🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Văn Kiện Đảng Bộ Toàn Tập Tập 6 (1967 - 1970)
Ebooks
Nhóm Zalo
3K1(V115)
Mãsố:CTQG-2015
2
HỘI ĐỒNG XUẤT BẢN
NGUYỄN VĂN VỊNH Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng DOÃN VĂN HƯỞNG Phó Bíthư Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Hội đồng PHẠM VĂN CƯỜNG Ủy viên Hội đồng
CAO ĐỨC HẢI Ủy viên Hội đồng
TẠ ĐÌNH BẢNG Ủy viên Hội đồng
NGUYỄN VĂN HÒA Ủy viên Hội đồng
NGUYỄN THANH DƯƠNG Ủy viên Hội đồng
ĐẶNG PHI VÂN Ủy viên Hội đồng
MAI ĐÌNH ĐỊNH Ủy viên Hội đồng
LÝ SEO DÌN Ủy viên Hội đồng
ĐINH TIẾN QUÂN Ủy viên Hội đồng
NGUYỄN HỮU THỂ Ủy viên Hội đồng
HẦU A LỀNH Ủy viên Hội đồng
HÀ THỊ NGA Ủy viên Hội đồng
CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG BẢN THẢO
NGUYỄN VĂN VỊNH Bí thư Tỉnh ủy
SÙNG CHÚNG Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy DOÃN VĂN HƯỞNG Phó Bí thư Tỉnh ủy
5
BAN XÂY DỰNG BẢN THẢO
VĂN KIỆN TOÀN TẬP
CAO ĐỨC HẢI Trưởng ban
ĐỖ TRƯỜNG SƠN Phó Trưởng ban Thường trực ĐỖ VĂN LƯỢC Phó Trưởng ban NGUYỄN THỊ NGUYỀN Thư ký
ĐẶNG PHI VÂN Thành viên (hiệu đính) LÝ SEO DÌN Thành viên
LÝ THỊ VINH Thành viên
TRẦN VĂN TỎ Thành viên
VŨ HÙNG DŨNG Thành viên
NGUYỄN THỊ KIM NGÂN Thành viên
ĐÀO DUY THẮNG Thành viên
ĐỖ VIẾT LỢI Thành viên
NGUYỄN VĂN NHÂN Thành viên
ĐOÀN NGỌC TUYẾN Thành viên
NGUYỄN THỊ LOAN Thành viên
HOÀNG THỊ THANH THU Thành viên
NGUYỄN THỊ MINH Thành viên (hiệu đính) NGUYỄN THÀNH NAM Thành viên
PHẠM THÀNH LONG Thành viên
NGUYỄN CAO SỸ Thành viên
ĐÀO ANH TUẤN Thành viên
6
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Bộ sách Văn kiện Đảng bộ toàn tập của Đảng bộ tỉnh Lào Cai được thực hiện theo Kế hoạch số 71- KH/TU, ngày 22-12-2013 của Tỉnh ủy Lào Cai về việc xây dựng Văn kiện Đảng bộ tỉnh Lào Cai toàn tập từ khóa I đến khóa XIV. Ban Xây dựng Bản thảo Văn kiện Đảng bộ tỉnh Lào Cai toàn tập từ khóa I đến khóa XIV phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật tiến hành sưu tầm, xây dựng và xuất bản bộ sách Văn kiện Đảng bộ toàn tập của Đảng bộ tỉnh Lào Cai. Đây là một bộ tài liệu có ý nghĩa chính trị và giá trị khoa học, thực tiễn đánh dấu sự phát triển của Đảng bộ
tỉnh Lào Cai gắn với quá trình lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng, bảo vệ và xây dựng quê hương. Bộ sách giúp các nhà nghiên cứu, cán bộ, đảng viên và nhân dân, đặc biệt là các nhà lãnh đạo tiếp cận nguồn thông tin, tư liệu mang tính hệ thống, toàn diện về văn kiện của Đảng bộ tỉnh Lào Cai, phục vụ cho việc nghiên cứu, tổng kết lý luận và thực tiễn, biên soạn lịch sử Đảng bộ tỉnh Lào Cai, đảng bộ cơ sở, lịch sử địa phương, ban, ngành và các tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn tỉnh; góp phần giáo dục lịch sử địa phương trong các trường phổ thông, các trung tâm bồi dưỡng chính trị, các chi bộ, đảng bộ; thấy rõ sự sáng tạo, nhạy bén, kịp thời và toàn diện trong lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Lào Cai qua các giai đoạn cách mạng, qua
đó củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Cuốn sách Văn kiện Đảng bộ toàn tập, tập 6 (1967 - 1970) tập hợp các Văn kiện do Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lào Cai ban hành từ năm 1967 đến năm 1970 và được sắp xếp theo thời gian ban hành.
7
Do cuốn sách bao gồm các văn kiện được in rônêo, đánh máy hoặc viết tay, nên trong các trường hợp chữ mờ, chữ không có dấu, chúng tôi giữ nguyên như bản gốc. Ngoài ra, trong sách còn có một số danh từ, tên gọi, địa danh, tên riêng,... chúng tôi chưa có điều kiện thẩm định. Vì vậy, mặc dù đã hết sức cố gắng trong quá trình biên tập nhưng chắc rằng cuốn sách khó tránh khỏi thiếu sót và khiếm khuyết. Chúng tôi mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để hoàn thiện cuốn sách trong lần xuất bản sau.
Xin giới thiệu cuốn sách đến với các đồng chí và các bạn.
Tháng 7 năm 2015
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - SỰ THẬT
8
LỜI GIỚI THIỆU
Từ năm 1967 đến tháng 2 năm 1970, cách mạng nước ta có nhiều biến đổi quan trọng. Đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược "Chiến tranh cục bộ" với việc ồ ạt đưa quân Mỹ và chư hầu vào miền Nam, tăng cường chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc. Trong tình hình cả nước có chiến tranh, Trung ương Đảng đã đề ra chủ trương phù hợp cho mỗi miền.
Trên cơ sở nghị quyết Trung ương, từ năm 1967 đến tháng 2 năm 1970, Đảng bộ tỉnh Lào Cai tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quân dân Lào Cai chuyển hướng xây dựng và phát triển kinh tế địa phương cho phù hợp với tình hình thời chiến. Thông qua việc ban hành các chỉ thị, nghị quyết, thông báo, thông tri quan trọng, Đảng bộ đã lãnh đạo kịp thời các hoạt động phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh biên giới, chi viện sức người, sức của cho miền Nam.
Văn kiện Đảng bộ toàn tập, tập 6 (1967 - 1970) phản ánh sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Lào Cai từ tháng 1-1967 đến tháng 2-1970 với những chủ trương trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, phát triển hợp tác xã, xây dựng Đảng, hệ thống chính trị, xây dựng củng cố quốc phòng, đối phó với chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ; khắc phục hậu quả chiến tranh; chi viện sức người, sức của cho miền Nam; chuẩn bị cho Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V.
9
Văn kiện Đảng bộ toàn tập, tập 6 (1967 - 1970) tập hợp các nghị quyết, chỉ thị, thông tri,... của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lào Cai, gồm 78 tài liệu, được sắp xếp theo thời gian ban hành.
Mặc dù Ban Xây dựng bản thảo và Hội đồng Xuất bản đã hết sức cố gắng nhưng khó tránh khỏi thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý của bạn đọc.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 6 năm 2015
HỘI ĐỒNG XUẤT BẢN
10
CHỈ THỊ
CỦA BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ
Số 109-CT/TU, ngày 15-1-1967
Về đợt vận động quần chúng đẩy mạnh sản xuất đông - xuân và kế hoạch nhà nước năm 1967
Thực hiện chủ trương của Trung ương chuyển hướng xây dựng và phát triển kinh tế phục vụ nhiệm vụ chính trị đấu tranh giải phóng miền Nam, chống chiến tranh phá hoại ngày càng ác liệt của địch và xây dựng chủ nghĩa xã hội miền Bắc, năm qua trong hoàn cảnh vừa sản xuất vừa chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, mặc dù bị thiên tai lớn (lũ lụt, mất mùa) và địch họa (chủ yếu đường giao thông bị bế tắc do địch gây nên), nhưng tỉnh ta đã biết vận dụng tốt đường lối của Trung ương tiến hành kết hợp chặt chẽ và làm tốt 3 cuộc cách mạng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở địa phương, cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng văn hóa tư tưởng, cách mạng kỹ thuật, nên tỉnh ta đã lớn lên về mọi mặt. Nông nghiệp và công nghiệp vẫn phát triển, các nhu cầu cần thiết cho sản xuất chiến đấu được đảm bảo, đời sống vật chất của cán bộ công nhân viên và nhân dân các dân tộc được giữ vững không bị
đảo lộn; đời sống tinh thần được duy trì và có chiều hướng phát triển tốt.
Nhưng bên cạnh những mặt tốt cơ bản đó còn những mặt yếu: Việc phục vụ sản xuất chiến đấu và đời sống tuy có nhiều cố gắng nhưng chưa đáp ứng kịp yêu cầu. Năng suất lao động trong các
11
lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp còn thấp. Trình độ quản lý kinh tế, quản lý kỹ thuật còn yếu. Thực phẩm, một số hàng tiêu dùng thiết yếu, một số vật tư quan trọng chưa thật sự được đảm bảo. Công tác lương thực vụ mùa tiến hành còn chậm. Sự quan tâm của lãnh đạo đối với các vùng chưa đều, phong trào vùng cao còn yếu. Quần chúng được phát động, khí thế phong trào ở cơ sở
vươn lên nhưng các cấp và các ngành (chủ yếu là các ngành tỉnh) không chạy kịp đáp ứng yêu cầu của phong trào.
Cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta sẽ đi vào thời kỳ gay gắt nhất. Cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ đối với miền Nam cũng như chiến tranh phá hoại của chúng đối với miền Bắc sẽ càng tăng cường và ác liệt hơn. Vì vậy, đi đôi với việc củng cố cơ sở, củng cố xây dựng lực lượng, đảm bảo trật tự trị an, đề cao cảnh giác sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu tốt, địa phương ta còn phải ra sức tăng cường lực lượng kinh tế. Nhằm xây dựng tỉnh ta thành tỉnh căn cứ địa vững chắc có tiềm lực kinh tế và quốc phòng đáp ứng yêu cầu đòi hỏi khẩn trương của cách mạng, nên chúng ta phải kiên quyết thực hiện hoàn thành tốt kế hoạch nhà nước năm 1967 với quyết tâm cao, với sự cố gắng lớn nhất làm cho nền kinh tế tỉnh ta tiến lên một bước mạnh mẽ đảm bảo tốt yêu cầu sản xuất chiến đấu, đảm bảo đời sống nhân dân và chuẩn bị cho việc phát triển kinh tế của địa phương có những bước tiến vọt sau này.
Hiện nay chúng ta đã bước vào sản xuất đông - xuân, vụ đông - xuân lại là vụ sản xuất có tầm quan trọng lớn, có tính chất quyết định đối với sản xuất toàn năm. Tỉnh đã phát động sản xuất đông - xuân thành một chiến dịch lớn. Nay Ban Thường vụ Tỉnh ủy quyết định tiến hành một đợt vận động quần chúng thực hiện kế hoạch tập trung, làm thật mạnh từ nay đến Tết Nguyên đán, để tiếp tục làm tốt chiến dịch sản xuất đông - xuân, phát huy thắng lợi của đợt cải tiến quản lý hợp tác xã nông nghiệp, cải tiến kỹ thuật vùng thấp và tiến sâu vào cuộc củng cố vùng cao sắp tới làm đà cho các
12
bước của chiến dịch sản xuất đông - xuân đã phát động và làm đà cho việc đẩy mạnh thực hiện kế hoạch nhà nước toàn năm 1967, vừa lấy kết quả để sơ kết màn đầu của chiến dịch đông - xuân, vừa lấy thành tích chào mừng ngày kỷ niệm thành lập Đảng 3 tháng 2 năm 1967. Đợt vận động này nhằm thúc đẩy việc thực hiện kế hoạch nhà nước nói chung nhưng phải tập trung làm một số việc có kết quả cụ thể thiết thực như sau:
- Trong nông nghiệp, tùy theo từng hợp tác xã phát động các chiến dịch làm thủy lợi, cày ải, làm phân, chuẩn bị giống, chuẩn bị tết trồng cây,... hoàn thành các chỉ tiêu gieo trồng theo thời vụ vào thời kỳ này trước tết. Tết năm nay với tinh thần tết chống Mỹ, các địa phương cần tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện vừa ăn tết vừa sản xuất, một tết vui tươi lành mạnh, tết sản xuất tiết kiệm và sản xuất chiến đấu. Ngay trong những ngày tết vận động nhân dân tiếp tục sản xuất, mỗi hợp tác xã nên tập trung đào được 1 ao tập thể để thả cá hoặc hợp tác xã vùng cao không thể đào ao thì trồng một đồi cây hay làm việc gì cụ thể. Phấn đấu đạt bằng được 100% hợp tác xã nông nghiệp đăng ký thi đua với hợp tác xã Tiền Phong và đội sản xuất 5 hợp tác xã Tiền Phong (hợp tác xã và đội sản xuất tiên tiến, điển hình và là lá cờ đầu về thâm canh tăng năng suất của tỉnh) với hợp tác xã Nậm Trì (lá cờ đầu về thủy lợi) và hợp tác xã Thanh Kim (lá cờ đầu về lâm nghiệp). Hoàn thành tổng kết bình bầu thi đua xong ở xã và chọn được các ngọn cờ đầu về các mặt năm 1966 (lao động tiên tiến, chiến sĩ thi đua, hợp tác xã tiên tiến, xã điển hình về các mặt).
- Trong công nghiệp quốc doanh nói chung, đợt sản xuất này phải là cái đà mạnh mẽ để đảm bảo chắc chắn hoàn thành kế hoạch quý I đầu năm. Các cơ sở công nghiệp đẩy mạnh sản xuất và cũng tiếp tục làm trong ngày tết, với mức cố gắng nhất, sản xuất được khối lượng sản phẩm nhiều, năng suất cao, chất lượng tốt với giá thành hạ nhất. Công nghiệp địa phương tập trung lực lượng sản xuất ra nhiều sản phẩm có chất lượng tốt trong thời gian này
13
để phục vụ nông nghiệp như nông cụ thường, nông cụ cải tiến, vôi bón, trang bị cơ khí nhỏ, phương tiện giao thông vận tải (xe cải tiến, các phương tiện vận tải thô sơ), v.v.. Về mặt xây dựng, một số cơ sở công nghiệp thực phẩm và công nghiệp địa phương chưa hoàn thành được trong năm 1966 theo kế hoạch, cần tập trung làm dứt điểm trước tết và nhanh chóng đưa vào sản xuất.
- Các địa phương và các ngành có trách nhiệm, có kế hoạch bố trí lực lượng nhằm làm tốt việc quản lý, bảo dưỡng, bảo vệ các cầu đường nhất là đường giao thông chiến lược, có kế hoạch sẵn sàng chủ động đảm bảo giao thông thời chiến tiến hành đợt mở rộng giao thông nông thôn kết hợp sử dụng xe cải tiến phục vụ nông nghiệp thời gian trước tết. Đẩy mạnh tốc độ thi công các tuyến đường với tinh thần đảm bảo chắc chắn sẽ hoàn thành đúng và vượt thời gian, kế hoạch quy định.
- Làm tốt công tác thu mua vụ mùa và công tác lưu thông phân phối dịp tết: Từ nay đến tết, các địa phương quyết tâm phấn đấu đảm bảo hoàn thành tốt công tác ba thu kể cả lương thực, thực phẩm, lợn và đỗ tương, đồng thời đẩy mạnh thu mua các hàng nông sản khác. Cố gắng đảm bảo các hàng vật tư, tư liệu sản xuất, hàng thiết yếu cho đời sống nhân dân và hàng phục vụ tết. Bảo đảm phân phối tốt, thực hiện đúng tinh thần lời dạy của Hồ Chủ
tịch: không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng, không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên.
- Các cơ quan, các ngành, các công nông lâm trường, xí nghiệp, đơn vị đều phải có quyết tâm lớn, hành động với mức cố gắng nhất trong đợt vận động này làm đà chắc chắn cho việc phấn đấu thực hiện đạt kế hoạch tháng đầu và quý đầu của mình và có chương trình cụ thể phục vụ sản xuất đông - xuân như các ngành phục vụ
nông nghiệp có kế hoạch phục vụ tốt về vật tư, giống, nông cụ, công cụ cải tiến, phân bón, v.v.. Ngoài ra nói chung, mỗi cơ sở phải hoàn thành đào được 1 ao thả cá hoặc 1 diện tích gieo trồng được những loại cây có giá trị thực phẩm như lạc, đỗ tương, v.v..
14
- Thực hiện vừa sản xuất vừa chiến đấu thì trong đợt vận động ngoài việc sản xuất tốt còn phải chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu tốt. Chủ yếu phải tiếp tục đẩy mạnh đào hầm hào ở gia đình, cơ quan và nơi công cộng, tiếp tục sơ tán ra ngoài vùng trọng điểm, tiếp tục xây dựng làng chiến đấu, kiểm tra lại các phương án phòng chống gián điệp biệt kích ở các vùng xung yếu, chuẩn bị lực lượng sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ tốt trật tự trị an đề phòng hỏa hoạn nhất là trong dịp tết.
Để đợt vận động này đạt kết quả tốt yêu cầu các cấp các ngành chú ý thi hành các điểm như sau:
- Phải thực hiện dân chủ hóa kế hoạch kể cả trong việc xây dựng cũng như việc thực hiện kế hoạch, làm từ trong lãnh đạo, trong Đảng ra ngoài quần chúng. Năm nay tỉnh ta đã làm kế hoạch sớm từ mấy tháng trước đây và xây dựng từ cơ sở lên. Các huyện, thị căn cứ vào chỉ tiêu kiểm tra tỉnh đã gửi xuống, dân chủ
thảo luận bàn bạc. Nói chung các cấp các ngành đều thực hiện tập thể kiểm điểm và thực hiện kế hoạch nhà nước năm qua, rà lại một lần nữa kế hoạch đã xây dựng, xác định lại các phương hướng, chỉ tiêu kế hoạch, biện pháp thực hiện của địa phương, cơ sở, đơn vị mình và có bổ khuyết cho sát đúng rồi đưa ra quần chúng xã viên, công nhân tham gia, bàn bạc một cách dân chủ và phương hướng, mục tiêu phấn đấu nhưng chủ yếu bàn về biện pháp thực hiện như biện pháp kỹ thuật, biện pháp quản lý, v.v. và về tổ chức phong trào (phong trào thủy lợi, làm phân, cày ải, phong trào phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, v.v.). Đặc biệt chú ý bàn sâu về những công việc làm trong đợt vận động này. Sau khi bàn vận động, tổ chức quần chúng quyết tâm thực hiện bằng được kế hoạch đã đề ra.
- Làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng làm cho quần chúng nắm được đường lối chủ trương của Đảng về thực hiện kế hoạch nhà nước, nhiệm vụ chuyển hướng kinh tế thời chiến, tinh thần đợt vận động này và ý định của lãnh đạo, đồng thời thường xuyên theo dõi
15
nắm vững tư tưởng quần chúng kịp thời giải quyết thắc mắc, uốn nắn lệch lạc, khắc phục những mặt yếu, phát huy những mặt tốt, phát triển những nhân tố tích cực tiên tiến động viên phong trào quần chúng với quyết tâm cao, với tinh thần tiến công mạnh mẽ liên tục, khắc phục khó khăn gian khổ hoàn thành bằng được những mục tiêu đề ra trong đợt vận động làm đà cho việc đẩy mạnh thực hiện kế hoạch Nhà nước trong đông - xuân và toàn năm 1967.
- Cải tiến thêm một bước về nền nếp phương thức lãnh đạo, chỉ đạo: các ngành, các cấp phải biết nắm vững công tác trung tâm, tập trung vào những khâu chính trong từng thời gian, biết sử dụng chuyên môn và biết phát động quần chúng liên tục mạnh mẽ, chỉ
đạo phải sát cơ sở. Nói chung cán bộ lãnh đạo chỉ đạo ở trên phải thâm nhập xuống cơ sở bên dưới vừa là ăn tết với quần chúng vừa động viên phong trào. Các đơn vị kết nghĩa hợp tác xã cũng nên bố trí cán bộ xuống hợp tác xã kết nghĩa của mình giúp đỡ phong trào, tham gia tổng kết phong trào và cùng ăn tết với nhân dân.
Cán bộ lãnh đạo phải chú ý nghiên cứu, học tập khoa học kỹ thuật, biết tiếp thu tốt khoa học kỹ thuật để vận dụng tốt trong việc lãnh đạo chỉ đạo tốt khâu này, biết phát hiện, xây dựng về bồi dưỡng điển hình, biết tiếp thu kinh nghiệm của các điển hình tiên tiến, biết nhân và phổ biến điển hình một cách rộng rãi và kịp thời.
