"Văn Kiện Đảng Bộ Toàn Tập Tập 2 (1951 - 1955) 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Văn Kiện Đảng Bộ Toàn Tập Tập 2 (1951 - 1955) Ebooks Nhóm Zalo Mã số: 3KV1(V115) CTQG - 2015 2 HỘI ĐỒNG XUẤT BẢN NGUYỄN VĂN VỊNH Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng DOÃN VĂN HƯỞNG Phó Bí thư Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Hội đồng PHẠM VĂN CƯỜNG Ủy viên Hội đồng CAO ĐỨC HẢI Ủy viên Hội đồng TẠ ĐÌNH BẢNG Ủy viên Hội đồng NGUYỄN VĂN HÒA Ủy viên Hội đồng NGUYỄN THANH DƯƠNG Ủy viên Hội đồng ĐẶNG PHI VÂN Ủy viên Hội đồng MAI ĐÌNH ĐỊNH Ủy viên Hội đồng LÝ SEO DÌN Ủy viên Hội đồng ĐINH TIẾN QUÂN Ủy viên Hội đồng NGUYỄN HỮU THỂ Ủy viên Hội đồng HẦU A LỀNH Ủy viên Hội đồng HÀ THỊ NGA Ủy viên Hội đồng CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG BẢN THẢO NGUYỄN VĂN VỊNH Bí thư Tỉnh ủy SÙNG CHÚNG Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy DOÃN VĂN HƯỞNG Phó Bí thư Tỉnh ủy 5 BAN XÂY DỰNG BẢN THẢO CAO ĐỨC HẢI Trưởng ban ĐỖ TRƯỜNG SƠN Phó Trưởng ban thường trực ĐỖ VĂN LƯỢC Phó Trưởng ban NGUYỄN THỊ NGUYỀN Thư ký (hiệu đính) ĐẶNG PHI VÂN Thành viên LÝ SEO DÌN Thành viên LÝ THỊ VINH Thành viên TRẦN VĂN TỎ Thành viên VŨ HÙNG DŨNG Thành viên ĐÀO DUY THẮNG Thành viên ĐỖ VIẾT LỢI Thành viên NGUYỄN VĂN NHÂN Thành viên ĐOÀN NGỌC TUYẾN Thành viên NGUYỄN THỊ LOAN Thành viên HOÀNG THỊ THANH THU Thành viên NGUYỄN THỊ MINH Thành viên NGUYỄN THÀNH NAM Thành viên PHẠM THÀNH LONG Thành viên NGUYỄN CAO SỸ Thành viên ĐÀO ANH TUẤN Thành viên NGUYỄN THỊ KIM NGÂN Thành viên (hiệu đính) 6 CHÚ DẪN CỦA NHÀ XUẤT BẢN Bộ sách Văn kiện Đảng bộ toàn tập của Đảng bộ tỉnh Lào Cai được thực hiện theo Kế hoạch số 71- KH/TU, ngày 22-12-2013 của Tỉnh ủy Lào Cai về việc xây dựng Văn kiện Đảng bộ tỉnh Lào Cai toàn tập từ khóa I đến khóa XIV. Ban Xây dựng Bản thảo Văn kiện Đảng bộ tỉnh Lào Cai toàn tập từ khóa I đến khóa XIV phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật tiến hành sưu tầm, xây dựng và xuất bản bộ sách Văn kiện Đảng bộ toàn tập của Đảng bộ tỉnh Lào Cai. Đây là một bộ tài liệu có ý nghĩa chính trị và giá trị khoa học, thực tiễn đánh dấu sự phát triển của Đảng bộ tỉnh Lào Cai gắn với quá trình lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng, bảo vệ và xây dựng quê hương. Bộ sách giúp các nhà nghiên cứu, cán bộ, đảng viên và nhân dân, đặc biệt là các nhà lãnh đạo tiếp cận nguồn thông tin, tư liệu mang tính hệ thống, toàn diện về văn kiện của Đảng bộ tỉnh Lào Cai, phục vụ cho việc nghiên cứu, tổng kết lý luận và thực tiễn, biên soạn lịch sử Đảng bộ tỉnh Lào Cai, đảng bộ cơ sở, lịch sử địa phương, ban, ngành và các tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn tỉnh; góp phần giáo dục lịch sử địa phương trong các trường phổ thông, các trung tâm bồi dưỡng chính trị, các chi bộ, đảng bộ; thấy rõ sự sáng tạo, nhạy bén, kịp thời và toàn diện trong lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Lào Cai qua các giai đoạn cách mạng, qua đó củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Cuốn sách Văn kiện Đảng bộ toàn tập, tập 2 (1951 - 1955) tập hợp các Văn kiện do Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lào Cai ban hành từ năm 1951 đến năm 1955 và được sắp xếp theo thời gian ban hành. 7 Do cuốn sách bao gồm các văn kiện được in rônêo, đánh máy hoặc viết tay, nên trong các trường hợp chữ mờ, chữ không có dấu, chúng tôi giữ nguyên như bản gốc. Ngoài ra, trong sách còn có một số danh từ, tên gọi, địa danh, tên riêng,... chúng tôi chưa có điều kiện thẩm định. Vì vậy, mặc dù đã hết sức cố gắng trong quá trình biên tập nhưng chắc rằng cuốn sách khó tránh khỏi thiếu sót và khiếm khuyết. Chúng tôi mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để hoàn thiện cuốn sách trong lần xuất bản sau. Xin giới thiệu cuốn sách đến với các đồng chí và các bạn. Tháng 7 năm 2015 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - SỰ THẬT 8 LỜI GIỚI THIỆU Văn kiện Đảng bộ toàn tập, tập 2 phản ánh hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Lào Cai từ tháng 4 năm 1951 đến tháng 12 năm 1955. Từ ngày 12 đến 18 tháng 4 năm 1951, Đảng bộ tỉnh Lào Cai tiến hành Đại hội Đảng bộ lần thứ I nhằm kiểm điểm tình hình sau hơn một năm giải phóng, xác định nhiệm vụ của tỉnh trong tình hình mới. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lần hai, tỉnh Lào Cai được giải phóng sớm, nhưng nhân dân các dân tộc Lào Cai được hưởng hòa bình muộn hơn so với các tỉnh miền Bắc vì còn phải tiến hành cuộc đấu tranh tiễu phỉ đầy gian nan, phức tạp. Các văn kiện trong tập này đã đề cập một cách toàn diện diễn biến cuộc đấu tranh của quân và dân tỉnh Lào Cai từ năm 1951 đến năm 1955, sự thất bại về mặt quân sự và những khó khăn về chính trị của thực dân Pháp và phỉ; khẳng định sự đúng đắn của đường lối chiến tranh nhân dân do Đảng đề ra và sự nhạy bén, sáng tạo, kịp thời của Đảng bộ tỉnh Lào Cai. Nhờ những chủ trương đúng đắn và sự chỉ đạo sát sao của Đảng bộ, cuộc đấu tranh tiễu phỉ của quân, dân tỉnh Lào Cai đã thu được những thắng lợi quan trọng: chính quyền được giữ vững, kinh tế địa phương được khôi phục, đời sống nhân dân ổn định, khối đoàn kết toàn dân được xây dựng,... Văn kiện Đảng bộ toàn tập, tập 2 được xuất bản gồm 165 tài liệu là các nghị quyết, chỉ thị, thông tri, báo cáo... của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lào Cai. 9 Các tài liệu đưa vào tập văn kiện này chủ yếu được khai thác từ Kho Lưu trữ Trung ương và Kho Lưu trữ Tỉnh ủy, đã được thẩm định, đối chiếu, hiệu đính kỹ lưỡng. Mặc dù Ban xây dựng bản thảo văn kiện và Hội đồng xuất bản đã hết sức cố gắng nhưng khó tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý của bạn đọc. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc. Tháng 6 năm 2015 HỘI ĐỒNG XUẤT BẢN 10 BÁO CÁO CỦA BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ Số 13-BC/LK, ngày 3-4-1951 Về tình hình địch và ta trong tháng 3-1951 (Từ ngày 22-2 đến 29-3-1951) A. MẶT HỮU NGẠN SÔNG NHỊ Địch Sau khi địch chiếm hoàn toàn Phong Thổ, ngày 16-2-1951 ra chiếm xã Mường Hum thuộc huyện Bát Xát. Địch có khu vực chiếm đóng và dò xét lực lượng ta. Cha Pa - Tối 24-2, địch ở phía Than Uyên lén úp cơ quan huyện Cha Pa đóng ở Mường Bo (ta mất hết tài liệu, đồng chí Nhị - đội củng cố Trung ương và đồng chí Bao - cán bộ xã bị chết). - Ngày 5-3-1951, địch cho một bộ phận ở Bình Lư ra chiếm Cha Pa. - Ngày 7-3-1951, chúng ra Tắc Cô cây số 22 (đường Lao Kay - Cha Pa) úp bộ phận quân báo và cán bộ (không kết quả). - Hiện nay, địch không đóng ở thị trấn Cha Pa mà đóng ở Tả Trung Hồ: 60 tên. Vàng Lình Sử (Kim Hoa) có 160 tên, có 6 tên Pháp chỉ huy, Cha Pa trung có 70 tên - quân của Châu A Chùa. Số quân ở Cha Pa thành phần toàn là dõng Mèo, Nhắng. 11 Bát Xát - Ngày 26-2-1951, có 100 địch ở Ý Tý về đóng ở Sìn Hồ (Trịnh Tường). - Ngày 30-2-1951, thổ phỉ Ma Ngán Tý bị giải phóng quân đánh, ước độ 400 quân chạy sang Ý Tý (...)* (Trịnh Tường) chúng cướp ta ở vùng miền này. - Mường Hum địch chỉ tuần tiễu ra Bản Sèo, Mường Vi, Lao Bang và Nung Tung, uy hiếp Bát Xát. Sự hoạt động của địch ở mặt hữu ngạn nói chung: - Có tính chất võ trang quấy rối ta phát triển và củng cố cơ sở phản động. - Thăm dò lực lượng, dò xét úp các cơ quan và cán bộ. - Đối với dân, địch khủng bố và bắt đóng góp nhiều. Ta - Thời gian này ta chỉ có Đại đội 963 và 962 hoạt động chống địch. Sự hoạt động kém, cả thời gian qua chỉ có một trận đánh ở Mường Hum khiến địch chạy, song chúng lại chiếm. - Về củng cố cơ sở chính trị, ta đã tập trung cán bộ củng cố được cơ sở Mán Mường Hum và bắt được một số Việt gian trừng trị. - Mặt Cha Pa, cán bộ đã trở lại Mường Bo (Thanh Phú) tổ chức nhân dân chống địch, nắm được dân ở Mường Bo, Sín Chải, Nậm Lang, Bản Phố. - Dân chúng mong ta cho bộ đội đến giải phóng. B. MẶT TẢ NGẠN SÔNG NHỊ Công tác tiễu phỉ trong chiến dịch Pha Long, Bắc Hà ta đã ____________ * Một số từ trong bản gốc bị mờ, mất chữ, không rõ nghĩa. Sau đây những từ trong bản gốc bị mờ, mất chữ, không rõ nghĩa sẽ được lược bỏ và thay bằng ký hiệu (...) - BT. 12 thắng nhưng chưa quét sạch được chúng. Chúng vẫn hoạt động lẻ tẻ, uy hiếp ta. Bắc Hà Sau khi 165 rút (ngày 23-2-1951) - Ngày 25-2-1951 có 15 du kích và 2 bộ đội địa phương trốn mang theo súng. - Ngày 26-2-1951, địch đánh vào Bắc Hà nhưng bị bộ đội địa phương đánh bật. Chúng thất bại. - Sau đó, địch luôn luôn phục kích ta trên con đường Bảo Nhai - Bắc Hà, Bắc Hà - Si Ma Cai trấn cứ cướp các vùng hẻo lánh. - Hoàng Đình Chung (Ủy viên kháng chiến huyện) đi, nay không rõ đi đâu, khi đi không báo cho kháng chiến huyện biết. - Một số ủy viên xã Lùng Phình, Nậm Lúc chạy với thổ phỉ. Mường Khương - Sau khi giải phóng Pha Long, bọn tàn quân Tưởng chạy về Kha Phong bị giải phóng quân đánh tan, bắt sống 240 tên, tước hết vũ khí và bắt được 2 tên Pháp. - Châu Quáng Lồ bị thương lẩn trốn vào rừng, có 7 tên vác súng tiểu liên đi theo. - Lồ Thao Lù (anh vợ Lồ) chạy về Lao Kha Chai, theo hắn chừng 1 tiểu đội, có 1 súng máy. - Một số ít tàn quân phỉ chạy theo Chánh tổng Chà về Lao Pho Chải giáp sông Chảy phía Si Ma Cai. Ta: tiếp tục tiễu trừ tàn quân phỉ. Ban tiễu phỉ thành lập gồm đồng chí Phương - Tỉnh ủy viên Tỉnh đội Bộ dân quân, đồng chí Hội - Tỉnh ủy viên phụ trách Mường Khương, đồng chí Trọng Khang - Tiểu đoàn 910. Bắc Hà - Sau thời gian lùng sục gắt gao ở Si Ma Cai, bọn Hoàng La Ú, Lùng Tảo Sín và chân tay đã ra hàng ta. 13 - Hoàng Đình Chung khi đi không báo cho kháng chiến huyện biết là hắn về nhà nên lúc bộ đội đến hoạt động ở Si Ma Cai thì hắn lại ra. Hiện nay, ở Si Ma Cai còn lực lượng của Tráng Xuân Phà, ước độ trung đội, 10 súng trường, 1 tiểu liên. Ở vùng Bắc Hà còn mấy bọn tàn quân ở Bản Ngù, Bản Phố, Nậm Gia, mỗi bọn (...) 6,7 khẩu súng trường. Nhưng chỉ bọn ở Bản Ngù hoạt động phục kích đường Bảo Nhai - Bắc Hà, còn bọn Chef Chảo, Chanh Pôn hoạt động ở giáp Hà Giang và Bắc Hà, bọn này vẫn liên lạc với thổ phỉ Hoàng Sao Lùng ở Nậm Na (giáp Bắc Hà và Sí Mần). Lực lượng độ 1C với 3 trung liên, 1 stock, 3 tiểu liên thập thò ở biên giới Trung - Việt cướp bóc dân và uy hiếp Bắc Hà, Lùng Phình. Pha Long Lực lượng Châu Quáng Lồ bị tan rã, phần lớn về lán chưa ra trình diện ta, mà lẩn quất ở rừng chờ thời, súng đạn không khai, các binh thầu mới đem nộp chín khẩu. Châu Quáng Lồ chưa chịu ra vẫn lẩn trốn ở rừng giáp sông Chảy Pha Long - Si Ma Cai. Tình hình dân chúng Pha Long Dân Mèo vẫn sợ uy thế của Châu Quáng Lồ nhất là vùng giáp biên giới giáp sông Chảy, số binh thầu có 8 mà mới ra hàng 5, Chánh Phó Tổng chưa ra, số ra hàng đã làm việc huy động dân công phục vụ, song vẫn che đậy cho Châu Quáng Lồ. Dân Nùng, Xạ Phang ít chịu ảnh hưởng của Lồ và ta có thể đào tạo được số trung kiên. Bắc Hà Ảnh hưởng thổ hào Si Ma Cai không có gì, dân chúng ở ngay 14 quê hương cũng không phục mến chỉ sợ uy thế hoặc nể nang chúng vì đã cho dân vay mượn. Do chính sách cương quyết hơn của ta đối với bọn này, các trung kiên hăng hái hoạt động, dân chúng tin tưởng và tích cực hơn. KẾT LUẬN - Công tác tiễu phỉ mặt tả ngạn rất kết quả, có triển vọng quyét sạch bọn tàn phỉ. - Mặt hữu ngạn sự hoạt động quân sự yếu nhưng cũng có cơ sở chính trị vững. Chủ trương của ta hiện nay - Mặt tả ngạn vẫn tiếp tục quét phỉ, củng cố cơ sở chính trị. - Mặt hữu ngạn tích cực phục vụ chiến dịch Phong Thổ (...) thắng nhanh. T/M BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY BÍ THƯ HOÀNG QUY Lưu tại Kho Lưu trữ Tỉnh ủy. 15 BIÊN BẢN CỦA BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ Số 04-BB/LK, ngày 3-4-1951 Về việc họp thường lệ của Tỉnh ủy Lao Kay ngày 29 đến 30-3-1951 Có mặt: - Đồng chí Quy - Đồng chí Trường Minh - Đồng chí Hội - Đồng chí Phương - Đồng chí Vũ - Đồng chí Quang - Và đồng chí Thịnh - Văn phòng Tỉnh ủy Vắng mặt: - Đồng chí Bình Dương, bận công tác xã không về kịp - Đồng chí Bình Phương, nghỉ phép chưa lên Mục đích Hội nghị - Nhận xét tình hình trong tỉnh và kiểm điểm sự thi hành nghị quyết ba tháng đầu năm. - Chủ trương công tác quân sự, chính trị - Chuẩn bị đại biểu Hội nghị Tỉnh ủy 16 I. HỘI NGHỊ THẢO LUẬN A. Đồng chí Quy báo cáo tình hình chung trong tỉnh và trình bày sự thi hành chỉ thị, nghị quyết ba tháng đầu năm 1951 của Tỉnh ủy Hội nghị đồng ý (có bản riêng). B. Chủ trương quân sự, chính trị trong thời gian hiện tại 1. Chủ trương quân sự a) Mặt hữu ngạn sông Nhị (Cha Pa, Phong Thổ, Bát Xát) - Mặt trận Tây Bắc mở chiến dịch Phong Thổ mục đích bảo vệ con đường giao thông quốc tế Lao Kay; tiêu diệt sinh lực địch; quét sạch thổ phỉ, chuẩn bị chiến trường Lai Châu. Có sự phối hợp với quân bạn. Nhiệm vụ địa phương - Phục vụ chiến dịch: + Bát Xát, Mường Hum, Cha Pa huy động dân công vận tải quân lương cho mặt trận (theo chỉ thị của chính quyền tỉnh). - Cán bộ trở lại Phong Thổ: + Tất cả các đồng chí cán bộ Phong Thổ trước đây Tỉnh ủy cho về cả Phong Thổ công tác. + Đồng chí Trần Phương đại diện Tỉnh ủy trực tiếp chỉ huy Phong Thổ trong khi chưa có trưởng ban cán sự vào Phong Thổ. - Tiếp thu: Do quân sư và đồng chí Trần Phương thành lập khi chiếm thị trấn - Đối với quân bạn: + Tuyệt đối giữ bí mật + Thân ái + Cố gắng giúp đỡ những cái có thể b) Mặt Bắc Hà, Pha Long, Si Ma Cai (tả ngạn) + Tiếp tục tiễu tàn quân phỉ 17 + Cho thêm một trung đội công an lên hoạt động + Đồng chí Bình Dương vào Ban tiễu phỉ thay đồng chí Phương đi Phong Thổ 2. Chủ trương chính trị a) Mặt Cha Pa, Phong Thổ, Bát Xát Nhân dân: Nhân dân các huyện Phong Thổ, Bát Xát, Cha Pa có nhiều chủng tộc và trình độ khác nhau. Người Mèo (Phong Thổ), người Mán (Phong Thổ, Cha Pa) rất có cảm tình với ta. Người Nhắng, Thái bản chất tốt, nhưng do sức mạnh nên thái độ cơ hội. Người Mèo (Cha Pa) chịu ảnh hưởng của bọn phản động không quyết tâm theo ta. Chủ trương của ta là: - Bằng hành động giáo dục gây một không khí vui vẻ, tin tưởng trong nhân dân các dân tộc miền giải phóng - Nắm vững chính sách đoàn kết, ngăn ngừa trừng trị hành động khủng bố nhân dân - Tuyên truyền thực giản dị, tránh khoác lác, nêu thất bại của địch đồng thời nêu triển vọng khó khăn của ta - Khen thưởng, an ủi những người có công - Đối với dân ở các huyện khác theo Pháp về Phong Thổ, bắt họ trở về quê quán II. TỔ CHỨC QUẦN CHÚNG VÀ CHÍNH QUYỀN Về hành chính, chúng ta vẫn dùng các ủy ban tổ chức hồi chiến dịch trước. Chính quyền huyện trong thời gian đầu chưa cần thành lập ngay. Công việc đều do đồng chí Phương đại diện chính quyền tỉnh đảm nhiệm. Tổ chức quần chúng nhằm nắm chắc rẻo Mán, phát triển cơ sở 18 sang miền Pu Sam Cáp (Lai Châu). Hình thức tổ chức Mèo và Mán là Hội Liên Việt, các tổ chức du kích, thiếu nhi. Tại dân Thái, Nhắng tổ chức trung kiên rồi trang bị cho họ trở thành du kích, các hình thức tổ chức rộng rãi khác có thanh niên, thiếu nhi, phụ nữ. Trong việc tiễu phỉ ở Dào San, Trịnh Tường cần chú ý dùng du kích Mèo, Mán (Tam Đường và Giàng Phình, Bát Xát) làm các đội võ trang an dân và lôi kéo quần chúng. III. THỔ TY, THỔ HÀO Thái độ chung: Kêu gọi, lôi kéo. Đối với từng cá nhân, từng địa phương và tùy theo sự biến đổi của tình hình cần thay đổi cho linh động. 1. Đối với Đèo Văn Ân và Ngảnh - Hạ tối hậu thư và tìm cách buộc Ân và Ngảnh ra hàng. - Bảo vệ tài sản, bảo đảm họ hàng cho Ân và Ngảnh. - Nếu Ngảnh ra hàng dùng Ngảnh lôi kéo nhân dân, nếu cả Ngảnh và Ân ra, giữ Ngảnh ở lại Phong Thổ còn mời Ân ra Lao Kay. Lực lượng của Ân và Ngảnh bắt kê khai. Tùy theo tình hình để lại cho Ân và Ngảnh một số súng nhưng bắt họ chịu sự kiểm soát của ta. Ngảnh là một tên trí thức, cần có một thái độ đúng mực để thu phục và tránh động chạm đến tự ái của hắn. 2. Đối với Đèo Văn Hem Nếu ra vẫn dùng, nhưng thái độ kiên quyết hơn lần trước, chỉ dùng hắn vào việc tiếp tế. Một khi đã lập xong Ủy ban kháng chiến xã có thể không dùng hắn. - Đối với Sề Cổ Tỉn: Hạ tối hậu thư, đe dọa tịch biên tài sản của Tỉn, tung tin bức Tỉn ra hàng nhanh nếu không ra sẽ tịch thu. 19 Nếu Tỉn ra hàng vẫn dùng lôi kéo, nhưng khi chiến dịch qua Lai Châu sẽ kéo Tỉn về tỉnh. Đối với bè lũ Tỉn có thể chọn lấy một tên chỉ huy quân sự phản động tuyên bố lùng sục, mục đích để đe dọa Tỉn buộc Tỉn phải ra hàng. - Đối với Lý Giàng Tả: Nếu Tả đã giúp Pháp trong những ngày Pháp trở lại Cha Pa, buộc Lý ra Cha Pa ở để kiểm soát. Nếu Lý có thái độ trung lập vẫn để Lý ở làng. - Đối với Châu A Chùa và Đào Vinh Phúc: - Buộc gia đình lôi kéo + Hẹn thời gian ra hàng nếu không sẽ bị tịch thu + Những tài sản hiện nay vẫn để nguyên Cai Vang: Tịch thu tài sản, vạch tội cho nhân dân hiểu rõ. 3. Hạng Việt gian phản động Đối với bọn Việt gian phản động ra hàng, buộc phải công khai nhận lỗi và thề trung thành trước nhân dân. - Bí mật kiểm soát - Chú ý giáo dục - Tiếp tục điều tra tài liệu để Tỉnh ủy quyết định Tù binh và hàng binh: Hàng binh - Khen thưởng tên lôi kéo được nhiều dõng, nộp được nhiều súng. - Có thể chia việc lôi kéo tụi này ra làm hai mức: mức đầu chỉ cần ra hàng người, mức hai khi đã chịu ra hàng người phần lớn, dò xét rồi bắt chúng nộp súng chúng giấu trong rừng. - Các hàng binh ở các địa phương buộc trở về địa phương và chịu một thời gian kiểm soát của địa phương. - Có thể tổ chức những ngày tiếp nhận hàng binh để gây tiếng vang lôi kéo số còn lại, đồng thời giáo dục chúng. 20 Tù binh - Thả lính dõng, giữ các chỉ huy có năng lực giáo dục một thời gian mới thả. - Tù binh khác địa phương, giải ra tỉnh để đưa về địa phương. Thổ phỉ: Giải ra Tỉnh ủy quyết định. Tóm lại, đối với chính sách thổ hào, Việt gian căn bản mềm dẻo nhưng phải mềm dẻo có điều kiện. Chính sách này không kiên quyết như chính sách tả ngạn nhưng cũng không phải một chiều, phải có ân và oán, có kiểm soát. IV. KINH TẾ VÀ TÀI CHÍNH - Hàng ngoại hóa tự do lưu hành (ở Phong Tô, Cha Pa thôi không cho ra ngoài). - Thị trường định giá, lấy giá vùng đã giải phóng làm mức. Giá gạo tối thiểu tính từ 5.000đ trở lên. - Tiền Đông Dương lúc đầu lưu hành nhưng thông cáo sau một tháng rưỡi sẽ cấm tiêu. Thiết lập cơ quan đổi tiền theo giá 1 đồng ăn 1 đồng. - Việc mua bán phải có tổ chức, một cơ quan thống nhất chịu trách nhiệm, tránh mua bán bừa bãi. - Kháng chiến chú ý tiếp tế muối và nhu cầu cho nhân dân. (Có kế hoạch riêng cho đồng chí Trường Minh phụ trách). V. LIÊN LẠC VỚI THAN UYÊN VÀ TÌM LIÊN LẠC VỚI LAI CHÂU Một khi vào Phong Thổ, phái một cán bộ và một số quần chúng Mèo đang phát triển bắt liên lạc với Than Uyên và Lai Châu (miền Tuần Giáo). 1. Mặt Bắc Hà, Pha Long, Si Ma Cai Mặt Pha Long,... sẽ lấy quân ở Bản Lầu và Đại đội công an 21 tập trung lên Pha Long làm nhiệm vụ tuần tiễu sục sạo Châu Quáng Lồ. Bắc Hà và Si Ma Cai tự võ trang cho trung kiên và cương quyết lùng sục Tráng Xuân Phà, Hảng Sào Lùng, một mặt vẫn kêu gọi, nếu không ra, tịch thu tài sản. Hoàng Đình Trung vẫn dùng làm Ủy viên huyện, Hoàng La Ú, Lùng Tảo Sín, một mặt kiểm soát chặt đồng thời vẫn giáo dục, sau đánh Lùng Phình sẽ bắt. Chuẩn bị bắt bọn đặc vụ Việt gian phản động nguy hiểm, về việc này Mường Khương, Bắc Hà điều tra báo cáo gửi hồ sơ về Tỉnh ủy duyệt. 2. Các tổ chức quần chúng - Rẻo Nùng tổ chức thanh niên, phụ nữ, thiếu nhi. - Rẻo Mèo tổ chức Liên Việt, thanh niên, phụ nữ, thiếu nhi. Lương thực: Hiện số lương thực ở Bảo Nhai đã có một số, sẽ vận chuyển lên một số muối đổi cho dân lấy gạo, rau cho bộ đội và đề nghị bên kia giúp thêm. Tiền tệ: Ra hạn cấm lưu hành tiền Đông Dương, một mặt vẫn công khai và bí mật đổi cho dân. Tổ chức và khuyến khích con buôn đi mua hàng. 3. Chuẩn bị đại biểu hội nghị a) Phổ biến cương lĩnh đồng chí Chu ở khu sẽ lên. b) Kiểm điểm chủ trương của Tỉnh ủy, “đặc biệt vấn đề tiễu phỉ” và thảo luận chương trình công tác tháng 4, 5, 6-1951. Đồng chí Quy thảo và trình bày trước Tỉnh ủy vào ngày 7-4-1951 để thông qua. c) Vấn đề bầu Tỉnh ủy - Quyết định Ban tỉnh chỉ bầu 9 người: 7 chính thức và 2 dự khuyết. - Ngoài số Tỉnh ủy viên hiện có thì số đồng chí có triển vọng sẽ 22 đề bạt vào Tỉnh ủy: Hà Bắc, Xuân An, Long Khánh, Quang Tự, Sáng. Theo sự nhận xét của Tỉnh ủy và dư luận của một số cán bộ thì Tỉnh ủy nhằm đồng chí Xuân An và Hà Bắc để giới thiệu. - Về phương pháp lãnh đạo bầu cử: Tỉnh ủy chỉ giới thiệu lý lịch các đồng chí có triển vọng, còn lại* sẽ do sự tín nhiệm của hội nghị bầu. - Cách thức bầu cử: + Bầu cả chính thức và dự khuyết cùng một lúc. + Bầu bảy người còn ai số phiếu tương đối trội sẽ là dự khuyết. 4. Linh tinh a) Với hoàn cảnh Lao Kay giải phóng, Tỉnh ủy cần phải duyệt lại các chính sách để quyết định một chính sách cho đúng với Lao Kay - Chính sách thuế khóa: đồng chí Hội sưu tầm duyệt lại - Chính sách cán bộ: đồng chí Quang - Chính sách dân vận: đồng chí Trường Minh - Chấn chỉnh tổ chức và giáo dục cán bộ: đồng chí Quy b) Điều động cán bộ và phân công trong ban Tỉnh ủy - Đồng chí Long Khánh (Huấn học) về làm Bí thư Bảo Thắng. - Đồng chí Quang Tự (Huấn học) về làm Bí thư Mường Khương. - Đồng chí Hà Bắc (Bí thư Bản Lầu) về làm Chánh Văn phòng Tỉnh ủy và Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh. - Đồng chí Việt Hùng đề bạt vào Huyện ủy Bảo Thắng. - Đồng chí Vũ (Tỉnh ủy viên) - Bí thư Phong Thổ. - Đồng chí Hội (Tỉnh ủy viên) - Ngân hàng. - Đồng chí Bình Dương (Tỉnh ủy viên) - Dân vận. - Đồng chí Bình Phương (Tỉnh ủy viên) - khi lên sẽ quyết định. - Đồng chí Quang (Tỉnh ủy viên) - Huấn học và Đảng vụ. - Đồng chí Trường Minh, Quy, Phương vẫn như cũ. ____________ * Từ chúng tôi thêm vào - BT. 23 c) Việc Chi bộ Cam Đường không thi hành chỉ thị, nghị quyết lợi dụng chiếm công vì tư, đính chính lại - Giải tán ban chi ủy, chỉ định đồng chí Quyết Trị - Bí thư, Hùng Tiến - Phó Bí thư, Quyết Thắng - Chi ủy viên. - Đối với đồng chí Tong Quân, đuổi ra khỏi Đảng và cách chức chủ tịch xã và sau khi bầu hội đồng nhân dân sẽ đưa đồng chí Hùng Tiến ra làm chủ tịch. T/M BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY BÍ THƯ HOÀNG QUY Lưu tại Kho Lưu trữ Tỉnh ủy. 24 BIÊN BẢN CỦA BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ Số 06-BB/LK Về Đại hội Đảng bộ Lao Kay lần thứ nhất từ ngày 12 đến 18-4-1951 Ngày 12-4-1951 tại một địa điểm thuộc huyện Bảo Thắng (Lao Kay) Có mặt: bốn đại biểu mới + Đồng chí Hoàng, đại diện Liên Khu ủy Việt Bắc. + Đồng chí Hap cùng đi với đồng chí Hoàng. + Đồng chí Chu đại biểu của tỉnh Lao Kay ở Đại hội Đảng về. + Đồng chí Đác, thành Đội trưởng Đội củng cố Liên khu. - 4 đại biểu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lao Kay - 11 đại biểu Liên chi cơ quan - 7 đại biểu các chi bộ dân quân, vắng 2 - 9 đại biểu huyện Bảo Thắng: vắng 1, dựthính 1 - 4 đại biểu huyện Bát Xát - 2 đại biểu huyện Cha Pa - 3 đại biểu huyện Mường Khương, dự thính 2 - Đại biểu huyện Phong Thổ, vắng 2 - 1 đại biểu Bắc Hà, vắng 1 - 2 đại biểu thị xã - 4 đại biểu chỉ định Đại biểu các ban chuyên môn và các ban dựthính: 6 Tổng cộng: - 47 đại biểu chính thức 25 - 4 đại biểu mới - 9 đại biểu dựthính Sau khi chào cờ, mặc niệm, đồng chí Quy đại diện Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh tuyên bố khai mạc và thay mặt toàn Ban Chấp hành tuyên bố từ chức, trao quyền cho Đại hội đã bầu. Các lãnh tụ Xtalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, chủ tịch danh dự. Hội nghị đã bầu các đồng chí: Quy, Trường Minh, Xuân An - Chủ tịch đoàn. Các đồng chí Cương, Thinh Kỳ, Phan - Thư ký đoàn. Hội nghị thảo luận và thông qua nội quy, sau đó thông qua nội dung chương trình: 1. Phổ biến Nghị quyết Đại hội Đảng 2. Phần thảo luận - Báo cáo của Tỉnh ủy tình hình mọi mặt Lao Kay và kiểm điểm công tác ba tháng đầu năm 1951. - Chương trình công tác hai tháng 5, 6-1951. 