🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Văn Kiện Đảng Bộ Toàn Tập Tập 17 (2000 - 2003)
Ebooks
Nhóm Zalo
VĂN KIỆN ĐẢNG BỘ TOÀN TẬP
17
(2000 - 2003)
Mã số 3K1 (V115) CTQG - 2016
HỘI ĐỒNG XUẤT BẢN
NGUYỄN VĂN VỊNH Chủ tịch Hội đồng HÀ THỊ NGA Phó Chủ tịch Hội đồng ĐẶNG XUÂN PHONG Ủy viên Hội đồng VŨ XUÂN CƯỜNG Ủy viên Hội đồng ĐỖ TRƯỜNG SƠN Ủy viên Hội đồng TĂNG NGỌC PHÒNG Ủy viên Hội đồng HOÀNG THẾ HÙNG Ủy viên Hội đồng NGUYỄN THANH DƯƠNG Ủy viên Hội đồng ĐẶNG PHI VÂN Ủy viên Hội đồng MAI ĐÌNH ĐỊNH Ủy viên Hội đồng LÝ SEO DÌN Ủy viên Hội đồng ĐINH TIẾN QUÂN Ủy viên Hội đồng THÁI MINH ĐƯỜNG Ủy viên Hội đồng NGUYỄN HỮU THỂ Ủy viên Hội đồng GIÀNG SEO VẦN Ủy viên Hội đồng
CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG BẢN THẢO
NGUYỄN VĂN VỊNH Bí thư Tỉnh ủy
HÀ THỊ NGA Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy ĐẶNG XUÂN PHONG Phó Bí thư Tỉnh ủy
5
BAN XÂY DỰNG BẢN THẢO
ĐỖ TRƯỜNG SƠN Trưởng ban
NGUYỄN VĂN PHÚC Phó Trưởng ban Thường trực ĐỖ VĂN LƯỢC Phó Trưởng ban NGUYỄN THỊ NGUYỀN Thư ký
ĐẶNG PHI VÂN Thành viên
LÝ SEO DÌN Thành viên
CAO ĐỨC HẢI Thành viên
LÝ THỊ VINH Thành viên
TRẦN VĂN TỎ Thành viên
NGUYỄN THỊ HẢI ANH Thành viên
NGUYỄN THỊ KIM NGÂN Thành viên
ĐÀO DUY THẮNG Thành viên
ĐỖ VIẾT LỢI Thành viên
ĐOÀN NGỌC TUYẾN Thành viên
NGUYỄN THỊ LOAN Thành viên
HOÀNG THỊ THANH THU Thành viên
NGUYỄN THỊ MINH Thành viên
NGUYỄN THÀNH NAM Thành viên
PHẠM THÀNH LONG Thành viên
NGUYỄN CAO SỸ Thành viên
ĐÀO ANH TUẤN Thành viên
6
CHÚ DẪN CỦA NHÀ XUẤT BẢN
Bộ sách Văn kiện Đảng bộ toàn tập của Đảng bộ tỉnh Lào Cai được thực hiện theo Kế hoạch số 71-KH/TU, ngày 22-12-2013 của Tỉnh ủy Lào Cai về việc xây dựng Văn kiện Đảng bộ tỉnh Lào Cai toàn tập từ khóa I đến khóa XIV. Ban Xây dựng bản thảo Văn kiện Đảng bộ tỉnh Lào Cai toàn tập từ khóa I đến khóa XIV phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật tiến hành sưu tầm, xây dựng và xuất bản bộ sách Văn kiện Đảng bộ toàn tập của Đảng bộ tỉnh Lào Cai. Đây là một bộ tài liệu có ý nghĩa chính trị và giá trị khoa học, thực tiễn đánh dấu sự phát triển của Đảng bộ tỉnh Lào Cai. Bộ sách giúp các nhà nghiên cứu, cán bộ, đảng viên và nhân dân, đặc biệt là các nhà lãnh đạo tiếp cận nguồn thông tin, tư liệu mang tính hệ thống, toàn diện về văn kiện của Đảng bộ tỉnh Lào Cai, phục vụ việc nghiên cứu, tổng kết lý luận và thực tiễn, biên soạn lịch sử Đảng bộ tỉnh Lào Cai, đảng bộ cơ sở, lịch sử địa phương, ban, ngành và các tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn tỉnh; góp phần giáo dục lịch sử địa phương trong các trường phổ thông, các trung tâm bồi dưỡng chính trị, các chi bộ, đảng bộ; thấy rõ sự sáng tạo, nhạy bén, kịp thời và toàn diện trong lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Lào Cai qua các giai đoạn cách mạng, qua đó củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.
Văn kiện Đảng bộ toàn tập, tập 17 (2000-2003) tập hợp các văn kiện do Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lào Cai ban hành từ năm 2000 đến năm 2003 và được sắp xếp theo thời gian ban hành.
Mặc dù đã hết sức cố gắng trong quá trình biên tập nhưng cuốn sách khó tránh khỏi thiếu sót và khiếm khuyết. Chúng tôi mong nhận
7
được ý kiến đóng góp của bạn đọc để hoàn thiện nội dung cuốn sách trong lần xuất bản sau.
Xin giới thiệu cuốn sách với các đồng chí và các bạn.
Tháng 7 năm 2016
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - SỰ THẬT
8
LỜI GIỚI THIỆU
Văn kiện Đảng bộ toàn tập, tập 17 phản ánh sự lãnh đạo của Đảng bộ từ năm 2000 đến năm 2003. Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng bộ, tỉnh Lào Cai tiếp tục đạt được nhiều thành tích quan trọng. Những khó khăn như điều kiện địa lý, khí hậu, biên giới, dân trí, trình độ cán bộ, nền kinh tế và nguồn nhân lực còn thấp kém vẫn là những thách thức đòi hỏi Đảng bộ phải vượt qua. Việc thực hiện hội nhập khu vực mở ra nhiều cơ hội, nhưng cũng đặt ra những thách thức cho quá trình phát triển của địa phương.
Trên cơ sở nhận định tình hình thế giới và trong nước, căn cứ vào điều kiện cụ thể, Đại hội Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ XII xác định mục tiêu trong những năm đầu thế kỷ XXI: Tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết các dân tộc, lao động cần cù và sáng tạo, thực hiện dân chủ, tranh thủ lợi thế, khai thác mọi nguồn lực để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội; tập trung xóa đói, giảm nghèo, cải thiện đời sống vật chất và văn hóa cho nhân dân, thực hiện công bằng xã hội; từng bước thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa; thường xuyên xây dựng, chỉnh đốn Đảng, củng cố hệ thống chính trị; kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với xây dựng an ninh, quốc phòng vững chắc và bảo vệ môi trường sinh thái.
Để đạt được mục tiêu, Đảng bộ đã đề ra chủ trương, quyết sách đúng đắn, kịp thời trên tất cả các lĩnh vực. Văn kiện Đảng toàn tập, tập 17 gồm các báo cáo, nghị quyết, các văn bản liên quan đến Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII; các quyết định, quyết nghị, chỉ thị, thông tri, đặc biệt là các chương trình, đề án phản ánh sự lãnh đạo kịp thời,
9
sáng tạo của Đảng bộ đưa đến những thành công lớn trong công cuộc đổi mới.
Mặc dù Ban Xây dựng bản thảo và Hội đồng Xuất bản đã có nhiều cố gắng trong quá trình biên soạn, song không tránh khỏi thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý của bạn đọc. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 1 năm 2016
HỘI ĐỒNG XUẤT BẢN
10
DIỄN VĂN KHAI MẠC
ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ TỈNH LÀO CAI LẦN THỨ XII
Do đồng chí Tráng A Pao, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Lào Cai trình bày
Thưa Đoàn Chủ tịch Đại hội!
Thưa các vị khách quý!
Thưa các đồng chí đại biểu!
Thực hiện Chỉ thị số 54-CT/TW, ngày 22-5-2000 của Bộ Chính trị về Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng; sau một thời gian chuẩn bị công phu với sự đóng góp tích cực của toàn Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh, hôm nay, Đảng bộ tỉnh Lào Cai long trọng tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ XII. Thay mặt Đoàn Chủ tịch Đại hội, tôi nhiệt liệt chào mừng và gửi tới các đồng chí đại biểu, những Đảng viên ưu tú đại diện cho hơn 16 ngàn đảng viên trong Đảng bộ về dự Đại hội lời chúc sức khỏe, đoàn kết, hạnh phúc và phát triển.
Đại hội chúng ta nhiệt liệt chào mừng các đồng chí đại diện cho Văn phòng Trung ương Đảng, Ban Tổ chức Trung ương, Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Ban Bảo vệ chính trị nội bộ Trung ương, Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Ban Dân vận Trung ương, Ban Nội chính Trung ương, Ban Trung ương 6 (lần 2), Ban Khoa giáo Trung ương đã đến dự, theo dõi và giúp đỡ chúng ta trong quá trình Đại hội.
11
Đại hội chúng ta nhiệt liệt chào mừng Đoàn đại biểu Quân khu II do đồng chí... dẫn đầu, đã mang lại cho Đại hội chúng ta nguồn động viên cổ vũ lớn lao, thể hiện tình quân dân, tình đồng chí, đồng đội trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Đại hội chúng ta nhiệt liệt hoan nghênh các cơ quan thông tin báo chí Trung ương và địa phương đã đến theo dõi, đưa tin và cổ vũ kịp thời cho Đại hội.
Thưa toàn thể các đồng chí!
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ XII kế tục sự nghiệp và truyền thống vẻ vang của Đảng trong 70 năm qua, là tiếp tục cùng toàn Đảng viết nên những trang vàng lịch sử mới của Đảng ta và dân tộc ta nói chung, của toàn Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Lào Cai nói riêng trong thế kỷ XXI. Trong buổi lễ khai mạc trọng thể này, Đại hội chúng ta thành kính tưởng nhớ và biết ơn vô hạn Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và các bậc tiền bối cách mạng đã suốt đời chiến đấu, hy sinh cho lý tưởng của Đảng và lợi ích của dân tộc Việt Nam.
Trong giờ phút trọng thể này, Đại hội chúng ta chân thành bày tỏ lòng thương nhớ và biết ơn sâu sắc đối với đảng viên cộng sản và những thế hệ cha anh đã anh dũng hy sinh vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta chân thành bày tỏ lòng biết ơn to lớn đối với các đồng chí lão thành cách mạng, các Bà mẹ Việt Nam anh hùng, những người đã đóng góp to lớn mồ hôi và cả xương máu của mình cho sự nghiệp giải phóng và xây dựng Lào Cai ngày càng phát triển giàu mạnh.
Đại hội chúng ta cũng chân thành cảm ơn và nghiêm túc thực hiện những ý kiến chỉ đạo của Trung ương, tiếp thu những ý kiến đóng góp của cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc trong quá trình chuẩn bị Đại hội. Những ý kiến quý báu đó sẽ góp phần tích cực vào thành công của Đại hội.
Thưa các đồng chí!
Đại hội lần này, chúng ta có nhiệm vụ:
1. Kiểm điểm quá trình thực hiện nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 1996-2000 để đánh giá những kết quả đã đạt
12
được, những mặt còn tồn tại, yếu kém, tìm ra được nguyên nhân, rút ra bài học, từ đó vận dụng sáng tạo chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước vào điều kiện cụ thể của tỉnh ta để đề ra những mục tiêu, phương hướng nhiệm vụ của toàn Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Lào Cai giai đoạn 2001-2005. Đồng thời tìm ra những hình thức và bước đi thích hợp, giải pháp hữu hiệu để thực hiện thắng lợi các mục tiêu đó, trọng tâm là đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đổi mới và không ngừng nâng cao đời sống cả về vật chất và tinh thần cho nhân dân, nhất là vùng nông thôn, vùng cao, vùng xa, vùng biên giới; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh từ cơ sở tới tỉnh; xây dựng chính quyền các cấp của nhân dân, do dân, vì dân; nâng cao năng lực vận động quần chúng của các đoàn thể quần chúng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, mở rộng dân chủ, tăng cường kỷ cương; giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia.
2. Đại hội chúng ta có nhiệm vụ tham gia ý kiến vào văn kiện trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, sửa đổi Điều lệ Đảng và bầu cử Đoàn đại biểu tiêu biểu cho trí tuệ của Đảng bộ tỉnh Lào Cai đi dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX.
3. Đại hội chúng ta tiến hành kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành khóa XI nhiệm kỳ 1996-2000, kiểm điểm việc thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tự phê bình và phê bình nghiêm túc theo Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) của toàn Đảng bộ trong thời gian qua.
4. Đại hội chúng ta cũng sẽ tiến hành lựa chọn những đảng viên ưu tú nhất có đủ năng lực, phẩm chất, uy tín để bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XII, nhiệm kỳ 2000-2005.
Thưa các đồng chí!
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ XII có ý nghĩa lịch sử quan trọng, đánh dấu một thời kỳ mới, xác định những nền tảng cơ bản tiến vào thế kỷ XXI. Nhiệm vụ đặt ra cho Đại hội của chúng ta là rất lớn. Để Đại hội hoàn thành tốt nội dung, chương trình đã đề ra với
13
chất lượng cao, các đồng chí phải thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy trí tuệ tập thể, nâng cao ý thức trách nhiệm của cá nhân, tăng cường đoàn kết, giữ vững kỷ cương trong thảo luận và quyết định mọi vấn đề của Đại hội, bảo đảm cho Đại hội thành công tốt đẹp.
Với niềm tin tưởng đó, tôi long trọng tuyên bố khai mạc Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ XII.
Chúc sức khỏe các đồng chí lãnh đạo Trung ương, các ban, ngành Trung ương và các đại biểu Đại hội.
Chúc Đại hội thành công tốt đẹp.
Xin cảm ơn!
Lưu tại Kho Lưu trữ Tỉnh ủy.
14
BÁO CÁO CHÍNH TRỊ
CỦA BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ TỈNH KHÓA XI TRÌNH ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ TỈNH LẦN THỨ XII
Ngày 25-12-2000
Đại hội đại biểu lần thứ XII Đảng bộ tỉnh Lào Cai được tiến hành vào thời điểm có nhiều ý nghĩa lịch sử quan trọng: Sau 10 năm tái lập lại tỉnh Lào Cai; 10 năm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 1991 - 2000 và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI. Để vững bước đi trên con đường được Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn, Đại hội lần này chúng ta kiểm điểm và đánh giá một cách đúng đắn những thành tựu, kết quả và chỉ rõ những khuyết điểm, tồn tại trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, rút ra những nguyên nhân và bài học kinh nghiệm của thành công, chỉ rõ nguyên nhân của những yếu kém, đồng thời dự báo tình hình, đề ra phương hướng nhiệm vụ, mục tiêu và các giải pháp thiết thực nhằm nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, động viên và phát huy sức mạnh tổng hợp của nhân dân các dân tộc trong tỉnh, tiếp tục đổi mới, tạo tiền đề đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn xây dựng với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn 2001 - 2005 và những năm tiếp theo nhằm xây dựng tỉnh ta ngày càng giàu đẹp. Với tinh thần đó, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh xin trình Đại hội những vấn đề cơ bản sau đây:
15
Phần thứ nhất
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÁC NHIỆM VỤ, MỤC TIÊU NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ TỈNH LẦN THỨ XI
Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI chúng ta có những thuận lợi cơ bản là: Công cuộc đổi mới của đất nước thu được nhiều thành tựu rất quan trọng, Đảng và Nhà nước, các ngành Trung ương đã có những chính sách và chủ trương toàn diện trong việc lãnh chỉ đạo và đầu tư phát triển cho các tỉnh miền núi nói chung và tỉnh Lào Cai nói riêng; đường lối đổi mới đúng đắn đã tạo cho Lào Cai giải phóng sức sản xuất, tăng cường hợp tác giao lưu phát triển kinh tế - xã hội với các tỉnh trong cả nước và với tỉnh Vân Nam - Trung Quốc; cơ sở vật chất - kỹ thuật được xây dựng trong thời gian qua đã và đang phát huy tác dụng và hiệu quả; những thành quả trong quá trình xây dựng và phát triển đã định hướng rõ nét cho phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Đội ngũ cán bộ nhân dân trong tỉnh với truyền thống đoàn kết xung quanh Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, bước đầu đã khai thác được các thế mạnh về điều kiện tự nhiên - xã hội - tri thức và các lợi thế khác để thực hiện các mục tiêu đề ra và tạo nền tảng cho những năm tiếp theo.
Tuy nhiên, 5 năm qua chúng ta cũng gặp nhiều khó khăn, thách thức, trở ngại. Nền kinh tế vẫn ở trong tình trạng thấp kém, chưa chuyển kịp với nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, vốn đầu tư từ bên ngoài thấp, trình độ dân trí còn thấp, đội ngũ cán bộ còn nhiều bất cập so với yêu cầu của công cuộc đổi mới. Nguồn nhân lực thiếu và yếu. Khủng hoảng tài chính khu vực đã ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển của khu vực và cả nước, từ đó tác động đến sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của tỉnh. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục chống phá bằng nhiều thủ đoạn xảo quyệt cản trở quá trình xây dựng và phát triến. Diễn biến phức tạp của thời tiết khí hậu gây khó khăn cho sản xuất và ảnh hưởng đến đời sống nhân dân, nhất là vùng cao.
