"
Văn Kiện Hội Nghị Lần Thứ Năm Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Khóa XIII
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Văn Kiện Hội Nghị Lần Thứ Năm Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Khóa XIII
Ebooks
Nhóm Zalo
Ch u trách nhi m xu t b n
GIÁM C - T NG BIÊN T P
PGS.TS. PH M MINH TU N
Ch u trách nhi m n i dung
PHÓ GIÁM C - PHÓ T NG BIÊN T P
ThS. NGUY N HOÀI ANH
Biên t p: ThS. Ph m Th Ng c Bích, ThS. Nguy n Th H i Bình
ThS. Võ Th Tú Oanh,
TS. V Th H ng,
ThS. Nguy n Th Thúy,
TS. Nguy n Th Trang,
ThS. V Quang Huy,
TS. Nguy n Di u Linh,
Nguy n Th H ng,
Nguy n Mai Anh,
ThS. Nguy n Thanh H ng,
ThS. Nguy n Vi t Hà
Trình bày bìa: ng H ng Mai Ch b n vi tính: Lâm Th Th ng c sách m u: Nguy n Thúy - Quang Huy
Bích Li u
_________________________________________
S ng ký k ho ch xu t b n: 2991-2022/CXBIPH/1-113/CTQG. S quy t nh xu t b n: 1619-Q /NXBCTQG, ngày 26/8/2022. N p l u chi u: tháng 8 n m 2022.
Mã ISBN: 978-604-57-8039-8.
VĂN KIỆN
HỘI NGHỊ LẦN THỨ NĂM
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG KHOÁ XIII
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VĂN KIỆN
HỘI NGHỊ LẦN THỨ NĂM
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG KHOÁ XIII
LƯU HÀNH NỘI BỘ
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT Hà Nội - 2022
4
PHÁT BIỂU
CỦA ĐỒNG CHÍ TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG KHAI MẠC HỘI NGHỊ LẦN THỨ NĂM
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG KHOÁ XIII
(Hà Nội, ngày 04 tháng 5 năm 2022)
Kính thưa Trung ương,
Thưa các đồng chí tham dự Hội nghị,
Thực hiện Chương trình làm việc toàn khoá, hôm nay Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII bắt đầu họp Hội nghị lần thứ năm để thảo luận, cho ý kiến và quyết định về các nội dung: (1) Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khoá XI về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới. (2) Tổng kết
5
15 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. (3) Tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khoá IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. (4) Đề án xây dựng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên. (5) Đề án thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. (6) Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư năm 2021; và một số vấn đề quan trọng khác.
Trước hết, tôi xin được thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư và với tình cảm cá nhân, nhiệt liệt chào mừng các đồng chí Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, các vị đại biểu khách mời đã về dự Hội nghị và xin gửi tới các đồng chí lời thăm hỏi chân tình và lời chúc tốt đẹp nhất.
Thưa các đồng chí,
Để chuẩn bị cho Hội nghị Trung ương lần này, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã sớm thành lập các ban chỉ đạo nghiên cứu, tổng kết, xây dựng các báo cáo, đề án về những nội dung nêu trên để báo cáo
6
Bộ Chính trị thảo luận, cho ý kiến và trình Trung ương xem xét, quyết định. Các ban chỉ đạo đã bám sát Cương lĩnh của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước và Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư cũng như tình hình thực tiễn của đất nước, khu vực và thế giới để tiến hành tổng kết, nghiên cứu, xây dựng các báo cáo, đề án, tờ trình, dự thảo các nghị quyết trình Trung ương. Bộ Chính trị, Ban Bí thư cũng đã nghiêm túc kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư năm 2021 gắn với thực hiện Kết luận của Hội nghị Trung ương 4 khoá XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị để xây dựng các báo cáo trình Hội nghị Trung ương lần này.
Theo Quy chế làm việc, Văn phòng Trung ương Đảng đã gửi các tài liệu để các đồng chí nghiên cứu trước. Sau đây, tôi xin phát biểu lưu ý thêm một số vấn đề liên quan đến nội dung của các báo cáo, đề án, có tính chất gợi mở, mong được các đồng chí quan tâm trong quá trình thảo luận, xem xét, quyết định.
7
1. Về tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khoá XI về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai
Chúng ta đều đã biết, đất đai là tài sản đặc biệt của quốc gia, là tư liệu sản xuất cơ bản, là tài nguyên vô cùng quý giá, là nguồn sống của nhân dân và nguồn lực to lớn của đất nước, thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Tôi đã nhiều lần nhắc lại câu: “Lao động là cha, đất đai là mẹ của của cải vật chất”1; nhiều người giàu lên nhờ đất, nhưng cũng có không ít người nghèo đi vì đất, thậm chí bị đi tù cũng vì đất, mất cả tình nghĩa cha con, anh em vì đất... Không phải ngẫu nhiên mà trong thời gian qua có tới hơn 70% số vụ tố cáo, khiếu nại thuộc về lĩnh vực đất đai. Vì vậy, việc tổng kết thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khoá XI về đất đai lần này là một yêu cầu cần thiết nhằm thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, tiếp tục
___________
1. Dẫn theo C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t.13, tr.32. Nguyên văn câu nói này của Uyliam Pétti trong C. Mác và Ph. Ăngghen Toàn tập là: “lao động là cha của của cải và đất là mẹ của nó”.
8
đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, kịp thời tháo gỡ những vướng mắc trong công tác quản lý và sử dụng đất đai, bảo đảm hài hoà các lợi ích của Nhà nước, người dân và nhà đầu tư, tạo nguồn lực và động lực mới để phấn đấu đến năm 2030 nước ta trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Đây là một lĩnh vực rất rộng lớn, cơ bản, hết sức phức tạp, nhạy cảm, đặc biệt quan trọng, hệ trọng đối với sự ổn định và phát triển bền vững đất nước, hiện vẫn còn không ít ý kiến khác nhau. Khi thảo luận, đánh giá tình hình và nguyên nhân, chúng ta cần nắm vững phương pháp duy vật biện chứng, các quan điểm và nguyên tắc cơ bản đã được xác định trong Cương lĩnh của Đảng và Hiến pháp của Nhà nước để phân tích một cách toàn diện, khách quan kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách, biện pháp nêu trong Nghị quyết Trung ương 6 khoá XI và pháp luật về đất đai; chỉ rõ nội dung của Nghị quyết đã được thể chế hoá như thế nào? Những điểm nào thể chế hoá đúng, điểm nào chưa đúng? Những quan điểm, yêu cầu quan trọng nào của Nghị quyết chưa được thể chế hoá hoặc chưa
9
được thực hiện một cách nghiêm túc? Tình hình thực hiện trong thực tế như thế nào? Những chủ trương, chính sách nào cần bổ sung, sửa đổi, điều chỉnh?...
Đồng thời với việc khẳng định những chuyển biến tích cực và những kết quả nổi bật đã đạt được trong gần 10 năm qua, cũng cần thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân. Tập trung làm rõ: Vì sao nguồn lực đất đai chưa được phát huy đầy đủ để trở thành nội lực quan trọng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội? Vì sao ở nhiều nơi, việc sử dụng đất còn lãng phí, hiệu quả thấp; tệ tham nhũng, tiêu cực liên quan đến đất đai chậm được đẩy lùi, thậm chí gia tăng? Vì sao số vụ khiếu nại, tố cáo thuộc về lĩnh vực đất đai vẫn còn nhiều và phức tạp? Vì sao thị trường bất động sản phát triển thiếu lành mạnh, chưa bền vững và còn tiềm ẩn nhiều rủi ro?... Đâu là nguyên nhân thuộc về quan điểm, chủ trương, chính sách nêu trong Nghị quyết và bất cập của Luật đất đai năm 2013? Đâu là do các quy định dưới luật còn bất cập; có quá nhiều quy định chồng chéo, mâu thuẫn? Và đâu là do việc tổ chức thực hiện yếu kém của các cơ quan quản lý nhà nước; do nhận thức chưa đầy đủ và ý thức chấp hành luật pháp chưa nghiêm?...
Trên cơ sở đó, đề xuất các chủ trương, định hướng tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách về
10
đất đai; chú ý các vấn đề hiện đang vướng mắc hoặc gây bức xúc trong xã hội và những nội dung còn có ý kiến khác nhau. Chẳng hạn như: Nhận thức như thế nào cho thật đầy đủ, đúng đắn về sở hữu toàn dân về đất đai do Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu; quyền hạn, trách nhiệm của Nhà nước với vị trí, vai trò là đại diện chủ sở hữu, thực hiện chức năng, nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về đất đai và khi là chủ thể sử dụng đất? Chủ trương, chính sách về đất đai, nhất là về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; về giao đất, cho thuê đất; về hỗ trợ, bồi thường, tái định cư, thu hồi đất; về tài chính đất đai, xác định giá đất và phát triển thị trường bất động sản; về chế độ quản lý và sử dụng đất nông nghiệp, đất có nguồn gốc từ nông, lâm trường quốc doanh, và đất cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng; việc quản lý nhà nước về đất đai... cần tiếp tục được đổi mới, hoàn thiện như thế nào cho đúng, sát hợp với thực tế và đáp ứng được yêu cầu phát triển trong thời kỳ mới?...
2. Về tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn
Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Chính trị và Ban Bí thư, thời gian qua Ban Chỉ đạo Trung ương tổng kết
11
15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã triển khai tổng kết Nghị quyết một cách nghiêm túc, bài bản, công phu, khoa học, có sự tham gia, phối hợp chặt chẽ, với tinh thần trách nhiệm cao của các ban, bộ, ngành Trung ương và các địa phương, các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý; kế thừa kết quả tổng kết các nghị quyết Trung ương về chính sách, pháp luật đất đai và kinh tế tập thể. Báo cáo tổng kết trình Trung ương tại Hội nghị lần này đã đánh giá một cách khách quan, toàn diện tình hình thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khoá X, chỉ ra những kết quả, thành tựu to lớn, toàn diện, rất ấn tượng đã đạt được; đồng thời, cũng thẳng thắn nhận diện những hạn chế, yếu kém còn tồn tại và nguyên nhân. Từ đó, đề ra quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục đổi mới đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và kiến nghị Trung ương xem xét ban hành Nghị quyết mới để tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới, phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong thời kỳ mới.