3. Bầu cử - Bầu Ban Tỉnh ủy - Đại biểu đi dự Hội nghị Liên khu 4. Linh tinh 5. Bế mạc Phần thứ nhất I. PHỔ BIẾN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG Sau khi đồng chí Chu trình bày sơ qua những nét chính và kế hoạch phổ biến hiến chương, hội nghị chia làm ba tổ thảo luận chính cương chiều 12-4 và cả ngày 13-4-1951. 26 Ngày 14-4 ra hội trường, đồng chí Chu phổ biến luận cương, giải đáp những thắc mắc của những tổ và hội nghị. VỀ CHƯƠNG THỨ NHẤT Mục 1 Hy Lạp cũng theo một con đường cách mạng mà Hy Lạp lại thất bại, lý do tại sao? - Vì không nắm vững phương châm vũ trang đấu tranh lâu dài nên lực lượng bị tiêu non. Nói chung, Đảng non, lãnh tụ kém. Khi nào thì gọi là chiến tranh thứ ba: - Khi lực lượng quân sự Liên Xô và Mỹ trực tiếp chiến đấu ở bất cứ một chiến trường nào trên thế giới. Chính phủ Cộng hòa Đông Đức xuất hiện có giá trị gì? - Nước Đức là một vị trí quan trọng ở Âu châu, là nơi lực lượng dân chủ và phản dân chủ tiếp giáp nhau nên nó dễ là lò lửa chiến tranh thứ ba. Hơn nữa, nước Đức trước đây là một nước phát xít, nay dân lập được chính quyền dân chủ Đông Đức, lại được một số đông nhân dân Tây Đức ủng hộ. Điểm đó chứng tỏ phong trào ở Đức đã khá mạnh và bảo đảm một phần vào việc duy trì hòa bình châu Âu. Thành phần giai cấp trong bộ máy nhà nước thuộc về hình thức hay nội dung của chính quyền? - Chưa giải quyết xong, ghi để nói trên. Hội nghị có ba ý kiến: - Thành phần giai cấp thuộc về hình thức - Thành phần giai cấp thuộc về nội dung - Thành phần giai cấp thuộc về hình thức và nội dung VỀ CHƯƠNG THỨ BA Mục 1: Kháng chiến đến toàn thắng Phản công và tổng phản công có khác nhau không? 27 - Chỉ khác nhau về danh từ còn nội dung đều quan niệm cũng như nhau. - Cuộc kháng chiến Việt, Miên, Lào phối hợp chặt chẽ với nhau bằng hình thức nào? - Bằng nhiều mặt kinh tế, quân sự, chính trị, v.v.. Mục 2: Củng cố chính quyền nhân dân Củng cố chính quyền dân chủ nhân dân bằng cách nào? - Đưa thành phần công nông vào chính quyền. Xây dựng và chấn chỉnh Hội đồng nhân dân, giáo dục nhân dân, gây ý thức cho nhân dân tha thiết với chính quyền dân chủ, ủng hộ, tham dự và kiểm soát chính quyền. Trong Hiến pháp của ta hiện nay còn những điểm nào chưa thực sự dân chủ? - Năm 1945 thảo ra Hiến pháp hoàn cảnh khác, tính chất của chính quyền ta chưa được ghi rõ, tới nay có những điểm ta đã vượt qua như vấn đề tư pháp và cải cách ruộng đất, v.v.. Chính quyền ta có liên minh với giai cấp địa chủ không? - Chỉ liên minh với cá nhân địa chủ yêu nước và tiến bộ, mà không liên minh với giai cấp địa chủ. Đã lấy công, nông làm nền tảng sao lại có cả lao động trí óc nữa? - Lao động trí óc cũng là tầng lớp bị áp bức vì thế họ cũng trung thành với cách mạng. Mục 3: Củng cố mặt trận dân tộc thống nhất Mặt trận dân tộc thống nhất là một trong những trụ cột của chính quyền nhân dân, còn các trụ cột nào khác nữa? - Hội nghị theo ý kiến của đồng chí Hoàng: “Chỉ có Đảng là trụ cột của chính quyền, câu nói trong chính cương chỉ là cách hành văn và là một chiến thuật của Đảng vì không muốn nói thẳng Đảng là trụ cột của chính quyền”. Mục 4: Xây dựng và phát triển quân đội nhân dân Thế nào là có tính chất dân tộc nhân dân, dân chủ của quân đội ta? - Ý kiến chính 28 - Dân tộc: chống đế quốc xâm lược, bảo vệ dân tộc - Dân chủ: chống phong kiến, thực hiện dân chủ - Nhân dân: phục vụ nhân dân Mục 5: Phát triển kinh tế Đồng chí Thuyết Trình đã giải thích rõ về: - Chính phủ và tư nhân đều có lợi - Lao tư lưỡng lợi - Xây dựng cơ sở kinh tế dưới chế độ dân chủ - Bao vây kinh tế địch một cách có kế hoạch Mục 6: Cải cách ruộng đất Sao ta mới tạm cấp ruộng đất Việt gian và Pháp cho dân cày nghèo mà chưa phân chia hẳn? - Lý do chính là vì đứng trên lập trường đoàn kết lôi kéo địa chủ và có ảnh hưởng tốt đến bọn địa chủ lừng chừng, thêm nữa là ta chưa nghiên cứu được tình hình ruộng đất, trình độ giác ngộ của dân cày còn thấp. Mục 7: Phát triển văn hóa, giáo dục Phát triển nền văn hóa dân tộc như thế nào? - Phát triển những tinh hoa của dân tộc như ca dao, nhạc kịch, v.v. mà hướng vào chống đế quốc, bài phong kiến. Mục 9: Chính sách dân tộc Việt Nam có một hay nhiều dân tộc? - Quốc gia Việt Nam có nhiều dân tộc nhưng giai đoạn này chưa cần phải phân biệt có những dân tộc nào mà chú trọng vào chống đế quốc (...). Nếu ta nêu vấn đề dân tộc tự quyết trong giai đoạn này vô tình đi vào mưu mô chia để trị của địch. Mục 11*: Ngoại giao Ngoại giao nhân dân là thế nào? - Là liên lạc giữa dân ta và nhân dân thế giới: thanh niên, phụ nữ,… từ nước này qua thăm nước khác. ____________ * Không có mục 8, 10 - BT. 29 Mục 12: Đối với Miên, Lào Nếu một trong ba nước Việt, Miên, Lào không vào liên bang thì sao? - Một nước vào liên bang thì phải theo nguyên tắc tự nguyện chứ không bắt buộc nhưng tất nhiên phải có sự lãnh đạo. Mục 15*: Thi đua ái quốc Câu văn viết trong chính cương: “Giết giặc dốt, giặc đói, giặc ngoại xâm” có phải giết giặc dốt là cần thiết hơn so với giết giặc ngoại xâm không? - Đó chỉ là cách hành văn thôi, hiện nay thi đua ái quốc nhằm hướng chính là: giết giặc ở tiền tuyến, tăng gia sản xuất ở hậu phương. Sau khi phổ biến hết chính cương của Đảng, đồng chí Chu trình bày thêm. - Những điểm thay đổi trong điều lệ cũ. Ngày 15-4-1951, đồng chí Hoàng đại diện Liên khu ủy phổ biến về tình hình và nhiệm vụ mới gồm có 11 phần: 1. Nguy cơ chiến tranh thứ ba ngày một rõ rệt: Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, bọn đế quốc bị khủng hoảng (thừa và thiếu) về kinh tế. Phong trào cách mạng thuộc địa lên cao. Liên Xô và các nước dân chủ kiến thiết mạnh có lợi cho dân chủ. Mỹ chủ trương cố bám lấy Nhật, Triều Tiên, Đài Loan, Việt Nam chuẩn bị đánh Trung Hoa và Liên Xô. Mang quân sang Tây Âu, lập tổng hành doanh tại Pháp. Quyền chỉ huy quân sự đều do Mỹ nắm cả. Các nước Tây Âu theo Mỹ tăng cường binh bị. Mỹ tái lập quân đội Đức, Nhật, tuyên truyền cho chiến tranh. Tổ chức gián điệp titisme phá vào nội bộ các nước dân chủ. 2. Liên hợp quốc biến thành công cụ của đế quốc Mỹ: - Bước tới Trung Hoa, xâm lấn Triều Tiên. - Để cho Mỹ lập Hiệp ước Tây Âu và hiệp ước 20 nước La tinh ____________ * Không có mục 13, 14 (BT). 30 để gây hai ổ chiến tranh. Liên hợp quốc không phải là tổ chức hòa bình mà là phương tiện của bọn gây chiến. 3. Lời tuyên bố của Thống chế Xtalin và Nghị quyết Hội đồng hòa bình: Lời tuyên bố của Thống chế Xtalin đã vạch ra âm mưu gây chiến của đế quốc Mỹ, vạch ra con đường chiến đấu cho nhân dân thế giới và đánh vào giữa mâu thuẫn Anh và Mỹ. Nghị quyết của Hội đồng hòa bình ở Bá Linh* nhằm mục đích: - Đòi giải quyết các vấn đề Triều Tiên, Đức, Nhật. - Các nước Anh, Mỹ, Pháp, Nga, Trung Hoa ký hòa ước hòa bình. - Phát động phong trào lấy chữ ký ủng hộ hòa bình. 4. Phong trào hòa bình thế giới lớn mạnh Phong trào hòa bình phát triển ngay tại các nước đế quốc - Ở Nhật có sinh viên thương gia tư sản tham dự. - Ở Mỹ có các nhà khoa học, kịch sĩ,… có danh tiếng tham dự. - Ở Anh có đình công, Pháp có tổng đình công bãi khóa. - Công giáo lẻ tẻ ở các nước và hàng vạn nhà sư ở Tân Cương cũng ủng hộ hòa bình. 5. Triển vọng của tình hình thế giới - Phong trào hòa bình ngày một mạnh - Mâu thuẫn giữa Mỹ - Anh và Mỹ - Pháp ngày càng tăng thêm. - Việc chuẩn bị chiến tranh của đế quốc còn khó khăn. Chiến tranh thứ ba chưa thể nổ ra ngay được, nếu phong trào hòa bình ngày một cao thì có thể còn duy trì được. Nếu chiến tranh Triều Tiên lan rộng ra thì có thể là chiến tranh thứ ba bắt đầu. 6. Nhiệm vụ của các chiến sĩ hòa bình thế giới - Học tập và phổ biến lời tuyên bố của Thống chế Xtalin - Thi hành Nghị quyết Hội đồng hòa bình Bá Linh, lấy chữ ký cho thật nhiều làm cho phong trào hòa bình thật sâu rộng, làm tan rã cơ sở của địch. ____________ * Tức Béclin. 31 - Lột mặt nạ bọn âm mưu gây chiến - Cô lập bọn gây chiến, lôi kéo bọn lừng chừng, tôn giáo và những phần tử không tán thành chiến tranh thứ ba - Giúp đỡ tích cực phong trào tranh đấu vũ trang của các nước thuộc địa - Chuẩn bị sẵn sàng lực lượng quân sự mạnh, đường giao thông liên lạc với quốc tế với các nước dân chủ. 7. Việt, Miên, Lào trong kế hoạch Brink của Mỹ Kế hoạch thi hành trong phạm vi Đông Dương, Xiêm, Diến Điện, để đánh lên Trung Hoa. - Mỹ tăng cường giúp Pháp cho Pháp vay thêm tiền. - Giúp Pháp tổ chức quân D.D.Đ ở Phú Quốc. - Giúp Anh và chính phủ Diến Điện, tăng binh bị Diến Điện. Nhưng lại có mâu thuẫn giữa Pháp, Mỹ, Anh về quyền lợi ở Diến Điện, Xiêm và Đông Dương. 8. Chủ trương của Pháp ở Đông Dương Quân sự: - Càn quét lớn ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ, rút quân ở Nam ra Bắc. Đưa viện binh thẳng đến chiến trường Bắc Bộ. Chúng ấn định cuối năm 1951 tuyển mộ thêm được 10 vạn ngụy binh. Nhưng chúng có hai phe. Chủ trương của Tassinnhi theo ý kiến Mỹ đã thắng bọn nhà băng Pháp chủ trương rút Bắc Bộ vào giữ miền Nam. Chính trị: - Ở Pháp: Thu hẹp quyền tự do dân chủ, ra đạo luật bầu cử nhằm mục đích gạt cộng sản ra ngoài nghị viện hoặc ít đi. - Ở Việt Nam: Pháp cho thêm quyền bù nhìn Bảo Đại. - Tổ chức công tác xã hội, dùng kinh tế mua chuộc dân. 9. Tình hình của ta - Sau chiến thắng biên giới và trung du thì lực lượng ta lớn mạnh - Đảng ra công khai 32 - Thành lập Ủy ban Liên minh Việt - Miên - Lào, thống nhất Việt Minh và Liên Việt. Cuộc kháng chiến của ta còn dài và gặp nhiều khó khăn, kinh tế eo hẹp, đường giao thông bị phá hoại làm cản trở, ta phải vượt mọi khó khăn. Nước bạn chỉ giúp ta những thứ cần thiết. 10. Chủ trương và nhiệm vụ của ta Chủ trương - Kháng chiến của ta là kháng chiến của ba dân tộc Việt, Miên, Lào - Phải biết lợi dụng triệt để sự giúp đỡ của các nước dân chủ có lợi cho ta - Phải trường kỳ kháng chiến, chịu đựng gian khổ, nhiệm vụ giải phóng xong Việt, Miên, Lào Nhiệm vụ chung - Luôn luôn củng cố mọi mặt để kháng chiến. - Tăng gia sản xuất nhiều, tăng thu, giảm chi. - Xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa. - Tranh thủ thời gian phá kế hoạch của địch. - Kết hợp chặt chẽ với phong trào kháng chiến Miên, Lào, phong trào hòa bình thế giới (đặc biệt với nhân dân Pháp và Trung Hoa). - Kiện toàn sự tập trung lãnh đạo chiến tranh của Đảng. 11. Nhiệm vụ trước mắt a) Tác chiến và xây dựng lực lượng phải đi đôi với nhau - Chiến dịch mở liên tiếp - Tiễu phỉ biên giới - Gia cường địch, ngụy vận b) Thi hành chính sách tài chính thích hợp với kháng chiến - Điều tra khả năng của nhân dân - Thực hiện tinh binh, tinh cẩn (giản chính cơ quan) - Đối phó với nạn đói và chuẩn bị mùa thắng lợi - Giúp đỡ tư sản dân tộc phát triển công, thương nghiệp - Xét lại bao vây kinh tế địch 33 c) Thiết thực tham gia phong trào hòa bình - Nghiên cứu và phổ biến lời tuyên bố của Thống chế Xtalin. - Lấy chữ ký ủng hộ Nghị quyết hòa bình Bá Linh. - Tham gia cuộc vận động Đông Nam Á chống Mỹ, dùng Nhật đánh Triều Tiên và uy hiếp Trung Hoa. - Cử người xứng đáng dự hội nghị hòa bình thế giới. d) Học tập Nghị quyết Đại hội Đảng và mặt trận - Áp dụng vào hoàn cảnh địa phương và kiểm điểm công tác trong khi học tập - Tổ chức Đảng ra công khai ở các cấp và tổ chức Đảng theo điều lệ mới - Cùng toàn dân học tập chính cương - Chấn chỉnh tổ chức mặt trận, tránh Đảng bao biện công tác mặt trận - Phát triển các tổ chức vào vùng địch. e) Chấn chỉnh bộ máy và sửa đổi lối làm việc - Giản chính và thống nhất lãnh đạo của Đảng - Sửa đổi lối làm việc - Tránh quan liêu hình thức, sự vụ chủ nghĩa, tránh quan liêu mà không thủ công nghiệp g) Thi đua ái quốc - Thi đua phải liên tục và kế hoạch thiết thực Đồng chí Hoàng kết luận: Trung tâm các nhiệm vụ trên đây đều xoay quanh vấn đề quân sự mục đích làm sao thúc đẩy tác chiến thắng lợi. Do tình hình quốc tế và tình hình ta, địch có nhiều thuận lợi cho ta nhưng cũng gặp nhiều khó khăn. Con đường vinh quang thắng lợi nhất định sẽ về ta. Phần thứ hai Thảo luận: - Báo cáo một năm chiến thắng giải phóng Lao Kay. 34 - Kiểm điểm sự thực hiện chỉ thị, nghị quyết của Tỉnh ủy trong hai tháng 2 và 3-1951. - Chương trình công tác hai tháng 5 và 6-1951. 