đang bị xâm chiếm. - Bố mẹ em có thể tìm được chỗ lánh nạn trong các hang động có khá nhiều trong núi - nàng nói với nó - Em đừng lo âu, khi nào hòa bình được tái lập, chị sẽ gửi ngay sứ giả lấy tin tức về gia đình em. Trong khi chờ đợi, em nên cầu Trời che chở cho gia đình em và hãy vững lòng tin tưởng. Thị Nghi tán đồng qua dòng nước mắt. Thằng bé níu lấy tay mẹ và tay đứa thị nữ, nhìn lên mặt họ với cái nhìn nghiêm trang đến nỗi sau cùng họ phải đáp lại nó bằng một nụ cười âu yếm. Giờ đây, nó biết lật mình trong nôi và mỉm cười với đôi má lúm đồng tiền khi Thị Nghi hát những bài với những câu thơ khá tự do mà Thị Nghi đã được mẹ mình dạy cho từ tấm bé. Ba tháng biết lẫy Bảy tháng biết bò Chín tháng lò dò biết đi. Thằng bé cũng có thể ngồi nếu được ai đỡ cho, hay cầm một cái hoa trong tay mà không bứt các cánh hoa. Làm một người mẹ trẻ tuổi, Thái ngây ngất vì mỗi ngày lại mang đến cho đứa bé một tiến bộ mới. Nếu không có mối đe dọa của quân Chiêm Thành, nàng hẳn đã muốn thời gian thình lình ngưng lại trong giờ phút hiện tại để nàng dạo đàn tranh cho thằng bé nghe, trong lúc cách đó vài bước, trong thư phòng, chồng nàng đang học để chờ kỳ thi sắp đến. Hoàng thân cha nàng đã cho họ một tòa nhà gồm có một phòng chờ, một phòng ngủ, một phòng thứ hai dành cho Thị Nghi, bà vú và đứa bé, một phòng khách, một phòng học và một nơi làm bếp. Một bầu khí bình an ngự trị ở đó nhờ những cái sân liền nhau với những bể nước, có hoa và cây kiểng. Dinh cơ của Hoàng thân cách đó mấy bước, Hoàng thân cho đục một cửa thông giữa hai nhà trong bức tường sau dãy nhà, để cho ngày đêm, hai nhà có thể liên lạc với nhau. Rất đều đặn vào mỗi lúc chiều tà, khi ngọn gió đượm hương sen đưa tới mát rượi, ông đến thăm đứa cháu ngoại mà ông đã trìu mến thương yêu. Chính Thái đi pha trà còn Phi Khanh tự cho phép mình ngưng công việc, đến dưới mái hiên để cùng nhau vui vầy. Họ chơi đùa với đứa bé thật lâu. Nhưng trong câu chuyện êm đềm của buổi hoàng hôn, họ chỉ nói toàn chuyện chiến tranh. Quân túc vệ vừa rời khỏi kinh đô để tăng cường đội quân ở miền Nam đất nước của tướng Đỗ Tử Bình đang được điều động chống lại quân xâm lăng. Bốn tháng đã trôi qua từ buổi sáng mùa xuân rực rỡ khi Nguyễn Phi Khanh từ Kinh Bắc trở về, ôm lấy đứa con mới sinh được ba ngày để làm lễ cúng Mụ và chọn tên. Họ đã thỏa thuận với nhau đặt tên húy là Trãi (con kỳ lân). Nguyễn Trãi. Như thế cha mẹ đứa nhỏ muốn đặt đứa nhỏ dưới sự bảo trợ của con kỳ lân, một linh thú đem lại điềm lành nhất, biểu tượng cho những đức hạnh vương giả và đồng thời là con vật chủ tể thủy giới, mà đứa bé lúc thụ thai lại do mạng thổ chủ trì. Hoàng thân và phu nhân tán thành sự chọn lựa đó. Vì đã cùng nhau liên đới trong cái bí mật bất khả lậu vào cái đêm hôm ấy, mà bà hoàng đã đóng vai trung gian, nên Thị Thái từ nay với mẹ nàng gắn bó chặt chẽ cùng nhau đồng mưu cộng sự. Nàng không ngừng chạy đến xin mẹ khuyên bảo. Ngay từ đầu vì tính tình bốc đồng và bất trị của Thái rất khó thích ứng với quyền bính dù đó là quyền bính của người chồng nàng rất yêu thương, mẹ nàng khuyến khích nàng nhẫn nại và dạy cho nàng cách xử sự khéo léo, nhờ đó mà ở Đại Việt người phụ nữ khôn ngoan là người cai quản gia đình, trái ngược với phụ nữ của Đế quốc Bắc phương. Đến nỗi mà, người vợ trẻ, sau khi hùng hổ xô ngã kệ sách, lại quay về làm hòa với người chồng với những lời phân bua giải thích khá rộn ràng. Chưa bao giờ nàng đẹp và có vẻ hạnh phúc như thế. Sau một thời gian giận dỗi, các em trai nàng giờ đây kéo nhau đến nhà nàng trong những giờ rảnh rỗi. Đầy vẻ tò mò, chúng đến ngắm bà chị Cả trong địa vị một người phụ nữ mới có chồng và đùa giỡn với thằng cháu nhỏ mà như người ta nói, một số phận lớn lao đang chờ đợi, nhưng bây giờ nó vẫn cứ giơ cho chúng đôi tay nhỏ bé một cách đơn sơ vui tươi. * * * Bà hoàng, xét vì đứa cháu ngoại của mình sinh ra trong hoàn cảnh đặc biệt, đã vội vàng đến thầy bói để lấy số tử vi cho nó. Ông thầy bói già ít nói, xưa nay vẫn không hề biểu lộ một sự quan tâm nào đến sự giàu sang cũng như địa vị của những người đi xem bói. Sau một hồi tính toán lâu la, ông đã đưa những kết luận của mình, với một vẻ say sưa đáng ngạc nhiên, một con người mà sự tiếp cận thường xuyên với thế giới của những vì sao đã làm cho trở nên kiệm lời. Đó là lần đầu tiên suốt cả một đời làm nghề chiêm tinh cho tới khi da mồi, tóc bạc, ông mới quan sát được một sự giao hội giữa các tinh tú như vậy. Đến nỗi nhiều lần ông phải thú nhận với bà hoàng rằng ông không còn tin nổi vào đầu óc già nua của mình. Vả lại, sau khi đã kiểm chứng bằng phương pháp chính xác nhất gọi là phương pháp "tử vi" căn cứ trên những nguyên lý âm dương, thiên căn và địa căn cũng như những tính toán về các tương ứng giữa "thân" và "mệnh" dựa trên năm, tháng và giờ sinh thì không thể có sai lầm: đứa nhỏ sẽ trở thành một người có phẩm chất rất cao quý. Không chỉ vì có ngôi sao "Văn tinh" làm chủ các hoạt động về văn chương giao hội với cung miếu vượng chứng tỏ đương số sẽ là một nhà nho nổi tiếng, còn có các sao Tử, Phủ, Nhật, Nguyệt hợp chiếu vào cung mệnh có nghĩa là đương số sẽ đóng một vai trò quan trọng vào bậc nhất trong lịch sử đất nước. Thêm vào đó sao chỉ chiến công "võ tinh" nằm trong cung rất thích hợp và không gặp chướng ngại, cho biết đây là một chiến sĩ đầy lòng dũng cảm và sức mạnh. Bà hoàng vốn là con dâu của một gia đình mà ít nhất có sáu đời con cháu lừng danh, trong đó có vị phu quân rất khả kính của bà, bà run lên vì sung sướng, suýt reo mừng thì bỗng thấy ông lão thầy bói xoa tay trên lá số tử vi như muốn xóa bỏ một hình ảnh, rồi ông nói thêm: - Tôi cũng thấy có sự xung khắc khốc hại nữa "nhị không và tứ họa". Sẽ rất nhiều xương rơi máu đổ. - Không có cách nào để tránh được điều đó sao? - Tất cả những gì phải xảy đến đã được ghi ra ở đây rồi - Ông thầy bói đáp lại và không thêm lời nào nữa. Dưới những phong thái hiền dịu bên ngoài, bà hoàng che giấu một bản tính đầy nghị lực. Cho dù những lời tiên đoán sau cùng ấy có làm cho bà lạnh thấu xương, bà vẫn giữ kín không hề tiết lộ một lời với bất cứ ai. Vì thế mọi người đều vui mừng, không có một ẩn ý nào về việc đứa nhỏ đã được Trời định cho một số phận rất cao. Có lẽ từ ngày đó, Hoàng thân mới có quyết định sẽ tự mình đảm trách việc giáo dục đứa cháu ngoại. Khi thời điểm sẽ đến, nghĩa là khi Trãi đã lên năm tuổi và lúc đó phần ông, ông sẽ rời bỏ chức vụ trong triều đình. - Người quân tử hành động ngay khi thấy được những dấu hiệu đầu tiên, chứ không chờ đến lúc ngày đã hết. Rõ ràng là giờ đây, đối với Hoàng thân Trần Nguyên Đán, không gì có thể cứu vãn được triều đại nhà Trần. Lê Quý Ly đã chiếm vị trí hàng đầu trên chính trường, hàng ngũ của những người thuộc về phe ông ta ngày càng bành trướng thêm và Quốc gia ngày càng yếu dần đi. Sở dĩ ông còn ở lại Triều đình, phục vụ tận tâm cũng như đầy đau buồn, chính là vì ông muốn trung thành với một quá khứ đã liên kết ông với các hoàng đế Nghệ Tông và Duệ Tông vào những giờ đen tối phải bôn tẩu cũng như những giờ sáng sủa trong thời phục hưng bình trị theo sau đó. Trước tình hình hiện nay của đất nước, tâm tư ông tràn đầy đắng cay chua xót. Vì thế, ông tìm được một niềm an ủi lớn lao trong những lúc sống trong gia đình, bên cạnh đứa nhỏ những buổi tối dài dặc mùa hè vừa uống trà vừa giải khát bằng dưa hấu. * * * Ba tuần lễ sau khi quân cấm vệ đi tăng cường cho đội quân của Đỗ Tử Bình ở phía Nam nước Đại Việt thì các sứ giả mệt nhoài từ dịch trạm này qua dịch trạm khác đưa tin quân xâm lăng đã bị chặn lại ở Ngũ Giang huyện Hoàng Hóa, tỉnh Thanh Hóa và bị đánh đuổi khỏi biên giới. Một lần nữa đất nước được thoát nạn, Lê Quý Ly đắc thắng. Ở kinh đô, người