16
I. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN VÀ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC GIAI ĐOẠN 1996 - 2000
Trong 5 năm qua, thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng bộ, tỉnh ta tiếp tục đạt được nhiều thành tích quan trọng trên nhiều mặt: Kinh tế tiếp tục phát triển; văn hóa có những tiến bộ mới; công tác xóa đói, giảm nghèo được đẩy mạnh và đạt được nhiều kết quả tốt, đời sống nhân dân nói chung được cải thiện; ổn định về chính trị, an ninh quốc phòng được giữ vững, hệ thống chính trị được xây dựng và củng cố ngày càng trong sạch, vững mạnh, dân chủ được phát huy tốt hơn; quan hệ đối ngoại tiếp tục được mở rộng, bảo đảm hợp tác bình đẳng và cùng có lợi; đã có 12 mục tiêu đạt và vượt, chỉ có 3 mục tiêu chưa đạt so với Nghị quyết Đại hội Đảng bộ đề ra, thể hiện ở một số kết quả sau đây:
1. Kinh tế tiếp tục tăng trưởng, một số ngành, lĩnh vực có bước phát triển khá
Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) tăng bình quân hằng năm 5,3%, riêng năm 2000 mức tăng đạt 7,11%, GDP bình quân đầu người tăng từ 1,667 triệu đồng năm 1995 lên 2,258 triệu đồng năm 2000; nông nghiệp và nông thôn được tập trung đầu tư và có nhiều chuyển biến tích cực. Tỉnh đã xây dựng chiến lược phát triển, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội gắn với an ninh quốc phòng giai đoạn 1996 - 2010. Nhiều quy hoạch chi tiết của ngành, lĩnh vực đã được phê duyệt và triển khai như quy hoạch trung tâm cụm xã, Chương trình 135, các xã biên giới, khu kinh tế cửa khẩu, giao thông, thủy lợi, vùng nguyên liệu chè, cây ăn quả, tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Tập trung đầu tư cải tạo nâng cấp và xây dựng mới trên 700 công trình thủy lợi đẩy mạnh khai hoang, tích cực áp dụng kỹ thuật thâm canh, sử dụng giống mới, vật tư nông nghiệp, thực hiện chính sách trợ cước, trợ giá, trợ lãi suất, khuyến nông - lâm và nhiều biện pháp khuyến khích khác đã làm cho giá trị sản xuất ngành nông
17
nghiệp tăng bình quân 8,11%/năm, sản xuất đa dạng theo hướng sản xuất hàng hóa và theo mô hình trang trại, cả trong trồng trọt và chăn nuôi. Tổng sản lượng lương thực quy thóc năm 2000 đạt 175 ngàn tấn, vượt chỉ tiêu Đại hội 10,9%. Đàn gia súc, gia cầm tăng bình quân hằng năm từ 2% đến 12%. Cây công nghiệp, cây ăn quả, cây kinh tế, cây dược liệu tăng mạnh cả diện tích và sản lượng, bước đầu hình thành các vùng nguyên liệu tập trung cho sản xuất hàng hóa và công nghiệp chế biến. Trồng mới, khoanh nuôi tái sinh, bảo vệ rùng, giao đất, giao rừng, trồng cây lâm nghiệp xã hội được thực hiện; đã giao trên 260 ngàn hécta đất và toàn tỉnh đã có 260.590 ha rừng tập trung và 24.000 ha cây phân tán, nâng tỷ lệ tán che phủ từ 23% năm 1995 1ên 32,4% năm 2000, xây dựng 69 dự án định canh định cư phục vụ 38.900 hộ, 234.000 khẩu đạt 65% số hộ trong diện vận động. Đã tiến hành sắp xếp lại dân cư cho 2.548 hộ, 13.447 khẩu trong đó có 650 hộ ra biên giới, cơ bản xóa bỏ cây thuốc phiện trên địa bàn toàn tỉnh, hình thành 2.813 trang trại, số hộ sản xuất giỏi tăng nhanh đến nay đã có trên 14 ngàn hộ, chiếm 14,7% số hộ trong nông thôn, làm cho bộ mặt của nhiều vùng nông thôn được thay đổi.
Tổng giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn tăng bình quân 9,37%/năm và đạt 307 tỷ đồng năm 2001 (theo giá cố định năm 1994) đạt mục tiêu Đại hội đề ra. Tổng nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản trên lãnh thổ giai đoạn 1996 - 2000 từ vốn ngân sách nhà nước tăng 13 lần, tín dụng tăng 2,8 lần, huy động trong dân và các nguồn khác tăng 17% so với thời kỳ 1991-1995 và đạt 12.644 tỷ đồng, trong đó tập trung đầu tư cho khu kinh tế cửa khẩu, khu du lịch Sa Pa; hệ thống thủy lợi, nước sạch và kết cấu hạ tầng. Nhiều ngành có tốc độ tăng trưởng nhanh như bưu chính viễn thông, đưa thông tin liên lạc điện thoại về cả trung tâm 10 huyện, thị và 100 xã, phường; phủ sóng điện thoại di động thị xã Lào Cai và thị trấn Sa Pa, nâng tổng số máy điện thoại toàn tỉnh lên trên 10.000 máy năm 2000, đã có 52 điểm bưu điện - văn hóa xã; xây dựng 35 công trình lưới điện đến trung tâm 11 huyện, thị và 67 xã, phường, thị trấn vượt mục tiêu Đại hội 2,7%; xây
18
dựng cầu đường phát triển mạnh, nhất là phong trào làm đường giao thông nông thôn. Đến nay toàn tỉnh chỉ còn 17 xã chưa có đường ôtô đến trung tâm (trong đó có 6 xã chưa có đường ôtô tới địa giới); công nghiệp quốc doanh đạt mức tăng trung bình quân hằng năm 9,85% chiếm tỷ trọng 86,8% trong giá trị công nghiệp trên địa bàn, công nghiệp khai khoáng tăng khá, giữ tỷ trọng 67,6% trong sản xuất công nghiệp của tỉnh. Một số ngành nghề tiểu thủ công nghiệp được duy trì và phát triển như sản xuất thổ cẩm, sơ chế nông - lâm sản...
Tổng giá trị ngành thương mại, du lịch và dịch vụ có mức tăng bình quân 9,19%/năm, tổng mức bán lẻ xã hội tăng 13,1%/năm. Thương nghiệp quốc doanh được củng cố và bảo đảm cung ứng mặt hàng chính sách và vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp cho nhân dân vùng cao. Thương nghiệp ngoài quốc doanh phát triển mạnh. Hệ thống chợ thị xã, thị trấn và nông thôn vùng cao đã được tăng cường đầu tư xây dựng, hiện đã xây dựng được 59 chợ theo hướng kết hợp kinh doanh với giao lưu văn hóa, giữ gìn bản sắc dân tộc. Kinh tế du lịch có bước phát triển khá cả về xây dựng quy hoạch, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, xúc tiến và quảng bá; đã quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ và nâng cao chất lượng dịch vụ, tăng cường quản lý nhà nước về du lịch. Lượng du khách tăng bình quân hằng năm 57%, doanh thu tăng 73% và nộp ngân sách tăng 18%.
Triển khai nghị quyết về kinh tế đối ngoại, tỉnh đã xây dựng nhiều dự án và những chính sách thu hút để gọi đầu tư vì vậy đã có 25 tổ chức quốc tế và phi chính phủ đầu tư cho 155 dự án từ nguồn ODA, NGO, FDI vào các công trình điện, đường, trường học, nước sạch, bệnh viện và giúp đỡ đồng bào ở các xã khó khăn, xóa đói, giảm nghèo với số vốn 445,685 tỷ đồng. Kim ngạch xuất nhập khẩu trên địa bàn năm 2000 đạt 14,300 triệu USD, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu qua các của khẩu của tỉnh đạt 100 triệu USD vượt mục tiêu Đại hội đề ra. Thực hiện có hiệu quả Quyết định số 10-QĐ/TTg, ngày 26-5-1998 của Thủ tướng Chính phủ về áp dụng một số chính sách ưu đãi khu kinh tế cửa khẩu, tăng nhanh kim ngạch xuất nhập khẩu, đầu tư xây
19
dựng cơ sở hạ tầng, tăng thu ngân sách, giữ vững an ninh biên giới và làm cho quan hệ đối ngoại ngày càng phát triển.
Nhờ triển khai có hiệu quả Luật ngân sách và các luật thuế mới nên thu ngân sách trên địa bàn tăng bình quân hằng năm 18%, tỷ lệ huy động từ GDP vào ngân sách đạt 12,3% và đạt 210 tỷ đồng năm 2000. Các hoạt động thu, chi ngân sách kịp thời, đúng pháp luật, thực hành tiết kiệm. Các biện pháp nhằm tạo nguồn thu, nuôi dưỡng nguồn thu được thực hiện tốt vừa tăng thu ngân sách vừa góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng khai thác lợi thế. Đến năm 2000, tỷ trọng các ngành trong GDP của tỉnh thể hiện: Ngành nông, lâm nghiệp giảm từ 52,59% năm 1995 xuống 49,02%, thương mại - du lịch - dịch vụ tăng từ 26,04% lên 32,94%, công nghiệp - xây dựng cơ bản giảm từ 21,37% xuống 18,04%. Có các giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu như xây dựng dự án tổng quan định canh định cư; dự án quy hoạch sản xuất, bố trí lại dân cư 26 xã biên giới; dự án trung tâm cụm xã; các biện pháp, chính sách huy động vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng; chính sách trợ cước, trợ giá, khuyến nông - lâm, trợ lãi xuất giảm thuế và phí; chính sách huy động nguồn nhân lực, đầu tư ứng dụng khoa học - kỹ thuật, cho nên cơ cấu trong ngành nông - lâm nghiệp đã có sự chuyển dịch tăng đáng kể theo hướng sản xuất hàng hóa, cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi và nghề rừng bước đầu phát triển; diện tích trồng lúa nương, trồng sắn giảm mạnh. Trong công nghiệp đã có sản phẩm thay thế một phần nhập từ ngoài như xi măng, bia và có sản phẩm xuất khẩu như quặng sắt, tinh quặng đồng, apatít, giấy đế, đũa... Ngành du lịch, dịch vụ đã được tập trung đầu tư và có bước tăng trưởng khá.
Nền kinh tế đa dạng, nhiều thành phần được phát triển đúng hướng. Kinh tế quốc doanh từng bước thực hiện quá trình đổi mới, sắp xếp lại sản xuất, kinh doanh, tăng cường quản lý nên hiệu quả hoạt động đã được nâng lên một bước. Kinh tế hợp tác xã thực hiện chuyển đổi theo luật bước đầu sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, nhất là kinh tế hộ, kinh tế trang trại ở nông thôn.
20
2. Văn hóa, xã hội có những tiến bộ mới
Sự nghiệp giáo dục đào tạo có tiến bộ nhanh và đạt được nhiều thành tích quan trọng. Tỉnh đã quan tâm lãnh đạo chỉ đạo sát sao, tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, đào tạo đội ngũ giáo viên và có chính sách ưu đãi huy động cả người dạy và người học, nhận thức của nhân dân về nhu cầu học đã được nâng lên, tỷ lệ huy động trẻ em trong độ tuổi đến lớp năm 2000 là 90%, vượt mục tiêu Đại hội đề ra 20%. Tỉnh ta thực hiện đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học, chống mù chữ vào tháng 5-2000, vượt mục tiêu Đại hội 3 năm; xã hội hóa giáo dục bước đầu được thực hiện. Hoạt động khoa học - công nghệ có tiến bộ, đã hướng vào phục vụ sản xuất phát triển, nhất là trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp. Công nghệ thông tin đang được triển khai ứng dụng ở một số lĩnh vực. Việc bảo vệ môi trường sinh thái được quan tâm hơn trước. Các hoạt động văn hóa, phát thanh truyền hình, báo chí, xuất bản đã có sự đổi mới về nội dung, đa dạng về hình thức và phong phú về cách tuyên truyền, cung cấp một lượng thông tin nhằm nâng kiến thức và mức hưởng thụ của nhân dân lên một bước. Hiện có 108 xã, phường, thị trấn được phủ sóng truyền hình, 37,2% hộ dân có ti vi, có 98 xã, phường, thị trấn được phủ sóng phát thanh, 37% hộ dân có radio, nhiều huyện, thị xã được xem báo trong ngày. Cuộc vận động xây dựng nếp sống văn hóa được phát động rộng rãi và đông đảo các tầng lớp nhân dân ủng hộ. Công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu, rèn luyện thể chất, khám chữa bệnh được nâng lên; tỷ lệ cán bộ y tế trên 1 vạn dân năm 2000 là 32,2 người, trong đó có 4,35 bác sĩ; tất cả các phường, xã, thị trấn đều có cơ sở y tế xây dựng kiên cố, không để dịch bệnh lớn xảy ra. Công tác tiêm chủng mở rộng thực hiện tốt, đạt tỷ lệ bình quân hằng năm từ 93-95%; trẻ em suy dinh dưỡng giảm xuống ở mức 45%. Đẩy mạnh công tác truyền thông dân số, tăng cường biện pháp và nâng cao chất lượng dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc và bảo vệ bà mẹ trẻ em nên đã hạ tỷ lệ tăng dân số tự nhiên từ 2,51% năm 1995 xuống còn mức 2,1% năm 2000, vượt mục tiêu Đại hội. Đời sống của phần lớn nhân dân được cải thiện, thu nhập
21
bình quân và sức mua của người dân tăng lên. Số hộ giàu, sản xuất giỏi tăng, số hộ đói nghèo giảm bình quân hằng năm 2,55%, vượt chỉ tiêu Đại hội đề ra là 0,55%, hiện còn 21,12% (trong đó đói 6,38%). Tạo việc làm mới cho 23.000 người, đào tạo nghề, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho hàng ngàn người, góp phân nâng cao trình độ cho người lao động. Phong trào đền ơn đáp nghĩa, cứu trợ nhân đạo, chăm sóc các đối tượng chính sách thực hiện tốt hơn.
3. Ổn định chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia được giữ vững, quan hệ đối ngoại được mở rộng
Cùng với việc xây dựng phát triển kinh tế - xã hội, các lực lượng vũ trang nhân dân và an ninh nhân dân đã làm vai trò nòng cốt trong việc bảo vệ độc lập, chủ quyền biên giới quốc gia, thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, đặc biệt là ngoại giao nhân dân với tỉnh Vân Nam - Trung Quốc; xây dựng đường biên giới hoà bình, hữu nghị và cùng phát triển phục vụ tốt cho việc ký hiệp ước biên giới trên bộ. Tập trung vào công tác bảo vệ nội bộ, tích cực phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn hoạt động cài cắm móc nối, thu thập tài liệu tin tức, hoạt động tôn giáo trái phép, chống âm mưu “diễn biến hòa bình” của địch. Đã chú trọng xây dựng sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, xây dựng các phương án, tiến hành huấn luyện, luyện tập, diễn tập, sẵn sàng đối phó khi có tình huống xảy ra. Bảo đảm tất cả các xã, phường đều có thanh niên nhập ngũ.
Công tác tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện pháp luật và phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc có nhiều tiến bộ, các hoạt động phát hiện tội phạm, điều tra truy tố, xét xử thi hành án được thực hiện đúng pháp luật đúng người đúng tội góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và bảo vệ lợi ích của Nhà nước và của công dân. Quản lý xuất nhập cảnh, xuất nhập khẩu, chống buôn lậu và gian lận thương mại, được thực hiện thường xuyên, liên tục và nghiêm túc. Công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo công dân được quan tâm ở tất cả các ngành, không để xảy ra
22
“điểm nóng”, hạn chế tới mức thấp việc khiếu kiện đông người và vượt cấp. Các ngành Khối Nội chính được thường xuyên củng cố cả về tổ chức và xây dựng đội ngũ cán bộ, thực thi công việc công minh chính trực là chỗ dựa tin cậy của Đảng và nhân dân.
4. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được thực hiện thường xuyên từ tỉnh đến cơ sở
Năm năm qua, tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” tấn công mạnh vào tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là đồng bào các dân tộc vùng cao thông qua tuyên truyền đạo trái phép, chia rẽ dân tộc. Đảng bộ đã tập trung làm tốt công tác tư tưởng làm cho cán bộ và nhân dân không mắc phải âm mưu của địch. Trong công tác tư tưởng chú trọng việc quán triệt nội dung và tố chức triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng, phát động rộng rãi phong trào thi đua yêu nước. Thông qua việc thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) về xây dựng và chỉnh đốn Đảng đã làm cho toàn Đảng bộ có điều kiện thấy rõ những ưu điểm để phát huy, đề ra biện pháp và tiến hành khắc phục những khuyết điểm, tồn tại, nhân dân quan tâm hơn đến công tác xây dựng Đảng, củng cố niềm tin vào Đảng, hiểu rõ mục tiêu lý tưởng và các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị được quan tâm; đã mở được 845 lớp cho 41.600 lượt người học ở tỉnh và hàng ngàn người học ở các trường Trung ương. Việc tuyên truyền qua phương tiện thông tin đại chúng và tuyên truyền miệng được thực hiện thường xuyên. Với nhiều cách làm phong phú của các cấp, các ngành nên đã nắm được diễn biến tư tưởng trong nội bộ Đảng và trong nhân dân.
Đảng bộ đã quan tâm và làm tốt công tác xây dựng Đảng về tổ chức, đội ngũ đảng viên. Tiến hành một bước sắp xếp lại bộ máy theo hướng tinh gọn. Quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, cơ chế phối hợp, đổi mới phương thức lãnh đạo theo hướng cụ thể, trực tiếp, gắn lý
23
luận với thực tiễn, đồng thời ban hành nghị quyết về củng cố nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Tiến hành đưa đảng viên về tham gia sinh hoạt tại nơi cư trú để nhân dân có điều kiện tham gia xây dựng Đảng, đánh giá đội ngũ đảng viên và tăng cường mối liên hệ giữa dân với Đảng. Triển khai quy hoạch đội ngũ cán bộ Đảng từ tỉnh đến cơ sở, quan tâm đào tạo bồi dưỡng, đánh giá, bổ nhiệm cán bộ theo đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện các chính sách khuyến khích cán bộ về làm việc ở các xã vùng cao khó khăn. Số tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh 2000 tăng 20% so với năm 1996. Công tác phát triển Đảng được quan tâm cả về chất lượng, số lượng, tuổi trẻ, nữ, dân tộc, giai cấp công nhân. Trong 5 năm kết nạp được 4.495 đảng viên mới, đưa tổng số đảng viên toàn tỉnh lên 16.487 người, giảm số thôn, bản chưa có đảng viên từ 413 thôn, bản năm 1995 xuống còn 202 thôn, bản. Đảng viên thường xuyên tự phê bình và phê bình, phân xếp loại hằng năm, số đảng viên loại 1 đạt trên 84%, số đảng viên yếu kém giảm xuống còn 1%.