1. Đồng chí Quy thuyết trình về tình hình Lao Kay trong một năm qua: Về phần này ngoài việc sửa chữa một vài danh từ, đại hội có thêm bớt mấy điểm trong bản báo cáo. Mục tình hình chính trị: - Thêm một đoạn về công tác địch vận và thổ ty vận. - Đại hội nhận xét thêm: Vì thiếu cán bộ địa phương và cán bộ không biết tiếng địa phương cũng là một trong những nhược điểm làm cho việc xây dựng mặt trận thống nhất tiến chậm. Mục tình hình kinh tế: Đồng chí Quy nói rõ thị trường bế tắc như vậy là tự bao vây tài chính. Sửa lại đoạn chính sách kinh tế tài chính của ta khi mới giải phóng làm ngưng trệ một thời gian về thương mại. Đoạn nói về cải cách ruộng đất đề nghị thêm hai chữ phản động họ Nông và phản động họ Sề cho rõ nghĩa. Mục tình hình văn hóa - xã hội: Mục này có thêm vấn đề cờ bạc, gái điếm, vàng mã từ khi ta giải phóng thì đã nhiều nơi mất dần. Đã lập thêm phòng phát thuốc ở một vài nơi, kèm truyền bá vệ sinh trong nhân dân. Chúng ta phải làm gì trong năm 1951: Phần này đại hội thêm mục về thi đua ái quốc, việc “đưa một đội cán bộ phát triển cơ sở sang Lai Châu” là thuộc phần (...) vì Liên khu quyết định. Đại hội đồng ý bỏ điểm này. Việc giáo dục và địch vận thêm một điểm thi hành chính sách giáo dục ngụy binh ra hàng. Mục xây dựng bộ đội địa phương: Phần này thêm điểm định rõ việc cấp dưỡng cho bộ đội địa phương Mục ra sức củng cố Đảng: 35 Thêm điểm tuyên truyền rộng rãi Đảng Lao động trong nhân dân. (có bản báo cáo riêng) 2. Đồng chí Trường Minh thuyết trình bản kiểm điểm sự thực hiện chỉ thị, nghị quyết của Tỉnh ủy hai tháng 2 và 3-1951. Mục những chủ trương lớn của Tỉnh ủy: Tỉnh ủy nhận định chủ trương củng cố Bình Lư, Tam Đường là đúng, có một ý kiến cho rằng là không đúng vì trong khi chưa đuổi giặc ra khỏi Phong Thổ mà còn coi nhẹ củng cố Cha Pa, Bát Xát. Về điểm này, Tỉnh ủy đề nghị kiểm điểm sau với Phong Thổ vì hiện nay vắng đại biểu Phong Thổ nên không rõ hoàn cảnh trong thời gian đó. Mục củng cố xã: Đại hội nhận xét phong trào học tập chỉ có kết quả ở cơ quan thôi còn ở xã không có gì (có bản kiểm điểm riêng). 3. Đồng chí Bình trình bày về đề án công tác hai tháng 5 và 6: Mục đào luyện cán bộ: - Thêm điểm “giáo dục nhân viên Ty Công chính” vì phần lớn thái độ đối với dân công sửa đường coi như phu hồi Pháp thuộc. Mục nhiệm vụ từng ngành: - Bỏ điểm “công an tham dự vào việc tiễu phỉ trừ gian tại các miền mới củng cố, quét hàng lậu” vì là nhiệm vụ thường xuyên không cần nêu vào chương trình. (có bản chương trình công tác riêng) Phần thứ ba Bầu cử: 1. Bầu Ban Tỉnh ủy mới gồm 11 đồng chí Đại hội bầu hai lần bỏ phiếu kín, lần thứ nhất bầu 9 đồng chí Tỉnh ủy viên chính thức và lần thứ hai bầu 2 đồng chí dự khuyết. Danh sách các đồng chí ứng cử và bầu cử: 36 - Đồng chí Hoàng Quy - Đồng chí Phạm Cao Sang - Đồng chí Trường Minh - Đồng chí Trần Long - Đồng chí Bình Dương - Đồng chí Nguyễn Thị Xuân An - Đồng chí Bình Phương - Đồng chí Nguyễn Quang Tự - Đồng chí Trần Phương - Đồng chí Nguyễn Văn Biên - Đồng chí Hồng Quang - Đồng chí Văn Sơn - Đồng chí Vũ - Đồng chí Hoàng Sơn Tùng - Đồng chí Hội Chọn sáu đồng chí vào ban kiểm phiếu Đại hội cử các đồng chí: - Đồng chí Đoàn - Đồng chí Cương - Đồng chí Phúc - Đồng chí Thành - Đồng chí Chu - Đồng chí Diên trong ban kiểm phiếu. Lần thứ nhất Đại hội bầu chín đồng chí tỉnh ủy viên chính thức: Có 47 đại biểu chính thức được bỏ phiếu Sau khi bỏ phiếu ban kiểm phiếu làm việc và tuyên bố: - Một phiếu không hợp lệ vì bầu 10 đồng chí, còn 46 phiếu hợp lệ - Đồng chí Hoàng Quy 46 phiếu - Đồng chí Trần Phương 46 phiếu - Đồng chí Trường Minh 46 phiếu - Đồng chí Hồng Quang 45 phiếu - Đồng chí Bình Dương 44 phiếu - Đồng chí Bình Phương 43 phiếu - Đồng chí Vũ 42 phiếu - Đồng chí Hội 41 phiếu - Đồng chí Trần Long 19 phiếu Chín đồng chí trên trúng cử Tỉnh ủy viên chính thức. Các đồng chí không trúng cử: 1- Đồng chí Xuân An 12 phiếu 37 2- Đồng chí Sơn Tùng 10 phiếu 3- Đồng chí Phạm Cao Sang 9 phiếu 4- Đồng chí Văn Sơn 5 phiếu 5- Đồng chí Quang Tự 3 phiếu 6- Đồng chí Nguyễn Văn Biên 1 phiếu Lần thứ hai đại biểu bầu hai đồng chí tỉnh ủy viên dự khuyết. Hai đồng chí đã trúng cử tỉnh ủy viên dự khuyết: 1- Đồng chí Xuân An 39 phiếu 2- Đồng chí Phạm Cao Sang 26 phiếu Các đồng chí không trúng cử: 1- Đồng chí Sơn Tùng 11 phiếu 2- Đồng chí Văn Sơn 8 phiếu 3- Đồng chí Quang Tự 8 phiếu 4- Đồng chí Nguyễn Văn Biên 2 phiếu 2. Bầu năm đại biểu đi dự Hội nghị Liên khu Việt Bắc Danh sách các đồng chí ứng cử: 1- Đồng chí Quang Tự 6- Đồng chí Sơn Tùng 2- Đồng chí Xuân An 7- Đồng chí Quyết Tri 3- Đồng chí Hoàng Quy 8- Đồng chí Phúc 4- Đồng chí Páo 9- Đồng chí Đoàn 5- Đồng chí Văn Sơn 10- Đồng chí Ky 11- Đồng chí Duy Cương Sau khi bỏ phiếu, Ban kiểm phiếu làm việc và tuyên bố: Các đồng chí trúng cử: 1- Đồng chí Hoàng Quy 43 phiếu 2- Đồng chí Páo 35 phiếu 3- Đồng chí Xuân An 33 phiếu 4- Đồng chí Văn Sơn 22 phiếu 5- Đồng chí Sơn Tùng 21 phiếu Đại hội bầu hai đồng chí đại biểu dự khuyết: 1- Đồng chí Duy Cương 20 phiếu 38 2- Đồng chí Quang Tự 17 phiếu Các đồng chí không trúng cử: 1- Đồng chí Đoàn 15 phiếu 2- Đồng chí Kỳ 12 phiếu 3- Đồng chí Quyết Tri 13 phiếu 4- Đồng chí Phúc 0 phiếu Phần thứ tư LINH TINH 1. Ban Tỉnh ủy ra mắt trước Đại hội để nhận nhiệm vụ mới, đồng chí Quy thay mặt Ban Tỉnh ủy mới hứa sẽ nỗ lực công tác hoàn thành chương trình năm 1951. 2. Đại hội Quyết nghị gửi Điện văn kính dâng lên Hồ Chủ tịch, gửi Trung ương Đảng; Liên khu ủy và gửi các chiến sĩ tại các mặt trận trong tỉnh và trung du. 3. Phê bình hội nghị a) Về tổ chức: Địa điểm tốt, có nhân dân bảo vệ (phong trào khá), trang trí đơn giản, trang nghiêm, xong thiếu ảnh các vị lãnh tụ. Khẩu hiệu thay đổi hợp với từng vấn đề thảo luận trong Đại hội. - Thiếu hầm trú ẩn, vệ sinh thiếu sót. Chọn người phục vụ cho hội nghị không cẩn thận. - Đề án đánh máy nhầm lẫn nhiều. b) Nội dung hội nghị đã chia tổ để thảo luận được chóng. Nhưng có nhiều điểm chưa được thảo luận kỹ (chính cương). - Bản kiểm điểm công tác tóm tắt quá, trình bày lộn xộn. - Bản báo cáo ít tổng kết kinh nghiệm. c) Đại hội họp có kết quả 4. Đồng chí Hoàng đại diện Liên khu ủy nhắc lại và nhấn 39 mạnh những điểm cần thiết phải thi hành trong năm 1951 và áp dụng những điều đã thảo luận ở Đại hội vào hoàn cảnh ở địa phương cho linh động. 5. Đồng chí Quy đại diện chủ tịch Đoàn tuyên bố bế mạc Đại hội vào hồi 11 giờ ngày 18-4-1951 và đại hội hô to mấy khẩu hiệu: - Đảng Lao động Việt Nam muôn năm - Xtalin muôn năm - Mao Trạch Đông muôn năm - Hồ Chủ tịch muôn năm - Tin tưởng sự lãnh đạo của Trung ương và Liên khu ủy - Hoan hô sự chiến đấu anh dũng của quân đội và dân quân - Cương quyết hoàn thành sự nghiệp giải phóng Lao Kay THƯ KÝ ĐOÀN CHỦ TỊCH ĐOÀN Lưu tại Kho Lưu trữ Tỉnh ủy. 40 BÁO CÁO CỦA BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ Về tình hình một năm chiến thắng (giải phóng) Lao Kay (tại Đại hội Đảng bộ lần I - từ ngày 13 đến 18-4-1951) TÌNH HÌNH QUÂN SỰ Tình hình Lao Kay, từ đầu năm 1950 tới nay, có nhiều biến đổi lớn. Căn cứ vào diễn biến trên chiến trường, chúng ta có thể chia tình hình Lao Kay thành bốn thời kỳ: - Từ tháng 1 đến 3: Màn 1 chiến dịch Lê Hồng Phong - Từ tháng 4 đến 8: Thời kỳ giằng co và chuẩn bị màn 2 - Từ tháng 9 đến 11: Màn 2 chiến dịch Lê Hồng Phong - Từ tháng 11 tới nay: Tiễu phỉ và khuếch trương chiến quả. Từ tháng 1 đến 3: Màn 1 chiến dịch Lê Hồng Phong Màn 1 chiến dịch Lê Hồng Phong được chuẩn bị từ cuối tháng 12. Đầu tháng 2-1950, chiến dịch mở màn. Chiến dịch mở đầu với nhiều chiến thắng liên tiếp: ngày 9-2-1950 giải phóng Bản Lầu. Ngày 13-2-1950 tiêu diệt Phố Lu. Địch từ thế tấn công khủng bố khu tranh đấu Bảo Thắng chuyển sang phòng ngự thị xã. Các cứ điểm nhỏ vội co lại để tránh bị tiêu diệt. Các đội quân ứng chiến được đưa lên tăng viện. Vợ con công chức và một số nhân viên cơ quan lục đục kéo về xuôi. Phía ta tuy chiến thắng Phố Lu nhưng tư tưởng chiến thuật 41 sai: ham công đồn hơn đánh quân ứng chiến. Ta bị tiêu hao quân số trong trận công kích Nghĩa Đô ngày 25-2-1950, ngày 20-2-1950, ta thất bại không tiêu diệt được đồn Bát Xát. Từ ngày 10-3-1950, địch bỏ Nghĩa Đô về Bắc Hà. Từ ngày 15-3-1950 tới cuối tháng 3, mặt trận chuyển dần sang cầm cự. Từ tháng 4-1950 đến 8-1950: Thời kỳ giằng co và chuẩn bị màn 2 Sang tháng 4-1950, chủ lực rút về chỉnh quân còn lại lực lượng địa phương quân. Lúc đầu, giặc Pháp không rõ tình hình nên hoạt động do dự, nhưng cuối tháng 4-1950, chúng bắt đầu càn quét Bản Lầu, nghi binh chọc xuống làng Lân, càn quét Bảo Thắng. Một mặt chúng ra sức tăng viện và củng cố rẻo biên giới. Ngày 15-4-1950, 1.000 quân da đen từ Nghĩa Đô hành quân qua Bảo Thắng lên Lao Kay. Tàn quân Nghĩa Đô được chấn chỉnh lại đội ngũ. Giặc mở thêm nhiều đồn quanh thị xã và Cốc Lếu đâu đâu chúng cũng xây lô cốt. Alexandri lên Lao Kay. Tuy nhiên, địch chưa dám chiếm lại Phố Lu và Nghĩa Đô. Sự hoạt động của địch thận trọng và nặng về do thám. Nhất là hồi cuối tháng 5, tên Lưu Sử Dùng - “Tham mưu Quân đoàn 24” từ Đài Loan về Lao Kay..., đặc vụ và Zeme Bureau tổ chức liên tiếp những cuộc bạo động ở Hồ Kiều. Trong khu tranh đấu, Hán gian hoạt động ráo riết vùng Xuân Quang và Phong Niên. Phía ta: Bộ đội địa phương tiến bộ dần trong các cuộc chống càn quét ở Bảo Thắng. Nhưng chúng ta không đủ lực lượng chọc vào sau lưng địch để quấy rối. Về mặt chuẩn bị, ta vẫn kiên nhẫn gây các cơ sở hậu địch, chuẩn bị lương thực ở miền Làng Văn, Làng Mai. Từ tháng 9 đến 11-1950: Màn 2 chiến dịch Lê Hồng Phong Sang tháng 9-1950, màn 2 chiến dịch Lê Hồng Phong bắt đầu. Hướng chính nhằm Cao Bằng, Lạng Sơn. Lao Kay là mặt phụ, 42 nhưng quân ta lại mở với những chiến thắng Bắc Hà (20-9-1950) rồi tiến lên Si Ma Cai ngày 25-9-1950. Địch nhảy dù Si Ma Cai không phải là để chiếm lại Bắc Hà mà để đón quân Hoàng Su Phì rút lui. Sang tháng 10-1950, mặt Đông Bắc thắng to. Ở Hồ Kiều dưới sự thúc đẩy của Pháp, đặc vụ tổ chức bạo động thất bại. Tinh thần bộ đội Pháp xuống dốc. Quân ta đón hụt toán quân ở Mường Khương, Pha Long rút về thị xã. Nhưng sau sáu ngày uy hiếp quân ta bức địch rút khỏi Lao Kay. Việc chặn địch trên đường Cha Pa, Phong Thổ ít kết quả. Tổng số thiệt hại của địch trong thời gian này độ ba đại đội. Từ tháng 12-1950 đến bây giờ Giặc Pháp tuy bỏ Lao Kay nhưng Lao Kay chưa yên. Phía Mường Khương, Pha Long, Bắc Hà, Hoàng Su Phì thổ phỉ cấu kết với thổ ty, thổ hào phản động địa phương nổi lên quấy rối, mưu chôn chân chủ lực của ta. Phía Phong Thổ sau khi chủ lực rút ra, địch lại tràn