🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Văn Kiện Đảng Bộ Toàn Tập Tập 16 (1996 - 2000) Ebooks Nhóm Zalo Mã số: 3K1(V115) CTQG-2016 4 HỘI ĐỒNG XUẤT BẢN NGUYỄN VĂN VỊNH Chủ tịch Hội đồng HÀ THỊ NGA Phó chủ tịch Hội đồng ĐẶNG XUÂN PHONG Ủy viên Hội đồng VŨ XUÂN CƯỜNG Ủy viên Hội đồng ĐỖ TRƯỜNG SƠN Ủy viên Hội đồng TĂNG NGỌC PHÒNG Ủy viên Hội đồng HOÀNG THẾ HÙNG Ủy viên Hội đồng NGUYỄN THANH DƯƠNG Ủy viên Hội đồng ĐẶNG PHI VÂN Ủy viên Hội đồng MAI ĐÌNH ĐỊNH Ủy viên Hội đồng LÝ SEO DÌN Ủy viên Hội đồng ĐINH TIẾN QUÂN Ủy viên Hội đồng THÁI MINH ĐƯỜNG Ủy viên Hội đồng NGUYỄN HỮU THỂ Ủy viên Hội đồng GIÀNG SEO VẦN Ủy viên Hội đồng CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG BẢN THẢO NGUYỄN VĂN VỊNH Bí thư Tỉnh ủy HÀ THỊ NGA Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy ĐẶNG XUÂN PHONG Phó Bí thư Tỉnh ủy 5 BAN XÂY DỰNG BẢN THẢO ĐỖ TRƯỜNG SƠN Trưởng ban NGUYỄN VĂN PHÚC Phó Trưởng ban Thường trực ĐỖ VĂN LƯỢC Phó Trưởng ban NGUYỄN THỊ NGUYỀN Thư ký ĐẶNG PHI VÂN Thành viên LÝ SEO DÌN Thành viên CAO ĐỨC HẢI Thành viên LÝ THỊ VINH Thành viên TRẦN VĂN TỎ Thành viên NGUYỄN THỊ HẢI ANH Thành viên NGUYỄN THỊ KIM NGÂN Thành viên ĐÀO DUY THẮNG Thành viên ĐỖ VIẾT LỢI Thành viên ĐOÀN NGỌC TUYẾN Thành viên NGUYỄN THỊ LOAN Thành viên HOÀNG THỊ THANH THU Thành viên NGUYỄN THỊ MINH Thành viên NGUYỄN THÀNH NAM Thành viên PHẠM THÀNH LONG Thành viên NGUYỄN CAO SỸ Thành viên ĐÀO ANH TUẤN Thành viên 6 CHÚ DẪN CỦA NHÀ XUẤT BẢN Bộ sách Văn kiện Đảng bộ toàn tập của Đảng bộ tỉnh Lào Cai được thực hiện theo Kế hoạch số 71- KH/TU, ngày 22-12-2013 của Tỉnh ủy Lào Cai về việc xây dựng Văn kiện Đảng bộ tỉnh Lào Cai toàn tập từ khóa I đến khóa XIV. Ban Xây dựng bản thảo Văn kiện Đảng bộ tỉnh Lào Cai toàn tập từ khóa I đến khóa XIV phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật tiến hành sưu tầm, xây dựng và xuất bản bộ sách Văn kiện Đảng bộ toàn tập của Đảng bộ tỉnh Lào Cai. Đây là một bộ tài liệu có ý nghĩa chính trị và giá trị khoa học, thực tiễn đánh dấu sự phát triển của Đảng bộ tỉnh Lào Cai. Bộ sách giúp các nhà nghiên cứu, cán bộ, đảng viên và nhân dân, đặc biệt là các nhà lãnh đạo tiếp cận nguồn thông tin, tư liệu mang tính hệ thống, toàn diện về văn kiện của Đảng bộ tỉnh Lào Cai, phục vụ việc nghiên cứu, tổng kết lý luận và thực tiễn, biên soạn lịch sử Đảng bộ tỉnh Lào Cai, đảng bộ cơ sở, lịch sử địa phương, ban, ngành và các tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn tỉnh; góp phần giáo dục lịch sử địa phương trong các trường phổ thông, các trung tâm bồi dưỡng chính trị, các chi bộ, đảng bộ; thấy rõ sự sáng tạo, nhạy bén, kịp thời và toàn diện trong lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Lào Cai qua các giai đoạn cách mạng, qua đó củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Văn kiện Đảng bộ toàn tập, tập 16 (1996 - 2000) tập hợp các văn kiện do Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lào Cai ban hành từ năm 1996 đến năm 2000 và được sắp xếp theo thời gian ban hành. 7 Mặc dù đã hết sức cố gắng trong quá trình biên tập nhưng cuốn sách khó tránh khỏi thiếu sót và khiếm khuyết. Chúng tôi mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để hoàn thiện nội dung cuốn sách trong lần xuất bản sau. Xin giới thiệu cuốn sách với các đồng chí và các bạn. Tháng 4 năm 2016 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - SỰ THẬT 8 LỜI GIỚI THIỆU Văn kiện Đảng bộ toàn tập, tập 16 phản ánh sự lãnh đạo của Đảng bộ từ năm 1996 đến năm 2000 trong điều kiện công cuộc đổi mới của đất nước thu được nhiều thành tựu quan trọng, Đảng và Nhà nước, các ngành Trung ương đã có những chính sách và chủ trương toàn diện trong lãnh chỉ đạo và đầu tư phát triển cho các tỉnh miền núi nói chung và tỉnh Lào Cai nói riêng. Sau 5 năm tái lập, Đảng bộ Lào Cai đã phát huy những thuận lợi, khắc phục những khó khăn do lịch sử để lại, tập trung lãnh đạo cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc trong tỉnh phát huy truyền thống đoàn kết, sáng tạo, từng bước thực hiện thắng lợi những mục tiêu và nhiệm vụ chủ yếu do Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ XI đề ra. Trên cơ sở vận dụng sáng tạọ đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước vào điều kiện thực tế của địa phương, Đại hội Đảng bộ Lào Cai lần thứ XI đề ra mục tiêu tổng quát đến năm 2000: Phát huy những truyền thống tốt đẹp và những thành quả đã đạt được, vận dụng sáng tạo đường lối của Đảng, kịp thời nắm bắt thời cơ thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua khó khăn, thử thách, khai thác triệt để mọi tiềm năng, tiếp tục tạo ra những nguồn lực mới về kinh tế - xã hội. Giữ vững ổn định chính trị và chủ quyền quốc gia, phát triển mạnh nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao vai trò quản lý và điều hành của chính quyền các cấp, xóa bỏ tình trạng sản xuất độc canh: phân tán, tự nhiên, tự cung tự cấp. Gắn phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, 9 bảo vệ môi trường sinh thái, củng cố an ninh quốc phòng, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh. Để đạt được mục tiêu nêu trên, Đảng bộ đã đề ra chủ trương, quyết sách đúng đắn, kịp thời trên tất cả các lĩnh vực. Văn kiện Đảng bộ toàn tập, tập 16 gồm các báo cáo, nghị quyết, các văn bản liên quan đến Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI; các quyết định, quyết nghị, chỉ thị, thông tri, thông báo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh phản ánh sự lãnh đạo kịp thời, sáng tạo của Đảng bộ đưa đến những thành công lớn trong công cuộc đổi mới. Mặc dù Ban Xây dựng bản thảo và Hội đồng Xuất bản đã cố gắng nhưng khó tránh khỏi tránh khỏi thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý của bạn đọc. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc. Tháng 1 năm 2016 HỘI ĐỒNG XUẤT BẢN 10 DIỄN VĂN KHAI MẠC ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ TỈNH LÀO CAI LẦN THỨ II Do đồng chí Tráng A Pao, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy trình bày - Thưa đoàn Chủ tịch Đại hội, - Thưa các vị khách quý, - Thưa các đồng chí đại biểu, Thực hiện Chỉ thị 51-CT/TW, ngày 9-3-1995 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về đại hội đảng bộ các cấp, sau một thời gian chuẩn bị công phu và được toàn Đảng bộ, toàn dân tích cực tham gia, hôm nay, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ II long trọng khai mạc. Về dự Đại hội có 202 đại biểu là những đảng viên ưu tú nhất đại diện cho hơn 12.000 đảng viên trong toàn Đảng bộ. Thay mặt Đoàn Chủ tịch Đại hội, tôi nhiệt liệt chào mừng và gửi tới các đồng chí lời chúc sức khỏe - đoàn kết và phát triển. Đại hội chúng ta nhiệt liệt chào mừng các đồng chí… đến dự và chỉ đạo Đại hội của chúng ta. Đại hội chúng ta nhiệt liệt chào mừng các đồng chí đại diện cho Văn phòng Trung ương Đảng, Ban Tổ chức Trung ương, Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương đã đến dự, theo dõi và giúp đỡ chúng ta trong quá trình Đại hội. 11 Đại hội chúng ta nhiệt liệt chào mừng và chân thành cảm ơn đoàn đại biểu Quân khu II do đồng chí..............dẫn đầu, đã mang lại cho Đại hội chúng ta nguồn động viên cổ vũ lớn lao, thể hiện tình đồng chí thủy chung, sâu sắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Đại hội chúng ta vui mừng đón tiếp các đồng chí Lê Ngọc Ban, Hoàng Ngọc Lâm, Trần Ngọc Tín là các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ khóa I đã chuyển công tác về Hà Nội, các đồng chí đã về dự với Đại hội. Thưa toàn thể các đồng chí, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ II là kế tục sự nghiệp và truyền thống vẻ vang của Đảng trong 66 năm qua, là tiếp tục cùng toàn Đảng viết nên những trang sử vàng của lịch sử mới của Đảng và dân tộc ta nói chung, của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Lào Cai nói riêng. Trong buổi lễ khai mạc trọng thể này, Đại hội chúng ta chân thành bảy tỏ lòng thương nhớ và biết ơn sâu sắc đối với các đồng chí đảng viên cộng sản và những thế hệ cha anh đã anh dũng hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc. Chúng ta chân thành bày tỏ tình cảm và lòng biết ơn đối ơn đối với các đồng chí lão thành cách mạng, những người đã đóng góp to lớn mồ hôi và cả xương máu của mình cho sự nghiệp giải phóng và xây dựng Lào Cai ngày càng giàu đẹp, các đồng chí mãi mãi là những tấm gương sáng cho thế hệ trẻ tỉnh Lào Cai noi theo. Đại hội chúng ta cũng chân thành cảm ơn và tiếp thu những ý kiến đóng góp cho cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc trong quá trình chuẩn bị Đại hội. Những ý kiến quý báu đó chắc chắn sẽ góp phần làm cho Đại hội thành công tốt đẹp. Thưa các đồng chí, Đại hội lần này của chúng ta có nhiệm vụ kiểm điểm quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ I để xác định những kết quả đã đạt được, những mặt còn tồn tại, tìm ra 12 nguyên nhân, rút ra bài học, từ đó gắn với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; tình hình trong nước và quốc tế mà xây dựng mục tiêu cho giai đoạn 1996-2000, đồng thời tìm ra những hình thức và bước đi thích hợp, giải pháp hữu hiệu để thực hiện các mục tiêu đó, trọng tâm là đẩy tới một bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong đó tập trung vào công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn; đổi mới căn bản đời sống cả vật chất và tinh thần cho nhân dân, nhất là các xã vùng cao, vùng xa, vùng biên giới, xây dựng Đảng vững mạnh từ cơ sở, xây dựng chính quyền của dân, do dân và vì dân, củng cố quan hệ sản xuất; tạo nên thế trận an ninh nhân dân, gắn với nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ vững chắc những thành quả đã đạt được và chủ quyền của đất nước. Đại hội lần này chúng ta có nhiệm vụ tham gia ý kiến vào văn kiện trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII; sửa đổi Điều lệ Đảng và bầu cử đoàn đại biểu tiêu biểu cho trí tuệ của Đảng bộ tỉnh Lào Cai đi dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, mang tiếng nói của Đại hội chúng ta góp phần vào sự thành công của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII. Đại hội đại biểu tỉnh Lào Cai lần này cũng sẽ tiến hành lựa chọn bầu cử Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa II, là những đồng chí tiêu biểu về phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng, có đủ trí tuệ và năng lực thực tiễn để đưa nghị quyết của Đại hội lần này vào cuộc sống thắng lợi. Thưa các đồng chí, Nhiệm vụ đặt ra cho Đại hội chúng ta là rất lớn, để Đại hội hoàn thành tốt nội dung, chương trình đã đề ra, các đồng chí đại biểu cần triệt để tuân thủ quy chế làm việc của Đại hội, nhằm bảo đảm cho Đại hội tiến hành đúng kế hoạch, chất lượng, các đồng chí phải thực hiện tốt và phát huy nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy trí tuệ của tập thể, ý thức trách nhiệm của cá nhân trong thảo luận và quyết định mọi vấn đề của Đại hội, bảo đảm cho Đại hội thành công tốt đẹp. 13 Với niềm tin tưởng đó, tôi xin tuyên bố khai mạc Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ II. Chúc sức khỏe các đồng chí lãnh đạo Trung ương, các ban, ngành Trung ương và các đại biểu Đại hội. Chúc Đại hội thành công rực rỡ. Lưu tại Kho Lưu trữ Tỉnh ủy. 14 BÁO CÁO CHÍNH TRỊ CỦA BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ TỈNH KHÓA I TẠI ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ TỈNH LẦN THỨ II Ngày 2-5-1996 Phần thứ nhất TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ TỈNH LÀO CAI LẦN THỨ I Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ I đã xác định mục tiêu tổng quát, phương hướng và nhiệm vụ chủ yếu, các giải pháp lớn để xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội giữ vững ổn định chính trị, củng cố an ninh quốc phòng, mở rộng quan hệ đối ngoại, xây dựng Đảng bộ vững mạnh, xây dựng chính quyền và các đoàn thể nhân dân cho giai đoạn 1992 - 1995. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước vào điều kiện thực tế của địa phương, chúng ta đã phát huy những thuận lợi, khắc phục những khó khăn do lịch sử để lại, tập trung lãnh đạo cán bộ, đảng viên và quân, dân các dân tộc trong tỉnh phát huy truyền thống đoàn kết, sáng tạo, từng bước đi lên thực hiện thắng lợi những mục tiêu và những nhiệm vụ chủ yếu do Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ I đề ra. 15 I. NHỮNG KẾT QUẢ CỤ THỂ 1. Về kinh tế - xã hội Từ một tỉnh mới được thành lập, nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, tự cung, tự cấp là chủ yếu, cơ sở hạ tầng thấp kém, song chúng ta đã phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng về kinh tế khá cao và liên tục trong 4 năm. Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) tăng bình quân hằng năm 11,8%, GDP bình quân theo đầu người từ 107,14 USD (năm 1993) lên 180 USD (năm 1995). Sản lượng lương thực quy thóc tăng 114.454 tấn năm 1991 lên 141.050 tấn năm 1995 và vượt trên 1.000 tấn so với mục tiêu Đại hội I đề ra: bình quân lương thực theo đầu người đạt 250,9 kg năm 1995. Giá trị thu nhập bình quân đầu người một tháng tăng từ 80,7 ngàn đồng (năm 1992) lên 118,4 ngàn đồng (năm 1994). Kim ngạch xuất khẩu tăng từ 495 ngàn USD năm 1991 lên 2 triệu 214 ngàn USD năm 1995, thu ngân sách trên địa bàn tăng từ 38,8 tỷ đồng năm 1992 lên 82,6 tỷ đồng năm 1995. Cơ cấu ngành kinh tế bước đầu có sự chuyển dịch đúng hướng, nền kinh tế nhiều thành phần đấu và đang hình thành. Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã và đang có tác động thúc đẩy mọi tầng lớp dân cư đầu tư vốn để phát triển sản xuất. Đi đôi với công tác quy hoạch xây dựng thị xã tỉnh lỵ, khẩn trương tập kết các cơ quan của tỉnh lên thị xã Lào Cai để ổn định công tác và chỉ đạo, đã coi trọng công tác quy hoạch tổng thể xây dựng chiến lược phát triển toàn diện cho từng giai đoạn, xây dựng các chương trình dự án phát triển kinh tế - xã hội. Đã tiến hành đánh giá tổng thể toàn diện các nguồn lực, tiềm năng của tỉnh, trên cơ sở đó xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội để năm 2010, quy hoạch tổng thể và chi tiết xong thị xã tỉnh lỵ và các thị trấn, xây dựng một số dự án, thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư, thực sự góp phần phát triển kinh tế - xã hội ở nhiều vùng nhất là các khu kinh tế trọng điểm. Trong sản xuất nông nghiệp tỉnh đã quan tâm đầu tư hàng chục tỷ đồng, xây dựng 150 công trình thủy lợi như mở rộng diện tích canh 16 tác, áp dụng nhiều biện pháp khoa học - kỹ thuật đề thâm canh tăng vụ, áp dụng giống mới, phòng trừ sâu bệnh, thiên tai nên đã đạt tốc độ tăng trưởng 3,93% năm (vượt mục liêu Đại hội I đề ra 3,6%). Ngoài sản xuất cây lương thực, các dự án cây công nghiệp được mở rộng và phát huy hiệu quả, diện tích cây công nghiệp hằng năm tăng bình quân 368,5 ha (8,5%). Cây lâu năm (chè kinh doanh và cây ăn quả) tăng bình quân hằng năm 301 ha (10,5%). Nhiều vùng nguyên liệu đã được hình thành, tạo tiền đề cho phát triển công nghiệp chế biến như mận ở Bắc Hà, mía ở Bảo Thắng, chè ở Than Uyên, Bảo Thắng, Mường Khương,... Từ 1991 - 1995 trồng và chăm sóc rừng đạt 20.147 ha, khoanh nuôi 70.000 ha, giao đất, giao rừng 32.000 ha, khai thác 116.568 m3 gỗ tròn theo kế hoạch, nâng độ tán che phủ lên 23% (đều đạt và vượt chỉ tiêu do Đại hội I đề ra). Cùng với trồng trọt, chăn nuôi cũng có bước phát triển khá, giá trị tổng sản lượng bình quân hằng năm tăng 5,25%. Nhiều vật nuôi mới được phát triển như dê sữa, bò lai, giống lợn ngoại, gà công nghiệp. Việc chăm sóc và phòng, chống dịch bệnh cho gia súc, gia cầm được quan tâm, cơ bản không để dịch lớn xảy ra trên địa bàn tỉnh. Ngành công nghiệp có bước phát triển rõ nét. Đã tích cực điều tra cơ bản, xây dựng dự án, gọi vốn liên doanh, tổ chức lại và đầu tư thêm vốn cho sản xuất. Từ 1991-1995 đã đầu tư 45 tỷ đồng cho xây dựng và phát triển công nghiệp địa phương, công nghiệp Trung ương đầu tư 77,5 tỷ đồng. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đầu tư hàng trăm tỷ đồng, các hộ sản xuất nhỏ đầu tư trên 80 tỷ đồng vào sản xuất. Đến nay đã có 51 doanh nghiệp quốc doanh, 235 doanh nghiệp ngoài quốc doanh và trên 6.000 hộ sản xuất nhỏ, tạo ra nhiều sản phẩm mới trong công nghiệp như tinh quặng đồng, felspat, cao lanh, gạch tuynen, bia hơi, đồ mộc cao cấp, gỗ xuất khẩu... với giá trị tổng sản lượng bình quân hằng năm tăng 25,2% và đạt 112,4 tỷ đồng trong 5 năm (gấp 5 lần chỉ tiêu Đại hội I đề ra). Về cơ cấu, công nghiệp quốc doanh trên địa bàn chiếm tỷ trọng 79% về giá trị sản xuất trong năm 17 1995 và từng bước khẳng định được vai trò chủ đạo trong quá trình phát triển. Thương mại, du lịch và xuất nhập khẩu có tiến bộ trên nhiều mặt, thị trường trong và ngoài nước được quan tâm nghiên cứu và ngày càng mở rộng, lưu thông vật tư hàng hóa phát triển nhanh, tổng mức hàng hóa bán lẻ toàn tỉnh tăng bình quân hằng năm 14,5%. Các khu du lịch như Sa Pa, Bắc Hà, cửa khẩu Lào Cai bước đầu được đầu tư, trình độ kinh doanh du lịch được nâng lên một bước, các chợ nông thôn vùng cao, vùng sâu phục vụ sản xuất, đời sống nhân dân đang phát triển. Kim ngạch xuất khẩu bình quân theo đầu người năm 1995 đạt 3,8 USD. Nhờ có chính sách ưu đãi, thu hút vốn đầu tư phù hợp từ năm 1991 - 1995 tỉnh đã huy động được 1.107 tỷ đồng từ nhiều nguồn vốn khác nhau để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, trong đó vùng cao đã có sự tập trung và chú trọng hơn. Nhiều công trình đã sớm phát huy hiệu quả, tạo nền tảng cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội, như mở mới trên 100 km đường giao thông các loại, làm mới 55 cầu, xây dựng 150 công trình thủy lợi, xây dựng 2 trạm thủy điện và kéo điện quốc gia về 8/10 huyện, thị xã. Hiện đại hóa thông tin, xây dựng 2 trạm thu phát hình, xây dụng một số xí nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, khai thác khoáng sản, chế biến nông, lâm sản và hàng vạn mét vuông trụ sở, công trình phúc lợi xã hội, công trình bảo vệ an ninh quốc phòng. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ I đã xác định trong giai đoạn 1991-1995 cơ cấu kinh tế của tỉnh là nông, lâm nghiệp; công nghiệp - thương mại, dịch vu và du lịch. Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ đã khẳng định, nhiệm vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong quá trình phát triển. Kết quả thực tiễn đã chứng minh sự đúng đắn của nghị quyết, thông qua tỷ trọng của các ngành trên tổng GDP như: sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 70,5% năm 1991 xuống còn 57% năm 1995; sản xuất công nghiệp tăng từ 12,1% năm 1991 lên 14% 18 năm 1995; xây dựng cơ bản tăng từ 4,7% năm 1991 lên 10,3% năm 1995, khu vực dịch vụ tăng từ 12,2% năm 1991 lên 18,1% năm 1995. Do nền kinh tế phát triển khá, đi đôi với công tác hoàn chỉnh, bổ sung chính sách khuyến khích đầu tư sản xuất tăng thêm và nuôi dưỡng nguồn thu, cải tiến phương pháp và chống tiêu cực trong thu nộp ngân sách, nên thu ngân sách trên địa bàn tăng nhanh. Mức tăng thu bình quân ba năm (1991- 1995) là 37,3%, tỷ lệ huy động từ GDP vào ngân sách đạt 10,58% trong năm 1995. Việc chi ngân sách đã được tiến hành đúng mục đích, đúng kế hoạch. Công tác quản lý các nguồn vốn, tiết kiệm chi và chống lãng phí trên nhiều lĩnh vực đã phát huy được hiệu quả của đồng vốn; công tác thanh tra, kiểm tra được tiến hành thường xuyên, đã bước đầu phát hiện và ngăn chặn những hành vi xâm phạm tài sản, tiền vốn của Nhà nước và của nhân dân. Việc chủ động thu, chi ngân sách, tích cực khai thác các nguồn tiền mặt cùng với sự điều tiết có hiệu quả của các cấp, các ngành đã góp phần hạn chế mức tăng chỉ số giá cả, không tạo nên “cơn sốt” lớn về hàng hóa và tiền mặt trên địa bàn, không gây trở ngại cho quá trình đầu tư sản xuất, kinh doanh và đời sống của nhân dân. Cùng với phát triển kinh tế, việc giải quyết các vấn đề xã hội và thực hiện chính sách được quan tâm hơn. Hằng năm đã tạo hàng ngàn việc làm cho người lao động trong các thành phần kinh tế. Đời sống nhân dân nhiều vùng thị xã, thị trấn và nông thôn vùng thấp được cải thiện. Số hộ giàu tăng lên, số hộ nghèo giảm từ 30,2% năm 1992 xuống còn 19,7% năm 1994, số hộ đói giảm từ 25% năm 1991 xuống còn 12,7% năm 1995. Nhu cầu về giấy viết, muối iốt, dầu thắp, thuốc chữa bệnh cơ bản được đáp ứng. Các chính sách giải quyết việc làm, hỗ trợ xóa đói, giảm nghèo, chính sách đối với thường binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng chính sách giúp đỡ người tàn tật, cô đơn, không nơi nương tựa, chính sách cai nghiện và phòng, chống ma túy, thay thế cây thuốc phiện ở vùng cao, giúp đỡ học sinh nghèo cơ bản được thực hiện trong toàn tỉnh. 19 Sự nghiệp giáo dục đạt được một số tiến bộ rõ nét trong việc chống xuống cấp, xóa mù, đa dạng hóa loại hình giáo dục. Đã đầu tư xây dựng và sắp xếp lại mạng lưới trường học, củng cố hệ thống lớp chuyên, lớp chọn, các trường phổ thông dân tộc nội trú, mở rộng mạng lưới trường bán trú lớp chuyên ngữ, tăng cường chất lượng dạy và học, thực hiện nhiều môn học mới để giáo dục toàn diện cho học sinh. Trong 5 năm qua nhiều cô giáo, thày giáo và học sinh đã đạt thành tích cao trong các kỳ thi của tỉnh và quốc gia. Việc học nghề, học ngoại ngữ và tin học đã mở rộng ở thị xã, công tác đào tạo lạị đội ngũ cán hộ từ cơ sở đến tỉnh được tiến hành thường xuyên cho 6.000 lượt người. Tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đến trường tăng 35,76% năm 1991 lên 64,2% năm 1995. Công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể lực của nhân dân có nhiều tiến bộ. Đặc biệt là việc củng cố mạng lưới y tế, xóa tình trạng xã trắng về y tế có những bước tiến rất lớn. Trong 4 năm qua đã đầu tư xây dựng thêm 26 trạm y tế xã, phường; tăng thêm 156 giường bệnh và 772 y, bác sĩ. Các chương trình quốc gia về y tế được chỉ đạo tích cực và có hiệu quả thiết thực như tiêm chủng mở rộng, chương trình chăm sóc sức khỏe ban đầu, phòng, chống dịch bệnh và các bệnh xã hội nhiều người mắc như bướu cổ, sốt rét,... Bảo hiểm y tế bước đầu phát huy hiệu quả, các nhu cầu thuốc thiết yếu ở vùng cao, vùng sâu cơ bản được đáp ứng. Nhân dân các dân tộc đặc biệt là ở vùng cao, vùng sâu đã tin tưởng vào việc phòng bệnh, chữa bệnh, hiểu biết hơn về việc chăm sóc sức khỏe và phòng, chống bệnh tật từ ban đầu. Công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình đạt được một số kết quả ở đô thị, vùng thấp và một số nơi ở vùng cao tuy còn nhiều khó khăn trong việc vận động, tổ chúc phong trào kế hoạch hóa gia đình, song qua công tác truyền thông dân số, kế hoạch hóa gia đình đã bước đầu tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức trong số nhân dân các dân tộc; nhất là đối với đồng bào dân tộc ít người. Tuy nhiên trong phát triển kinh tế - xã hội vẫn còn một số mặt yếu kém. Nền kinh tế có phát triển nhưng chưa vững chắc và đang ở điểm xuất phát thấp, nông nghiệp còn lạc hậu, phân tán và phụ thuộc 20 vào thiên nhiên, định hướng phát triển kinh tế ở vùng cao còn lúng túng và thiếu vốn, chưa có cơ sở khoa học vững chắc để xác định cho từng vùng trồng cây gì, nuôi con gì, đặc biệt là việc thay thế cây thuốc phiện ở vùng cao. Công tác giao đất, giao rừng tiến hành chậm, chưa tạo được cơ sở cho nhân dân phát triển sản xuất nghề rừng. Một số dự án đầu tư cho vùng cao, nông thôn kém hiệu quả. Trong chế biến nông, lâm sản, chủ yếu tập trung chế biến gỗ phục vụ nhu cầu trước mắt. Vai trò điều tiết trong lĩnh vực này của các cơ quan quản lý nhà nước còn yếu. Chăn nuôi chưa được quan tâm đúng mức, chưa có kế hoạch, định hướng cả về giống, kỹ thuật và thị trường mà chủ yếu do dân tự phát triển, một số đàn gia súc có xu hướng giảm hoặc tăng chậm. Nhìn chung, về nông nghiệp tuy năng suất và sản