Đề nghị các đồng chí tham dự Hội nghị hôm nay tập trung nghiên cứu, thảo luận, tạo sự thống nhất
12
cao về tình hình thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và những quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đề ra, đáp ứng yêu cầu phát triển của thời kỳ mới - đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; tiếp tục phát huy thật tốt những kết quả, thành tựu và bài học kinh nghiệm thành công đã đạt được; khắc phục triệt để những hạn chế, yếu kém còn tồn tại và nguyên nhân được rút ra trong quá trình tổng kết là: Nông nghiệp phát triển còn thiếu bền vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm, tổ chức sản xuất chủ yếu vẫn dựa vào nông hộ nhỏ, thiếu liên kết trong sản xuất kinh doanh; kinh tế tập thể, hợp tác xã chậm phát triển. Việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, nguồn nhân lực chất lượng cao chưa trở thành động lực chính để tạo đột phá phát triển. Nhiều loại giống cây trồng, giống vật nuôi, vật tư đầu vào còn phụ thuộc việc nhập khẩu. Thu hút đầu tư cho phát triển công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn gặp nhiều khó khăn. Cơ giới hoá chưa đồng bộ, công nghiệp cơ khí, công nghiệp chế biến nông sản phát triển còn chậm. Đào tạo nghề, giải quyết
13
việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn chưa đạt yêu cầu. Lao động nông thôn có xu hướng già hoá, năng suất lao động còn thấp. Thu nhập của phần lớn nông dân chưa cao, chênh lệch với thành thị và giữa các vùng, miền còn lớn; tỉ lệ hộ nghèo ở nông thôn còn nhiều, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Xây dựng nông thôn mới chưa đồng đều, nhiều nơi chưa chú trọng đúng mức tới phát triển sản xuất, tạo sinh kế cho người dân; xây dựng đời sống văn hoá, bảo vệ môi trường; mức đạt tiêu chí nông thôn mới ở những vùng khó khăn còn thấp; nhiều vấn đề xã hội phát sinh, gây bức xúc trong nhân dân; ô nhiễm môi trường nông thôn gia tăng ở nhiều địa phương. Năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu còn yếu; phòng, chống thiên tai, dịch bệnh chưa đáp ứng yêu cầu.
3. Về tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khoá IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể
Cương lĩnh của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước và các nghị quyết đại hội Đảng đều khẳng định vị trí,
14
vai trò quan trọng của kinh tế tập thể; xác định kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Để đổi mới, nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục những hạn chế, yếu kém của mô hình hợp tác xã kiểu cũ, ngày 18/3/2002, Hội nghị Trung ương 5 khoá IX đã ban hành Nghị quyết số 13-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể.
Báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX (2002 - 2022) đã được xây dựng công phu, nghiêm túc trên cơ sở báo cáo tổng kết, báo cáo chuyên đề của các bộ, ngành, cơ quan Trung ương và 63 tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc Trung ương; kết quả nghiên cứu, khảo sát của Ban Chỉ đạo tại một số địa phương; ý kiến tham gia tại 12 cuộc hội thảo chuyên gia, 3 Hội nghị cán bộ toàn quốc tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết và Báo cáo tư vấn của Hội đồng Lý luận Trung ương.
Qua tổng kết cho thấy, sau 20 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX, khu vực kinh tế
15
tập thể nước ta đã có những chuyển biến tích cực. Nhận thức trong hệ thống chính trị, các tầng lớp nhân dân về phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã được nâng lên. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách được quan tâm xây dựng, phù hợp với từng giai đoạn phát triển. Hợp tác xã đã cơ bản hoàn thành việc chuyển đổi theo quy định của pháp luật. Số lượng hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập mới tăng đáng kể; nhiều hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phát triển đa dạng hơn về ngành nghề, quy mô và trình độ, hỗ trợ tốt hơn cho kinh tế thành viên, tạo việc làm và thu nhập thường xuyên cho người lao động. Tổ hợp tác với cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, nội dung hoạt động đơn giản nhưng thiết thực, đáp ứng được nhu cầu liên kết linh hoạt và mang tính ngắn hạn của người dân. Liên kết giữa các hợp tác xã với nhau và với các tổ chức kinh tế khác bước đầu có sự phát triển. Khu vực kinh tế tập thể cơ bản đã khắc phục được tình trạng yếu kém kéo dài, góp phần xây dựng nông thôn mới, bảo đảm an sinh, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, từng bước khẳng định vị trí, vai trò nền tảng trong nền kinh tế quốc dân.
16
Tuy nhiên, khu vực kinh tế tập thể của nước ta đến nay vẫn chưa đạt mức phát triển như mục tiêu, yêu cầu đề ra. Đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể còn gặp nhiều khó khăn. Tốc độ tăng trưởng, tỉ trọng đóng góp vào GDP cả nước của khu vực kinh tế tập thể còn thấp và có xu hướng giảm dần. Hợp tác xã phát triển không đồng đều giữa các vùng, miền; giữa khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp. Hoạt động hợp tác xã chưa trở thành phong trào để thu hút xã viên, hội viên. Số lượng hợp tác xã tuy tăng, nhưng số lượng thành viên bình quân trong hợp tác xã có xu hướng giảm; thành viên tham gia vào hoạt động của hợp tác xã còn hình thức, chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình trong hợp tác xã. Năng lực nội tại của hợp tác xã còn yếu, hiệu quả hoạt động chưa cao. Phần lớn các tổ hợp tác, hợp tác xã có quy mô nhỏ, vốn ít, phạm vi hoạt động hẹp, lợi ích mang lại cho thành viên còn thấp; tính liên kết trong nội bộ hợp tác xã rất yếu; các hoạt động liên doanh, liên kết giữa các hợp tác xã và giữa hợp tác xã với các tổ chức kinh tế khác chưa phổ biến. Số lượng liên hiệp hợp tác xã ít; tổ chức
17
và hoạt động của tổ hợp tác thiếu ổn định; nhiều hợp tác xã chuyển đổi còn mang tính hình thức, chưa thực sự có chuyển biến về chất.
Đề nghị các đồng chí Trung ương và các đồng chí tham dự Hội nghị xuất phát từ thực tiễn, thảo luận, đánh giá một cách khách quan, khoa học về những kết quả, thành tích đã đạt được; đồng thời phân tích sâu sắc những hạn chế, yếu kém còn tồn tại và nguyên nhân. Từ đó, bám sát Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và thực tế đất nước, tập trung thảo luận làm rõ, tạo sự thống nhất cao trong toàn Đảng, toàn dân về mục tiêu, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo và những nhiệm vụ, giải pháp lớn cần được quán triệt, triển khai thực hiện để kinh tế tập thể ngày càng phát triển mạnh hơn, đúng đắn và lành mạnh hơn, thực sự trở thành một thành phần kinh tế quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
4. Về Đề án xây dựng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên
Lâu nay, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư các khoá đều rất quan tâm,
18
chú trọng công tác lãnh đạo, chỉ đạo củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên theo đúng tinh thần Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhiều lần nhấn mạnh: “Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh. Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt”. Phong trào xây dựng đảng bộ “bốn tốt”, chi bộ “bốn tốt”, đảng viên “bốn tốt” được phát động và duy trì thường xuyên ở nhiều nơi. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả, thành tích đã đạt được, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức cơ sở đảng còn yếu, thậm chí mất sức chiến đấu; chưa đủ sức phát hiện, giải quyết những vấn đề phức tạp xảy ra ở cơ sở, nhất là những nơi có tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội phức tạp. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên chưa thường xuyên, thậm chí một số nơi còn xem nhẹ. Không ít cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị chưa vững vàng; vai trò tiên phong, gương mẫu còn hạn chế; tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình còn yếu. Năng lực, trình độ của một số cấp uỷ viên, bí thư cấp uỷ,
19
cán bộ, đảng viên chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ; phương thức lãnh đạo, lề lối làm việc, nội dung, chế độ sinh hoạt cấp uỷ, đảng bộ, chi bộ chậm đổi mới. Nhiều nơi, chi bộ chưa thể hiện được vai trò là hạt nhân chính trị, tiên phong, gương mẫu nên nhân dân chưa thực sự tin tưởng. Thậm chí, có một bộ phận cán bộ, đảng viên còn suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, vi phạm nguyên tắc, kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
Chính vì vậy, thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về vấn đề này, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã chỉ đạo tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 02/02/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X, Kết luận số 38-KL/TW, ngày 13/11/2018 của Bộ Chính trị khoá XII và xây dựng dự thảo Nghị quyết về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong tình hình mới trình Trung ương xem xét, quyết định tại Hội nghị lần này.
Đề án đã đề cập một cách khách quan, toàn diện tình hình thực hiện Nghị quyết và Kết luận,
20
nêu bật những kết quả chủ yếu đã đạt được; chỉ ra những hạn chế, yếu kém còn tồn tại và phân tích rõ nguyên nhân. Từ đó, đề ra quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu tiếp tục đổi mới, tăng cường xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong tình hình mới. Đề nghị các đồng chí nghiên cứu thật kỹ, thảo luận thật dân chủ, thẳng thắn, tạo sự thống nhất cao về những vấn đề nêu trong Tờ trình, để sau Hội nghị Trung ương lần này chúng ta có bước chuyển biến, tiến bộ mới, thực chất, mạnh mẽ, hiệu quả, nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng, sức mạnh và tính chiến đấu của Đảng ta theo đúng tinh thần tư tưởng của V.I. Lênin: “Thà ít mà tốt”; “những đảng viên hữu danh vô thực thì cho không chúng ta cũng không cần!”.
5. Về Đề án thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực
Thực hiện Chương trình công tác năm 2022 và Kết luận tại phiên họp thứ 21 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, Kết luận số 12-KL/TW, ngày 06/4/2022 của Bộ Chính trị
21
về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác này, Bộ Chính trị đã giao cho Ban Nội chính Trung ương chủ trì, phối hợp với các cơ quan hữu quan khẩn trương, nghiêm túc nghiên cứu, xây dựng Đề án thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Đề án có sự kế thừa kết quả sơ kết 5 năm thực hiện Kết luận số 10-KL/TW, ngày 26/12/2016 của Bộ Chính trị khoá XII về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khoá X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 50-CT/TW, ngày 07/12/2015 của Bộ Chính trị khoá XI về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng; tổng kết công tác phòng, chống tham nhũng giai đoạn 2013 - 2020 và xuất phát từ những yêu cầu đặt ra đối với công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong tình hình mới. Ban Nội chính Trung ương đã tổ chức hội thảo lấy ý kiến góp ý của các chuyên gia, các cán bộ có kinh nghiệm thực tiễn về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; gửi xin ý kiến các ban, bộ, ngành, địa phương và các thành viên
22
Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực để tiếp thu, hoàn thiện Đề án. Qua góp ý xây dựng Đề án, đã có tất cả 63/63 tỉnh uỷ, thành uỷ nhất trí với chủ trương thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Đề án đã trình bày đầy đủ, đúng đắn, có cơ sở lý luận và thực tiễn về sự cần thiết, căn cứ và nguyên tắc thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, quan hệ công tác của Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và cũng đã dự thảo các văn bản liên quan. Đề nghị Trung ương nghiên cứu, xem xét, quyết định về những kiến nghị, đề xuất nêu trong Tờ trình của Bộ Chính trị, nhất là về chủ trương thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực nhằm góp phần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, theo tinh thần tôi đã nhiều lần nói là: “Trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt!”.