về. Công tác tiễu phỉ bắt đầu Chủ lực của ta khởi công chiếm Mường Khương ngày 11-11- 1950, chủ quân chúng ta thất bại ở Lao Pao Chải (Pha Long), thế trận kéo dài tới cuối tháng 12-1950, chúng ta bắt đầu chiếm lại Bắc Hà, Lùng Phình, Si Ma Cai... Sang ngày 18-2-1951, quân ta chiếm Pha Long, ngày 21-2-1951 đã đột nhập sào huyệt của Châu Quáng Lồ. Lực lượng thổ phỉ tan tác, một phần lẩn vào dân, một phần chạy sang biên giới. Trong trận càn quét chúng ta đã bức Hoàng La Ú, Lùng Tao Sín, một số dõng và một số binh thầu, séo phải ra hàng. Nhưng tình hình phía đông chưa yên hẳn, Châu Quáng Lồ và (...) còn lẩn trên vùng La Hừ. Ở Bắc Hà còn bọn Xui Phà, vùng Sín Chảy, tụi Chanh Phôn hay cướp phá vùng Bản Cay, Nậm Tồn, tụi Bản Ngô thường phục kích đường Bắc Hà, Bảo Nhai và tụi Hảng Sào Lùng vẫn cấu kết 43 với trên 1.000 thổ phỉ chiếm đóng miền Na Mà, Po Lo, Si Man (Hoàng Su Phì). Tình hình ở mặt Tây: Đầu tháng 2-1951, địch tràn về Cha Pa, Mường Hum nhưng mới đây quân ta khởi công chiếm lại Cha Pa (21-4-1951), Mường Hum (2-4-1951) và Phong Thổ (4-4-1951). Mặt trận miền Tây trở nên gay go. Chúng ta có điều kiện chiếm đánh Lai Châu. Bên cạnh nhiệm vụ quét tàn phỉ, chúng ta nỗ lực xây dựng địa phương để thay thế cho chủ lực. Suốt năm 1950 việc xây dựng ít kết quả vì: đất đai chưa giải phóng, chưa có nguồn bổ sung, số quân tổ chức được từ năm 1948 phải liên miên chiến đấu, cán bộ dân quân kém, nội bộ dân quân lục đục. Từ ngày Lao Kay giải phóng, chúng ta tổ chức thêm một đại đội và dự định của chúng ta là cuối tháng 4-1951 sẽ có năm đại đội. Thực ra một khi phong trào chưa được củng cố thì việc xây dựng lực lượng gặp nhiều khó khăn và thiếu vững chắc. Cho nên, chúng ta chưa đạt được mức đã định. Tuy nhiên với mặt chấn chỉnh ta tiến bộ nhiều. Nhất là đối với việc xây dựng du kích quân ở hầu hết các xã, mỗi nơi từ một tiểu đến một trung*. Du kích một vài miền như Mường Khương, Bản Lầu, Bảo Thắng gây được thành tích. Ở Bản Lầu phối hợp quét phỉ và bắt được 1 nhân viên tham mưu sư đoàn Quốc dân Đảng, 1 liên trưởng, 1 cai trưởng và một số thổ phỉ. TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ Bên cuộc chiến đầy gay go về quân sự, cuộc chiến đấu về chính trị cũng gian nan. Ở Lao Kay suốt thời kỳ 1 và thời kỳ 2, một mặt địch phá vỡ cơ sở của ta, một mặt chúng củng cố lại chính quyền, gây sự chia rẽ giữa dân biên giới, tuyên truyền nói xấu giải phóng ____________ * Theo bản gốc (có thể là một tiểu đội đến một trung đội) - BT. 44 quân, tuyên truyền cho Bảo Đại, tuyên truyền cho Mỹ, tuyên truyền chuẩn bị cho các cuộc rút lui có thể của chúng. Nhưng âm mưu lớn nhất của địch ở Lao Kay là phối hợp cùng đặc vụ Tưởng. Lập Vân Nam tiến công cứu quốc quân. Chúng cấu kết với bọn hương trưởng các hương thuộc Kim Bình, Ma Ngán Tý, Kha Phong, Sin Tiên, Dầm Soáy. Kết quả, chúng giúp tụi này nổi loạn ở các hướng trên, bao vây Hồ Kiều, phá hoại các kho gạo của giải phóng quân ở biên giới. Đối với các thổ ty, Pháp không còn tin tưởng như trước. Chúng nghi ngờ Hoàng A Tưởng. Chúng cho rằng, tụi Châu Quáng Lồ không dám kiên quyết chống ta. Điều này ảnh hưởng rất nhiều tới việc rút lui của địch ở Lao Kay. Khi địch rút lui khỏi Lao Kay chúng mang theo những tên trùm phản động địa phương: họ Nông (Mường Khương), họ Đèo (Phong Thổ) mang theo những tên đặc vụ quan trọng và một số thanh niên người Nhắng. Miền biên giới chúng bố trí lại nhiều đặc vụ. Hiện nay, thỉnh thoảng tụi này vẫn phao tin đồn nhảm làm nhân dân hoang mang. Về phía ta: sự hoạt động của ta suốt thời kỳ 1 và 2 nặng về gây cở sở bí mật ở các xã và chấn chỉnh lại các bộ máy ở tỉnh. Việc gây cơ sở tiến chậm suốt bốn tháng 5, 6, 7 và 8, Bát Xát, Bản Lầu, Bắc Hà chỉ mở rộng được một vài làng trên rẻo Mán. Cơ sở Nhắng và Mèo bế tắc. Việc chấn chỉnh bộ máy ở tỉnh kết quả hơn. Chính quyền nhân dân được cán bộ các ngành chuyên môn quan niệm rõ. Một số cơ quan được lập lại và chuẩn bị vào Lao Kay. Nhiều cuộc hội nghị có tính chất giáo dục và phổ biến chính sách được triệu tập. Đối với việc tiễu trừ Việt gian, chúng ta chuẩn bị tương đối chu đáo để một khi đột nhập có thể quét được chúng. Công tác địch vận kém vì cơ sở quần chúng còn non. Tới thời kỳ giải phóng chúng ta đã áp dụng đúng chính sách 45 mềm dẻo tại các miền được giải phóng, do đó dân chúng đỡ hoang mang và làm dân và địch hiểu chính sách khoan hồng của ta. Việc xây dựng chính quyền được tiến hành gấp tại các miền không có cơ sở, chúng ta tạm dùng ngụy quyền để phục vụ công tác lúc đầu rồi sau sẽ thay thế dần dần. Hiện nay, một vài miền bắt đầu bầu cử. Việc xây dựng mặt trận thống nhất tiến chậm vì dân kém ý thức tổ chức, thiếu cán bộ địa phương và cán bộ biết tiếng địa phương và chính trị, chúng ta chưa nghiên cứu sâu chính sách vận động từng chủng tộc. Nhưng chúng ta đã làm cho các dân tộc có ý thức đoàn kết trong nề nếp tổ chức chính quyền. Với Hoa kiều ta chưa nắm được họ. Nề nếp làm việc của các ban chấp hành Liên Việt, các ủy ban huyện và xã còn ấu trĩ, do dân chưa hiểu chế độ mới là gì. Ngay cán bộ xã và huyện của chúng ta vẫn chưa quan niệm đúng đắn về vấn đề hành chính và dân vận. Việc giáo dục trung kiên chưa được đề cao. Tiếc rằng, chương trình giáo dục của chúng ta tham lam, tài liệu hướng dẫn xuất bản chậm. Một số cán bộ vẫn chưa quan niệm rõ việc giáo dục trung kiên là trọng tâm. Việc bắt Việt gian và đặc vụ ở các nơi như Bảo Thắng, thị xã có kết quả. Chúng ta còn giúp Hồ Kiều tiễu trừ được những ổ quan trọng ở biên giới. Việc xét xử Việt gian chậm, việc phòng gian còn kém. Mới đây sau chiến thắng Pha Long, chúng ta thi hành chính sách kiên quyết hơn đối với tụi thổ hào phản động. Nhờ đó ta đã lôi kéo được một số phần tử trung kiên ở Pha Long, Si Ma Cai, bức tụi Hoàng La Ú và Lùng Tảo Sín ra hàng, đồng thời làm giảm thái độ cơ hội của nhân dân. Tóm lại, công tác củng cố chính trị có kết quả đúng đắn nhưng tiến hành chậm. 46 TÌNH HÌNH KINH TẾ - TỔNG ĐỘNG VIÊN NHÂN LỰC, VẬT LỰC CẢI THIỆN ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN Sự chiến đấu trên mặt trận kinh tế là một cuộc chiến đấu khó khăn nhất. Trong thời kỳ màn 1 và màn 2, tại khu tự do địch càn quét, đốt phá mùa màng, bắn giết trâu, bò. Chúng ta chống đỡ bằng cách triệt để vườn không nhà trống. Nhưng kết quả không lấy gì làm khả quan vì lực lượng ta yếu không cản được địch thuộc vào khu tự do. Tình trạng kinh tế khu tự do của chúng ta lúc này rất kiệt quệ. Số lớn thóc đã phải huy động ra bán trong màn 1. Dân bị ăn củ mài 5, 6 tháng liền. Ruộng phần nhiều bị bỏ hoang. Số nương có tăng lên nhưng vẫn không đủ chống đói. Trái lại, khu địch chiếm đóng thì dồi dào, giá gạo rẻ 100 lần so với ta. Vải vóc xa xỉ phẩm nhiều. Trừ một vài miền như Bản Lầu vì càn quét và Mường Khương bị bắt lính nhiều, nhân dân ca thán, việc tăng gia sản xuất giảm sút. Sau khi ta giải phóng Lao Kay, việc phục hồi kinh tế và thương mại rất chật vật. Chính sách đổi tiền, việc đánh thăng bằng giá đồng tiền Việt Nam và đồng tiền Đông Dương không kìm được cuộc đảo lộn về tài chính và kinh tế và trái lại đã làm ngừng trệ một phần thương mại. Tất nhiên, lý do ngừng trệ chính vẫn là ảnh hưởng của chiến tranh và sự bế tắc về sự tiếp tế vận tải, do số cầu nhiều hơn số cung. Sang đến tháng 12-1950, ta đánh thuế ở thị xã, khuyến khích thông thương. Tại các miền mới giải phóng, ta vẫn để tiền Đông Dương lưu hành, hạn chế cơ quan dùng tiền Việt Nam, mở cửa cho thực phẩm biên giới vào. Giá gạo và muối định xấp xỉ với miền đã giải phóng. Giá tối thiểu 5 nghìn 1 tạ. Tổ chức tiếp tế ở xuôi lên. Khi thị trường hồi phục ta cấm tiền Đông Dương và cho đổi công khai 1 đồng ăn 1 đồng nhưng cũng tổ chức đổi cả bí mật. Chính sách 47 này lượm được nhiều kết quả. Sinh hoạt của nhân dân không bị đảo lộn và đồng tiền của ta vững giá. Một mặt, chúng ta nỗ lực khuyến khích tăng gia, khuyến khích thương mại. Theo báo cáo của huyện, hiện nay diện tích tăng gia nhiều nơi tăng gấp 2 phần năm ngoái. Nạn thiếu trâu, bò chưa giải quyết được. Nhưng chúng ta đã tiếp tế cho dân trên 1.000 con dao và cuốc, 100 vạn đồng mua trâu và điều hòa các giống ngô, khoai từ miền thừa tới miền thiếu, lúa Ba Giang thí nghiệm có kết quả ở nhiều nơi (Bảo Thắng). Con buôn miền xuôi lên nhiều và sau việc chiếm Pha Long, thực phẩm đã hạ. Về mặt khuyến khích tiểu công nghệ, hội nghị hồi tháng 1-1951 định mở xưởng giày, v.v., nhưng không kết quả. Chúng ta chưa biết chú ý cải tiến hoặc khôi phục các nghề hiện có trong dân như nghề làm chè, nghề dệt trong dân Thổ, Nhắng. Việc giảm tô, giảm tức, chúng ta chưa thực hiện trong toàn tỉnh vì chúng ta chưa điều tra rõ chế độ ruộng đất ở Lao Kay. Nhưng chúng ta đã chia ruộng của phản động họ Nông ở Mường Khương, giảm thuế tô tại các đồn điền của phản động (Sê) ở Trịnh Tường. Dân nghèo hoan nghênh. Ngoài ra, tại các huyện đều chú ý lập phòng phát thuốc, chú ý tới việc cải cách dần dần về ăn uống. Việc huy động nhân lực, vật lực ở Lao Kay trong năm vừa qua đã làm liên tục để phục vụ chiến dịch. Nhưng khi thi hành, các cơ quan dùng mệnh lệnh nhiều hơn là giải thích. Phần vì chúng ta thiếu cán bộ đi giải thích, phần vì người địa phương quan niệm đi cần vụ là đi phu. Nhược điểm chính của chúng ta là chưa thống kê được nhân lực, vật lực, do đó việc lấy người phục vụ chiến dịch còn lúng túng, thiếu công bằng, khuyết điểm về tổ chức còn nhiều. Trong mấy chiến dịch vừa qua ta đã vi phạm một số nhân công. So sánh với hồi đầu năm thì việc sử dụng nhân công đã khá hơn. Nói chung trong các chiến dịch, sự huy động dân công đều bó 48 buộc quá sức chịu đựng của dân. Việc động viên tài lực mới bắt đầu thí nghiệm ở thị xã. Chúng ta đương vận động nhân dân mua công trái quốc gia. Kết quả không lấy gì làm khả quan. Ở các huyện chúng ta mới thăm dò dư luận dân. TÌNH HÌNH VĂN HÓA - XÃ HỘI Từ ngày giải phóng, phong trào chống nạn mù chữ và tiểu học vụ lên cao đã có trên 50 lớp học. Các dân như dân Nùng, Thổ, Kinh rất hiếu học. Hiện nay, chúng ta mắc vào nạn thiếu giáo viên. Cũng từ ngày giải phóng vì bộ đội và các đoàn thể phối hợp tổ chức nhiều buổi ca nhạc, nói chuyện và kịch, còn việc nghiên cứu văn hóa các chủng tộc chưa làm được. Đặc biệt, nạn cờ bạc, gái điếm, vàng mã, thuốc phiện từ ngày giải phóng cũng từ bỏ hẳn. Ta tuy có lập các phòng phát thuốc nhưng thiếu truyền bá vệ sinh trong nhân dân. PHONG TRÀO THI ĐUA Mới có ý thức trong cơ quan và vài miền phong trào cao, chưa phổ biến được rộng rãi trong nhân dân. Một số cán bộ phụ trách các miền hình như đã quên phong trào thi đua. Ít nhắc tới hai chữ thi đua trong công tác hằng ngày. TÌNH HÌNH ĐẢNG BỘ LAO KAY VÀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA NÓ Tính đến hết năm 1950, (...) tăng 386 đồng chí so với năm 1949, mức phát triển kém vì trong lúc Trung ương chưa ra chỉ thị thì cơ sở ở Lao Kay bị khủng bố, vỡ tứ tung tới khi có hoàn cảnh (từ ngày giải phóng tới nay) là gặp thời kỳ ngưng phát triển Đảng. Công tác củng cố tiến chậm, đầu năm 1950 trong thời kỳ chiến 49 dịch, các chi bộ sinh hoạt không đều, tới giữa năm 1950, khi phong trào học tập và vận động phê bình và tự phê bình bắt đầu sôi nổi, thì cán bộ và cơ quan lại phân tán đi tiếp thu các miền giải phóng. Sang đầu năm 1951, việc hướng dẫn phê bình và tự phê bình được thi hành ở 3 chi bộ Bảo Thắng và 1 chi bộ công sở. Phong trào học tập ở các cơ quan lại hồi phục có phần rầm rộ hơn hồi cuối năm 1950. Trái lại, phong trào học tập ở huyện và xã kém, rời rạc, thoi thóp. Trong việc phê bình và tự phê bình, chúng ta nhận thấy hầu hết các thành phần kỳ hào bị hủ hóa. Các đồng chí này trước kia cũng hăng hái chiến đấu chống Pháp nhưng gặp thời kỳ công khai quyền hành nhiều, gia sản lại bị sa sút vì khủng bố nên các đồng chí muốn xoay xỏa kiếm lời. Tại chi bộ cơ quan, bệnh này cũng chớm nở. Cuộc phê bình vừa qua mắc khuyết điểm chỉ chú trọng cá nhân mà không kiểm thảo kỹ sự thi hành chỉ thị, do đó không lấy ngay cuộc vận động phê bình và tự phê bình giáo dục chính sách đảng cho các đồng chí và học tập xu hướng sách vở, ngụy biện phát triển rất mau ở các cơ quan. Khi học các đồng chí thường không chú ý tới điểm chính, không nắm trọng tâm, hay miên man đến các vấn đề vụn vặt. Tài liệu cung cấp cho cán bộ xã vẫn thiếu. Bệnh lười còn nặng ở các huyện và xã. So với năm 1949, chính sách cán bộ đã rõ rệt hơn. Sự cấp dưỡng cho cán bộ tương đối đủ nhưng chậm. Ngay tại bây giờ, Lao Kay chưa lĩnh hết sinh hoạt phí năm 1950. Việc giáo dục mới chú trọng tới cán bộ chính quyền, chưa tới cán bộ xã. Việc điều động mắc tình trạng vá víu. Ngày nay hoàn cảnh đòi hỏi cán bộ biết đôn đốc nhiều công tác, biết đặt kế hoạch và hướng dẫn quần chúng, đảng viên. Cán bộ Lao Kay lại rất kém về hai phương diện này. Năm qua, Khu bổ sung cho Lao Kay 40 cán bộ, đó là một con số lớn. Nhưng so với nhu cầu địa phương, số cán bộ này còn rất thiếu. 