lượng có tăng, song chưa thoát khỏi tình trạng tụ cấp, tự túc. Nhiều địa bàn, nhiều ngành nghề trong tỉnh chưa xác định được hướng phát triển lâu dài, bền vững. Trong công nghiệp, công tác điều tra cơ bản tiến hành chậm, thị trường giá cả thiếu ổn định, năng suất chất lượng, hiệu quả còn thấp và chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Khả năng đầu tư phát triển năng lực sản xuất để huy động vào sử dụng trong thời gian tới không nhiều, sẽ ảnh hưởng đến nhịp độ tăng trưởng trong những năm sau, việc gọi vốn liên doanh với các công ty ở trong và ngoài nước chưa có kết quả. Kinh tế quốc doanh chậm đổi mới và rất manh mún, nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn về vốn, thị trường và kỹ thuật. Kinh tế ngoài quốc doanh hầu hết vẫn trong tình trạng sản xuất nhỏ, thiếu sự quản lý và hướng dẫn của cơ quan nhà nước, tình trạng làm ăn trái pháp luật xảy ra ở nhiều nơi. Kinh tế hợp tác xã nhìn chung còn bị lúng túng về quy mô, hình thức và nội dung hoạt động. Thương nghiệp quốc doanh còn bỏ trống nhiều địa bàn và một số lĩnh vực, nhất là địa bàn vùng cao, vùng xa. Quản lý và kinh doanh du lịch còn lúng túng, chưa xây dựng được chiến lược phát triển và chưa có đủ vốn để xây dựng những cơ sở dịch vụ đi kèm để tăng nguồn thu 21 lớn và ổn định. Xuất nhập khẩu chưa gắn bó với người sản xuất, nên thiếu mặt hàng và thị trường ổn định, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu còn quá thấp so với nhập khẩu, quản lý xuất nhập khẩu tiểu ngạch qua biên giới chưa chặt chẽ và còn để thất thoát nguồn thu, tình trạng buôn lậu qua biên giới chưa được ngăn chặn triệt để. Tình trạng không có hoặc thiếu việc làm, nhất là đối với thanh niên đến tuổi lao động vẫn là vấn đề nóng bỏng và là một trong những nguyên nhân cơ bản làm nảy sinh các tiêu cực xã hội. Số người nghèo đói còn chiếm tỷ lệ đáng kể, đời sống nhân dân ở vùng cao, vùng sâu, đồng bào dân tộc ít người còn rất nghèo. Tình hình thiếu giáo viên, chất lượng giáo viên chưa cao, thiếu trường, thiếu lớp, trường lớp xuống cấp còn diễn ra ở nhiều nơi. Tỷ lệ tăng dân số quá cao, đến nay vẫn còn trên 3,5% là một nhân tố cản trở lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống, ảnh hưởng đến sự phát triển của giống nòi. Đội ngũ làm công tác dân số còn thiếu và yếu, vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, của các ngành và các đoàn thể chưa thể hiện rõ trong công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình. Các tệ nạn xã hội vẫn không giảm, nhất là nghiện hút, mại dâm và trộm cướp. Trong lĩnh vực khoa học và công nghệ còn thiếu các chuyên gia giỏi, việc nghiên cứu ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất còn yếu và thiếu những yếu tố ổn định, bền vững. 2. Về quốc phòng, an ninh và đối ngoại Là một tỉnh vùng cao, biên giới có nhiều diễn biến phức tạp về tranh chấp lãnh thổ, về lợi dụng tôn giáo, vấn đề dân tộc và các tệ nạn xã hội, do vậy cùng với sự phát triển về kinh tế - xã hội, công tác an ninh quốc phòng và đối ngoại được đặc biệt coi trọng. Tỉnh ủy đã lãnh đạo trực tiếp, chỉ đạo thường xuyên từ đầu tư cơ sở vật chất, đào tạo con người, đến việc xây dựng phương án và tổ chức thực hiện các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, theo quan điểm quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân. Quan hệ đối ngoại mở 22 rộng theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa trên nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, hữu nghị, hợp tác bình đẳng và cùng có lợi. Bốn năm qua chúng ta đã giữ vững được an ninh chính trị, chủ quyền quốc gia, xây dựng đường biên giới hữu nghị, hợp tác cùng phát triển với Trung Quốc, từng bước ổn định đời sống nhân dân vùng biên giới. Luôn luôn nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng, phát hiện kịp thời và xử lý dứt điểm các hoạt động gián điệp, móc nối chống phá ta, ngăn chặn các hoạt động lợi dụng tôn giáo tuyên truyền phản động, tích cực giáo dục nhân dân đề cao cảnh giác trước âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch. Mở rộng quan hệ với các nước, các tổ chức quốc tế nhằm thu hút vốn tài trợ để phát triển kinh tế - xã hội cũng như mở rộng quan hệ giao lưu quốc tế. Công tác điều tra, xét xử, thi hành án, tuyên truyền pháp luật và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân được tiến hành thường xuyên, tích cực và đi dần vào nền nếp. Thành tích nổi bật của công tác này là chúng ta đã xây dựng được các phương án phòng thủ, thường xuyên tổ chức luyện tập, diễn tập ở nhiều quy mô đạt kết quả tốt, gắn diễn tập với thực hiện các nhiệm vụ chính trị và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường công tác vận động quần chúng ở cơ sở để củng cố nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, tuyên truyền vận động nhân dân đề cao cảnh giác, tăng cường ý thức bảo vệ Tổ quốc và phát huy truyền thống dân tộc. Thường xuyên chỉ đạo và coi trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đi đôi với củng cố tổ chức trong các lực lượng vũ trang, để cán bộ và chiến sĩ nâng cao quyết tâm sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân và rèn luyện nâng cao năng lực chiến đấu, phẩm chất cách mạng theo lời dạy của Bác Hồ. Về công tác bảo vệ nội bộ, đã thực hiện tốt việc bảo vệ Đảng, chính quyền và cán bộ. Phát hiện và xử lý kịp thời các hoạt động cài cắm, móc nối của các thế lực thù địch. Tăng cường quản lý xuất nhập cảnh, quản lý biên giới, chống buôn lậu và tham nhũng. Xét xử kịp thời các 23 vụ vi phạm có tính chất điển hình, đã góp phần giữ gìn kỷ cương, phép nước và giáo dục nhân dân nâng cao ý thức chấp hành pháp luật. Các lực lượng trong Khối Nội chính đã tăng cường phối hợp hoạt động, duy trì giao ban định kỳ, vừa thống nhất trong hành động vừa cung cấp kịp thời thông tin cho Tỉnh ủy trong quá trình chỉ đạo. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác quốc phòng, an ninh và đối ngoại còn bộc lộ một số yếu kém đó là: Nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân được củng cố nhưng chưa vững chắc và toàn diện, công tác giáo dục quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân chưa được triển khai sâu rộng đến mỗi người dân, hình thúc tuyên truyền chưa phong phú, làm cho một bộ phận nhân dân, cán bộ, đảng viên nhận thức còn phiến diện, một số ít còn mơ hồ mất cảnh giác. Tình trạng buôn lậu qua biên giới còn xảy ra ở nhiều nơi. Việc không chấp hành quy chế quản lý, bảo vệ biên giới; hiện trạng trộm cắp trâu, bò, ngựa và tài sản của nhân dân ở tuyến biên giới còn xảy ra gây tâm lý lo lắng và thiếu yên tâm trong nhân dân. Lực lượng dự bị động viên tuy đông nhưng chưa được quản lý giáo dục và huấn luyện thường xuyên, để có khả năng sẵn sàng chiến đấu. Dân quân tự vệ ở một số cơ sở chưa được tổ chức và huấn luyện, ở nhiều nơi chưa phát huy được vai trò chủ động trong bảo vệ an ninh và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Công tác điều tra một số vụ án tiến hành chậm, thi hành án chưa nghiêm, một số biểu hiện tiêu cực còn xảy ra trong lực lượng làm công tác nội chính, bảo vệ pháp luật… đã ảnh hưởng đến việc duy trì kỷ cương phép nước. Công tác nắm dân, nắm tình hình cơ sở ở một số nơi chưa tốt, tình hình lợi dụng tự do tín ngưỡng tôn giáo để tuyên truyền phản động chưa được giải quyết triệt để, việc tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân ở một số ngành và cấp chính quyền chưa kịp thời, công tác thanh tra còn nhiều vụ việc chưa kết luận và giải quyết dứt điểm. 24 3. Công tác xây dựng và củng cố hệ thống chính trị Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ I, trong nhiệm kỳ vừa qua, công tác xây dựng và củng cố hệ thống chính trị của Đảng bộ được chú trọng và có những đổi mới rõ nét. a) Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức: + Về chính trị, tư tưởng: Bốn năm qua, tình hình thế giới và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp, tác động trực tiếp đến tư tưởng, tâm tư nguyện vọng của đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc. Đảng bộ đã tập trung chỉ đạo và tổ chức nhiều đợt sinh hoạt chính trị, quán triệt các nghị quyết của Trung ương Đảng, nghị quyết của Đảng bộ từ tỉnh xuống cơ sở, cả ở trong Đảng và ngoài quần chúng (trong Đảng đạt 90-95%). Thông qua quán triệt các nghị quyết của Đảng và gắn với chương trình hành động thực hiện ở cơ sở, nhận thức của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân các dân tộc được nâng lên một bước về quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, nhất là các chủ trương về đổi mới quản lý kinh tế, về kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, về âm mưu “diễn biến hòa bình’’ và chống “diễn biến hòa bình”. Công tác chính trị tư tưởng đã góp phần xứng đáng vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội và giữ vững biên giới hòa bình, hữu nghị; giảm bớt những tư tưởng băn khoăn, trông chờ và những biểu hiện tiêu cực… Công tác giáo dục chính trị tư tưởng gắn với nâng cao trình độ cho cán bộ, đảng viên được chú trọng đã mở nhiều lớp lý luận và nghiệp vụ cho hàng nghìn lượt cán bộ, đảng viên (trong đó 70% cấp ủy viên cơ sở được bồi dưỡng), việc thông tin tình hình cho đội ngũ báo cáo viên được duy trì. Hệ thống thông tin đại chúng hoạt động có hiệu quả. Bản tin nội bộ cung cấp tới chi bộ hằng tháng đã có tác dụng tốt trong sinh hoạt tư tưởng. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy duy trì thường xuyên giao 25 ban an ninh tư tưởng, giúp cấp ủy nắm bắt và xử lý kịp thời những vấn đề thuộc lĩnh vực tư tưởng. Hệ thống Đài Phát thanh - Truyền hình, báo Lào Cai, đặc biệt là tờ báo ảnh dành cho đồng bào vùng cao, đã góp phần tích cực trong việc đưa thông tin đến mọi vùng, mọi dân tộc, kịp thời tuyên truyền những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến với đông đảo quần chúng nhân dân. Tuy nhiên, công tác chính trị tư tưởng còn bộc lộ những yếu kém sau: - Một số chủ trương, nghị quyết mới dừng lại ở cấp huyện, ở cán bộ chủ chốt, chưa đến được đông đảo quần chúng. Nội dung, phương thức công tác chính trị tư tưởng chưa sát yêu cầu và chưa phù hợp với từng loại đối tượng. - Công tác kiểm tra, tổng kết đúc rút kinh nghiệm những điển hình tiên tiến, nhân diện những gương đảng viên tốt và làm kinh tế giỏi, nhân dân làm giàu từ đồi rừng và phát triển ngành nghề... chưa được chú trọng đúng mức. - Việc phê phán các quan điểm sai trái, các luận điệu tuyên truyền mang tính xuyên tạc, thù địch, lợi dụng tôn giáo, chưa thường xuyên, thiếu sắc bén, chưa có phương pháp đấu tranh, phê phán phù hợp để đạt hiệu quả cao. Một số tổ chức đảng và cấp ủy chưa quán triệt phương châm “Toàn Đảng làm công tác tư tưởng”. Còn nhiều cán bộ, đảng viên ngại học tập, nghiên cứu lý luận, xem nhẹ việc rèn luyện và giáo dục đạo đức, lý tưởng cách mạng nhất là giáo dục trong lớp trẻ. + Xây dựng Đảng về tổ chức: Khi bước vào thực hiện Nghị quyết Đại hội I của Đảng bộ tỉnh, hệ thống tổ chức chưa ổn định, nhiều cơ sở đảng còn mỏng và yếu, nhất là vùng cao, vùng sâu. Đội ngũ đảng viên phần lớn tuổi cao, năng lực còn hạn chề nhiều mặt. Đảng bộ đã tập trung triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 về “Đổi mới và chỉnh đốn Đảng”. Quá trình thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 đã gắn với việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết khác 26 của Trung ương Đảng và nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ I, đã quán triệt phương châm “Lấy nhiệm vụ xây dựng kinh tế làm trung tâm, công tác xây dựng Đảng là then chốt”. - Việc củng cố tổ chức cơ sở đảng theo tiêu chuẩn trong sạch, vững mạnh đã được chú trọng. Nội dung chỉ đạo toàn diện trên cả ba mặt: Chính trị, tư tưởng và tổ chức, đã tập trung vào công tác: nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng, chất lượng