- Chú trọng gắn liền việc đẩy mạnh sản xuất với củng cố xây dựng Đảng và các tổ chức quần chúng trong quá trình đợt vận động, đồng thời phát huy vai trò nhân cốt của Đảng và tác dụng của các đoàn thể quần chúng với phong trào thanh niên ba sẵn sàng, phụ nữ ba đảm đang, phụ lão ba giỏi, v.v. động viên thúc đẩy mạnh mẽ phong trào quần chúng đảm bảo hoàn thành với mức cao nhất các yêu cầu đề ra trong đợt vận động này. Đảm bảo hoàn thành xong tổng kết chi bộ 4 tốt năm 1966 và phát động đăng ký năm 1967 ở cơ sở, chuẩn bị tốt Đại hội Đảng các cấp huyện, thị, đảng ủy. Tiến hành học tập tốt Nghị quyết 136 của Trung ương trong các ban chấp hành huyện, thị ủy.
16
Phấn khởi trước những thắng lợi to lớn của năm qua, trước tinh thần hăng hái mạnh mẽ của quần chúng tiến quân vào sản xuất đông - xuân ngay từ đầu màn một của chiến dịch, Ban Thường vụ Tỉnh ủy tin tưởng rằng các cấp các ngành và nhân dân các dân tộc với quyết tâm cao hơn nữa, với khí thế thi đua sôi nổi, với tinh thần tấn công mạnh mẽ liên tục, nhất định chúng ta sẽ
giành thắng lợi to lớn trong đợt vận động này làm đà chắc chắn cho việc phấn đấu hoàn thành thắng lợi kế hoạch sản xuất đông - xuân cũng như kế hoạch nhà nước năm 1967. Các cấp các ngành sẽ báo công với tỉnh về những thành tích đạt được vào trước tết và cả ngay trong những ngày tết.
Các Ban Nông nghiệp, Tuyên giáo, Thi đua, Đảng đoàn chính quyền có trách nhiệm tổ chức phổ biến hướng dẫn thi hành chỉ thị này và theo dõi đôn đốc kiểm tra phong trào, nắm kết quả hành động thực tế về sản xuất chiến đấu trong đợt vận động theo chức năng nhiệm vụ của ngành mình.
T/M BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY
ỦY VIÊN THƯỜNG VỤ
VIỆT TIẾN
Lưu tại Kho Lưu trữ Tỉnh ủy.
17
NGHỊ QUYẾT
CỦA BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY
Số 40/NQ-TU, ngày 20-1-1967
Về công tác Mặt trận trong tình hình mới
Nhận định công tác Mặt trận của Đảng trong mấy năm qua.
Hòa bình lập lại, tình hình cách mạng đã chuyển sang một giai đoạn mới. Trong những năm qua công tác mặt trận đã tuyên truyền vận động giáo dục các tầng lớp nhân dân trong tỉnh đoàn kết chặt chẽ thực hiện các nhiệm vụ lớn của Đảng và Chính phủ ở
địa phương, góp phần tích cực cho ba cuộc cách mạng: cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng kỹ thuật, cách mạng văn hóa tư tưởng. Đặc biệt là vấn đề đoàn kết dân tộc. Trong các cuộc vận động tiễu phỉ, thành lập khu tự trị, vận động hợp tác hóa kết hợp hoàn thành cải cách dân chủ ở miền núi và vận động sản xuất, v.v. nhân dân lao động các dân tộc đã thanh toán các xích mích do đế quốc để lại để tập trung đánh đổ bọn đầu sỏ ngoan cố, xây dựng mối quan hệ dân tộc có nhiều chuyển biến tốt. Nhiều dân tộc ở xen kẽ trong cùng một thôn, bản đã xây dựng hợp tác xã, cùng nhau làm thủy lợi, khai phá ruộng bậc thang, mở đường giao thông, xây dựng các trường học, trạm xá, nhà hộ sinh, v.v.. Các dân tộc đã giúp đỡ học tập lẫn nhau về kinh nghiệm sản xuất giữa đồng bào địa phương và đồng bào miền xuôi lên tham gia phát triển kinh tế, văn hóa ở miền núi. Công tác Mặt trận của Đảng hiện nay đang
18
phục vụ nhiệm vụ chủ yếu là động viên và đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân các dân tộc sản xuất và chống Mỹ, cứu nước. Nhưng bên cạnh những mặt tốt cũng nảy ra những xích mích mới giữa các dân tộc trong nội bộ hợp tác xã. Giữa hợp tác xã này với hợp tác xã khác, giữa đồng bào địa phương và đồng bào miền xuôi lên. Những xích mích này đẻ ra trong quá trình xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất mới là do tư tưởng hẹp hòi, do tập quán khác nhau trong sản xuất và trong sinh hoạt của mỗi dân tộc. Công tác Mặt trận ngoài việc tiến hành các biện pháp để đoàn kết nhân dân lao động các dân tộc, vấn đề tranh thủ cải tạo tầng lớp trên trước đây Đảng bộ ta cũng tiến hành được tốt, có tác dụng to lớn trong việc thêm bạn bớt thù, phân hóa được những người có xu hướng tiến bộ với bọn đầu sỏ ngoan cố. Chúng ta đã rút được một số kinh nghiệm trong việc giáo dục tranh thủ số này. Thông qua các hình thức tọa đàm, tổ chức học tập chính sách, hội nghị Ủy ban Mặt trận các cấp mở rộng, tổ chức hội nghị phụ lão ở xã mà có tác dụng động viên thúc đẩy họ vận động các con cháu thực hiện các chính sách như ba thu, chống nạn mù chữ, làm thủy lợi; ruộng bậc thang, cải tạo thầy mo, thầy cúng, v.v..
Sau cải cách dân chủ, công tác tranh thủ tầng lớp trên ở một số cấp ủy có lúc, có nơi có phần coi nhẹ và xuất hiện một số nhận thức lệch lạc cho rằng tầng lớp trên đã hết vai trò tác dụng nên không cần thanh thủ nữa, hoặc vẫn đánh giá cao vai trò tác dụng của lớp trên như cũ không thấy tình hình mới, giai đoạn mới. Chúng ta phải khắc phục những nhận thức không đúng đó. Nếu phủ định hoàn toàn vai trò và tác dụng của lớp trên sẽ thoát ly tình hình đặc điểm dân tộc, ngược lại nếu coi tầng lớp trên vẫn còn uy thế chính trị, kinh tế như trước đây là không đúng, vì qua sự giáo dục của ta tầng lớp trên đã có biến chuyển và quần chúng cơ bản đã được giác ngộ nhiều.
Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước hiện nay chúng ta vẫn tiếp tục tranh thủ cải tạo số lớp trên xuất thân là thành phần bóc
19
lột, nhưng đáng chú ý nhất là tranh thủ loại lớp trên là đầu dòng họ, thầy mo, thầy cúng ở nông thôn vì họ là những người có quan hệ trực tiếp với quần chúng và còn có một số phần nào uy tín nhất định. Nếu tranh thủ giáo dục được thì họ sẽ góp phần vào việc thực hiện các chính sách của Đảng và Chính phủ tốt. Nếu coi thường việc giáo dục các chính sách, coi thường tranh thủ thì có mặt nào họ làm trở ngại công tác của ta. Vì vậy, cần phải chống hai nhận thức và phải xây dựng cho đúng.
Công tác vận động đồng bào theo đạo Thiên Chúa: số lượng đồng bào theo đạo Thiên Chúa ở tỉnh ta trước đây tương đối ít nhưng mấy năm gần đây thực hiện chủ trương của Đảng một số đồng bào ở miền xuôi lên tham gia xây dựng kinh tế văn hóa ở
miền núi do đó mà số lượng giáo dân cũng được tăng lên nhiều và ở rải rác khắp trong tỉnh.
Qua nhiều cuộc vận động lớn như hợp tác hóa kết hợp với hoàn thành cải cách dân chủ, vận động bảo vệ trị an, cải tiến quản lý hợp tác xã, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, giác ngộ giai cấp, giác ngộ cách mạng, v.v. trách nhiệm quần chúng giáo dân được nâng cao. Đời sống vật chất được cải thiện rõ rệt tín ngưỡng được tôn trọng nên nói chung giáo dân tích cực hăng hái tham gia hợp tác xã, đẩy mạnh sản xuất, sẵn sàng chiến đấu, chấp hành các chính sách của Đảng và Chính phủ, tình đoàn kết giáo - lương ngày càng củng cố.
Tuy vậy công tác Thiên Chúa giáo của ta một số cấp ủy và một số ngành chưa đề cập đúng mức. Chưa nhận thức đúng vị trí của công tác này, chưa đánh giá đúng tâm tư, trình độ tín ngưỡng của quần chúng theo đạo. Chưa nhận rõ âm mưu thâm độc của đế quốc Mỹ và bọn phản động tay sai nên đã nảy ra chủ quan mất cảnh giác. Do nhận thức trên nên coi thường công tác giáo dục và tổ chức đồng bào theo đạo Thiên Chúa. Nhất là việc đào tạo, bồi dưỡng phát triển bảo vệ lực lượng cốt cán, phát triển Đoàn, Đảng trong vùng đồng bào theo đạo còn yếu. Đáng chú ý là vùng đồng bào Mèo theo đạo ở Sa Pa.
20
Công tác Hoa vận: Trong mấy năm qua đã dùng nhiều hình thức tăng cường việc giáo dục chính trị tư tưởng cho người Hoa về tinh thần quốc tế vô sản, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, đấu tranh giai cấp, tinh thần hữu nghị đoàn kết Việt - Hoa. Các cấp, các ngành đã chú ý thi hành đầy đủ các quyền lợi về chính trị, kinh tế đúng với chính sách của Đảng và Chính phủ nên nói chung họ tự
nguyện tự giác tham gia lao động sản xuất trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội. Tham gia chính quyền, tòng quân nhập ngũ và chấp hành các chính sách của Đảng và Chính phủ, kề vai sát cánh trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Song công tác Hoa vận khuyết điểm tồn tại chính là các cấp ủy các ngành chưa quán triệt phương châm chính sách lâu dài và trước mắt công tác Hoa vận của Đảng. Chưa đi sâu nghiên cứu đặc điểm tư tưởng tâm tư của người Hoa, chủ quan cho là không có vấn đề
gì. Đặc biệt đánh giá bình quân như mọi người lao động hợp tác xã. Công tác học tập động viên thiếu suy nghĩ để lãnh đạo cho chu đáo. Việc giáo dục đào tạo bồi dưỡng phát triển lực lượng cốt cán trong người Hoa làm còn yếu.
Công tác giáo dục phú nông, cải tạo địa chủ:
Sau cải cách dân chủ, đã đấu tranh vạch được 302 địa chủ, 207 là phú nông. Trong số địa chủ cường hào gian ác ta đã tập trung cho đi cải tạo, còn số địa chủ thường có con tham gia kháng chiến, ta tổ chức cho học tập chính sách, cho vào hợp tác xã nông nghiệp để giám sát lao động. Nên một số đã chịu sự cải tạo lao động, chấp hành chính sách tốt, tuân thủ nông dân, số này đã được thay đổi thành phần. Nhưng còn một số bản thân chưa chịu thực sự lao động cải tạo hoặc còn lén lút đầu cơ buôn lậu thậm chí còn có tên lợi dụng tình cảm dân tộc đòi lại ruộng đất, ta cần phải tiếp tục giải quyết.
Đối với giai cấp phú nông ta cũng tổ chức cho họ học tập chính sách cho vào hợp tác để quản lý lao động nên có một số đã được
21
thay đổi thành phần, còn một số chưa thực sự lao động. Số này cần giúp đỡ họ để họ trở thành người lao động tốt.
Nói chung đối với giai cấp bóc lột ở nông thôn, ta đã thực hiện chính sách phân biệt đối xử đúng mức kể cả đối với con cái họ. Nhưng cũng còn có cán bộ chưa thực hiện đầy đủ chính sách đối với họ, còn lơ là mất cảnh giác nên cần phải tiến hành giải quyết nốt trong một thời gian nhất định.
Công tác tư sản dân tộc:
Tỉnh ta có 9 hộ tư sản dân tộc, qua cải tạo ta giáo dục chính sách cho họ, đã có 2 hộ chịu sự cải tạo, ta đưa vào công tư hợp doanh, một số vào hợp tác xã xe thồ, số này họ đang mong muốn được thay đổi thành phần và mong mỏi cho con được tham gia công tác. Còn một số tỏ ra thắc mắc với ta, lơ là không chịu lao động, ta cần phải tiếp tục giáo dục để cho họ trở thành người công dân tốt.
Công tác tổ chức vận động phụ lão:
Mấy năm gần đây các cấp ủy Đảng, các ngành khi tiến hành các chính sách đã chú ý động viên giáo dục phụ lão tham gia. Trong công tác đã phát huy tính tích cực cách mạng của phụ lão. Phong trào phụ lão đã phát triển nhanh chóng và rộng khắp đồng thời có tính chất toàn diện và tự nguyện. Nhiều nơi ngoài tác dụng động viên gương mẫu, phụ lão còn hăng hái trực tiếp sản xuất, sẵn sàng chiến đấu, chấp hành các chính sách góp phần tích cực trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước.
Tuy vậy, có nơi chưa thấy hết khả năng của phụ lão nên chưa quan tâm đúng mức do đó phong trào phát triển chưa đều, như ở vùng cao và thị xã phong trào phụ lão còn yếu. Có nơi có khuynh hướng nặng sử dụng khai thác khả năng của phụ lão. Coi nhẹ việc động viên bồi dưỡng các chính sách cho phụ lão để chấp hành đúng đắn. Chúng ta cần thấy rõ phụ lão còn có ảnh huởng về nhiều mặt trong gia đình và ngoài xã hội. Các cụ có nhiều mặt tốt
22
là cần cù trong lao động, giàu kinh nghiệm trong đấu tranh, sản xuất và sẵn có lòng yêu nước nồng nàn. Phụ lão trong độ tuổi còn có khả năng lao động chiếm tới 60%, song bên cạnh cũng còn có phần bảo thủ, hẹp hòi, tư hữu, ích kỷ, mê tín dị đoan là những vấn đề cần tiếp tục giải quyết, vì vậy không thể coi nhẹ công tác vận động giới phụ lão.
Nguyên nhân của những ưu khuyết điểm trên
Trong Đảng ta chính sách mặt trận nói chung được các cấp ủy các ngành coi trọng, thấy được vai trò vị trí và tính chất gay go phức tạp công tác Mặt trận của Đảng ở vùng dân tộc nên đã thường xuyên đề ra nhiệm vụ và chỉ đạo, giải quyết phương tiện cho công tác Mặt trận. Các ngành có liên quan và trực tiếp nhiều đến công tác mặt trận cũng quan tâm vận động chính sách mặt trận vào việc thực hiện các chính sách lớn của Đảng và Chính phủ trên mọi mặt công tác. Về phía Mặt trận các cấp cũng có nhiều cố gắng bám sát nhiệm vụ trung tâm của Đảng ở địa phương: Có nhiều hình thức vận động quần chúng, nhất là các đối tượng do mặt trận quản lý; tăng cường công tác chính trị tư tưởng nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa, đoàn kết dân tộc, đấu tranh giai cấp, v.v.; động viên các tầng lớp nhân dân các dân tộc phục vụ cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Nghị quyết của các cấp mặc dầu có đề cập đúng mức, nhưng khi thực hiện một số cấp ủy chưa thi hành triệt để hoặc khi bàn bạc chưa đề cập thành chuyên đề.
Quan niệm công tác mặt trận là đoàn kết chung chung, là làm công tác hữu nghị, chưa thấy được tác dụng công tác Mặt trận mà nhất là tỉnh ta là một tỉnh miền núi có nhiều dân tộc sống xen kẽ. Bản thân cán bộ làm công tác Mặt trận cũng chưa thật sự yên tâm phấn khởi phát huy đầy đủ chức năng nhiệm vụ của mình. Việc bố trí cán bộ chưa đáp ứng với yêu cầu của công tác Mặt trận.
23
Những quan điểm và khuyết điểm trên không phù hợp với tình hình thực tế hiện nay, sai trái với tinh thần nghị quyết lần thứ ba của Đảng và Nghị quyết 53 của Bộ Chính trị về công tác Mặt trận dân tộc thống nhất trong giai đoạn mới.
Trước tình hình và nhiệm vụ mới hiện nay cần phải được quán triệt nên Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Nghị quyết này để cụ thể hóa Nghị quyết 53 của Bộ Chính trị và Thông báo số 3 của Ban Bí thư về công tác Mặt trận, làm cho cán bộ, đảng viên ta khắc phục những khuyết điểm sai lầm nhằm cải tiến và tăng cường lãnh đạo công tác mặt trận của Đảng.
Cần nhận thức đúng tầm quan trọng công tác Mặt trận trong giai đoạn mới
1. Hiện nay, ở tỉnh ta công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đã giành được những thắng lợi căn bản, cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội đang dần dần được xây dựng. Quan hệ sản xuất mới đã được xác lập và không ngừng được củng cố và hoàn thiện.
Thắng lợi ấy tạo cơ sở mới cho sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân các dân tộc ở tỉnh ta.
Song không phải như thế là cuộc đấu tranh giai cấp đã chấm dứt, vì công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa mới đạt kết quả bước đầu, cho nên phải tiếp tục cải tạo tư tưởng phi xã hội chủ nghĩa là một quá trình đấu tranh giai cấp gay go phức tạp trên lĩnh vực mới.
Lào Cai là một tỉnh miền núi, một tỉnh biên giới có nhiều dân tộc sống xen kẽ lẫn nhau và đồng bào miền xuôi lên tham gia xây dựng kinh tế, văn hóa ngày một tăng. Mặt khác, trong tình hình cả nước có chiến tranh nên các cơ sở nhà nước phân tán vào nông thôn. Đặc điểm của mỗi dân tộc, mỗi tầng lớp nhân dân đều có nguyện vọng, trình độ và phong tục tập quán khác nhau. Đời sống vật chất văn hóa còn nhiều chênh lệch giữa các vùng. Những tàn dư của xã hội cũ còn tồn tại khá nặng nề cho nên giải quyết tốt mâu thuẫn có
24
tính chất nội bộ trong nhân dân đều có một ý nghĩa tích cực đối với việc đẩy mạnh xây dựng chủ nghĩa xã hội ở địa phương. Nhiệm vụ chủ yếu hiện nay là phải động viên và đoàn kết được mọi tầng lớp nhân dân các dân tộc, đoàn kết giữa đồng bào địa phương với đồng bào lên khai hoang, đoàn kết giữa nhân dân với các cơ quan nhà nước làm cho mối quan hệ công nông liên minh được vững chắc.
Công tác Mặt trận phải tuyên truyền vận động giáo dục nhằm mục đích tập hợp quần chúng rộng rãi, đoàn kết chặt chẽ trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, xây dựng bảo vệ miền Bắc, bảo vệ căn cứ địa cách mạng, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Nội dung các chính sách và biện pháp chấp hành các chính sách của Đảng và Nhà nước về các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, v.v. phải thể hiện được chính sách Mặt trận của Đảng đối với các tầng lớp nhân dân các dân tộc trong tỉnh.
Đoàn kết các dân tộc để xây dựng và củng cố hợp tác xã, phát triển sản xuất, tiến công vào nghèo nàn lạc hậu để nâng cao đời sống nhân dân các dân tộc, làm cho các dân tộc tiến kịp nhau thực hiện bình đẳng trên thực tế đó là nội dung mới của vấn đề đoàn kết dân tộc, nó là khâu quan trọng lâu dài trong toàn bộ chính sách của Đảng ta.
2. Kẻ thù của chúng ta rất ngoan cố, hung ác và xảo quyệt. Trước khi thất bại chúng có thể gây cho nhân dân ta nhiều khó khăn. Cùng với việc leo thang về quân sự chúng còn ráo riết tăng cường hoạt động chính trị, hoạt động chiến tranh tâm lý, chiến tranh gián điệp, cấu kết với những phần tử phản động tay sai để
phá hoại thành quả cách mạng, phá hoại Mặt trận thống nhất chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta nói chung và tỉnh ta nói riêng. 3. Nước ta hiện nay còn tạm thời chia cắt làm hai miền cho nên mọi chính sách đối với các tầng lớp nhân dân ở miền Bắc nói chung và tỉnh ta nói riêng đều có ảnh hưởng đến các tầng lớp nhân dân ở miền Nam.
25
Việc chấp hành đúng đắn chính sách Mặt trận của Đảng ở miền Bắc và ở tỉnh ta sẽ ảnh hưởng tốt trực tiếp đến việc tăng cường và mở rộng Mặt trận đoàn kết chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam cho đến khi hòa bình thống nhất nước nhà. Công tác Mặt trận vẫn còn là cần thiết và phải qua một thời gian khá dài. Do đó phải làm cho các ngành, các cấp ủy Đảng quán triệt chính sách mặt trận là một vấn đề hết sức quan trọng.
Với những lẽ trên cho nên chúng ta phải khẳng định rằng Mặt trận dân tộc thống nhất còn tồn tại lâu dài và công tác Mặt trận vẫn giữ một vị trí quan trọng. Đảng ta phải luôn luôn tăng cường khối công nông liên minh, dựa trên nền tảng vững chắc ấy mà ra sức đoàn kết các tầng lớp nhân dân các dân tộc, ra sức củng cố và mở rộng Mặt trận đặng hoàn thành những nhiệm vụ của Đảng đã đề ra. Chính vì vậy mà Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng đã chỉ rõ: “ chúng ta cần phải không ngừng tăng cường công tác Mặt trận”.