Thực hiện vai trò lãnh đạo, các cấp ủy Đảng đặc biệt quan tâm đến công tác kiểm tra, đã tiến hành kiểm tra 5.402 đảng viên và 736 lượt tổ chức đảng, trong đó Tỉnh ủy tiến hành kiểm tra toàn diện 3 Đảng bộ huyện, Đảng bộ Công ty Apatít Việt Nam và Đảng bộ Công an tỉnh theo Điều lệ Đảng. Toàn tỉnh tiến hành kiểm tra 673 đảng viên và 96 tổ chức đảng có dấu hiệu vi phạm, giải quyết 518 đơn thư tố cáo đảng viên. Sau kiểm tra đều có kết luận rõ ràng, xử lý công minh, yêu cầu khắc phục sửa chữa và tiến hành kiểm tra việc sửa chữa khuyết điểm.
Căn cứ Nghị quyết Đại hội đại biểu tỉnh lần thứ XI và yêu cầu của thực tiễn, Tỉnh ủy đã đổi mới quy trình ra chỉ thị, nghị quyết và lãnh đạo điều hành; đã ban hành 5 nghị quyết chuyên đề, 5 chương trình hành động và nhiều chỉ thị, kế hoạch; tiến hành triển khai kịp thời và thường xuyên kiểm tra đôn đốc thực hiện, tổ chức sơ tổng kết rút kinh nghiệm và đã thu được kết quả tốt trong một số lĩnh vực phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học, chống mù chữ, đưa đảng viên về sinh hoạt ở nơi cư trú và củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh quốc gia.
24
5. Xây dựng chính quyền của dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VII) chính quyền các cấp được củng cố một bước, trong đó trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính, nâng cao trách nhiệm của đội ngũ công chức, bảo đảm cơ bản giải quyết công việc nhanh, trực tiếp, đúng pháp luật, không phiền hà, sách nhiễu, quan liêu, chú trọng đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ, công chức, nhất là cán bộ xã, phường, thị trấn. Trong 5 năm, có trên 17.000 lượt người đi học bồi dưỡng quản lý nhà nước và các lĩnh vực chuyên ngành, thực hiện tốt chế độ tuyển dụng công chức, khuyến khích cán bộ đến công tác ở vùng khó khăn. Tiến hành tổng kết 5 năm hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp nhiệm kỳ 1994-1999 để rút ra những bài học kinh nghiệm thiết thực cho việc lựa chọn đại biểu và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp nhiệm kỳ 1999-2004. Cuộc bầu cử thành công, đúng luật pháp đã kiện toàn Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp, nhất là ở cấp tỉnh, các ban đều có hoạt động chuyên trách nên hoạt động giám sát được tăng cường và cụ thể, tập trung vào những vấn đề quan trọng hoặc nổi cộm trên địa bàn. Hội đồng nhân dân các cấp đã ban hành nhiều nghị quyết, kế hoạch phù hợp, được nhân dân đồng tình ủng hộ mang lại hiệu quả, nhất là trong lĩnh vực bảo vệ phát triển rừng, làm đường giao thông, thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, phát triển giáo dục, phòng, chống tệ nạn xã hội, xây dựng nền an ninh quốc phòng.
Công tác tuyên truyền pháp luật, ban hành văn bản pháp quy và tổ chức thực thi được nâng lên một bước, đặc biệt là việc triển khai và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã tạo điều kiện cho nhân dân trực tiếp tham gia quyết định những vấn đề lớn ở cơ sở, giám sát hoạt động của chính quyền và cán bộ, góp phần xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh. Số chính quyền cơ sở trong sạch, vững mạnh và khá tăng từ 137 năm 1995 lên 168 đơn vị năm 2000, số chính quyền yếu kém giảm từ 43 năm 1995 xuống còn 12 đơn vị năm 2000.
25
Các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân các cấp được củng cố, bước đầu quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quy chế làm việc, tăng cường công tác tiếp dân và giải quyết công việc ở cơ sở.
6. Công tác dân vận có nhiều tiến bộ
Tỉnh ủy đã tiến hành tổng kết Nghị quyết 8B của Ban Chấp hành Trung ương (khóa VI), củng cố hệ thống Ban Dân vận của Đảng. Thông qua Đại hội củng cố bộ máy của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng, lãnh đạo đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, hình thức vận động quần chúng theo hướng gần dân, sát cơ sở, giúp đỡ thiết thực đồng bào phát triển sản xuất, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao dân trí, xây dựng nếp sống văn hóa mới, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc. Các phong trào như: Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư; nông dân sản xuất giỏi; phụ nữ tiết kiệm, giúp nhau làm kinh tế, nuôi con khỏe dạy con ngoan; thanh niên lập nghiệp, tuổi trẻ giữ nước, phát huy truyền thống anh bộ đội Cụ Hồ; phong trào công nhân phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật và lao động giỏi; xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa, hoạt động từ thiện... do các tổ chức đoàn thể phát động đã có tác dụng nâng cao nhận thức, tập hợp vận động hội viên, đoàn viên tham gia vào nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, củng cố tổ chức Hội, củng cố mối liên hệ mật thiết giữa Đảng, chính quyền với nhân dân. Chính vì vậy mà số Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể ở cơ sở đạt tiêu chuẩn tiên tiến, khá toàn diện ngày càng tăng góp phần quan trọng vào phát huy truyền thống đoàn kết các dân tộc và quá trình phát triển của tỉnh trong thời gian qua.
Bên cạnh những thành tựu, việc thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI còn những yếu kém, khuyết điểm: a) Nền kinh tế có phát triển nhưng còn chậm và chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Tổng mức đầu tư đạt thấp, chưa có nhiều biện pháp huy động vốn đầu tư nhất là vốn trong dân, hiệu quả sử dụng vốn chưa cao, cơ cấu đầu tư chưa phù hợp giữa
26
các ngành cũng như nội bộ từng ngành kinh tế làm cho nhịp độ tăng trưởng GDP chậm và không đạt mục tiêu Đại hội đề ra; GDP bình quân đầu người đạt thấp; chưa thực hiện được mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế do Đại hội đề ra. Năng suất lao động thấp, chất lượng nhiều sản phẩm chưa tốt và giá thành còn cao. Sản xuất nông nghiệp ở nhiều vùng vẫn chủ yếu là tự túc, tự cấp, một số sản phẩm đôi khi tiêu thụ khó khăn. Thực hiện các dự án trồng rừng, khoanh nuôi, bảo vệ rừng và công tác giao đất, giao rừng chậm nên không thực hiện được mục tiêu nâng tỷ lệ tán che phủ lên 35%. Việc chủ động phát hiện và dập tắt dịch trong chăn nuôi chưa kịp thời. Chất lượng một số công trình xây dựng thấp và còn thất thoát vốn, hoạt động đổi mới doanh nghiệp có làm nhưng chưa mạnh, mặt khác vốn kinh doanh thấp, công nghệ lạc hậu. Thu ngân sách chưa đạt mục tiêu do Đại hội đề ra. Công tác xóa đói, giảm nghèo, nhất là ở vùng cao kết quả nhiều nơi chưa vững chắc. Vẫn còn hàng vạn người chưa được định canh định cư, cơ sở hạ tầng cả kinh tế - xã hội ở nhiều xã còn thấp kém và thiếu thốn.
b) Phổ cập giáo dục tiểu học - chống mù chữ chất lượng chưa cao, chưa vững chắc, đội ngũ giáo viên thiếu và yếu; nhận thức của người dân ở vùng cao về nhu cầu học còn hạn chế; kinh phí cho sự nghiệp khoa học thấp, ứng dụng khoa học - kỹ thuật và chuyển giao công nghệ còn chậm. Các hoạt động văn hóa ở cơ sở chưa sâu rộng và mức hưởng thụ chưa cao; thực hiện xã hội hóa các hoạt động văn hóa thể thao còn hạn chế; thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, tang, lễ hội chưa được rộng khắp. Thực hiện Luật hôn nhân gia đình và kế hoạch hóa gia đình ở vùng cao chưa tốt. Y đức và trình độ chuyên môn của cán bộ y tế nhiều nơi chưa đáp ứng mong mỏi của nhân dân. Tỷ lệ người nghèo, người thiếu việc làm và chưa được đào tạo còn cao. Việc thực hiện một số chính sách xã hội như trợ cước, trợ giá ở một số nơi thực hiện chưa tốt; nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết có hiệu quả như nghiện hút ma túy, bệnh AIDS, di dịch dân cư tự do, một số hủ tục lạc hậu...
27
c) Xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân có nơi chưa tốt, đầu tư xây dựng hệ thống khu vực phòng thủ còn thấp, công tác tuần tra, nắm tình hình đôi khi chưa chắc, chất lượng hoạt động của dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên còn hạn chế. Tình trạng buôn lậu, vượt biên vẫn xảy ra. Các vụ án nghiêm trọng do nguyên nhân xã hội còn nhiều. Phối hợp giữa lực lượng với các đoàn thể, chính quyền các cấp trong việc giải quyết lợi dụng tôn giáo tuyên truyền đạo trái phép chưa có hiệu quả rõ.
d) Triển khai chỉ thị, nghị quyết và tổ chức thực hiện, điều hành ở một số nơi chưa nghiêm túc, chưa kịp thời và thiếu vận dụng sáng tạo. Công tác tư tưởng còn hạn chế về phương pháp và hình thức tuyên truyền. Công tác củng cố tổ chức cơ sở đảng một số nơi chưa tốt, chưa chủ động phát huy vai trò hạt nhân lãnh đạo, việc phân xếp loại đánh giá chưa chính xác một số tổ chức đảng xếp loại trong sạch, vững mạnh nhưng khi kiểm tra lại bộc lộ nhiều khuyết điểm yếu kém. Công tác quy hoạch cán bộ chưa khoa học và tổ chức thực hiện chưa tốt; đội ngũ cán bộ thiếu, yếu và hẫng hụt ở một số ngành, lĩnh vực và địa phương; một số cán bộ sa sút về phẩm chất, vi phạm khuyết điểm. Có nơi nguyên tắc tập trung dân chủ thực hiện chưa tốt, chưa phân công nhiệm vụ đảng viên rõ ràng, có nơi dẫn đến mất đoàn kết. Phương thức hoạt động và năng lực quản lý điều hành của một bộ phận cán bộ, công chức trong chính quyền còn hạn chế; còn thiếu cán bộ trên nhiều lĩnh vực nhất là quản lý kinh tế, thị trường, khoa học - kỹ thuật trình độ cao trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chính quyền cơ sở một số nơi hạn chế về trình độ, năng lực, quan liêu, chưa chủ động được công việc theo thẩm quyền, không giải quyết triệt để việc khiếu nại tố cáo của công dân ở cơ sở nên để xảy ra một số vụ khiếu kiện kéo dài, đông người, nhân dân bất bình. Công tác vận động quần chúng một số cơ sở chưa tốt nhất là ở vùng cao, vùng khó khăn, vùng bị lợi dụng tôn giáo tuyên truyền đạo trái phép. Việc hành chính hóa các hoạt động đoàn thể vẫn chưa được khắc phục.
28
II. NHỮNG NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM CỦA THÀNH CÔNG, NGUYÊN NHÂN CƠ BẢN CỦA TỒN TẠI, YẾU KÉM
1. Những nguyên nhân và kinh nghiệm của thành công
Một là, nhờ quán triệt chỉ thị, nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tổ chức vận dụng sát thực tế. Nêu cao vai trò lãnh đạo của Đảng bộ, thường xuyên chỉnh đốn và xây dựng Đảng, làm cho Đảng bộ ngày càng trong sạch, vững mạnh cả về tổ chứ và bản lĩnh chính trị, kiên định lý tưởng, kiên định mục tiêu cách mạng, nâng cao năng lực tổ chức thực hiện nghị quyết, trình độ quản lý chỉ đạo điều hành thực tiễn, thực hiện phương châm gần dân, sát cơ sở, tăng cường kiểm tra, xử lý kịp thời, nghiêm minh.
Hai là, đổi mới phải dựa vào dân, giữ gìn và phát huy khối đại đoàn kết, sức mạnh tổng hợp và sự sáng tạo của nhân dân các dân tộc, thực hiện phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, phát huy dân chủ để dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh, gắn dân chủ với kỷ cương, chấp hành pháp luật.
Ba là, khai thác có hiệu quả bước đầu các lợi thế so sánh và các nguồn lực, chú trọng phát huy nội lực, phải lựa chọn những nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm, trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội - an ninh - quốc phòng - xây dựng Đảng để có chương trình chỉ đạo tập trung, làm cho sản xuất phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao, xã hội sẽ ổn định.
Bốn là, mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các tổ chức trong và ngoài nước để thu hút vốn đầu tư, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các cơ quan Trung ương, tỉnh bạn và các tổ chức quốc tế. Gắn xây dựng với bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ môi trường sinh thái.
2. Những nguyên nhân cơ bản của tồn tại, yếu kém
a) Nguyên nhân khách quan
- Nền kinh tế của tỉnh ta có xuất phát điểm thấp, phát triển chưa
29
vững chắc và chưa cân đối, lại bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế khu vực.
- Diễn biến thời tiết phức tạp đã ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của nhân dân.
b) Nguyên nhân chủ quan
Việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng ở một số nơi chưa tốt, kỷ cương không nghiêm; nghị quyết, chỉ thị cấp trên đề ra nhưng cấp dưới làm không đến nơi đến chốn, làm chậm, không nhạy bén, chưa mạnh dạn phát huy lợi thế để thực hiện; vẫn còn tư tưởng ỷ lại trông chờ cấp trên và Nhà nước. Một bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên thoái hóa biến chất, lối sống quan liêu, thiếu ý thức trách nhiệm trước nhân dân các dân tộc.
Công tác tổng kết thực tiễn, quy hoạch, đào tạo cán bộ còn nhiều yếu kém, bất cập. Đội ngũ cán bộ còn thiếu và yếu, nhất là những chuyên gia có trình độ cao, trong các lĩnh vực xây dựng chiến lược, quản lý nhà nước, quản lý sản xuất kinh doanh, khoa học - kỹ thuật, xã hội và nhân văn. Việc quản lý, giáo dục, kiểm tra cán bộ, đảng viên nhiều nơi thiếu chặt chẽ, kỷ cương kỷ luật còn lỏng lẻo, việc kiện toàn tổ chức còn chậm.
Sự điều hành của chính quyền các cấp nhất là cơ sở có việc, có nơi yếu, chưa chủ động được công tác, hạn chế đến kết quả thực hiện nhiệm vụ. Việc cung cấp thông tin chưa kịp thời, chính xác việc ứng dụng công nghệ thông tin yếu ở nhiều lĩnh vực.
Chưa đánh giá đúng và lường trước được những tác động thách thức của tình hình nên đặt ra một số mục tiêu chưa sát như tốc độ tăng trưởng, thu ngân sách.
Phần thứ hai
MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ CHỦ YẾU
TRONG GIAI ĐOẠN 2001-2005
Giai đoạn 2001-2005 là giai đoạn mở đầu của một kỷ nguyên mới. Tình hình quốc tế và khu vực vẫn còn nhiều biến động khó
30
lường trước. Các thế lực thù địch vẫn chưa từ bỏ âm mưu chống phá cách mạng nước ta. Đất nước đã qua 15 năm đổi mới đã có nhiều thành tựu rất quan trọng, song 4 nguy cơ mà Đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII nêu lên cho đến nay vẫn l những thách thức lớn đối với nước ta. Những khó khăn như điều kiện địa lý, khí hậu, biên giới, dân trí, trình độ cán bộ, nền kinh tế và nguồn nhân lực còn thấp kém... vẫn là những thách thức đòi hỏi Đảng bộ phải vượt qua. Việc thực hiện hội nhập khu vực trong những năm tới sẽ mở ra nhiều cơ hội, nhưng cũng đặt ra những thách thức cho quá trình phát triển.
Nhưng với truyền thống đoàn kết và ý chí tự lực, tự cường, từ những kết quả đã đạt được trong thời gian qua, cộng với sự nỗ lực của toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân, Đại hội xác định mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cơ bản sau đây:
I. MỤC TIÊU TỔNG QUÁT
Tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết các dân tộc, lao động cần cù và sáng tạo, thực hiện dân chủ, tranh thủ lợi thế, khai thác mọi nguồn lực để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội; xác định rõ lĩnh vực, ngành, công nghiệp mũi nhọn của cả thời kỳ và từng giai đoạn, trong đó tập trung xóa đói, giảm nghèo, cải thiện đời sống vật chất và văn hóa cho nhân dân, thực hiện công bằng xã hội; từng bước thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa; thường xuyên xây dựng, chỉnh đốn Đảng, củng cố hệ thống chính trị; kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với xây dựng an ninh, quốc phòng vững chắc và bảo vệ môi trường sinh thái.
Một số mục tiêu chủ yếu đến năm 2005:
- Giá trị tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP): 2.500 tỷ - 2.550 tỷ Việt Nam đồng (tính theo giá hiện hành).
- Tốc độ tăng GDP bình quân hằng năm: 7 - 7,5%.
+ GDP bình quân đầu người: 3,7 - 4 triệu Việt Nam đồng/người/năm.
31
- Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP:
+ Nông - lâm nghiệp: 41%.
+ Công nghiệp, xây dựng cơ bản: 25%.
+ Thương mại, dịch vụ: 34%.
Tổng sản lượng lương thực có hạt: 186 ngàn tấn.
- Giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu trên địa bàn: 20 triệu USD. - Huy động GDP vào ngân sách: 13 - 14%.
- Độ tán che phủ rừng: 41%.
- Giữ vững và thực hiện hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học - chống mù chữ ở cả 180 xã, phường, thị trấn và phổ cập trung học cơ sở cho 60 xã, phường, thị trấn.
- Tỷ lệ số hộ dân được nghe đài: 80%, xem truyền hình: 65%. - Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên: 1,8%.
- Cơ bản không còn hộ đói thường xuyên.
- Giảm nghèo: 2%/năm, cơ bản định cư và định canh cho đồng bào các dân tộc.
- Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống dưới: 30%
- Bảo đảm tạo việc làm mới bình quân hằng năm cho 6.000 - 10.000 lao động, tỷ lệ lao động được đào tạo 21 - 23%/số lao động. Phấn đẩu 60% Đảng bộ trực thuộc, 80% tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch, vững mạnh, cơ bản không còn thôn bản không có đảng viên. - Phấn đấu 80% tổ chức đoàn thể đạt tiêu chuẩn khá trở lên.