đội ngũ đảng viên, củng cố các cơ sở đảng yếu kém; giải quyết đảng viên loại 2 và 3; quan tâm chỉ đạo các chi bộ vùng cao, vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc ít người... Kết quả việc củng cố tổ chức cơ sở đảng đã có chuyển biến tích cực. Nhiều tổ chức cơ sở đảng và đảng viên đã xác định rõ vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở đảng trong nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, mở rộng giao lưu quốc tế. Đã có nhiều tổ chức cơ sở đảng chủ động được công tác; lãnh đạo việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng được bảo đảm. Các đảng bộ trong sạch, vững mạnh và khá tăng dần, loại yếu kém giảm dần, số tổ chức cơ sở đảng đạt tiêu chuẩn trong sạch, vững mạnh tăng từ 177 cơ sở (năm 1992) lên 220 cơ sở (năm 1995). Số cơ sở yếu kém giảm 35 cơ sở (năm 1992) xuống còn 26 cơ sở (năm 1995). Hai năm 1993 - 1994 có 2 đảng bộ huyện đạt trong sạch, vững mạnh: Bảo Thắng, Bảo Yên. - Công tác đảng viên được coi trọng cả ba mặt: Nâng cao chất lượng, sàng lọc và kết nạp đảng viên mới. Thông qua công tác triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 3, chất lượng đảng viên đã được nâng lên một bước. Đến năm 1995, trong tổng số 12.070 đảng viên đã đạt 78,24% loại I, tăng 10,97% so với năm 1992. Đã phân tích chất lượng đảng viên, xét cấp giấy chứng nhận miễn hoãn, lập kế hoạch đưa đi đào tạo, bồi dưỡng, phân công nhiệm vụ cho đảng viên phù hợp hơn. Công tác phát triển đảng viên mới: Có nhiều tiến bộ, trong 4 năm đã kết nạp được 1.578 đảng viên mới (13,3% trong tống số đảng viên 27 hiện nay). Số đảng viên mới kết nạp nhìn chung bảo đảm chất lượng, trẻ hóa một bước, trình độ mọi mặt có nhiều tiến bộ rõ nét. Công tác quản lý đảng viên nhìn chung chặt chẽ. - Về công tác cán bộ, đã cố gắng đáp ứng nhu cầu hoàn thiện bộ máy, đặc biệt là bộ máy các ban, ngành và thị xã tỉnh lỵ mới thành lập. Đến nay đội ngũ cán bộ đã ấn định và phát huy tác dụng, có ý nghĩa quan trọng trong việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ được tôn trọng, cấp ủy đã kịp thời ban hành quyết định về phân cấp quản lý tổ chức và cán bộ, đến nay được sửa đổi và hoàn chỉnh hơn. Việc đề bạt, bố trí, sử dụng cán bộ trong điều kiện tỉnh mới thành lập tuy còn nhiều khó khăn, nhưng cơ bản đã phù hợp với các quan điểm đổi mới của Đảng. Cấp ủy các cấp và các cơ quan dân cử đều có 3 độ tuổi để bảo đảm tính kế thừa. Mạnh dạn đề bạt những cán bộ trẻ có đủ năng lực và phẩm chất. Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ đã bổ sung thêm cho đội ngũ cán bộ chủ chốt ở các cấp, các ngành, góp phần ổn định tổ chức bộ máy và nâng cao chất lượng hoạt động: Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được đặc biệt chú trọng cả trước mắt và lâu dài, vừa gửi đi đào tạo chính quy ở Trung ương, vừa mở rộng hệ thống tại chức ở địa phương, xen kẽ với các lớp tập trung dài hạn và tập huấn, bồi dưỡng theo chuyên đề. Việc thực hiện các chính sách đối với cán bộ được quan tâm đúng mức và có nhiều cố gắng. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được chú trọng: + Công tác kiểm tra của Đảng được tăng cường. Các đảng bộ và các cấp ủy đều quán triệt quan điểm “lãnh đạo phải đi đôi với kiểm tra”, nhiều cấp ủy có chương trình kiểm tra toàn khóa. Ủy ban Kiểm tra các cấp được kiện toàn, làm tốt công tác tham mưu cho cấp ủy. Công tác kiểm tra đã chú trọng đến các tổ chức cơ sở đảng, kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng, đã tiến hành kiểm tra 591 lượt đối với tổ các cơ sở đảng, trong đó đã kiểm tra 17,4% các đồng chí là cấp ủy viên các cấp. 28 Thông qua kiểm tra, nhiều cấp ủy và đảng viên được nâng cao về nhận thức và tinh thần trách nhiệm trong công tác lãnh đạo. Việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo có nhiều cố gắng, việc xử lý kỷ luật được tiến hành kịp thời, có tác dụng giáo dục và tăng thêm niềm tin của quần chúng đối với Đảng. Thực hiện Chỉ thị 15 của Bộ Chính trị, Ủy ban Kiểm tra các cấp đã phối hợp chặt chẽ với các ngành chức năng phát hiện, ngăn ngừa và tiến hành kiểm tra, xử lý 2.425 vụ việc, trong đó đã xử lý 122 vụ theo pháp luật. Một số yếu kém trong lĩnh vực này là: - Vai trò của một số tổ chức cơ sở đảng chưa thật sự chuyển biến trong cơ chế mới, chưa chủ động được công tác, nhất là ở vùng cao, vùng sâu. Chức năng, nhiệm vụ, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng ở một số nơi chưa được thể hiện rõ. - Nguyên tắc tập trung dân chủ có nơi, có lúc bị vi phạm, ảnh hưởng đến đoàn kết nội bộ. - Công tác cán bộ, do yêu cầu cấp thiết của bộ máy nên một số trường hợp đánh giá, bố trí chưa chính xác. Việc quy hoạch cán bộ thực hiện chưa tốt, do đó việc bố trí, sử dụng cán bộ còn chắp vá, bị động ở một số cấp, ngành. Đội ngũ cán bộ nói chung trình độ còn thấp so với yêu cầu nhiệm vụ. b) Xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân: Trong những năm qua, quán triệt đường lối đổi mới của Đảng, pháp luật và chính sách của Nhà nước, Đảng bộ đã xác định nhiệm vụ xây dựng và ổn định hệ thống chính trị, xây dựng củng cố chính quyền các cấp ở địa phương là một nhiệm vụ trọng tâm, cấp thiết, bảo đảm cho sự ổn định và phát triển đi lên của tỉnh. Thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh, các cấp đã quan tâm xây dựng củng cố chính quyền địa phương theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Sau cuộc bầu cử ngày 20-11-1994, Hội đồng nhân dân các cấp đã được kiện toàn nhanh chóng, ổn định tổ chức và đi vào hoạt động theo luật định. Chất lượng đại biểu Hội đồng nhân dân các 29 cấp được chú trọng kiện toàn thêm một bước, theo hướng tăng tỷ lệ tuổi trẻ, nữ, dân tộc ít người và có trình độ, bản lĩnh chính trị vững vàng hơn. Hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp được thực hiện theo luật định, bảo đảm tăng cường năng lực và hiệu quả trong việc giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước ở địa phương. Ủy ban nhân dân các cấp được kiện toàn sau kỳ họp thứ nhất Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 1994 - 1999 bảo đảm đúng luật định. Chất lượng Ủy ban nhân dân dược nâng cao thêm một bước và bảo đảm thành phần cơ cấu và số lượng thành viên theo quy định của Chính phủ. Hiệu lực điều hành của Ủy ban nhân dân các cấp được tăng cường trên cơ sở hoạt động theo quy chế và pháp luật. Đã có kế hoạch và biện pháp tích cực chăm lo xây dựng chính quyền cơ sở vững mạnh, xây dựng mô hình thôn, bản và bước đầu thực hiện chế độ, chính sách cho trưởng thôn, bản. Các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân các cấp đã bước đầu triển khai kế hoạch của tỉnh về cải cách thủ tục hành chính theo tinh thần Nghị quyết Trung ương lần thứ tám (khóa VII). Quá trình dân chủ hóa sinh hoạt xã hội ở đia phương được gắn với việc thực hiện các luật của Nhà nước ban hành, bước đầu có hiệu quả thiết thực ở nhiều lĩnh vực, đã triển khai thực hiện từng bước việc tiêu chuẩn hóa chức danh cán bộ, thông qua công tác xây dựng và triển khai kế hoạch đào tạo và đào tạo lại đội ngũ công chức, viên chức, từng bước đáp ứng yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước của tỉnh. Tuy nhiên, công tác xây dựng củng cố chính quyền nhân dân cũng còn một số mặt yếu kém là: Nội dung hoạt động, vai trò quản lý, điều hành của bộ máy chính quyền các cấp, các ngành nhìn chung chậm đổi mới về phương pháp quản lý. Sự phối hợp và lề lối làm việc của các cơ quan nhà nước ở địa phương từ tỉnh đến cơ sở còn nhiều mặt chưa hợp lý, kết quả hoạt động còn nhiều hạn chế. 30 - Trình độ, kiến thức về quản lý và năng lực lãnh đạo của cán bộ chính quyền các cấp, các ngành của tỉnh nói chung còn thấp so với yêu cầu. - Còn những hiện tượng vi phạm pháp luật, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ một số nơi trong tỉnh, dẫn đến những khuyết điểm trong quản lý kinh tế và ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chính quyền. c) Công tác quần chúng: Các cấp ủy đã quán triệt các quan điểm chỉ đạo của Trung ương về công tác dân vận, chú trọng đề ra các chủ trương, biện pháp phù hợp với tình hình đặc điểm của địa phương, củng cố mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, chính quyền, quân đội với nhân dân. Các quan điểm đổi mới về công tác dân vận của Đảng đã từng bước được quán triệt hơn trong nhiều cán bộ, đảng viên, nhiều cấp, ngành đoàn thể. Phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác dân vận đã có những đổi mới bước đầu. Tổ chức bộ máy và cán bộ của Ban Dân vận và Mặt trận Tổ quốc ở các cấp đã được kiện toàn một bước. Ban Dân vận- Dân tộc tỉnh và một số huyện, thị, ban, ngành, lực lượng vũ trang có liên quan hằng tháng tổ chức giao ban khối, giúp cấp ủy nắm vững hơn tình hình nhân dân và xử lý kịp thời những vấn đề mới phát sinh. Kết quả về kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, cải thiện đời sống nhân dân, việc thực hiện đổi mới và chỉnh đốn Đảng, xây dựng và củng cố chính quyền, đổi mới bước đầu sự hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, đã nâng cao một bước niềm tin của nhân dân các dân tộc với Đảng bộ. Chính quyền các cấp đã tổ chức triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách cơ chế mới của Đảng và Nhà nước. Do đó đã tăng thêm động lực cho phong trào quần chúng trong lao động sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội và cùng cố an ninh quốc phòng, trong việc chăm lo đời sống nhân dân nhất là đồng bào vùng sâu, vùng cao, đã thực hiện mở rộng dân chủ thông qua việc lấy ý kiến nhân dân tham gia xây dựng pháp luật. Vai trò của Hội đồng nhân dân các cấp được 31 đề cao hơn, việc tiếp xúc với cử tri có nhiều tiến bộ. Lực lượng vũ trang đã tích cực tham gia công tác dân vận, xây dựng cơ sở chính trị ở vùng cao, vùng sâu. Mặt trận và các đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở bước đầu đã có những đổi mới theo tinh thần Nghị quyết 8B của Ban Chấp hành Trung ương (khóa VI). Về tổ chức, đã được kiện toàn một bước qua các kỳ Đại hội. Việc đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân được nghiên cứu và thực hiện ở một số đoàn thể. Một số hình thức tổ chức có sức thu hút và hoạt động có hiệu quả như: Hội Bảo thọ, tổ phụ nữ tiết kiệm, câu lạc bộ gia đình trẻ... được đông đảo các tầng lớp nhân dân đồng tình và hưởng ứng. Mặt trận và các đoàn thể đang hướng vào chăm lo lợi ích chính đáng cho đoàn viên, hội viên, gắn với các chương trình kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng. Nhiều cuộc phát động đã trở thành phong trào của quần chúng như 5 chương trình của phụ nữ, 2 phong trào của đoàn thanh niên. Hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể đã có sự phối hợp với các địa phương và ngành chức năng liên quan để tạo sự đồng bộ và hiệu quả. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong hội viên, đoàn viên có nhiều cố gắng tích cực gắn với việc tuyên truyền, vận động, thu hút hội viên, đoàn viên tham gia các phong trào về kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, xóa đói, giảm nghèo, dân số - kế hoạch hóa gia đình, phòng, chống các tệ nạn xã hội, đền ơn đáp nghĩa, nhân đạo... Mặt yếu của công tác quần chúng là: - Quan điểm của Đảng và tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa được thực sự quán triệt sâu sắc trong hệ thống chính trị. Tổ chức cơ sở đảng chưa thường xuyên kiểm điểm sâu về trách nhiệm làm công tác dân vận của tổ chức đảng và đảng viên, của chính quyền và đoàn thể. - Việc nắm tình hình nhân dân ở một số vùng chưa kịp thời và chưa sát. Còn một bộ phận cán bộ, đảng viên quan liêu, xa rời quần chúng, một số cán bộ, đảng viên tham nhũng... làm giảm niềm tin của 32 nhân dân. Một số nơi thuộc vùng đồng bào dân tộc ít người đã để cho tình hình lợi dụng tôn giáo lan rộng, hoạt động trái pháp luật, gây nhiều khó khăn cho sản xuất và đời sống của nhân dân. - Việc đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các đoàn thể còn nhiều hạn chế. Nhiều tổ chức cơ sở của các đoàn thể còn lúng túng trong hoạt động; ở một số nơi thuộc vùng sâu, vùng cao, chỉ có bộ máy đoàn thể hình thức. Đội ngũ cán bộ Mặt trận và các đoàn thể, nhất là ở cơ sở nhìn chung còn chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. II. NHỮNG KINH NGHIỆM THỰC TẾ VÀ NGUYÊN NHÂN CƠ BẢN CỦA YẾU KÉM 1. Những kinh nghiệm thực tế Một là: Giữ vững và thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, Đảng lãnh đạo toàn diện, phát huy được trí tuệ của tập thể, nâng cao trách nhiệm của từng cá nhân. Giữ gìn đoàn kết nhất trí trong Đảng, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh. Vận dụng sáng tạo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước vào điều kiện cụ thể của tỉnh, xác định mục tiêu trọng tâm cho từng thời gian, có giải pháp đúng và bước đi thích hợp. Củng cố lòng tin và tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân tạo nên sức mạnh tổng hợp để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ đã đề ra. Hai là: Đổi mới phương thức lãnh đạo, thực hiện đúng quy chế, chương trình làm việc, phân công trách nhiệm rõ ràng. Bám sát cơ sở nắm vững tình hình, định kỳ sơ kết, tổng kết, tìm các nguyên nhân, rút kinh nghiệm, khắc phục bệnh quan liêu, phô trương hình thức. Ba là: Giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội, tranh thủ sự giúp đỡ của Trung ương của các tỉnh và các tổ chức quốc tế. Gắn phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, sinh thái. Khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước yên tâm đầu tư vào phát triển sản xuất kinh doanh trên địa bàn. 33 Bốn là: Quán triệt phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, Nhà nước đầu tư và hỗ trợ vốn, nhân dân tự lực, tự cường, vừa có ý nghĩa về chính trị vừa thúc đẩy sản xuất phát triển. 2. Nguyên nhân cơ bản của yếu kém - Nguyên nhân khách quan: Là tỉnh mới được thành lập lại từ tháng 10-1991, với rất nhiều khó khăn có tính đặc thù, do lịch sử để lại, nhiều ngành và lĩnh vực phải xây dựng lại từ đầu, trong khi đó nguồn vốn Trung ương trợ cấp còn hạn hẹp và không kịp thời nhất là vốn cho dự án và xây dựng cơ bản. Thực hiện quá trình đổi mới trong điều kiện vừa làm vừa tìm tòi hình thức, bước đi, giải pháp và thị trường. Luật pháp và chính sách vừa thiếu vừa chưa đồng bộ, làm cho quá trình tổ chức thực hiện chậm, gặp không ít khó khăn. Một số chính sách của Trung ương chưa thật phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương, do đó hiệu quả thấp và chưa thực sự đi vào cuộc sống của nhân dân các dân tộc. Thời tiết, khi hậu đối với một số vụ sản xuất diễn biến không thuận hòa, đã gây thiệt hại lớn cho sản xuất và đời sống của nhân dân. - Nguyên nhân chủ quan: Trước hết là vấn đề cán bộ, nhìn chung vừa thiếu lại vừa yếu. Ở nhiều nơi vẫn có tình trạng hẫng hụt, lúng túng trong việc bố trí hạt nhân lãnh đạo, thiếu những cán bộ giỏi và chuyên gia đầu ngành về công tác lãnh đạo và quản lý, về sản xuất kinh doanh, kinh tế đối ngoại, khoa học - kỹ thuật về công tác tôn giáo và dân tộc…việc quy hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ chưa làm kịp. Phương thức và phong cách lãnh đạo ở một số nơi chưa thực sự đổi mới, cải cách bộ máy nhìn chung còn chậm và kém hiệu quả, tệ quan liêu, cửa quyền, xa rời quần chúng, coi thường pháp luật, kỷ cương vẫn còn ở một số cán bộ, đảng viên... Mặt trận và các đoàn thể nhân dân ở nhiều nơi còn có biểu hiện lúng túng trong nội dung và phương thức hoạt động, đội ngũ cán bộ 34 thiếu, một số chưa phấn khởi công tác, chưa được chăm lo đào tạo, bồi dưỡng và đãi ngộ thỏa đáng. Việc đánh giá tình hình ở một vùng, một số lĩnh vực chưa sát, do vậy quá trình vận dụng chính sách của Đảng và Nhà nước, việc đầu tư phát triển sản xuất, văn hóa xã hội có nơi, có việc chưa phù hợp, dẫn tới hiệu quả đầu tư thấp. Công tác quản lý vốn đầu tư ở nhiều dự án chưa tốt, công tác thanh tra, kiểm tra chưa được thường xuyên,… Đã ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh, kìm hãm nhịp độ xóa đói, giảm nghèo trong nhân dân. Phần thứ hai NHỮNG NHIỆM VỤ CHỦ YẾU TRONG GIAI ĐOẠN 1996-2000 I. MỤC TIÊU TỔNG QUÁT GIAI ĐOẠN 1996-2000 Phát huy những truyền thống tốt đẹp và những thành quả đã đạt được, vận dụng sáng tạo đường lối của Đảng, kịp thời nắm bắt thời cơ thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua khó khăn, thử thách, khai thác triệt để mọi tiềm năng, tiếp tục tạo ra những nguồn lực mới về kinh tế - xã hội. Giữ vững ổn định chính trị và chủ quyền quốc gia, phát triển mạnh nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao vai trò quản lý và điều hành của chính quyền các cấp, xóa bỏ tình trạng sản xuất độc canh: phân tán, tự nhiên, tự cung tự cấp. Gắn phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, củng cố an ninh quốc phòng, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh. Một số mục tiêu chủ yếu đến năm 2000: - Giá trị tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP): 1.663 tỷ đồng - Tốc độ tăng GDP bình quân hằng năm 11% - 12% - Cơ cấu GDP: + Nông lâm nghiệp 39% + Công nghiệp 32% + Dịch vụ 29% 35 - Sản lượng lương thực quy thóc 160.000 tấn - Giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu 12.000.000 USD - Thu ngân sách trên địa bàn 250 tỷ đồng - Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 3,12% - Độ tán che phủ của rừng 35% - Xóa đói bình quân hằng năm 2% - Giảm nghèo bình quân hằng năm 2%. - Cơ bản xóa bỏ tình trạng du canh du cư - Tỳ lệ số trẻ em trung độ tuổi đến trường 70%. II. TƯ TƯỞNG CHỈ ĐẠO 1. Giữ vững và nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế, chú trọng phát triển nông, lâm nghiệp, tăng mạnh tỷ trọng công nghiệp đặc biệt là khai thác và chế biến khoáng sản công nghiệp, chế biến nông, lâm sản và sản xuất hàng tiêu dùng. Đẩy mạnh xuất, nhập khẩu; trong đó đặc biệt chú trọng thị trường là các nước trong khu vực và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc). Tăng nhanh tỷ trọng dịch vụ và du lịch trong cơ cấu GDP. Xây dựng các cụm kinh tế và dân cư trên địa bàn tỉnh. 2. Tập trung đầu tư cho cơ sở hạ tầng đi đôi với việc xây dựng và bổ sung các chính sách đồng bộ, thuận lợi nhằm thu hút các nguồn vốn ngoài nước, trong nước và trong dân để phát triển kinh tế - xã hội. 3. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực, gồm đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế, khoa học - kỹ thuật và đội ngũ công nhân kỹ thuật có tay nghề và trình độ cao, đáp ứng được yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 4. Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội là tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án đầu tư theo quy hoạch, có trọng tâm, trọng điểm, chú trọng đầu tư cho công tác xóa đói, giảm nghèo, từng bước thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. 5. Gắn phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ chủ quyền quốc gia. Giữ vững ổn định chính trị, củng cố an ninh quốc phòng và bảo vệ môi 36 trường sinh thái. Đề cao cảnh giác và chủ động đối phó với mọi tình huống xảy ra. 6. Phát huy vai trò Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, động viên nhân dân đoàn kết và sáng tạo, thực hiện thắng lợi những mục tiêu đề ra. III. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN GIAI ĐOẠN 1996-2000 1. Về phát triển kinh tế - xã hội Tiếp tục ổn định và phát triển sản xuất, giữ vững và nâng dần nhịp độ tăng trưởng và hiệu quả kinh tế - xã hội, ưu tiên phát triển những ngành, những địa bàn, những cơ sở, và những dự án sớm đưa lại hiệu quả, tạo ra nhiều việc làm góp phần xóa đói, giảm nghèo cho nhân dân. Đẩy mạnh xuất khẩu và hợp tác kinh tế với nước ngoài, tỉnh ngoài để thu hút mọi nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ổn định và cải thiện từng bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân, phấn đấu giảm mạnh tỷ lệ sinh đẻ, giảm tình trạng suy dinh dưỡng, thu hẹp diện thiếu đói, diện nghèo trong nông thôn, cải thiện đáng kể điều kiện phòng và chữa bệnh, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, mở rộng dạy nghề và đào tạo lại đội ngũ cán bộ hiện có. Về phát triển nông - lâm nghiệp: Đẩy mạnh thâm canh, tăng vụ, tăng cường cải tiến cơ cấu giống, cơ cấu mùa vụ và áp dụng tiến bộ kỹ thuật, chủ động về phân bón, xác định cây trồng, vật nuôi phù hợp với từng vùng, từng thời gian, tăng dần tỷ trọng cây công nghiệp, cây thực phẩm và chăn nuôi, gắn với đẩy mạnh công tác chế biến nông, lâm sản, thực phẩm, đặc biệt là những sản phẩm cho xuất khẩu. Đầu tư quy hoạch và xây dựng các vùng sản xuất tập trung, đầu tư giống mới, thủy lợi, công cụ lao động và phân bón, giúp nhân dân xây dựng dự án, hướng dẫn và hỗ trợ về kỹ thuật cho nhân dân sản xuất lâm nghiệp nhằm tăng nhanh diện tích trồng, tái sinh, khoanh nuôi bảo vệ rừng. Đẩy mạnh công tác giao đất, giao rừng, khai thác có hiệu 37 quả đất trống, đồi trọc, mặt nước theo hướng kết hợp nông - lâm - ngư nghiệp, trồng trọt và chăn nuôi, theo phương châm chỗ dễ, chỗ gần làm trước kết hợp cây ngắn ngày với cây dài ngày, huy động mọi nguồn vốn trong nhân dân, vốn trong nước và nước ngoài vào đầu tư phát triển với những chính sách ưu đãi, nhất quán và đồng bộ. Về phát triển công nghiệp và xây dựng kết cấu hạ tầng: Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư cho sản xuất, đồng thời thu hút đầu tư trực tiếp của tỉnh ngoài và nước ngoài để cải tạo và đổi mới công nghệ của các cơ sở hiện có. Phát triển mạnh công nghiệp chế biến nông, lâm sản với quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến và tận dụng nguyên liệu ngày càng cao. Đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Từng bước thực hiện công nghiệp thóa, hiện đại hóa nông thôn, góp phần thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo. Tỉnh kết hợp với các bộ, ngành Trung ương tập trung đầu tư và thu hút vốn nước ngoài để tiến hành điều tra cơ bản tài nguyên khoáng sản, quy hoạch vùng và xây dựng các cơ sở khai thác và chế biến khoáng sản lớn, theo hướng xuất khẩu là chính như đồng, sắt, felspat... Chú trọng công tác bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình khai thác và chế hiến khoáng sản phát triển tiểu thủ công nghiệp, trên cơ sở củng cố và phát triển các hợp tác xã và hộ gia đình, thông qua các dự án giải quyết việc làm, dự án xóa đói, giảm nghèo, để khai thác triệt để nguồn nguyên liệu sẵn có và tạo việc làm cho người lao động. Phấn đấu giá trị tổng sản lượng công nghiệp năm 2000 là 75 tỷ đồng (theo giá năm 1989), tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm 17%. Công nghiệp quốc doanh thực sự giữ vai trò chủ đạo và chiếm tỷ trọng 70% trong tổng giá trị sản lượng công nghiệp trên địa bàn. Đẩy mạnh tiến độ xây dựng kết cấu hạ tầng về kinh tế - xã hội. Tập trung ưu tiên về vốn cho một số công trình có triển vọng phát huy hiệu quả sớm. Phát triển lực lượng vận tải của nhiều thành phần kinh tế, tăng năng lực vận tải lên vùng cao, biên giới, nâng cấp các tuyến đường hiện có, áp dụng hình thức Nhà nước và nhân dân cùng làm để mở 38 đường liên thôn, liên xã, liên bản. Tiến hành nghiên cứu và triển khai xây dựng dự án sân bay trên địa bàn tỉnh. Tăng cường liên doanh, liên kết, hoàn chỉnh chiến lược tăng tốc trong thông tin liên lạc, mô rộng mạng lưới về cơ sở, tổ chức các loại dịch vụ thông tin thuận lợi và chất lượng cao. Hoàn thành việc kéo điện quốc gia về các huyện, thị, phấn đấu kéo điện lưới quốc gia tới 30% số xã trong toàn tỉnh, mở rộng hình thức sử dụng các nguồn năng lượng khác nhau ở những vùng chưa có điện lưới quốc gia. Hoàn chỉnh hệ thống cấp nước ở thị xã và các thị trấn, đẩy mạnh việc giải quyết nước sinh hoạt cho vùng nông thôn, nhất là vùng cao, vùng biên giới. Về phát triển thương mại - du lịch và kinh tế đối ngoại: Củng cố lại mạng lưới thương nghiệp quốc doanh và các loại hình dịch vụ nhằm vừa hình thành những trung tâm thương mại lớn làm đầu mối giao lưu hàng hóa, vừa xây dựng các chợ nhỏ phục vụ các thị trường nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng cao, bảo đảm cung ứng đủ các mặt hàng thiết yếu cho nhân dân. Tiếp tục thực hiện chính sách ưu tiên và trợ giá cho vùng cao, vùng dân tộc ít người. Tăng nguồn dự trữ vật tư hàng hóa cần thiết để điều tiết thị trường, có chính sách ưu đãi khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động thương mại và dịch vụ. Coi trọng công tác điều tra nghiên cứu thị trường trong nước và nước ngoài, để hướng dẫn các nhà đầu tư sản xuất đúng hướng. Chú trọng sản xuất và xuất khẩu và đầu tư xây dựng khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai, khu du lịch Sa Pa và các di tích khác, cải tiến quản lý du lịch để thu hút khác và tăng thu vào ngân sách. Về phát triển khoa học, công nghệ: Tăng cường đào tạo và củng cố đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật, có chính sách để thu hút các nhà khoa học, các chuyên gia giỏi tham gia vào nghiên cứu khoa học ở tỉnh, chú trọng công tác ứng dụng khoa học chuyển giao công nghệ, làm tốt công tác giám định khoa học - kỹ thuật các công trình, máy móc thiết bị, vật nuôi và giống cây trồng nhập từ nước ngoài. 