23
6. Về kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư năm 2021 gắn với thực hiện Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khoá XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị
Thực hiện Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khoá XIII, trong tháng 01/2022, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã dành ba ngày để tiến hành kiểm điểm, tự phê bình và phê bình về sự lãnh đạo, chỉ đạo của tập thể và cá nhân từng đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư năm 2021 gắn với việc thực hiện Kết luận của Hội nghị Trung ương 4 khoá XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình lần này đã được thực hiện một cách nghiêm túc, bài bản, theo quy chế, quy trình từng bước hợp lý. Các báo cáo kiểm điểm đều được chuẩn bị theo đúng quy định, hướng dẫn. Không khí kiểm điểm theo tinh thần tự phê bình, phê bình nghiêm túc, thẳng thắn, dân chủ, đoàn kết, chân tình. Các đồng chí được góp ý đã tiếp thu nghiêm túc, cầu thị, coi đây
24
là cơ hội quý để học tập, chia sẻ lẫn nhau. Trong quá trình kiểm điểm, từng đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã liên hệ đến trách nhiệm cá nhân đối với lĩnh vực được phân công, thấy rõ những ưu điểm để phát huy, nhận ra những khuyết điểm, hạn chế để khắc phục.
Qua kiểm điểm tập thể và cá nhân, Bộ Chính trị, Ban Bí thư nhận thấy: Năm 2021, trong bối cảnh có rất nhiều khó khăn, thách thức, Bộ Chính trị, Ban Bí thư luôn luôn đoàn kết, thống nhất, bình tĩnh, kiên định, sáng suốt trước khó khăn, thử thách, có nhiều đổi mới và sáng tạo, bám sát quan điểm, chủ trương, đường lối, cụ thể hoá các nội dung quan trọng của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đã có các quyết sách đúng đắn, kịp thời và phù hợp với tình hình thực tiễn để lãnh đạo, chỉ đạo toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tổ chức triển khai thực hiện, đạt được những kết quả quan trọng, khá toàn diện, có những dấu ấn nổi bật, được cán bộ, đảng viên và nhân dân ghi nhận, bạn bè thế giới đánh giá cao.
Tuy nhiên, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư cũng còn một số hạn chế,
25
khuyết điểm. Công tác dự báo chiến lược, hoạch định đường lối, chính sách và tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận có lúc, có việc chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu, đòi hỏi của tình hình mới. Trong phòng, chống dịch bệnh có lúc, có nơi còn lơ là, chủ quan, bị động, lúng túng hoặc cứng nhắc, thiếu thống nhất, đồng bộ trong lãnh đạo, chỉ đạo xử lý các tình huống cụ thể, đột xuất; còn có những hạn chế, bất cập trong nghiên cứu, dự báo, phân tích tình hình để xây dựng và triển khai thực hiện có bài bản và kịp thời các phương án ngắn hạn cũng như dài hạn, bảo đảm vừa phòng, chống dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm các hoạt động bình thường.
Những kết quả, thành tích cũng như hạn chế, yếu kém cụ thể đã được nêu đầy đủ trong Báo cáo của Bộ Chính trị gửi các đồng chí Uỷ viên Trung ương Đảng. Đề nghị Trung ương với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, xem xét, đánh giá kỹ lưỡng những ưu điểm, những hạn chế, khuyết điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư gắn với thực hiện Kết luận của Hội nghị Trung ương 4 khoá XIII trên các lĩnh vực.
26
Đặc biệt, cần chỉ rõ những nguyên nhân, rút ra những bài học kinh nghiệm và đề ra các giải pháp tích cực khắc phục trong thời gian tới.
Thưa các đồng chí,
Những nội dung trình Hội nghị Trung ương lần này là những vấn đề rất lớn, rất khó và rất hệ trọng đối với việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng trên các lĩnh vực trọng yếu như: Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh toàn diện từ gốc, từ cơ sở, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cách mạng trong giai đoạn mới;... Đề nghị Trung ương phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm, tập trung nghiên cứu, thảo luận kỹ lưỡng, cho ý kiến để hoàn thiện và xem xét, quyết định vào cuối kỳ họp.
Với tinh thần đó, tôi xin tuyên bố khai mạc Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII. Chúc Hội nghị của chúng ta thành công tốt đẹp!
Xin trân trọng cảm ơn.
27
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG KHOÁ XIII
*
Số 50/TLHN
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2022
BÁO CÁO
TIẾP THU, GIẢI TRÌNH
CỦA BỘ CHÍNH TRỊ
Về tổng kết thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI; về tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; về Báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể
Ngày 04, 05, 06/5/2022 và sáng ngày 07/5/2022, Trung ương đã thảo luận về tổng kết thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW, ngày 31/10/2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI; tổng kết
28
15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. Đã có 492 lượt ý kiến phát biểu về ba đề án trên; không khí thảo luận rất sôi nổi, có tranh luận với tinh thần trách nhiệm cao, tâm huyết, các ý kiến góp ý rất sâu sắc, toàn diện về các vấn đề có liên quan. Sau đây, Bộ Chính trị xin được tiếp thu, giải trình ý kiến của Trung ương như sau:
A- VỀ TỔNG KẾT THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 19-NQ/TW CỦA BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG KHOÁ XI
I- Hầu hết các ý kiến Trung ương đều cơ bản nhất trí với Tờ trình, Báo cáo của Bộ Chính trị và cho rằng, đây là vấn đề khó, tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội; các tài liệu đã được chuẩn bị công phu, nghiêm túc, kỹ lưỡng, bám sát thực tế, nội dung khá đầy đủ, toàn diện. Báo cáo tổng kết đã bám sát các quan điểm chỉ đạo và các định hướng đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai được nêu trong Nghị quyết số 19-NQ/TW; Hiến pháp
29
năm 2013; các quan điểm và định hướng của Đảng về quản lý và sử dụng đất qua các kỳ đại hội, nhất là Đại hội XIII; tổng hợp báo cáo tổng kết của các bộ, ngành, địa phương; lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức hữu quan. Tờ trình gọn, rõ, đánh giá toàn diện Nghị quyết số 19-NQ/TW; đã nêu được nhiều vấn đề khúc mắc trong thực tiễn; xác định và đưa ra thảo luận những nội dung trúng, đúng với yêu cầu thực tiễn. Hầu hết ý kiến thống nhất ban hành nghị quyết mới của Ban Chấp hành Trung ương Đảng kế thừa và thay thế Nghị quyết số 19-NQ/TW với tên gọi: “Về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển, có thu nhập cao”.
Trung ương thống nhất cao về đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết từ công tác tổ chức, quán triệt Nghị quyết; thực hiện các định hướng về đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai, đến các hạn chế, nguyên nhân của hạn chế; đánh giá chung và bài học kinh nghiệm; cơ bản thống nhất với những định hướng lớn về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
30
và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển, có thu nhập cao. Bên cạnh đó, còn có ý kiến đề nghị làm rõ và sâu sắc hơn một số quan điểm, mục tiêu và các nhiệm vụ, giải pháp.
Bộ Chính trị đánh giá cao các ý kiến góp ý của Trung ương và sẽ chỉ đạo tiếp thu tối đa để hoàn thiện Đề án và dự thảo Nghị quyết.
II- VỀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ
ĐANG CÒN Ý KIẾN KHÁC NHAU
1. Về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất 1.1. Còn có một số ý kiến khác nhau về mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất với quy hoạch tổng thể quốc gia; mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất với các quy hoạch có sử dụng đất. Bộ Chính trị xin báo cáo: Các quy hoạch quốc gia cũng như quy hoạch sử dụng đất và các quy hoạch ngành, lĩnh vực có sử dụng đất phải bảo đảm tính phù hợp, thống nhất, đồng bộ và gắn kết chặt chẽ, thúc đẩy lẫn nhau. Quy hoạch sử dụng đất được lập ở cấp quốc gia, cấp tỉnh và cấp huyện, đáp ứng yêu cầu thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững; bảo đảm quốc phòng,
31
an ninh; bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu.
1.2. Có ý kiến đề nghị cho tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước được tài trợ lập quy hoạch sử dụng đất.
Bộ Chính trị xin báo cáo: Quy hoạch sử dụng đất là một trong những quyền của Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý về đất đai. Vì vậy, Nhà nước phải bảo đảm đủ kinh phí cho việc lập quy hoạch sử dụng đất nhằm ngăn chặn và loại trừ các nguy cơ tham nhũng, tiêu cực liên quan đến việc tài trợ này.
2. Về giao đất, cho thuê đất
2.1. Về giao đất, cho thuê đất. Một số ý kiến đề nghị cần mở rộng và quy định cụ thể việc giao đất, cho thuê đất không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất.
Bộ Chính trị xin báo cáo: Thực tế cho thấy, việc áp dụng phổ biến giao đất, cho thuê đất không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất sẽ không bảo đảm tính khách quan, minh bạch, hạn chế quyền tiếp cận đất đai,
32
chứa đựng nhiều rủi ro tham nhũng, tiêu cực, gây thất thoát ngân sách nhà nước. Do vậy, đề nghị Trung ương đồng ý như dự thảo Nghị quyết.
2.2. Về phương thức trả tiền cho thuê đất. Một số ý kiến cho rằng, nên để doanh nghiệp có quyền lựa chọn trả tiền thuê đất hằng năm hoặc trả tiền thuê đất một lần. Có ý kiến đề nghị nên thu một lần để Nhà nước có nguồn lực tái đầu tư và người sử dụng đất chủ động trong hạch toán kinh doanh.
Bộ Chính trị xin báo cáo: Để khắc phục những hạn chế của việc trả tiền thuê đất một lần, về cơ bản thực hiện theo hình thức cho thuê đất trả tiền hằng năm, trừ những trường hợp đặc biệt sẽ được trả tiền thuê đất một lần theo quy định của pháp luật, bảo đảm phù hợp với tình hình, tính chất, mục đích sử dụng đất, bảo đảm nguồn thu ổn định, tránh thất thoát cho ngân sách nhà nước.