II. TƯ TƯỞNG CHỈ ĐẠO
Giữ vững ổn định chính trị, tập trung lãnh đạo phát triển các ngành, các lĩnh vực kinh tế mũi nhọn và cải thiện đời sống nhân dân, tập trung đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế; giải quyết có hiệu quả chương trình xóa đói, giảm nghèo và phát triển nông lâm nghiệp, nông thôn nhất là vùng cao, vùng sâu theo hướng sản xuất hàng hóa. Đồng thời tranh thủ mọi điều kiện để khai thác và chế biến khoáng sản, đẩy mạnh xuất nhập khẩu, khai thác tốt kinh tế cửa
32
khẩu, tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, du lịch trong GDP. Tiếp tục thực hiện cơ cấu kinh tế: công - nông - lâm nghiệp - du lịch, dịch vụ theo chiến lược phát triển đến năm 2010, nhưng trong những năm trước mắt tập trung phát triển nông - lâm nghiệp, nông thôn, công nghiệp và dịch vụ, du lịch.
Kết hợp tốt việc phát triển vùng kinh tế trọng điểm với các vùng khác, phát huy được lợi thế của mỗi vùng. Có chính sách thu hút các nguồn vốn trong, ngoài nước và trong dân để phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, phát triển kinh tế - xã hội vùng sâu, vùng cao.
Chăm lo công tác phát triển và sử dụng nguồn nhân lực, gồm đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước, quản lý kinh tế đội ngũ điều hành sản xuất kinh doanh, ứng dụng và chuyển giao công nghệ, phát triển khoa học - kỹ thuật và đào tạo công nhân kỹ thuật lành nghề, đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tiếp tục thực hiện tốt chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, chú trọng đổi mới kinh tế quốc doanh, đẩy mạnh phát triển kinh tế hợp tác, mở rộng các hình thức liên doanh liên kết, phát huy kinh tế cá thể, tiểu chủ, đặc biệt là kinh tế trang trại ở nông thôn. Thực hiện tốt chăm lo đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần cho nhân dân, giải quyết việc làm cho người lao động và bảo đảm công bằng xã hội. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc biên cương của Tổ quốc và môi trường sinh thái.
Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ, sự quản lý điều hành của chính quyền, sự giám sát có hiệu quả của Hội đồng nhân dân và các tổ chức chính trị; tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy dân chủ, tăng cường kỷ cương bảo đảm cho nhân dân tham gia trực tiếp, tích cực sáng tạo thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và các mục tiêu Đại hội đã đề ra.
33
III. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN GIAI ĐOẠN 2001-2005
1. Phát triển kinh tế - xã hội
a) Phát triển nông nghiệp, nông thôn
Đây vẫn là lĩnh vực rất quan trọng của tỉnh ta nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, ổn định dân cư. Phấn đấu tốc độ tăng giá trị sản xuất toàn ngành tăng 5,5%. Do vậy tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với từng vùng theo hướng thâm canh, chuyên canh và ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật mới để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả, tăng tỷ trọng cây công nghiệp, cây thực phẩm và chăn nuôi, triển khai thực hiện quy hoạch và phát triển nhanh vùng nguyên liệu tập trung như: chè, cây ăn quả, cây đặc sản, dược liệu, vùng thâm canh lúa, ngô cao sản. Đẩy mạnh sản xuất thực phẩm ở ven đô thị tập trung. Đầu tư xây dựng công trình cung cấp nước sạch và hệ thống thủy lợi, kiên cố hệ thống kênh mương để tăng thêm năng lực và chủ động tưới tiêu. Đầu tư cho công tác tuyển lựa, nhân giống mới có năng suất và giá trị cao cả trồng trọt và chăn nuôi, để cơ bản bảo đảm đủ giống kỹ thuật cung cấp cho sản xuất. Đẩy mạnh cơ khí hóa, điện khí hóa trong nông nghiệp, nông thôn. Triển khai có hiệu quả chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đầu tư phát triển mạng lưới tiêu thụ sản phẩm, các xí nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ, dịch vụ và kết cấu hạ tầng khu vực nông thôn. Tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi, phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã theo đúng luật, bảo đảm các điều kiện cho hợp tác xã hoạt động giúp nông dân phát triển sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Đẩy mạnh công tác giao đất, giao rừng và hoàn thành vào năm 2003, sử dụng có hiệu quả đất trống, đồi trọc, mặt nước theo hướng nông - lâm - ngư nghiệp kết hợp. Hướng dẫn và hỗ trợ về kỹ thuật cho nhân dân sản xuất lâm nghiệp nhằm tăng nhanh diện tích trồng, tái sinh, khoanh nuôi bảo vệ rừng, phát triển mạnh kinh tế trang trại. Tiếp tục nghiên cứu gắn sản xuất với chế biến, bảo quản sau thu hoạch; tạo việc làm
34
phi nông nghiệp ngay tại nông thôn, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống của nông dân và dân cư ở nông thôn, phấn đấu đến 2005 trong nông dân không còn hộ đói thường xuyên và ổn định dân cư, cơ bản định canh cho gần 10 vạn nhân khẩu vùng cao.
b) Phát triển công nghiệp và xây dựng
Tiếp tục khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư và tăng cường các nguồn vốn đầu tư cho phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp; gắn công nghiệp với phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông thôn, đẩy mạnh công nghiệp chế biến nông - lâm sản để giải quyết đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh, góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xóa đói, giảm nghèo. Triển khai xây dựng và nâng công suất nhà máy chế biến chè thành phẩm ở Bảo Thắng và ở Than Uyên, tăng cường hoạt động của Nhà máy giấy, đũa tre xuất khẩu. Kết hợp chuẩn bị tốt khâu điều tra cơ bản, xây dựng một số dự án phát triển nhằm khai thác thế mạnh của tỉnh để gọi vốn đầu tư (nhất là khoáng sản). Phối hợp với các ngành, tổng công ty của Trung ương xây dựng cụm công nghiệp Tằng Loỏng, mở rộng khai thác đồng và apatít, nghiên cứu xây dựng một số nhà máy chế biến nông - lâm sản, thức ăn gia súc, các loại thực phẩm và chế biến khoáng sản.
Phấn đấu giá trị sản xuất công nghiệp, xây dựng cơ bản tăng bình quân hằng năm 15,6%, nâng số xã có điện lưới quốc gia vào năm 2005 lên 117 xã, nghiên cứu phục hồi thủy điện Cốc San (Bát Xát) và Cốc Ly, đẩy mạnh xây dựng thủy điện nhỏ và sử dụng các dạng năng lượng khác ở thôn, bản vùng cao.
Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, tham gia tích cực xây dựng đường hành lang Hài Phòng - Côn Minh trên địa phận tỉnh; nâng cấp tuyến đường 279, đường 4E, đường 32, xây dựng xong cầu Phố Mới và các cầu cống trên các trục giao thông quan trọng của tỉnh; tham gia cải tạo hệ thống đường sắt, đường thủy, xây dựng kết cấu hạ tầng vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa và biên giới, phấn đấu đến năm 2005 hoàn thành Chương trình 135 và chương trình đầu
35
tư cho các xã biên giới, dự án giảm nghèo từ nguồn WB cho các xã đặc biệt khó khăn, làm và nâng cấp đường ôtô tới tất cả các trung tâm xã trong tỉnh. Tập trung đầu tư vào một số chương trình trọng điểm như: Các khu du lịch, khu kinh tế cửa khẩu, hệ thống cấp nước sinh hoạt, hoàn thành cơ bản các hạng mục đầu tư tại một số trung tâm cụm xã và ổn định dân cư. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị cần được bảo đảm đúng quy hoạch, đẩy mạnh xã hội hóa về phát triển giao thông vận tải, tăng cường năng lực vận tải lên vùng cao, biên giới. Khai thác nội lực trong dân để phát triển mạnh đường liên thôn, liên xã.
Đầu tư mạnh và thực hiện có hiệu quả công nghệ thông tin, bảo đảm mạng lưới thông tin thông suốt trong phạm vi toàn tỉnh, đẩy mạnh phát triển các điểm bưu điện - văn hóa xã. Tăng nhanh dân cư trong khu vực trung tâm cụm xã, thị trấn, thị xã; nâng cấp và đầu tư một số đô thị mới.
c) Phát triển thương mại - du lịch và kinh tế đối ngoại Tiếp tục củng cố mạng lưới thương nghiệp quốc doanh bảo đảm đáp ứng đủ, kịp thời các mặt hàng chính sách cho nhân dân trên địa bàn. Khuyến khích các thành phần kinh tế khác cùng tham gia phát triển thị trường hàng hóa, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa và thị trường nông thôn. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có năng lực tiếp cận, nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước từ đó đề xuất các phương án phát triển sản xuất thích hợp, đặc biệt là đối với các mặt hàng xuất, nhập khẩu và gọi vốn đầu tư nước ngoài. Tăng cường công tác đối ngoại, đẩy mạnh hợp tác, phát triển kinh tế - xã hội, khai thác tốt thị trường tỉnh Vân Nam và khu vực Tây Nam Trung Quốc và khu vực cửa khẩu. Về du lịch, cần mở rộng hơn địa bàn và hình thức hoạt động, nâng cao chất lượng sản phẩm về du lịch và các dịch vụ vận tải, bưu điện, tài chính, tư vấn; có cơ chế quản lý phù hợp theo hướng nhanh gọn về thủ tục, dịch vụ văn minh để tăng nhanh sự phát triển. Tăng cường đầu tư và quảng bá khu du lịch Sa Pa và những khu du lịch khác trong tỉnh nhằm thu hút ngày càng nhiều du khách.
36
Phấn đấu tốc độ tăng giá trị toàn ngành thương mại - du lịch - dịch vụ đạt 8,7%, tổng mức bán lẻ trên địa bàn tăng bình quân hằng năm từ 15-18%. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt trên địa bàn 20 triệu USD và doanh thu du lịch tăng bình quân hằng năm 20%.
d) Phát triển khoa học - công nghệ
Tập trung cho ứng dụng các thành quả nghiên cứu theo định hướng phát triển của từng ngành, bảo đảm cân đối giữa đầu tư cho khoa học - kỹ thuật, khoa học quản lý và khoa học xã hội nhân văn, trong đó cần chú ý đến mục tiêu phục vụ sự phát triển nông nghiệp nông thôn. Chú trọng công tác nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ vào sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, ưu đãi tín dụng cho doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ, mở rộng quyền tự chủ, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của mọi tổ chức và cá nhân. Có chính sách khuyến khích đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật, phục vụ tốt cho nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương nhất là công tác ở vùng sâu, vùng khó khăn. Ưu đãi những tổ chức và cá nhân, nắm và triển khai trên địa bàn những bí quyết công nghệ nhất là công nghệ cao. Tăng kinh phí cho sự nghiệp khoa học - kỹ thuật và đẩy mạnh đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho hệ thống khoa học và công nghệ. Đẩy mạnh công tác giám định kỹ thuật, môi trường và chất lượng sản phẩm để bảo đảm cho sự phát triển ngày càng có tính bền vững hơn.
e) Tài chính, tiền tệ
Công tác tài chính phải phục vụ tích cực vào việc khai thác sử dung có hiệu quả các thế mạnh của địa phương về tài nguyên, đất đai, lao động và những lợi thế tự nhiên để thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra tích lũy ngày càng nhiều cho nền kinh tế và tăng nguồn thu cho ngân sách. Có các cơ chế chính sách thích hợp, sử dụng đồng bộ các công cụ tài chính để huy động các nguồn vốn hiện có trong các thành phần, tổ chức kinh tế và các tầng lớp dân cư bố trí sử dụng vốn có hiệu quả, tiết kiệm, chống tham ô lãng phí. Tập trung đẩy mạnh phát triển sản xuất và khai thác kinh tế đối ngoại, kinh tế cửa khẩu nhất là xuất, nhập khẩu, du lịch, đầu tư nước ngoài để
37
tăng thu cho ngân sách. Thực hiện thu đúng, thu đủ kết hợp với chính sách nuôi dưỡng nguồn thu. Tiếp tục nghiên cứu rà soát lại các định mức thu, công khai hóa mức thu đến mọi đối tượng. Cải tiến thủ tục tín dụng để tạo điều kiện thuận lợi nhanh chóng cho các đối tượng vay vốn. Có cơ chế thích hợp để huy động vốn trong dân, giúp đỡ xây dụng dự án và khuyến khích các thành phần kinh tế và nhân dân vay vốn tín dụng đầu tư phát triển sản xuất. Tăng cường quản lý tiền mặt, triển khai việc thanh toán quốc tế trong hoạt động xuất, nhập khẩu đúng quy định và thuận tiện, an toàn, nhanh chóng. Thực hiện tốt công tác chi, chống lãng phí trong việc sử dụng kinh phí và tài sản. Tạo cơ chế để các thành phần kinh tế ở trong nước và nước ngoài đến đầu tư, sản xuất kinh doanh ở Lào Cai với nhiều hình thức, với mức ưu đãi cao nhất theo Luật đầu tư...
g) Phát triển văn hóa - xã hội
Đa dạng hóa các loại hình trường lớp, củng cố và phát triển hệ thống trường dân tộc nội trú, bán trú, phấn đấu có trường trung học cơ sở ở một số trung tâm cụm xã vùng cao; tăng cường các loại hình trường mẫu giáo dân lập, trường dạy nghề...; nâng cao chất lượng dạy và học, đầu tư xây dựng trường lớp, thực hiện kiên cố ít nhất 50% các trường học để đáp ứng yêu cầu đào tạo và nhu cầu học tập của con em nhân dân. Giữ vững và thực hiện hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học, chống mù chữ cho 180 xã, phường, thị trấn; thực hiện phổ cập đúng độ tuổi, phấn đấu đến năm 2005 có 60 xã, phường, thị trấn hoàn thành phổ cập trung học cơ sở, thực hiện phổ cập phổ thông trung học ở một số nơi có điều kiện. Đẩy mạnh xây dựng văn hóa Lào Cai tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, hướng vào xây dựng làng, bản văn hóa, xây dựng con người có tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có ý thức tự lực tự cường, có trách nhiệm cao trong lao động, có lương tâm nghề nghiệp, có tác phong công nghiệp; khai thác và phát huy vốn văn hóa, thể thao truyền thống và không ngừng nâng cao mức hưởng thụ văn hóa cho nhân dân, phấn đấu đến năm 2005 có 55% số hộ gia đình, 35% số thôn, bản, 70% tổ dân phố, 80% số cơ quan, trường học được
38
công nhận đạt tiêu chuẩn văn hóa, một số xã, phường có thiết chế văn hóa, 30% thôn, bản có điểm sinh hoạt văn hóa cộng đồng, 15% dân số trở lên thường xuyên tham gia luyện tập thể dục thể thao. Tiếp tục đầu tư cho phát thanh, truyền hình, báo chí để làm tốt công tác tuyên truyền phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương, bài trừ hủ tục lạc hậu, khắc phục tình trạng mê tín dị đoan, phòng, chống có hiệu quả các sản phẩm văn hóa đồi trụy, phản động.
Đẩy mạnh thực hiện các chương trình y tế quốc gia và y tế cấp ngành, củng cố phát triển mạng lưới y tế cơ sở, phát triển y tế cộng đồng, mở rộng bảo hiểm y tế đến các đối tượng dân cư, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, y đức và ý thức trách nhiệm của thầy thuốc, tăng cường sản xuất và chế biến dược liệu, sử dụng các bài thuốc dân tộc cổ truyền.
Đẩy mạnh cuộc vận động thực hiện Luật hôn nhân - gia đình và công tác dân số kế hoạch hóa gia đình nhằm kiểm soát sự phát triển dân số và nâng cao chất lượng dân số phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao cuộc sống cho nhân dân. Nâng cao chất lượng sức khoẻ sinh sản, các dịch vụ giáo dục, y tế và chăm sóc sức khoẻ con người, các biện pháp kế hoạch hóa gia đình, phân bố dân cư, giải quyết hợp lý giữa số lượng và chất lượng dân cư, giữa phát triển dân số và phát triển nguồn nhân lực, gắn với phát triển kinh tế - xã hội.
Phòng, chống các tệ nạn xã hội, ngăn chặn hành vi trái pháp luật, vi phạm chuẩn mực đạo đức, gây ra những hiện tượng trái đạo lý, không văn hóa trong xã hội, chống HIV/AIDS, chống những thói hư tật xấu, những lối sống không lành mạnh, đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”.
Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào việc đào tạo nghề cho người lao động và tạo thêm ngành nghề mới, tạo cơ sở sản xuất thu hút nhiều lao động, thực hiện tốt hơn chương trình giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo trên toàn địa bàn. Quan tâm toàn diện đến các đối tượng chính sách, người có công với nước, cứu trợ cho những người gặp rủi ro, bất hạnh, thực hiện công bằng xã hội. Chống
39
hoạt động truyền đạo trái phép, ổn định dân cư. Đẩy mạnh việc xã hội hóa các hoạt động xã hội, huy động nguồn lực trên tất cả các lĩnh vực cho phát triển kinh tế - xã hội.
2. Công tác quốc phòng, an ninh và đối ngoại
Tập trung lực lượng tổ chức thực hiện chương trình hành động của Tỉnh ủy về công tác bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới. Coi trọng công tác bảo vệ nội bộ, có các biện pháp phòng ngừa chống cài cắm móc nối của địch, nâng cao cảnh giác cách mạng cho cán bộ và nhân dân các dân tộc, tăng cường củng cố hệ thống cơ sở chính trị và phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc. Có các phương án, kế hoạch về bảo vệ an ninh biên giới, kịp thời phát hiện các hoạt động vi phạm chủ quyền lãnh thổ để có các biện pháp hữu hiệu bảo đảm giữ vững chủ quyền lãnh thổ, thực hiện tốt Hiệp ước về biên giới trên bộ giữa Việt Nam với Trung Quốc.
Phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, xây dựng cơ sở chính trị, xây dựng phong trào quần chúng nhân dân bảo vệ an ninh Tổ quốc nhất là ở địa bàn trọng yếu; kết hợp sức mạnh của lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân với sức mạnh của lực lượng và thế trận an ninh nhân dân; kết hợp việc bố trí dân cư nhằm phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực xã, phường biên giới với bảo vệ chủ quyền quốc gia. Xây dựng, củng cố các khu vực phòng thủ của tỉnh, sẵn sàng chủ động đối phó trong mọi tình huống; nâng cao chất lượng huấn luyện đối với lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên, kết hợp với lực lượng công an thực sự trở thành nòng cốt trong phong trào bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng, cần phát huy kết quả đạt được, mở rộng quan hệ và đa dạng về hình thức hợp tác với nước ngoài, tăng cường đối ngoại nhân dân ở khu vực biên giới. Tăng cường hợp tác với tỉnh Vân Nam - Trung Quốc, trong đó ưu tiên quan hệ kinh tế, nhằm xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị, cùng phát triển.
40
Làm tốt công tác thi hành pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, điều tra, xét xử; không làm oan người ngay, không để lọt tội phạm; nâng cao chất lượng toàn diện của các cơ quan thi hành pháp luật. Tăng cường sự phối hợp có hiệu quả giữa các lực lượng và cấp ủy, chính quyền cơ sở trong việc quản lý biên giới, tập trung vào công tác quản lý xuất, nhập cảnh, chống gian lận thương mại. Khắc phục tình trạng quản lý chồng chéo hoặc sơ hở, loại trừ những phiền hà, sách nhiễu đối với mọi hoạt động kinh doanh, sản xuất của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước đến đầu tư, sản xuất, kinh doanh tại Lào Cai. Đổi mới và tăng cường quản lý trong đầu tư xây dựng cơ bản.
Tăng cường công tác tuyên truyền pháp luật trong cán bộ, nhân dân nhất là trong vùng đồng bào dân tộc thiếu số. Qua đó nhằm nâng cao sự hiểu biết và chấp hành pháp luật. Thực hiện Quy chế dân chủ ở các cấp, các ngành, nắm tình hình trong nhân dân, phát hiện những vướng mắc để giải quyết kịp thời, dứt điểm không để dây dưa kéo dài, tích tụ lâu ngày gây phức tạp trở thành “điểm nóng”. Chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang, đội ngũ cán bộ trong Khối Nội chính trong sạch, vững mạnh, luôn trau dồi về phẩm chất đạo đức, trình độ nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, chăm lo xây dựng Đảng trong lực lượng vũ trang, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng an ninh, củng cố lòng tin của nhân dân vào cơ quan thực hiện và bảo vệ pháp luật.
3. Nhiệm vụ xây dựng Đảng và củng cố hệ thống chính trị
a) Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức
Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng:
Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên và nhân dân; tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng và nhân dân các dân tộc; đẩy mạnh các phong trào thi đua; quyết tâm phấn đấu hoàn thành thắng lợi mục tiêu kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
41
Tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt các nghị quyết của Đảng về những định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay; Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ XII; các nghị quyết của Trung ương và Bộ Chính trị. Giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân; đấu tranh chống mọi quan điểm sai trái với nghị quyết của Đảng; chống âm mưu “diễn biến hòa bình”; chống mọi biểu hiện cơ hội về chính trị, bảo vệ Đảng, bảo vệ đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, khắc phục tư tưởng ỷ lại trông chờ. Thực hiện thường xuyên cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), rèn luyện phẩm chất chính trị và đạo đức lối sống lành mạnh, bồi dưỡng truyền thống cách mạng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Nâng cao chất lượng cho đội ngũ làm công tác tư tưởng, văn hóa, quản lý và chỉ đạo các hoạt động văn hóa, văn nghệ phát triển đúng hướng, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ.
Xây dựng Đảng về tổ chức:
Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng gắn với xây dựng chi, đảng bộ trong sạch vững mạnh, cơ bản không còn cơ sở đảng yếu, kém, thôn, bản không có đảng viên, từng bước xây dựng chi bộ trực thuộc và tổ Đảng ở thôn, bản vùng cao. Nâng cao năng lực, trình độ về mọi mặt cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới.
Hoàn chỉnh quy chế làm việc của tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể. Có kế hoạch xây dựng chi, đảng bộ trong sạch, vững mạnh, tiến hành công tác quản lý, phân tích, đánh giá chất lượng cán bộ, đảng viên đi đôi với kiện toàn đội ngũ lãnh đạo chủ chốt ở cơ sở. Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên, chú trọng kết nạp đảng viên trong giới trí thức, công nhân, là nữ, dân tộc ít người, tuổi trẻ... Tiếp tục kiện toàn các ban Đảng, Đảng đoàn, Ban cán sự Đảng trong các cơ quan đoàn thể theo quy định; hoàn chỉnh quy chế hoạt động gắn với xác định rõ chức năng nhiệm vụ nhằm đưa hoạt động của các ban
42
Đảng, Đảng đoàn, Ban cán sự Đảng vào nền nếp, có hiệu quả. Tiếp tục đổi mới phương pháp đánh giá cán bộ, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong các khâu: Luân chuyển, điều động, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật, bổ nhiệm, tiếp nhận, tuyển dụng và thực hiện chính sách cán bộ. Thực hiện quy hoạch cán bộ, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng cán bộ. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc, cán bộ nữ, các chuyên gia về các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, công nghệ thông tin, hiểu biết về thông lệ quốc tế và khả năng hội nhập kinh tế trong khu vực và thế giới xây dựng, bổ sung hoàn chỉnh quy chế làm việc của cấp ủy các cấp sau đại hội; xây dựng và tổ chức thực hiện tốt chương trình hoạt động toàn khóa và hằng năm của cấp ủy Đảng.
Công tác kiểm tra của Đảng:
Quán triệt sâu sắc trong cấp ủy và Ủy ban Kiểm tra các cấp về công tác kiểm tra của Đảng, nhất là các quy định mới của Điều lệ Đảng khóa IX. Xây dựng chương trình và tổ chức thực hiện tốt chương trình kiểm tra của cấp ủy kiểm tra tập trung vào những nhiệm vụ chính trị, địa bàn, lĩnh vực có trọng tâm, trọng điểm, sát tình hình thực tế theo hướng kiểm tra việc lãnh đạo thực hiện các dự án kinh tế, thực hiện chính sách pháp luật, Quy chế dân chủ, khắc phục sửa chữa khuyết điểm qua thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2). Thực hiện tốt các nhiệm vụ của Ủy ban Kiểm tra do Điều lệ Đảng quy định, cần chủ động phát hiện và tiến hành kiểm tra đối với đảng viên, tổ chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm; kiểm tra Ủy ban Kiểm tra cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra. Giải quyết kịp thời đơn thư tố cáo khiếu nại, xử lý nghiêm minh đối với đảng viên và tổ chức đảng có vi phạm, giữ nghiêm kỷ luật Đảng. Củng cố, kiện toàn tổ chức, cán bộ Ủy ban Kiểm tra các cấp, tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
b) Xây dựng, củng cố chính quyền nhân dân
Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 7 và Trung ương 8 (khóa VIII). Đẩy mạnh cải cách hành chính, củng
43
cố tổ chức bộ máy chính quyền địa phương trên cơ sở sắp xếp lại các cơ quan, đơn vị ở mỗi cấp, mỗi ngành trong tỉnh; giảm bớt đầu mối, tinh giản biên chế ở các cơ quan, đơn vị theo yêu cầu của sự phát triển. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị, cấp, ngành và từng công chức; đồng thời xây dựng quy chế, lề lối làm việc cụ thể, bảo đảm hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ theo phân cấp quản lý của Trung ương và của tỉnh. Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp trên địa bàn. Tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành tập trung của Ủy ban nhân dân các cấp. Đặc biệt chú trọng nâng cao năng lực điều hành và khả năng chủ động công việc của chính quyền cơ sở xã, phường; củng cố tổ chức thôn, bản và xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trưởng thôn, bản để giúp cho chính quyền cơ sở trong quản lý điều hành có hiệu quả tốt hơn, tiếp tục đẩy mạnh phong trào xây dựng chính quyền cơ sở trong sạch, vững mạnh. Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, cơ quan và doanh nghiệp nhà nước, tổ chức tốt công tác tiếp dân, thực hiện nghiêm các quy định về thời gian giải quyết và trả lời cho công dân theo đúng pháp luật, công khai những việc dân cần biết, dân bàn, dân kiểm tra. Tăng cường giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức và trong nhân dân. Kiên quyết chống quan liêu, tham nhũng, giữ gìn kỷ cương, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chính quyền. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công chức theo chức danh tiêu chuẩn Nhà nước ở mỗi cấp, mỗi ngành. Đặc biệt quan tâm đào tạo, bồi dưỡng về văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ chính quyền cơ sở. Bảo đảm 90% cán bộ chủ chốt chính quyền cơ sở ở xã vùng 3 có trình độ hoàn chỉnh tiểu học trở lên, 100% cán bộ chủ chốt ở các xã vùng 1, vùng 2 có trình độ trung học cơ sở trở lên; 100% cán bộ 4 chức danh chuyên môn của xã phải được đào tạo chuyên môn từ sơ cấp trở lên.
c) Công tác dân vận
Tập trung chỉ đạo phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh, xây dựng chính quyền của dân, do
44
dân và vì dân. Ngăn chặn các hình thức lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo trái với đạo lý, truyền thống và phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc. Chủ động phát hiện những mâu thuẫn, những vấn đề phát sinh từ cơ sở để hoà giải. Thực hiện nghiêm chỉnh Luật khiếu nại, tố cáo, hạn chế tối đa tình trạng đơn thư vượt cấp, đơn thư khiếu nại đông người. Tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc, giáo dục ý thức cộng đồng, lòng tương thân tương ái, giúp đỡ lẫn nhau trong các vùng, các dân tộc. Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân theo hướng nắm chắc tâm tư nguyện vọng của nhân dân, lo cho dân, thực sự là cầu nối giữa dân với Đảng và chính quyền, hướng mạnh vào các cuộc vận động lớn, vào các chương trình phát triển kinh tế - xã hội... với mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, khắc phục những hình thức hoạt động theo lối hành chính, quan liêu. Cán bộ Mặt trận và các đoàn thể các cấp cần sâu sát với dân, tập trung cho cơ sở, tham gia giải quyết các vấn đề đòi hỏi chính đáng, bức xúc phát sinh từ cuộc sống của nhân dân và động viên quần chúng thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở địa phương.
IV. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
ĐỂ THỰC HIỆN MỤC TIÊU ĐẠI HỘI
1. Đẩy mạnh xây dựng, phát triển và khai thác sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực
Yêu cầu đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đòi hỏi phải có nguồn nhân lực tương xứng, nghĩa là cần phải có con người - một đội ngũ cán bộ có năng lực chuyên môn giỏi, có phẩm chất đạo đức tốt, vì mục đích lý tưởng của Đảng, vì hạnh phúc của nhân dân, trên tất cả mọi lĩnh vực, như: quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, khoa học - kỹ thuật, xây dựng Đảng, đoàn thể và đội ngũ công nhân có tay nghề cao. Do vậy, phải tiếp tục làm tốt công tác quy hoạch, xây dựng chiến lược cán bộ, để từ đó có kế hoạch cụ thể đào tạo, đào
45
tạo lại và phát triển nguồn nhân lực đồng bộ với chất lượng cao. Chú trọng đào tạo những cán bộ có năng lực còn trẻ, cán bộ khoa học - kỹ thuật, cán bộ nữ và cán bộ thuộc các dân tộc ít người, bằng tất cả mọi hình thức tập trung, tại chức, dài hạn, ngắn hạn, gửi đi đào tạo ở Trung ương, ở nước ngoài hoặc tại tỉnh. Đánh giá nhu cầu nhân lực trong toàn tỉnh, từ đó có kế hoạch tuyển sinh, đào tạo phù hợp. Đầu tư mạnh hơn cho sự nghiệp giáo dục phổ thông các cấp, trước hết là tập trung đào tạo đội ngũ giáo viên nhằm không ngừng nâng cao chất lượng dạy và học. Có chính sách thỏa đáng để thu hút cán bộ có năng lực từ nơi khác đến và về cơ sở vùng sâu, vùng xa làm việc. Phối hợp chặt chẽ giữa việc đào tạo, bồi dưỡng với việc sử dụng lao động; nghiên cứu phương án phù hợp nhằm sử dụng có hiệu quả và phát huy chất xám của đội ngũ cán bộ đại học và trên đại học; nâng cao hiệu quả của Hội Liên hiệp Khoa học - kỹ thuật. Thực hiện nghiêm quy định trong việc tuyển chọn, sử dụng, luân chuyển cán bộ đúng với năng lực chuyên môn. Thường xuyên đánh giá đội ngũ cán bộ. Kết hợp giữa đào tạo kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp với bồi dưỡng phẩm chất đạo đức và thực hiện chính sách đối với cán bộ trong hệ thống chính trị và quản lý kinh tế - xã hội, nhằm hình thành đội ngũ cán bộ, lao động vừa hồng vừa chuyên. Khuyến khích các thành phần kinh tế mở rộng sản xuất, tạo ra nhiều việc làm để thu hút lao động trong xã hội, lao động nhàn rỗi trong nông nghiệp.
2. Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn
Đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, dịch vụ để huy động đầy đủ các nguồn thu trên địa bàn vào ngân sách tỉnh. Thực hiện tốt các Luật thuế và ngân sách. Tăng cường liên doanh liên kết, đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất kinh doanh, nhất là những lĩnh vực tỉnh có lợi thế như kinh doanh xuất, nhập khẩu, dịch vụ, du lịch, khai thác chế biến khoáng sản, nông, lâm sản và vị trí “đầu cầu” giữa Lào Cai - Việt Nam với Vân Nam và vùng Tây Nam Trung Quốc nhằm không ngừng tạo ra nguồn thu, đồng thời có cơ chế phù hợp để phát triển nguồn thu.
46
Tranh thủ sự giúp đỡ của các bộ, ngành, tạo những ưu đãi nhằm thu hút vốn đầu tư. Tiết kiệm chi, quản lý chặt chẽ các loại nguồn vốn, chống tham ô, tham nhũng. Ưu tiên đầu tư cho những lĩnh vực cấp thiết như: Đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng những công trình phục vụ cho chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế, mở rộng sản xuất, kinh doanh, xóa đói, giảm nghèo, ổn định dân cư và sớm phát huy hiệu quả và phù hợp với nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
3. Tăng cường công tác thông tin tiếp thị mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm nhằm kích thích sản xuất phát triển
Thông tin đang là nguồn lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, vì vậy việc đa dạng và mở rộng thông tin, đặc biệt công nghệ thông tin, thương mại điện tử tìm kiếm thị trường trong và ngoài nước nhằm đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa, kích thích sản xuất phát triển. Thực tế sản xuất của tỉnh ta còn nhỏ và chất lượng sản phẩm chưa cao, sức cạnh tranh trên thị trường còn yếu. Chính vì vậy cần phải nhanh chóng đẩy mạnh hoạt động thông tin nghiên cứu, thăm dò, dự báo thị trường, phát huy hiệu quả tham mưu về hoạt động kinh tế đối ngoại của các ngành. Gắn trách nhiệm giữa cơ quan thực hiện xuất, nhập khẩu với các đơn vị sản xuất để không ngừng tạo ra nhiều mặt hàng xuất khẩu phong phú, đa dạng, có hàm lượng công nghệ cao, mẫu mã đẹp, hợp lý, giá thành hạ. Gắn trách nhiệm giữa người sản xuất vùng nguyên liệu với nhà máy chế biến và vấn đề tiêu thụ sản phẩm thành một chu trình đồng bộ. Mở các lớp đào tạo nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác tiếp thị, xuất, nhập khẩu. Thực hiện triệt để chống buôn lậu, phối hợp nhịp nhàng giữa các ngành chức năng với các cấp chính quyền trong việc thực hiện phát triển kinh tế ở khu vực cửa khẩu. Bên cạnh thị trường ngoài nước, cần coi trọng thị trường trong nước và trong tỉnh, từng bước vươn lên trong sản xuất để thay thế hàng hóa nhập khẩu, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân ở vùng sâu, vùng xa.
47
Chấn chỉnh công tác lưu thông hàng hóa; thương nghiệp quốc doanh và kinh tế hợp tác phải từng bước vươn lên làm chủ đạo, giúp nông dân về các loại dịch vụ nhất là sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm nông, lâm nghiệp. Có chính sách hỗ trợ nông dân phát triển vùng nguyên liệu gắn với công nghiệp chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
4. Khai thác và sử dụng có hiệu quả, hợp lý và bảo vệ nguồn tài nguyên trên địa bàn
Quản lý chặt chẽ công nghiệp khai thác lâm, khoáng sản, có kế hoạch và chương trình tiếp tục đầu tư cho công nghiệp khai thác và chế biến các tài nguyên, hạn chế xuất nguyên liệu ở dạng thô, tăng cường quản lý các hoạt động tìm hiểu, thăm dò, thực hiện đúng quy trình, quy phạm bảo đảm an toàn, hiệu quả chống lãng phí tài nguyên và hủy hoại môi trường. Xây dựng phương án và đề nghị với Trung ương cho phép mở rộng khai thác tài nguyên khoáng sản từ thủ công sang sản xuất lớn nhằm thu hút nhiều lao động tạo ra nguồn thu lớn và bền vững cho địa phương (như mỏ đồng, sắt, tuyển quặng apatít; xây dựng cụm công nghiệp tập trung ở Tằng Loỏng và khu vực kinh tế cửa khẩu). Đưa công tác quản lý sử dụng đất đai trong các khu vực khai thác vào nền nếp, đúng pháp luật.