39 Đẩy mạnh nghiên cứu và có biện pháp bảo vệ môi trường sinh thái. Chú trọng đúng mức các công trình nghiên cứu khoa học cơ bản về xã hội, nhân văn và tự nhiên. Tăng cường học tập, quán triệt nghiên cứu và vận dụng sáng tạo các nghị quyết của Đảng vào điều kiện cụ thể của địa phương. Về tài chính ngân hàng: Để tạo vốn đầu tư phát triển giải pháp cơ bản là phát triển mạnh kinh tế, thực hành tiết kiệm cả trong chi tiêu của Nhà nước, trong sản xuất và trong tiêu dùng của dân cư, có chính sách khuyến khích đầu tư, đồng thời đa dạng hóa các hình thức huy động vốn trong mọi thành phần kinh tế ở trong và ngoài nước. Thực hiện thu đúng, thu đủ, chú trọng nuôi dưỡng nguồn thu, cải tiến phương thức và rà soát lại các định mức thu, chi theo hướng nhanh gọn, chính xác, nâng cao năng lực, phẩm chất đội ngũ cán bộ làm công tác tài chính - ngân hàng. Tăng cường công tác quản lý tiền mặt và đầu tư tín dụng cho mọi thành phần kinh tế để phát triển sản xuất, góp phần tích cực điều tiết thị trường ổn định giá cả và kiềm chế lạm phát. Phấn đấu tốc độ tăng thu vào ngân sách bình quân hằng năm đạt trên 30%, tỷ lệ huy động từ GDP vào ngân sách đến năm 2000 đạt 15%. Tập trung giải quyết tốt các vấn đề về xã hội, văn hóa, giáo dục và y tế: Toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội từ giải quyết việc làm, giáo dục đào tạo, xây dựng nếp sống văn hóa mới, chăm sóc sức khỏe, dân số - kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ trẻ em, thể dục thể thao... đều được tiến hành theo hướng xã hội hóa trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi người, tăng cường đầu tư mở mang ngành nghề, tạo nhiều việc làm cho người lao động. Tiếp tục thực hiện phân bố lại dân cư và lao động, đẩy mạnh công tác định canh định cư, tạo cơ sở vật chất để hạn chế, tiến tới xóa bỏ tình trạng du canh, du cư trên địa bàn. Hỗ trợ mọi mặt để nhân dân định cư, ổn định cuộc sống và phát triển kinh tế. 40 Thực hiện tốt các chính sách xã hội, đồng thời vận động nhân đầu tư tích cực xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa đối với các Bà mẹ Việt Nam anh hùng, gia đình thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng và chăm sóc giúp đỡ người già không nơi nương tựa, trẻ em mồ côi, gia đình đặc biệt khó khăn. Công tác giáo dục cần được ưu tiên phát triển trước một bước. Tiếp tục đầu tư mới và củng cố hệ thống trường lớp, đáp ứng nhu cầu học của nhân dân và yêu cầu đào tạo cán bộ của tỉnh. Phấn đấu đến năm 2000 có đủ giáo viên dạy học và phổ cập tiểu học ở vùng thấp, huy động từ 65% đến 70% trẻ em ở vùng cao trong độ tuổi đến trường, xóa mù chữ cho cán bộ xã và trưởng thôn, bản trong toàn tỉnh, mở rộng việc học ngoại ngữ, tin học và dạy nghề. Hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học ở các xã vùng thấp và các xã vùng cao có điều kiện. Tiếp tục triển khai thực hiện các chương trình quốc gia về y tế, củng cố mạng lưới y tế cơ sở phát triển y tế cộng đồng. Xây dựng hoàn chỉnh Bệnh viện tỉnh Lào Cai. Mở rộng bảo hiểm y tế đến các đối tượng dân cư, nâng cao trình độ chuyên môn và trách nhiệm phục vụ của đội ngũ thày thuốc. Đẩy mạnh cuộc vận động kế hoạch hóa gia đình, tiếp tục phát triển thể dục, thể thao nhất là các hoạt động thể dục, thể thao quần chúng và truyền thống. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, kết hợp văn hóa dân tộc với hiện đại một cách chọn lọc. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống các tệ nạn xã hội, lối sống đồi trụy, lạc hậu. Xây dựng nếp sống văn hóa mới trong từng gia đình và toàn xã hội. 2. Quốc phòng - an ninh và đối ngoại Trong khi tập trung sức để phát triển kinh tế - xã hội, chúng ta phải coi trọng tăng cường quốc phòng và an ninh, thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Thực hiện quan hệ đối ngoại rộng mở, hữu nghị, bình đẳng, cùng có lợi. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn. 41 Trong giai đoạn 1996 - 2000 chúng ta cần tập trung làm tốt một số công tác lớn sau đây: - Nâng cao cảnh giác cách mạng, tăng cường củng cố các cơ sở chính trị và phong trào an ninh bảo vệ Tổ quốc xây dựng thế trận an ninh nhân dân và quốc phòng toàn dân. - Xây dựng các khu vực phòng thủ vững mạnh, các phòng tuyến an ninh nhân dân, nhất là ở các khu vực trọng điểm, bảo vệ vững chắc chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác, bình đẳng và cùng có lợi. Bảo vệ an ninh nội bộ, bảo vệ Đảng và chính quyền các cấp, phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch. - Tăng cường quản lý nhà nước về trật tự xã hội, chống tội phạm, xây dựng phong trào quần chúng bảo vệ trật tự, an toàn xã hội. - Xây dựng lực lượng quân đội nhân dân và công an nhân dân trong sạch, vững mạnh, củng cố các lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ và công an cơ sở. - Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp đối với nhiệm vụ an ninh quốc phòng và đối ngoại, phát huy vai trò của các đoàn thể trong việc chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang và vận động quần chúng. Mở rộng quan hệ hữu nghị với các nước, đặc biệt là với tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) theo đúng nguyên tắc của Đảng, giải quyết mọi tranh chấp bằng thương lượng bảo đảm ổn định, an ninh và phát triển. 3. Nhiệm vụ xây dựng và củng cố hệ thống chính trị a) Xây dựng Đảng về chính trị tư tưởng và tổ chức: Định hướng lớn về công tác chính trị tư tưởng của Đảng bộ là: “Tiếp tục tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Giữ vững trận địa tư tưởng xã hội chủ nghĩa; tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng bộ và trong nhân dân các dân tộc; nâng cao quyết tâm 42 thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh tế - xã hội 1996 - 2000. Giữ vững chủ quyền lãnh thổ và an ninh biên giới; chuẩn bị mọi điều kiện cho Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Lào Cai vững bước vào thế kỷ XXI”. Trước mắt cần tập trung vào các nhiệm vụ cụ thể: - Tiếp tục quán triệt và thực hiện Nghị quyết 09 (khóa VII) của Bộ Chính trị về những định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ II. Tiến hành thường xuyên công tác giáo dục chính trị cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, nắm vững diễn biến tư tưởng, đấu tranh kịp thời với những quan điểm trái với nghị quyết, với âm mưu diễn biến hòa bình, giáo dục tinh thần đoàn kết dân tộc, bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước. - Thường xuyên giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, bồi dưỡng truyền thống cách mạng trong các dân tộc cho cán bộ, đảng viên, đoàn viên thanh niên cộng sản và quần chúng nhân dân. - Chỉ đạo các hoạt cộng văn hóa, văn nghệ, phát triển đúng hướng và phục vụ tốt các nhiệm vụ chính trị góp phần nâng cao dân trí. - Củng cố, kiện toàn hệ thống tổ chức làm công tác tư tưởng - văn hóa. Về công tác tổ chức và cán bộ: Tiếp tục củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng, trước hết là đổi với các cấp ủy, nâng cao phẩm chất chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, đẩy mạnh công tác xây dựng các chi, đảng bộ theo tiêu chuẩn trong sạch, vững mạnh, từng bước thu hẹp, tiến tới xóa dần tình trạng những cơ sở đảng yếu kém, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo của Đảng trong tình hình nhiệm vụ mới. Nhiệm vụ cơ bản, trọng yếu của công tác này là: - Tập trung xác định rõ hơn vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong cơ chế mới. - Tiếp tục chỉ đạo việc xây dựng, bổ sung hoàn chỉnh quy chế làm việc của cấp ủy các cấp; xây dựng và tổ chức thực hiện tốt chương 43 trình hành động toàn khóa và trong từng năm của các cấp ủy ngay từ tháng đầu, quý đầu. - Tiến hành thường xuyên công tác phân tích, đánh giá chất lượng cán bộ, đảng viên, đi đôi với công tác bổ sung, kiện toàn về đội ngũ, trước hết là các chức danh chủ chốt của Đảng, chính quyền, Mặt trận và đoàn thể. - Mỗi cơ sở đảng phải có kế hoạch xây dựng chi, đảng bộ theo tiêu chuẩn trong sạch, vững mạnh: - Tiếp tục kiện toàn các ban Đảng, Đảng đoàn, Ban cán sự ở cấp tỉnh và huyện. Xây dựng quy chế hoạt động đi đôi với hoàn chỉnh và phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của các ban Đảng, Đảng đoàn và Ban cán sự ở các cấp, nhằm đưa các tổ chức này đi vào hoạt động có nền nếp và hiệu quả. - Đẩy mạnh công tác phát triển Đảng. Chú trọng phát triển đảng viên ở những đơn vị trọng điểm, nơi chưa có hoặc còn ít đảng viên, thành phần xuất thân là công nhân, tầng lớp trí thức, là nữ, dân tộc ít người, tuổi trẻ. Phấn đấu xóa tình trạng các thôn, bản, cơ sở không có đảng viên. - Tiếp tục đổi mới phương pháp đánh giá cán bộ, thực hiện tốt nguyên tắc tắp trung dân chủ trong các khâu: Đề bạt, bổ nhiệm, bố trí, sử dụng, tiếp nhận, tuyển dụng và thực hiện các chính sách cán bộ. Thực hiện quy hoạch cán bộ, đưa công tác quy hoạch cán bộ vào nền nếp. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng cán bộ bằng nhiều hình thức. Chú trọng đội ngũ cán bộ dân tộc, cán bộ nữ ở tất cả các ngành, các cấp. Công tác kiểm tra của Đảng phải được quán triệt trong các cấp ủy theo phương châm “Lãnh đạo phải đi đôi với kiểm tra”. Công tác kiểm tra là trách nhiệm của tất cả các tổ chức đảng và đảng viên. Nội dung trọng yếu của công tác này là kiểm tra việc chấp hành Điều lệ Đảng, thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng; kiểm tra quy chế làm việc của các cấp ủy, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, giải quyết tốt hơn các đơn thư tố cáo, khiếu nại của cán bộ, đảng viên 44 và nhân dân đổi với đảng viên, góp phần thực hiện chống tham nhũng có hiệu quả. - Thực hiện tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ. b) Xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân: - Trước hết triển khai thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương lần thứ tám (khóa VII). - Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện một bước bộ máy hành chính nhà nước, sắp xếp các cơ quan đơn vị phù hợp với việc điều chỉnh cơ cấu tổ chức của Chính phủ. Tiếp tục xây dựng hộ máy, biên chế phù hợp, đủ mạnh, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp, các ngành xây dựng quy chế làm việc, bảo đảm mỗi cấp, ngành nhà nước hoạt động đúng pháp luật. - Tăng cường sự chỉ đạo, điều hành quản lý tập trung của Ủy ban nhân dân các cấp. Kiện toàn và nâng cao hiệu lực hoạt động của chính quyền các xã, phường. Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của trưởng thôn, bản, nhất là thôn, bản vùng cao, vùng sâu, vùng biên giới. - Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp. Phổ biến sâu rộng nghị quyết các kỳ họp của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp để nhân dân biết, thực hiện và giám sát. - Tổ chức tốt công tác tiếp dân, thực hiện nghiêm các quy định về thời gian giải quyết và trả lời cho công dân theo đúng Pháp lệnh nhà nước. Công khai những việc cần thiết trên thông tin đại chúng để dân biết, thực hiện và góp ý kiến. - Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp trên địa bàn. Tăng cường giáo dục pháp luật cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Kiên quyết chống quan liêu, tham nhũng, giữ gìn kỷ cương, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chính quyền các cấp. - Đào tạo, bồi dưỡng, đào tạo lại đội ngũ công chức, viên chức theo chức danh tiêu chuẩn Nhà nước. Đặc biệt chú trọng bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội cho cán bộ chủ chốt 45 cấp cơ sở. Từng bước tiến lên tiêu chuẩn hóa về ngoại ngữ, tin học cho từng đối tượng công chức, viên chức. Nhiệm vụ công tác quần chúng của Đảng bộ: - Tiếp tục đổi mới công tác quần chúng của Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể, theo hướng tăng cường vai trò làm chủ của nhân dân lao động trên các mặt của đời sống xã hội. - Tăng cường khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết các dân tộc anh em, giáo dục ý thức cộng đồng, ý thức tương thân tương ái, giúp đỡ lẫn nhau trong các vùng, các dân tộc. - Tổ chức vận động nhân dân thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; phát huy sức mạnh tổng hợp của nhân dân để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng, bảo vệ Đảng và chính quyền các cấp. Nghiên cứu đề xuất với tổ chức thực hiện tốt các chính sách về dân tộc và miền núi, nhằm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, mở rộng dân chủ, đi đôi với tăng cường kỷ cương xã hội. - Tăng cường giáo dục cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị về ý thức dân vận về phẩm chất đạo đức cách mạng nhằm tăng cường hơn nữa mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền Mặt trận và đoàn thể với nhân dân. Nắm vững tình hình và giải quyết kịp thời những tâm tư nguyện vọng chính đáng của quần chúng. - Tiếp tục xây dựng và củng cố cơ sở chính trị vững mạnh, nhất là đối với vùng sâu, vùng cao, vùng biên giới. Xây dựng lực lượng nòng cốt trong quần chúng ở các vùng, các dân tộc, đặc biệt là ở các thôn, bản, tạo điều kiện đưa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước tới nhân dân. IV. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ THỰC HIỆN MỤC TIÊU KINH TẾ - XÃ HỘI 1. Phát triển nguồn nhân lực Để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần phải có một đội ngũ cán bộ có năng lực, 46 giỏi chuyên môn và có phẩm chất đạo đức tốt trên tất cả các lĩnh vực: quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, trong công tác xây dựng Đảng và đoàn thể, hoạt động khoa học - kỹ thuật và đội ngũ công nhân có tay nghề cao. Do vậy trong giai đoạn 1996 - 2000 cần phải có một kế hoạch cụ thể đào tạo, phát triển nguồn nhân lực đồng bộ và chất lượng cao: Có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ đương chức, chú trọng đào tạo những cán bộ có năng lực còn trẻ, cán bộ khoa học - kỹ thuật và cán bộ thuộc các dân tộc ít người. Việc đào tạo này được tiến hành dưới nhiều hình thức tập trung và tại chức, dài hạn, ngắn hạn, gửi đi Trung ương và mở tại tỉnh. Trong thời gian tới ta phải đánh giá nhu cầu nhân lực trong toàn tỉnh, từ đó có kế hoạch tuyển sinh đào tạo dài hạn đội ngũ cán bộ cho tương lai, nhằm tạo điều kiện cho người lao động, nhất là những người được đào tạo cơ bản có cơ hội thuận lợi đề tìm việc làm và có thu nhập xứng đáng với sức lao động bỏ ra. Để có nguồn đào tạo nhân lực cần đầu tư thích đáng cho sự nghiệp giáo dục phổ thông các cấp, nghiên cứu và mở rộng hình thức trường phổ thông bán trú, thực hiện xã hội hóa sự nghiệp giáo dục và đào tạo, nhằm động viên mọi nhà, mọi tầng lớp dân cư, các thành phần kinh tế tham gia vào sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo với cơ quan quản lý nhân lực và việc làm, giữa cơ sở đào tạo với cơ sở sử dụng lao động. Kết hợp giữa đào tạo kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp với đào tạo bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, nhằm hình thành đội ngũ lao động giỏi chuyên môn nghiệp vụ, lao động có kỷ luật, có kỹ thuật, cần cù, sáng tạo, có ý thức phấn đấu vì phồn vinh của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân. 2. Về vốn: Huy động kịp thời và triệt để các nguồn thu trên địa bàn vào ngân sách tỉnh, phấn đấu thu ngân sách hằng năm tăng trên 30% và tự cân đối được 40% vào năm 2000, đồng thời có chính sách 47 nuôi dưỡng nguồn thu ở những nơi có nguồn thu lớn, tăng cường đầu tư cho sản xuất để tạo nguồn thu. Xây dựng chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư, tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi thu hút vốn đâu tư cho nhân dân, trong nước và ngoài nước. Đẩy mạnh liên doanh, liên kết với các tỉnh trong nước và với nước ngoài, tranh thủ sự tài trợ của các tổ chức quốc tế, xây dựng các dự án phù hợp và có tính khả thi, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn vay để phát huy sản xuất. Tiết kiệm chi, để đầu tư cho sản xuất, quản lý chặt chẽ các nguồn vốn, xử lý nghiêm những người làm thất thoát vốn hoặc chiếm đoạt vốn của Nhà nước, của nhân dân. 3. Về thị trường: Hiện nay sản xuất của tỉnh ta quy mô nhỏ và chất lượng sản phẩm chưa ổn định, do vậy chưa có thị trường vững chắc trong nước và ngoài nước. Với chiến lược phát triển nền kinh tế hàng hóa, sản phẩm làm ra chủ yếu để bán ra tỉnh ngoài và nước ngoài, do đó phải đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu thăm dò, dự báo thị trường, tăng cường hoạt động của cơ quan ngoại vụ và các hoạt động kinh tế đối ngoại khác. Kết hợp chặt chẽ giữa cơ quan xuất nhập khẩu với các đơn vị sản xuất, không ngừng tạo ra những sản phẩm xuất khẩu, theo hướng tăng dần hàm lượng công nghệ trong sản phẩm, giảm tối đa việc xuất sản phẩm thô, nâng cao chất lượng, hạ giá thành, cải tiến mẫu mã bao bì hàng xuất khẩu. Đào tạo kịp thời đội ngũ cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu, nắm chắc thông lệ quốc tế, giỏi chuyên môn nghiệp vụ và vững vàng về phẩm chất chính trị: Cùng với xuất khẩu phải quan tâm đến thị trường trong nước và trong tỉnh, từng bước vươn lên sản xuất được những sản phẩm thay thế hàng nhập đáp ứng nhu cầu của sản xuất và đời sống cả ở thị xã và nông thôn, vùng cao, vùng sâu, vùng biên giới. Chấn chỉnh lưu thông hàng hóa, tăng cường vai trò của thương nghiệp quốc doanh trong việc phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân, đặc biệt là ở 48 những vùng có nhiều khó khăn, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia lưu thông hàng hóa: lập lại trật tự, lành mạnh hóa thị trường, xử lý nghiêm những hành vi làm ăn phi pháp, buôn bán hàng cấm, hàng giả, chấn chỉnh mậu dịch biên giới và cửa khẩu, chống buôn lậu có hiệu quả. 4. Đẩy nhanh tiến độ khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên trên địa bàn Chấn chỉnh lại công nghiệp khai khoáng, có kế hoạch, chương trình tiếp tục đầu tư cho khai khoáng và chế biến khoáng sản nhằm bảo đảm các sản phẩm đạt tiêu chuẩn xuất khẩu. Tăng cường quản lý các hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác tài nguyên khoáng sản, thực hiện đúng quy trình, quy phạm bảo đảm an toàn, hiệu quả, chống lãng phí tài nguyên và hủy hoại môi trường. Ngăn chặn mọi hoạt động khai thác tài nguyên trái phép, xử lý nghiêm minh những trường hợp vi phạm. Thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ, mục tiêu do Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ II đề ra, sẽ có ý nghĩa rất quan trọng, tạo thêm tiền đề vững chắc hơn để chúng ta vững bước đi lên giành nhiều thắng lợi mới khi bước vào thế kỷ XXI. Đảng bộ và quân, dân các dân tộc tỉnh Lào Cai nêu cao truyền thống đoàn kết, tranh thủ thời cơ thuận lợi, vượt qua khó khăn thử thách xây dựng tỉnh Lào Cai ổn định về chính trị, vững mạnh về an ninh quốc phòng, kinh tế phát triển, quan hệ xã hội lành mạnh và có nền văn hóa tiên tiến, hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc. Toàn Đảng, toàn quân và toàn dân hãy tập trung cố gắng, hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu Đại hội đề ra, phấn đấu cho nhân dân các dân tộc tinh Lào Cai có cuộc sống ấm no, hạnh phúc và văn minh như các dân tộc trong cả nước. Lưu tại Kho Lưu trữ Tỉnh ủy. 49 NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ TỈNH LÀO CAI LẦN THỨ II Ngày 4-5-1996 Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ II họp từ ngày 2-5- 1996 đến ngày 4-5-1996, QUYẾT NGHỊ: 1. Thông qua báo cáo tổng hợp ý kiến của Đại hội Đảng bộ cơ sở và huyện, thị tham gia vào các dự thảo văn kiện của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) trình Đại hội lần thứ VIII của Đảng; Giao cho Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (khóa II) căn cứ vào ý kiến của Đại hội để chỉnh lý văn bản báo cáo Ban Chấp hành Trung ương Đảng. 2. Thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (khóa I) về đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ I và phương hướng nhiệm vụ chủ yếu 5 năm 1996 - 2000; giao cho Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (khóa II) căn cứ vào ý kiến của Đại hội để hoàn chỉnh báo cáo và tiến hành tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết của Đại hội. ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ TỈNH LÀO CAI LẦN THỨ II Lưu tại Kho Lưu trữ Tỉnh ủy. 50 THÔNG TRI CỦA BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY Số 01-TT/TU, ngày 8-5-1996 Về việc đánh giá 3 năm tổ chức thực hiện Chỉ thị 23-CT/TW, ngày 12-6-1993 của Bộ Chính trị về “Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong tình hình mới” Kính gửi: - Các huyện, thị, Đảng ủy trực thuộc - Các Đảng đoàn, Ban cán sự Đảng trực thuộc Tỉnh ủy. Thực hiện chủ trương của Thường trực Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc đánh giá 3 năm tổ chức thực hiện Chỉ thị 23-CT/TW về “Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong tình hình mới”, Lào Cai là tỉnh biên giới mới được tái lập, có rất nhiều khó khăn, lại phải chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Được Trung ương chỉ đạo, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã quyết định thành lập Ban Bảo vệ chính trị nội bộ của Tỉnh ủy từ tháng 8-1995, qua gần 3 năm vừa hoạt động, vừa từng bước hoàn thiện bộ máy tổ chức và cán bộ từ tỉnh đến huyện, thị, Đảng ủy trực thuộc, quá trình thực hiện nhiệm vụ theo hướng dẫn của Ban Bảo vệ chính trị nội bộ Trung ương và chỉ đạo trực tiếp của Thường trực Tỉnh ủy. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ đã đóng góp tích cực vào giữ vững an ninh chính trị, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, góp phần đắc lực vào công tác xây dựng Đảng và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. 