ta loan báo chiến thắng của Đỗ Tử Bình bằng tiếng trống đồng ở bốn cửa hoàng thành, và trong làng mạc bằng tiếng gõ lắc cắc của tên rao mõ. Tại Thăng Long, một bữa tiệc lớn đón mừng quân thắng trận trở về và trong khúc nhạc Vân thiều, các quan cầm tay nhau nhảy múa. Mọi người lại thở phào nhẹ nhõm. Sau thất bại ấy, Chế Bồng Nga cần phải mất một năm dài nữa trước khi cả gan dám tung quân mã Chiêm Thành tấn công nước Đại Việt. Những tàu cướp biển Chiêm Thành vẫn tiếp tục đốt phá các cửa khẩu miền Nam, bắt đi các nô lệ và mang theo chiến lợi phẩm như chúng thường làm từ mười lăm thế kỷ nay. Đó là điều tai họa, nhưng dù sao cũng còn nhẹ. Hết hạn làm quân đồn trú, binh lính thay phiên nhau trở về cày cấy. Các loại lương thực chôn giấu trong thời chiến lại lưu thông trên thị trường và các ông quan to lại đào bới những kho tàng đã chôn giấu lên, chờ đến lần báo động sau sẽ đem chôn lại. Dân chúng mệt nhoài và như một phép lạ vào những lúc gian nguy của lịch sử, họ luôn luôn tìm ra được sức mạnh để kháng cự và chiến thắng, giờ đây lại thư giãn buông lơi. Bởi vì từ thời thượng cổ, đời sống của người Kinh lúc nào cũng chỉ là những cuộc chiến đấu thường xuyên chống lại bão lụt, xâm lăng và chiếm đóng. Mọi người vui hưởng cuộc sống thanh bình ngoại lệ đó, và thưởng thức đến cùng một nền hòa bình mong manh, ngắn ngủi. Các nhà thơ ca ngợi nền hòa bình ấy với nhiều bài ca chiến thắng thời đại thắng quân Mông Cổ xa xưa. Bến Chương Dương cướp giáo Cửa Hàm Tử bắt hồ Thái bình cùng cố gắng Muôn thuở nước non nhà!23 Hay như những câu thơ của Sử Hy Nhan: Thiên hạ nhất thống: Thái bình thịnh trị Dù có kiếm này, dùng đến làm chi?24 Trong những lục tìm lại sự bình thản sau cơn hoảng loạn, người dân tạm quên đi sự khốn cùng và phản kháng của mình. Nhưng cuộc chiến thắng quân Chiêm lẽ ra phải củng cố uy tín của nhà vua đang trị vì, Trần Phế Đế, lại đem đến một hậu quả khác hẳn là củng cố quyền lực của Lê Quý Ly, người được xem như đã lập nên công trạng ấy, vì từ nay triều đại nhà Trần bước vào giai đoạn suy vi không còn giữ được lòng dân. Ai mà không biết ý định của người đứng đầu Cơ mật viện là muốn chấm dứt cuộc chiến tranh hàng năm với Chiêm Thành làm kiệt quệ ngân quỹ. Đối với Lê Quý Ly, giữ cho miền Nam khỏi bị vương quốc Chiêm Thành quấy rối, là để có thể tập trung tất cả sự cảnh giác đối với Thiên triều Nhà Minh ở phương Bắc mà sự phục hưng kỳ diệu chắc chắn làm ông lo ngại. Về vấn đề này, các báo cáo từ các sứ bộ gửi về đều đặn từ đầu thời kỳ Hồng Vũ và những lời tường thuật của các du khách đến từ Quảng Đông bằng đường biển hoặc từ Quảng Tây và Vân Nam theo sông Hồng đều ăn khớp nhau... Phục hồi từ sau cuộc phá vỡ tan hoang do người Mông Cổ, đế quốc Trung Hoa đã băng bó các vết thương, tập họp quần chúng ngày càng lớn mạnh và hưng thịnh với một nhịp độ đáng ngạc nhiên. Người ta thấy ở khắp nơi vô số dự án đang được thực hiện và những công trình hoàn tất trong hai thập kỷ vượt quá sự tưởng tượng. Họ biến những vùng đất mênh mông bỏ hoang thành đất trồng trọt, đào hàng ngàn kênh rạch, toàn bộ các tỉnh lại đông đúc dân cư, trồng lên vô số cây cối. Những cây sơn, cây cọ, cây tràm sau này dùng để đóng tàu cho những cuộc viễn chinh trên mặt biển ở thời Vĩnh Lạc. Khi đối nội, nền thịnh trị được thiết lập bằng những nỗ lực tập thể khổng lồ thì ở bên ngoài, sự hùng cường của Đế quốc phương Bắc đã được khẳng định với ý muốn bành trướng về chính sách ngoại giao, do đó những phái đoàn ngoại giao từ Nhật Bản, Triều Tiên, Chiêm Thành cũng như từ Đại Việt, Chân Lạp, Xiêm La và những nước của bán đảo Mã Lai đã đến Nam Kinh triều cống. Tóm lại, nước Trung Hoa vĩ đại và trường tồn đã thức dậy và điều này đã ám ảnh Lê Quý Ly. Ông suy nghĩ về điều ấy suốt những đêm không ngủ đi bách bộ trong dinh thự tĩnh mịch của ông. Vì con người này - chính Hoàng thân Trần Nguyên Đán trong thâm tâm mình cũng phải thừa nhận - cũng là một người yêu nước sáng suốt dù có tỏ ra là một người nhiều tham vọng. Vả chăng, đúng là tham vọng và lòng yêu nước gặp nhau khi Lê Quý Ly cảm thấy như bị con người của hoàng đế Minh Hồng Vũ25thôi miên. Nếu trên con đường chiếm đoạt quyền lực, Lê Quý Ly thán phục người con trai của một tá điền ở đất An Huy cũng là người cháu trai của một thợ đãi vàng ở đất Giang Tô, người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và leo lên địa vị của một ông vua chuyên chính sáng lập ra một triều đại, thì với tấm lòng yêu nước, ông phải e ngại một nước Trung Hoa tập trung hùng mạnh và quân đội nằm trong tay một anh nông dân bướng bỉnh mà ý muốn chinh phục phải thực hiện trước tiên ở Đại Việt. Từ bao giờ luôn luôn vẫn là như thế. Hồi tưởng lại mười thế kỷ lệ thuộc Trung Hoa với biết bao cuộc nổi dậy làm lung lay ách thống trị, với biết bao anh hùng dân tộc đã đứng lên chống lại sự đô hộ để giành độc lập, Lê Quý Ly nghe tiếng trống điểm canh vang lại và nghĩ đến những biện pháp đề phòng một biến cố như thể có thể xảy ra. Dù có xét đi xét lại vấn đề dưới góc độ nào đi nữa, thì lúc nào ông cũng đi đến kết luận chắc chắn rằng để chống lại người anh Cả phương Bắc tất phải dùng đến những vũ khí như xưa nay. Nghĩa là phải tạo nên sự đoàn kết của đất nước không phải xung quanh một ông già thiếu quyết đoán và một thanh niên thiếu kinh nghiệm, nhưng là xung quanh một người mạnh dạn, sẵn sàng thực hiện những cải cách cần thiết, một người như chính ông. Vả chăng, dù cả hai người, Trần Nguyên Đán và ông trong quá khứ đã cùng thuộc về xu hướng canh tân, nhưng cũng chính vì thế mà Trần Nguyên Đán, người bạn ngày xưa của ông vẫn giữ lòng trung trọn vẹn với nhà Trần và chống lại ông. Là người đứng đầu Cơ mật viện, ông cảm thấy tức giận ngấm ngầm về việc đó. May thay quan Tư Đồ lớn hơn ông mười sáu tuổi đã già đi, những sự lộn xộn trong gia đình ông ta chứng tỏ điều đó, những lời cảnh giác kính cẩn của ông ta bị đánh bạt đi trong những việc ngoắt ngoéo trong Cấm thành. Chẳng bao lâu, việc về hưu ở đất Côn Sơn thu hút hết tâm trí ông ta. Việc này Trần Nghệ Tông đã tán thành - ôi thật buồn cười - và làm thêm vinh dự, quả là mỉa mai thay, bằng một bản văn do chính ông ta thủ bút. Và tuy là mùa gặt chưa tới, nhưng sự việc đã ngấm ngầm, chín muồi, Lê Quý Ly tự nhủ, rồi ngả đầu lên chiếc gối đỏ. Ông ta chỉ còn ảnh hưởng trên tâm trí của mỗi một Thái Thượng Hoàng, nhưng trong cuộc cờ, đôi khi con tốt lại thắng được con xe. Những tham vọng của Lê Quý Ly dường như đã nguôi đi với giờ khắc trôi qua. Nhưng có thể tin vào điều ấy được chăng? * * * Ba mùa đã trôi qua cuốn đi không phân biệt ngày hè nóng lửa, gió bấc lạnh lùng, cũng như thu vàng hoa cúc. Mùa xuân, mùa thi cử, lễ cúng thành hoàng và cũng là mùa của các cuộc mai mối, đào mai rực rỡ đơm hoa. Mọi người cảm thấy khí dương xuân tỏa khắp. Ngày mùng tám tháng ba niên hiệu Xương Phù thứ năm (1381) theo lịch chính thức, được xem là ngày lành, cả gia đình của Hoàng thân Trần Nguyên Đán chuẩn bị sẵn sàng họp mặt. Đó là ngày sinh nhật đầu tiên của cậu bé Trãi. Vào dịp này, theo truyền thống của các đại gia đình, người ta mở tiệc "thí nhi" đưa đứa bé ra thử trước họ hàng. Mọi người đều tự hỏi nó sẽ phản ứng ra sao. Mặc dù trời còn sớm - tiếng gà của khu ngoại thành vừa gáy sáng - trong nhà, Hoàng thân đã thay áo ngắn mặc trong phòng, mặc vào một chiếc áo gấm dài, ông chuẩn bị kỹ lưỡng cho buổi lễ chính thức. Người đầy tớ buồn ngủ đang loay hoay quấn lại cái búi tóc trên đầu ông. Anh ta phải tốn nhiều công mới làm được vì khi thì Hoàng thân uống nước trà, khi thì ông hút thuốc lào, khi thì ông ghi chú bằng nét viết thảo những tài liệu xung quanh ông, ông không ngừng động đậy và không ngừng hỏi: - Này Phan, xong chưa? Khi cái vòng cân26, đã