Nhiệm vụ chung và phương châm công tác Mặt trận
Nghị quyết 53 của Bộ Chính trị đã nêu rõ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức rộng lớn của nhân dân Việt Nam hiện nay. Nó có nhiệm vụ động viên toàn dân ra sức phấn đấu để thực hiện cương lĩnh của Mặt trận, đồng thời thực hiện nhiệm vụ của công tác Mặt trận ở miền Bắc hiện nay của Trung ương Đảng đề ra là:
Dựa vào khối công nông liên minh vững chắc, tăng cường đoàn kết các tầng lớp nhân dân, các Đảng phái dân chủ, các dân tộc, các tôn giáo và các nhân sĩ yêu nước, không ngừng củng cố và mở rộng Mặt trận đại đoàn kết toàn dân nhằm động viên mọi khả năng và lực lượng của các tầng lớp nhân dân để tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Tiếp tục xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giải phóng miền Nam tiến tới thống nhất nước nhà.
Để thực hiện được phương châm nhiệm vụ chung các cấp, các ngành phải phấn đấu đạt những yêu cầu sau đây:
26
1. Không ngừng nâng cao sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân các dân tộc, ra sức động viên tập hợp mọi lực lượng, mọi khả năng tiềm tàng trong nhân dân phục vụ cho sản xuất và chiến đấu, đẩy mạnh cao trào chống Mỹ, cứu nước, đảm bảo cho sự ổn định về chính trị và tư tưởng trong mọi tình huống.
2. Làm cho các cấp, các ngành, cán bộ, đảng viên nhận rõ vai trò vị trí của công tác Mặt trận trong giai đoạn cách mạng chống Mỹ, cứu nước. Đảm bảo quán triệt và chấp hành nghiêm chỉnh và đúng đắn các chính sách Mặt trận của Đảng. Chú trọng đường lối giai cấp của Đảng ở nông thôn, chính sách đối với dân tộc, đối với tôn giáo, đối với Hoa kiều, trí thức, tư sản và lớp trên cũ. Quan tâm giải quyết thích đáng những khó khăn về đời sống của các tầng lớp nhân dân các dân tộc trong tình hình mới.
3. Tăng cường việc theo dõi và chỉ đạo công tác Mặt trận, kiện toàn đúng mức Đảng đoàn mặt trận tỉnh, huyện, thị xã và các Ban liên lạc Mặt trận xã, khu phố. Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành có trách nhiệm trong việc nghiên cứu và chấp hành chính sách Mặt trận của Đảng. Kịp thời phát hiện và uốn nắn những khuynh hướng sai lầm có hại cho chính sách Mặt trận. Kịp thời nghiên cứu xây dựng và đề nghị một số chính sách cụ thể cho phù hợp với tình hình mới.
Để quán triệt phương hướng và nội dung công tác Mặt trận trong giai đoạn mới, cần tiếp tục nắm vững những mối quan hệ sau đây:
1. Nắm vững mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ đoàn kết toàn dân chống Mỹ, cứu nước và tiếp tục nhiệm vụ xây dựng cải tạo xã hội chủ nghĩa ở địa phương.
2. Nắm vững mối quan hệ giữa việc dựa vào khối công nông liên minh với việc đoàn kết và tranh thủ rộng rãi các tầng lớp nhân dân khác.
3. Nắm vững mối quan hệ tăng cường công tác giáo dục tư tưởng và chính trị nhằm phát huy truyền thống yêu nước, phát
27
huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần tự lực cánh sinh vượt mọi khó khăn gian khổ của nhân dân với việc quan tâm bồi dưỡng sức dân, quan tâm giải quyết thích đáng những khó khăn về đời sống cho các tầng lớp nhân dân.
Nắm vững mối quan hệ giữa việc thống nhất lãnh đạo với việc phát huy tính chủ động, linh hoạt và sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp. Nắm vững quan hệ giữa nhiệm vụ trước mắt và nhiệm vụ lâu dài.
4. Nắm vững mối quan hệ giữa việc tăng cường mở rộng Mặt trận đoàn kết toàn dân chống Mỹ, cứu nước với việc kịp thời và kiên quyết đấu tranh trấn áp các thế lực phản động. Nắm vững quan hệ để giải quyết mâu thuẫn giữa địch - ta.
Công tác cụ thể của Mặt trận tỉnh ta bao gồm những điểm dưới đây:
1. Vận động các tầng lớp nhân dân các dân tộc ra sức thi đua yêu nước đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm, hoàn thành vượt mức kế hoạch nhà nước bất kỳ trong tình huống nào để đảm bảo kịp thời đầy đủ cho mọi nhu cầu của sản xuất, chiến đấu và đời sống cùa nhân dân các dân tộc.
2. Vận động nhân dân các dân tộc tăng cường đoàn kết, đồng tâm nhất trí vượt mọi khó khăn gian khổ, hy sinh để củng cố hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, để xây dựng Lào Cai trở thành một tỉnh căn cứ địa của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn, góp phần cùng nhân dân cả nước hoàn thành nhiệm vụ lịch sử vẻ vang của dân tộc ta là đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
3. Chú trọng chấp hành chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo, giúp đỡ đồng bào các dân tộc, đồng bào Thiên Chúa giáo ngày thêm tiến bộ. Quan tâm giáo dục giúp đỡ những gia đình có người bị địch dụ dỗ cưỡng ép vào Nam.
4. Giúp đỡ những người còn làm ăn riêng lẻ hiểu rõ chính sách hợp tác hóa để họ tự nguyện tự giác đi vào con đường lao động tập
28
thể và tiến bộ. Tiếp tục giáo dục những người tư sản dân tộc để họ tiếp tục cải tạo trở thành những người lao động thực sự, tiếp tục giáo dục phú nông, cải tạo địa chủ để họ trở thành những con người mới.
5. Tham gia xây dựng chính quyền, giới thiệu những người ưu tú ra ứng cử vào các cơ quan quyền lực nhà nước, giúp đỡ nhân dân tích cực xây dựng quyền dân chủ của mình và ủng hộ các tổ chức thanh niên, phụ nữ, thiếu niên, mẫu giáo, nhóm trẻ.
6. Vận động hoàn thành thanh toán nạn mù chữ, phát triển mạnh mẽ phong trào bổ túc văn hóa, vận động nếp sống mới, cải tạo phong tục tập quán cũ, vận động thi hành đúng luật hôn nhân và gia đình và vận động toàn dân chăm sóc thiếu niên nhi đồng.
7. Săn sóc các gia đình có công với cách mạng, các gia đình liệt sỹ, thương bệnh binh, các gia đình có con tham gia công tác thoát ly, chú ý gia đình có con em tòng quân.
8. Tăng cường công tác tranh thủ giáo dục, cải tạo, sử dụng, đoàn kết các tầng lớp trên của các dân tộc xuất thân là thành phần bóc lột nhưng đáng chú ý nhất là tranh thủ mọi lớp trên đầu dòng họ, thầy mo, thầy cúng ở nông thôn.
9. Góp phần tăng cường tình hữu nghị chiến đấu Việt - Trung, tăng cường đoàn kết trong phe xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện tốt những nhiệm vụ trên đây cần có sự chuyển biến mạnh mẽ trong các cấp ủy, các ngành, các cán bộ đảng viên về nhận thức đúng đối với công tác Mặt trận trong giai đoạn mới. Chống tư tưởng tách rời công tác Mặt trận với công tác lãnh đạo kinh tế, chính trị, văn hóa, v.v.. Chống tư tưởng coi như mình không có trách nhiệm gì đối với công tác Mặt trận của Đảng. Ngược lại cho công tác mặt trận chỉ quan trọng trong việc lễ tân, hiếu hỷ, đoàn kết chung chung không đi sâu thực tế, hoặc chỉ là công tác tư tưởng chính trị tách rời trọng tâm công tác mà chỉ làm công tác phụ lão đơn thuần.
Đi đôi với công tác tư tưởng và nâng cao nhận thức cần chấn
29
chỉnh lại tổ chức Mặt trận. Các cấp phải chấn chỉnh lại nền nếp hoạt động làm cho Mặt trận xứng đáng là một cơ quan tiêu biểu khối đoàn kết toàn dân, nâng cao tính chiến đấu của công tác Mặt trận trong cuộc đấu tranh giai cấp, trong mọi lĩnh vực công tác.
Phương pháp vận động của Mặt trận là hiệp thương, bàn bạc dân chủ, kiên trì thuyết phục đoàn kết đấu tranh, phối hợp công tác thống nhất hành động.
Nhiệm vụ và tổ chức của Đảng đoàn Mặt trận các cấp
Hiện nay ở tỉnh ta chưa thành lập Ban Mặt trận cho nên nhiệm vụ của Đảng đoàn Mặt trận tỉnh là:
1. Giúp cấp ủy Đảng theo dõi, kiểm tra đôn đốc việc chấp hành các chính sách Mặt trận ở các cấp, các ngành và tổng kết kinh nghiệm công tác Mặt trận ở địa phương.
2. Nghiên cứu tình hình và đề cập những chủ trương, biện pháp cụ thể với cấp ủy phối hợp với các ngành có liên quan để thực hiện các chính sách Mặt trận của Đảng ở địa phương.
3. Bồi dưỡng cán bộ làm công tác Mặt trận ở địa phương. 4. Lãnh đạo Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh động viên các tầng lớp nhân dân tham gia thực hiện các nhiệm vụ công tác của địa phương và cấp ủy trên.
Nhiệm vụ của Đảng đoàn Mặt trận huyện, thị xã
1. Giúp cấp ủy Đảng theo dõi kiểm tra, đôn đốc việc chấp hành chính sách mặt trận của Đảng và tổng kết kinh nghiệm công tác Mặt trận ở địa phương mình.
2. Nghiên cứu, thực hiện đề xuất chủ trương với cấp ủy và phối hợp chặt chẽ với các ngành có liên quan để thực hiện chính sách mặt trận trong phạm vi địa phương mình.
3. Lãnh đạo Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện, thị xã động viên các tầng lớp nhân dân tham gia thực hiện các nhiệm vụ công tác của địa phương mình và của cấp trên.
30
Nhiệm vụ Ban liên lạc Mặt trận ở xã và khu phố
Xét tình hình thực tế ở tỉnh ta vẫn tiếp tục củng cố và thành lập Ban liên lạc xã và có nhiệm vụ:
+ Giúp chi bộ, Đảng ủy đề xuất những chủ trương và biện pháp nhằm tăng cường đoàn kết các tầng lớp nhân dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết lương giáo.
+ Giúp cấp ủy Đảng lãnh đạo các công tác như: công tác dân tộc, công tác phụ lão, công tác vận động những người còn làm ăn riêng lẻ thi hành đúng các chính sách của Đảng, Nhà nước và tự giác tham gia hợp tác xã, công tác tôn giáo, giáo dục phú nông, cải tạo địa chủ (có huyện trực tiếp giúp đỡ).
+ Săn sóc các gia đình có công với cách mạng, gia đình liệt sỹ, thương bệnh binh. Giáo dục ổn định tư tưởng cho các gia đình có con đi Nam, có người đi cải tạo tập trung hoặc những người đang cải tạo tại chỗ.
+ Liên lạc với Đảng đoàn Mặt trận huyện để phản ánh tình hình, báo cáo công tác và thi hành những ý kiến hướng dẫn của Đảng đoàn Mặt trận huyện.
Tổ chức cán bộ
+ Ở tỉnh thành lập Ban Mặt trận tỉnh vừa là một ban chuyên môn của Đảng và làm nhiệm vụ thay Đảng đoàn Mặt trận hiện nay, gồm có một đồng chí cấp ủy trực tiếp phụ trách làm trưởng ban, 4 cán bộ có khả năng làm phó ban và ủy viên. Số cán bộ
nghiên cứu giúp việc từ 5 đến 7 người.
+ Ở huyện thì không thành lập Ban Mặt trận mà chỉ thành lập Đảng đoàn Mặt trận huyện và thị xã. Các huyện, thị tùy theo tình hình mà tổ chức từ 2 đến 3 cán bộ có chất lượng và 1 cấp ủy trực tiếp làm Bí thư.
+ Ở xã có một đồng chí trong chi ủy hoặc Đảng ủy trực tiếp phụ trách công tác Mặt trận. Nơi nào chưa có chi bộ thì cử 1 đồng
31
chí đảng viên có trình độ khá nắm được chính sách mặt trận để phụ trách công tác Mặt trận ở địa phương.
Theo Điều lệ của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không có ủy ban Mặt trận xã. Vì vậy ở những xã chi ủy, đảng ủy thấy cần thiết như ở đó có nhiều dân tộc ở xen kẽ, phong tục tập quán còn tồn tại nặng nề, có đồng bào Công giáo, Hoa kiều, v.v. thì lập ra Ban liên lạc Mặt trận xã. Thành phần Ban này gồm có đồng chí chi ủy hoặc đảng ủy viên phụ trách công tác Mặt trận làm Trưởng Ban và từ 2 đến 4 người nữa là đảng viên, đoàn viên hoặc người ngoài đảng mà là công dân tốt, tư cách tốt, có uy tín trong quần chúng, có khả năng làm công tác Mặt trận. Những xã không cần thiết thành lập Ban liên lạc Mặt trận thì đồng chí chi ủy hoặc đảng viên có trình độ khá nắm được chính sách Mặt trận và có tín nhiệm trong quần chúng phụ trách công tác Mặt trận.
Việc thành lập Ban liên lạc Mặt trận xã do huyện ủy duyệt danh sách và Ủy ban Mặt trận huyện công nhận. Các khu phố, thị trấn nói chung còn có nhiều vấn đề chính trị, xã hội phức tạp cũng tổ chức Ban liên lạc Mặt trận khu phố theo quy định trên. Khi thành lập các thị ủy duyệt danh sách và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thị xã công nhận.
Phân công làm tốt công tác Mặt trận và quy định cụ thể một số vấn đề khác
Các cấp ủy các ngành đều phải nghiêm chỉnh chấp hành chính sách Mặt trận của Đảng. Đảng đoàn Mặt trận các cấp giúp các cấp ủy đảng theo dõi, kiểm tra đôn đốc việc chấp hành chính sách Mặt trận ở các cấp, các ngành. Chính sách mặt trận thể hiện cụ thể
trong mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa của Đảng và Nhà nước. Cho nên cần quy định trách nhiệm giữa các ngành, các ban và Đảng đoàn Mặt trận như sau:
1. Về vấn đề dân tộc: Ban Dân tộc có trách nhiệm nghiên cứu chính sách dân tộc và theo dõi việc thực hiện chính sách dân tộc ở
32
địa phương. Riêng chính sách đối với các tầng lớp trên trong các dân tộc thì Ban Dân tộc và Đảng đoàn Mặt trận có kế hoạch nghiên cứu và theo dõi việc chỉ đạo thực hiện. Đảng đoàn Mặt trận tỉnh giúp tỉnh quản lý giáo dục, tranh thủ sử dụng tầng lớp trên và có kế hoạch hướng dẫn các huyện, xã quản lý cho tốt. Các ngành, các cấp khi cần sử dụng tầng lớp trên phải bàn bạc thống nhất ý kiến với Đảng đoàn Mặt trận tỉnh để thống nhất chủ trương và biện pháp.
2. Vấn đề tôn giáo (chủ yếu là Thiên Chúa giáo): Đảng đoàn Mặt trận nghiên cứu chính sách chung của Trung ương để vận dụng vào tình hình cụ thể của địa phương.
- Ban Nông nghiệp nghiên cứu về chính sách hợp tác hóa và sản xuất nông nghiệp ở vùng có đồng bào theo đạo Thiên Chúa. - Các đoàn thể như thanh niên, phụ nữ, các Ban Tuyên giáo, Tổ chức, v.v. có trách nhiệm đề ra kế hoạch vận động quần chúng ở lứa tuổi giới mình nhưng cần có sự phối hợp chặt chẽ với Đảng đoàn Mặt trận. Cần thi hành đầy đủ Thông tri số 143-TT/TU ngày 27-7-1966 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy.
3. Công tác Hoa kiều: Đảng đoàn Mặt trận tỉnh cần đi sâu nghiên cứu tình hình tổ chức cũng như tình hình tư tưởng của người Hoa đồng thời phối hợp với các ngành có kế hoạch tuyên truyền vận động giáo dục người Hoa.
Trong công tác tuyên truyền vận động giáo dục, chủ yếu là giáo dục tinh thần quốc tế vô sản, giáo dục tình hữu nghị, tình đoàn kết Việt - Trung. Bất kỳ ở đâu nhưng đều nằm trong đại gia đình phe xã hội chủ nghĩa cho nên không phân biệt chính quốc hay cư trú. Mỗi thành tích đạt được của cá nhân hay tập thể đều là sự
cống hiến chung.
Với tinh thần quốc tế vô sản, tinh thần đoàn kết hữu nghị Việt - Trung chung lưng đấu cật, kề vai sát cánh diệt kẻ thù chung là đế quốc Mỹ xâm lược. Tuy hai dân tộc nhưng cùng chung một mục đích cao cả là phấn đấu xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản do đó mà mọi quyền lợi chính trị, kinh tế của người Hoa không có gì
33
phân biệt, coi nhau như một nhà. Làm cho người Hoa có một nhận thức như vậy để an tâm, phấn khởi trong sản xuất và công tác. Đối với các cấp, các ngành trong công tác lãnh đạo phải chấp hành đầy đủ chính sách quy định của Chính phủ đối với người Hoa và phải quán triệt phương châm trước mắt và lâu dài. 4. Đối với trí thức: Cần có sự phân công giữa Ban Tuyên giáo, Ban Tổ chức, các ngành có nhiều trí thức. Đảng đoàn Mặt trận chủ yếu là vận động trí thức ngoài đảng và một số trí thức cũ. Hội khoa học kỹ thuật tỉnh tổ chức động viên trí thức ngoài đảng, động viên tinh thần yêu nước phát huy khả năng của mình để phục vụ cho sản xuất và chiến đấu.
5. Đối với tư sản: Số lượng tư sản dân tộc ở tỉnh ta ít và phần nhiều ở thị xã Lào Cai. Đảng đoàn, đảng ủy các cấp chịu trách nhiệm giáo dục tư tưởng để họ tiếp tục cải tạo trở thành con người mới và nghiên cứu đề nghị chính sách đối xử cụ thể đối với họ. Trong lúc tiến hành có sự tham gia ý kiến của Đảng đoàn Mặt trận tỉnh.
Những tư sản hiện nay đang lao động cải tạo ở các ngành thương nghiệp, vận tải thì do các ngành đó chịu trách nhiệm quản lý và nghiên cứu đề nghị chính sách đối xử cụ thể với họ và có sự tham gia ý kiến của Đảng đoàn Mặt trận tỉnh.
Chính sách đối với con cái tư sản liên quan đến việc sử dụng của ngành nào thì ngành ấy phải vận dụng chấp hành đầy đủ theo ngành dọc cấp trên đã đề ra. Nếu có trường hợp mắc mứu phải có sự thống nhất ý kiến với Đảng đoàn Mặt trận tỉnh.
6. Cải tạo phong tục tập quán: Đảng đoàn Mặt trận phối hợp với Ban Dân tộc tỉnh và các ngành văn hóa, y tế, thanh niên, phụ nữ tổng kết kinh nghiệm cải tạo vừa qua. Nghiên cứu tình hình cụ thể để giúp tỉnh đề ra chủ trương, biện pháp cải tạo dần và tiến tới xóa bỏ những phong tục tập quán cũ có hại đến sản xuất và đời sống. Phát động mạnh mẽ phong trào vệ sinh phòng bệnh, xây dựng nếp sống mới ở nông thôn.
34
7. Tổ chức phụ lão: Để tập hợp lực lượng phụ lão, chủ yếu là lão ông dựa vào các đơn vị khu phố, hợp tác xã sản xuất nông nghiệp hoặc thôn xóm để thành lập tổ phụ lão, không cần tổ chức phụ lão lên cấp xã.
Ban liên lạc Mặt trận xã, khu phố trực tiếp hướng dẫn công tác và phương pháp hoạt động cho các tổ phụ lão. Phải đi đúng đường lối giai cấp của Đảng trong việc phát triển và củng cố các tổ phụ lão.
8. Giáo dục phú nông, cải tạo địa chủ:
Tiếp tục theo dõi tình hình phối hợp với các ngành chấp hành đúng chính sách đối với họ. Một mặt cần cảnh giác không buông lỏng để họ vi phạm chính sách. Thường xuyên giám sát họ, giúp họ cải tạo lập trường tư tưởng nhất là tự cải tạo trong lao động, sản xuất nông nghiệp. Mặt khác đối với những người chịu sự cải tạo tốt đáng được thay đổi thành phần thì cần phải chấp hành đúng chính sách bằng cách đề nghị với chính quyền địa phương thay đổi thành phần cho họ. Chú ý tiếp tục theo dõi và nhắc nhở việc chấp hành đúng chính sách đối với con cái của họ.
Lãnh đạo chỉ đạo
Trong công tác lãnh đạo chỉ đạo cần có một chuyển biến mạnh mẽ nhằm:
+ Quy định rành mạch tổ chức và nhiệm vụ cho các cấp chuyển hướng bộ máy cho thích hợp với thời chiến.
+ Làm cho quán triệt nhận thức về chính sách và công tác mặt trận của Đảng trong các cấp, các ngành.
+ Tăng cường cán bộ có chất lượng làm cho cán bộ mặt trận nâng cao trình độ chính sách, trình độ công tác đáp ứng với yêu cầu của nhiệm vụ mới.