50 Việc đào tạo cán bộ địa phương được tiến hành ráo riết từ ngày giải phóng. Trong hai tháng, tỉnh mở một lớp huấn luyện chi ủy viên, một lớp bổ túc cán bộ bình dân học vụ và tiểu học vụ và các địa phương các ngành đã huấn luyện được trên 1.000 quần chúng. Tiếc rằng, phương pháp giáo khoa còn kém, người địa phương trình độ văn hóa kém, đầu óc đơn giản, không ưa lý luận. Họ sống quen bằng kinh nghiệm, cho nên công tác huấn luyện thiếu thực nghiệm là thiếu kết quả. Cơ quan chỉ đạo và bộ máy của các cơ quan còn yếu, xộc xệch. Đầu năm 1950, Tỉnh ủy có 4 đồng chí. Giữa năm, Khu thêm 1, địa phương đề bạt 2 đồng chí, tổng cộng 7 đồng chí. Hiện Tỉnh ủy có 8 đồng chí, 3 đồng chí xuống huyện, 1 đồng chí đi nghỉ, còn lại 4 đồng chí ở tỉnh. Các ban chuyên môn, Huấn học, Đảng vụ, trước kia chỉ có 1, 2 cán bộ xã, bây giờ có 2 huyện ủy viên và 3 cán bộ huấn luyện. Ban Đảng vụ có 1 huyện ủy viên và 3 cán bộ xã tuyên truyền chưa thành Ban rõ rệt. Đảng đoàn chính quyền yếu. Công an thuế quan cần được tăng cường hơn nữa mới đảm nhiệm được nhiệm vụ. Nhưng so với năm 1950, nề nếp làm việc ở Lao Kay đã tiến bộ khá dài. Nhất là từ ngày giải phóng, một phong trào thi đua sửa đổi lối làm việc được gây trong cơ quan tỉnh. Ở các huyện trừ huyện Bảo Thắng có huyện ủy, các huyện khác có Ban cán sự phụ trách. Cấp xã chưa tự động làm việc được. Hầu hết chưa biết đặt kế hoạch thi hành chỉ thị của trên. Đa số nhân dân Lao Kay chưa biết tới Đảng. Nhưng tại các ngành chính quyền, chuyên môn, dân vận, sự lãnh đạo của Đảng vững chắc. Chủ trương của Đảng bộ Lao Kay trong năm qua nhìn chung đúng đắn, nhất là trong thời kỳ tiếp thu, đã nắm vững chính sách của trên. Tuy nhiên hồi đầu năm 1950, Tỉnh ủy ít chú trọng đến dân quân để nội bộ lục đục, trong màn 2 chiến dịch Lê Hồng Phong không kịp thời đưa cán bộ lên tiếp thu Bắc Hà, và trong vấn đề kinh tế - tài chính khi đột nhập thị xã bị lúng túng một thời gian 51 khá lâu, và mới đây trong việc xây dựng lực lượng, chúng ta chủ quan đặt mục tiêu quá cao. Từ ngày giải phóng, việc chỉ đạo trên dưới chặt chẽ hơn. Ở cấp xã, sự lãnh đạo kém. Công tác mới quá sức cán bộ xã và các ban chấp ủy. Tuy nhiên, về mặt tổ chức, chúng ta còn phải sửa đổi nhiều; về mặt học tập, chúng ta phải siêng năng hơn nữa. Có thế chúng ta mới cáng đáng được nhiệm vụ mới của tỉnh ta. Về mặt liên lạc với biên giới, chúng ta mắc nhiều khuyết điểm: Cán bộ còn đi lại bừa bãi, chưa triệt để theo đúng thông tri của Tỉnh ủy. TỔNG QUÁT THÀNH, BẠI MỘT NĂM CỦA TA - SO SÁNH CHỖ MẠNH, YẾU CỦA TA VÀ CỦA ĐỊCH Sau khi báo cáo rõ mọi mặt ở Lao Kay, chúng ta cần tổng kết thành, bại một năm về mọi mặt của ta và của địch, so sánh chỗ mạnh, yếu của ta và của địch. Quân sự Thành công: Ta giải phóng được hoàn toàn tỉnh Lao Kay. - Phá được khối ngụy binh Nùng và làm tan rã được một phần khối ngụy binh Nhắng và Thái. - Xây dựng và chấn chỉnh được một tiểu đoàn địa phương quân. Phát triển mau chóng du kích các nơi. Thất bại: - Kém tiêu diệt sinh lực địch. - Trong cuộc tiễu phỉ, vì chủ quan ta đã để phỉ kéo dài cuộc chiến đấu chống ta và hiện nay ta chưa càn hết được tàn phỉ phía đông. - Việc xây dựng địa phương quân hấp tấp, vội vàng nên lượng nhiều hơn chất. 52 - Trong thời kỳ địch uy hiếp Cha Pa, ta đã để mất một số súng với địch. - Địch vận kém, một số ngụy binh Thái, Nhắng vẫn cố kết với địch chống ta. Chính trị - chính quyền - dân vận Thành công: - Tiếp thu mau và gọn các miền giải phóng. - Lập bộ máy chính quyền nhanh. - Trong một thời gian ngắn đã gây được cảm tình trong đại đa số nhân dân. - Các tổ chức quần chúng như thiếu nhi, phụ nữ, thanh niên phát triển mau. - Quét được một số lớn Việt gian. Thất bại: - Không nắm được thổ ty và thổ hào, màn 2 cũng không trung lập được chúng để một số quay ra chống ta kiên quyết (Hảng Sào Lùng). - Chưa đặt được cơ sở đoàn kết chủng tộc vững chắc. - Chưa làm cho quần chúng tin tưởng. Đa số quần chúng còn sợ Pháp và thổ phỉ nên có thái độ cơ hội với ta. - Chưa tìm được đầu mối đặc vụ quan trọng của Pháp để lại. - Các bộ máy chính quyền và Liên Việt chưa phản ánh tính chất địa phương (tỉnh, huyện) và chưa thấm nhuần ý thức mới (xã). Kinh tế - tổng động viên - cải thiện dân sinh Thành công: - Giữ vững giá bạc Việt Nam. - Đã điều hòa được thị trường trong tỉnh. - Phát động kịp thời phong trào tăng gia sản xuất. - Huy động được hết khả năng phục vụ chiến dịch. 53 - Thực hiện được giảm tô và tạm cấp ở một vài nơi gây ảnh hưởng trong dân. Thất bại: - Vì chính sách đổi tiền, đánh ngang giá tiền Việt Nam với tiền Đông Dương lúc đầu, nên làm thị trường thị xã chậm hồi phục. - Một vài nơi thu hồi tiền Đông Dương chậm. - Việc tổng động viên nhân lực chưa công bằng. - Động viên vật lực còn kém. Văn hóa - xã hội Kịp thời phát triển bình dân học vụ và tiểu học vụ. So sánh mạnh và yếu của ta và của địch Chỗ mạnh của địch: - Nắm được các trùm thổ ty và một số lớn khố đỏ và dõng. - Có thổ phỉ trợ lực. - Đặt nhiều cơ sở bí mật ở địa phương ta. - Tuy thất bại nhưng do sự đe dọa và tuyên truyền đã làm một số dân tin rằng địch có thể trở về. - Nhờ phương tiện nên tại các vùng địch chiếm lại, địch tiếp tế đầy đủ nhu cầu cho dân. Điểm yếu: - Địch cấu kết với thổ phỉ trong thời kỳ vừa qua, thổ phỉ và thổ hào cướp bóc của nhân dân các vùng chúng tái chiếm làm dân oán ghét. Những điểm mạnh của ta: - Ta đang ở thế thắng, Lao Kay lại là một tỉnh ở biên giới, bên cạnh những thắng lợi của ta còn cả uy thế của giải phóng quân. Hai điều đó làm địch hoảng sợ và dân thêm tin tưởng. 54 - Dân đã hiểu ta, có cảm tình với ta và đã nhận rõ thiết thực phục vụ quyền lợi cho họ. - Bộ đội trưởng thành mau chóng. Chỗ yếu của ta: - Tiếp tế khó khăn, địa phương đã kiệt quệ, tiếp tế miền xuôi không đủ và chậm. - Dân chúng ý thức còn kém, công việc phục vụ lại nhiều. - Chưa nắm được dân Mèo và dân Nhắng ở Bát Xát. - Cán bộ thiếu, trở ngại lớn cho việc xây dựng. CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ NĂM 1951 Căn cứ vào tình hình ưu, khuyết điểm của ta và của địch, chúng ta phải: 1. Tranh thủ thời gian, khuyếch trương chiến quả sang Lai Châu Có đánh được Lai Châu, Lao Kay mới khỏi bị địch uy hiếp, cho nên việc tạo điều kiện cho chủ lực đánh Lai Châu cũng là một công tác cần thiết cho Lao Kay. Tất nhiên, việc đánh Lai Châu phải do trên quyết định, trong chiến dịch hiện tại chúng ta cần: - Tạo điều kiện cho chủ lực có thể tập trung cả về miền Phong Thổ có thể khuyếch trương chiến quả sang Lai Châu. - Nỗ lực chuẩn bị lương thực cho chủ lực. 2. Nắm vững thắng lợi phía đông quét tan tàn phỉ Pha Long và Bắc Hà - Lợi dụng thắng lợi đã lượm được tiếp tục chính sách lùng sục ở một vài nơi để bức dõng và thổ phỉ ra hàng. Chú ý mục đích lùng sục của ta là để lôi kéo địch chứ không phải bịt đường địch không theo ta. 55 - Ném cán bộ khá vào nắm trung kiên và du kích quét tàn phỉ và rẻo Mèo. 3. Quét đặc vụ và Việt gian địa phương - Kiên quyết tăng cường bộ máy điều tra. - Gây ý thức căm ghét Việt gian và đặc vụ trong nhân dân. - Tổ chức mạng lưới lượm tin tức ở các nơi. - Diệt Việt gian và đặc vụ phải làm từng đợt căn cứ vào thế ta và địch, căn cứ vào kết quả công tác điều tra của ta. - Việc tiễu trừ chỉ nhằm các tên cầm đầu phản động đối với hạng 2 giáo dục cho họ. 4. Ra sức địch vận làm tan rã hàng ngũ địch - Địch vận sẽ nhằm vào toàn quân của Sề Cổ Tỉn. Nhằm toán quân Cha Pa, nhằm các ngụy quân xứ Thái. - Địch vận nhằm lôi kéo một số thổ hào quay về với ta (họ Sề, họ Đèo). - Địch vận phải nhằm vào thời cơ, phải lợi dụng được quan hệ gia đình để lôi kéo họ, phải dùng thủ đoạn và kiên quyết, mềm dẻo để lôi kéo họ. Thu hết số súng ngụy quân còn giấu trong rừng. 5. Xây dựng một bộ đội địa phương tinh nhuệ và những đội du kích trung thành - Xây dựng một tiểu đoàn mạnh. - Muốn thế phải chú ý chất lượng hơn, với huấn chỉnh lại địa phương quân. - Đối với du kích chú ý giáo dục chính trị, đào tạo trung kiên. - Gây một phong trào tổng quan trong các chủng tộc Nùng, Nhắng, Thổ để bổ sung cho chủ lực. - Định rõ quyền lợi cho những người có con đi bộ đội và định rõ chính sách cấp dưỡng cho bộ đội địa phương. 56 6. Củng cố lại chính quyền các cấp làm cho chính quyền thực sự của nhân dân và phản ánh địa phương - Đưa thêm thành phần các chủng tộc vào các ủy ban tỉnh, huyện và xã. - Chú ý đến thành phần bần nông và trung kiên trong các cấp. - Bầu xong hội đồng nhân dân xã trong toàn tỉnh. - Lập ngân sách xã. - Huấn luyện cho các ban chấp hành biết cách làm việc và có ý thức phục vụ nhân dân. 7. Củng cố mặt trận Liên Việt - tổ chức các giới chính - Việc chấn chỉnh các ban chấp hành tỉnh, huyện và xã cũng đúng như hành chính, nghĩa là phải tăng thành phần địa phương và thành phần bần nông, huấn luyện, giáo dục cho họ. - Các giới tổ chức sẽ có: Trong dân Thổ, Nhắng, Nùng: - Liên Việt - Thanh niên - Phụ nữ - Thiếu nhi Trong dân Mèo, Mán: Tổ chức Liên Việt, nhưng khi có điều kiện, phải chú ý tới phụ nữ, thiếu nhi, du kích. Tổ chức Nông hội ở các miền cơ sở vững và thực hiện tạm cấp ruộng đất hay giảm tô lấy kinh nghiệm, tổ chức rộng ra khắp tỉnh. Đối với Hoa kiều, tổ chức dần dần họ vào các đoàn thể thanh niên, thiếu nhi, nếu họ muốn riêng biệt, xét không hại thì cho họ tổ chức. 8. Tích cực tăng gia sản xuất và khôi phục các tiểu công nghệ sẵn có trong dân - Giải quyết nạn thiếu trâu và nông cụ, hạt giống cho dân. - Không những duy trì mà còn phát triển thêm mức tăng gia. - Cải tiến nghề làm chè, nghề dệt và khuyến khích nghề lò rèn, nghề đúc gang trong dân. 57 - Điều tra nông thôn, nghiên cứu để có thể thực hiện giảm tô, giảm tức ở một vài nơi trong tỉnh. 9. Giữ vững giá bạc Việt Nam - Tổ chức tiếp tế các nhu cầu cần thiết cho dân, điều hòa thương mại. - Quét sạch tiền Đông Dương. - Chuẩn bị thuế khóa để tránh tình trạng chỉ có chi mà không có thu. 10. Văn hóa - xã hội - Tiếp tục phát triển bình dân học vụ và tiểu học vụ. - Nghiên cứu lại việc phiên âm các tiếng địa phương. - Sưu tầm và phổ biến các điệu múa và hát trong các chủng tộc địa phương. - Nỗ lực cải tạo tư tưởng cho cán bộ giáo dục. 11. Ra sức củng cố Đảng - Hoàn thành phê bình và tự phê bình. - Đẩy mạnh cuộc học tập lý luận rèn luyện cán bộ. - Nâng cao ý thức giai cấp - tinh thần quốc tế - Đảng tính - quan điểm quần chúng trong cán bộ và đồng chí. - Sửa đổi lối làm việc đề cao vai trò lãnh đạo của Đảng. - Trong thời kỳ ngưng phát triển, vẫn phát triển trung kiên giáo dục họ để khi có chỉ thị có thể gây mau được các chi bộ xã. - Tuyên truyền rộng rãi Đảng Lao động trong nhân dân. 12. Đào tạo cán bộ địa phương rèn luyện cán bộ - Ra sức đào tạo cán bộ địa phương. - Trọng tâm sẽ giáo dục lại cán bộ xã. - Sửa đổi lại chính sách cán bộ, cấp dưỡng, điều chỉnh và cấp dưỡng cho hợp lý. ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ Lưu tại Kho Lưu trữ Tỉnh ủy. 58 BIÊN BẢN CỦA BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ Số 07-BB/LK, ngày 25-4-1951 Về việc bầu Ban Chấp hành Đảng bộ Lao Kay ngày 17-4-1951* Đại hội tỉnh Lao Kay lần thứ nhất họp từ ngày 12 đến 18-4- 1951 đã bầu Ban Chấp hành tỉnh Đảng bộ gồm 11 đồng chí. I. THỂ LỆ BẦU CỬ - Đại hội có 47 đại biểu chính thức được bỏ phiếu bầu. - Bầu hai lần bỏ phiếu kín + Lần thứ nhất bầu 9 đồng chí tỉnh ủy viên chính thức. Mỗi đại biểu chỉ được bầu từ 1 đến 9 đồng chí tỉnh ủy viên chính thức. Phiếu nào bầu 10 đồng chí trở lên là không hợp lệ. + Lần thứ hai bầu hai đồng chí tỉnh ủy viên dự khuyết. Mỗi đại biểu chỉ được bầu từ 1 đến 2 đồng chí tỉnh ủy viên dự khuyết trong số các đồng chí không trúng cử tỉnh ủy viên chính thức. Phiếu nào bầu từ 3 đồng chí trở lên là không hợp lệ. ____________ * Trích biên bản đại hội. 59 II. DANH SÁCH 15 ĐỒNG CHÍ ỨNG CỬ VÀO BAN CHẤP HÀNH 1 - Đồng chí Nguyễn Thị Xuân An 2 - Đồng chí Nguyễn Văn Biên 3 - Đồng chí Bình Dương 4 - Đồng chí Nguyễn Văn Hội 5 - Đồng chí Trần Long 6 - Đồng chí Trường Minh 7 - Đồng chí Bình Phương 8 - Đồng chí Trần Phương 9 - Đồng chí Hoàng Quy 10 - Đồng chí Hồng Quang 11 - Đồng chí Phạm Cao Sang 12 - Đồng chí Văn Sơn 13 - Đồng chí Sơn Tùng 14- Đồng chí Nguyễn Quang Tự 15 - Đồng chí Vũ III. CHỌN 6 ĐẠI BIỂU VÀO BAN KIỂM PHIẾU Đại hội cử các đồng chí sau đây vào ban kiểm phiếu: - Đồng chí Đoàn - Đồng chí Phúc - Đồng chí Chu - Đồng chí Cương - Đồng chí Thành - Đồng chí Liên IV. LẦN THỨ NHẤT BẦU 9 ĐỒNG CHÍ TỈNH ỦY VIÊN CHÍNH THỨC Sau khi bỏ phiếu, ban kiểm phiếu làm việc và tuyên bố kết quả: - Một phiếu không hợp lệ vì bầu 10 đồng chí tỉnh ủy viên chính thức. Còn 46 phiếu hợp lệ 60 - Chín đồng chí dưới đây đã trúng cử tỉnh ủy viên chính thức: 1 - Đồng chí Hoàng Quy 46 phiếu 2 - Đồng chí Trần Phương 46 phiếu 3 - Đồng chí Trường Minh 46 phiếu 4 - Đồng chí Hồng Quang 45 phiếu 5 - Đồng chí Bình Dương 44 phiếu 6 - Đồng chí Bình Phương 43 phiếu 7 - Đồng chí Vũ 42 phiếu 8 - Đồng chí Hội 41 phiếu 9 - Đồng chí Trần Long 19 phiếu - Sáu đồng chí dưới đây không trúng cử tỉnh ủy viên chính thức: 1- Đồng chí Nguyễn Thị Xuân An 12 phiếu 2- Đồng chí Hoàng Sơn Tùng 10 phiếu 3- Đồng chí Phạm Cao Sang 9 phiếu 4- Đồng chí Văn Sơn 5 phiếu 5- Đồng chí Nguyễn Quang Tự 3 phiếu 6- Đồng chí Nguyễn Văn Biên 1 phiếu V. LẦN THỨ HAI BẦU 2 ĐỒNG CHÍ TỈNH ỦY VIÊN DỰ KHUYẾT Đại hội bỏ phiếu lần thứ hai bầu 2 đồng chí tỉnh ủy viên dự khuyết trong số 6 đồng chí trên không trúng cử tỉnh ủy viên chính thức. Ban kiểm phiếu làm việc và tuyên bố kết quả - Hai đồng chí sau đây đã trúng cử tỉnh ủy viên dự khuyết: + Đồng chí Nguyễn Xuân An 39 phiếu + Đồng chí Phạm Cao Sang 26 phiếu - Bốn đồng chí dưới đây không trúng cử: + Đồng chí Hoàng Sơn Tùng 11 phiếu + Đồng chí Văn Sơn 8 phiếu + Đồng chí Quang Tự 8 phiếu + Đồng chí Nguyễn Văn Biên 2 phiếu 61 VI. KẾT QUẢ CUỘC BẦU CỬ Các đồng chí sau đây đã trúng cử vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lao Kay: 1- Đồng chí Hoàng Quy - Tỉnh ủy viên chính thức 2- Đồng chí Trường Minh - Tỉnh ủy viên chính thức 3- Đồng chí Trần Phương - Tỉnh ủy viên chính thức 4- Đồng chí Hồng Quang - Tỉnh ủy viên chính thức 5- Đồng chí Bình Dương - Tỉnh ủy viên chính thức 6- Đồng chí Bình Phương - Tỉnh ủy viên chính thức 7- Đồng chí Vũ - Tỉnh ủy viên chính thức 8- Đồng chí Hội - Tỉnh ủy viên chính thức 9- Đồng chí Trần Long - Tỉnh ủy viên chính thức 10- Đồng chí Nguyễn Thị Xuân An - Tỉnh ủy viên dự khuyết 11- Đồng chí Phạm Cao Sang - Tỉnh ủy viên dự khuyết ĐẠI HỘI TỈNH LAO KAY THƯ KÝ ĐOÀN CHỦ TỊCH ĐOÀN Lưu tại Kho Lưu trữ Tỉnh ủy. 62 BÁO CÁO CỦA BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ Số 14-BC/LK, ngày 25-4-1951 Về kiểm thảo vấn đề giao thiệp biên giới “giữa Tỉnh ủy Lao Kay và Huyện ủy Hồ Kiều” Theo báo cáo của Huyện ủy Hồ Kiều gửi lên Tỉnh ủy Vân Nam những việc xảy ra ở biên giới có ảnh hưởng tới sự đoàn kết của hai bên. Chúng tôi sao gửi bản báo cáo đó và trình bày để Ban Thường vụ Liên khu ủy rõ: 1. Một số cán bộ Hà Cao ở Vân Nam không có sự giới thiệu nào cả tự tiện trực tiếp với nhân viên công tác khu Chính phủ giao dịch Hồi tháng 12-1950, thổ phỉ nổi dậy chiếm lại Bắc Hà, một số cán bộ và hai đại đội bị thất lạc chạy sang “Kieu Dau Nhai”. Trong hoàn cảnh đó, các (...) tới khu Chính phủ yêu cầu giúp đỡ gạo và rau ăn. Hiện nay vẫn chưa có tiền thanh toán trả các đồng chí bên đó. 2. Bộ đội Việt Nam phạm vào kỷ luật (lấy của dân lợn, vải, muối) Hồi tháng 12-1950, bộ đội ta có phạm vào kỷ luật trên. Việc này đồng chí Học - Khu ủy viên và Bằng Giang - Chỉ huy mặt Tây Bắc giao thiệp giải quyết và xử bắn một anh trung đội phó chủ trương cho đội viên làm bậy để giữ ảnh hưởng chung. 63 3. Ty Công an Lao Kay có việc đã không qua Tỉnh ủy Lao Kay để cùng với Công ủy Hồ Kiều thương lượng, đã trực tiếp cùng nhân viên công an thường nắm vấn đề Việc này sau khi thảo luận với đồng chí phụ trách công an ở trên về Hồ Kiều cũng như đồng chí Minh và A đã đồng ý công an hai bên có thể giao thiệp thẳng với nhau nên mới có những việc mà công an Lao Kay đã giao thiệp với công an Hồ Kiều. 4. Cho rằng chúng tôi báo các đồng chí Hồ Kiều làm khó dễ công việc vay mượn và không cần báo cáo về Trung ương Việc giao thiệp với Hồ Kiều theo chỉ thị của Liên khu ủy: khi giao thiệp vấn đề nhỏ thì lấy tính cách địa phương giao dịch. Căn cứ vào chỉ thị đó Tỉnh ủy Lao Kay có giao dịch với Huyện ủy Hồ Kiều những vấn đề nhỏ có tính cách địa phương như vay gạo, mượn dụng cụ làm cầu, v.v.. Nhưng khi giao thiệp các đồng chí Hồ Kiều bảo phải đánh điện hỏi Trung ương. Chúng tôi thấy hỏi Trung ương như vậy thì không có tính cách địa phương giao dịch đúng như chỉ thị của Liên khu ủy và chậm mất thời gian của tỉnh nên có nói rằng: “Như vậy thì thôi để chúng tôi đề nghị lên cấp trên thương lượng, chứ không cố ý cho các đồng chí ấy làm khó đến công việc”. Đây là các đồng chí hiểu lầm mà thôi. 5. Việc các đồng chí Hồ Kiều không nhận du bieu* của đồng chí Song Hào mà báo cáo là đồng chí Song Hào bảo các đồng chí Hồ Kiều khinh đồng chí Song Hào Việc này chúng tôi tin rằng đồng chí Song Hào không có thái độ đó, nhưng có lẽ do đồng chí phiên dịch viên mang bieu du** hôm đó vô ý nói sai. Chúng tôi xin kiểm thảo với đồng chí phiên dịch. ____________ *, ** Theo bản gốc. 64 Tất cả những vấn đề trên đồng chí đại diện Tỉnh ủy (đồng chí Bí thư) đã trực tiếp kiểm thảo với đồng chí Bí thư Huyện ủy Hồ Kiều. Vậy, chúng tôi báo cáo lên Ban Thường vụ Liên khu ủy (kèm theo bản báo cáo của Huyện ủy Hồ Kiều lên Tỉnh ủy Vân Nam). T/M BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY NGUYỄN HỒNG QUANG Lưu tại Kho Lưu trữ Tỉnh ủy. 65 BÁO CÁO CỦA BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ Số 15-BC/LK, ngày 25-4-1951 Về tình hình mặt trận Phong Thổ Sau khi giải phóng Phong Thổ theo kế hoạch của Ban Chỉ huy 148: hai tiểu đoàn chia hai đường tiến đánh Chiêng Chan. Nhưng tiểu đoàn đi tới Noọng Hẻo bị lạc phải quay sang đường Binh Bổ ở Sìn Hồ còn tiểu đoàn đi tới Sìn Hồ thì đem hai đại đội tiến đánh Chiêng Chan. Vì không hiểu địch tình, quân ta vào giữa trận địa địch. Lực lượng địch có sáu đại đội song chúng cũng không rõ lực lượng ta nên không dám đánh mạnh mà chỉ cầm cự. Ta bị mất 1 trung liên và 4, 5 đội viên. Máy bay B86 hoạt động giữa đội ném tới hơn 100 quả bom xuống trận địa làm chết 5,6 cần vụ. Sau trận đánh Chiêng Chan, Ban chỉ huy cho chuyển cả quân xuống Bình Lư (có 3 tiểu đoàn) chuẩn bị đánh Than Uyên và dụ địch ra khu vực Chiêng Chan, Noọng Hẻo, Sìn Hồ tiêu diệt, nhưng trong khi đang cho bộ đội nghỉ và phổ biến kế hoạch thì có tin địch chiếm Phong Thổ. Đêm 21-4-1951, một đại đội định cho lên Phong Thổ chưa kịp đi. Gần 3 tạ muối và một số vũ khí đạn dược ở Lao Kay mới chở vào Phong Thổ có thể bị mất. Chủ trương chiếm đánh Chiêng Chan, bỏ trống Phong Thổ, Bình Lư, Tam Đường đã đưa đến kết quả tai hại. Mặt Phong Thổ, kế hoạch xoay lại không kịp, hết cơ sở tiếp tế và bộ đội phải nhịn đói để đối phó. Hiện bộ đội đã nhịn một ngày, hiện vấn đề tiếp tế rất nguy ngập. 66 Gạo chỉ trông vào sự cung cấp của địa phương mà nay Phong Thổ lại bị chiếm nên việc tiếp tế rất khó khăn, thiếu thốn. Chúng tôi báo cáo để Ban Thường vụ Liên khu ủy rõ (kèm theo bản công văn về chủ trương ở Phong Thổ hiện nay của Tỉnh ủy Lao Kay gửi Đảng ủy 148). T/M BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY CHÁNH VĂN PHÒNG NGUYỄN HỒNG QUANG Lưu tại Kho Lưu trữ Tỉnh ủy. 67 BÁO CÁO CỦA BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ Số 16-BC/LK, ngày 29-4-1951 Về tiễu phỉ mặt tả ngạn, từ ngày 25-3 đến 25-4 Sau khi ta giải phóng Pha Long, tiêu diệt tàn phỉ ở Lùng Phình, Si Ma Cai và Hoàng Su Phì, thì lực lượng địch ở dọc biên giới đều bị tan rã cả. Quân ta phối hợp với quân bạn tiếp tục lùng sục đồng thời kêu gọi chúng ra hàng. Lực lượng của những toán phỉ còn lẩn lút, trốn tránh trên rừng và dọc biên giới. Mặt Pha Long có chừng một đại đội gồm Châu Quáng Lồ, bọn Lù Pha Leng, Lù Pín Dìn cấu kết với thổ phỉ Trung Quốc Hoàng Ngàn Sồ, Chu Ren Choong, Sin Seo Sỉn, Seo Pa Chu. Mặt Bắc Hà còn hơn một trung đội gồm bọn tay chân Hoàng A Tưởng như Chef Chảo, Pò Lem, bọn Hảng Sào Lùng và bọn Chánh Pôn. Mặt Hoàng Su Phì có chừng một tiểu đoàn gồm bọn Hảng Sào Chúng, Chef Sàn, Chef Vần bị tan rã sau khi ta đánh vào sào huyệt của chúng ở Hoàng Su Phì nên tản mát và hiện hoạt động ở biên giới Việt Nam từ Sín Mần đến Si Ma Cai. Chúng sống bằng cách đi cướp bóc hoặc bắt dân chúng cung cấp tiếp tế. Lương thực chúng thiếu thốn, lực lượng phân tán, tinh thần rất hoang mang. Chúng chưa ra hàng là vì còn bị đặc 68 vụ tuyên truyền nặng, còn dựa vào thổ phỉ Quốc dân Đảng Trung Quốc và ta cũng chưa hoạt động thực mạnh bức chúng phải ra hàng. Lực lượng quân sự của ta: - 1D 48 Tuyên Quang quân số không đủ - 1C của Tỉnh đội bộ dân quân - 1B Công an, biên phòng (công an tỉnh Lao Kay) - 2B Bộ đội địa phương Bắc Hà và Bản Lầu - 2D Liên phòng đội Chủ trương của ta là tập trung đại bộ phận vũ trang phối hợp với quân bạn tiêu diệt nốt tàn phỉ ở các vùng biên thùy Bắc Hà, Pha Long, Hoàng Su Phì. Bộ phận nhỏ đóng ở các nơi cần thiết như Pha Long, Bắc Hà, Lùng Phình, Si Ma Cai làm nhiệm vụ tuần tiễu quét bọn tàn phỉ và bọn phản động địa phương còn lẩn trốn. Hoạt động của ta - Mặt Pha Long, Mường Khương Bộ đội và công an biên phòng hoạt động ráo riết ở những vùng: Sồ Cố Chin, Dìn Chin, Ngải Thầu, Sín Thầu, La Hù, Ni Sin, Lao Pao Chảy, Tả Ngải Chồ, Lù Gia Ngài, Phu La Ty, Hồ Suối Tủng, Thăng Suôi Pẻn mà bọn Châu Quáng Lồ, Lù Pín Dìn, Lù Pha Leng tản mát chạy trốn ở đó. Ngày 25-3, ta bắt được tên phó lý trưởng Mường Khương, hắn đem nộp bốn súng trường. Ngày 28-3, tên lý trưởng Mường Khương về hàng ta, nộp một tôm sơn và hai súng trường. Ngày 14-4, liên phòng đội úp một bọn tàn phỉ Trung Hoa chạy sang, bắt được 1 tên dẫn đường, 1 thổ phỉ, 1 trâu và 2 