được gắn chặt xung quanh mái tóc, Hoàng thân không cho Phan đội mũ quan lên cho ông và cho tên này rút lui. Mặc dù vẫn nghĩ rằng mình không tin lắm vào việc thử này và trước hết chỉ vui mừng vì cuộc lễ trong gia đình tiếp theo sau đó, nhưng chính ông cũng tự hỏi đứa nhỏ sẽ chọn món đồ vật nào. Ông tin chắc rằng mình sẽ không thất vọng và cùng lúc ông lại sợ mình phải thất vọng. Hơn cả sự trìu mến vui tươi mà đứa bé dành cho ông, mỗi lần ông đến thăm thì cái điều làm ông quyến luyến nó một cách đặc biệt là cái nhìn sâu xa khác thường của nó. Ông nóng lòng chờ đứa nhỏ lớn lên để nhờ vào việc giáo dục, thắt chặt hơn nữa mối liên hệ của "giọt máu chia đôi". Ông nghĩ đến một ngày còn xa khi đứa nhỏ, với một nét bút vụng về, kẻ ra những nét chữ đầu tiên, rồi đến một ngày xa hơn nữa, cậu bé sẽ làm bài thơ đầu tiên của nó. Như thế, điều mà Lê Quý Ly đã thô bạo gọi là sự già cả ở nơi ông, đối với Hoàng thân lại là sự học tập một nghệ thuật mới: nghệ thuật làm ông. Chắc là ông phải đặt vào nghệ thuật đó nhiều tài năng để cho hai mươi năm sau, cái ông Lê Quý Ly ấy trong hàng ngũ bá quan phải đặc biệt lưu ý đến người học trò của ông, đứa cháu ngoại của ông. Cùng lúc đó, ở phía bên kia tư thất, bà hoàng sai người mang đến tận giường bà cái tráp sơn son chứa những dụng cụ bé tí mà đứa nhỏ phải chọn thứ nào nó thích. Dáng điệu trầm ngâm, bà đưa ngón tay mềm mại lên vuốt ve chúng. Trong tai bà vang lên giọng nói có vẻ như thần chú của lão thầy bói. Bà đâm ra sốt ruột và tò mò khi nghĩ rằng cuộc thử này đối với đứa nhỏ là một sự kiểm nghiệm đầu tiên những lời tiên đoán. Đậy nắp tráp lại, bà ra lệnh đặt nó ở gần bàn thờ tổ tiên trong phòng tiếp tân. Mặc dù đồng hồ nước vừa mới điểm hết canh năm, bà đã lui lại sau bức bình phong và sửa soạn chuẩn bị việc kiểm soát xem những lệnh truyền của bà về bữa tiệc đã được thực hiện đến đâu. Trong dãy nhà gần đó, Thái đang chống khuỷu tay trên chiếc gối nhìn Phi Khanh ngủ yên bên cạnh nàng. Từ phòng bên cạnh, vang lại tiếng Thị Nghi sửa soạn tắm rửa cho đứa nhỏ và cho nó mặc đồ mới để mừng lễ. Gió xuân từng đợt đều đặn cuốn nhẹ những bức màn châu liêm và thổi tạt ánh đèn leo lét. Trời hừng sáng: đúng một năm trước đây đứa con trai của họ sinh ra trong khi Phi Khanh phi ngựa trốn khỏi kinh đô. Nàng như thấy lại khuôn mặt hoảng hốt của mẹ nàng và nàng thương xót đến đứt ruột. Nhờ lòng khoan hồng vô biên mà nàng và người yêu của nàng đã được sợi tơ hồng nối kết mãi mãi, "một chữ đồng khắc cốt ghi tâm". Trời đã chúc phúc cho cuộc hôn nhân của họ với một trong tam đa27 bởi vì nàng đang chờ đợi đứa con thứ hai. Nàng nghe tiếng bé Trãi bì bõm trong bồn tắm - nó có biết đâu chút nữa nó sẽ là nhân vật chính của buổi lễ - và Thị Nghi hát cho nó một bài dân ca vùng quê hương xứ Nghệ. Từ lúc đứa thị nữ biết cha mẹ mình an toàn, thì nỗi nhớ nhà của nó có phần vơi nhẹ. Thái ngắm nhìn Phi Khanh và thấy chàng có vẻ mệt mỏi. Trong ánh sáng bình minh, khuôn mặt của chồng nàng hằn những nếp nhăn sau những đêm thức dưới ánh đèn để chuẩn bị kỳ thi đình sắp đến gần. Nàng cẩn thận để chàng ngủ yên, ngồi dậy và đi ra ngoài hiên. Gió mát lay động những hàng cây đinh tán, bầu trời xanh biếc màu ngọc thạch và không khí ướp thơm mùi hoa súng "Đây là một dấu hiệu hiếm có và là một điềm lành", Thái tự nhủ và nàng bắt đầu sáng tác một bài thơ để mừng ngày này với ý định nhờ Phi Khanh hoàn tất với những câu cùng vần cùng điệu. *** Trong căn nhà tiếp tân rộng rãi với những bình cắm hoa đang khoe thắm, mọi người đều nín thở. Những đóa hoa dường như cũng đang chú ý. Trên sập gụ đặt giữa hai cột nhà, hai bên tả hữu người ông cậu thuộc hàng tổ phụ là ông hoàng và bà hoàng cùng những thành phần cao niên nhất trong họ hàng. Cả gia đình đứng xung quanh Thái và chồng nàng. Ở phía sau, cách một khoảng xa, đám gia nhân trong dinh cũng đang chờ đợi. Họ tò mò muốn biết rồi cháu ông hoàng của họ sẽ chọn cái gì. Từ ông cậu đang vuốt chòm râu bạc dưới cằm, vẻ mặt trầm tư cho đến bà hoàng với đôi mày xếch lên như hai dấu hỏi, rồi khuôn mặt thanh tao dịu hẳn đi vì cảm động của Hoàng thân, sang nét mặt nghiêm nghị mệt mỏi của Phi Khanh và nét mặt bồn chồn của Thái cho đến nụ cười hóm hỉnh của người gia nhân kỳ cựu nhất, tất cả đều quan sát đứa nhỏ. Họ đưa mắt nhìn từ bàn tay mũm mĩm của đứa bé đến những đồ dùng đặt trên chiếu trước mặt nó: một vài quả ấn chữ triện, cung tên, bút nghiên, cày bừa, tượng trưng cho bốn con đường sự nghiệp: Đứa bé sẽ là quan văn, tướng võ, nho sinh hay là điền lực. Cái nhìn nghiêm nghị của bé Trãi hướng về đám đông cử tọa rồi tập trung vào những đồ vật đặt trong tầm tay của nó. Đứa bé đưa tay về những đồ vật ấy, miệng bập bẹ líu lo. Một dòng nước miếng trong nhỏ xuống chiếc áo dài mới, nó chộp lấy cây cung và mũi tên. Cử tọa sắp sửa reo lên thì đứa nhỏ đưa cung tên lên cao quá đầu và ném đi thật xa trong một cử chỉ cương quyết. Người ông cậu, không rời mắt khỏi nó, lắc cái đầu đội mũ nhà nho với vẻ trịnh trọng. Có tiếng thì thào nói với những người ở hàng cuối nên không thể nhìn thấy: - Thằng bé đã vứt bỏ cung tên! Tất cả mọi ánh mắt đều hướng về ba món đồ còn lại. Vì bé Trãi nắm lấy những quả ấn nhà quan, mỗi người đều tự hỏi phải chăng đó là điều nó đã chọn. Nhưng vừa mới nắm gọn trong đôi bàn tay nhỏ bé, nó đã bỏ rơi xuống một cách hờ hững. Bởi lẽ một món đồ khác dường như thình lình lôi kéo sự chú ý của nó. Cử tọa im lặng như tờ. Ai nấy đều trướng mắt nghển cổ nhìn chăm chú, ở cuối phòng, những người đứng ở hàng chót nhón chân lên để thấy rõ cảnh tượng đang diễn ra. Thái và mẹ nàng thở ra một hơi dài, ông hoàng và Phi Khanh đều cảm thấy con tim đập mạnh. Bé Trãi một tay nắm lấy nghiên mực còn tay kia nắm lấy cán tre của ngọn bút lông giữa ngón cái và ngón trỏ, gọn gàng và thoải mái như đang chuẩn bị vẽ lên một vài nét chữ. Sau khi đưa mắt như đoái nhìn đến cái cày và cái bừa còn nằm trên chiếu, dường như nó chẳng còn quan tâm gì đến những đồ vật khác ngoài những đồ dùng mảnh dẻ nó đang cầm trong tay, khác nào như một con chim hay ống sáo. Với cử chỉ rất chính xác và khéo léo trong một tư thế rất đúng mực, khuôn mặt nhỏ bé trầm tư của nó làm cho mọi người ngỡ rằng trước mặt họ là một ông đồ cổ kính. Điều ấy chỉ thoáng hiện lên rồi vụt biến trong một nháy mắt, hay lâu hơn khó mà biết được, sau nụ cười trong trẻo như thủy tinh của đứa bé. Những phút giây kinh ngạc đã qua đi, gia đình và toàn thể cử tọa reo mừng. Ông hoàng và Phi Khanh xúc động nhìn bé Trãi. Thái ngây ngất vì hãnh diện, bồng thằng bé khỏi mặt đất và siết chặt nó vào lòng. Đám gia nhân vỗ tay. Đúng lúc đó nhã nhạc nổi lên nhưng quan Tư Đồ ra hiệu cho ngừng lại. Trong sự im lặng vừa được tái lập, ông hoàng quay về phía người ông cậu, kính cẩn mời ông này cho ý kiến. Mọi người đứng thành vòng tròn xung quanh ông. Vị tổ phụ gãi má, vuốt bộ râu dài, nhíu mắt, gãi tai và sau cùng đưa ngón tay lên tuyên bố: - Thằng bé sẽ tinh thông việc binh đao chẳng kém gì những nhà thao lược lớn nhất của chúng ta nhưng trên hết mọi sự nó sẽ yêu thích hòa bình và an lạc. Phồng đôi má nhăn nheo, ông phun một tia nước bọt trúng ngay vào ống nhổ. Cặp mắt ông nhánh đen như hột na dán chặt vào thằng bé nằm trong tay mẹ. - Chắc chắn nó sẽ làm quan và là một trong những ông quan lớn nhất nhưng nó sẽ luôn luôn coi thường những vinh dự mà chức vụ mang lại. Về cái nhìn của nó đối với những người nông dân. - Vị trưởng lão nói tiếp trong khi lấy tay vuốt láng cái áo dài lụa đen, khó mà giải thích - Dĩ nhiên, nó sẽ không phải là một nông dân, tuy nhiên nó sẽ quan tâm nhiều nhất đến họ và tôn trọng họ. Ông ngừng nói, khép đôi mí mắt trong lúc tất cả mọi người phập phồng xung quanh ông như những cây