5. Nâng cao năng lực lãnh đạo và điều hành của hệ thống chính trị
Quán triệt sâu sắc quan điểm Đảng lãnh đạo toàn diện và xác định rõ nhiệm vụ phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát huy sức mạnh đoàn kết, dân chủ trong Đảng và trong nhân dân. Muốn vậy, mỗi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ chủ chốt phải gương mẫu trên tất cả các lĩnh vực, có ý thức xây dựng, bảo vệ Đảng và thực hiện đúng pháp luật, thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng, học tập và trau dồi kinh nghiệm, nâng cao chuyên môn nghiệp vụ. Các tổ chức đảng và đảng viên phải tiến hành thường xuyên tự phê bình và phê bình nhằm khắc phục kịp thời những tồn tại, thiếu
48
sót cả trong tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống và tổ chức chỉ đạo điều hành, nâng cao chất lượng ban hành nghị quyết, đổi mới phương thức lãnh chỉ đạo, tăng cường sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và từng đảng viên. Giữ vững và phát huy bản chất giai cấp công nhân, xây dựng chính quyền của dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế, giữ vững trật tự kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh. Nâng cao chất lượng, hiệu quả, hiệu lực kiểm tra, giám sát của Hội đồng nhân dân và của nhân dân đối với hoạt động của các cơ quan Nhà nước, đẩy mạnh cải cách hành chính, chống phiền hà sách nhiễu đối với dân. Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, thực hiện sắp xếp lại bộ máy. Các tổ chức chính trị xã hội phải hướng hoạt động về cơ sở, cán bộ phải sâu sát cơ sở và giúp dân một cách hết sức thiết thực, nhất là trong phát triển kinh tế và xây dựng nếp sống văn hóa mới.
Phát động rộng rãi trong toàn Đảng bộ và nhân dân các dân tộc phong trào thi đua yêu nước bằng nhiều hành động cụ thể thực hiện thắng lợi những mục tiêu, nhiệm vụ do Đại hội Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ XII đề ra, sẽ có ý nghĩa rất quan trọng trong bước đường đi lên của Đảng bộ, tạo ra thế và lực mới, đồng thời tạo ra tiền đề cho Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Lào Cai vững bước, tự tin trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Toàn Đảng, toàn quân và toàn dân các dân tộc tỉnh Lào Cai đoàn kết một lòng, tranh thủ thuận lợi và thời cơ, vượt qua khó khăn và thử thách, nỗ lực phấn đấu để hoàn thành vượt bậc các chỉ tiêu kế hoạch mà Đại hội đã đề ra, phấn đấu xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc, văn minh như Đảng và Bác Hồ kính yêu hằng mong muốn.
BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ TỈNH
Lưu tại Kho Lưu trữ Tỉnh ủy.
49
NGHỊ QUYẾT
ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ TỈNH LÀO CAI LẦN THỨ XII
Ngày 29-12-2000
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ XII họp từ ngày 26-12-2000 đến ngày 29-12-2000.
QUYẾT NGHỊ:
1. Nhất trí thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XI trình Đại hội; giao cho Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XII căn cứ vào những ý kiến góp ý và những kết luận của Đại hội để hoàn chỉnh và chính thức ban hành.
2. Nhất trí thông qua Báo cáo kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) (khóa VIII) của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XI; giao cho Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XII căn cứ vào ý kiến kết luận của Đại hội để hoàn chỉnh báo cáo, tiếp tục tổ chức thực hiện thắng lợi bước 3 và duy trì công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trở thành công việc thường xuyên của Đảng trong những năm tiếp theo.
3. Nhất trí thông qua Báo cáo kiểm điểm của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XI; giao cho Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XII phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, nỗ lực phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ Đại hội giao cho.
50
4. Nhất trí thông qua Báo cáo tổng hợp ý kiến tham gia vào dự thảo các văn kiện của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) trình Đại hội IX của Đảng; giao cho Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XII căn cứ vào ý kiến của Đại hội để hoàn chỉnh văn bản, báo cáo Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trình Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng.
5. Giao cho Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XII và các cấp ủy Đảng xây dựng chương trình hành động thiết thực để tổ chức thực hiện những nhiệm vụ mục tiêu đã nêu trong các báo cáo được Đại hội thông qua.
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ XII kêu gọi toàn Đảng bộ, cán bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh đoàn kết một lòng, tranh thủ lợi thế, khắc phục khó khăn, khai thác mọi nguồn lực, phát huy ý chí tự lực, tự cường, hăng hái phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu nhiệm vụ mà Đại hội đã đề ra vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; xây dựng tỉnh Lào Cai phát triển mạnh mẽ về kinh tế, ổn định về chính trị, vững chắc về an ninh - quốc phòng, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ
TỈNH LẦN THỨ XII
Lưu tại Kho Lưu trữ Tỉnh ủy.
51
NGHỊ QUYẾT
HỘI NGHỊ LẦN THỨ NHẤT BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ KHOÁ XII
Số 01-NQ/TU, ngày 29-12-2000
Ngày 28-12-2000, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lào Cai khóa XII họp Hội nghị lần thứ nhất. Đồng chí Tráng A Pao, Ủy viên Trung ương Đảng... Bí thư Tỉnh ủy khóa XI triệu tập. Tham dự có các đồng chí cán bộ của Ban Tổ chức Trung ương, Ban Bảo vệ chính trị nội bộ, Ủy Ban kiểm tra Trung ương, Văn phòng Trung ương.
Hội nghị bầu đồng chí Giàng Seo Phử làm Chủ tọa hội nghị. I. Hội nghị bầu Ban Thường vụ Tỉnh ủy khóa XII gồm 13 đồng chí
1. Đồng chí Giàng Seo Phử
2. Đồng chí Bùi Quang Vinh
3. Đồng chí Nguyễn Đức Thăng
4. Đồng chí Nguyễn Văn Lăng
5. Đồng chí Hoàng Minh Ngọc
6. Đồng chí Nguyễn Đình Vững
7. Đồng chí Ngô Văn Hùng
8. Đồng chí Nguyễn Ngọc Kim
9. Đồng chí Phạm Kỳ
10. Đồng chí Đặng Quốc Lộng
1 1 Đồng chí Giàng Thị Mỷ
12. Đồng chí Trần Nguyên
13. Đồng chí Nguyễn Hữu Vạn
52
II. Hội nghị bầu Bí thư Tỉnh ủy
1. Đồng chí Giàng Seo Phử
III. Hội nghị bầu các Phó Bí thư Tỉnh ủy
1. Đồng chí Bùi Quang Vinh.
2. Đồng chí Nguyễn Đức Thăng
IV. Hội nghị bầu Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy gồm 7 đồng chí 1. Đồng chí Nguyễn Văn Lăng
2. Đồng chí Tẩn Láo San
3. Đồng chí Hoàng Minh Thiết
4. Đồng chí Nguyễn Đình Vững
5. Đồng chí Lục Văn Liêm
6. Đồng chí Trần Xuân Hải
7. Đồng chí Đào Văn Minh
V. Hội nghị bầu Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy 1. Đồng chí Nguyễn Văn Lăng
VI. Hội nghị tiến hành phân công các đồng chí trong Ban Thường vụ Tỉnh ủy như sau:
1 Đồng chí Giàng Seo Phử, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, trình Hội đồng nhân dân tỉnh cho thôi giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh để bầu giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh.
2. Đồng chí Bùi Quang Vinh, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh, trình Hội đồng nhân dân tỉnh cho thôi giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh để bầu giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh.
3. Đồng chí Nguyễn Đức Thăng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, trình Hội đồng nhân dân tỉnh cho thôi chức vụ Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh để giữ chức vụ Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy.
4. Đồng chí Nguyễn Văn Lăng, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy.
5. Đồng chí Hoàng Minh Ngọc, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, phụ trách Công an tỉnh.
53
6. Đồng chí Nguyễn Đình Vững, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy.
7. Đồng chí Ngô Văn Hùng, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, phụ trách quân đội của tỉnh.
8. Đồng chí Nguyễn Ngọc Kim, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy phụ trách thị xã Lào Cai.
9 Đồng chí Phạm Kỳ, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy.
10. Đồng chí Đặng Quốc Lộng, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh.
11 Đồng chí Giàng Thị Mỷ, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng ban Dân vận - Dân tộc Tỉnh ủy, kiêm Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh.
12. Đồng chí Trần Nguyên, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Chánh Văn phòng Tỉnh ủy, giới thiệu để Hội đồng nhân dân tỉnh bầu giữ chức vụ Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh.
13. Đồng chí Nguyễn Hữu Vạn, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh.
VII. Phân công một số đồng chí trong Ban Chấp hành như sau: 1. Đồng chí Phạm Ngọc Thăng, Tỉnh ủy viên, Phó Văn phòng Tỉnh ủy giữ chức vụ Chánh Văn phòng Tỉnh ủy.
2. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh tiến hành bầu đồng chí Hà Đức Miều, Tỉnh ủy viên giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh thay đồng chí Hoàng Chúng nghỉ chế độ.
3. Ban Chấp hành Hội Nông dân tỉnh tiến hành bầu đồng chí Nguyễn Văn Cự, Tỉnh ủy viên giữ chức vụ Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh. 4. Ban Chấp hành Liên đoàn Lao động tỉnh tiến hành bầu đồng chí Trang Thị Xinh, Tỉnh ủy viên giữ chức vụ Chủ tịch Liên đoàn Lao động tỉnh.
5. Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Lào Cai tiến hành bầu đồng chí Lý Văn Hải, Tỉnh ủy viên giữ chức vụ Bí thư Tỉnh Đoàn.
54
6. Điều động đồng chí Hoàng Đức Tiêu, Bí thư Huyện ủy Bát Xát về công tác tại một cơ quan tỉnh và điều động đồng chí Phạm Đình Chương, Tỉnh ủy viên, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Bảo Thắng giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy Bát Xát vào một thời gian thích hợp.
7. Các đồng chí Tỉnh ủy viên dự kiến giữ các chức vụ trưởng ngành được thực hiện theo quy trình về bổ nhiệm cán bộ.
VIII. Về bàn giao công tác và cho nghỉ chế độ
1. Các đồng chí Thường trực Tỉnh ủy, trưởng các ban Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy khóa XI tiến hành bàn giao công việc cho các đồng chí Thường trực Tỉnh ủy, trưởng các ban Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy khóa XII từ ngày 2-1-2001.
2. Các đồng chí sau đây nghỉ chờ để làm thủ tục nghỉ chế độ từ ngày 2-1-2001:
- Đồng chí Lương Xuân Mầu, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng ban Tuyên giáo khóa XI
- Đồng chí Phạm Ngọc Sửu, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng ban Tổ chức khóa XI.
- Đồng chí Thào A Tráng, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng ban Dân vận- Dân tộc khóa XI
- Đồng chí Nguyễn Công Tiến, Tỉnh ủy viên, Phó Chủ nhiệm Thường trực Ủy ban Kiểm tra khóa XI
- Đồng chí Nguyễn Xuân Đạc, Tỉnh ủy viên khóa XI, nguyên Bí thư Huyện ủy Than Uyên.
3. Các đồng chí giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định tiến hành bàn giao sau khi Hội đồng nhân dân tỉnh cho thôi giữ chức vụ cũ hoặc bầu giữ chức vụ mới và chuẩn y của Chính phủ.
T/M BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ
BÍ THƯ
GIÀNG SEO PHỬ
Lưu tại Kho Lưu trữ Tỉnh ủy.
55
QUYẾT ĐỊNH
CỦA BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY
Số 01-QĐ/TU, ngày 2-1-2001
Về việc chỉ định Bí thư Đảng ủy,
Ủy viên Ban Chấp hành Đảng ủy
Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh (nhiệm kỳ 2001 - 2005)
- Căn cứ vào Quy định số 36-QĐ/TW, ngày 9-5-1998 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về việc quy định tổ chức đảng trong lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam;
- Căn cứ vào Nghị quyết số 01-NQ/TU, ngày 29-12-2000 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lào Cai khoá XII (lần thứ nhất) và Nghị quyết của Ban Thường vụ Tỉnh ủy họp ngày 2-1-2001 về công tác cán bộ; - Xét đề nghị của đồng chí Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy,
BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1: 1- Chỉ định đồng chí Giàng Seo Phử, Bí thư Tỉnh ủy Lào Cai làm Bí thư Đảng ủy Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh.
2- Đồng chí Phạm Đình Phương, Ủy viên Ban Chấp hành Tỉnh ủy, Bí thư Đảng ủy, Chỉ huy trưởng Bộ đội Biên phòng tỉnh làm Ủy viên Ban Chấp hành Đảng ủy Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh. - Thời gian kể từ ngày 2-1-2001.
- Nhiệm vụ cụ thể do Ban Thường vụ Đảng ủy Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh phân công.
56
Điều 2: Các đồng chí Chánh Văn phòng Tỉnh ủy, Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Đảng ủy Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh và hai đồng chí có tên trên chịu trách nhiệm thực hiện Quyết định này.
T/M BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY
PHÓ BÍ THƯ THƯỜNG TRỰC
NGUYỄN ĐỨC THĂNG
Lưu tại Kho Lưu trữ Tỉnh ủy.
57
QUYẾT ĐỊNH
CỦA BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY
Số 05-QĐ/TU, ngày 4-1-2001
Về việc chỉ định Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy Công an tỉnh (nhiệm kỳ 2001 - 2005)
- Căn cứ vào Quy định số 38-QĐ/TW, ngày 18-5-1998 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng quy định về tổ chức đảng trong lực lượng công an nhân dân;
- Căn cứ vào Nghị quyết của Ban Thường vụ Tỉnh ủy họp ngày 2-1-2001 về công tác cán bộ;
- Xét đề nghị của đồng chí Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy,
BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1: Chỉ định đồng chí Nguyễn Đức Thăng, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy làm Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy Công an tỉnh kể từ ngày 2-1-2001.
Nhiệm vụ cụ thể do Ban Thường vụ Đảng ủy Công an tỉnh phân công. Điều 2: Các đồng chí Chánh Văn phòng Tỉnh ủy, Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Đảng ủy Công an tỉnh và đồng chí Nguyễn Đức Thăng chịu trách nhiệm thực hiện Quyết định này.
T/M BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY
BÍ THƯ
GIÀNG SEO PHỬ
Lưu tại Kho Lưu trữ Tỉnh ủy.
58
THÔNG BÁO
CỦA BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY
Số 09-TB/TU, ngày 5-1-2001
Về việc bầu cử giữ các chức vụ chủ chốt
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Hội Nông dân,
Liên đoàn Lao động tỉnh và Bí thư Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Lào Cai
Ban Chấp hành Tỉnh ủy khóa XII (nhiệm kỳ 2000-2005) họp ngày 28-12-2000 đã có Nghị quyết số 01-NQ/TU về việc phân công nhiệm vụ cho các Ủy viên Ban Chấp hành Tỉnh ủy.
Ngày 2-1-2001, Ban Thường vụ Tỉnh ủy họp đã có Nghị quyết về việc bầu cử các chức danh do Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã phân công.
1. Đồng chí Hà Đức Miều, Tỉnh ủy viên, Ủy viên Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc tỉnh, Bầu giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Lào Cai.
2. Đồng chí Nguyễn Văn Cự, Tỉnh ủy viên, Bí thư Đảng đoàn Hội Nông dân tỉnh, bầu giữ chức vụ Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh Lào Cai.
3. Đồng chí Trang Thị Xinh, Tỉnh ủy viên, Ủy viên Đảng đoàn, Phó Chủ tịch Liên đoàn Lao động tỉnh, bầu giữ chức vụ Chủ tịch Liên đoàn Lao động tỉnh Lào Cai.
4. Đồng chí Lý Văn Hải, Tỉnh ủy viên, Ủy viên Thường vụ Tỉnh Đoàn, bầu giữ chức vụ Bí thư Tỉnh Đoàn Lào Cai.
59
Các Đảng đoàn Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, Hội Nông dân tỉnh, Liên đoàn Lao động tỉnh và Ban Thường vụ Tỉnh Đoàn Lào Cai căn cứ vào Điều lệ tổ chức bầu cử theo đúng quy định. Bầu cử xong báo cáo kết quả về Tỉnh ủy trước ngày 15-1-2001.
T/M BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY
BÍ THƯ
GIÀNG SEO PHỬ
Lưu tại Kho Lưu trữ Tỉnh ủy.
60
THÔNG BÁO
KẾT LUẬN CỦA BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY Số 11-TB/TU, ngày 5-1-2001
Do đến nay Ban Thường vụ Tỉnh ủy chưa nhận được văn bản thỏa thuận của Đảng đoàn Hội Nông dân Trung ương về việc bầu đồng chí Vương Thị Nghì, Ủy viên Đảng đoàn Hội Nông dân tỉnh giữ chức vụ Phó Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Lào Cai thống nhất kết luận: Trước mắt bầu đồng chí Vương Thị Nghì, Ủy viên Đảng đoàn Hội Nông dân giữ chức vụ Ủy viên Ban Chấp hành, bầu giữ chức vụ Trưởng ban Kiểm tra.
Thông báo này thay cho Mục 5 Thông báo số 628-TB/TU, ngày 13-12-2000 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy.
T/L BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY
CHÁNH VĂN PHÒNG
PHẠM NGỌC THĂNG
Lưu tại Kho Lưu trữ Tỉnh ủy.
61
BÁO CÁO
CỦA BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY
Số 01-BC/TU, ngày 5-1-2001
Tổng kết công tác nội chính năm 2000
Phần thứ nhất
ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC NỘI CHÍNH NĂM 2000
I. TÌNH HÌNH AN NINH CHÍNH TRỊ, TRẬT TỰ,
AN TOÀN XÃ HỘI
Năm 2000 là năm có nhiều sự kiện lịch sử trọng đại. Đảng, Nhà nước đã tổ chức nhiều lễ kỷ niệm lớn, phát động nhiều phong trào thi đua yêu nước để cán bộ, chiến sĩ và các tầng lớp nhân dân phấn đấu thi đua hoàn thành các mục tiêu kế hoạch đề ra đạt kết quả tốt. Song bên cạnh đó tình hình trên thế giới, khu vực và trong nước còn nhiều diễn biến phức tạp đã ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình an ninh chính trị trên địa bàn. Sau khi hai Nhà nước Việt Nam và Trung Quốc ký Hiệp ước biên giới trên bộ ngày 31-12-1999 đã tạo điều kiện thuận lợi để hai bên quản lý tốt đường biên giới giữ vững ổn định trên tuyến biên giới, các vụ việc vi phạm giảm so với năm 1999. Tuy nhiên, tình hình ngoại biên và trên tuyến biên giới các vi phạm hiệp định tạm thời vẫn thường xuyên xảy ra: phía Trung Quốc vẫn duy trì các hoạt động quân sự ở dọc tuyến biên giới Lào Cai - Vân Nam, tổ chức luyện tập cấp phân đội nhỏ, củng cố hầm hào quân sự, tổ chức xây kè chống xói lở, nổ mìn làm đường, đẩy mạnh các hoạt động xâm canh, khai thác gỗ, chia đất
62
cho dân sản xuất ở các khu vực 51c và 52c với tính chất tạo việc đã rồi trên biên giới. Đồng thời thực hiện một số chủ trương như truy quét tội phạm ở khu vực biên giới, kết hợp đẩy người Việt Nam cư trú trái phép ở khu vực biên giới về Việt Nam. Công dân Trung Quốc thường xuyên vi phạm hiệp định tạm thời mà hai nhà nước đã ký kết như nổ mìn đánh cá trên sông Nậm Thi, lấn chiếm đất đai, xuất, nhập cảnh trái phép... Đây là những nhân tố dễ gây mất ổn định biên giới nếu chúng ta không cảnh giác tốt và có các biện pháp phòng ngừa thích hợp.