ngựa. - Mặt Bắc Hà, Hoàng Su Phì Sau những cuộc càn quét ráo riết của ta và liên phòng đội tại San 69 Sui, Na Mả, Bản Liền, Bản Si, San Su Van, thổ phỉ địa phương ra hàng gần hết, bọn tàn phỉ Quốc dân Đảng tan rã một phần. Ở San Sui, Ke Kai ta thu được 35 súng trường. Ngày 27-3, ta vây làng Hoàng Si Pang (Si Ma Cai) bắn chết 1 phỉ, bắn bị thương 1 và bắt 1, thu 1 súng trường. Ngày 31-3, ta bắt tên Thái Khay Sin nhốt ở Huyện đội bộ Bắc Hà, đã bắn chết hắn khi hắn định chạy trốn. Ngày 1-4, Tráng Xuân Phà ra hàng mang theo 6 súng trường và 1 trung liên. Ngày 2-4, 1 thổ phỉ ra hàng nộp 1 súng trường. Ngày 6-4, 1 tên ra hàng. Ngày 7-4, ta càn quét Ô Tô Chải bắt hai tên, thu 2 súng trường và 2 ngựa. Ngày 8-4, 1 tên ra hàng nộp 1 khẩu conit bat. Ngày 8-4, ta úp làng Chin Su Phìn và Lin Cu Van (Si Ma Cai) bắt 3 tên, thu 1 súng kíp, 1 súng lục. Ngày 8-4, 1 toán chừng 100 tàn quân Quốc dân Đảng Trung Hoa bị giải phóng quân đánh chạy sang Sen Mo Vang đi Si Ma Cai, ngày 10-4, qua Ải Nam xã Phong Niên (Bảo Thắng) định tìm đường liên lạc với Pháp, bị du kích Phong Niên bắn chết 2 tên, thu 1 súng trường. Chúng quay trở về đường cũ qua Lùng Phình, Nậm Lúc, bị ta bắt 11 tên, còn khoảng 70 tên chạy về vùng Bản Già, Bản Liền. Ngày 10-4, du kích Bắc Hà úp ở Bản Pui bắn chết 1 tên thu 1 súng trường. Ngày 12-4, bọn du kích đảo ngũ theo thổ phỉ đánh lại ta trước đây đã đem nộp 10 súng trường. Ngày 13-4, 11 tên thổ phỉ Quốc dân Đảng Trung Hoa ra hàng giải phóng quân mang theo 10 súng trường, 2 súng ngắn saint etienne và 1 sten. 70 Ngày 13-4 khi quân ta vào Seng Suoi, lý trưởng và binh thầu làng này ra hàng. Ngày 16-4, quân ta tới làng Su Khai Lá úp tên Hảng Sào Lùng, tên Lùng chạy thoát, ta bắt được em ruột y và bố vợ y (tên này tự sát) và thu 1 súng trường, 1 ngựa. Ngày 19-4, bộ đội ta kiểm soát vùng Sảng Chư Ván bắt tên phó lý Sảng Chư Ván, thu 1 súng trường và 9 con trâu, 3 ngựa là những thứ y đã lấy của dân. Ngày 19-4, 5 tên thổ phỉ lạc lõng ở vùng Cốc Ly Mán thượng bị dân bắn chết và thu 5 súng trường. Việc thu súng Số súng các đồng chí liên phòng đội thu được tất cả là: - Ở Lùng Phình 14 súng trường. - Sín Mần, Cốc Pài 120 súng trường, 6 FM và 1 mortier 81. - Bản Máy, hơn 80 súng trường. Số súng ta thu được chưa thống kê được. Tình hình hiện tại Vùng Pha Long còn bọn tàn quân Châu Quáng Lồ lẩn lút trốn tránh, mạn Bắc Hà thổ phỉ địa phương đã ra hàng gần hết. Mặt Bản Máy, Si Mần, Cốc Pài coi như xong. Chỉ còn vùng Nậm Đăng, Na Mạ, Cửa Cải, Lồ Suối Tủng và vùng Bản Liền, Sảng Chư Ván là còn phỉ. Ta đang tập trung lực lượng tiến hành kế hoạch càn quét tiêu diệt những toán còn lẩn khuất ở vùng này, kiểm soát ráo riết những vùng cơ sở của Châu Quáng Lồ (Pha Long) đồng thời kêu gọi bọn tàn phỉ ra hàng. Chính sách của ta vẫn là chính trị là chính, quân sự làm áp lực cho chính trị. Tình hình dân chúng Nhờ chính sách khoan hồng của ta và do hoạt động mạnh mẽ của bộ đội, một số binh thầu, séo phải (Lùng Phình) và dân chúng trước đây hoảng hốt trốn tránh đã lần lượt ra trình diện và trở về làng làm ăn. 71 Thấy ta đánh mạnh, lực lượng địch tản ra, tinh thần địch hoang mang, tàn phỉ mỗi ngày ra hàng một nhiều, dân chúng rất tin tưởng vào Chính phủ, tỏ ra tích cực giúp đỡ và ủng hộ bộ đội (Nậm Lúc) nhiều nơi đã tự động tổ chức các cuộc tuần tiễu diệt phỉ hoặc chống phỉ đến cướp bóc hay tràn qua địa phương (xã Bắc Hà, Nậm Lúc, Phong Niên). T/L BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY TỈNH ỦY VIÊN THƯỜNG TRỰC HỒNG QUANG Lưu tại Kho Lưu trữ Tỉnh ủy. 72 BÁO CÁO CỦA BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ Số 17-BC/LK, ngày 5-6-1951 Về tin tức Phong Thổ Theo Báo cáo số 15 ngày 26-4-1951 về tin địch chiếm Phong Thổ ngày 22-4-1951, ID bộ đội chủ lực đã tiến vào Phong Thổ thì không có địch, địch chỉ ở Sìn Hồ. Nguyên nhân là bọn đặc vụ phản động địa phương thấy chủ lực chuyển quân đi bỏ trống Phong Thổ chúng tung tin làm dân không tin tưởng, một trung đội bộ đội địa phương hoang mang bỏ Phong Thổ, kết quả bọn đặc vụ và phản động địa phương đã lấy của ta ba tấn gạo và phá số kíp đạn ta mới thu được. Hiện nay, ta đã có bộ đội ở Phong Thổ để càn quét thu hồi tàn phỉ. Vậy báo cáo lên Ban Thường vụ Liên khu ủy rõ. T/L BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY TỈNH ỦY VIÊN THƯỜNG TRỰC NGUYỄN HỒNG QUANG Lưu tại Kho Lưu trữ Tỉnh ủy. 73 BÁO CÁO CỦA BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ Số 18-BC/LK, ngày 22-5-1951 Về tình hình công tác từ ngày 20-4 đến 20-5-1951 của Tỉnh ủy Lao Kay I. TÌNH HÌNH TA VÀ ĐỊCH Mặt hữu ngạn sông Nhị (Cha Pa, Bát Xát, Phong Thổ) từ ngày 1-4 đến 15-4 chiến dịch Phong Thổ ta tiêu diệt được phần sinh lực của địch và giải phóng được huyện Cha Pa, xã Mường Hum (Bát Xát), Huyện Phong Thổ (Lao Kay), huyện Sìn Hồ (một huyện Lai Châu). Để khuyếch trương chiến thắng, E148 điều động thêm D910 đang quét phỉ ở Pha Long đi Phong Thổ (Lai Châu). - Ngày 9-4-1951, E148 điều quân đánh Chiềng Chan, trận đánh không kết quả, ta bỏ một huyện Sìn Hồ (Lai Châu) lại rút tất cả về Bình Lư (Phong Thổ). - Ngày 26-4-1951, E148 điều 2D đi đánh Than Uyên, để lại 1D chủ lực và 1C bộ đội địa phương hoạt động giữ Phong Thổ. Sau ba ngày 28 – 30-4-1951 chiến đấu với địch ở Than Uyên, chủ lực đã tiêu diệt được một phần sinh lực địch, giải phóng hoàn toàn Than Uyên. - Ngày 8-5-1951, E148 lại điều 1D chủ lực Phong Thổ đi Than Uyên, Phong Thổ chỉ còn 1C bộ đội địa phương. Khi chủ lực rút, tình hình Phong Thổ trở nên rất gay go. 74 Thấy đại bộ phận chủ lực chuyển quân đánh Chiềng Chan cũng như đánh Than Uyên, phản động địa phương và đặc vụ liên kết chặt chẽ với địch hoạt động. - Ngày 21-4, đặc vụ và phản động địa phương thấy lực lượng ta ở Phong Thổ mong manh, chúng tung tin địch tấn công Phong Thổ, ta hoang mang rút ra ngoài Phong Thổ, chúng liền huy động dân lấy mất 3 tấn gạo và phá số kíp đạn. Ngày 1-5-1951, một toán địch độ 70 tên do Pháp chỉ huy ở phía Pu Sam Cáp đánh thọc vào Bình Lư lấy mất kho đạn và quân trang của ta. Khi D chủ lực đến thì địch lại rút về đóng ở Pu Sam Cáp, kiểm soát đường Đông Pao, Noọng Hẻo. Ở Nậm Xe, một toán thổ phỉ chừng 30 tên hoạt động cướp phá các vùng lân cận lấy ăn. Ở dọc đường Pu Sam Cáp đến Phong Thổ, bọn lính Thái tàn quân đã tập hợp được độ 100 tên do Châu đoàn Kiểm phản động địa phương chỉ huy, chúng bí mật về các làng Thái xung quanh Phong Thổ hoạt động, lấy gạo tiếp tế của dân, phao tin địch sắp đánh lấy lại Phong Thổ làm dân chúng hoang mang không tin ở ta. Ở huyện Sìn Hồ, địch cũng hoạt động (không rõ số lượng địch để uy hiếp Phong Thổ). Ngày 8-5, D chủ lực rút hết đi Than Uyên. Ngày 10-5, địch ra Hoàng Chu Phố, các mặt khác Đông Pao, Pu Sam Cáp địch hoạt động mạnh, phản động địa phương tung tin địch sắp đánh Phong Thổ. Dân chúng hoang mang đã sợ chạy về phía địch, các ủy ban xã hầu như tan không hoạt động nữa, ta chỉ nắm được rẻo Mèo, Mán. Ngày 11-5-1951 có tin địch chiếm thị trấn Phong Thổ. Ngày 12-5-1951, địch vào Bản Mấn (đường Tam Đường đi Phong Thổ). Ngày 13-5-1951, địch ở Đông Pao ra đóng Bình Lư. Tóm lại, địch lại chiếm đóng Phong Thổ. 75 Nhận xét Lực lượng địch ở đây không mạnh nên sự hoạt động của chúng có tính chất giằng co với ta, khi ta yếu chúng tấn công, khi ta mạnh chúng lại rút nên khi nào có chủ lực của ta thì chúng lại chạy, không có thì chúng lại hoạt động vì địa phương quân của tỉnh không đủ lực lượng đánh chúng. Chủ trương hiện nay: - Chủ lực E148 tập trung để chỉnh huấn và chuẩn bị mở chiến dịch mới. - 2C địa phương quân cùng các cán bộ chính trị hoạt động tại Phong Thổ để gây cơ sở, và tiếp tục càn quét đặc vụ, thu tàn binh. - Đối với Phong Thổ triệt để thực hiện chính sách càn quét bọn phản động và tàn quân, truy tầm đặc vụ, lôi kéo nhân dân về mình để củng cố và nắm vững cơ sở chính trị. Mặt tả ngạn sông Nhị (Bắc Hà, Mường Khương) - Ta có 1D của Tuyên Quang và 1C đại đội địa phương phối hợp với giải phóng quân tiếp tục càn quét thổ phỉ, thời gian này nhân dân cùng tham gia càn phỉ rất hăng. Bắc Hà - Ngày 21-4-1951, ba thổ phỉ mang súng ra hàng. - Ngày 24-4-1951, ba tên phản động: Lý Sao San, Lý Do Con, Seo Pao Khoan đem ra hàng 1 Dren, 3 tiểu liên, súng trường. - Ngày 26-4-1951, dân chúng cùng cán bộ vây rừng Nam Chà bắt được 4 thổ phỉ, thu 1 trung liên, súng trường. - Ngày 30-4, quân ta vây làng Hàm Yên bắt được 20 tên, thu 4 trung liên, 10 súng trường. Ở Pha Long, Mường Khương tổ chức một đội càn quét trong 15 ngày từ ngày 25-4 đến 10-5, 9 và 10-5-1951 đã huy động cả nhân dân tham gia quét phỉ (cuộc càn quét này chưa rõ kết quả). Hiện nay, mặt tả ngạn sông Nhị chỉ còn Châu Quáng Lồ, Chánh Pồn, Hoàng A Da và Pồ Lèng, Hảng Sao Lùng và có tin 76 bọn tàn quân Tưởng mới tràn vào Thanh Thủy, Hoàng Su Phì và tên Chef Sàng lại tập hợp được 100 tên hoạt động ở vùng Lao Chải, Cốc Pài. Chủ trương ở mặt này. - Vẫn tiếp tục càn quét, lùng sục và bố trí tiêu diệt phỉ nếu chúng tràn vào. - Tập trung cán bộ mọi ngành đến Mường Khương để củng cố. - Gọi những phần tử phản động hạng A, B đã ra hàng về tỉnh huấn luyện, giáo dục. II. TÌNH HÌNH VỀ CÔNG TÁC A. Phục vụ chiến dịch Bát Xát, Cha Pa, Phong Thổ, Bản Lầu huy động nhân lực, vật lực phục vụ tiền tuyến. Bản Lầu: Vận tải được 1.200kg gạo. Cha Pa: 65 người và 20 ngựa tải gạo đi Bình Lư. Bát Xát: Vận tải được 8.420kg và 3 chuyến tải vũ khí (420 người và 50 ngựa). Phong Thổ: 1 ngàn công ngựa thồ và 3 ngàn công người. B. Làm đường Lao Kay - Yên Bái - Bảo Thắng: Từ ngày 1-4 đến 11-4 thường xuyên có 98 dân công làm đường. Từ ngày 12-4 đến 25-4 có 35 dân công làm đường. Ngoài số dân công còn một số thường xuyên làm gỗ. - Thị xã Lao Kay: Thường xuyên có 50 dân công cho công trường làm đường và làm cầu. C. Xây dựng địa phương quân và dân quân du kích - 3C địa phương quân của tỉnh được tăng cường thêm vũ khí và công tác rèn luyện đã được chú ý. Với tình trạng cán bộ thiếu, 77 năng lực kém, việc cấp dưỡng không được đầy đủ nên công tác xây dựng tiến rất chậm. - Các trung đội tập trung ở huyện nhằm mục đích đào tạo quân số để bổ sung cho các đơn vị của Tỉnh đội vì điều kiện tài chính nên đã giải tán tạm cho họ về tham gia sản xuất. - Các Huyện đội bộ cũng giải tán, tập trung cán bộ thành một đội huấn luyện đi huấn luyện củng cố du kích xã. Công việc quân sự trong huyện do ủy viên quân sự trong kháng chiến huyện đảm đương, cán bộ xã chịu trách nhiệm tổ chức nắm vững du kích xã. D. Phục hồi kinh tế - Kinh tế trọng tâm là tăng gia sản xuất, cuộc tăng gia sản xuất vụ chiêm và trồng rau đem lại nhiều kết quả (trừ vùng thổ phỉ chiếm trước đây thì tăng gia kém sút). Việc buôn bán các chợ đã trở lại hoạt động. Tuy chưa được sầm uất nhưng đủ thông thương có bảo đảm, số hàng ở xuôi lên đều, mức sinh hoạt không đến nỗi quá cao như trước. Giá gạo hiện nay chỉ trên 30.000 đồng một tạ, các thực phẩm khác thì đắt: Thịt 2.500 đồng 1kg. - Tiền tệ: Tại Phong Thổ, Pha Long, Bắc Hà vẫn còn lưu hành tiền Đông Dương, ta không có tiền đổi cho nhân dân. Ngoài những việc trên đây theo chỉ thị, nghị quyết của Đảng, các ngành, các địa phương đã tổ chức kỷ niệm ngày 1-5, 19-5- 1951; vận động lấy chữ ký đòi năm cường quốc ký công ước hòa bình và thi hành. Chính quyền - Đảng đoàn chính quyền triệu tập cuộc họp nội chính thảo luận kế hoạch thi hành nghị quyết của Đại hội tỉnh. - Tập trung số cán bộ các ngành thành lập đội củng cố đi xuống củng cố vùng mới giải phóng Bản Lầu, Mường Khương, Pha Long. - Ở các miền thoát ảnh hưởng thổ phỉ và địch, chính quyền các 78 """