sậy bên bờ hồ - Dĩ nhiên là - ông nói tiếp - thằng nhỏ sẽ nổi tiếng như Đỗ Phủ, không phải chỉ vì nó đã chọn bút nghiên nhưng do cái cách mà nó cầm lấy bút nghiên, nó sẽ có tài năng xuất chúng. Từ thời thượng cổ, khi nói đến nhà nho, người ta quan tâm hàng đầu tới đức hạnh. Thằng bé này sẽ mặc lấy áo mão cân đai của nhà nho - ông nói, đưa ngón tay trỏ chỉ về phía Trãi - và tài đức sẽ chẳng thua gì Bá Di thuở trước. Trong lúc mọi người đều lắng nghe với vẻ trầm ngâm những lời ông nói, ông bèn nói thêm với một giọng đầy cảm hứng: - Yêu mến điều thiện. Yêu mến hòa bình. Đức nhân ái cao vời. Ông vừa dứt lời thì bà hoàng lên tiếng, giọng run run: - Kính thưa Cậu, với nhiều tài năng phi thường như thế lại thêm vào minh triết thì chính Trời cũng có khi đòi trả lại. Nếu chúng ta vui mừng vì điều đó, phải chăng chúng ta cũng nên phiền muộn vì điều đó? Không ai biết bà muốn ám chỉ đến lời tiên đoán bí ẩn nào, nhưng đó lại chính là những lời mà mọi người, và nhất là Thái, chờ đợi để xua đuổi những điềm tốt lành như thế. Mọi người đều biết rằng "chữ tài liền với chữ tai một vần" nên ai nấy đều cảm thấy nhẹ nhõm và biết ơn bà hoàng. Nghi thức quý báu đã xong, Hoàng thân ra dấu cho buổi tiệc bắt đầu. Đằng sau bức màn, âm nhạc lại vang lên trong khi các đầy tớ lần lượt đi vào, tay bưng mâm cỗ đầy thức ăn. Trong suốt bữa ăn, bé Trãi được ngồi vào chỗ danh dự giữa người ông cậu và Hoàng thân, ông ngoại của bé Trãi. Người ta không thấy các nhạc công và nhạc cụ của họ. Mỗi lần ly rượu đầy được nâng lên, âm nhạc lại vang lừng đáp lại lệnh truyền: "Cử nhạc!". TẬP III: ĐÔNG QUÂN (HOÀNG TỬ TẠI PHƯƠNG ĐÔNG) – Năm Ất Sửu (1385) Đâu đâu cũng chịu lệnh đông quân Nào chốn nào chang gió xuân? Huống lại vườn còn hoa trúc cũ, Trồi thức tốt lạ mười phân. NGUYỄN TRÃI (QUỐC ÂM THI TẬP) CHƯƠNG 1 Sau khi ghi lại việc triều đình gửi sang Trung Hoa hai mươi nhà sư mà Nhà Minh ở Nam Kinh đòi hỏi, nhà biên sử của triều đình tại Thăng Long đã hạ bút viết những dòng sau đây: "Tháng bảy năm Ất Sửu triều đại Trần Phế Đế (1385), quan Tư Đồ Trần Nguyên Đán, cháu tằng tôn của Trần Quang Khải, con thứ ba của Hoàng đế Trần Thái Tông, đã rút hẳn về ở núi Côn Sơn, tỉnh Hải Dương". Khi mặt trời vừa mới mọc, chiếc thuyền lớn nhà quan khởi hành từ bến đò cửa Suối, giờ đây đang ngược dòng sông Hồng, đi về hướng kênh Dương. Mặt trời đã lên cao hứa hẹn một ngày oi bức. Người ta đang ở vào mùa nước lớn tháng bảy năm Ất Sửu (1385). Kinh đô, chùa chiền, tháp cao và các thị trấn run rẩy dưới một lớp sương mù màu hồng, mỏng như cánh chuồn. Chiếc thuyền của Hoàng thân sau khi xoay xở hồi lâu giữa những chiến thuyền và thuyền buôn, và đám thuyền tam bản lúc nhúc như cả một hạm đội ở Đông Bộ Đầu, giờ đây đang tiến lên theo nhịp điệu của mười một tay chèo. Khi thấy con tàu của Hoàng thân lướt qua như một con chim lớn với những con rồng chạm trổ óng ánh, với bộ cáng đặt trên nóc buồng lái, những người chèo thuyền tam bản, những ngư phủ và các binh sĩ đứng gác trên các tàu chiến nói với nhau đấy là một vị Hoàng thân nào đó đang du hành cùng các phu nhân núp sau các bức rèm buông rủ. Những người ở làng Cổ Xá trồng dâu bên bờ phía Bắc sông và những người trồng cây ăn quả ở bờ phía Nam đưa mắt nhìn theo con thuyền sang trọng, lấy tay lau mồ hôi trán và tự nghĩ: Con vua thì lại làm vua Con sãi nhà chùa lại quét lá đa. Làm sao mà người ta có thể tưởng tượng được rằng nhân vật du hành ấy, đang trở về quê hương bản quán để làm một kẻ mang dép rơm, đội nón lá? Thỉnh thoảng, một cậu bé xinh đẹp chừng năm sáu tuổi xuất hiện trên boong thuyền theo sau là một đứa tớ gái. Cậu bé nhìn nước sủi bọt dưới mũi thuyền hoặc vui thích với phong cảnh của tàu bè và các làng chài nổi. Con sông Hồng chảy lờ đờ với lớp bùn xói lở từ hai bên bờ, với lớp phù sa nhuộm thắm khác nào như mặt trời đỏ ửng buổi hoàng hôn đã chết chìm trong đó. Con sông ấy chảy, mở rộng và lan tràn, cuốn dòng nước mang phù sa màu mỡ đến tận chân đê, khi thì tỏ ra ngoan ngoãn, khi thì sẵn sàng tràn lấn lên bờ. Và cùng với dòng sông, giống như dòng sông không đầu, không đuôi, Thủy thần khi ẩn khi hiện, vươn mình kéo dài ra như vô tận. Cậu bé đang rình gặp Thủy thần khi nó nghiêng mình cúi nhìn mặt nước. Đôi khi dòng nước xáo động đột ngột trồi lên, ở vùng nước xoáy, giữa những ánh sáng lấp lánh, ấy là lúc Thủy thần lướt nhanh qua với cái đuôi rồng uốn lượn, rồi tất cả lại biến mất khi thần vừa nằm nghỉ, vừa thở giữa hai dòng nước, lơ lửng trong đám bụi vàng và giữa lớp bùn màu đỏ máu. Cậu bé tưởng chừng nhận ra những cái vảy rồng bên dưới mặt nước không ngừng xao động theo nhịp đều đặn của mái chèo, còn đẹp hơn rất nhiều những vảy của các con rồng chạm trổ trên mũi thuyền. Như trong những câu chuyện được mẹ kể lại, một ông già gầy gò sống ở vùng đầm lầy lúc nào cũng có thể hiện ra trước mặt nó và nói: "Ta là Bạch Long bộ hạ của Long Vương". Nó kính cẩn chào ông ta: "Cháu muốn theo ông đến Long cung nhưng cháu không biết một người có xương như cháu có đi theo ông được không?" - "Không khó khăn gì", Bạch Long trả lời. Lúc đó, chính mắt nó thấy ông già dùng đầu gậy vạch nước ra đưa nó vào một thế giới rực rỡ, chỗ ở của Long Vương. Vị này đeo thắt lưng, ngọc trai và quần áo đỏ nhuộm bằng máu của hầu tinh. Nó sẽ nói gì với Long Vương? Trong các chuyện cổ tích cũng thế, các ông vua là những nhân vật đầy quyền lực và rất bận rộn, mỗi khi tức giận xét xử rất nghiêm khắc. Một vị pháp quan mặc lễ phục màu xanh lá cây không phải lúc nào cũng có mặt để dám thưa với các ông vua ấy rằng: "Ra lệnh trừng phạt khi bệ hạ đang tức giận chắc chắn không tốt đâu. Cần phải xét lại án quyết nghiêm khắc và điều nghiên vụ việc với tất cả sự thận trọng". Cậu bé với hai chùm tóc để chỏm phất phơ trong gió, hoàn toàn không để ý đến sự có mặt của đứa tớ gái được giao cho việc phục dịch cậu. Cậu cứ xây đắp những cuộc phiêu lưu chung với các con giao long, cậu thường lơ đãng trong mơ mộng theo cánh én bay, hay hình ảnh một ngư phủ trên bờ sông lau lách, một mục đồng dắt trâu về trên bờ đê. Khám phá ra được điều gì, nó ước ao được chia sẻ với ông ngoại nhưng ông đã mệt mỏi, phải nghỉ ngơi. Đến cửa sông của kênh Dương, các tay chèo chậm lại, chiếc thuyền lớn cập vào bến đò, gần đó có một quán nước. Tấm phên che nấp bóng dưới một cây đa biến nơi đây thành một chốn buông neo mát mẻ, nhiều khách hàng ngồi trên ghế đẩu đang phe phẩy những cái quạt lá cọ. - Trãi! - Một tiếng gọi bên trong buồng lái vọng ra. Đứa tớ gái muốn nắm tay cậu bé. Nó rút tay lại một cách nghiêm chỉnh và bắt đầu chạy đi. Đứng trước cửa buồng lái, nó nghiêng mình. - Vào đi cháu của ông - Hoàng thân Trần Nguyên Đán nói, ông đang đứng giữa chiếc chiếu được trải sẵn để ông nằm nghỉ thoải mái. - Chúng ta dừng lại nơi đây, các tay chèo cần nghỉ ngơi. Nào, chúng ta xuống bờ một chốc. Đằng sau tấm phên mắt cáo trong khoang bên cạnh, người ta nghe tiếng các phụ nữ trò chuyện dịu dàng: - Nào, cháu nói gì về cuộc du hành này? Cháu đã thấy những gì? Hoàng thân vịn vào vai của cậu bé Trãi. Cậu đứng rất thẳng và thấy mình trở nên quan trọng, đôi mắt cậu ngước nhìn ông ngoại với vẻ tôn kính. Cậu có quá nhiều câu hỏi nên rốt cuộc cậu lặng thinh. Hai ông cháu ra ngoài boong tàu dưới ánh nắng gắt. Đúng lúc ấy cả hai ông cháu được che dưới bóng chiếc dù vừa trương ra. - Ông ngoại - vừa lên tới bờ Trãi nói - khi con ném một hòn sỏi xuống sông, nó rơi xuống đáy nước. Chiếc thuyền của chúng ta còn nặng gấp ngàn lần so với hòn sỏi, tại sao nó lại không chìm xuống? Ông hoàng mỉm cười. Và nụ cười ấy đầy vẻ hiền từ như thể muốn gửi đến những người đang ngồi dưới mái che của quán nước mà ông đang bước tới, một tay đặt lên vai cậu bé, các khách