2.3. Về giao đất, cho thuê đất có liên quan đến tôn giáo. Có ý kiến băn khoăn về việc giao đất cho các cơ sở đào tạo của tôn giáo, giao đất cơ sở tôn giáo có hạn mức.
Bộ Chính trị xin tiếp thu ý kiến này và sẽ chỉ đạo nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện trong dự thảo Nghị quyết.
33
3. Về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, thu hồi đất
3.1. Có ý kiến băn khoăn trên thực tế nếu tái định cư trước, thực hiện dự án sau mà không thực hiện được dự án thì sẽ gây lãng phí. Đa số ý kiến cho rằng, cần tách dự án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư ra khỏi dự án đầu tư để thực hiện trước.
Bộ Chính trị xin báo cáo: Việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư phải bảo đảm công khai, minh bạch, hài hoà lợi ích của Nhà nước, người có đất bị thu hồi và nhà đầu tư theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Việc thu hồi đất phải tuân thủ Hiến pháp và quy định của Luật đất đai nhưng việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư phải đi trước một bước, cần có quy định cụ thể về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư nhằm tránh tình trạng khi thu hồi đất xong thì người dân không có chỗ ở, bảo đảm cuộc sống của người dân có đất bị thu hồi phải bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ; tiếp tục thực hiện thí điểm và nhanh chóng tổng kết chủ trương tách dự án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư ra khỏi dự án đầu tư để thực hiện trước.
34
3.2. Về cơ chế doanh nghiệp tự thoả thuận với người dân trong chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Có ý kiến đề nghị Nhà nước cần có giải pháp phù hợp, hiệu quả tham gia hỗ trợ thu hồi đất khi nhà đầu tư đã tự thoả thuận nhận chuyển nhượng được cơ bản diện tích đất để thực hiện dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội theo quy hoạch; cân nhắc nghiên cứu, áp dụng hình thức đồng thuận cộng đồng theo đa số.
Bộ Chính trị xin báo cáo: Đây là vấn đề thực tiễn đặt ra. Kết luận số 36-KL/TW, ngày 06/9/2018 của Bộ Chính trị đã định hướng giải quyết vấn đề này nhưng việc Nhà nước thực hiện thu hồi đất là vấn đề lớn, quan trọng, nhạy cảm nên cần tiếp tục được nghiên cứu kỹ lưỡng, thận trọng, đánh giá kỹ tác động trước khi thực hiện.
4. Về tài chính đất đai và xác định giá đất
4.1. Về cơ chế, chính sách tài chính về đất đai. Đa số ý kiến thống nhất về cơ chế điều tiết nguồn thu từ đất của các địa phương là Nhà nước thu và điều tiết chung; có một số ý kiến khác đề nghị xem xét lại vấn đề này vì rất khó cho các địa phương.
35
Bộ Chính trị xin báo cáo: Việc thực hiện cơ chế điều tiết như trên sẽ bảo đảm hài hoà giữa Trung ương và địa phương, có điều kiện điều tiết giữa nơi khó khăn và nơi thuận lợi, bảo đảm thực hiện đúng chủ trương ngân sách trung ương là chủ đạo, ngân sách địa phương là chủ động. Đồng thời, cần nghiên cứu có chính sách điều tiết chênh lệch địa tô, bảo đảm công khai, minh bạch, hài hoà lợi ích giữa Nhà nước, người dân và doanh nghiệp.
4.2. Về cơ chế xác định giá đất. Nhiều ý kiến đồng tình với đề xuất bỏ khung giá đất và đề nghị làm rõ hơn về định hướng xác định giá đất. Ý kiến khác cho rằng, khung giá đất rất có ý nghĩa với an sinh xã hội, nhất là ở những vùng không có dự án, việc bỏ khung giá đất cần phải cân nhắc, tính toán kỹ.
Bộ Chính trị xin báo cáo: Thực tiễn cho thấy việc áp dụng khung giá đất đang có nhiều tồn tại, bất cập, giá đất không theo kịp biến động của giá đất trên thị trường, hạn chế tính linh hoạt của địa phương trong việc điều chỉnh bảng giá đất, ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, nhà đầu tư cũng như của người dân có đất bị thu hồi. Việc bỏ khung
36
giá đất nhằm xây dựng bảng giá đất phù hợp với thị trường và tình hình thực tế của địa phương. Bộ Chính trị sẽ chỉ đạo hoàn thiện dự thảo Nghị quyết định hướng có cơ chế, phương pháp xác định giá đất, cơ quan chịu trách nhiệm xác định giá đất; giao cho Hội đồng nhân dân quyết định và giám sát, kiểm tra thực hiện; Trung ương xây dựng tiêu chí và quy trình để giám sát các địa phương trong việc xây dựng bảng giá đất theo nguyên tắc thị trường; xây dựng cơ sở dữ liệu về đất đai; có cơ chế hữu hiệu để nâng cao chất lượng công tác định giá đất, tính độc lập của Hội đồng thẩm định giá đất, năng lực của tổ chức tư vấn xác định giá đất, năng lực và đạo đức của các định giá viên; bổ sung các quy định bảo đảm công khai, minh bạch như: công khai giá đất, giao dịch qua các sàn giao dịch bắt buộc, thanh toán qua ngân hàng, không dùng tiền mặt...
5. Về quản lý và sử dụng đất nông nghiệp
Có ý kiến đề nghị làm rõ hơn việc “xây dựng quy định về ngân hàng cho thuê đất nông nghiệp”.
37
Bộ Chính trị xin báo cáo: Xây dựng “ngân hàng đất đai” là một trong các giải pháp để tập trung quản lý và tối ưu hoá tiềm năng đất đai của quỹ đất nông nghiệp và phi nông nghiệp. Đối với đất nông nghiệp, với vai trò trung gian giữa tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có quyền sử dụng đất và nhà đầu tư, “ngân hàng đất đai” sẽ giúp tăng hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp; bảo vệ quyền và lợi ích của những người đang sử dụng đất; ngăn chặn khả năng chiếm dụng đất và khắc phục được tâm lý “sợ mất đất” của người nông dân.
6. Về quản lý nhà nước về đất đai
Một số ý kiến đề nghị cần hoàn thành xây dựng hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai trong năm 2023.
Bộ Chính trị xin báo cáo: Nhiệm vụ hoàn thành xây dựng hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai trong năm 2023 sẽ khó khả thi, vì đây là nhiệm vụ có khối lượng công việc lớn, phức tạp, đòi hỏi phải có thời gian và bố trí đủ nguồn lực để hoàn thành. Sẽ khả thi hơn nếu mục tiêu này được hoàn thành trước năm 2025.
38
B- VỀ TỔNG KẾT 15 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 7 KHOÁ X VỀ NÔNG NGHIỆP, NÔNG DÂN, NÔNG THÔN
I- Hầu hết ý kiến Trung ương đều đồng tình cho rằng Tờ trình, Báo cáo, dự thảo Nghị quyết được chuẩn bị nghiêm túc, bài bản, công phu, khoa học, kỹ lưỡng; đánh giá đúng, khách quan kết quả đạt được sau 15 năm thực hiện Nghị quyết; đồng thời đã xác định rõ bối cảnh tình hình mới và đưa ra các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp có tính khả thi, đáp ứng yêu cầu phát triển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; thống nhất ban hành Nghị quyết mới với tiêu đề: “Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Một số ý kiến đề nghị nhấn mạnh, làm sâu sắc hơn về các thành tựu, hạn chế, yếu kém, nguyên nhân và quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp.
Bộ Chính trị xin tiếp thu tối đa các ý kiến của Trung ương, đồng thời sẽ chỉ đạo làm sâu sắc hơn trong quá trình hoàn thiện dự thảo Nghị quyết và trong lãnh đạo, chỉ đạo để phát huy các thành tựu
39
đã đạt được, khắc phục hạn chế, yếu kém trong phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn thời gian tới.
II- BỘ CHÍNH TRỊ XIN BÁO CÁO
MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRỌNG TÂM
MÀ TRUNG ƯƠNG QUAN TÂM NHƯ SAU:
1. Về phát triển nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh Một số ý kiến cho rằng, cần làm rõ hơn nội hàm “nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh”; có ý kiến cho rằng, ý “nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh” chưa đủ chín về khái niệm để đưa vào Nghị quyết; ý kiến khác băn khoăn về “nông nghiệp sinh thái” vì cho rằng chưa đúng, chưa mang tính bao trùm... Bộ Chính trị xin báo cáo: Nghị quyết Đại hội XIII đã khẳng định: “Đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới, hướng tới mô hình nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh”. Trong Báo cáo tổng kết và dự thảo Nghị quyết đã thể hiện nội hàm này ở mức độ khác nhau, trong đó
40
xác định nông dân là chủ thể, là trung tâm của quá trình phát triển; nâng cao trình độ, nhận thức, năng lực làm chủ để nông dân, người dân nông thôn có khả năng làm chủ công nghệ trong sản xuất, chế biến, thương mại và làm giàu từ nông nghiệp. Phát triển nền nông nghiệp hiệu quả, minh bạch, trách nhiệm, bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu, ứng dụng mạnh mẽ khoa học - công nghệ và chuyển đổi số; thúc đẩy phát triển nông nghiệp xanh, hữu cơ, tuần hoàn. Xây dựng nông thôn hiện đại, phồn vinh, hạnh phúc, dân chủ, văn minh, có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, phát triển toàn diện, bền vững. Đây là các khái niệm mới, phù hợp với xu thế phát triển nông nghiệp thế giới và đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống người dân nông thôn trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và chuyển đổi số. Tiếp thu ý kiến của Trung ương, Bộ Chính trị sẽ chỉ đạo hoàn thiện dự thảo Nghị quyết và yêu cầu các cơ quan tiếp tục nghiên cứu, làm rõ thêm nội hàm này.
2. Về phát huy vai trò chủ thể của nông dân Nhiều ý kiến của Trung ương đề nghị làm sâu sắc hơn các giải pháp cụ thể để nâng cao năng lực
41
và phát huy vai trò chủ thể của nông dân và người dân nông thôn.