Trong công tác cụ thể cần phải có kế hoạch kiện toàn Đảng đoàn Mặt trận từ tỉnh đến các huyện, thị theo tinh thần của cuộc họp của Ban Bí thư ngày 2-5-1966.
35
Các huyện ủy, đảng ủy, thị ủy, các ban và các đảng đoàn phải tổ chức học tập nghị quyết này để quán triệt nhận thức về chủ trương và chính sách Mặt trận trong tình hình mới, kế hoạch phổ biến cho cán bộ làm công tác Mặt trận ở cấp mình và cho các cấp ủy dưới cũng như toàn thể đảng viên để thống nhất tư tưởng và nhận thức. Căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương mà quy định rõ nhiệm vụ, nội dung công tác, lề lối làm việc cho Mặt trận huyện, xã, v.v. để đảm bảo chấp hành tốt nghị quyết này.
T.M BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY
ỦY VIÊN THƯỜNG VỤ
VIỆT TIẾN
Lưu tại Kho Lưu trữ Tỉnh ủy.
36
CHỈ THỊ
CỦA BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ
Số 114 CT/TU, ngày 7-3-1967
Bổ sung về công tác chỉ đạo riêng
Thi hành Nghị quyết số 6 của Tỉnh ủy về công tác chỉ đạo riêng, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ra Chỉ thị số 20 ngày 23 tháng 5 năm 1964. Trong 3 năm thực hiện công tác chỉ đạo riêng tại 3 xã Quang Kim, Tả Ngảo, Lao Chải đã có nhiều kết quả tốt, từ 3 xã trên Tỉnh ủy đã kết luận hoặc tiến hành tổng kết được nhiều vấn đề, rút ra những kinh nghiệm thực tế thiết thực và bổ ích để giúp cho các cấp, các ngành thấy rõ vấn đề, hiểu rõ hơn, nắm vững hơn về việc tổ chức thực hiện các chủ trương, các chỉ thị nghị quyết của Tỉnh ủy, biết được sự vận dụng các chính sách của Đảng sát với đặc điểm cụ thể của từng vùng khác nhau trong tỉnh. Những vấn đề đó là: xây dựng chi bộ bốn tốt để xác lập vai trò lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của chi bộ xã, xây dựng hợp tác xã tiên tiến và đội lao động xã hội chủ nghĩa hợp tác xã Tiền Phong, Lý Lao Chải, Tả Ngảo và đội 5 của hợp tác xã Tiền Phong, điều kiện xây dựng và củng cố hợp tác xã vùng cao (Mèo) như hợp tác xã Lý Lao Chải, đưa phong trào làm ruộng bậc thang như Lao Chải, cải tạo tốt phong tục tập quán như Tả Ngảo, bổ sung nhân lực để phát triển kinh tế miền núi như Tả Ngảo, Quang Kim, chỉ đạo cụ thể phương hướng thâm canh tăng năng suất cao và nhanh như Tiền Phong; tìm ra những diễn biến tư tưởng biểu hiện đấu tranh giữa hai con
37
đường của nông dân và xã viên trong quá trình giáo dục đi lên chủ nghĩa xã hội, dùng lá cờ đầu của những điển hình tốt của 3 xã để mở rộng điển hình nhiều nơi; tiến hành thí điểm cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật và tổng kết hai năm thực hiện kế hoạch đó, nay đang tiếp tục tiến lên những bước phát triển mới và cao hơn. Hiện nay mấy xã chỉ đạo vẫn đang tiến hành một số vấn đề khác nhau: xã Quang Kim xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật trang bị cơ khí nhỏ nhằm tăng năng suất lao động cho trồng trọt và chăn nuôi; xã Tả Ngảo đang tiến hành cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật đợt III theo yêu cầu nội dung của tỉnh đề ra; xã Lao Chải tiến hành củng cố hợp xã đẩy mạnh sản xuất theo yêu cầu mới trong đợt củng cố hợp tác xã của tỉnh. Những việc đang làm trên đây đều có triển vọng tốt.
Công tác chỉ đạo riêng thu được một số kết quả trên là do các cấp, các ngành đã chấp hành đúng đắn chỉ thị của Tỉnh ủy, đã coi trọng công tác chỉ đạo riêng; cũng từ đó càng thấy rõ chủ trương chỉ đạo riêng là rất đúng đắn và cần thiết không một cấp nào, ngành nào có thể coi nhẹ được, nó có quan hệ gắn bó chặt chẽ với phong trào chung để thúc đẩy lẫn nhau, học tập lẫn nhau.
Tuy nhiên trong công tác chỉ đạo riêng cũng còn có những khuyết điểm, nhược điểm và những vấn đề tồn tại cần phải tiếp tục giải quyết như sau:
Các ngành lúc đầu có cử cán bộ nhưng sau do điều kiện công tác của ngành mình thiếu người hoặc có cử cán bộ nhưng sau lại rút về. Tỉnh và huyện tuy có kết hợp, phối hợp trong công tác chỉ đạo, nhưng trong khi thực hiện theo dõi tổng kết rút kinh nghiệm huyện thường nặng về công tác trước mắt, ỷ lại cho tỉnh việc xây dựng điển hình nắm tình hình một cách chặt chẽ liên tục, nắm toàn bộ công tác chỉ đạo đưa lên toàn diện, do đó cán bộ của huyện ủy cử xuống có nơi đã thay đổi hoặc rút về không có người theo dõi, giao cho xã tự làm. Do đó, điểm chỉ đạo của tỉnh chưa gắn chặt được trách nhiệm của huyện cùng với tỉnh chỉ đạo và tập thể
38
huyện ủy phải lấy xã đó để thường xuyên nghe báo cáo xã chỉ đạo, đúc rút kinh nghiệm để lãnh đạo chung.
Ban Nông nghiệp có sự cố gắng giúp Tỉnh ủy theo dõi bám sát xã chỉ đạo, cùng với các huyện, các ngành kết luận hoặc tổng kết một số vấn đề theo phương hướng và yêu cầu chỉ đạo của Tỉnh ủy đề ra. Nhưng mặt thiếu sót là chưa làm đầy đủ chức năng đôn đốc các ngành tham gia đóng góp vào xã chỉ đạo mạnh hơn nữa, báo cáo và đề xuất ý kiến giải quyết 3 xã chỉ đạo có lúc chưa kịp thời, việc nghiên cứu theo dõi còn nhiều lúng túng chưa đáp ứng yêu cầu.
Căn cứ vào kết quả về kinh nghiệm công tác chỉ đạo các năm qua; căn cứ vào Nghị quyết 136 của Ban Bí thư về việc kiện toàn sự lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện các cấp ủy huyện để đưa ra các tiêu chí để trở thành huyện ủy bốn tốt. Công tác chỉ đạo riêng theo Chỉ thị 20 của Tỉnh ủy rất cần thiết, mục đích yêu cầu và phương châm, phương pháp đề ra là đúng đắn sát hợp. Nhưng việc chỉ đạo, trước yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới đòi hỏi phải linh hoạt khẩn trương, kịp thời. Việc tổ chức thực hiện cần xác định rõ trách nhiệm của tỉnh làm gì, huyện làm gì, các ngành tham gia giúp đỡ như thế nào, có mức độ cụ thể hơn. Từ những nhận định trên nên công tác chỉ đạo riêng 3 xã này cần có một số điểm bổ sung và quy định rõ hơn cho phù hợp với thời chiến, Ban Thường vụ chỉ thị cụ
thể những việc cần làm như sau:
1. Trách nhiệm chỉ đạo 3 xã trên từ nay trở đi, Tỉnh ủy hoàn toàn giao huyện ủy trực tiếp phụ trách nhằm làm cho huyện ủy gắn chặt cuộc vận động xây dựng huyện ủy bốn tốt với công tác lãnh đạo chỉ đạo nông nghiệp và hợp tác xã của địa phương một cách chặt chẽ và sâu sát. Trách nhiệm của Tỉnh ủy là chỉ đạo về phương hướng, định rõ một số yêu cầu, nội dung về một số vấn đề
mà tỉnh cần theo dõi của mỗi thời kỳ khác nhau giao cho huyện ủy thực hiện, huyện ủy sẽ tập trung chỉ đạo theo phương hướng đó, từng thời kỳ ngắn huyện ủy sẽ rút kinh nghiệm các vấn đề đã đề ra và tiếp tục bổ sung cho công tác chỉ đạo và lãnh đạo.
39
2. Các xã chỉ đạo trên đều do Ban Thường vụ Tỉnh ủy phụ trách nhưng mỗi đồng chí thường vụ theo dõi huyện có xã chỉ đạo thì mỗi khi kiểm tra hoặc nghe báo cáo của huyện, trước hết hãy nghe báo cáo và kiểm tra xã chỉ đạo. Mặt khác, huyện ủy phải báo cáo thường xuyên với tỉnh về tình hình cụ thể xã chỉ đạo.
3. Ban Nông nghiệp có trách nhiệm giúp Tỉnh ủy theo dõi sự thực hiện các xã chỉ đạo, hướng dẫn kiểm tra phát hiện những vấn đề mới để đưa công tác chỉ đạo của huyện ủy theo đúng mục đích và yêu cầu của tỉnh, từng thời gian cùng với huyện ủy tham gia vào việc đúc rút kinh nghiệm xã chỉ đạo.
4. Tỉnh ủy giao nhiệm vụ cho các ngành của tỉnh xuống giúp xã chỉ đạo theo yêu cầu của huyện ủy, cử cán bộ xuống hướng dẫn giúp đỡ về công tác chuyên môn, sau đó tiếp tục hướng dẫn tổ chức thực hiện và theo dõi, hoặc cử cán bộ tham gia tại xã chỉ đạo trong một thời gian nhất định; ít nhất là từ một đến hai năm. Để xây dựng những điển hình kiểu mẫu, đồng thời tìm ra phương hướng mới và cụ thể về các nội dung công tác của ngành mình tiến lên sát hợp với đặc điểm từng vùng khác nhau về việc thực hiện kế hoạch 2 năm, hoặc kế hoạch lâu dài 5 năm, 10 năm.
5. Huyện có xã chỉ đạo phải phân công một thường vụ huyện ủy phụ trách. Mỗi xã có một cán bộ chính trị có năng lực lãnh đạo toàn diện, nghiên cứu theo dõi để tổng kết tốt những việc đã làm. Kèm theo có một số cán bộ quản lý và kỹ thuật của các ngành để
giúp xã thực hiện phương hướng sản xuất, củng cố hoàn thiện quan hệ sản xuất mới. Thông qua các công tác trọng tâm và thường xuyên để xây dựng chi bộ Đảng trở thành bốn tốt, đào tạo bồi dưỡng cán bộ xã về năng lực lãnh đạo, nâng cao kiến thức về
mọi mặt chính trị, tư tưởng quản lý và kỹ thuật, v.v.. 6. Phương hướng công tác chỉ đạo cụ thể của 3 xã chỉ đạo thực hiện kế hoạch hai năm 1967-1968 là:
a. Xã Quang Kim
Sau khi hợp tác xã Tiền Phong đã hoàn thành kế hoạch cải tiến, Tiền Phong lại phải tiếp tục nâng lên một bước cao hơn về công tác
40
quản lý và kỹ thuật để có kinh nghiệm đi trước đối với các xã vùng thấp của tỉnh trong thời kỳ kết thúc thực hiện kế hoạch cải tiến. Xoay quanh vấn đề phát triển nông nghiệp toàn diện, cân đối và mạnh mẽ, phải nghiên cứu vấn đề tăng năng suất lao động, sử dụng hợp lý sự phân công lao động mới trong nông nghiệp vào phương hướng thâm canh tăng năng suất cho trồng trọt và chăn nuôi, nhất là năng suất lúa của toàn xã này có tốc độ tăng năng suất nhanh và cao nhất (từ 5,5 đến 6 tấn/ha trở lên) đồng thời lại có thể rút bớt 1/3 sức lao động để đưa vào các mặt sản xuất ngành nghề khác và còn cung cấp cho nhu cầu chung của Nhà nước nhất là của quốc phòng. Hai vấn đề lớn phải làm tốt là:
1. Hợp nhất mở rộng quy mô hợp tác xã tiến tới thành hợp tác xã toàn xã, tạo nên sự phân công lao động mới trong hợp tác xã, để hợp tác xã đi vào chuyên môn hóa sản xuất kinh doanh toàn diện, hợp tác xã sẽ phát huy mọi khả năng tiềm tàng về nông nghiệp và làm ra nhiều sản phẩm hàng hóa mới.
2. Đẩy mạnh cuộc cách mạng kỹ thuật liên hoàn vì đó là vấn đề then chốt: làm tốt công tác kiến thiết đồng ruộng cho hợp tác xã Tiền Phong và xây dựng toàn bộ mương phai tưới tiêu khoa học, kết hợp giữa công tác thủy lợi và giao thông để đẩy mạnh việc làm và sử dụng nông cụ cải tiến. Hướng cải tiến công cụ tập trung vào khâu cày bừa, cào cỏ, công cụ vận chuyển gặt đập, chế biến thức ăn cho gia súc, trang bị cơ khí nhỏ cho hợp tác xã.
b. Xã Tả Ngảo
Xã này đang tiến hành cải tiến, sẽ theo đúng yêu cầu của đợt III đã đề ra. Trên cơ sở đó xác định được phương hướng sản xuất trước mắt hai năm 1967-1968 và phương hướng lâu dài. Tích cực đưa xã Tả Ngảo trở thành một xã chăn nuôi điển hình (dê, bò, lợn) của vùng giữa, đồng thời đẩy mạnh các mặt làm ruộng bậc thang, định canh định cư, bảo vệ rừng; trồng cây công nghiệp, cây đặc sản, làm tốt công tác văn hóa, y tế phòng bệnh, trị bệnh cho nhân dân đó là cơ sở tốt cho công tác cải tạo phong tục tập quán cũ lạc hậu.
41
c. Xã Lao Chải:
Xã này chưa cải tiến, huyện ủy Sa Pa trực tiếp nắm chỉ đạo xã theo Chỉ thị 110 của tỉnh về củng cố hợp tác xã, củng cố cơ sở đẩy mạnh sản xuất vùng cao. Nội dung chỉ thị đã đề ra các yêu cầu cụ thể. Trong hai năm cần làm tốt một số vấn đề để rút kinh nghiệm là:
- Căn cứ vào phương hướng của tỉnh, xác định cho xã có phương hướng cụ thể hai năm 1967-1968.
- Nghiên cứu cây trồng tăng vụ cho hợp tác xã để có cơ sở giải quyết vấn đề tăng vụ cây trồng nào thích hợp nhất đối với các hợp tác xã miền tây của tỉnh.
- Đẩy mạnh tốc độ làm nương và ruộng bậc thang đạt bình quân đầu người 3 sào trong hai năm, giải quyết đủ nước tưới cho ruộng bậc thang và vận động thực hiện các biện pháp kỹ thuật làm cho ruộng bậc thang một vụ vùng cao đạt năng suất cao trên diện tích rộng (sản lượng ruộng cao sản của hợp tác xã Lý Lao Chải đạt 5 tấn/ha ruộng một vụ).
- Hợp nhất mở rộng quy mô hợp tác xã thành hợp tác xã toàn xã nhằm phân bố lại các đội sản xuất cho hợp lý về nhân lực, tư liệu sản xuất để tạo điều kiện đẩy mạnh sản xuất phát triển toàn diện trong hợp tác xã về trồng trọt, chăn nuôi, trồng cây, v.v..
Trên đây là những điểm bổ sung cụ thể để các huyện ủy và các ngành nắm chắc công tác chỉ đạo, đưa vào đó để đặt kế hoạch, báo cáo Tỉnh ủy xét duyệt rồi sẽ tổ chức thực hiện cho tốt. Các huyện ủy và các ngành nhận được chỉ thị này phải nghiên cứu kỹ và chấp hành nghiêm chỉnh, từng thời kỳ phải báo cáo cụ thể kết quả công tác xã chỉ đạo theo Chỉ thị số 20 đã quy định.
T/M BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY
BÍ THƯ
TRƯỜNG MINH
Lưu tại Kho Lưu trữ Tỉnh ủy.
42
CHỈ THỊ
CỦA BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ
Số 116-CT/TU, ngày 19-4-1967
Về việc đẩy mạnh phong trào thủy lợi
hai năm 1967-1968
Nhiệm vụ của công tác thủy lợi tỉnh ta là: Thủy lợi phải là biện pháp hàng đầu để phát triển nông nghiệp. Thủy lợi hóa đi đôi với hợp tác hóa và thủy lợi phải đi trước một bước. Công tác thủy lợi phải phục vụ đắc lực cho sản xuất nông nghiệp phát triển toàn diện mạnh mẽ và vững chắc, phục vụ tốt cho thâm canh tăng năng suất lúa và các loại cây trồng, phục vụ cho tăng vụ, khai phá ruộng nương bậc thang... Công tác thủy lợi phải “tổng hợp lợi dụng”, kết hợp thủy lợi với thủy điện, với cơ khí nhỏ, giao thông, nuôi cá, trồng cây rừng, v.v..
Trong mấy năm qua, dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của các cấp bộ Đảng, với sự phấn đấu liên tục không mệt mỏi, nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã đẩy mạnh phong trào thủy lợi hóa đi đôi với phong trào hợp tác hóa và giành nhiều thắng lợi. Chúng ta đã xây dựng trên 40 công trình loại vừa và loại lớn và hàng ngàn công trình loại nhỏ. Màng lưới thủy điện nhỏ và vừa cũng ngày càng phát triển. Nhà nước đã đầu tư hàng triệu đồng và nhân dân đóng góp hàng triệu ngày công trong việc xây dựng các công trình thủy nông và thủy điện.
Nhờ biện pháp thủy lợi, phong trào làm ruộng bậc thang được
43
đẩy mạnh, đã góp phần bước đầu giải quyết nạn du canh du cư và góp phần tích cực vào việc đón tiếp đồng bào miền xuôi lên xây dựng kinh tế, văn hóa ở tỉnh nhà. Hàng triệu hécta đất hoang, hàng trăm hécta ruộng trước đây chỉ cấy được một vụ, nay đã trở
thành ruộng 2 vụ. Đi đôi với các biện pháp kỹ thuật khác, biện pháp thủy lợi đã phục vụ thâm canh tăng năng suất, đặc biệt đã tích cực phục vụ phong trào chiến đấu thực hiện mục tiêu 5 tấn/ha trên ruộng 2 vụ (năm 1966 tỉnh ta đã có trên 20 hợp tác xã đạt trên 4 tấn 5 và trên 20 hợp tác xã đạt trên 5 tấn/ha). Phong trào thủy lợi ngày một phát triển đã góp phần đưa diện tích gieo cấy và tổng sản lượng cây trồng hàng năm tăng lên không ngừng.
Năm 1966, với khí thế chống Mỹ, cứu nước, nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã mạnh mẽ sôi nổi tiến công vào mặt trận thủy lợi và giành những thành tích to lớn. Đã xây dựng trên 500 công trình, tu sửa trên 3.000 công trình các loại với số ngày công trên một triệu công, đào đắp ngót 2 triệu thước khối đất đá, lớn hơn khối lượng đào đắp cả 5 năm từ năm 1961 đến năm 1965 cộng lại.
Trong vụ đông - xuân 1966-1967, các cấp đã chú ý động viên phong trào quần chúng làm thủy lợi ngay sau vụ gặt mùa và đã đạt nhiều kết quả đáng kể. Nhiều hồ ao nhỏ, mương phai, một số trạm bơm thủy luân, nhiều công trình các loại được tu sửa và xây dựng. Đặc biệt việc kiến thiết đồng ruộng theo phương hướng tương đối quy mô làm thí điểm ở một số nơi, đang có xu hướng phát triển.
Phong trào thủy lợi ngày càng phát triển, đang có nhiều hợp tác xã trên đà đuổi kịp và có khả năng vượt về từng mặt lá cờ đầu “Thủy lợi Nậm Trì”. Các đội thủy lợi chuyên nghiệp của hợp tác xã cũng phát triển mạnh từ 1 đội năm 1963, đến nay toàn tỉnh đã có trên 200 đội với ngót 3.000 đội viên, trong năm qua đã góp phần quan trọng trong việc xây dựng các công trình.
Tinh thần tự lực tự cường của nhân dân địa phương cũng ngày càng được nâng cao. Nhiều hợp tác xã đã bỏ ra hàng ngàn ngày
44
công, hàng chục ngàn đồng để xây dựng trạm bơm thủy luân tổng hợp, thủy điện, kết hợp xay xát, chế biến hoặc đã tự xây dựng hàng chục mương tưới tiêu trên đồng ruộng, đắp nhiều bờ vùng, bờ thửa, làm mương dài hàng cây số, làm các trạm bơm thủy luân kết cấu đơn giản, có nơi tự làm lấy hồ chứa nước có đập cao từ 3 thước đến 7 thước. Tinh thần tự lực cánh sinh, dám nghĩ dám làm đó chứng tỏ khả năng tiềm tàng to lớn của quần chúng các dân tộc trên mặt trận thủy lợi, cần được chú ý phát huy.
Tuy nhiên bên cạnh những thành tích đạt được như trên, chúng ta cũng còn những thiếu sót tồn tại lớn là:
- Nhận thức của các cấp về vị trí, tầm quan trọng và tác dụng của công tác thủy lợi còn quá đơn giản; chưa nhận thức đầy đủ "thủy lợi là biện pháp hàng đầu trong phát triển nông nghiệp", và công tác thủy lợi phải "tổng hợp lợi dụng", nên việc kiến thiết đồng ruộng, chống tệ nước chảy tràn bờ, xây dựng, bảo vệ, quản lý, khai thác các công trình, kết hợp thủy lợi với thủy điện, xây dựng cơ khí nhỏ, giao thông, nuôi cá, v.v. làm vẫn còn yếu.