hàng tránh ra một bên. - Chúng tôi muốn nghỉ một lát - ông nói với ông chủ quán, tay bưng ấm lớn đang lần lượt rót cho khách hàng. - Cho xin vài cái bánh cho cháu bé. Nhưng cậu Trãi không nghĩ đến bánh. - Cháu xin ông ngoại trả lời cho cháu. Tại sao chiếc tàu của chúng ta không chìm? Hoàng thân nhìn thật lâu con kênh lấp lánh dưới ánh mặt trời giờ Ngọ. - Bởi vì - sau cùng ông nói - Thủy thần thích nâng nó lên. Nó với Thủy thần hòa hợp nhau. Nếu chiếc thuyền không hài hòa với Thủy thần thì có thể thần sẽ làm cho nó lật nhào và chìm nghỉm! Đôi mắt cậu bé sa sầm lại, mọi vẻ rạng rỡ như tan biến đi nơi cậu bé mỗi lần cậu suy nghĩ sâu xa. - Hài hòa? - Cậu bé ngỡ ngàng lặp lại. - Ông muốn nói rằng - Hoàng thân nói sau khi đã uống một ngụm nước trà - tất cả mọi vật trong vũ trụ đều do sự cân bằng điều khiển. Sau này cháu sẽ biết rằng tất cả đều tuân theo những quy luật. Như khi cháu đi, đôi chân cháu mang cháu nhưng mặt đất lại mang đôi chân. Một hòn đá, một cái hố đủ để làm cháu mất thăng bằng và ngã xuống. Cũng thế, giữa sông và thuyền có một sự cân bằng, hay một sự hài hòa. Trái với hòn sỏi, chiếc thuyền dù nặng đến bao nhiêu nhưng mặt rộng tiếp xúc với mặt sông nên trở thành ra nhỏ. Như thế, mọi vật đều vận hành như thế cả - Hoàng thân nói thêm - Sức mạnh của thuyền do sông mà ra, sức mạnh của vua do dân mà có. Câu nói cuối cùng này của Hoàng thân, cậu bé Trãi sẽ không bao giờ quên được dù hiện tại cậu chưa biết bắt nắm được ý nghĩa của nó. Ý tưởng ấy gieo vào đầu cậu lúc ấy, sẽ chín muồi, sẽ lớn lên khi cậu tiếp xúc với nông dân ở Côn Sơn cũng như khi cậu tiếp xúc với nhân dân làng Nhị Khê sau này nơi cha cậu dạy học. Nhiều năm sau này khi đương đầu với sự tàn bạo, lá cờ khởi nghĩa được dựng lên trên đất Lam Sơn, suốt những đêm dài, khi lo cái lo của dân - dân nâng đỡ thuyền và có thể làm thuyền nghiêng đổ - Nguyễn Trãi co người trong chiếc chăn lạnh, suy nghĩ đến cái ý tưởng đã hướng dẫn đời ông và các hoạt động chính trị của ông, và cả sau đó nữa, trong lúc vinh cũng như trong lúc nhục cho tới giây phút cuối cùng của đời mình mà số phận đã an bài trong mảnh vườn nọ… Vào thời kỳ này, cuộc sống của cậu Trãi còn ở tuổi thanh xuân với Chúa xuân "Đông quân". Những ý tưởng ấy chỉ nằm ở hậu cảnh của cuộc đời. Và cuộc đời trong lúc này là cái mái che bằng lá cọ, mát mẻ mà hai ông cháu đang ngồi đối diện với con kênh bốc hơi dưới ánh mặt trời, là những người nông dân đang nhìn họ, và ông cụ già rất trang nghiêm đang đem bánh nếp từ quán ra cho họ, là cuộc du hành về Côn Sơn bằng thuyền rồi bằng ngựa làm cậu bé thích thú, nhất là lúc vào đến xứ Hồng với những con sông nhỏ nơi có nhiều giao long ẩn náu. Người ta nói không năm nào mà đất ấy không xảy ra những việc lạ lùng. - Nào, ta đi cháu nhé. Gần nơi thuyền đậu, những người chèo thuyền và người cầm lái sau khi tắm mát đang ngồi đợi, khăn quấn xung quanh mái tóc còn ướt. Từ trong các nhà tranh nằm ven sông, lũ trẻ con nách bồng đứa em út, một vài bà cụ, miệng nhai trầu, tất cả quây xung quanh họ. - Ngày mai - Hoàng thân nói - cháu sẽ làm quen với những cây thông ở Côn Sơn. Ông nắm lấy tay Trãi, đi về phía mũi thuyền, một người đầy tớ theo sau họ cầm dù. Dù lòng lưu luyến quê hương mãnh liệt, ngài Trần Nguyên Đán phải có nhiều can đảm mới giữ được lời ông tự hứa với mình là sẽ ra đi khi nào ông không còn hy vọng triều đình lắng nghe ông. Tuy nhiên, ít lâu sau lời thỉnh cầu táo bạo của quan tri huyện trẻ tuổi Từ Thức, ông thấy Đức Vua trị vì có vẻ hồi tỉnh lại. Trong một khoảng thời gian, Đức vua thường cho gọi ông đến, lắng nghe những lời ông khuyến cáo đến mức làm cho ông nghĩ rằng mình vẫn còn hữu dụng. Trong một cuộc họp, Đức vua cũng đã hạ cố tuyên dương một cách công khai những bề tôi trung trải qua năm triều đại. Đó là quận công Uy Túc đời vua cha ngài, Hoàng thân Văn Túc, đời vua ông của ngài, đại Hoàng thân Chiêu Minh, đời ông cố của ngài, còn đời ngài có Hoàng thân Trần Nguyên Đán, quan Tư Đồ Băng Hồ. Tiếc thay, Đức Vua trị vì một lần nữa buông mình theo sở thích ưa dùng những cuộc vận động lắt léo. Vả lại chính mụ hoàng hậu già nua đã duy trì nơi ngài sở thích ấy. Và ngài đòi hỏi nơi Lê Quý Ly những sự nhượng bộ thật đáng nực cười vì chúng chỉ nhắm vào cái quyền hành chỉ hình thức của ngài. Đã qua rồi cái thời kỳ cho phép Hoàng thân Trần Nguyên Đán gỡ rối cái mớ bòng bong ấy và lãnh đạo việc tái lập sự ổn định. Vì vậy ông phải chọn con đường rút lui. Những kẻ xấu miệng đã xì xầm về ông rằng ông chỉ tìm lại ân huệ của nhà vua với mục đích duy nhất là tìm cách xóa bỏ hình phạt mà con rể ông là Nguyễn Phi Khanh phải chịu, cho rằng ông cáo quan chẳng qua là vì bất mãn. Nhưng chính Phi Khanh không lấy đó làmquan trọng, chàng cam chịu tình cảnh không được nhà vua dùng đến, chàng mở một trường học ở làng Nhị Khê. Dù là tiến sĩ, chàng không hơn không kém một gã tú quèn. Hoàng thân ngồi ở mũi thuyền cùng với cậu bé. Chiếc cầu được rút lên, dây buộc thuyền được tháo ra, chiếc thuyền lớn của nhà quan từ từ rời bến ra giữa dòng kênh. Họ lại khởi hành. Ngày mai, Trần Nguyên Đán suy nghĩ, những rừng tre đất Côn Sơn xanh tươi sẽ ngút ngàn dàn trải trước mắt ông. Việc trở về quê đã dứt khoát. Những lời chào từ biệt hai vị vua cũng như Lê Quý Ly và các quan lớn, chén rượu cùng uống với bạn bè lúc chia tay ở bên cửa Suối từ nay thuộc hẳn về quá khứ. Những gì còn giữ lại của cuộc sống ở kinh đô được mang theo trong một vài cái rương bằng gỗ quý và các giỏ mây chất trên boong thuyền giữa những hành lý của gia đình, nghĩa là của những người nhà cùng chuyển theo ông về ở ẩn. Hai cô gái đầu lòng, một người lấy chồng làm quan tòa ngự sử, một người lấy chồng làm quan ở Bộ Lễ, các con trai ông ở tuổi đi học Trường Quốc Tử Giám còn ở lại Thăng Long, trong khi Thái và hai bé trai nhỏ, em của Trãi là Bảo và Lý thì đã theo Phi Khanh về làng Nhị Khê đã mấy tháng nay. Hoàng thân ngắm nhìn đứa cháu ngoại đứng bên cạnh ông đang nhìn đất nước Việt Nam lướt qua hai bên bờ sông, những cánh đồng lúa chín vàng, những ngôi làng nép mình sau những lũy tre xanh và những bụi chuối. Ông cảm thấy vô cùng biết ơn con gái ông đã chịu để cho ông dắt thằng nhỏ đi theo. - Ông ngoại ơi, chúng ta đang ở trong xứ Hồng phải không ạ? Có phải đây là xứ sở của các con giao long? Những đền thờ trên bờ đâu? Ở đây phải không ạ? - Trãi chỉ vào một ngôi mộ nằm cô quạnh giữa hai thửa ruộng. Hoàng thân lắc đầu mỉm cười: - Cháu phải kiên nhẫn chứ! Phải kiên nhẫn! Phải chờ có gió lớn và mưa đổ làm xáo động bầu không khí. Vậy cháu tưởng rằng các con giao long xuất hiện dễ dàng mỗi khi người ta hối hả muốn gặp chúng sao? Một bóng mây khả ái thoáng qua trong đôi mắt to của cậu bé. Mẹ nó mà thấy nó nhìn như thế, chắc hẳn đã phải ôm nó vào lòng. Hoàng thân hiểu ra rằng Thái phải trả giá đắt biết bao khi phải rời xa nó. Với lòng hiếu thảo, nàng đã hy sinh. Các đứa em sau của Trãi còn cần được săn sóc. Lý, đứa con thứ ba của nàng chưa cai sữa thì đứa con thứ tư đã báo hiệu. Lần mang thai này quá gần với lần mang thai trước làm cho nàng phải kiệt sức. Từ lâu, sức khỏe của cô con gái "Kiều Mai" luôn luôn làm ông bận tâm, giờ đây nó làm cho ông lo ngại. Cho tới nay ông vẫn có thể chăm sóc nàng, gửi ngay một thầy thuốc riêng khi có dấu hiệu bất thường nhỏ nhất nếu không thể sai bà hoàng, vợ ông tới làng Nhị Khê để biết rõ con gái ông có gánh vác những công việc nặng nhọc hay bị mẹ chồng làm khổ không. Từ nay, việc gì sẽ đến với con gái ông? Hoàng thân thở dài, hai ông cháu ở trong bóng râm. Mặc dù có gió nhẹ, trời vẫn rất nóng ở trên mũi tàu. Ông hoàng cảm thấy hơi chóng mặt. Từ mấy tháng nay, ông bị chứng sung huyết ở mặt và lồng ngực, chứng ù tai và suy