Bộ Chính trị xin báo cáo: Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết, nông nghiệp, nông thôn đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Tuy nhiên, thu nhập của phần lớn nông dân và người dân nông thôn còn thấp. Đời sống của người trồng lúa, trồng rừng, bảo vệ rừng gặp nhiều khó khăn. Xu hướng người lao động rời bỏ nông thôn đi tìm việc làm tại các đô thị, khu công nghiệp ngày càng tăng, làm phát sinh nhiều vấn đề xã hội. Quá trình tổng kết Nghị quyết đã rút ra bài học kinh nghiệm quý báu là phát huy ý chí, sức mạnh, vai trò chủ thể của nông dân và người dân nông thôn trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn là yếu tố quyết định thành công. Dự thảo Nghị quyết đã xác định rõ nông dân là chủ thể, là trung tâm của quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn; đặt nông dân, người dân nông thôn ở vị trí đầu tiên và đã đưa ra nhiều nội dung mới, cụ thể trong quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp. Đồng thời, Bộ Chính trị đã chỉ đạo Đảng đoàn Hội Nông dân Việt Nam xây dựng “Đề án xây dựng Hội Nông dân Việt Nam và
42
giai cấp nông dân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, trình Bộ Chính trị trong tháng 10/2022.
Tiếp thu ý kiến của Trung ương, Bộ Chính trị chỉ đạo hoàn thiện dự thảo Nghị quyết và tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam trong giai đoạn tới. Đồng thời, về ý kiến băn khoăn về cụm từ “trí thức hoá nông dân”, Bộ Chính trị tiếp thu, chỉ đạo diễn đạt rõ hơn nội hàm mà không sử dụng cụm từ này trong dự thảo Nghị quyết.
3. Về huy động nguồn lực cho phát triển nông nghiệp, nông thôn
- Một số ý kiến đề nghị cân nhắc chủ trương “tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước giai đoạn 2021 - 2030 cho nông nghiệp, nông thôn ít nhất gấp 2 lần giai đoạn 2011 - 2020”, vì giai đoạn 2021 - 2025 đã được phân bổ, chỉ còn giai đoạn 2026 - 2030 khó có nguồn để tăng gấp đôi.
Bộ Chính trị xin báo cáo: Phát triển nông nghiệp, nông thôn là ưu tiên hàng đầu của Đảng, Nhà nước ta. Nghị quyết Trung ương 7 khoá X đề ra
43
mục tiêu ngân sách nhà nước dành cho nông nghiệp, nông thôn 5 năm sau gấp 2 lần 5 năm trước, và thực tế đã đạt 1,9 lần. Đây là nguồn lực quan trọng, tạo động lực để nông nghiệp, nông thôn đạt được thành tựu to lớn thời gian qua. Bộ Chính trị đã cân nhắc kỹ lưỡng vấn đề này. Việc kế thừa Nghị quyết Trung ương 7 khoá X thể hiện quyết tâm chính trị xuyên suốt, thống nhất của Đảng về ưu tiên phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
- Một số ý kiến đề nghị nhấn mạnh việc triển khai thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia (Xây dựng nông thôn mới, Giảm nghèo bền vững, Phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi).
Về vấn đề này, Báo cáo và dự thảo Nghị quyết đã đặt ra yêu cầu tiếp tục thực hiện xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu và xây dựng nông thôn mới cấp thôn, bản. Tích hợp một số chương trình đầu tư đang triển khai trên địa bàn nông thôn vào Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Tiếp thu ý kiến của Trung ương, Bộ Chính trị chỉ đạo hoàn thiện dự thảo Nghị quyết và lưu ý trong quá trình lãnh đạo,
44
chỉ đạo triển khai thực hiện, bảo đảm hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia.
4. Về phát triển giống cây trồng, giống vật nuôi và vật tư đầu vào
Nhiều ý kiến của Trung ương đề cập sự thiếu tự chủ về giống và vật tư đầu vào làm cho nông nghiệp phát triển thiếu bền vững.
Bộ Chính trị xin báo cáo: Báo cáo tổng kết đã đánh giá giống nhiều loại cây trồng, vật nuôi, vật tư đầu vào còn phụ thuộc vào nhập khẩu. Dự thảo Nghị quyết đã yêu cầu: Đầu tư, phát triển mạnh công nghiệp giống cây trồng, giống vật nuôi có năng suất, chất lượng cao, chống chịu được dịch bệnh và thích ứng với biến đổi khí hậu. Nâng cao năng lực tự chủ trong sản xuất thức ăn chăn nuôi. Đẩy mạnh nghiên cứu, làm chủ công nghệ sản xuất vắcxin, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, thiết bị, vật tư đầu vào để chủ động nguồn cung. Tiếp thu ý kiến của Trung ương, Bộ Chính trị sẽ tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan liên quan khẩn trương cụ thể hoá, triển khai thực hiện hiệu quả chủ trương này.
45
5. Về hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn
- Một số ý kiến đề cập sự thiếu liên kết, thiếu bền vững trong phát triển nông nghiệp và đề nghị cần có các giải pháp căn cơ để khắc phục tình trạng này.
Bộ Chính trị xin báo cáo: Quá trình tổng kết Nghị quyết cho thấy điểm nghẽn lớn nhất trong nông nghiệp là sản xuất chủ yếu dựa trên nông hộ quy mô nhỏ, thiếu liên kết. Cần có giải pháp hữu hiệu để tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị nông sản, khắc phục tình trạng tiêu thụ khó khăn và ùn ứ nông sản xuất khẩu, chuyển mạnh từ xuất khẩu tiểu ngạch sang chính ngạch; phát triển công nghiệp chế biến, bảo quản; đa dạng hoá phương thức vận tải, dịch vụ logistics. Phát huy vai trò kinh tế tập thể, nòng cốt là hợp tác xã, đẩy mạnh liên kết giữa doanh nghiệp, hợp tác xã, người nông dân. Tiếp thu ý kiến của Trung ương, Bộ Chính trị chỉ đạo làm sâu sắc hơn các giải pháp, nhiệm vụ trong dự thảo Nghị quyết và lưu ý trong lãnh đạo, chỉ đạo triển khai cụ thể.
46
- Một số ý kiến đề nghị hoàn thiện chính sách về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm nông nghiệp. Bộ Chính trị xin báo cáo: Nông nghiệp là lĩnh vực chịu nhiều rủi ro do thiên tai, dịch bệnh, thị trường. Do đó, việc hoàn thiện chính sách bảo hiểm xã hội cho người dân và bảo hiểm nông nghiệp để giảm thiểu rủi ro, bảo vệ sản xuất là việc rất cấp bách. Báo cáo và dự thảo Nghị quyết đã đề cập yêu cầu: Thực hiện nghiêm chế độ bảo hiểm đối với người lao động, có chính sách khuyến khích nâng nhanh tỉ lệ nông dân tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện... Khẩn trương hoàn thiện chính sách để mở rộng quy mô, đối tượng tham gia bảo hiểm nông nghiệp, góp phần giảm thiểu rủi ro cho nông dân. Tiếp thu ý kiến Trung ương, Bộ Chính trị sẽ chỉ đạo các cơ quan liên quan khẩn trương hoàn thiện các quy định để sớm đưa các chính sách này đi vào cuộc sống.
6. Về chính sách đối với vùng trồng lúa, trồng rừng
Một số ý kiến đề nghị có chính sách bảo đảm lợi ích của địa phương và người dân trồng lúa, trồng rừng.
47
Bộ Chính trị xin báo cáo: Việc giữ quỹ đất lúa, đất rừng tại các địa phương có lợi thế là trách nhiệm chung đối với đất nước. Thực tế cho thấy, các địa phương được giao thực hiện nhiệm vụ này gặp rất nhiều khó khăn trong thu ngân sách và bảo đảm đời sống người dân. Do đó, cần có cơ chế điều tiết, phân bổ ngân sách nhà nước bảo đảm hài hoà lợi ích giữa các địa phương và có chính sách thoả đáng để hỗ trợ, nâng cao đời sống của người trồng lúa, người trồng rừng. Tiếp thu ý kiến của Trung ương, Bộ Chính trị sẽ chỉ đạo các cơ quan liên quan khẩn trương cụ thể hoá, hoàn thiện cơ chế, chính sách sau khi Nghị quyết được ban hành.
C- VỀ BÁO CÁO TỔNG KẾT 20 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 5 KHOÁ IX VỀ TIẾP TỤC ĐỔI MỚI, PHÁT TRIỂN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH TẾ TẬP THỂ
I- Đa số ý kiến đồng tình với Tờ trình, Báo cáo và cho rằng các nội dung được chuẩn bị công phu, kỹ lưỡng, khá đầy đủ, toàn diện, có tính khái quát cao; hầu hết ý kiến đồng ý với việc ban hành
48
Nghị quyết mới với tên gọi: “Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới”. Tuy nhiên, nhiều ý kiến Trung ương đề nghị cần đánh giá sâu hơn hiệu quả của các loại hình hợp tác xã (dịch vụ, sản xuất, tín dụng, vận tải, thu gom rác...), mô hình liên hiệp hợp tác xã, mô hình doanh nghiệp liên kết với người dân thông qua hợp tác xã, mô hình tổ hợp tác, mô hình hội quán... Nêu rõ thêm một số tồn tại, hạn chế trong thời gian qua như số lượng hợp tác xã, số thành viên tham gia hợp tác xã giảm; hợp tác xã hoạt động kém hiệu quả, quy mô nhỏ, sức cạnh tranh thấp; trình độ cán bộ quản lý hợp tác xã còn hạn chế; kinh tế tập thể phát triển chưa đồng đều giữa các địa phương, vùng, miền; khung khổ pháp lý, bao gồm cả Luật hợp tác xã còn vướng mắc trong thực tế, chưa đáp ứng được yêu cầu; chính sách hỗ trợ chưa đủ mạnh, còn dàn trải, thiếu hiệu quả; sự quan tâm của cấp uỷ, người dân đối với kinh tế tập thể còn chưa đầy đủ; vấn đề nợ của hợp tác xã, tình trạng
49
chiếm dụng vốn chưa được xử lý dứt điểm... Phân tích thêm nguyên nhân chính là vấn đề nhận thức của hệ thống chính trị và người dân về vai trò, vị trí của kinh tế tập thể vẫn chưa đầy đủ, chưa thống nhất; còn chịu ảnh hưởng, tàn dư tư tưởng hợp tác xã kiểu cũ; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước chưa đáp ứng yêu cầu; một số hợp tác xã chưa tuân thủ các nguyên tắc hoạt động theo quy định của pháp luật; công tác nghiên cứu, lý luận, tuyên truyền còn nhiều hạn chế... Về chủ trương, giải pháp: cần tăng cường hơn nữa công tác đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức kinh tế hợp tác, chú trọng tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực hỗ trợ phát triển kinh tế hợp tác; rà soát, sắp xếp lại các hợp tác xã hoạt động không hiệu quả; mở rộng các hình thức hoạt động của hợp tác xã; có giải pháp đưa doanh nghiệp vào làm thành viên hợp tác xã; hoàn thiện thể chế về phát triển nguồn nhân lực, lao động, đất đai, chuyển đổi số; quy định chặt chẽ hơn về tổ chức kinh tế hợp tác nhằm bảo đảm sự gắn kết các thành viên trong tổ chức.