- Nhận thức về phương châm 3 kết hợp, kết hợp giữa dẫn nước với tháo nước, kết hợp công trình hạng nhỏ do nhân dân làm với công trình hạng vừa và hạng lớn do Nhà nước làm, hoặc do Nhà nước và nhân dân cùng làm còn chưa quán triệt. Khâu giữ nước, dẫn nước kết hợp với tháo nước, nói chung làm chưa tốt. Sản xuất còn bị động với hạn hán, lũ lụt, tệ nước chảy tràn bờ, đốt phá rừng còn xảy ra nghiêm trọng, ao, hồ trong tỉnh, có điều kiện phát triển mạnh, nhưng còn quá ít, nhất là vùng cao hầu như chưa có gì. Phong trào làm thủy lợi nhỏ tương đối mạnh, nhưng tư tưởng ỷ lại vào Nhà nước vẫn còn nặng, tuy gần đây, từng nơi từng chỗ tinh thần tự lực cánh sinh đã được nâng cao. Đối với công trình loại vừa và loại lớn do Nhà nước đầu tư vốn, chưa được các cấp thực sự quan tâm; tình trạng thường xuyên thiếu nhân lực và công trình bị kéo dài hàng năm chưa được khắc phục, đã gây những lãng phí nghiêm trọng. Công trình xây dựng xong chưa được chú trọng quản lý, khai
45
thác, nên bị hư hỏng nhiều và hiệu ích công trình còn rất thấp. Đặc biệt còn có đồng chí lầm lẫn phương châm này với phương châm 3 chính Trung ương nêu ra từ giai đoạn khôi phục kinh tế, nên không đặt đúng phương hướng công tác thủy lợi cho địa phương mình. Việc chấp hành chủ trương chính sách đối với việc xây dựng đội thủy lợi cũng chưa được các cấp, các ngành chấp hành nghiêm chỉnh, như chính sách cụ thể quy định về quyền lợi của đội thủy lợi, chính sách huy động ngày công nghĩa vụ của nhân dân (chưa năm nào tỉnh ta huy động hết số ngày công nghĩa vụ đó).
Nhận thức về vấn đề thủy lợi hóa đi đôi với hợp tác hóa và thủy lợi phải đi trước một bước còn rất yếu, kể cả các cấp, các ngành và cơ quan thủy lợi cũng chưa thật sự quán triệt. Trong việc xây dựng, quản lý công trình vẫn còn có hiện tượng cho đó là việc riêng của ngành thủy lợi.
Quy hoạch thủy lợi là cơ sở của thủy lợi hóa nhưng công tác còn bị coi nhẹ. Nhiều hợp tác xã có quy hoạch, hoặc đối với những nơi đã có quy hoạch cũng chưa được bổ sung hoàn chỉnh. Do đó, nhiều địa phương chưa xác định được phương hướng và trọng tâm công tác thủy lợi cho từng vùng, từng xã, từng hợp tác xã. Việc lập kế hoạch thủy lợi còn lúng túng, bị động, tổ chức thực hiện quy hoạch cũng chưa tích cực và còn chậm chạp.
Phong trào làm thủy lợi chưa đều, liên tục và thật mạnh.Việc xây dựng điển hình và nhân điển hình còn ít.
Tổ chức bộ máy quản lý công trình còn yếu, hầu hết các công trình chưa có bộ máy quản lý. Việc bảo vệ, quản lý, khai thác công trình còn quá yếu. Công trình bị hư hỏng nhiều nhưng chưa được kịp thời tu sửa, còn hiện tượng tùy tiện sử dụng gây tổn hại đến công trình. Công trình loại vừa và lớn chưa được chú ý khai thác nên hiệu quả kinh tế còn thấp. Hiện còn hàng trăm hécta đất nơi có công trình chưa được khai phá.
Các công trình lấy nước ăn cho người và gia súc vùng cao chưa được phát triển mạnh.
46
Việc xây dựng tổ chức, đào tạo cán bộ thủy lợi còn yếu. Các ban thủy lợi xã chưa có. Việc đào tạo cán bộ thủy lợi cho xã, hợp tác xã chưa được chú ý. Cán bộ sơ cấp thủy lợi đào tạo ra trường, việc bồi dưỡng sử dụng của địa phương chưa tốt. Việc tổ chức phòng thủy lợi huyện, một số phòng thuộc ty và ban A, ban B nội bộ trước yêu cầu đòi hỏi cấp thiết của sự nghiệp thủy lợi hóa chưa được khẩn trương thành lập.
Nhiệm vụ công tác thủy lợi hai năm 1967-1968 rất to lớn và nặng nề. Phong trào thủy lợi hai năm phải phấn đấu đưa sự nghiệp thủy lợi hóa tiến lên song song với phong trào hợp tác hóa. Phải chủ động phục vụ đắc lực cho nông nghiệp phát triển một cách toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc. Công tác thủy lợi phải phục vụ tốt cho chống hạn, chống lũ lụt, với yêu cầu hạn chế từng bước nạn lũ lụt tàn phá ở các ven sông suối, phục vụ tốt cho tăng vụ, chuyển vụ và khai hoang ở những nơi có điều kiện, chủ yếu là phục vụ cho thâm canh tăng năng suất lúa và hoa màu đạt năng suất cao, đặc biệt chú ý phục vụ cho mục tiêu phấn đấu đạt 5 tấn/ha trên ruộng 2 vụ và 3 tấn/ha trên ruộng 1 vụ; phục vụ cho khai phá ruộng nương bậc thang, tạo cơ sở vật chất cho đồng bào vùng giữa và vùng cao định canh, định cư; phục vụ cho cây công nghiệp phát triển mạnh; chống xói mòn một cách tích cực cho cả ba vùng, nhất là vùng giữa và vùng cao; phục vụ cho cơ khí nhỏ phát triển ở nông thôn và cung cấp điện sáng cho các hợp tác xã có điều kiện, phục vụ cho phát triển nuôi cá; đảm bảo nước ăn cho người và gia súc ở vùng cao.
Để đẩy mạnh phong trào thủy lợi hai năm hoàn thành tốt nhiệm vụ nói trên, Ban Thường vụ Tỉnh ủy chỉ thị các cấp kiên quyết thực hiện những việc như sau:
1. Làm tốt công tác quy hoạch thủy lợi và đẩy mạnh việc xây dựng các loại công trình
Quy hoạch thủy lợi là cơ sở của thủy lợi hóa, nên việc đầu tiên trong công tác thủy lợi là phải tiến hành công tác quy hoạch thủy
47
lợi xã, hợp tác xã, và quy hoạch vùng. Đối với nơi chưa làm quy hoạch cần xúc tiến khẩn trương, nơi đã có quy hoạch phải làm bổ sung cho quy hoạch được hoàn chỉnh. Về việc xây dựng công trình cần xác định rõ yêu cầu phục vụ và khả năng của địa phương, quy mô và thời gian xây dựng, đồng thời nắm vững phương châm “lợi dụng tổng hợp”, kết hợp thủy lợi với phát triển thủy điện, xây dựng cơ khí nhỏ, v.v. và phương châm “tập trung làm chắc, làm gọn, làm dứt điểm, làm đồng bộ”, đảm bảo công trình nhanh chóng đi vào phục vụ. Đối với các công trình loại vừa và loại lớn phải thực hiện tốt việc phân cấp và căn cứ vào sự phân cấp giữa tỉnh và huyện và vào kế hoạch được duyệt, tăng cường trách nhiệm các cấp đặc biệt chú ý đảm bảo khâu nhân lực, định mức lao động, cải tiến công cụ
tăng năng suất lao động trên các công trường, đẩy mạnh tốc độ thi công, quyết tâm phấn đấu đạt và vượt mức kế hoạch xây dựng và thời gian hoàn thành, đảm bảo chất lượng cao, tiết kiệm nhiều và giá thành hạ. Đối với các công trình loại nhỏ, vận động phong trào quần chúng mạnh mẽ, sôi nổi, liên tục và tự giác, phát huy tinh thần tự lực cánh sinh, tận dụng nguyên vật liệu địa phương làm thật nhiều hồ ao, mương phai kết cấu kiểu dân gian có cải tiến theo phương pháp khoa học, phát triển các trạm bơm thủy luân kết cấu đơn giản, dễ làm, rẻ tiền, nhanh chóng được sử dụng và có hiệu ích kinh tế cao. Những xã có điều kiện làm trạm bơm thủy luân tổng hợp, kết hợp phục vụ nước tưới với phục vụ xay xát, chế biến, chạy các máy công tác và phục vụ điện thắp cho nhân dân. Thí nghiệm làm hồ nhỏ trên vùng cao, nơi có hiện tượng đá vôi để có kết luận và đưa thí nghiệm dần từng bước lên đối với loại hồ lớn hơn. Tích cực thực hiện các biện pháp chống xói mòn cho mương, giữ độ ẩm cho hoa màu, cây công nghiệp và chú trọng xây dựng các công trình mương máng, ao, hồ, giếng ở vùng cao, giải quyết nước ăn cho người và gia súc. Phát động 100% hợp tác xã thi đua với lá cờ đầu thủy lợi Nậm Trì và xây dựng thêm nhiều lá cờ ở các địa phương, thúc đẩy phong trào thủy lợi tiến lên mạnh mẽ.
48
2. Ra sức bảo vệ, quản lý, khai thác các công trình
Để đề phòng sự phá hoại của địch trước tình hình chiến tranh ngày càng ác liệt, cần tổ chức bằng mọi hình thức bảo vệ tốt các công trình. Đối với công trình loại vừa và loại lớn, chú ý ngụy trang, nghi trang, kể cả trong và sau khi thi công. Tổ chức lực lượng sẵn sàng để trường hợp địch phá loại, khẩn trương tu sửa được ngay không ảnh hưởng đến sản xuất. Thường xuyên giáo dục ý thức cho mọi người trách nhiệm bảo vệ công trình, ý thức chấp hành đầy đủ thể lệ quy định và nội quy bảo vệ công trình. Luôn luôn tổ chức kiểm tra các công trình nhất là trước và sau các trận mưa lũ và kịp thời sửa chữa những công trình bị hư hỏng. Những nơi có các công trình loại vừa và loại lớn, cần gấp rút xây dựng ban quản trị công trình để có bộ máy đảm bảo quản lý tốt công trình. Đối với các công trình đã hoàn thành từ trước, cũng như các công trình xây dựng trong năm 1967 và năm 1968, cần có kế hoạch xây dựng tốt cho tưới tiêu, chống hạn, tăng vụ, chuyển vụ, khai hoang, đảm bảo tận dụng khai thác thích đáng đối với công trình. Ngoài ra, cần chú ý khai phá nhiều ruộng nương bậc thang, đẩy mạnh phong trào trồng cây gây rừng, áp dụng các biện pháp kỹ thuật thủy lợi giữ nước chống xói mòn trên nương và coi trọng việc giáo dục ý thức bảo vệ rừng nhất là rừng đầu nguồn và chống đốt phá rừng bừa bãi.
3. Tích cực kiến thiết đồng ruộng phục vụ thâm canh tăng năng suất
Kiến thiết đồng ruộng nhằm hợp lý hóa quy vùng canh tác, phục vụ cho tăng năng suất lao động, sử dụng nước được hợp lý đối với cây trồng kết hợp với các biện pháp kỹ thuật khác, đưa năng suất cây trồng lên cao. Tỉnh ta đã bước đầu thí điểm kiến thiết đồng ruộng tại xã Quang Kim, trên cơ sở kinh nghiệm tổng kết được của Quang Kim, cần tích cực mở rộng diện kiến thiết đồng ruộng trong tỉnh chủ yếu đối với vùng thấp, những nơi có điều kiện làm theo phương hướng tương đối hoàn chỉnh. Còn đối với vùng
49
cao chủ yếu là đắp bờ thửa đảm bảo kỹ thuật và có mương tưới tiêu thích hợp. Trong kiến thiết đồng ruộng, cần tránh tư tưởng quy mô, hình thức, phải kết hợp nhìn trước mắt với lâu dài, phải thận trọng tiến bước vững chắc, dựa vào tình hình địa dư thực tế và tránh xáo trộn nhiều.
4. Tích cực củng cố và xây dựng các đội thủy lợi chống Mỹ, cứu nước, củng cố và xây dựng các tổ tưới tiêu khoa học Đội thủy lợi chống Mỹ, cứu nước là lực lượng xung kích của hợp tác xã có nhiệm vụ hoàn thành ngày công nghĩa vụ của tập thể hợp tác xã trên các công trình Nhà nước, đồng thời là những người tiếp thu khoa học kỹ thuật để xây dựng cơ bản cho hợp tác xã. Trước yêu cầu xây dựng cơ bản ngày càng to lớn và nặng nề của Nhà nước và hợp tác xã, việc củng cố và xây dựng đội thủy lợi là một đòi hỏi hết sức cấp thiết. Do đó, phải đẩy mạnh việc xây dựng củng cố các đội thủy lợi, đảm bảo 100% số hợp tác xã có đội thủy lợi với chất lượng tốt, thực sự lên công trường, bảo đảm ngày công nghĩa vụ của hợp tác xã đối với Nhà nước đồng thời góp phần xứng đáng trong việc xây dựng cơ sở vật chất cho hợp tác xã. Khi lên công trường hay làm thủy lợi ở hợp tác xã, các đội thủy lợi phải đảm bảo có công cụ cải tiến và đạt năng suất cao. Các đội thủy lợi cần được giáo dục bồi dưỡng về chính trị, văn hóa và khoa học kỹ thuật. Mọi chế độ chính sách ban hành đối với đội thủy lợi phải được chấp hành nghiêm chỉnh, đầy đủ. Hợp tác xã phải có sự chú ý giải quyết thích đáng về quyền lợi và trang bị đầy đủ công cụ và công cụ cải tiến cho đội trên công trường, cần động viên thi đua rầm rộ, mạnh mẽ trong các đội thủy lợi nhằm đạt ngày công cao nhất, hoàn thành mức khoán tốt nhất, thời gian ngắn nhất, năng suất cao nhất, có nhiều đội viên đạt danh hiệu dũng sĩ, kiện tướng diệt Mỹ, lao động tiên tiến, chiến sĩ thi đua, đuổi kịp và vượt đội Tả Chải (đội điển hình của tỉnh), v.v..
Để góp phần đưa năng suất cây trồng lên cao, phải đẩy mạnh phong trào tưới tiêu khoa học và củng cố xây dựng tốt các tổ tiên
50
tiến. Các hợp tác xã đã kiến thiết đồng ruộng đều phải tổ chức các tổ tưới tiêu khoa học; những nơi chưa kiến thiết đồng ruộng thì cử ra tổ xem nước để phụ trách việc sử dụng nước tưới của hợp tác xã. Nên chú ý những thanh niên hăng hái có đầu óc để tiếp thu khoa học kỹ thuật đưa vào các tổ tưới tiêu, tổ xem nước; hợp tác xã cần giải quyết công điểm thích đáng và quan tâm sử dụng tốt anh chị em.
5. Đẩy mạnh hơn nữa công tác thủy lợi phục vụ sản xuất đông - xuân năm 1966-1967
Công tác thủy lợi phục vụ sản xuất đông xuân thời gian qua tuy có cố gắng và đạt kết quả đáng kể, nhưng chưa mạnh mẽ và thiếu toàn diện. Tình hình hạn hán lại xảy ra. Các địa phương cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công tác thủy lợi trong đông - xuân, kiên quyết đảm bảo đủ nước tưới phục vụ cho thâm canh tăng năng suất, tăng vụ và tăng diện tích một cách chủ động. Cần tích cực làm tốt công tác phòng chống hạn với tinh thần phòng hạn là chính. Phát triển thêm các công trình loại nhỏ, trọng điểm là những công trình giữ nước và lấy nước ở các vùng thường năm bị hạn. Chú ý xây dựng nhiều hồ ao nhỏ và các trạm bơm thủy luân. Đối với những nơi bị hạn thì vận động nhân dân ra sức nạo vét, sửa chữa, quản lý, sử dụng tốt mương phai điều chỉnh nước hợp lý và dùng mọi biện pháp tích cực như gầu, guồng, con,... để đảm bảo nước chống hạn, khi cần thiết phải gánh nước tưới để giữ độ ẩm cho hoa màu, cây công nghiệp. Trong việc thi công các công trình phải đảm bảo yêu cầu nhân lực trên công trường với tinh thần tranh thủ hoàn thành các bộ phận chủ yếu của công trình trước mùa mưa lũ. Củng cố tốt và xây dựng thêm nhiều đội thủy lợi, đảm bảo trong vụ đông xuân phần lớn các hợp tác xã có đội thủy lợi và đại bộ phận các đội thủy lợi lên công trường. Đẩy mạnh phong trào khai phá, làm ruộng nương bậc thang nhất là ở vùng cao và khẩn trương hoàn thành việc kiến thiết đồng ruộng ở các xã, hợp tác xã đang tiến hành làm.
51
6. Tăng cường tổ chức, kiện toàn bộ máy của ngành chuyên trách từ xã đến tỉnh để đủ sức đáp ứng với yêu cầu của tình hình mới. Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thủy lợi
Công tác thủy lợi trước yêu cầu của phát triển sản xuất nông nghiệp trước tình hình nhiệm vụ mới đòi hỏi phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo với tinh thần tiến công cách mạng, với tác phong sâu sát, chặt chẽ, khẩn trương và kịp thời. Do đó, việc cấp thiết là phải tổ
chức, củng cố, kiện toàn bộ máy thủy lợi từ xã đến tỉnh như xây dựng ban thủy lợi xã, thành lập phòng thủy lợi huyện và kiện toàn các bộ phận chuyên trách thuộc ty thủy lợi để tăng cường năng lực hoạt động của ngành chuyên trách. Đồng thời có kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo, sử dụng tốt cán bộ thủy lợi nhất là cán bộ kỹ thuật. Mặt khác, cần phải tổng kết chuyên đề, đúc rút được kinh nghiệm, phổ biến kịp thời về các mặt như: phong trào quần chúng làm thủy luân, thủy điện nhỏ, hồ ao nhỏ, kiến thiết đồng ruộng, quản lý khai thác công trình, xây dựng đội thủy lợi, tổ tưới tiêu, v.v..
Các cấp ủy Đảng phải nhận thức sâu sắc và làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức sâu sắc về đường lối, phương châm, nhiệm vụ và vị trí quan trọng của công tác thủy lợi, phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng một cách chặt chẽ, kịp thời đối với công tác này.
Các cấp ủy đi đôi với việc thường xuyên nắm tình hình sản xuất nông nghiệp, chú ý nắm sát tình hình thủy lợi, nghe báo cáo, cho chỉ thị và kiểm tra đôn đốc chặt chẽ công tác thủy lợi, đảm bảo chương trình kế hoạch công tác thủy lợi phải được thực hiện tốt, phục vụ kịp thời và đắc lực cho sản xuất nông nghiệp.
7. Trách nhiệm của các ngành
Chính quyền tỉnh có trách nhiệm duyệt kế hoạch thủy lợi hai năm, kế hoạch năm 1967 và lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ cho phong trào thủy lợi trước mắt là phong trào thủy lợi trong đông - xuân. - Cơ quan thủy lợi có trách nhiệm hướng dẫn chỉ đạo về
52
chuyên môn và giúp tỉnh theo dõi, nắm tình hình, giải quyết kịp thời những yêu cầu của các địa phương thuộc phạm vi nhiệm vụ thường xuyên báo cáo tình hình và kịp thời đề xuất những vấn đề cần thiết với tỉnh.
- Các ngành có liên quan như Ban Nông nghiệp, Tuyên giáo, Tỉnh đoàn, Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, Giao thông, Công nghiệp, Ty Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Lao động, v.v. căn cứ nhiệm vụ chức năng ngành mình có kế hoạch phối kết hợp chặt chẽ công tác ngành mình với công tác thủy lợi.
Các cấp, các ngành nghiên cứu kỹ nội dung yêu cầu nói trên có liên hệ kiểm điểm sâu sắc về trách nhiệm của mình đối với công tác thủy lợi nhất là liên hệ kiểm điểm về mặt nhận thức, về phương châm, đường lối công tác thủy lợi và nghiêm chỉnh chấp hành chỉ thị này.
T/M BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY
BÍ THƯ
TRƯỜNG MINH
Lưu tại Kho Lưu trữ Tỉnh ủy.
53
BÁO CÁO
CỦA BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ
Số 81-BC, ngày 24-4-1969
Về tổng kết công tác vận động, cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật, phát triển sản xuất nông nghiệp đợt 1 và 2 của Lào Cai
Báo cáo này gồm có 5 phần:
I. Tình hình đặc điểm của các xã và hợp tác xã trước khi mở cuộc vận động.
II. Đánh giá kết quả của cuộc vận động.
1. Xác định phương hướng sản xuất và kế hoạch sản xuất. 2. Xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật và cải tiến quản lý. 3. Cải tiến quản lý hợp tác xã, hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới.