nhược. Cùng với cậu bé, ông thích lùi về khoang đằng trước. Dưới bóng đêm buông xuống, đèn lồng được đốt lên ở mũi tàu và đuôi thuyền. Trãi với đứa tớ gái theo giữ, được phép ra xem đèn. Một trong những chiếc đèn có ghi hàng chữ: "Nhà quan Tư Đồ". Khi đến gần sông Lục Đầu, thuyền bè xuôi ngược tấp nập, nhiều xuồng nhỏ chở thóc cho các địa chủ đi theo chiều ngược lại. Chúng lướt qua im lặng như những vật đen tưởng chừng như do ma quái lèo lái. Thỉnh thoảng dưới ánh đèn lồng, cậu bé nhận ra một ánh mắt sắc nhìn thẳng vào mặt cậu làm cho cậu sợ hãi lùi vào. Rồi thì những chiếc thuyền đi xa dần, nhạt nhòa trong bóng tối. Dưới ánh trăng, chiếc thuyền của Hoàng thân tiếp tục cuộc hành trình đơn độc, để lại sau lưng những làng mạc ngủ yên, những ngọn đèn leo lét của một vài con thuyền tam bản và tiếng chuông của một ngôi chùa xa. Trong ba khoang ở phòng lái trên boong, người ta mắc võng, trải chiếu bỏ gối xuống và sau một bữa ăn nhẹ, gia đình Hoàng thân đi nằm nghỉ qua đêm. Gần tới canh tư, Hoàng thân và người nhà đang ngủ yên, các lính gác theo tiếng mái chèo đều đặn đong đưa đang ngủ gà ngủ gật, thình lình một vùng sáng rực trời làm họ thức dậy. Tiếng hú hét xuyên thủng bóng đêm. Một ngôi làng bốc cháy. Trong cơn sửng sốt, các tay chèo chậm lại. Ông Hoàng thân và cậu bé trong khoang phía trước, các phụ nữ trong khoang giữa sợ hãi dựng tóc gáy quan sát cảnh tượng qua các bức mành. Xuyên qua đám cháy đỏ rực, những viên ngói nhọn như móc câu trên đường gờ các mái nhà, vươn cao lên như quắp vào màn trời trước khi sụp đổ, người ta xô nhau chạy theo mọi hướng. Những bóng đen vừa chạy vừa gào thét, cố thoát khỏi những bóng đen khác mang khí giới đang chạy theo đuổi bắt. Chính giữa đám lửa, một người đàn bà xuất hiện, hai tay giơ cao một đứa bé. Một nhát kiếm từ đằng sau xuyên qua người đàn bà. Trên thuyền, những khán giả bất lực thốt lên tiếng kêu than nghẹn ngào trước cảnh tượng đó. - Trời tru đất diệt cả dòng họ chúng! - Một anh lính gác thốt lên. Cậu bé Trãi giật lùi lại, đôi mắt còn mở to vì sợ hãi, miệng há hốc nhưng không nói được lời nào. Hoàng thân và cậu bé không nghe thấy giọng nói run rẩy của bà hoàng hỏi nhẹ nhàng qua tấm phên mắt cáo. - Tránh cho thằng bé trông thấy tất cả những cảnh đó được không? Trãi, cháu Trãi, cháu có trùm chăn lên không? Bọn cướp đang đốt phá một ngôi làng gần sông, người ta thấy rõ như ban ngày, và chiếc thuyền lớn nhà quan với những chiếc đèn lồng lớn đu đưa ở mũi và sau lái bị phát hiện từ xa. Trong lúc bọn lính gác nhận thấy sự nguy hiểm, lớn tiếng báo động thì những bóng đen đã chạy ùa xuống bờ sông về hướng các thuyền mành giấu trong lau sậy. Dưới sức mạnh của mười hai cánh tay chèo, con thuyền nặng chuyển mình như một cánh chim lớn hoảng sợ. Hoàng thân bước ra trước cửa buồng lái, nhìn thấy những chiếc thuyền mành đang tới gần. - Thưa ngài, đội trưởng đội lính gác nói với ông, bổn phận của tôi là bảo vệ cho gia đình ngài được an toàn. Tôi kính cẩn xin ngài lui vào và chốt kín cửa lại. Kế đó, đội trưởng kiểm tra xem cửa phòng lái đã được gài chốt kỹ chưa trước khi đương đầu với sự tấn công của bọn cướp Các tay chèo cố ra sức chèo nhanh đến độ cả con thuyền rung chuyển cũng vô ích, các thuyền mành nhanh nhẹn và nhẹ nhàng của bọn cướp có tốc độ nhanh hơn. Từ thuyền quan người ta thấy những lưỡi gươm của chúng lấp lánh dưới ánh trăng. Bám chặt vào mũi của chiếc thuyền mành dẫn đầu, với một nụ cười khan để lộ hàm răng như loài lang sói, một tên cướp đang sẵn sàng nhảy sang thuyền nhà quan khi khoảng cách đủ gần. Các lính gác cùng bọn tôi tớ của Hoàng thân, cả bác đầu bếp võ trang bằng tất cả những gì tìm thấy trên thuyền có thể gây thương tích, đâm thủng, chặt, chém, chờ đợi chống lại bọn cướp cho tới người cuối cùng. - Ông ngoại ơi - Trãi nói với một giọng trẻ con rung lên vì tức giận - cháu xin ông để cháu bảo vệ ông. Có giao long giúp cháu, cháu sẽ đánh bại tất cả bọn chúng! Trong ánh sáng bập bùng của đám cháy, bóng dáng Hoàng thân đang ngồi trong tư thế trầm tư gầy gò ảm đạm nổi rõ lên trong phòng lái. - Ông ngoại ơi - cậu bé nài nỉ - ông ra lệnh cho lính gác mở cửa đi! Trong khi đó tiếng đàn bà rên rỉ vang lên đằng sau tấm phên mắt cáo. - Cháu à, điều gì con người không thể làm nổi, Trời làm được. Nếu số mệnh muốn chúng ta đến được Côn Sơn an toàn thì ngọn gió thổi đưa giúp thuyền cũng sẽ thổi cho chúng ta! - Ông hoàng vừa nói xong thì có tiếng trống vang lên đáp lại lời ông: bốn hồi trống liên tiếp theo sau đó là tám tiếng đánh gấp, Hoàng thân và gia đình chưa kịp hiểu được ý nghĩa của những hồi trống ấy thì cánh cửa buồng lái đã được mở chốt. - Thưa ngài, mọi nguy hiểm đã qua rồi. Bọn cướp đã tháo chạy. Trãi chạy ào ra boong thuyền. Thật vậy, bọn cướp như tuân theo một hiệu lệnh kỳ lạ, bỏ ngang cuộc tấn công, tháo chạy chèo hết tốc độ về hướng ngược lại. Trên mặt sông tràn ngập ánh trăng, những cuộn vảy quẩy mình đuổi theo sau những chiếc thuyền đang rút lui của bọn cướp. - Xem kìa ông ngoại - Trãi siết thật mạnh bàn tay mà Hoàng thân vừa đặt lên vai cậu - đến lượt các con giao long đang truy kích chúng! - Cháu ạ, bây giờ ta hãy trở vào nghỉ ngơi trước khi trời sáng. Ngày mai đường còn dài. Ở hướng Tây, ngôi làng bị đốt cháy giống như một cây hoa mẫu đơn khổng lồ đỏ chói. Nhớ lại người đàn bà nâng đứa con trong tay, Trãi nghĩ đến mẹ cậu và rùng mình. Khi gà gáy lần đầu, họ tới chỗ trạm nghỉ theo sự giao hẹn trước, ở đó thuyền sẽ chở các lính gác quay trở về sau khi đã hộ tống Hoàng thân và người nhà lên đường bộ cho đến tận Côn Sơn. Không đánh thức Nguyễn Trãi, Hoàng thân bước ra boong thuyền. * * * Trời rạng sáng một cách êm ả như người ta tháo băng một vết thương. Trên bờ sông, đằng sau lũy tre xanh nhấp nhô như hàng răng cưa, lác đác một vài nóc nhà lá cọ. Đằng xa, những ngọn đồi bấp bênh sau làn sương mù quấn quyện với những cây thông xanh trên đỉnh. Phía sau dãy đồi, sau một ngày đường đi ngựa, vùng đất Côn Sơn trải rộng... Mùi thơm thoang thoảng của hoa đại chùa Thiên Phúc Tự lúc nào cũng hòa lẫn với mùi hăng nồng của lò đốt than trong rừng gần đấy, đủ cho nơi thiêng liêng ấy có thêm một cái tên khác là "Chùa khói". Hỡi ôi! Sau những gì xảy ra trận khắp cõi Đại Việt, từ cuộc phiến loạn cho tới những toán cướp đốt phá và tàn sát lương dân, ông sẽ nhìn thấy quê hương bản quán trong tình trạng đáng buồn ra sao? Lũ tôi tớ đi đi lại lại, bận rộn bốc vác rương hòm và hành lý lên bờ, sau đó những thứ này được chở đi đường bộ trên lưng lừa. Chợt thấy một hũ rượu cũ có đến chín năm, Hoàng thân ra lệnh mang ngay đến lữ quán gần đó và hâm nóng bằng những cành hương mộc, để đãi các anh lính gác và các chú chèo thuyền đêm qua đã tỏ ra can đảm, cả đến ông già Phan cũng đứng vững trên đôi chân khẳng khiu, tay cầm con dao bếp. Cái bộ mặt dữ tợn mà ông già Phan cố hết sức tạo ra trông ngồ ngộ. Hoàng thân vẫn còn buồn cười về cái bộ mặt đó khi bước vào gian giữa của buồng lái. Bà hoàng đang dâng hương trước bàn thờ Phật. Nhìn vẻ mặt tươi cười của ông, bà vui mừng vì Hoàng thân có vẻ khỏe hơn hôm qua. Cơn xúc động làm ông ấy trẻ lại, bà tự bảo, rồi nắm tay Trãi dắt đi. - Cháu đi chơi đi! - Hoàng thân nói - Ông phải viết một vài bức thư. Ông vỗ tay để người ta đem đến cho ông tứ bảo thư phòng. Một lát sau, ông cho người cáng vào lữ quán vì đường lầy lội. Lữ quán đã đầy những người ở quanh vùng. Câu chuyện xoay quanh cuộc tàn phá đêm qua. Giữa tiếng ồn ào rộn rã, người chủ quán chào ông ba cái, kính cẩn mời ông bước vào tệ xá. Một người dân làng với đôi bàn chân to và khuôn mặt rỗ lúc đó đang hỏi trống không rằng các đạo quân ở tỉnh làm gì khi bọn cướp đang làm việc giết người, bỗng ngừng nói. Mọi người thình