Các hoạt động lợi dụng tôn giáo tuyên truyền đạo trái phép trên địa bàn tuy không phát triển thêm nhiều nhưng vẫn diễn ra phức tạp. Hoạt động của Thiên Chúa giáo được tăng cường nhằm củng cố tổ chức thành hệ thống, hoạt động có chiều sâu trên địa bàn Lào Cai. Năm 2000 có 1.374 hộ/5.088 khẩu tăng 199 hộ, 441 khẩu so với năm 1999. Đạo Tin Lành tiếp tục hoạt động và phát triển, các đối tượng cầm đầu thường xuyên tụ tập giáo dân để học đạo trái phép. Ngoài ra còn có một số đối tượng là người nước ngoài lợi dụng hoạt động du lịch đến các địa bàn huyện Sa Pa, Bát Xát, thị xã Lào Cai... để phát tán tài liệu có nội dung tuyên truyền đạo trái phép. Năm 2000 có 2.440 hộ,14.761 khẩu tăng 32 hộ, 302 khẩu so với năm 1999, chủ yếu là dân tộc Mông, dân tộc Dao tập trung nhiều ở các địa bàn Bát Xát, Bắc Hà, Sa Pa. Ban chỉ đạo 184 của tỉnh và các huyện đã tích cực tuyên truyền vận động nhân dân cảnh giác trước âm mưu lợi dụng tôn giáo của bọn phản động để chống phá cách mạng nước ta. Nên nhìn chung mức độ hoạt động của đạo Tin Lành không rầm rộ như thời gian trước.
Tình trạng di cư tự do giảm đáng kể so với năm 1999, do cấp ủy và chính quyền các cấp và các ban, ngành làm tốt công tác tuyên truyền vận động, giúp đỡ đồng bào định canh định cư, xử lý nghiêm các đối tượng kích động lôi kéo đồng bào di cư. Số hộ di cư năm 2000 là 166 hộ, 843 khẩu giảm 499 hộ, 2.456 khẩu so với năm 1999, các hộ di cư tập trung nhiều ở các địa bàn huyện Bảo Thắng, Bắc Hà, Bát Xát; số hộ quay trở về là 42 hộ, 205 khẩu trở về nơi cũ đã được chính quyền địa phương tạo điều kiện giúp đỡ đã ổn định đời sống.
63
Tình hình an ninh nông thôn có những diễn biến phức tạp, nổi lên là một số vụ việc như hiếp dâm, hủy hoại tài sản, tranh chấp đất đai, khiếu kiện đông người, vượt cấp, các mâu thuẫn vẫn thường xảy ra làm ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội.
Năm 2000, toàn tỉnh xảy ra 602 vụ vi phạm về trật tự, an toàn xã hội giảm 206 vụ so với năm 1999. Tuy vậy, đã xảy ra một số vụ trọng án với tính chất mức độ đặc biệt nguy hiểm, thủ đoạn phạm tội khá tinh vi xảo quyệt. Tình hình trên đã gây hoang mang trong một số cộng đồng dân cư, nhiều vụ án các cơ quan bảo vệ pháp luật phải xác định án điểm để điều tra xử lý nhanh, nêu cao tính giáo dục, xử lý nghiêm khắc đối với kẻ phạm tội. Thu nhiều tài sản, hàng hóa, tiền bạc bị bọn tội phạm chiếm đoạt trả lại cho Nhà nước và nhân dân.
II. KẾT CỦA CÔNG TÁC NỘI CHÍNH NĂM 2000
1. Công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm
Tỉnh ủy đã chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị quyết về an ninh quốc gia trong tình hình mới của Bộ Chính trị tới các ngành, huyện và cán bộ chủ chốt xã. Đồng thời tiếp tục thực hiện nghiêm chỉnh các chỉ thị, nghị quyết, kế hoạch của Trung ương Đảng, Chính phủ và Bộ Công an về công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Trong năm 2000 đã bắt giữ 392 đối tượng, trong đó có 41 đối tượng truy nã, bắt khẩn cấp 105 đối tượng, bắt quả tang 200 đối tượng và bắt tạm giam 46 đối tượng, đã khởi tố 197 vụ, 292 bị can. Đồng thời đã làm tốt công tác quản lý tạm trú, tạm vắng, quản lý trật tự công cộng kết hợp với công tác giáo dục quản lý đối tượng chính trị trên địa bàn. Phong trào phòng, chống tệ nạn về ma túy đã được các cấp, các ngành, các tổ chức thực hiện tốt. Lực lượng Công an đã phối hợp tốt với các cấp, các ngành thường xuyên xây dựng củng cố mạng lưới an ninh nhân dân ở cơ sở, kết hợp với các biện pháp nghiệp vụ đã tạo ra những bước chuyển biến tốt trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
64
2. Công tác triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở
Thực hiện theo Kế hoạch 01 và Công văn số 412, ngày 15-2-2000 của Trung ương về việc tiến hành kiểm tra việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Tỉnh đã ra Kế hoạch 09/KH-TU và Hướng dẫn 23-HD/TU về kiểm tra Quy chế dân chủ gửi xuống các huyện, thị ủy, Đảng ủy, các Ban cán sự Đảng, các sở, ban, ngành... Đồng thời thành lập Ban chỉ đạo kiểm tra Quy chế dân chủ và các đoàn kiểm tra ở một số cơ sở điểm. Tổ chức học tập các Chỉ thị 30 của Bộ Chính trị, Chỉ thị 22 của Chính phủ, Nghị định 26/CP cho 180/180 xã, phường, thị trấn và cán bộ, đảng viên. Qua quá trình triển khai học tập, nghiên cứu những nội dung của Quy chế dân chủ để nhân dân hiểu rõ về quyền và nghĩa vụ của công dân, những nội dung dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát việc thu chi các loại quỹ, chế độ nguồn vay vốn các loại, giám sát các hoạt động của cán bộ cơ sở (đại biểu Hội đồng nhân dân, trưởng thôn, trưởng bản )... Qua đó, niềm tin của nhân dân đối với chính quyền cơ sở, với Đảng, Nhà nước ngày càng được củng cố, tạo nên mối quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng.
Đối với các cơ quan trong ngành nội chính nhìn chung cán bộ, đảng viên đều đã nhận thức sâu sắc nội dung cơ bản của quy chế thực hiện dân chủ cơ sở, các cơ quan đã tiến hành rà soát điều chỉnh quy chế làm việc của cơ quan cho phù hợp với Quy chế dân chủ, củng cố kiện toàn tổ chức bộ máy, kiểm điểm và đề ra các biện pháp khắc phục trong công khai tài chính, chế độ phân bổ ngân sách. Cán bộ, công chức phát huy tinh thần trách nhiệm, bảo đảm tinh thần đoàn kết nội bộ, đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực.
3. Hoạt động của các ngành nội chính
Công tác quân sự quốc phòng: Thường xuyên duy trì chặt chẽ chế độ sẵn sàng chiến đấu, nắm chắc tình hình biên giới, nội địa, kịp thời ngăn chặn và giải quyết tốt những diễn biến phức tạp xảy ra. Thực hiện tốt chỉ thị của Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh về xây dựng kế hoạch, chỉ đạo diễn tập khu vực phòng thủ huyện Bảo Thắng, diễn tập 2 cụm
65
quốc phòng an ninh liên xã - phường ở thị xã Cam Đường và huyện Bát Xát. Tập chung chỉ đạo xây dựng, bổ sung hoàn chỉnh văn kiện, kế hoạch phương án tác chiến theo yêu cầu nhiệm vụ được giao, xây dựng kế hoạch A2, A3 cấp tỉnh và các đơn vị, huyện thị. Công tác xây dựng lực lượng, huấn luyện, hậu cần, kỹ thuật... đều đạt cả về số lượng và chất lượng bảo đảm sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống.
Lực lượng công an đã triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, tiếp tục thực hiện Nghị quyết 09 và chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm, tập trung lực lượng nắm tình hình nội, ngoại biên chủ động phát hiện âm mưu thủ đoạn của các đối tượng cơ quan đặc biệt nước ngoài, cùng với Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh tham gia diễn tập khu vực phòng thủ huyện Bảo Thắng, thị xã Cam Đường đạt kết quả tốt.
- Công tác kiểm sát đã có nhiều cố gắng, sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ chuyên môn như kiểm sát văn bản năm 2000 ngành nghiên cứu 183 văn bản, đã phát hiện 60 văn bản vi phạm, văn bản vi phạm chủ yếu ở phần hình thức (38) về nội dung (15), vi phạm về thẩm quyền 7 văn bản... hậu quả làm thiệt hại cho ngân sách 789.370.000 đồng và gây thiệt hại cho công dân 3.000.000 đồng. Kiểm sát việc chấp hành pháp luật tại 66 đơn vị, qua đó đã yêu cầu thu hồi 497,9 triệu đồng, đã thu hồi được 281,5 triệu đồng, yêu cầu xử lý 48 cá nhân, trong đó đã khởi tố 2 đối tượng. Công tác kiểm sát xét xử tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố nhà nước ngành đã kiểm sát 1.020 tin báo có dấu hiệu tội phạm. Qua phân loại đã khởi tố 354 vụ để điều tra xử. Công tác điều tra đã thụ lý 17 tin báo tố cáo tội phạm, đã giải quyết xong 13 tin: Trong đó đề nghị khởi tố hình sự 3 tin, có kết luận trả lời 7, đang thụ lý 4 tin. Công tác kiểm sát tuân theo pháp luật trong thi hành án hình sự là 505 bị án, đã thi hành 447 bị án, kiểm sát việc thi hành án dân sự là 3.203, trong đó thi hành xong 935 việc, tổng số tiền phải thi hành 20.257.035.000 đồng, đã thi hành được 921.711.000 đồng, số tiền đã thu chưa thi hành 64.051.000 đồng, hiện còn phải thi hành 19.132.004.000 đồng.
66
Trong công tác kiểm sát xét sử sơ thẩm đã thụ lý giải quyết đối với 692 vụ án kiện dân sự sơ thẩm tăng 32 vụ so với cùng kỳ năm trước. Đã kiểm soát việc lập hồ sơ 623/692 vụ đạt 90%. Kiểm soát xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm năm 2000, thu lý 32 vụ, án giám đốc thẩm giải quyết 3 vụ. Công tác kiểm sát giải quyết khiếu nại tố cáo đã tiến hành kiểm sát việc chấp hành pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân tại 20 cơ quan, đơn vị có thẩm quyền; trong đó trực tiếp kiểm sát 18, yêu cầu cung cấp tài liệu 2; đã ban hành 20 kháng nghị yêu cầu khắc phục vi phạm. Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng trong việc tiếp nhận quản lý và xử lý các thông tin vi phạm, tội phạm. Triển khai thực hiện Chỉ thị 53 của Bộ Chính trị về một số công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000. Chủ trì phối hợp với các ngành Công an, Tòa án, Mặt trận Tổ quốc và một số cơ quan chức năng thực hiện Kế hoạch 07/KHLN của Liên ngành Trung ương, tổ chức kiểm tra liên ngành về việc bắt, giam, giữ, xử lý tại các nhà tạm giữ, trại tạm giam của tỉnh Lào Cai.
Qua kiểm tra của liên ngành trong toàn tỉnh không có trường hợp nào phải giải quyết trả tự do hoặc thay đổi biện pháp ngăn chặn, miễn trách nhiệm hình sự theo Nghị quyết 32 và Nghị quyết 229 của Quốc hội, không có trường hợp nào giam giữ quá hạn thuộc thẩm quyền của cơ quan tố tụng tỉnh Lào Cai. Công tác quản lý giam giữ được thực hiện theo đúng Nghị quyết 89/CP.
- Tòa án nhân dân tỉnh và các huyện, thị đã tập trung giải quyết tốt các loại án, không để tồn đọng quá thời hạn luật định, đạt chất lượng cao. Quá trình xét xử nghiêm minh, đúng pháp luật. Năm 2000 toàn tỉnh đã giải quyết án hình sự 420 vụ với 646 bị cáo, án tranh chấp dân sự 256 vụ; án hôn nhân gia đình 374 vụ. Các vụ án tranh chấp dân sự và hôn nhân gia đình đều được chú trọng giải quyết đúng pháp luật trên tinh thần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự, đặc biệt công tác hòa giải được coi trọng, qua đó giải quyết kịp thời những mâu thuẫn nội bộ, góp phần ổn định trật tự trị an xã hội.
67
- Ngành Tư pháp đã thực hiện tốt công tác rà soát văn bản; phổ biến, giáo dục pháp luật đợt 1 và triển khai bước 1 kế hoạch đợt 2 năm 2000, tiếp tục triển khai kế hoạch 641 của Ủy ban nhân dân tỉnh về xây dựng tủ sách pháp luật ở xã, phường. Công tác đào tạo đội ngũ báo cáo viên được chú trọng, các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật được mở rộng, đổi mới phù hợp với từng đối tượng mang lại hiệu quả thiết thực. Công tác thi hành án dân sự năm 2000 toàn tỉnh đã thụ lý và đưa ra thi hành 2.670 vụ việc đã giải quyết được 1.115 vụ việc. Các đơn thư khiếu nại về việc thi hành án cơ bản được giải quyết kịp thời, đúng pháp luật.
- Lực lượng hải quan đã có nhiều đổi mới trong công tác quản lý, điều hành xuất, nhập khẩu hàng hóa, tổ chức lực lượng quản lý cửa khẩu biên giới, phối hợp quản lý liên ngành đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại trên địa bàn tỉnh. Từng bước cải cách thủ tục hành chính trong hoạt động xuất, nhập khẩu, xuất, nhập cảnh. Công tác thanh tra, kiểm tra đã tiến hành thường xuyên, năm 2000 đã xử lý 41 vụ, phạt tiền 75,7 triệu đồng, khởi tố một vụ buôn bán chất gây nghiện.
- Lực lượng kiểm lâm đã thực hiện tốt Chỉ thị 287/CT-TTg, Chỉ thị 853/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ và các văn bản chỉ đạo của tỉnh, của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về công tác quản lý bảo vệ rừng và quản lý lâm sản, thường xuyên phối hợp tốt với các lực lượng khác và quần chúng ở các địa phương tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác quản lý, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản trên địa bàn tỉnh. Trong năm 2000 đã phát hiện và lập biên bản 617 vụ vi phạm luật “Bảo vệ và phát triển rừng”, đã xử lý 617 vụ, phạt hành chính 616 vụ, truy tố hình sự 1 vụ, tịch thu 326, m3 gỗ các loại (trong đó gỗ pơ mu là 57,9 m3), thu giữ 250 con động vật rừng, trọng lượng 306,6 kg gồm các loài gấu, khỉ, trăn, nai... đã tổ chức thả vào rừng số động vật trên, tịch thu 4 chiếc ôtô, 2 xe máy, 12 chiếc xe đạp và 4 con trâu. Tổng số tiền phạt và xử lý thu 712.927.880 đồng. Công tác tuyên truyền pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng được tổ chức sâu
68
rộng đến nhân dân kết hợp với việc xây dựng quy ước bảo vệ rừng gắn với các hương ước của các thôn, bản nơi có rừng; tình hình cháy rừng giảm so cùng kỳ năm trước.
- Công tác đối ngoại: Năm 2000 công tác đối ngoại đã đạt được nhiều kết quả tốt. Tổ chức thành công cho Đoàn đại biểu cấp cao của tỉnh sang thăm hữu nghị chính thức tỉnh Vân Nam - Trung Quốc và Đoàn của Hội hữu nghị Việt - Trung sang thăm và dự khai mạc Hội chợ Côn Minh. Các hoạt động khác cũng được đẩy mạnh nhằm tạo môi trường thuận lợi cho các tổ chức quốc tế đến nghiên cứu, khảo sát và hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội và công tác quản lý biên giới. Tổ chức tốt việc thành lập các đoàn ra và đón tiếp các đoàn vào làm việc trong tỉnh, tổng số có 70 đoàn ra và 86 đoàn vào, trong đó có 3 đoàn mang tính chất ngoại giao, 13 đoàn vào nghiên cứu, 34 đoàn của các tổ chức quốc tế và NGO kiểm tra, thực hiện khảo sát các dự án tại tỉnh, 11 đoàn vào hoạt động báo chí, còn lại các đoàn đi với mục đích tham quan, học tập và khảo sát. Không có vi phạm trong hoạt động ngoại giao, Ban Ngoại vụ và Biên giới đã phối hợp chặt chẽ với Bộ chỉ huy Biên phòng trực tiếp tham mưu cho tỉnh, chuẩn bị mọi mặt để triển khai từng bước kế hoạch phân giới cắm mốc biên giới trên thực địa của tỉnh Lào Cai.
- Công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo: Thanh tra các cấp, ngành đã tiếp 455 lượt công dân, tiếp nhận 693 đơn khiếu nại, tố cáo. Nội dung đơn thư khiếu nại, đề nghị liên quan đến lĩnh vực đất đai chiếm 55%; chế độ chính sách chiếm 25% số còn lại là các lĩnh vực khác. Đơn tố cáo phản ánh nhiều về những biểu hiện vi phạm chính sách pháp luật kinh tế tài chính, lao động việc làm, chính sách xã hội và tố cáo một số cán bộ có hành vi tham nhũng, vi phạm Quy chế dân chủ... nổi lên một số vụ việc khiếu kiện đông người, kéo dài, vượt cấp chủ yếu ở Bảo Thắng, thị xã Cam Đường, thị xã Lào Cai, đặc biệt là tình hình ở Nông trường Thanh Bình - Mường Khương phức tạp kéo dài, tỉnh đã chỉ đạo các cấp, ngành chức năng tập trung giải quyết đến nay tình hình đã tương đối ổn định.