4. Tăng cường lãnh đạo đối với hợp tác xã.
III. Phương pháp tiến hành và lãnh đạo, chỉ đạo cuộc vận động. IV. Đánh giá chung.
V. Phương hướng nhiệm vụ năm 1967 của 29 xã đang thời kỳ thực hiện.
Thực hiện chủ trương đó, tỉnh ta đã tiến hành từng đợt gọn vùng gọn xã, đến nay đã làm xong 2 đợt: Đợt 1 làm 11 xã gồm 50 hợp tác xã, đợt 2 làm 18 xã, 1 khu phố gồm 103 hợp tác xã, cộng cả là 153 hợp tác xã được cải tiến trong 207 hợp tác xã trong vùng, với trên 79% số hộ nông dân đã vào hợp tác xã và 71% diện tích canh
54
tác toàn vùng, hết tháng 12-1966 đợt 1 đã thực hiện kế hoạch được 1 năm, đợt 2 đã xong thời kỳ vận động tập trung. Như vậy đã xong cả vùng thấp, vùng trọng điểm lúa của tỉnh.
Ban Thường vụ Tỉnh ủy đánh giá kết quả cuộc vận động theo từng phần như sau:
Phần thứ nhất
TÌNH HÌNH ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC XÃ VÀ HỢP TÁC XÃ TRƯỚC KHI MỞ CUỘC VẬN ĐỘNG
Các xã và các hợp tác xã đã được cải tiến hầu hết nằm dọc theo sông Hồng và đường quốc lộ, tỉnh lộ, 10 xã ở chung quanh vùng mỏ lớn và 2 thị xã, 45 hợp tác xã khai hoang, 43 hợp tác xã dân tộc Mán, 9 hợp tác xã thuộc thị xã.
Các hợp tác xã đều thành lập năm 1960, đã qua nhiều lần củng cố, phát triển, tư tưởng xã viên nói chung ổn định. Công tác quản lý đã có những tiến bộ nhất định. Trình độ quản lý cán bộ, đảng viên đã dần dần được nâng lên. Sản xuất của hợp tác xã nói chung đã phát triển hơn trước, bước đầu đã có một số hợp tác xã đi vào thâm canh tăng năng suất, áp dụng khoa học kỹ thuật mới. Loại hợp tác xã khá ngày càng nhiều và đã có hợp tác xã trở thành tiên tiến (Tiền Phong, Thác Dạ Vạch, v.v.).
Về tổ chức lãnh đạo và tình hình chính trị trong các xã, hợp tác xã nói chung ổn định. Một số chi bộ đã trở thành bốn tốt. Các tổ chức chính quyền, đoàn thể ở xã và hợp tác xã ngày càng củng cố, phát triển. Nhân dân các dân tộc đã qua nhiều đợt phát động, nâng cao tư tưởng và có truyền thống đoàn kết tốt, đấu tranh, rất tin tưởng ở Đảng và Chính phủ.
Tuy nhiên, trong phong trào còn nhiều mặt yếu và tồn tại, phải khắc phục. Đó là quy mô hợp tác xã còn quá nhỏ bé, một hợp tác xã bình quân mới có 32 hộ và 27,8 ha ruộng đất, trong đó 13,9 ha ruộng.
55
Loại hợp tác xã dưới 50 hộ chiếm 76,8%. Phương hướng sản xuất của các hợp tác xã chưa được xác định, nên sản xuất, kinh doanh còn nhiều lúng túng. Các hợp tác xã dân tộc Mán còn sản xuất theo lối du canh, phát nương, phá rừng bừa bãi, sau một năm diện tích nương rẫy chỉ còn 345 ha. Kinh tế tập thể chưa được tăng cường và chiếm ưu thế. Xã viên làm riêng còn nhiều, đất làm riêng của xã tới 11,6%. Công tác quản lý lao động nói chung chưa tốt. Số công lao động xã viên góp cho hợp tác xã ít (129 công/năm). Số hợp tác xã 1 khoán, 2 khoán, 3 khoán chưa nhiều. Về tài vụ, tuy các hợp tác xã đều đã có kế toán được qua huấn luyện, nhưng trình độ còn non, chế độ, nguyên tắc tài chính thực hiện chưa tốt, khá đông hợp tác xã có vấn đề tài chính mắc mớ, chi tiêu, vay mượn không có sổ sách rõ ràng, có nơi xảy ra tham ô. Việc quản lý dân chủ chưa thực hiện được tốt, thiếu bàn bạc dân chủ trong việc xây và thực hiện kế hoạch hàng vụ, hàng ngày, dân chủ bầu của ban quản trị không đúng kỳ hạn, v.v.. Việc chấp hành chính sách trong hợp tác xã còn thiếu sót, như phụ cấp công điểm cán bộ tới 2,6%… Sản xuất kinh doanh của hợp tác xã chưa cân đối toàn diện: cây công nghiệp mới có 1,6%, nghề rừng chưa có gì, chăn nuôi phát triển còn thấp và chưa cân đối với trồng trọt. Một hộ mới có 0,98 con trâu, 1,86 lợn. Mỗi hécta ruộng đất mới có 2,8 con trâu, bò, ngựa (trong đó 1,18 con trâu cày), 2,33 con lợn. Nghề nuôi cá có khả năng phát triển nhưng chưa có gì. Năng suất cây trồng còn thấp (3.508 kg/ha cả năm). Hệ số sử dụng ruộng mới 1,7 lần. Cơ sở vật chất kỹ thuật và việc thực hiện các biện pháp thâm canh nhìn chung chưa đạt yêu cầu. Công cụ lao động còn thô sơ và lạc hậu. Mỗi hécta ruộng mới bón 2.449 kg phân, 3,5 hợp tác xã mới có 1 sân phơi, 3,1 hợp tác xã mới có 1 nhà kho, 3,4 lao động mới có 1 công cụ cải tiến. Tệ nước chảy tràn bờ, cấy chay không làm cỏ, thả rông trâu bò, đốt rừng, còn là phổ biến chưa chấm dứt căn bản; một số nơi diện tích ruộng bị hạn hàng năm vẫn còn. Sự lãnh đạo của chi bộ, chính quyền, đoàn thanh niên chưa thực sự đi sâu vào chỉ đạo sản xuất,
56
hợp tác xã. Trình độ, khả năng của cán bộ xã, hợp tác xã còn thấp và lúng túng, nhất là về nghiệp vụ quản lý và kỹ thuật. Một số chi bộ còn kém, 21 hợp tác xã trắng chưa có đảng viên. Nhiều chi bộ 2 - 3 năm không phát triển Đảng; một vài chi bộ hoạt động trì trệ. Trong cán bộ, đảng viên, xã viên còn tồn tại một số tư tưởng lạc hậu với mức độ khác nhau ngại làm nghĩa vụ lương thực cho Nhà nước, chạy theo làm ăn riêng lẻ, v.v.. Sự chỉ đạo của huyện do chưa nhận thức đúng vị trí cấp huyện đối với sản xuất nông nghiệp theo như tinh thần Nghị quyết 136 của Trung ương nên chưa tập trung nắm và chỉ đạo hợp tác xã, chưa đi sâu vào nghiệp vụ quản lý kinh tế và kỹ thuật nông nghiệp.
Tóm lại, phong trào so với trước đã có sự tiến bộ nhất định về nhiều mặt, nhưng không đều giữa các mặt, giữa các hợp tác xã và xã. Loại hợp tác xã kém còn tới 21%. Loại chi bộ và xã kém còn tới 30% trong đó có 6 chi bộ quá kém. Sản xuất nông nghiệp có tiến lên nhưng chậm, chưa có những bước tiến nhảy vọt và chưa tạo được thế vững chắc để đi lên.
Phần thứ hai
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CỦA CUỘC VẬN ĐỘNG
1. Xác định phương hướng sản xuất và kế hoạch sản xuất Vùng mở cuộc vận động là vùng chuyên môn hóa sản xuất lương thực (chủ yếu là cây lúa), thực phẩm, cây ăn quả xuất khẩu của tỉnh nên hướng chung là: Ra sức đẩy mạnh sản suất lương thực (chủ yếu là lúa ruộng), thực phẩm, đẩy mạnh chăn nuôi và phát triển cây công nghiệp có trọng điểm, như trẩu, sở, lai, lấy thâm canh tăng vụ là chủ yếu nhằm vài ba năm đạt được mục tiêu lớn nhất là đưa năng suất lúa lên 5 tấn 1 ha trên diện tích ruộng 2 vụ, đưa hệ số sử dụng ruộng lên 2 vòng để đảm bảo cung cấp lương thực, thực phẩm cho nhu cầu toàn tỉnh (...), trong lương thực thì
57
25% là màu. Diện tích canh tác trong tổng diện tích vùng phân bố đến năm 1980 là 25%. Cây công nghiệp chủ yếu là các loại cây có dầu ăn được như trẩu, sở, lai. Về chăn nuôi sẽ phát triển mạnh để cân đối với trồng trọt, bước đầu phát triển chăn nuôi tập thể, quốc doanh hướng chủ yếu là lợn và loại ăn cỏ như dê, bò và nuôi cá làm cho ba mặt của chăn nuôi gia đình, tập thể, quốc doanh cùng phát triển hỗ trợ lẫn nhau. Nghề rừng, chủ yếu là đẩy mạnh trồng cây gây lại rừng, tu bổ, bảo vệ rừng, chấm dứt tình trạng chặt phá rừng và phát nương bừa bãi.
Trên đây là hướng phấn đấu chung cho cả vùng, nhưng đi vào từng loại hợp tác xã thì có phấn đấu chủ yếu khác nhau, như: Các hợp tác xã là dân tộc Mán còn sản xuất theo lối du canh thì hướng chủ yếu là vài ba năm phải chấm dứt được tệ làm ăn phát nương du canh, phá rừng bữa bãi bằng cách khai phá thêm nương ruộng bậc thang, thâm canh ruộng hiện có, để đảm bảo tự túc lương thực; trên cơ sở tự túc lương thực và làm một phần nghĩa vụ lương thực đối với Nhà nước theo mức đã ổn định, đẩy mạnh chăn nuôi và nghề rừng là chủ yếu; sản phẩm hàng hóa cung cấp cho nhu cầu nhà nước là sản phẩm chăn nuôi và rừng. Các hợp tác xã khai hoang hướng chủ yếu là phấn đấu nhanh chóng tự túc được lương thực không phải yêu cầu Nhà nước cung cấp, nhanh chóng ổn định cơ sở
sản xuất bằng khai hoang thêm ruộng, nương định canh; trên cơ sở tự túc lương thực, đẩy mạnh chăn nuôi, trồng cây công nghiệp (trừ những nơi có điều kiện làm lương thực, khai phá ruộng nước). Các hợp tác xã thuộc thị xã hướng chủ yếu là sản xuất rau, thịt, cá, cây ăn quả; sản phẩm nông sản hàng hóa ở đây chính là rau, thịt, cá, hoa quả xuất khẩu. Các hợp tác xã có nhiều ruộng chủ yếu lấy đẩy mạnh thâm canh tăng năng suất, tăng vụ, phấn đấu đạt 5 tấn/ha
ruộng 2 vụ, để bảo đảm cung cấp lương thực cho tỉnh. Phương hướng trên cũng là để giải quyết tình trạng sản xuất nông nghiệp của tỉnh vốn là mang nặng tính chất độc canh, phân tán, tự cấp, tự túc từ lâu tạo dần thành sản xuất có tính chất hàng
58
hóa. Phương hướng đó từ năm 1963 tỉnh đã tiến hành nghiên cứu phân vùng sản xuất. Năm 1964, Tỉnh ủy đã có Nghị quyết sơ bộ phân làm hai vùng sản xuất lớn: Vùng chuyên môn hóa sản xuất lương thực, thực phẩm; vùng sản xuất cây trồng công nghiệp, đặc sản. Ngoài vùng lớn có các tiểu vùng như: Vùng lúa, mía, cây ăn quả xuất khẩu, rau, chăn nuôi, chè, đậu tương, hạt rau, thảo quả, v.v.. Khi chuẩn bị cuộc vận động, tỉnh thành lập đội quy hoạch, đội đo đạc ruộng đất và giao cho các ty chuyên môn tiến hành việc quy hoạch phân bổ đất đai, đo ruộng, lập các quy hoạch thủy lợi, giao thông, cơ khí, thủy điện nhỏ, v.v. cho từng xã. Tỉnh còn hướng dẫn các xã xác định phương hướng và lập kế hoạch của xã không phải chỉ đơn thuần các chỉ tiêu sản xuất của các hợp tác xã cộng lại mà còn có những chỉ tiêu thuộc phạm vi cả xã phải làm như giao thông, thủy lợi,… không chỉ có chỉ tiêu kinh tế đơn thuần mà cả chỉ tiêu chính trị như công tác xây dựng Đảng, đào tạo cán bộ, mở rộng quy mô hợp tác xã, v.v.. Kế hoạch của xã là chương trình hành động phấn đấu trở thành chi bộ bốn tốt.
Kết quả của cuộc vận động, các hợp tác xã và xã đều đã xác định được phương hướng của mình, nhìn chung phù hợp với tình hình cụ thể của từng nơi, đảm bảo hướng chung của tỉnh. Các xã, hợp tác xã cũng đã xây dựng được kế hoạch thực hiện hai năm 1966-1967. Đến nay, sau một năm các hợp tác xã và xã thực hiện phương hướng và kế hoạch đề ra, thực tế đã chứng minh phương hướng nêu trên là phù hợp và đúng đắn. Trong quá trình thực hiện, một số nơi do yêu cầu mới và thực tế mới, nên có điều chỉnh kế hoạch, không nhiều lắm.
Về năng suất: Lúa ruộng, mặc dù năm 1966 gặp nhiều khó khăn, nắng hạn đầu năm kéo dài, giữa năm mưa lũ cuốn lúa… gây thiệt hại lớn, nhưng năng suất lúa ruộng vẫn tăng từ 4.222 kg/ha lên 4.322 kg/ha cả năm (trừ 4 xã bị bệnh vàng lụi bị thiệt hại quá nặng). Hệ số sử dụng ruộng từ 1,75 lên đến 1,8 lần. Số hợp tác xã đạt 4,5 tấn trở lên ngày càng nhiều. Năm 1965 mới có 7 hợp tác xã
59
đạt 5 tấn thì năm 1966 đã có 28 hợp tác xã đạt 5 tấn trở lên, với 309 ha bằng 14,3% diện tích ruộng 2 vụ và 19 hợp tác xã đạt 4,5 tấn đến 5 tấn, với 310ha, bằng 14,4% diện tích ruộng 2 vụ. Cộng cả hai loại có 47 hợp tác xã với 619ha bằng 28,7% diện tích ruộng 2 vụ và 8,06% diện tích ruộng cả vùng (nếu không kể 4 xã bị vàng lụi thì là 32,9% diện tích ruộng 2 vụ). Số xã đạt 4,5 tấn trở lên đã có 4 xã với diện tích 225,24ha, bằng 10% diện tích ruộng 2 vụ cả
vùng. Toàn bộ diện tích ruộng thị xã Lào Cai đạt 4.888 kg/ha. Diện tích cây công nghiệp từ 3,9% lên 5%, cây ăn quả từ 1,3% lên 2,4%, tỷ lệ màu trong cây lương thực từ 18,1% lên 22%. Diện tích canh tác hiện nay so với đất đai chung đã đạt 5%. Chăn nuôi phát triển: Trâu tăng 4,3%, bò tăng 38,6%, lợn tăng 12,23%, dê tăng 21,4%. Chăn nuôi tập thể đã bắt đầu hình thành, phát triển từ 4 cơ sở (năm 1965) lên 17 cơ sở với 296 bò, 206 dê, 236 lợn, làm mới 193 ao hồ nuôi cá (và cũ đã có là 45ha), đã thả đàn 2 triệu cá con. Việc chăn nuôi bò, dê, cá có nhiều hướng phát triển tốt, ít gặp khó khăn, Có xã đã nuôi tới trên 5 vạn con (Bản Sen, Bản Lầu). Quốc doanh chăn nuôi của tỉnh đã thành lập, có 6 cơ sở nuôi bò, dê, cá với 500 con bò, 264 con dê, 290.000 con cá, 20 lợn nái.
Nghề rừng bước đầu đã được các hợp tác xã chú ý và đang dần dần hình thành ở các hợp tác xã, xã đã có 19 hợp tác xã dành 234 lao động, lập các đội chuyên làm rừng và tỉnh đã thí điểm định canh, định cư đồng bào Mán, đưa nghề rừng vào hợp tác xã ở xã Bản Phiệt huyện Mường Khương, bước đầu thu được tốt. Diện tích nương du canh từ 1.042ha xuống 832ha.
Kết quả đó tuy mới ở 1 điểm, nhưng nó là thành công đầu tiên, mở ra phương hướng chính xác mới để các nơi noi theo và phát triển, mở ra một triển vọng mới cho nghề rừng, cho đồng bào Mán du canh. Nông sản hàng hóa phục vụ cho nhu cầu nhà nước tăng: thóc ngô 12%, rau 36,2%, thịt lợn 29,2%, chuối, dứa xuất khẩu 34%. Quần chúng làm nghĩa vụ với tinh thần thi đua chống Mỹ, khác
60
với năm trước. Nhiều ngày hội bán lương thực, thực phẩm đã được tổ chức ở nhiều nơi, quần chúng đi bán lương thực, thực phẩm như ngày hội. Riêng mức thịt lợn trước chưa vượt mức cao hơn cũ 33% (Quang Kim, Trịnh Tường, Bản Sen). Nhiều gia đình đã ăn tết lợn nhỏ, bán lợn to, giảm lợn cưới, lợn ma để bán cho Nhà nước (Bản Lầu, Bản Sen), v.v.. Thu nhập của xã viên nâng lên, kinh tế tập thể được tăng cường hơn trước: Bình quân đầu người thu từ kinh
tế tập thể năm 1965 là 53đ20, năm 1966 là 65đ06 một năm. Nhờ việc xác định được phương hướng và kế hoạch sản xuất và sự thực hiện 1 năm cụ thể của từng hợp tác xã, đã làm cho việc thâm canh tăng năng suất cây trồng được đẩy mạnh, nhưng sản phẩm hàng hóa mới trong nhiều hợp tác xã nông nghiệp như mía công nghiệp, thịt lợn của chăn nuôi tập thể đã bắt đầu có tạo nên yêu cầu phân công lao động mới một cách rõ rệt. Đồng thời cũng do đó đã làm sáng tỏ thêm một số vấn đề nảy sinh nhiều yêu cầu mới đòi hỏi phải giải quyết:
a) Yêu cầu của việc mở rộng quy mô hợp tác xã chính là yêu cầu của việc thực hiện phương hướng sản xuất mới và do việc thực hiện phương hướng sản xuất mới đòi hỏi phải mở rộng quy mô hợp tác xã thích hợp, để thực hiện phân công lại lao động mới.
b) Cần điều chỉnh phân bố ruộng đất hợp lý, lập các đội chuyên canh, thực hiện việc khoán việc và ba khoán tốt.
c) Phải xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật với quy mô thích hợp thì mới thực hiện được phương hướng đề ra, nhất là các loại cây giống, con giống.
d) Yêu cầu về cung cấp vật tư kỹ thuật cán bộ thiết kế hướng dẫn kỹ thuật rất lớn, do đó công nghiệp địa phương phải đẩy mạnh việc xây dựng cho cân đối thì mới đáp ứng kịp.
đ) Phải có một số chính sách cụ thể mới như: đầu tư khuyến khích chế biến mẫu, chính sách lương thực đối với hợp tác xã, chuyên môn làm chính sách công điểm đối với công nhân cơ khí trong hợp tác xã, v.v..
61
e) Cách giải quyết vấn đề thực phẩm đối với Lào Cai là: Không chỉ riêng ngành chăn nuôi mà phải đẩy mạnh song song cả việc trồng cây công nghiệp có dầu ăn được. Trong khi chú trọng chăn nuôi gia đình phải đẩy mạnh chăn nuôi tập thể. Khả
năng chăn nuôi tập thể lớn có nhiều và phù hợp với tỉnh ta, nhất là loại ăn cỏ, đang có chiều hướng phát triển mạnh và ít gặp khó khăn lớn. Trước mắt, hiện nay lương thực còn ít, kỹ thuật chăn nuôi thấp, chăn nuôi thủ công, nên vẫn phải lấy chăn nuôi gia đình xã viên là chính, đồng thời đẩy mạnh chăn nuôi tập thể
nhưng phải đi từ thấp lên cao, nhỏ đến lớn và bắt đầu từ lợn nái sinh sản.
g) Giúp cho lãnh đạo các cấp, các ngành nhìn trước được vấn đề chuẩn bị lâu dài cho nông nghiệp như giúp quy mô công nghiệp địa phương, hướng và yêu cầu đào tạo cán bộ, công nhân đối với từng vùng, chỉ rõ nhiệm vụ phục vụ nông nghiệp cho các ngành một cách cụ thể.
h) Việc xác định phương hướng sản xuất chung và cụ thể riêng đối với từng hợp tác xã, từng loại cây trồng, con gia súc, hướng canh tác, v.v. phải xuất phát đầy đủ từ thực tiễn tỉnh ta là tỉnh miền núi có ưu thế về cây công nghiệp, chăn nuôi và nghề rừng, những lại phải thấy thực tế là tỉnh thiếu lương thực, thực phẩm, nhiều tiểu vùng, nhiều dân tộc; tập quán sản xuất, khí hậu khác nhau để suy nghĩ. Vận dụng một phương hướng sản xuất tốt. Phương hướng đó phải thỏa mãn được ba yêu cầu sau:
- Dựa vào điều kiện đất đai, khí hậu từng vùng, tập quán sản xuất của từng nơi, nhưng phải phục tùng phương hướng chung của tỉnh đã quy, nếu không sẽ không tạo thành vùng hàng hóa tập trung, tức là làm hình thành và mở rộng những vùng sản xuất hàng hóa mới.