50
Các ý kiến nêu trên của Trung ương là xác đáng và cũng đã được thể hiện ở các mức độ khác nhau trong Báo cáo. Bộ Chính trị xin tiếp thu để rà soát, hoàn thiện các nội dung liên quan trong dự thảo Nghị quyết của Trung ương. Trong quá trình tổ chức thực hiện Nghị quyết, Bộ Chính trị giao Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành, cơ quan tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện, cụ thể hoá các quy định về phát triển nguồn nhân lực, lao động, đất đai, chuyển đổi số, tổ chức kinh tế hợp tác.
II- BỘ CHÍNH TRỊ XIN GIẢI TRÌNH,
LÀM RÕ THÊM MỘT SỐ VẤN ĐỀ SAU:
1. Về sự cần thiết ban hành Nghị quyết: Có ý kiến còn băn khoăn về việc ban hành Nghị quyết mới.
Bộ Chính trị xin báo cáo: Cương lĩnh của Đảng, Hiến pháp năm 2013 và các nghị quyết đại hội Đảng đều khẳng định vị trí, ý nghĩa, vai trò quan trọng của kinh tế tập thể, xác định kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Đây là vấn đề hết sức quan trọng nhưng trong 20 năm qua,
51
chúng ta chưa có điều kiện để tổng kết và ban hành Nghị quyết mới. Vì vậy, Bộ Chính trị cho rằng lúc này Trung ương bàn về phát triển kinh tế tập thể và ban hành Nghị quyết mới là cần thiết và đúng đắn.
2. Về đặc trưng, bản chất của mô hình hợp tác xã và quan điểm chỉ đạo, đa số ý kiến đồng tình với 5 quan điểm đã nêu, có ý kiến cho rằng, quan điểm chỉ đạo còn có nội dung mâu thuẫn với nhiệm vụ, giải pháp; làm rõ thêm nội hàm trong quan điểm chỉ đạo về vai trò của kinh tế tập thể đối với nền kinh tế quốc dân. Một số ý kiến khác góp ý cụ thể để làm rõ hơn về nội dung của từng quan điểm.
Bộ Chính trị xin báo cáo: Mô hình hợp tác xã có mục đích hoạt động mang tính kinh tế - xã hội và nhân văn, thay vì chỉ tập trung vào mục tiêu lợi ích kinh tế thuần tuý. Kinh tế hợp tác coi trọng lợi ích của thành viên, coi trọng sự hợp tác, liên kết, trợ giúp lẫn nhau giữa các thành viên, hướng đến làm giàu cho từng thành viên và phát triển cộng đồng. Đây là điểm khác biệt về bản chất của các mô hình sản xuất kinh doanh thuộc thành phần kinh tế tập thể, mà nòng cốt là hợp tác xã với
52
các loại hình doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế hiện nay. Dự thảo Nghị quyết đã được nghiên cứu kỹ lưỡng, bảo đảm tuân thủ Cương lĩnh của Đảng, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và kế thừa những nội dung của Nghị quyết số 13-NQ/TW. Vì vậy, Bộ Chính trị đề nghị Trung ương cho giữ nguyên 5 quan điểm trong dự thảo Nghị quyết. Đối với một số góp ý cụ thể, tiếp thu ý kiến của Trung ương, Bộ Chính trị sẽ lưu ý, thể hiện rõ hơn trong dự thảo Nghị quyết.
3. Về đánh giá đóng góp và mục tiêu của kinh tế tập thể, có ý kiến cho rằng đóng góp của kinh tế tập thể trong nền kinh tế còn hạn chế, tỉ trọng đóng góp thấp, tốc độ tăng trưởng chậm hơn so với các thành phần kinh tế khác; cần làm rõ cơ sở đề ra các chỉ tiêu đến năm 2030; cân nhắc mục tiêu thu hút tối thiểu 20% dân số tham gia các tổ chức kinh tế hợp tác trong tầm nhìn đến năm 2045.
Bộ Chính trị xin báo cáo: Đóng góp của kinh tế tập thể không chỉ đơn thuần về mặt kinh tế mà còn bao gồm cả về mặt văn hoá, xã hội, an sinh, an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Do vậy, trong thời gian tới đánh giá hiệu quả của kinh tế tập thể phải toàn diện cả kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng,
53
an ninh, cả hiệu quả của tổ chức và của thành viên. Về các chỉ tiêu đến năm 2030: Các chỉ tiêu này đã được tính toán, rà soát kỹ lưỡng, bảo đảm phù hợp với Chiến lược phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã giai đoạn 2021 - 2030. Về tầm nhìn đến năm 2045: Với trình độ phát triển của nước ta đến năm 2045, cùng với quy mô dân số và lực lượng lao động tương ứng và nhu cầu khách quan của việc tăng cường hợp tác thì việc thu hút tối thiểu 20% dân số tham gia các tổ chức kinh tế hợp tác là khả thi, mục tiêu này đã được tính toán kỹ và cân nhắc thận trọng, đồng thời có tham khảo kinh nghiệm quốc tế. Do đó, Bộ Chính trị trình Trung ương cho phép giữ như dự thảo Nghị quyết.
4. Về giải pháp bổ sung, hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ, có ý kiến đề nghị sớm sửa đổi Luật hợp tác xã năm 2012, một số ý kiến cho rằng, một số cơ chế hỗ trợ phải chăng còn mâu thuẫn với các chính sách khác như đất đai, thuế...; nhiều ý kiến đồng tình có thêm các chính sách ưu đãi nhưng cũng còn ý kiến cho rằng ưu đãi cho kinh tế tập thể là không bình đẳng trong quan hệ giữa các loại hình kinh tế hiện nay. Một số ý kiến khác góp ý cụ thể vào
54
nội dung của từng chính sách như chính sách tín dụng, đầu tư kết cấu hạ tầng, chuyển đổi số, bảo hiểm xã hội, quỹ phát triển hợp tác xã...; chính sách phải xác định nguồn lực rõ ràng, đúng trọng tâm, đối tượng.
Bộ Chính trị xin báo cáo: Các chính sách ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước đối với kinh tế tập thể được đề cập trong dự thảo Nghị quyết mang tính chỉ đạo, định hướng chung. Trong quá trình tổ chức thực hiện Nghị quyết, Bộ Chính trị tiếp thu các ý kiến xác đáng nêu trên của Trung ương để giao Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành, cơ quan tiếp tục nghiên cứu, quy định các chính sách ưu đãi, hỗ trợ cho hợp tác xã đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, bảo đảm tính bình đẳng trong phát triển với các loại hình kinh tế khác. Đối với góp ý cụ thể vào từng nội dung của chính sách, Bộ Chính trị sẽ tiếp thu ý kiến để hoàn thiện dự thảo Nghị quyết cho phù hợp.
5. Về quản lý nhà nước, một số ý kiến đề nghị làm rõ trách nhiệm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các bộ, ngành, cơ quan liên quan, tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối với kinh tế tập thể; xác định nội dung, lĩnh vực, quy mô
55
thí điểm một số mô hình khác với quy định hiện hành; cần tăng cường vai trò của người đứng đầu cấp uỷ; làm rõ mô hình tổ chức, vị trí, chức năng, vai trò của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam trong việc phát triển kinh tế tập thể.
Bộ Chính trị xin báo cáo: Pháp luật hiện hành đã quy định trách nhiệm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan tham mưu, giúp Chính phủ quản lý nhà nước về kinh tế tập thể; các bộ, ngành, cơ quan liên quan chủ động xây dựng và tổ chức triển khai thực hiện các chính sách phù hợp. Trong thời gian tới, khi triển khai thực hiện và thể chế hoá Nghị quyết của Trung ương, Bộ Chính trị sẽ giao Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành, cơ quan liên quan tổng kết, đánh giá và hoàn thiện, làm rõ hơn vai trò, chức năng quản lý nhà nước của các cơ quan trong phát triển kinh tế tập thể. Việc thí điểm một số mô hình khác với quy định hiện hành sẽ được xem xét, cân nhắc kỹ lưỡng trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết phù hợp với thực tiễn đáp ứng yêu cầu phát triển của kinh tế tập thể. Mô hình, tổ chức, vị trí, chức năng và vai trò của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam đang được quy định tại Luật hợp tác xã năm 2012,
56
các nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ1. Trong quá trình thể chế hoá Nghị quyết, sẽ nghiên cứu việc có thể giao thêm cho Liên minh Hợp tác xã Việt Nam một số dịch vụ công phù hợp như chuyển đổi số, kế toán, kiểm toán, đào tạo, bồi dưỡng...
Ngoài những nội dung tiếp thu, giải trình nêu trên, đối với các ý kiến cụ thể khác của Trung ương, Bộ Chính trị sẽ chỉ đạo các cơ quan liên quan nghiên cứu, rà soát kỹ, tiếp thu đầy đủ trong quá trình hoàn thiện các báo cáo, dự thảo Nghị quyết; đồng thời lưu ý trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và tổ chức triển khai thực hiện trong thời gian tới.
Trên đây là nội dung tiếp thu, giải trình ý kiến của Trung ương, Bộ Chính trị kính trình Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
BỘ CHÍNH TRỊ
___________
1. Nghị định số 45/2010/NĐ-CP, ngày 21/4/2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội; Quyết định số 68/2010/QĐ-TTg, ngày 01/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc quy định hội có tính chất đặc thù và Quyết định số 1328/QĐ-TTg, ngày 23/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Điều lệ Liên minh Hợp tác xã Việt Nam.
57
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG *
Số 18-NQ/TW
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM Hà Nội, ngày 16 tháng 6 năm 2022
NGHỊ QUYẾT
HỘI NGHỊ LẦN THỨ NĂM
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG KHOÁ XIII
Về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển, có thu nhập cao
I- TÌNH HÌNH
Sau gần 10 năm thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI, chính sách, pháp luật về đất đai đã có nhiều đổi mới, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu thực tiễn, từng bước tạo hành lang pháp lý cho việc
58
quản lý và sử dụng đất hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả hơn.