69
Thông qua kết quả giải quyết cho thấy: Tố cáo đúng 50%, có đúng có sai 35%, sai hoàn toàn 15%. Qua việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thanh tra các cấp, các ngành đã xử lý và kiến nghị xử lý: thu hồi 4.450.000 đồng, thu phạt 6.000.000 đồng, điều chỉnh 9,965 m2 đất đai, khôi phục quyền lợi kinh tế, trả lại cho công dân 35.530.000 đồng, kỷ luật hành chính 18 người.
Thông qua hoạt động thanh tra kinh tế - xã hội đã phát hiện một số vụ việc có các biểu hiện tham nhũng như cố ý làm trái, thanh quyết toán khống và bớt xén. Tổng số tiền và tài sản bị thất thoát trị giá 13,325 tỷ đồng, 25 m3 gỗ, 45.225 m2 đất đai trong đó có 3.943 m2 đất đô thị. Nhìn chung việc tổ chức chỉ đạo thực hiện các hoạt động thanh tra kinh tế - xã hội có trọng tâm trọng điểm, rút ngắn được thời gian các cuộc thanh tra trực tiếp tại các đơn vị, bảo đảm đạt được các mục tiêu, yêu cầu, nội dung đặt ra, không có sự chồng chéo.
4. Một số tồn tại
- Công tác nắm bắt tình hình trên địa bàn ở một số huyện, thị và ngành chưa sâu, báo cáo chưa kịp thời, có vụ việc thiếu chính xác. - Công tác vận động quần chúng chống lợi dụng tôn giáo tuyên truyền đạo trái phép và di dịch dân cư tự do còn nhiều hạn chế, thiếu sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành.
- Công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nhân dân còn hạn chế. Tình hình tội phạm giảm nhưng còn một số vụ phạm pháp hình sự về tội giết người, hiếp dâm, đặc biệt là hiếp dâm trẻ em có tính phức tạp hơn.
- Tình hình buôn lậu qua biên giới tuy không lớn nhưng hằng ngày vẫn diễn ra, công tác quản lý cán bộ, chiến sĩ còn hạn chế, có biểu hiện tiêu cực, sách nhiễu ở một vài trường hợp tại cửa khẩu.
- Công tác giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo của công dân có việc còn chậm, chồng chéo, chưa dứt điểm, còn để tình trạng khiếu kiện đông người kéo dài ở Nông trường Thanh Bình, thôn Tân Tiến, xã Gia Phú, huyện Bảo Thắng và một số nơi.
70
- Trong công tác phối kết hợp giữa các cấp, các ngành có lúc thiếu đồng bộ chặt chẽ, còn có biểu hiện đùn đẩy trách nhiệm cho nhau, thiếu kiên quyết trong việc ngăn chặn và xử lý vi phạm.
III. SỰ LÃNH ĐẠO CỦA TỈNH ỦY VỀ CÔNG TÁC NỘI CHÍNH
Năm 2000, Tỉnh ủy đã thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, đôn đốc kiểm tra nội dung hoạt động, củng cố tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ các cơ quan Khối Nội chính theo đúng chức năng đã được pháp luật quy định. Thường trực Tỉnh ủy duy trì thường xuyên giao ban nội chính hằng tháng để nghe báo cáo tình hình và thống nhất chủ trương giải quyết, xử lý các vấn đề trong công tác quốc phòng, an ninh; công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại... Văn phòng Tỉnh ủy đã tiến hành theo dõi nắm tình hình, đôn đốc các cấp, các ngành thực hiện nghiêm chỉnh thông báo, kết luận của Thường trực Tỉnh ủy, cung cấp thông tin kịp thời, chính xác để Văn phòng tổng hợp báo cáo Thường trực hằng tuần, tháng và năm. Nhờ đó đã tạo nên sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ trong hoạt động của Khối Nội chính, giải quyết dứt điểm được nhiều vụ việc phức tạp.
Ngay từ đầu năm Tỉnh ủy đã chỉ đạo các ngành trong Khối Nội chính phối hợp chặt chẽ với các cấp, các ngành nắm chắc tình hình diễn biến tư tưởng trong nhân dân, nhất là dịp Tết cổ truyền và kỷ niệm các ngày lễ lớn trong năm; tổ chức tuyên truyền giải thích về Hiệp ước biên giới trên bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc ký ngày 31-12-1999, đồng thời chỉ đạo triển khai học tập nghiêm túc nghị quyết của Bộ Chính trị về an ninh quốc gia trong tình hình mới, tiếp tục thực hiện tốt Chỉ thị 29-CT/TW về “tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật”, Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII) về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh; triển khai và thực hiện đồng bộ Chỉ thị 853-CT/TTG và Chỉ thị
71
287-CT/TTg của Thủ tướng Chính phủ. Tăng cường công tác kiểm tra kiểm soát, chống buôn lậu qua biên giới, sắp xếp ổn định dân cư, phát triển kinh tế - xã hội ở 26 xã biên giới. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), Tỉnh ủy đã chỉ đạo sát sao đối với các cấp ủy Đảng ở các cơ quan nội chính thực hiện nghiêm túc kiểm điểm tự phê bình và phê bình đạt kết quả tốt. Công tác triển khai thực hiện Bộ Luật hình sự năm 1999 và các chỉ thị, nghị quyết kế hoạch có liên quan đều được chỉ đạo thực hiện đúng hướng dẫn của Trung ương
Thực hiện Hướng dẫn số 01-HD/NCTW, ngày 6-4-2000 của Ban Nội chính Trung ương về việc thực hiện Chỉ thị 53-CT/TW của Bộ Chính trị; để tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ công tác của các cơ quan tư pháp trên địa bàn của tỉnh theo tinh thần Chỉ thị 53-CT/TW, Tỉnh ủy đã xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện, mở hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh để quán triệt và triển khai kế hoạch. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng trong công tác kiểm tra, hằng tháng thông qua Ban Nội chính báo cáo về các mặt công tác của ngành để kịp thời có ý kiến chỉ đạo và giải quyết. Đối với các cơ quan trong Khối Nội chính phải tổ chức thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của ngành mà luật pháp quy định, chống hữu khuynh, cục bộ, tiêu cực, kiên quyết khắc phục oan sai trong công tác điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử các vụ án hình sự và các khiếu nại, tố cáo thuộc lĩnh vực tư pháp. Phải phối hợp giải quyết dứt điểm để củng cố niềm tin của nhân dân đối với các cơ quan tư pháp, đồng thời phải tiếp tục rà soát, đánh giá, xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức của cơ quan trong Khối Nội chính, kiên quyết xử lý nghiêm minh đối với cán bộ có sai phạm, sa sút về phẩm chất chính trị, đạo đức và lối sống. Có kế hoạch bố trí đội ngũ cán bộ đủ về số lượng và bảo đảm về chất lượng. Các ngành tư pháp trong năm qua đã thực hiện tốt chỉ đạo của Tỉnh ủy trong việc thực hiện Chỉ thị 53- CT/TW của Bộ Chính trị đã góp phần quan trọng làm ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn của tỉnh. Tạo chuyển biến tích cực trong công tác tư pháp từ cơ sở, góp phần
72
củng cố niềm tin của nhân dân đối với các cơ quan tư pháp, với Đảng, với Nhà nước.
Trong năm qua Tỉnh ủy đã ra một số chỉ thị tăng cường chỉ đạo công tác quân sự quốc phòng như xây dựng lực lượng, diễn tập khu vực phòng thủ, ngăn chặn và đối phó kịp thời mọi tình huống xảy ra trên địa bàn, phòng, chống có hiệu quả âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; chỉ đạo về công tác vận động quần chúng thực hiện chính sách tôn giáo trong tình hình mới, chỉ thị về công tác kiểm sát.
Nhìn chung năm 2000, Tỉnh ủy đã lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan Khối Nội chính thực hiện tốt các nhiệm vụ đúng chủ trương đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, góp phần tạo nên thắng lợi trong thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh.
Phần thứ hai
PHƯƠNG HƯỚNG CÔNG TÁC NĂM 2001
I. SỰ LÃNH ĐẠO, CHỈ ĐẠO CỦA TỈNH ỦY
ĐỐI VỚI CÔNG TÁC NỘI CHÍNH
Quán triệt đường lối chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, Tỉnh ủy tập trung chỉ đạo các ngành trong Khối Nội chính triển khai thực hiện một số nhiệm vụ trọng yếu sau:
Tổ chức chỉ đạo các cấp và các ngành Khối Nội chính thực hiện nghiêm chỉnh các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Chính phủ và các chương trình, kế hoạch của Tỉnh ủy trong công tác an ninh, quốc phòng và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, có tổ chức, tổng kết, rút kinh nghiệm từng đợt. Tập trung khắc phục những tồn tại, khuyết điểm của tập thể và cá nhân trong các cơ quan nội chính đã được nêu ra trong đợt kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 2. Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ và các vấn đề an ninh chính trị khác, giải quyết tốt vấn đề khiếu kiện
73
trong nhân dân, nắm chắc diễn biến tư tưởng của dân và những nơi có nguy cơ xảy ra “điểm nóng” để ngăn chặn, xử lý kịp thời phục vụ cho Đại hội Đảng lần thứ IX diễn ra thành công tốt đẹp.
Trong công tác đối ngoại, mở rộng quan hệ theo đúng nguyên tắc đối ngoại mà Đảng, Nhà nước quy định, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các tổ chức trong nước và quốc tế đến nghiên cứu, khảo sát thị trường, liên doanh trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ kỹ thuật...
II. MỘT SỐ NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM NĂM 2001
- Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, các Ban cán sự, Đảng đoàn đối với các cơ quan nội chính, đặc biệt thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) của Đảng. Củng cố phát huy hơn nữa mối quan hệ giữa chính quyền với các cơ quan tư pháp và các đoàn thể các cấp. Giữ vững an ninh chính trị, an ninh biên giới và trật tự, an toàn xã hội. Đẩy mạnh việc thực hiện chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm và ma túy.
- Tăng cường quản lý công tác quân sự quốc phòng, quản lý chặt chẽ vũ khí, trang thiết bị kỹ thuật, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, hoàn thành công tác huấn luyện dân quân tự vệ và quân dự bị động viên theo kế hoạch.
- Tiếp tục thực hiện tốt Chỉ thị 853-CT/TTg và Chỉ thị 287-CT/TTg của Thủ tướng Chính phủ về chống buôn lậu và gian lận thương mại trên địa bàn tỉnh.
- Thường xuyên nắm vững tình hình cơ sở, phát hiện kịp thời hoạt động của các đối tượng liên quan đến an ninh chính trị. Đấu tranh kiên quyết với các hoạt động cài cắm, móc nối, mua chuộc vào nội bộ ta. Tôn trọng tự do tín ngưỡng của nhân dân, nhưng phải có thái độ kiên quyết với những đối tượng lợi dụng tôn giáo tuyên truyền phản động; thực hiện có hiệu quả chương trình, kế hoạch của Ban 184 các cấp
74
- Tăng cường và nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật, thực hiện 100% xã, phường có tủ sách pháp luật, xây dựng ý thức quốc gia, quốc giới trong nhân nhân. Thực hiện nghiêm chỉnh Hiệp ước biên giới trên bộ của hai Nhà nước Việt Nam và Trung Quốc ký ngày 31-
12-1999.
- Tổ chức tốt công tác tiếp dân, giải quyết kịp thời đơn thư khiếu nại tố cáo và những mâu thuẫn trong nhân dân, không để xảy ra tình trạng khiếu kiện tập thể, vượt cấp.
- Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan nội chính trong công tác phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, giải quyết dứt điểm, kịp thời xử lý nghiêm minh các vụ việc xảy ra trên địa bàn, đặc biệt là các vụ trọng án. Phối hợp thực hiện tốt Thông tư 03/LN về việc tiếp nhận, quản lý và xử lý tin báo tội phạm.
T/M BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY
PHÓ BÍ THƯ THƯỜNG TRỰC
NGUYỄN ĐỨC THĂNG
Lưu tại Kho Lưu trữ Tỉnh ủy.
75
CHỈ THỊ
CỦA BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY
Số 01-CT/TU, ngày 8-3-2001
Về việc lãnh đạo công tác an ninh trật tự năm 2001
Năm 2001 là năm tổ chức Đại hội và thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, đồng thời triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005 và năm 2001 theo nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ XII nhiệm kỳ 2000 - 2005 (...). Kết quả bước đầu thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) về cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng, các tổ chức đảng đã có biện pháp củng cố và tăng cường công tác xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, cùng với việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở bước đầu được quần chúng nhân dân đồng tình ủng hộ. Quan hệ hai nước Việt - Trung có những bước phát triển tích cực. Quốc hội hai nước đã phê chuẩn Hiệp ước biên giới đất liền, đang bước vào giai đoạn tổ chức thực hiện trên thực địa nên đã có tác động tích cực đến tình hình an ninh - trật tự trên tuyến biên giới. Đây là những điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế và ổn định an ninh quốc phòng của tỉnh trong năm 2001 và những năm tiếp theo.
Song bên cạnh đó, các thế lực thù địch không từ bỏ âm mưu chống phá cách mạng nước ta, tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình” triệt để lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, nhân quyền, để tạo cớ can thiệp, các cơ quan đặc biệt nước ngoài núp dưới các danh
76
nghĩa để vào địa bàn hoạt động. Quá trình thực hiện các dự án hợp tác kinh tế, văn hóa, xã hội với nước ngoài trên địa bàn của tỉnh sẽ có nhiều cơ hội để xây dựng và phát triển về mọi mặt, nhưng cũng đặt ra cho công tác bảo đảm an ninh trật tự ở địa phương những phức tạp mới. Tình hình hoạt động tội phạm có chiều hướng giảm, nhưng chưa vững chắc, vẫn xảy ra các vụ trọng án có tính chất tinh vi xảo quyệt, tàn bạo như các tội phạm về ma túy, giết người, cướp tài sản, hiếp dâm, tội phạm qua biên giới, bên cạnh đó tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông có chiều hướng gia tăng... Cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh trật tự trong thời gian tới sẽ diễn ra gay go quyết liệt phức tạp hơn đòi hỏi các cấp ủy Đảng chính quyền địa phương, các cơ quan, ban, ngành, các lực lượng cần chủ động xây dựng các phương án an ninh vững chắc.
Để chủ động giữ vững an ninh chính trị, an ninh biên giới và trật tự, an toàn xã hội, Ban thường vụ Tỉnh ủy Lào Cai chỉ thị các cấp, các ngành:
1. Tổ chức quán triệt thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nghị quyết Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ XII, gắn liền nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự với nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương. Tăng cường đoàn kết giữa các dân tộc đi đôi với việc thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, cơ quan, doanh nghiệp.
2. Tiếp tục thực hiện cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2). Tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao vai trò lãnh đạo của các tổ chức đảng đối với nhiệm vụ công tác bảo vệ an ninh, trật tự, tập trung ở các đảng bộ cơ sở, các ngành kinh tế, trên lĩnh vực xuất, nhập khẩu, quản lý biên giới, liên quan đến nước ngoài.
Triển khai và thực hiện tốt kế hoạch bảo vệ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX ở địa phương.
3. Tiếp tục thực hiện chương trình hành động của Tỉnh ủy về việc thực hiện chiến lược an ninh quốc gia trong tình hình mới, cấp
77
ủy chính quyền các cấp, thủ trưởng các ngành tiến hành sơ kết, kiểm điểm, đánh giá việc thực hiện chương trình này những vấn đề đã làm được, những vấn đề còn tồn tại để có phương hướng thực hiện trong thời gian tới.
Quán triệt thực hiện nghiêm túc Chỉ thị 52-CT/TW về trách nhiệm quyền hạn giữa các cấp ủy Đảng với Đảng ủy Công an, Ban cán sự Đảng Viện Kiểm sát nhân dân, Ban cán sự Đảng Tòa án nhân dân trong công tác bảo vệ Đảng và xử lý tội phạm liên quan đến cán bộ đảng viên.
4. Đẩy mạnh phong trào “Quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc” đối với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới khu dân cư” đồng thời tăng cường công tác bảo vệ an ninh biên giới, củng cố các xã, phường biên giới vững mạnh, tạo thành phòng tuyến an ninh nhân dân, chủ động phát hiện kịp thời các hoạt động vi phạm Hiệp định tạm thời phục vụ cho việc thực hiện Hiệp ước biên giới đất liền trên thực địa. Coi trọng công tác bảo vệ nội bộ, bảo vệ bí mật Nhà nước đưa công tác này vào nền nếp, công tác bảo vệ an ninh trong vùng dân tộc, trong vùng tôn giáo. Thực hiện nghiêm chỉnh Nghị định số 26/1999/NĐ-CP, ngày 19-4-1999 của Chính phủ về công tác tôn giáo trong tình hình mới; thực hiện tốt Kế hoạch số 05-KH/BCĐ, ngày 25-8-2000 của Ban chỉ đạo 184 của Tỉnh ủy bảo đảm an ninh nông thôn, giải quyết kịp thời ngay từ cơ sở không để xảy ra các “điểm nóng”, không để đột xuất bất ngờ xảy ra. Chủ động nắm tình hình có các biện pháp cụ thể giải quyết vấn đề di dịch cư, ổn định tình hình dân cư trên địa bàn, kiên quyết xử lý các phần tử kích động lôi kéo, tổ chức đưa đón di cư tự do. Quản lý chặt chẽ địa bàn, vấn đề đăng ký tạm trú, tạm vắng ở thôn, bản, xã, phường.
5. Tiếp tục tổ chức thực hiện chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm, phòng, chống ma túy, tập trung phòng ngừa đấu tranh với các loại tội phạm nghiêm trọng, kiềm chế và làm giảm tội phạm. Nâng cao chất lượng cơ quan giám sát, cơ quan điều tra, xét xử, chấn
78