+ Đáp ứng được yêu cầu trước mắt, nhưng không mâu thuẫn với lâu dài về sau, kết hợp được trước mắt và lâu dài nhưng hướng lâu dài là chủ yếu, khắc phục tốt mâu thuẫn giữa yêu cầu và khả
62
năng của tỉnh hiện nay là khả năng về rừng, cây công nghiệp thì nhiều, nhưng trước mắt là lương thực thiếu.
- Phát huy được ưu thế tự nhiên của miền núi tỉnh ta (sức nước dồi dào, đồng cỏ nhiều, v.v.), tập quán sản xuất của từng dân tộc. Đi đôi với thực hiện phương hướng sản xuất của hợp tác xã, kinh tế phụ gia đình xã viên cũng được giáo dục, hướng dẫn phát triển đúng đắn, dành từ 5% đến 7% đất cho gia đình xã viên, trồng rau tự túc, trồng màu chăn nuôi, còn lại nhập vào hợp tác xã. Vừa qua nhiều hợp tác xã đã nhập 267ha ruộng đất của gia đình xã viên làm quá mức vào hợp tác xã thống nhất kinh doanh. Tùy theo khả năng lao động của từng hộ, hợp tác xã cho mượn thêm một hộ không quá 3 sào để trồng màu chăn nuôi, v.v.. Đất này xác định rõ là xã viên không có quyền sở hữu, khi cần hợp tác xã sẽ sử dụng. Số đất 5-7% để lại là đất có điều kiện thuận tiện sản xuất hiện nay, không nhất thiết là đất cũ của xã viên khi vào hợp tác xã. Nhiều hợp tác xã đã quy được khu vực đất dành cho gia đình xã viên thuận tiện theo từng đội sản xuất rành mạch, để tránh tự do khai hoang, phá rừng bừa bãi. Đối với thực tế tỉnh ta cách giải quyết không quá khắt khe, đồng thời không buông trôi như trên là đúng.
Trên đây là những kết quả bước đầu của việc thực hiện phương hướng đã đề ra, song trong quá trình thực hiện đã nảy sinh những vấn đề mới và thiếu sót cần phải kịp thời khắc phục. Đó là: việc thực hiện phương hướng nghề rừng còn đang ở điểm chưa mở rộng được diện. Tỷ trọng cây công nghiệp đối với vùng lúa với 2-3 năm tới ta định từ 15-20% là có phần cao, không phù hợp, vì bình quân diện tích cây lương thực mỗi nhân khẩu hiện nay mới là 1.964m2. Qua cuộc vận động, các hợp tác xã yêu cầu cung cấp vật tư kỹ thuật rất lớn, như các loại cây giống, con giống, nguồn vật liệu tốt, bò, dê, cá, lợn, xi măng, máy móc cơ khí, cán bộ kỹ thuật, hướng dẫn thiết kế, v.v.. Nhưng vừa qua ta chưa đáp ứng được, nên có phần hạn chế tốc độ phát triển sản xuất ở dưới. Việc chế biến hoa
63
màu còn gặp nhiều khó khăn, nhưng kết quả thí nghiệm chưa được tổ chức thực hiện và phổ cập ra nhân dân, hợp tác xã. Năng suất lúa chưa đồng đều có vùng bị bệnh vàng lụi nên năng suất quá thấp (2 xã khu Bản Lầu - Mường Khương). Một số chính sách cụ
thể phục vụ cho việc thực hiện phương hướng mới chưa được ban hành như: Chính sách thu mua lương thực đối với hợp tác xã Mán chủ yếu kinh doanh nghề rừng; chính sách đầu tư đối với việc chế biến và sử dụng màu, v.v.. Một số chính sách đã có nhưng chưa được nghiên cứu thực hiện tốt, như chính sách phân phối. Việc chỉ đạo thực hiện phương hướng, chỉ đạo thời kỳ thực hiện của cuộc vận động còn thiếu sót. Các cấp ủy huyện coi nhẹ những xã đã qua vận động tập trung, thiếu kiểm tra, đôn đốc, giúp đỡ sít sao, thiếu bố trí theo dõi giúp xã, hợp tác xã thời kỳ thực hiện một cách chu đáo. Do đó đã có tình trạng một, hai xã đã qua vận động nhưng chuyển biến chậm, không bám chặt phương hướng đã đề ra để thực hiện, mà làm đến đâu hay đến đấy, sản xuất, làm nghĩa vụ lương thực trì trệ, hợp tác xã hợp nhất có hình thức (Đồng Tuyển, Bát Xát, Tả Phời, Hợp Thành - Bảo Thắng). Các huyện và các xã nắm năng suất cây trồng nhất là lúa của hợp tác xã không chặt, nên vẫn có tình trạng giấu diếm sản lượng, giằng co nhau năng suất giữa huyện, xã, hợp tác xã. Việc giao kế hoạch, theo dõi thực hiện kế hoạch của cơ quan kế hoạch, thống kê vận dụng diện tích theo cân giống ước lượng, chưa sử dụng diện tích đã đo đạc, trong khi đó các hợp tác xã qua vận động cải tiến đã sử dụng số liệu đo đạc nên gây khó khăn cho việc kết luận chính xác năng suất lúa ruộng, v.v.. Huyện chỉ mới nắm xã, chưa đi sâu nắm hợp tác xã. Tỉnh đã quy vùng sản xuất nhưng các huyện, các ngành chưa theo dõi, nắm sản xuất theo vùng.
2. Xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật và cải tiến kỹ thuật: Hướng vừa qua là tập trung vào phục vụ cho thâm canh tăng năng suất cây trồng, chủ yếu là cây lúa, sao cho đạt 5 tấn/ha. Cho nên, tỉnh đã chú trọng vào việc chống 5 tệ (nước chảy tràn lan, bỏ
64
cỏ, cấy chay, thả rông, đốt phát rừng bừa bãi), tích cực làm các đường giao thông liên xã, kết hợp giao thông với thủy lợi làm đường từ làng bản ra đồng ruộng, xây dựng các công trình thủy lợi, chủ yếu là thủy lợi nhỏ, xây dựng đồng ruộng, làm đường vùng, bờ
thửa, chủ yếu là hệ thống đường đi từ làng ra ruộng, kết hợp với hệ thống tưới tiêu chủ động, Một mặt xây dựng chuồng trại gia súc, nhà ủ phân, nhà giữ trẻ, cơ sở chế biến nông sản, xay xát, lập các cơ sở gây giống, chọn giống tốt; cải tiến công cụ nhất là công việc vận chuyển.
Trong khi thực hiện các chủ trương, biện pháp trên chúng ta gặp phải một số khó khăn: Nhân lực ít, có hạn, nhưng một lúc phải bảo đảm cả 2 yêu cầu xây dựng của hợp tác xã và phục vụ nhu cầu công việc chống Mỹ, cứu nước (dân công, bộ đội, thanh niên xung phong, v.v.) thiếu vật tư, thiếu cán bộ, công nhân kỹ thuật hướng dẫn, v.v.. Nhưng chúng ta đã biết giáo dục, phát động được tinh thần tự lực cánh sinh, ý thức tự lập, tự cường của quần chúng cán bộ, đảng viên, xã viên; động viên được lòng căm thù giặc Mỹ, tinh thần thi đua yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội của quần chúng. Chúng ta còn xây dựng tinh thần hợp tác xã tự làm, cán bộ trên hướng dẫn, kèm cặp, đào tạo công nhân tại chỗ. Nhiều nơi đã biết phát huy ưu thế và khai thác khả năng tiềm tàng tự nhiên của miền núi, biết xuất phát từ điều kiện cụ thể từng nơi như: Lợi dụng địa hình, địa thế tự nhiên, đất đá, tre, gỗ, sức nước, sức kéo, v.v. đã thiết kế kỹ thuật thích hợp. Các xã, hợp tác xã đã biết tổ chức và sử dụng lao động hợp lý như lập đội thủy lợi chống Mỹ ở hợp tác xã để vừa thay thế nghĩa vụ dân công cho xã viên, vừa xây dựng cơ bản cho hợp tác xã; tổ chức nhóm trẻ để tận dụng sức lao động của phụ nữ, sử dụng hợp lý sức lao động của cụ già.
Từ những cách làm cụ thể và tích cực như trên, nên kết quả đã đạt được rất lớn, có thứ một năm làm bằng 5 năm. So với năm 1965, lò vôi tăng 551%, lò gạch tăng 233%, cơ sở rèn tăng 200%, nhà kho tăng 200%. Trước đây 2,8 hợp tác xã mới có 1 nhà kho,
65
nay 0,86 hợp tác xã đã có 1 nhà kho. Sân phơi tăng 104% trước 4,3 hợp tác xã có 1 sân phơi nay 1 hợp tác xã có 1 sân phơi. Có hợp tác xã mỗi đội sản xuất có 1 nhà kho, 1 sân phơi (Bản Sen, Bảo Nhai). Nhà ủ phân làm 75 cái mới. Nhà giữ trẻ làm 45 cái mới (trước chưa có). Cơ sở chế biến nông sản mới làm và tu sửa cải tiến lại được 21 điểm cối ngàn xát gạo bằng sức nước; 6 điểm cơ khí nhỏ có 21 máy, gồm xay xát, tuốt lúa, nghiền thức ăn gia súc, v.v. chạy bằng sức điện hoặc sức nước.
Các công cụ cải tiến tăng nhiều: quạt hòm tăng 70%, trục lăn tăng 264%, cày cải tiến tăng 134%, bừa cải tiến tăng 106%, cào cỏ sắt tăng 168%, cào cỏ 64A tăng 411%, xe quệt tăng 156%, v.v.. Trước đây 3,4 lao động, nay cứ 1,5 lao động có 1 công cụ cải tiến.
Về thủy lợi: Hợp tác xã đã tự làm 14 trạm thủy luân, 103 hồ ao kết hợp tưới nước với nuôi cá, hết 141.148 nhân công (bình quân 1 hợp tác xã bỏ 1.300 công, 1 lao động 12,5 công). Các nơi đã xây dựng 4.805m3 đường vùng, thực hiện tưới tiêu chủ động, đồng thời đã làm xong 10 công trình trung thủy nông, với 112.649 nhân công, 669.212đ vốn đầu tư. Chúng ta cũng đã xây dựng được 2 trạm bơm điện Kim Tân, Soi Lần, công xuất 1.280m3/giờ phục vụ
cho khai hoang tăng vụ và nước ăn cho trên 1 vạn dân. Nhờ việc làm thủy lợi khá nên nay diện tích được tưới nước chắc chắn, nắng nhiều cũng không bị hạn đã nâng từ 90% diện tích lên 98% diện tích ruộng 2 vụ.
Về giao thông: Đã hoàn thành 3 đường liên huyện, liên xã (không kể đường bạn giúp) để phục vụ vận chuyển vật tư cho hợp tác xã, và nông sản hàng hóa đi nơi khác. Đến nay đã có 24/29 xã trong vùng có đường ô tô chạy qua. Từ đường trục lớn, các xã đã và đang làm các đường nối liền đến trung tâm mỗi xã. Các đường liên hợp tác xã và từ làng ra đồng cũng được đẩy mạnh. Các hợp tác xã đầu tư 114.000 công làm 50km đường, bình quân 1 lao động đã bỏ
6 công ra làm đường. Do đó, đã có tác dụng phục vụ sản xuất, sinh hoạt, đi lại của nhân dân rất lớn. Có xã như: Bản Sen, Xuân Giao,
66
đường đi lại trước đây trèo đèo lội suối, nhưng nay có thể đi xe đạp được quanh xã.
Về phân: Số lượng phân bón từ 2.449 kg/ha lên 3.736 kg/ha, chất lượng phân đảm bảo hơn trước. Các hợp tác xã đã bắt đầu sử dụng phân hóa học.
Về giống: Đã thí điểm chọn lọc được các loại giống lúa có năng suất cao như Nông nghiệp 1, 828, khê nấm lùn, Mộc Tuyền và lúa mùa sớm địa phương, v.v. các loại giống tốt đã được phổ cập trong các hợp tác xã. Năm qua toàn vùng đã thay giống cũ bằng giống Nông nghiệp 1 là 70% diện tích, giống 813 là 6% diện tích. Ở tỉnh ta đã xây dựng 8 trạm, trại kỹ thuật để thí nghiệm cây trồng, hoặc để chọn giống, nhân giống (kể cả trại rau, trại cá, trại tằm, ong, trại theo dõi sâu bệnh, v.v.), cơ sở ươm cá giống đã có ở 6 nơi (5 của hợp tác xã, 1 của Nhà nước), hằng năm có thể cung cấp hàng triệu cá con cho các hợp tác xã để không phải về xuôi tải lên như trước. Trại nhân giống lớn Bát Xát của Bộ Công nghiệp giao lại tỉnh cũng đang được củng cố.
Về công nghiệp phục vụ nông nghiệp: Ngoài xưởng cơ khí “Phú Lợi” sản xuất công cụ thường, cải tiến nhờ sự quan tâm của Trung ương và tranh thủ sự viện trợ của tỉnh bạn Vân Nam (Trung Quốc), tỉnh ta đã và đang xây dựng nhà máy cơ khí loại vừa, để tự
trang, tự chế các máy móc thường cho nông nghiệp. Quy hoạch thủy điện nhỏ đi liền với cơ khí nhỏ đang được khảo sát, có nơi đã xây dựng. Khi các cơ sở trên xong thì có thể dùng điện vào một số công việc sản xuất ở vùng này, sẽ tác động lớn đối với nông nghiệp. Trong việc thi đua đưa kỹ thuật vào nông nghiệp đã nảy nở nhiều phong trào mới như: Ông làm nhà cho cháu, thanh niên tự làm thủy luân, làm ao hồ ở 5 xã Bản Lầu, làm trung thủy nông ở Phú Nhuận, làm thủy điện nhỏ ở các xã thuộc Bát Xát, v.v..
Những kết quả của việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật vừa qua đã có tác dụng thiết thực phục vụ cho thâm canh tăng năng suất cây trồng, tạo nên bước phát triển trong sản xuất nông
67
nghiệp, tạo nên sự phấn khởi và tin tưởng trong quần chúng đối với phương hướng đã đề ra và đối với tương lai tốt đẹp của mình. Thực tế vừa qua đã chỉ rõ thêm:
a) Phải có quy hoạch cụ thể về cơ sở vật chất, kỹ thuật toàn diện ở từng xã thì việc xây dựng mọi mặt mới khớp, nếu không thì cái nọ sẽ mâu thuẫn cái kia, cái làm sau mâu thuẫn cái làm trước, gây lãng phí sức người và của, phải làm đi làm lại. Đây là một yêu cầu mới, cấp bách hiện nay.
b) Hướng dùng lực kéo cho cơ khí nhỏ đối với tỉnh ta mà khả năng phát triển được mạnh là: phải tận dụng, kết hợp được sức nước, điện, sức súc vật. Khả năng làm thủy điện nhỏ từng bản cũng rất dồi dào.
c) Biện pháp chủ yếu để đưa năng suất lúa ruộng 2 vụ lên 5 tấn/ha, một năm đối với thực tế vùng thấp tỉnh ta là phải đủ nước, và phải bón phân 16 tấn/ha trở lên, đồng thời cần thay các loại giống tốt nói trên đi đôi với phòng trừ tốt sâu, bệnh, nhất là bệnh vàng lụi. (Các biện pháp khác, tất nhiên vẫn phải bảo đảm thực hiện như đã làm hiện nay).
d) Muốn đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật phải giải quyết tốt bốn vấn đề: Phát động được tinh thần tự lực cánh sinh của quần chúng, cơ sở tự làm tạo thành yêu cầu của quần chúng. Cách tốt nhất là xây dựng điển hình, tổ chức tham quan; một mặt phải biết tận dụng ưu thế tự nhiên của miền núi, phải phân công lao động hợp lý, có đội chuyên trách xây dựng của hợp tác xã; đồng thời Nhà nước nhiệt tình giúp đỡ, cung cấp vật tư, hướng dẫn kỹ thuật đầy đủ và kịp thời, nhưng chỉ giúp khi nào đã phát động được quần chúng tự đứng lên làm (vừa qua nơi nào làm như vậy thì quần chúng đứng ra làm, kết quả nhanh chóng như Cốc San, Mường Vi tự xây cầu, tự làm thủy điện). Ngược lại nơi nào chưa phát động được quần chúng mà đã đưa vào thì rất chật vật, khi làm ra quần chúng không sử dụng (máy tuốt lúa ở Hợp Thành).
68
đ) Đi đôi với việc vận động quần chúng xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật ở hợp tác xã, phải đẩy mạnh việc xây dựng những cơ sở thuộc Nhà nước như trạm trại kỹ thuật, cơ sở chọn, nhân giống, trường đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật, các cơ sở công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nhất là màng lưới cơ khí phải đi trước một bước thì mới đáp ứng kịp yêu cầu và hỗ trợ đắc lực cho hợp tác xã.
Trên đây là kết quả bước đầu, nếu so với yêu cầu thì còn một số tồn tại và thiếu sót: Việc xây dựng cơ sở chọn, nhân giống chưa được coi trọng đúng mức, chưa nhìn nhận thấy trước yêu cầu mới, nên làm thường nhỏ bé và ít, nên khi có yêu cầu không đáp ứng kịp. Việc sử dụng các loại giống tốt có năng suất cao chưa mạnh. Nguồn phân bón nhiều nhưng vẫn chưa tận dụng được. Mức phân bón chưa đủ, nhưng tệ thả rông vẫn còn nặng. Các công trình thủy lợi do Nhà nước xây dựng thường lại kéo dài thời gian, không dứt điểm. Các công trình đã xong thì việc phát huy tác dụng còn ít hiệu quả, quản lý công trình còn yếu.
3. Cải tiến quản lý hợp tác xã, hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới
a) Mở rộng quy mô hợp tác xã, đưa hợp tác xã lên bậc cao: Để khắc phục tình hình hợp tác xã quá nhỏ bé, hạn chế khả năng phát triển sản xuất, trong thời kỳ chuẩn bị, tỉnh đã chủ trương mở rộng quy mô hợp tác xã, với mức trung bình nói chung là 50-70 hộ, một số nơi có thể trên dưới 100 hộ và đưa 75% số hộ nông dân trong vùng lên hợp tác xã cấp cao, củng cố các hợp tác xã kém để tạo đủ điều kiện tiến hành cải tiến quản lý.
Kết quả: Đã hợp nhất 58 hợp tác xã nhỏ thành 25 hợp tác xã lớn, nâng quy mô bình quân chung mỗi hợp tác xã từ 35 hộ lên 50 hộ. Ngoài ra đã có 11 hợp tác xã trên 100 hộ, 5 hợp tác xã trên 150 hộ. Những hộ hợp tác xã có quy mô tương đối lớn, sau khi hợp nhất đã thực hiện được việc phân công lao động mới đi vào chuyên môn hóa, do đó năng suất lao động được nâng lên, nguồn sản phẩm hàng hóa mới phát triển, xây dựng được cơ sở vật chất và kỹ thuật
69
lâu dài (như Quyết Tiến, Quyết Thắng thuộc xã Nam Cường). Chúng ta đã đưa thêm 83 hợp tác xã lên cấp cao, nâng tỷ lệ số hộ vào hợp tác xã cấp cao cả vùng từ 43,33% lên 88,5% (riêng các hợp tác xã cải tiến đều đưa lên cao 100%). Các hợp tác xã đã công hữu thêm 2.923 trâu cày và 20 ha cây ăn quả, xây dựng thêm 5 hợp tác xã mới, kết nạp thêm 219 hộ xã viên, nhận 284 hộ gia đình ở xuôi lên tham gia phát triển kinh tế, văn hóa miền núi (xây dựng 3 hợp tác xã riêng, còn lại xen ghép vào hợp tác xã cũ), nâng tỷ lệ nông dân vào hợp tác xã từ 73,7% lên 92,7%. Các hợp tác xã loại kém đã được củng cố, đưa lên đủ điều kiện để cải tiến quản lý và củng cố
lại 41 hợp tác xã hợp nhất nhưng còn ăn chia theo đội. Nhìn chung các hợp tác xã đã qua cải tiến mọi mặt đều có tiến bộ hơn trước. Số hợp tác xã loại khá tăng từ 34% lên 52,1%, loại kém giảm từ 21,2% xuống 13% (số hợp tác xã loại kém phần nhiều là các hợp tác xã thuộc diện củng cố). Toàn vùng đã có 23,1% số hợp tác xã trở thành hợp tác xã tiên tiến năm 1966. Việc mở rộng quy mô hợp tác xã đối với tỉnh ta phải có phương hướng giải quyết tốt được nhưng khó khăn trong việc hợp nhất là: dân cư, ruộng đất phân tán, nhiều dân tộc xen kẽ, tập quán sản xuất khác nhau, trình độ quản lý của cán bộ còn yếu. Nhưng nếu không mở rộng quy mô hợp tác xã đến mức nhất định thích hợp thì không phát triển mạnh được sản xuất. Để khắc phục ta đã mở rộng quy mô hợp tác xã bằng hợp nhất các hợp tác xã nhỏ lại hoặc đưa thêm hộ xã viên miền xuôi vào, khi làm ngoài việc phải vận dụng tốt ba điều kiện: quần chúng yêu cầu, có cán bộ lãnh đạo và có một hợp tác xã cũ tốt làm nòng cốt, ta đã chú trọng giải quyết tốt các vấn đề:
- Xác định rõ được phương hướng sản xuất, mở rộng kinh doanh, tạo thêm sản phẩm hàng hóa mới, tránh tình trạng cộng các hợp tác xã nhỏ lại để cùng sản xuất.