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được thực hiện theo hướng tiếp cận tổng hợp, liên ngành và trở thành công cụ quan trọng để Nhà nước thống nhất quản lý, phân bổ và sử dụng đất đai. Nguồn lực đất đai được khai thác, sử dụng hiệu quả hơn cho phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường; góp phần giải quyết các vấn đề xã hội, tạo sự bình đẳng hơn giữa các chủ thể sử dụng đất; bước đầu khắc phục được tình trạng giao đất, cho thuê đất tuỳ tiện, tràn lan. Việc giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số được quan tâm. Lợi ích của các bên liên quan trong bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, thu hồi đất cũng như đời sống, sinh kế của người có đất bị thu hồi được quan tâm và bảo đảm tốt hơn. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất được bảo đảm và phát huy, nhất là trong sử dụng đất nông nghiệp.
Thị trường bất động sản, trong đó có thị trường quyền sử dụng đất phát triển tương đối nhanh; thể chế, chính sách phát triển thị trường bất động sản
59
và chính sách tài chính trong lĩnh vực đất đai từng bước được hoàn thiện. Chính sách ưu đãi về thuế, miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đã góp phần quan trọng thu hút đầu tư, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế - xã hội khó khăn. Chính sách đất đai về nhà ở xã hội đạt được một số kết quả quan trọng. Khung giá đất và bảng giá đất được xây dựng theo quy định, có tính đến giá đất phổ biến trên thị trường.
Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai, giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo và vi phạm pháp luật về đất đai có chuyển biến tích cực; nhiều vụ việc tham nhũng, vi phạm chính sách, pháp luật về đất đai được xử lý nghiêm minh. Năng lực quản lý nhà nước về đất đai từng bước được nâng cao; hệ thống tổ chức, bộ máy quản lý đất đai từng bước được kiện toàn. Cải cách hành chính trong lĩnh vực đất đai được coi trọng hơn. Việc đăng ký đất đai lần đầu, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đạt tỉ lệ cao. Cơ sở dữ liệu về đất đai bước đầu được quan tâm xây dựng.
60
Tuy nhiên, công tác quản lý và sử dụng đất còn nhiều hạn chế. Một số nội dung của Nghị quyết chưa được thể chế hoá hoặc thể chế hoá chậm, chưa đầy đủ; Luật đất đai và một số văn bản pháp luật có liên quan còn chồng chéo, chưa thống nhất, đồng bộ. Trong một số trường hợp, chính sách, pháp luật về đất đai chưa theo kịp sự thay đổi nhanh chóng của thực tiễn.
Hệ thống quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và các quy hoạch có sử dụng đất chưa bảo đảm tính tổng thể, thống nhất và đồng bộ. Chất lượng quy hoạch chưa cao, thiếu tầm nhìn dài hạn, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển bền vững. Việc giao đất, cho thuê đất ở một số nơi còn nhiều bất cập, sai phạm. Việc giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số ở một số nơi còn chậm, hiệu quả chưa cao, chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra. Việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, thu hồi đất ở một số địa phương thực hiện còn chậm, chưa đúng Nghị quyết và các quy định của pháp luật, làm ảnh hưởng đến quyền lợi, đời sống và sinh kế của người có đất bị thu hồi, gây thất thoát ngân sách nhà nước. Chưa có cơ chế hữu hiệu và chưa
61
kiên quyết xử lý các dự án chậm tiến độ hoặc không đưa đất vào sử dụng.
Thị trường bất động sản, trong đó có thị trường quyền sử dụng đất phát triển chưa ổn định, minh bạch, bền vững, tiềm ẩn nhiều rủi ro; thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp chậm phát triển. Cải cách hành chính trong quản lý đất đai còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn; việc tiếp cận đất đai của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa còn khó khăn. Công tác đăng ký, thống kê đất đai, đặc biệt là đăng ký biến động đất đai chưa thực hiện nghiêm. Vẫn còn tình trạng nhũng nhiễu, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp.
Chính sách tài chính trong lĩnh vực đất đai chưa thực sự khuyến khích sử dụng đất tiết kiệm, hiệu quả, bền vững; chưa hạn chế được tình trạng lãng phí và vi phạm pháp luật về đất đai; cơ cấu nguồn thu từ đất chưa bền vững. Các phương pháp định giá, đấu giá quyền sử dụng đất còn bất cập, chưa phù hợp với thực tế. Giá đất do Nhà nước xác định thường thấp hơn nhiều so với giá đất giao dịch trên thị trường. Chưa xử lý triệt để tình trạng
62
chênh lệch giá đất khu vực giáp ranh giữa các địa phương. Chưa có chế tài xử lý hành vi sai phạm trong xác định giá đất, đấu giá quyền sử dụng đất.
Năng lực quản lý nhà nước về đất đai chưa đáp ứng được yêu cầu. Cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin đất đai chưa được hoàn thiện. Tranh chấp, khiếu nại, tố cáo và vi phạm pháp luật về đất đai còn diễn biến phức tạp; đơn, thư tố cáo về đất đai có xu hướng tăng; nhiều vụ việc chậm được xử lý, giải quyết, gây bức xúc xã hội.
Đất đai chưa được khai thác, sử dụng hiệu quả để trở thành nguồn lực quan trọng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Suy thoái, ô nhiễm, sạt lở đất ngày càng nghiêm trọng. Tình trạng đất nông nghiệp, đất dự án bị bỏ hoang còn nhiều. Chưa giải quyết cơ bản một số vướng mắc, bất cập liên quan đến quản lý, sử dụng đất có nguồn gốc từ nông, lâm trường quốc doanh; đất quốc phòng, an ninh kết hợp với sản xuất và xây dựng kinh tế; đất của các cơ sở sản xuất, đơn vị sự nghiệp đã di dời khỏi trung tâm các đô thị lớn; đất cơ sở tôn giáo; đất sử dụng nhiều mục đích.
Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém nêu trên chủ yếu là do: Chưa có sự thống nhất cao về
63
nhận thức đối với một số vấn đề liên quan đến quản lý và sử dụng đất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là về tầm quan trọng và ý nghĩa của sở hữu toàn dân về đất đai do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhận thức về chính sách, pháp luật về đất đai có nơi, có lúc chưa đúng, chưa đầy đủ. Ý thức chấp hành pháp luật về đất đai của một bộ phận cán bộ và người dân còn hạn chế. Đất đai có tính lịch sử, nguồn gốc đa dạng, phức tạp, nhạy cảm.
Chính sách, pháp luật về đất đai còn nhiều hạn chế, bất cập, chồng chéo, thiếu thống nhất, ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý, tạo kẽ hở để không ít cá nhân, tổ chức lợi dụng, tham nhũng, trục lợi, gây thất thoát, lãng phí tài sản nhà nước.
Một số nhiệm vụ đã được đề cập trong Nghị quyết nhưng chưa được tổ chức thực hiện tốt. Công tác thi hành chính sách, pháp luật về đất đai chưa nghiêm. Việc phân cấp, phân quyền quản lý, sử dụng đất chưa hợp lý, chưa đi đôi với kiểm tra, giám sát, kiểm soát; chưa rõ trách nhiệm giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp trong
64
vai trò đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý nhà nước về đất đai. Chưa xử lý tốt các mối quan hệ lớn trong quản lý, sử dụng đất và những tồn tại, vướng mắc trong quản lý, sử dụng đất do lịch sử để lại và từ yêu cầu mới của thực tiễn. Việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai có lúc, có nơi còn chưa kịp thời, dứt điểm và chưa đúng pháp luật; còn tình trạng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm. Hệ thống tổ chức, bộ máy quản lý nhà nước về đất đai chưa phù hợp với yêu cầu thực tiễn; cơ chế và nguồn lực đầu tư cho bộ máy quản lý còn nhiều bất cập.
II- QUAN ĐIỂM
1. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước thực hiện quyền của chủ sở hữu thông qua việc quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng và quy định thời hạn sử dụng đất; quyết định giá đất; quyết định chính sách điều tiết phần giá
65
trị tăng thêm từ đất không phải do người sử dụng đất tạo ra. Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng theo quy định của pháp luật, bảo đảm công bằng, công khai, minh bạch, đề cao trách nhiệm giải trình. Quản lý và sử dụng đất phải bảo đảm lợi ích chung của toàn dân; nhân dân được tạo điều kiện tiếp cận, sử dụng đất công bằng, công khai, hiệu quả và bền vững.
Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo lãnh thổ quốc gia, cả về diện tích, chất lượng, giá trị kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, môi trường; phân công hợp lý giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương, đồng thời có sự phân cấp, phân quyền phù hợp, hiệu quả đối với địa phương và tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát, xử lý vi phạm.
2. Quyền sử dụng đất là một loại tài sản và hàng hoá đặc biệt nhưng không phải là quyền sở hữu; quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất được pháp luật bảo hộ. Người sử dụng đất có quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã được Nhà nước giao cho người khác sử dụng trong quá trình
66
thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai; không điều chỉnh lại đất nông nghiệp đã giao cho hộ gia đình, cá nhân; kịp thời có chính sách phù hợp để đất nông nghiệp được khai thác, sử dụng với hiệu quả cao nhất.
3. Thể chế, chính sách về đất đai phải được hoàn thiện đồng bộ và phù hợp với thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Có chính sách phù hợp với từng đối tượng, loại hình sử dụng đất để khơi dậy tiềm năng, phát huy cao nhất giá trị nguồn lực đất đai; kiên quyết khắc phục tình trạng tham nhũng, tiêu cực, khiếu kiện về đất đai, đầu cơ và sử dụng đất đai lãng phí.
4. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai. Hiện đại hoá công tác quản lý, dịch vụ công về đất đai. Củng cố, hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy quản lý đất đai tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, tập trung, đồng bộ, thống nhất. Nâng cao vai trò và năng lực các cơ quan tư pháp trong giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai. Đất đai phải được điều tra, đánh giá, thống kê, kiểm kê, lượng hoá, hạch toán đầy đủ trong nền kinh tế; được quy hoạch sử dụng hiệu quả, hợp lý
67
với tầm nhìn dài hạn, hài hoà lợi ích giữa các thế hệ, các vùng, miền, giữa Trung ương và địa phương, giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh; phát triển giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao; bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu; bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Giải quyết tốt những bất cập, vướng mắc trong quản lý và sử dụng đất do lịch sử để lại và từ yêu cầu mới của thực tiễn.
5. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong xây dựng, thực hiện và giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai.
III- MỤC TIÊU
1. Mục tiêu tổng quát
Hoàn thiện thể chế, chính sách về quản lý và sử dụng đất đồng bộ và phù hợp với thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nguồn lực đất đai được quản lý, khai thác, sử dụng bảo đảm tiết kiệm, bền vững, hiệu quả cao nhất; đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá,
68
hiện đại hoá, công bằng và ổn định xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh; bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu; tạo động lực để nước ta trở thành nước phát triển, có thu nhập cao. Thị trường bất động sản, trong đó có thị trường quyền sử dụng đất, trở thành kênh chủ yếu phân bổ đất đai hợp lý, công bằng, hiệu quả.