lình câm như hến, nhìn ông hoàng mặc áo lụa quần the cùng với đoàn hộ tống đặc biệt bước vào. Những kẻ khôn ngoan giấu mặt đi sau những bát trà hay bát cháo và nếu không thì sau những chiếc nón lá. Hoàng thân ngồi trên một tấm chiếu sổ mép cách bức ngăn không xa một ông lão, ông này vội vàng đứng dậy. Sau khi Hoàng thân yêu cầu ông lão ngồi vào chỗ như người khách được mời, ông lão mặc áo dài nâu đội mũ đạo sĩ mới chịu ngồi xuống. Đúng lúc đó, ông già Phan đến báo cho Hoàng thân rượu đã được hâm nóng. - Hãy nói với chủ quán rằng tôi phải thưởng thức khoản nước trà chế nước mưa mà ông ta đã khoe với tôi rồi tôi mới đi. Nhưng bây giờ thì hỏi mượn ly chén và rót rượu ra, trước hết cho lính gác, các người chèo thuyền và gia nhân rồi sau hết cho mọi người có mặt ở đây cùng với đồ nhắm. Mọi người chắp hai tay lại, đón nhận món quà của Hoàng thân. Khi nhận chiếc cốc đầy tràn rượu, ông đạo sĩ già giảm đi phần nào cái vẻ thanh thản. Không đụng đến đồ nhắm, ông uống hết một hơi như một con trâu đang khát. Ông ta bèn hỏi: - Thưa Tướng Công, chẳng hay có phải ngài là đại quan Băng Hồ khả kính, người đã cho bài trí động Thanh Hư trong núi Côn Sơn và đêm qua đã bị băng cướp Ba Cụt tấn công? Hoàng thân nhướng đôi chân mày. - Vâng, đúng thế - ông nói - Cuộc tấn công ấy xảy ra cách nơi đây mười dặm, mới mấy giờ trước đây thôi, nhưng làm thế nào ông lại biết được chính xác danh tánh của tên cướp nhanh thế? Vị đạo sĩ nhổ nước miếng xuống dưới vách ngăn. - Chả là, mấy năm trước đây - đạo sĩ nói - Ba Cụt đã đưa nguyên cả một làng đi ăn cướp từ tỉnh Hà Tĩnh ra. Từ đó, không tháng nào mà bọn chúng không cướp bóc và tàn sát. Còn ai ngoài Ba Cụt và băng nhóm của hắn có thể phạm tội ác như thế? Một lần nữa, đạo sĩ lại khạc nhổ. - Chẳng lẽ sau những lời kêu ca, các quan thanh tra của triều đình không được cấp báo gì sao? - Hoàng thân hỏi, mặc dù ông thừa biết sự bất lực hoàn toàn của bọn quan chức ấy. - Thông thường, việc điều tra của họ dừng lại ở quan đầu tỉnh. Ông này đãi họ một bữa tiệc và gọi các ả ca nhi đến. Thế là xong! Rượu vào khiến anh ta trở nên bạo dạn, anh dân làng có đôi chân to xích lại gần. - Không tháng nào - anh ta nói - mà các xã trưởng không nhận được những lời ca thán của các làng bị tấn công. Họ chuyển các lời ca thán ấy lên cai tổng và cứ như thế cho đến viên quan đầu tỉnh. Các lời ca thán chắc là lạc mất dọc đường, vì Ba Cụt và đồng bọn vẫn cứ hoành hành! Với nét mặt đầy vẻ dè bỉu rõ ràng, anh ta quay về các bạn của mình cũng đang sắp sửa góp ý. - Các quan chức hàng tổng - một nông dân mắt lồi khoảng bốn mươi tuổi nói tiếp vào - hăng say trong việc thu thuế bắt phu hơn là việc tuyển mộ và võ trang cho tuần đinh để bảo vệ chúng tôi. - Mỗi làng phải tự tổ chức - chủ quán bưng nước trà chế bằng nước mưa vào cũng cất tiếng. - Chẳng nhẽ cứ thụ động như con heo để cho người ta chọc tiết? - Sách Xuân thu - ông già đạo sĩ nói - dùng một từ gớm ghiếc là "kẻ bất lương" để gọi những tên giết người và cướp của ấy, những kẻ không còn thuộc giống người nữa. Người dân chờ đợi Nhà Vua ra hình phạt thật nghiêm minh và cương quyết. Vậy mà ngày hôm nay, chúng ta thấy gì? Bọn cướp vẫn sống an toàn và giàu có. Hoàng thân buồn bã lắc đầu. Biết nói gì với đám dân nghèo này? Ông im lặng uống trà rồi bước đi trong khi một người đầy tớ trả tiền mọi chi phí. Đúng vào lúc đoàn người khởi hành, ông già đạo sĩ một lần cuối đến chào Hoàng thân. Dường như ông đạo sĩ lại trở về trạng thái dửng dưng với mọi sự vật chất phù du, tuy rằng rượu ngon của đất kinh kỳ không phải là không có góp phần tạo nên tâm trạng ấy. Mũ đạo sĩ lệch qua một bên, bước chân chếnh choáng, ông xoa tay, điệu bộ có phần nào vui tếu. Mặc dù phong cách của ông già đạo sĩ có chút gì hoang dã nhưng ông ta có một khuôn mặt độc đáo và có vẻ một con người có văn hóa. Hoàng thân tiếc là không có thì giờ để làm quen với ông đạo sĩ nhiều hơn. Ông hoàng hỏi tên vị đạo sĩ và cho đạo sĩ biết rằng Hoàng thân rất hân hạnh nếu đạo sĩ đến thăm viếng đất Côn Sơn. Đạo sĩ Vô Kỷ vái chào Hoàng thân, hứa sẽ đến. Sau đó Hoàng thân ra hiệu khởi hành. * * * Suốt buổi sáng, bầu trời đầy mây, những đám mây đen như khói chạy đuổi nhau, báo hiệu cơn giông sắp tới. Trên con đường ngoằn ngoèo, xuyên qua cánh đồng, giữa những đám ruộng nước tràn bờ tháng bảy, theo bước chân người và ngựa, đoàn lữ hành hướng về những ngọn đồi màu xám đen, sau những ngọn đồi đó là đất Côn Sơn. Vẻ mặt âu lo, Hoàng thân nhìn những cây tre soi bóng mờ trong hố đọng nước. Phải nói rằng, cuộc nói chuyện với đám nông dân ở lữ quán làm ông bận tâm suy nghĩ, và làm hỏng mất niềm vui mà ông mong chờ trong cuộc hành trình về quê nhà với cậu bé Trãi. Cậu bé ngồi trên mông ngựa của đội trưởng toán lính gác, lâu lâu lại quay mặt lo lắng về phía chiếc cáng của Hoàng thân và Hoàng thân đáp lại cậu với dấu hiệu âu yếm và lơ đãng. Quả thật là số phận khéo đùa, ông nghĩ. Ta đã treo ấn từ quan, thích tùng cúc chốn làng quê hơn cổng Đào môn, nhưng ta không thể dửng dưng với nỗi khốn khổ của quê hương. Thời thế này người ta không còn biết phải làm gì. Tất cả những điều ấy buồn thảm biết bao! Trong trường hợp Ba Cụt và bè đảng hắn, chỉ cần quan tuần vũ ra lệnh cho quan phủ tổ chức một cuộc truy lùng bọn chúng tới tận sào huyệt. Rõ ràng là bọn này được hưởng sự tiếp tay ngay trong hàng ngũ bọn quan cai trị tỉnh. Trong suốt một đoạn đường, Hoàng thân phác họa trong đầu bản báo cáo chi tiết mà ngay sau khi tới nơi, ông sẽ gửi cho bạn ông, ông Dương, tổng trấn kinh đô và nhờ đó ông tìm lại được chút thanh thản trong lòng. Khoảng giữa trưa, đoàn người dừng lại trong một cái quán nghèo, không xa một con sông. Bà chủ quán, một bà góa già, miệng móm, chưa từng tiếp đón những vị khách như thế nên không ngừng xin lỗi. Trong khi chờ cơm chín, Hoàng thân và gia đình ngồi lên chõng tre ọp ẹp của gian nhà ngoài và các lính gác ngồi chen chúc dưới mái hiên. Cơn giông sắp đến. Vì Trãi kể lại cho ông ngoại cậu tất cả những gì đã làm cậu ngạc nhiên suốt cuộc hành trình nên Hoàng thân giảng giải đôi chút cho cậu hiểu. Bên kia bức phên mắt cáo, trong gian nhà trong, có tiếng người khóc nức nở. Vừa bận rộn với việc tiếp xúc, bà chủ quán vừa thì thầm điều gì đó với người ấy, tiếng bà ta lên xuống từng hồi càng lúc càng nhanh. Thình lình, một tiếng than buột ra, tiếng khóc im bặt, sau đó là im lặng. Một tia chớp vạch ngoằn ngoèo trên bầu trời tiếp đó là tiếng sấm đầu tiên. Mưa bắt đầu rơi khi bà chủ quán đem chén bát ra cùng với nồi cơm bốc hơi. Đoàn người lại lên đường. Cơn giông vừa mới ngớt nhưng Hoàng thân muốn đến Côn Sơn trước khi trời tối. Họ sắp sửa vượt qua chiếc cầu tre thì đội trưởng lính canh là người mở đường dừng ngay ngựa lại chỉ xuống dòng sông ngập lũ. Một người đàn bà vừa mới gieo mình xuống nước. Đội trưởng hét vang ra lệnh cho thuộc hạ cứu ngay người đàn bà. Dòng nước cuốn người đàn bà, mái tóc rối tung nổi trên mặt nước kế đó biến mất trong vùng nước xoáy. Chỉ có một bàn tay còn trồi lên. Một anh lính gác tên Phụng nhanh nhẹn hơn đồng bọn đã nắm được bàn tay ấy và kéo người đàn bà tuyệt vọng lên bờ. Đó là một người đàn bà còn trẻ, chân tay và khuôn mặt với đôi mắt khép kín rám nắng bởi công việc đồng áng. Quần áo rách rưới nhiều chỗ cho thấy nước da trắng xanh ở trong và ở cặp vú nở nang với đầu vú săn lại vì dầm nước. Các lính gác đứng đó chỉ biết lúng túng đứng nhìn cô gái chưa biết tính sao thì bà hoàng và các bà vợ khác đã nhanh nhẹn đẩy họ ra. Một người xoa bóp, một người gọi vào lỗ tai, người thứ ba lấy trâm cạy miệng, người thứ tư thì chạy về phía bà chủ quán đang đi tới mang bột đậu tằm dại đã đốt cháy để bỏ vào mũi cho nạn nhân hắt hơi, còn người thứ năm thì