- Điều chỉnh lại ruộng đồng hợp lý, thuận tiện sản xuất, dân cư. - Thực hiện phân công lại lao động cho thích hợp tập quán, sở trường, ngành nghề sẵn có của từng dân tộc một cách tỉ mỉ, tình
70
tiết, lập các đội sản xuất chuyên môn như đội chuyên về lúa, cây công nghiệp, nghề rừng, chăn nuôi, v.v. (Thí dụ: Dân tộc Mán chăn nuôi, trồng rừng, thợ rèn; người Kinh làm vôi, gạch, thâm canh ruộng; người Nhắng khai thác rừng, v.v.). Việc lập các đội chuyên canh, chú ý phân theo hộ (trừ một số việc yêu cầu kỹ thuật cao) tránh tập trung hết số lao động khỏe vào một số đội.
- Thực hiện hợp tác xã quy mô lớn, những đội nhỏ, tiện lợi dân cư và sản xuất theo đơn vị xóm. Hợp tác xã nhiều dân tộc, những đội sản xuất riêng từng dân tộc.
- Bồi dưỡng và chọn lọc tốt cán bộ lãnh đạo của hợp tác xã nhất là kế toán.
- Thực hiện tốt việc ba khoán giữa hợp tác xã với các đội phù hợp với miền núi, làm tốt công tác phân phối theo chế độ ba khoán có thưởng, có phạt rành mạch.
- Giáo dục nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa, phát huy tinh thần đoàn kết, tương trợ sẵn có của nhân dân các dân tộc địa phương, tinh thần khá kèm cặp kém, giác ngộ ý thức dân tộc xã hội chủ nghĩa, đoàn kết, trên cơ sở mới, cùng nhau xây dựng chủ
nghĩa xã hội, xây dựng hậu phương, v.v.. Trên cơ sở giải quyết tốt tư tưởng mà dân chủ bàn bạc với quần chúng tự nguyện giải quyết các vấn đề thường hay mắc mớ khi hợp nhất hợp tác xã như: quỹ, cổ phần, ruộng đất tốt xấu chênh lệch, điều chỉnh ruộng đất, sức kéo…
- Nhận thức rõ yêu cầu của việc mở rộng quy mô hợp tác xã là yêu cầu của việc thực hiện phương hướng sản xuất mới đòi hỏi, không mở rộng quy mô thì không thực hiện được phương hướng sản xuất mới (mở rộng để thực hiện phương hướng sản xuất mới).
Vừa qua hợp tác xã nào hợp nhất giải quyết tốt được các vấn đề trên, thì kết quả sản xuất của hợp tác xã phát triển, thu nhập tăng lên, xã viên phấn khởi, tỉnh, huyện không phải chạy theo giải quyết mắc mớ (Tiền Phong, Quyết Thắng, Quyết Tiến, v.v.). Ngược
71
lại nơi nào giải quyết không tốt các vấn đề trên thì kết quả sản xuất không phát triển, tình hình hợp tác xã lùng nhùng, hợp nhất nhưng chỉ có hình thức (Đồng Tuyển, Tả Phời).
Việc mở rộng quy mô hợp tác xã vừa qua đã làm thận trọng từng bước, có phần phù hợp với hoàn cảnh tỉnh ta. Nhưng do chúng ta chưa sớm nhận thức yêu cầu của việc mở rộng quy mô chính là do việc thực hiện phương hướng sản xuất mới đòi hỏi nên chưa tích cực tạo điều kiện để hợp nhất số hợp tác xã nhỏ có điều kiện một cách mạnh bạo hơn (nhất là đợt 1).
Thực tế của tỉnh ta hiện nay sản xuất thủ công, cho nên vùng thấp hiện nay phải tiếp tục đưa quy mô lên phổ biến mỗi hợp tác xã vào khoảng trên 150 hộ, 100 đến 150ha ruộng đất trở lên, đồng thời phải tích cực tạo điều kiện thí điểm dần dần tiến tới hợp tác xã quy mô toàn xã là phổ biến, thì mới có đủ điều kiện phân công lại lao động hợp lý, sản xuất mới có thể tạo ra được những sản phẩm hàng hóa mới. Vì một xã hiện nay thường là một thôn cũ
ngày xưa, tình cảm quần chúng có sự gắn bó lâu đời, liên quan khăng khít với nhau trong sản xuất lại cùng một đồng ruộng, đồng cỏ chăn nuôi, cùng hệ thống thủy lợi, giao thông, ở chung một thung lũng, dân cư trong xã tương đối tập trung, không xa nhau lắm; số hộ cũng không nhiều; số xã có từ 250-450 hộ một xã là phổ
biến. Thực tế của tỉnh ta cũng đã có một số hợp tác xã quy mô trên 200 hộ và quy mô toàn xã được quản lý tốt và phát triển sản xuất tốt (Quyết Tiến, Quyết Thắng, Sáng Shải, Tả Chải, Phố Ly, Thủ Dầu Một, Bản Vược).
Khi hợp tác xã hợp nhất phải có đủ ba điều kiện như Trung ương đã quy định, ngoài ra phải chú ý thêm ba điều kiện nữa là: - Đã xác định được phương hướng sản xuất rõ ràng phù hợp, có kế hoạch phát triển sản xuất toàn diện.
- Có đủ lao động để thực hiện phân công lao động mới, đi vào chuyên môn hóa.
72
- Đảm bảo đoàn kết, nhất trí giữa các dân tộc trong hợp tác xã, và đoàn kết nội bộ hợp tác xã nói chung.
Hiện nay, quy mô hợp tác xã của ta vẫn quá nhỏ, một số hợp tác xã thuộc diện củng cố chưa xác định được phương hướng cụ thể, số hợp tác xã kém vẫn còn. Đó là vấn đề tồn tại phải tiếp tục giải quyết.
Đi đôi với hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã mua bán và hợp tác xã tín dụng cũng được củng cố, phát triển. Hiện nay 25/29 xã có cửa hàng và quỹ tín dụng nên đã có tác dụng hỗ trợ lẫn nhau rất lớn. Số vốn huy động của nhân dân chiếm 512.628đ trong số 699.524đ của ngân hàng cho nhân dân vay, và giảm được rất nhiều công đi chợ xa, v.v..
b) Quản lý lao động: Việc quản lý lao động, chúng ta đã xoay quanh vấn đề làm sao tận dụng hết được mọi khả năng lao động có sẵn ở địa phương, giải quyết tình hình thiếu lao động lúc thời vụ dồn dập, thừa lao động lúc thời vụ không dồn dập, lãng phí lao động do tập quán sản xuất sinh hoạt cũ gây ra (đi chợ, cưới, ma, giỗ tết, v.v.). Đảm bảo phấn đấu một năm góp cho hợp tác xã 220 công trở lên, để vừa thâm canh tăng năng suất cây trồng, vừa mở rộng kinh doanh của hợp tác xã, vừa đáp ứng yêu cầu huy động lao động của Nhà nước. Ngoài việc giáo dục xã viên đăng ký ngày công góp cho hợp tác xã, chúng ta đã giải quyết vấn đề lao động bằng cách:
- Tổ chức các đội chuyên môn hóa sản xuất như: đội thủy lợi chống Mỹ để thay thế nghĩa vụ dân công cho xã viên, lập các đội chuyên canh, v.v..
- Cải tiến công cụ, trước mắt là công cụ vận chuyển, đưa cơ khí nhỏ vào khâu chế biến, xay xát, giảm bớt những khâu lao động không trực tiếp cho thâm canh tăng năng suất. Đi đôi, phải đảm bảo đủ công cụ thường cả về số lượng và chất lượng.
- Sử dụng tốt sức lao động của chị em phụ nữ, tổ chức các nhóm trẻ, nhà trẻ, đảm bảo việc trông nom con cái, để chị em đi tham gia sản xuất.
73
- Tổ chức việc phân phối hợp lý, thực hiện mua bán tận nơi sản xuất để nhân dân đỡ phải đi chợ mất công, vận tải xa, v.v. dành nhiều ngày giờ vào sản xuất, như mở thêm các cửa hàng hợp tác xã mua bán, mở thêm quầy hàng ở các hợp tác xã, lập kho thu mua lương thực, thực phẩm gần nơi sản xuất.
- Cày cấy rải vụ, rải lao động để tránh tình trạng lao động khẩn trương lúc cấy gặt. Trước đây theo tập quán cũ, chiêm mùa thường cấy một loại giống lúa, nên các khâu công tác, nhất là lúc cấy, gặt thường bị dồn dập, khẩn trương, nay chiêm đã chọn hai loại giống chiêm xuân: Nông nghiệp 1, Lộc mào; mùa có ba loại: mùa sớm, mùa trung, mùa muộn. Như vậy thời vụ cấy gặt xê xích nhau do đó lao động cũng được rải ra các tháng (như Hợp tác xã Tiền Phong đã làm).
- Thực hiện tốt việc khoán việc giữa đội và xã viên hàng ngày, ba khoán tốt giữa hợp tác xã và đội (chú ý không phải là “khoán gia đình”).
- Dựa theo yêu cầu của phương hướng sản xuất từng hợp tác xã mà tiếp nhận lao động ở xuôi lên xen ghép vào các hợp tác xã một cách có kế hoạch, có ý định trước, cần loại lao động nào thì nhập loại ấy. Ví dụ: Cần trồng mía thì nhập hộ đã quen trồng mía có năng suất cao vào, cần làm vôi gạch thì đưa người biết làm vôi gạch vào, v.v..
Giải quyết vấn đề lao động như trên, thực tế chứng minh là tốt. Kết quả đến nay ngày công xã viên góp cho hợp tác xã bình quân đã được nâng lên từ 129 công lên 161 công một năm. Giá trị ngày công 0đ91 lên 1đ12 (số liệu của 30 hợp tác xã). Các hợp tác xã đã ổn định lại các tổ đội sản xuất một cách hợp lý. Các hợp tác xã qua cải tiến đã lập ra 52 đội thủ công và rừng, 44 đội chăn nuôi, 32 đội thủy lợi chống Mỹ, thay thế nghĩa vụ dân công cho xã viên và xây dựng cơ bản của hợp tác xã. Năm nay có một số xã do có đội thủy lợi chuyên làm nghĩa vụ dân công nên vượt mức nghĩa vụ dân công cho Nhà nước (Quang Kim, Mường Vi). Toàn vùng đã có 88
74
nhóm trẻ, 238 bảo mẫu, 982 cháu. Có nhóm trẻ, ngày công của phụ nữ tham gia sản xuất tăng lên rõ rệt. Ví dụ, Hợp tác xã Bản Quẩn, số công của chị em phụ nữ đã tăng từ 163 công lên 207 công một năm lao động, một đội sản xuất có 32 nữ đã tăng 2.236 công. Khi chưa có vườn trẻ có nhiều chị em cả năm không làm được công nào, sau khi có nhà trẻ đã góp được hàng trăm công. Các xã đã qua cuộc vận động đến nay đều đã có cửa hàng hợp tác xã mua bán. Vừa qua, đã xây dựng thêm 8 cửa hàng mới, xây dựng nhiều kho thu mua lương thực phân tán sâu xuống gần nơi sản xuất, nhập thêm 284 hộ xuôi lên xen ghép vào các hợp tác xã, v.v..
Việc ba khoán, khoán việc thực hiện theo cách đơn giản, phù hợp với trình độ xã viên hiện nay, bằng cách là: chưa xếp bậc công việc, mà định khối lượng công việc, tiêu chuẩn tính công theo loại khó dễ thực tế tại từng thửa ruộng, Kết quả xã viên dễ nhớ, làm đến đâu thực hiện được đến đấy. Số hợp tác xã ba khoán, việc khoán được tăng lên. Số hợp tác xã ba khoán trước cải tiến 10%, nay 50%, số còn lại đều thực hiện khoán việc. Việc khoán việc không chỉ áp dụng trong công tác trồng trọt, chăn nuôi, mà một số nơi đã biết dùng hình thức khoán việc để tận dụng thời giờ nhàn rỗi của xã viên vào việc xây dựng giao thông, làng chiến đấu, phòng không, v.v. rất có hiệu quả (xã Bảo Sơn làm đường giao thông quanh xã, Quang Kim đào giao thông hào quanh làng). Các đội tổ sản xuất đã thực hiện được 4 cố định.
Nhìn chung, việc quản lý lao động của các hợp tác xã sau cải tiến đã có tiến bộ nhiều so với trước và đang dần dần đi vào nền nếp, năng suất lao động của một ngày công nâng lên, ý thức lao động của xã viên được đề cao, tránh được tình trạng đoàn kết chung chung, lao động bình quân trước đây. Làm tốt được ba vấn đề nhà trẻ, nhóm trẻ, cải tiến việc xay giã lương thực, đi chợ đối với tỉnh ta thực chất là vấn đề giải phóng lao động của phụ nữ. Tuy nhiên, hiện nay còn một số hợp tác xã chưa giải quyết tốt được vấn đề lao động như cách trên, nên việc quản lý lao động vẫn bị lúng
75
túng, còn một số việc và một số hợp tác xã ở diện củng cố vẫn còn bình công chấm điểm.
c) Quản lý tài vụ
Các hợp tác xã đã kiểm tra, kiểm kê lại được tài sản, vốn quỹ của hợp tác xã, thanh toán, quy trách nhiệm rõ ràng, lập lại được sổ sách của hợp tác xã theo kiểu kế toán đơn. Các cán bộ xã viên đều đã được tổ chức học tập về chế độ, nguyên tắc tài vụ. Hệ thống cán bộ tài vụ, kế toán hợp tác xã được củng cố lại và bồi dưỡng tại chỗ cho 804 kế toán; mở lớp bồi dưỡng tương đối có hệ thống về kế toán ở tỉnh cho 374 người. Các hợp tác xã hiện nay đều có kế toán được bồi dưỡng. Trong cuộc vận động đã giải quyết ổn thỏa 33 vụ tài chính mắc mớ, nhập nhằng tham ô. Cách giải quyết là lấy việc giáo dục có tình có lý, động viên mặt tích cực của người thiếu sót, để anh em tự nguyện báo cáo, dân chủ bàn bạc với xã viên giải quyết là chính. Do đó xã viên vui lòng, người có thiếu sót phấn khởi, phát huy mặt tích cực, khắc phục mặt thiếu sót của mình, đẩy mạnh công tác của hợp tác xã. Nhìn chung công tác tài vụ của hợp tác xã đã bước đầu đi vào có nền nếp, nhưng ở mức độ thấp, còn phải tích cực tiếp tục nâng lên. Vấn đề khó khăn lúng túng ở hợp tác xã hiện nay vẫn là việc thanh quyết toán hằng năm, hằng vụ chưa được kịp thời, dứt khoát, nên gây ảnh hưởng không tốt đến tư tưởng xã viên.
d) Giải quyết một số vấn đề về chính sách: Chúng ta đã tổ chức cho cán bộ, đảng viên, xã viên học tập lại một số chính sách cần thiết trong hợp tác xã như: Đất 5%, đất cho mượn, công hữu trâu bò, chăn nuôi, chế độ phụ cấp công điểm cán bộ, v.v.. Trên cơ sở
quán triệt được nội dung tinh thần của chính sách để tiến hành kiểm điểm, sửa chữa thiếu sót, chấp hành đúng chính sách đã có. Nhìn chung các hợp tác xã đã tiến hành việc sửa chữa các chính sách trên được tốt. Căn cứ vào hoàn cảnh thực tế của ta, Tỉnh ủy đã nghiên cứu vận dụng cụ thể chính sách chung của Trung ương vào điều kiện địa phương, bằng các nghị quyết và thông tri, chỉ thị
hướng dẫn, như các vấn đề:
76
- Phần đất để lại cho gia đình xã viên để từ 5 đến 7% là đất hiện nay tiện lợi sản xuất cho gia đình xã viên và hợp tác xã, không nhất thiết để đất cũ khi vào hợp tác xã. Đất cho mượn nói chung là đất, nhưng cá biệt có vài mảnh ruộng quá nhỏ (đầu hươu, mõn nai) do xã viên tự khai phá đưa vào hợp tác xã không đáng kinh doanh cũng không có lợi thì cũng có thể cho người đó mượn.
- Việc tổ chức giữ trẻ do hợp tác xã tổ chức và quản lý. Hợp tác xã trả cả công điểm cho bảo mẫu, bố mẹ các cháu không phải trả. - Nghị quyết về chăn nuôi quy định cụ thể về việc thu mua lợn thịt, lợn giống, đất để chăn nuôi tập thể, công hữu trâu bò, v.v.. - Nghị quyết về nghề rừng: Quy định nhiệm vụ, phương hướng và các chế độ, nguyên tắc quản lý, bảo vệ, trồng rừng, chống tệ đốt phá rừng bừa bãi, v.v..
- Bản hướng dẫn cụ thể về chế độ phụ cấp công điểm cho cán bộ hợp tác xã, v.v. công điểm đối với đội viên thủy lợi, chế độ đối với những xã viên chuyên làm nghề rừng, v.v..
Những quy định cụ thể để vận dụng các chính sách như trên qua thực hiện tuy còn có điều phải tiếp tục nghiên cứu bổ sung, nhưng nói chung là phù hợp, đã có tác dụng thúc đẩy nhất định đến sản xuất của hợp tác xã, và tư tưởng xã viên. Tuy vậy, hiện nay việc chấp hành chính sách ở một số nơi còn nhiều thiếu sót. Một số chính sách như đầu tư, khuyến khích đối với việc chế biến hoa mầu, chính sách lương thực, thu mua đối với hợp tác xã Mán từ du canh chuyển sang định canh làm nghề rừng cần phải nghiên cứu để đề nghị với Trung ương. Việc thực hiện chính sách đã có trong một số nơi vẫn chưa chấp hành được tốt (như chính sách phân phối lương thực).
đ) Thực hiện quản lý dân chủ đảm bảo quyền làm chủ tập thể của xã viên. Trong cuộc vận động vừa qua đã làm được một số việc như: mở đại hội xã viên, bầu cử các ban quản trị, bàn bạc xây dựng kế hoạch, xác định phương hướng sản xuất của hợp tác xã, tiến hành việc phê bình và tự phê bình giữa lãnh đạo và xã viên; bàn bạc các
77
định mức lao động, báo cáo công điểm, tài chính công khai v.v.. Nhờ vậy, mọi mặt của cuộc vận động đã đạt được như các phần trên là do có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân quan trọng chủ yếu là ta đã phát huy được quyền dân chủ của xã viên, và xã viên bàn bạc dân chủ giải quyết.
4. Tăng cường lãnh đạo
Xuất phát từ tình hình cơ sở Đảng của ta còn mới, số lượng đảng viên các chi bộ nông thôn còn ít, trình độ cán bộ cơ sở còn thấp, nên trong khi tiến hành cuộc vận động Tỉnh ủy chủ trương "Phải đặc biệt chú trọng làm tốt công tác xây dựng Đảng, đào tạo bồi dưỡng cán bộ, coi đây là yêu cầu cơ bản nhất, quyết định thắng lợi của cuộc vận động và lâu dài về sau". Cách làm là gắn liền công tác xây dựng chi bộ bốn tốt vào cuộc vận động cải tiến quản lý. Trên cơ sở làm tốt công tác xây dựng chi bộ, đào tạo bồi dưỡng tốt được cán bộ cơ sở mà tiến hành cuộc vận động. Công tác đó phải làm thường xuyên với mỗi khâu, mỗi bước, mỗi thời kỳ công tác trong cuộc vận động, v.v..
Tăng cường lãnh đạo của Đảng đối với hợp tác xã sản xuất nông nghiệp ở nông thôn chính là tăng cường năng lực lãnh đạo của chi bộ, sao cho chi bộ có đủ số lượng, chất lượng, từng đồng chí đảng viên, nhất là cán bộ cốt cán, có đủ tài đức, đi sâu vào chỉ đạo sản xuất và hợp tác xã. Đi đôi là củng cố, xây dựng tốt các đoàn thể
quần chúng và chính quyền, hướng hoạt động của các tổ chức đó đi sâu vào sản xuất và hợp tác xã. Trên cơ sở củng cố đẩy mạnh sự hoạt động của các tổ chức quần chúng mà tạo ra khí thế mới của quần chúng có tổ chức. Mức phấn đấu là 100% chi bộ, 100% chi đoàn thanh niên lao động thành 4 tốt, hầu hết các ủy ban xã đạt năm tốt, phụ nữ ba đảm đang, phụ lão ba giỏi, dân quân, công an quyết thắng; mỗi ngành, mỗi giới ở xã và mỗi hợp tác xã có từ 4 đến 5 cán bộ biết cách làm việc, tự động được công tác, nhất là cán bộ chủ chốt xã, hợp tác xã. Các ban quản trị, kiểm soát, kế toán, đội trưởng, đội phó phải được kiện toàn, đưa đảng viên, đoàn viên,
78