2. Mục tiêu cụ thể
Đến năm 2025:
Đến năm 2023 hoàn thành sửa đổi Luật đất đai năm 2013 và một số luật liên quan, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất. Hoàn thành xây dựng cơ sở dữ liệu số và hệ thống thông tin quốc gia về đất đai tập trung, thống nhất, đồng bộ, đa mục tiêu và kết nối liên thông. Hoàn thành kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về đất đai bảo đảm tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, đồng bộ, thống nhất; loại bỏ khâu trung gian, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền phù hợp, kèm theo cơ chế kiểm tra, giám sát và kiểm soát quyền lực. Giải quyết cơ bản những tồn tại, vướng mắc có liên quan đến quản lý và sử dụng đất có nguồn gốc từ nông, lâm trường quốc doanh;
69
đất quốc phòng, an ninh kết hợp với sản xuất và xây dựng kinh tế; đất của các cơ sở sản xuất, đơn vị sự nghiệp đã di dời khỏi trung tâm các đô thị lớn; đất lấn biển; đất cơ sở tôn giáo; đất nghĩa trang; đất kết hợp sử dụng nhiều mục đích; đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Đến năm 2030:
Hệ thống pháp luật về đất đai cơ bản được hoàn thiện đồng bộ, thống nhất, phù hợp với thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khắc phục bằng được tình trạng sử dụng đất lãng phí, bỏ đất không sử dụng, ô nhiễm, suy thoái và những tồn tại, vướng mắc về quản lý và sử dụng đất do lịch sử để lại.
IV- NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP
1. Thống nhất nhận thức trong cán bộ, đảng viên và nhân dân về quản lý và sử dụng đất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội
70
phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục để cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu đúng, đầy đủ về đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, nhất là về quyền và nghĩa vụ của Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu theo quy định của Hiến pháp và pháp luật; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, hộ gia đình và cá nhân được Nhà nước giao quyền sử dụng đất. Đất đai là nguồn lực to lớn phải được phát huy, quản lý và sử dụng có hiệu quả, bền vững, bảo đảm công bằng xã hội; không để bị suy thoái, huỷ hoại, lãng phí, tham nhũng, tiêu cực.
2. Hoàn thiện thể chế, chính sách quản lý và sử dụng đất đồng bộ với thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Trọng tâm là sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Luật đất đai năm 2013 và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan, bảo đảm đồng bộ, thống nhất, đáp ứng yêu cầu phát triển mới, cụ thể:
71
2.1. Đổi mới và nâng cao chất lượng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Các quy hoạch quốc gia cũng như quy hoạch sử dụng đất và các quy hoạch ngành, lĩnh vực có sử dụng đất phải bảo đảm phù hợp, thống nhất, đồng bộ, gắn kết chặt chẽ, thúc đẩy lẫn nhau để phát triển. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được lập ở cấp quốc gia, cấp tỉnh và cấp huyện, đáp ứng yêu cầu thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững; bảo đảm quốc phòng, an ninh; bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu. Nội dung quy hoạch sử dụng đất phải kết hợp giữa chỉ tiêu các loại đất gắn với không gian, phân vùng sử dụng đất, hệ sinh thái tự nhiên, thể hiện được thông tin đến từng thửa đất. Việc xác định chỉ tiêu sử dụng đất phải phù hợp với nhu cầu sử dụng đất, tránh lãng phí trong phân bổ, quản lý và sử dụng đất. Quy định rõ, chặt chẽ việc phê duyệt, ban hành kế hoạch sử dụng đất hằng năm. Nhà nước bảo đảm đủ nguồn lực để lập quy hoạch sử dụng đất và các quy hoạch ngành, lĩnh vực có sử dụng đất.
72
2.2. Hoàn thiện các quy định về giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất
Thực hiện việc giao đất, cho thuê đất chủ yếu thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất. Quy định cụ thể về đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất; hạn chế và quy định chặt chẽ các trường hợp giao đất, cho thuê đất không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất; bảo đảm công khai, minh bạch. Có cơ chế đồng bộ, cụ thể để xử lý vi phạm quy định về giao đất, cho thuê đất, nhất là liên quan tới đấu giá quyền sử dụng đất và đấu thầu dự án có sử dụng đất.
Cơ bản thực hiện hình thức cho thuê đất trả tiền hằng năm và quy định cụ thể các trường hợp trả tiền thuê đất một lần, phù hợp với tính chất, mục đích sử dụng đất, bảo đảm nguồn thu ổn định, tránh thất thoát ngân sách nhà nước. Nhà nước thực hiện giao đất có hạn mức không thu tiền sử dụng đất đối với đất sử dụng làm cơ sở thờ tự, trụ sở của các tổ chức tôn giáo. Các tổ chức tôn giáo sử dụng đất vào mục đích khác phải trả tiền thuê đất
73
cho Nhà nước theo quy định của pháp luật. Quy định điều kiện giao đất, cho thuê đất, hạn mức sử dụng đất đối với các tổ chức tôn giáo phù hợp với quỹ đất hiện có của địa phương.
Tăng cường công tác quản lý, kiểm soát chặt chẽ việc chuyển mục đích sử dụng đất, đặc biệt là đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng, đất rừng sản xuất là rừng tự nhiên, đất của các doanh nghiệp có vốn nhà nước thực hiện thoái vốn, cổ phần hoá và các loại đất được sử dụng đa mục đích; tăng cường phân cấp, phân quyền đi đôi với kiểm tra, giám sát, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong chuyển mục đích sử dụng đất.
2.3. Hoàn thiện quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng
Việc thu hồi đất phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; chỉ được thực hiện sau khi phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được phê duyệt. Đối với trường hợp thu hồi đất mà phải bố trí tái định cư thì phải hoàn thành bố trí tái định cư trước khi
74
thu hồi đất. Việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư phải đi trước một bước, bảo đảm công khai, minh bạch, hài hoà lợi ích của Nhà nước, người có đất bị thu hồi và nhà đầu tư theo quy định của pháp luật; có quy định cụ thể về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để sau khi thu hồi đất thì người dân có đất bị thu hồi phải có chỗ ở, bảo đảm cuộc sống bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ. Thực hiện có hiệu quả việc đào tạo nghề, tạo việc làm, tổ chức lại sản xuất, ổn định đời sống cho người có đất bị thu hồi. Tiếp tục thực hiện thí điểm và sớm tổng kết chủ trương tách dự án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư ra khỏi dự án đầu tư để thực hiện trước.
Quy định cụ thể hơn về thẩm quyền, mục đích, phạm vi thu hồi đất, điều kiện, tiêu chí cụ thể việc Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Tiếp tục thực hiện cơ chế tự thoả thuận giữa người dân và doanh nghiệp trong chuyển nhượng quyền sử dụng đất để thực hiện các dự án đô thị, nhà ở thương mại. Hoàn thiện tổ chức, bộ máy, cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính của các tổ chức phát triển quỹ đất, bảo đảm tinh gọn, hoạt động hiệu quả, đủ năng lực tạo lập,
75
quản lý, khai thác quỹ đất, thực hiện tốt nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Quy định cụ thể việc khai thác hiệu quả quỹ đất phụ cận các công trình kết cấu hạ tầng theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và chính sách ưu tiên cho người có đất ở bị thu hồi đất được giao đất hoặc mua nhà trên diện tích đất đã thu hồi mở rộng theo quy định của pháp luật. Đối với các dự án phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất, cần sớm xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách để tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có quyền sử dụng đất tham gia với nhà đầu tư thực hiện các dự án dưới hình thức chuyển nhượng, cho thuê, góp vốn bằng quyền sử dụng đất.
Quy định cơ chế góp quyền sử dụng đất, điều chỉnh lại đất đai đối với các dự án phát triển, chỉnh trang đô thị và khu dân cư nông thôn. Có chế tài cụ thể và đồng bộ để xử lý các trường hợp đã được Nhà nước giao đất, cho thuê đất nhưng không sử dụng hoặc chậm sử dụng. Kiên quyết thu hồi đất của tổ chức, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp
76
sử dụng đất không đúng mục đích, nhất là tại các vị trí có lợi thế, khả năng sinh lợi cao, ngăn chặn thất thoát vốn, tài sản nhà nước.
2.4. Hoàn thiện cơ chế xác định giá đất
Bỏ quy định về khung giá đất. Có cơ chế, phương pháp xác định giá đất theo nguyên tắc thị trường, quy định chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của cơ quan có nhiệm vụ xác định giá đất. Trung ương xây dựng tiêu chí và quy trình kiểm tra, giám sát các địa phương trong việc xây dựng bảng giá đất. Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định và kiểm tra, giám sát việc thực hiện giá đất. Có cơ chế hữu hiệu để nâng cao chất lượng công tác định giá đất, bảo đảm tính độc lập của hội đồng thẩm định giá đất, năng lực của tổ chức tư vấn xác định giá đất, năng lực và đạo đức của các định giá viên. Bổ sung, hoàn thiện các quy định bảo đảm công khai, minh bạch như: công khai giá đất, bắt buộc giao dịch qua các sàn giao dịch, thanh toán qua ngân hàng, không dùng tiền mặt; xử lý nghiêm các vi phạm...
77
2.5. Hoàn thiện cơ chế, chính sách tài chính về đất đai
Chính sách tài chính về đất đai phải bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư; có cơ chế điều tiết hợp lý, hiệu quả nguồn thu từ tiền sử dụng đất, tiền thuê đất giữa Trung ương và địa phương; nghiên cứu xây dựng chính sách điều tiết chênh lệch địa tô, bảo đảm công khai, minh bạch. Rà soát chính sách, pháp luật về thuế sử dụng đất nông nghiệp và đất phi nông nghiệp, xây dựng chính sách, pháp luật về thuế sử dụng đất theo thông lệ quốc tế, phù hợp với trình độ phát triển, điều kiện cụ thể và lộ trình thích hợp. Quy định mức thuế cao hơn đối với người sử dụng nhiều diện tích đất, nhiều nhà ở, đầu cơ đất, chậm sử dụng đất, bỏ đất không sử dụng. Có chính sách ưu đãi thuế, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất phù hợp với lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư; với hộ nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, gia đình người có công với cách mạng; với những địa phương được quy hoạch sản xuất nhằm bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, bảo vệ các loại rừng, nhất là rừng phòng hộ, rừng đặc dụng...
78
"""