ấn thật mạnh vào bao tử, người thiếu nữ liền nôn ra chút nước có lẫn cỏ rồi mở mắt. Nhìn thấy những bà ăn mặc sang trọng xúm xung quanh mình để săn sóc, người đàn bà trẻ cứ ngỡ đây là những vị nữ thần nơi thủy cung. - Thà sống trong cõi mây nước này - thiếu nữ thì thào - còn hơn sống ở cõi trần mà tôi vừa từ bỏ. Khi người ta đưa thiếu phụ ấy vào quán và làm cho hồi sức, mặc quần áo khô vào, Hoàng thân cho ngồi ở gian ngoài và hỏi nguyên do của hành động đó. - Kính thưa cụ lớn - nàng nói - tôi tên là Kiều Oanh ở làng Ngọc Kiệu. Chồng tôi đi lính chết ở phương Nam đã hai năm nay. Tôi cày thuê hai mẫu ruộng cho địa chủ nhưng hắn đã lấy hết lúa thóc của tôi. Mẹ tôi vừa mới chết và tôi không có một đồng mua quan tài. Như thế tôi sống nữa để làm gì? - Nói xong, thiếu phụ lăn ra đất gào khóc to đến nỗi khạc ra máu. Hoàng thân cảm thấy rất đau lòng. Ông gọi một bà thứ thiếp bắt thiếu phụ còn đang khóc nức nở uống một bát nước trà. - Cô còn trẻ - ông nói - không phải là lúc nghĩ đến cái chết. Đây là năm quan tiền28 để cô nhớ đến cuộc gặp gỡ hôm nay, không có gì quan trọng hơn là việc lo đám tang cho bà cụ. Cô hãy nói với láng giềng chắc chắn họ sẽ giúp đỡ cho. Đừng chậm trễ trong việc thu xếp công việc. Thôi, cô về nhanh đi. Kiều Oanh sụp lạy, nhận tiền, mủi lòng nước mắt giàn giụa trên đôi má. Bà chủ quán chạy theo cô trên đường về: - Nếu không có cái quán của tôi - bà nói với cô - hành động của cô chẳng được ích gì. Nghe những lời ấy, Kiều Oanh đưa cho mụ ba tiền29 - Tôi không thể đưa bà nhiều hơn. Tôi phải trả tiền quan tài, nhang, lễ vật cho nhà sư và chi phí cho bữa cỗ đám ma. Nhanh như trở bàn tay, mụ nhét ba tiền vào ruột tượng thắt lưng. - Cô đã hỏi quý danh của vị ân nhân đã giúp cô chưa? Đoàn người đã vượt qua cầu lúc người thiếu phụ đuổi theo kịp họ. - Tên ta? - Hoàng thân mỉm cười nói. - Ta là Trần Nguyên Đán người làng Côn Sơn. Sao lại để mất thời gian của cô một cách vô ích thế? - Từ nay, tôi sẽ ghi tâm khắc cốt món nợ nghĩa ân đối với ngài. Khi cô đứng dậy, người ta đã khiêng kiệu của Hoàng thân đi rồi. Đứng thẳng bên vệ đường, cô nắm chặt tiền, nhìn đoàn người theo nhau đi qua. Anh lính gác Phụng đi sau cùng, khi đi qua đã trao cho cô một nụ cười mỉm màu hạt huyền, hãnh diện khoe cô hàm răng đen nhánh mà mỗi năm anh đều nhuộm lại. Cái thói đỏm dáng của Phụng chỉ làm cho các bạn lính của anh chế giễu. Một người bạn anh lấy cùi chỏ đẩy anh: - Ôi chà! Con mẹ chết trôi sông xem được đấy, mày đã thấy vú con mẹ ấy phải không? Nếu y thị làm mồi cho cá thì uổng thật. Phụng vừa đi vừa ngoái lại. Từ xa, cô ta giống như một cây cỏ cao lớn phất phơ ở vệ đường. Nhớ đến cặp đùi mềm mại của cô đụng vào cặp đùi anh trong dòng nước xô đẩy, anh cảm thấy toàn thân rạo rực như một dòng nhựa bất ngờ trỗi dậy dồn lên cặp má nóng bừng của anh và làm anh như mờ luôn cả mắt. "Cô em, chờ anh nhé. Anh sẽ trở lại". Cơn giông đã làm cho bầu trời quang đãng, rửa sạch bùn lưng đàn trâu, đánh bóng mặt nước các ao hồ, đưa các đồi núi hoang sơ lại gần nhau hơn. Đoàn người đi giữa những cành lá chuối, lá cau còn đọng nước long lanh như ngọc, tiến lên trên con đường lầy lội. Mưa đã tạnh hẳn. Và thật lạ lùng, vào giờ Mùi30 này, ánh sáng làm cho bóng các nông dân trên bờ đê, những túp lều và giậu tre nhuộm một màu nâu nhạt dường như không phải đến từ bầu trời mà lóe sáng từ mặt đất xuyên qua vô số tấm gương phản chiếu của ao hồ bao quanh các thửa ruộng. Đoàn người đã biến mất sau khúc quanh, Kiều Oanh mới hoàn hồn. Cô vừa tự hỏi làm sao trên đời này lại có một ông quan sẵn sàng giúp đỡ người khác như cô vừa mới gặp, vừa chạy vội về làng báo tin mừng cho người cha già còn đang khóc nức nở bên cạnh xác mẹ cô. Suốt đường về, cô cứ sờ vào ruột lượng nơi để gia tài mới có của mình. Năm quan, vị chi ba ngàn đồng? Cả một cuộc đời lao nhọc, cô cũng chưa kiếm được ngần ấy! Cô như còn nghe tiếng nói chua chát của tên địa chủ: "Cảnh cáo cho mày nhớ! Nếu mày làm to chuyện, tao sẽ giao ruộng cho người khác và nếu cha con mày chết đói, thì không phải lỗi tại tao!". Giờ đây cô có đủ phương tiện để mua đất và cả một con trâu để kéo cày. Đầy tớ của lý trưởng sẽ không còn xông vào nhà cô, giơ cao roi mây sẵn sàng đánh đập cô. Tiếng trống thúc dân làng đi đóng thuế sẽ làm cô dửng dưng. Cô sẽ cử hành đám tang lớn cho mẹ cô và mua sẵn cho cha cô một chiếc quan tài đẹp bằng gỗ dổi và đặt nó ở vị trí trang trọng bên dưới bàn thờ tổ tiên, kê trên những hòn đá để tránh hơi ẩm ướt... Như để thêm xác tín rằng tất cả đều là sự thật, cô mải mê sờ vào ruột tượng căng phồng trước bụng như người mang bầu chín tháng. Trong khi cô đi xa về hướng Tây, trong lòng tin chắc số phận hẩm hiu của cô đã chìm theo dòng nước, thì Hoàng thân và đoàn tùy tùng đi xa dần về hướng Đông cũng nghĩ về cô mỗi người theo cách nghĩ riêng mình. Trãi đã nghe cô khóc sau bức phên mắt cáo, tự nhủ rằng cô đã để lỡ một dịp may được đích thân hầu tước Bạch Long cứu sống, Hoàng thân thán phục lòng hiếu thảo của cô, vừa đi vừa nghĩ đến cô ta, nghĩ đến một đóa hoa nhỏ đã được gieo trồng cho kiếp lai sinh, các bà thứ thiếp của Hoàng thân ít ra lần này thấy bằng lòng với số phận của mình nếu đem so sánh với số phận của cô ta, các bà vuốt ve tà áo dài bằng lụa thêu hoa của họ, tấm tắc khen: "Ôi tuyệt vời!", còn bà hoàng khi nghĩ đến nỗi tuyệt vọng và quần áo rách rưới của cô thì thở dài nói: "Tội nghiệp!", những người theo hộ tống đang lội bì bõm trong bùn cứ tiếc hùi hụi bộ ngực tuyệt vời của cô và trong đầu của anh chàng Phụng đã quay cuồng ý tưởng về cuộc gặp gỡ tiền định... Khi ngày bắt đầu tàn, con đường bắt đầu lên dốc và xuống dốc giữa những hàng thông. Họ đã đến vùng đồi. Giữa những cành cây, người ta thấy lấp lánh sao trời, một làn gió mát thơm mùi nhựa thông thoảng qua. Cảm động trước vẻ đẹp thanh tịnh của phong cảnh quê hương, Hoàng thân đã làm trong lúc đi đường một bài thơ tám chữ lấy đề tài "Trên cáng trở về Côn Sơn". Đêm đã xuống khi họ đến nơi nhưng bầu trời hãy còn trong sáng. Đàn dơi săn muỗi trong bầu trời. Hàng trăm con dế nép mình trong bóng tối hát ca. Họ băng qua làng nằm bên phải con đường nơi có tiếng chó sủa vang, đi lên một đoạn đường dốc rộng, rải cát hướng về ngôi nhà của Hoàng thân ở cạnh chùa. Khi họ vượt qua tấm biển đá chỉ khu vực của gia trang, họ nhìn thấy một người như một ông tiên da ngăm đen, râu bạc trắng, cao gần năm thước ta tiến về phía họ dưới những hàng cây, tay cầm đuốc. Hoàng thân lập tức truyền lệnh cho những người khiêng cáng dừng lại và xuống cáng đi bộ đến gặp người ấy. - Atangana? Ông vui mừng kêu lên, giọng khàn đi vì xúc động. Người lạ mặt giơ cao ngọn đuốc, cúi chào ba lần. - Hoàng thân - người lạ mặt hỏi, tay để lên ngực - lòng tôi thật vui mừng khi gặp lại ngài. Tôi vui sướng được là người đầu tiên đón chào ngài trở về quê hương của ngài. Cách đó vài bước, Trãi say sưa nhìn ông lão quấn quanh mình một chiếc áo trắng đã đem lại cho ông ngoại cậu niềm hân hoan trong giây phút gặp nhau. Ánh lửa soi lên phân nửa khuôn mặt hốc hác màu nâu đen. Trong cái nhìn đầy dịu dàng lóe lên một tia lửa kỳ lạ dường như muốn xâu xé nội tâm cậu. Bộ râu trắng tinh dài đến thắt lưng. Một tay ông cầm đuốc, còn tay kia cầm chiếc gậy phía trên chạm trổ một đầu rắn. Dáng người cao của ông lão nghiêng về phía Hoàng thân, một nụ cười để lộ hàm răng trắng của người nước ngoài. Người ta hẳn phải nói rằng đấy không phải là một người nhưng là một vị thần hiện đến. - Đây là Trãi, cháu ngoại tôi - Hoàng thân nói - Cháu đến sống với chúng tôi ở đây. Nhiều năm sẽ trôi qua, nhưng không bao giờ Trãi quên được giây phút đầu tiên mà ông lão Atangana đã thu hút cậu bằng cái nhìn của lão trong đêm nóng bỏng ấy. """