51 Để đánh giá một cách tương đối có hệ thống và đúng mức những việc đã làm được, chưa làm được rút ra những kinh nghiệm công tác, nhằm từng bước đưa công tác bảo vệ chính trị nội bộ đi vào nền nếp. Ban Thường vụ Tỉnh ủy yêu cầu các huyện, thị, Đảng ủy trực thuộc, các Đảng đoàn, Ban cán sự Đảng cơ quan tỉnh giành thời gian thích đáng để đánh giá 3 năm thực hiện Chỉ thị 23-CT/TW của Bộ Chính trị, viết thành báo cáo gửi về Tỉnh ủy vào ngày 25-5-1996 (gửi qua Ban Bảo vệ chính trị nội bộ Tỉnh ủy). Ban Bảo vệ chính trị nội bộ có trách nhiệm hướng dẫn nội dung 3 năm tổ chức thực hiện Chỉ thị 23-CT/TW, phân công chuyên viên theo dõi và tập hợp để báo cáo Trung ương và Ban Thường vụ Tỉnh ủy. T/M BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY PHÓ BÍ THƯ THƯỜNG TRỰC NGUYỄN NGHĨA VỤ Lưu tại Kho Lưu trữ Tỉnh ủy. 52 QUYẾT NGHỊ CỦA BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY Số 03-QN/TU, ngày 9-5-1996 Chuẩn y Ban Chấp hành đảng bộ huyện, thị, đảng ủy trực thuộc Căn cứ Điều 13 Chương II Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam và Chỉ thị số 51-CT/TW, ngày 9-3-1995 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về đại hội đảng bộ các cấp; Căn cứ vào Biên bản bầu cử Ban Chấp hành tại Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Sa Pa khóa XVIII họp ngày 24-4-1996; Xét đề nghị của Ban Tổ chức Tỉnh ủy Lào Cai, BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY QUYẾT NGHỊ: Điều 1: Chuẩn y 27 đồng chí (có danh sách kèm theo) là Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Sa Pa khóa XVIII nhiệm kỳ 1996- 2000 từ ngày 24-4-1996. Điều 2: Nhiệm vụ cụ thể của đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành do Ban Chấp hành Đảng bộ Sa Pa khóa XVIII phân công. Điều III: Văn phòng Tỉnh ủy, Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Sa Pa và các đồng chí có tên trên căn cứ Quyết nghị thi hành. T/M BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY BÍ THƯ TRÁNG A PAO 53 DANH SÁCH Chuẩn y Ủy viên Ban Chấp Đảng bộ Huyện ủy Sa Pa khóa XVIII nhiệm kỳ 1996-2000 1- Đồng chí Nguyễn An Toàn 2- Đồng chí Nguyễn Văn Vụ 3- Đồng chí Má A Châu 4- Đồng chí Nguyễn Tân 5- Đồng chí Phan Anh Đằng 6- Đồng chí Đỗ Đình Bình 7- Đồng chí Đinh Ngọc Cầm 8- Đồng chí Giàng A Pho 9- Đồng chí Lương Tiến Dũng 10 - Đồng chí Vù A Cổ 11- Đồng chí Lý Phù Chìu 12- Đồng chí Dương Châu 13- Đồng chí Lý Thị Sé 14- Đồng chí Chảo Vần Chòi 15- Đồng chí Nguyễn Thị Dung 16- Đồng chí Vàng A Dế 17- Đồng chí Phí Văn Hòa 18- Đồng chí Nông Thanh Hải 19- Đồng chí Nguyễn Văn Ninh 20- Đồng chí Đỗ Thị Nhung 21- Đồng chí Phan Đình Thống 22- Đồng chí Đỗ Xuân Tiến 23- Đồng chí Lê Quang Thành 24- Đồng chí Trần Doãn Thắng 25- Đồng chí Nguyễn Thị Thủy 26- Đồng chí Lý A Pho 27- Đồng chí Hoàng Đức Sòng Lưu tại Kho Lưu trữ Tỉnh ủy. 54 QUYẾT NGHỊ CỦA BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY Số 04- QN/TU, ngày 9-5-1996 Về việc chuẩn y Ban Thường vụ, Bí thư, Phó Bí thư các đảng bộ huyện, thị, đảng ủy trực thuộc Căn cứ Điều 13 Chương II Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam và Chỉ thị số 51-CT/TW, ngày 9-3-1995 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về đại hội đảng bộ các cấp; Căn cứ vào Biên bản bầu cử Ban Thường vụ, bầu Bí thư, các Phó Bí thư tại phiên họp thứ nhất Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Sa Pa khóa XVIII họp ngày 24-4-1996; Xét đề nghị của Ban Tổ chức Tỉnh ủy Lào Cai, BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY QUYẾT NGHỊ: Điều 1: Chuẩn y Ban Thường vụ Đảng bộ huyện Sa Pa khóa XVIII gồm 9 đồng chí sau đây: 1- Đồng chí Nguyễn An Toàn 2- Đồng chí Nguyễn Văn Vụ 3- Đồng chí Má A Châu 4- Đồng chí Nguyễn Tân 5- Đồng chí Phan Anh Đằng 6- Đồng chí Đỗ Đình Bình 7- Đồng chí Đinh Ngọc Cầm 55 8 - Đồng chí Giàng A Pho 9 - Đồng chí Lương Tiến Dũng - Chuẩn y đồng chí Nguyễn An Toàn, giữ chức Bí thư Huyện ủy Sa Pa khóa XVIII. - Chuẩn y các đồng chí: + Nguyễn Văn Vụ + Má A Châu Giữ chức Phó Bí thư Huyện ủy Sa Pa khóa XVIII từ ngày 24-4- 1996 Điều 2: Nhiệm vụ cụ thể của từng đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ, Bí thư, các Phó Bí thư do Ban Thường vụ Huyện ủy Sa Pa khóa XVIII phân công. Điều 3: Văn phòng Tỉnh ủy, Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Huyện ủy Sa Pa khóa XVIII và các đồng chí có tên trên căn cứ Quyết nghị thi hành. T/M BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY BÍ THƯ TRÁNG A PAO Lưu tại Kho Lưu trữ Tỉnh ủy. 56 QUYẾT NGHỊ CỦA BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY Số 05- QN/TU, ngày 9-5-1996 Chuẩn y Ban Chấp hành đảng bộ huyện, thị, đảng ủy trực thuộc Căn cứ Điều 13 Chương II Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam và Chỉ thị số 51-CT/TW, ngày 9-3-1995 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về đại hội đảng bộ các cấp; Căn cứ vào Biên bản bầu cử Ban Chấp hành tại Đại hội đại biểu Đảng bộ các cơ quan tỉnh khóa II họp ngày 27-4-1996; Xét đề nghị của Ban Tổ chức Tỉnh ủy Lào Cai, BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY QUYẾT NGHỊ: Điều 1: Chuẩn y 21 đồng chí (có danh sách kèm theo) là Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ các cơ quan tỉnh khóa II nhiệm kỳ 1996- 2000 từ ngày 27-4-1996. Điều 2: Nhiệm vụ cụ thể của đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành do Ban Chấp hành Đảng bộ các cơ quan tỉnh khóa II phân công. Điều 3: Văn phòng Tỉnh ủy, Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Ban Chấp hành Đảng bộ các cơ quan tỉnh và các đồng chí có tên trên căn cứ Quyết nghị thi hành. T/M BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY BÍ THƯ TRÁNG A PAO 57 DANH SÁCH Chuẩn y Ủy viên Ban Chấp Đảng bộ các cơ quan tỉnh 1- Đồng chí Đỗ Thành Am 2- Đồng chí Đàm Văn Cao 3- Đồng chí Lương Ngọc Cấp 4- Đồng chí Phạm Đình Chương 5- Đồng chí Trịnh Quang Chinh 6- Đồng chí Sần Cháng 7- Đồng chí Nguyễn Tiến Doanh 8 - Đồng chí Lâm Văn Đính 9 - Đồng chí Hồ Xuân Đoan 10- Đồng chí Nguyễn Tiến Hiếu 11- Đồng chí Trần Tiến Hòa 12- Đồng chí Phạm Kỳ 13- Đồng chí Nguyễn Văn Lưu 14- Đồng chí Nguyễn Ngọc Kim 15- Đồng chí Dương Thị Xuân 16- Đồng chí Đào Sinh Quân 17- Đồng chí Tẩn Láo San 18- Đồng chí Hà Tuy 19- Đồng chí Cao Văn Tư 20- Đồng chí Ma Quang Trung 21- Đồng chí Nguyễn Hữu Vạn Lưu tại Kho Lưu trữ Tỉnh ủy. 58 QUYẾT NGHỊ CỦA BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY Số 06-QN/TU, ngày 9-5-1996 Chuẩn y Ban Thường vụ, Bí thư, Phó Bí thư các đảng bộ huyện, thị, đảng ủy trực thuộc Căn cứ Điều 13 Chương II Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam và Chỉ thị số 51-CT/TW, ngày 9-3-1995 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về đại hội đảng bộ các cấp; Căn cứ vào Biên bản bầu cử Ban Thường vụ, bầu Bí thư, các Phó Bí thư tại phiên họp thứ nhất Ban Chấp hành Đảng bộ các cơ quan tỉnh khóa II họp ngày 27-4-1996; Xét đề nghị của Ban Tổ chức Tỉnh ủy Lào Cai, BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY QUYẾT NGHỊ: Điều 1: Chuẩn y Ban Thường vụ Đảng bộ các cơ quan tỉnh khóa II gồm 7 đồng chí sau đây: 1- Đồng chí Lâm Văn Đính 2- Đồng chí Đàm Văn Cao 3- Đồng chí Đào Sinh Quân 4- Đồng chí Dương Thị Xuân 5- Đồng chí Hà Tuy 6- Đồng chí Phạm Kỳ 7- Đồng chí Lương Ngọc Cấp 59 - Chuẩn y đồng chí Lâm Văn Đính giữ chức Bí thư Đảng ủy các cơ quan tỉnh khóa II. - Chuẩn y các đồng chí Đàm Văn Cao giữ chức Phó Bí thư Đảng ủy các cơ quan tỉnh khóa II từ ngày 27-4-1996. Điều 2: Nhiệm vụ cụ thể của từng đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ, Bí thư, các Phó Bí thư do Ban Thường vụ Đảng ủy các cơ quan tỉnh khóa II phân công. Điều 3: Văn phòng Tỉnh ủy, Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Đảng ủy các cơ quan tỉnh khóa II và các đồng chí có tên trên căn cứ Quyết nghị thi hành. T/M BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY BÍ THƯ TRÁNG A PAO Lưu tại Kho Lưu trữ Tỉnh ủy. 60 QUYẾT ĐỊNH CỦA BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY Số 09-QĐ/TU, ngày 17-5-1996 Chuẩn y Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy Sa Pa Căn cứ Điều 32 Chương VII Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam; Xét Biên bản bầu cử Ủy ban Kiểm tra ngày 24-4-1996 của Hội nghị Ban Chấp hành Huyện ủy Sa Pa khóa XVIII; Xét đề nghị của Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy, BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY QUYẾT ĐỊNH: Điều 1: Chuẩn đề nghị của Ban Chấp hành Huyện ủy Sa Pa giao cho đồng chí Phan Anh Đằng Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy giữ chức vụ Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy Sa Pa. Điều 2: Ban Chấp hành Đảng bộ Huyện ủy Sa Pa, Văn phòng Tỉnh ủy, Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy và đồng chí Đằng thi hành Quyết định này. T/M BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY BÍ THƯ TRÁNG A PAO Lưu tại Kho Lưu trữ Tỉnh ủy. 61 QUYẾT ĐỊNH CỦA BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY Số 10-QĐ/TU, ngày 17-5-1996 Chuẩn y Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy các cơ quan tỉnh Căn cứ Điều 32 Chương VII Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam; Xét Biên bản bầu cử Ủy ban Kiểm tra ngày 27-4-1996 của Hội nghị Ban Chấp hành Đảng ủy các cơ quan tỉnh khóa II; Xét đề nghị của Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy, BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY QUYẾT ĐỊNH: Điều 1: Chuẩn đề nghị của Ban Chấp hành Đảng ủy các cơ quan tỉnh giao cho đồng chí Dương Thị Xuân, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy giữ chức vụ Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy các cơ quan tỉnh. Điều 2: Ban Chấp hành Đảng bộ các cơ quan tỉnh, Văn phòng Tỉnh ủy, Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy và đồng chí Xuân thi hành Quyết định này. T/M BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY BÍ THƯ TRÁNG A PAO Lưu tại Kho Lưu trữ Tỉnh ủy. 62 CHỈ THỊ CỦA BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY Số 01-CT/TU, ngày 19-5-1996 Về việc tổ chức Đại hội Hội Nông dân các cấp Năm 1996 Hội Nông dân tiến hành Đại hội hai cấp cơ sở và huyện, thị để tiến tới chuẩn bị Đại hội Nông dân tỉnh vào năm 1997. Đây là một cuộc sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn tỉnh, nhất là đối với cán bộ hội viên, nông dân các dân tộc trên địa bàn nông thôn, nhằm đánh dấu bước trưởng thành của tổ chức Hội trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ tỉnh Lào Cai trong những năm qua. Hội Nông dân Việt Nam là một tổ chức đoàn thể quần chúng, là tổ chức chính trị - xã hội ở nông thôn, Hội là người đại diện quyền làm chủ của giai cấp nông dân và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nông dân. Hội Nông dân Việt Nam là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Hội cần được quan tâm chăm lo xây dựng vững mạnh về mọi mặt để từng bước vươn lên ngang tầm với vị trí của Hội, tạo điều kiện cho tổ chức Hội phát huy vai trò tham mưu của Đảng, động viên, giáo dục toàn thể cán bộ, hội viên thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế - xã hội do Đại hội Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ II đề ra. Để tiến hành Đại hội nông dân ba cấp từ tỉnh đến cơ sở đạt kết quả. Ban Thường vụ Tỉnh ủy yêu cầu các huyện, thị ủy, chi, đảng bộ cơ sở, các ban, ngành, đoàn thể, chính quyền các cấp và Đảng đoàn Hội Nông dân tỉnh thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau: 63 1. Tiếp tục quán triệt cho cán bộ, đảng viên và hội viên nông dân các dân tộc trong tỉnh nâng cao nhận thức quan điểm của Đảng về tổ chức Hội Nông dân Việt Nam. Chăm lo xây dựng tổ chức Hội vững mạnh, tạo điều kiện cho tổ chức Hội Nông dân làm tốt vai trò tham mưu cho Đảng về việc tổ chức xây dựng các phong trào hành động cách mạng ở nông thôn, thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ. Hướng dẫn tổ chức Hội chuẩn bị Đại hội cấp cơ sở và huyện, thị chuẩn bị tốt nội dung, phân công cấp ủy viên, cán bộ, đảng viên có đủ phẩm chất năng lực, có uy tín với quần chúng, nhiệt tình với phong trào nông dân sang làm cán bộ chủ chốt của Hội. Chú ý bố trí cán bộ nữ tham gia Ban Chấp hành ở các cấp, bảo đảm tỷ lệ theo hướng đẫn của Trung ương Hội. Chi đạo Đại hội nông dân các cấp dịp này cần gắn với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị ở các địa phương, hướng cho tổ chức Hội kiểm điểm sâu sắc sự chỉ đạo của Ban Chấp hành. Xây dựng chương trình hành động, thiết thực lập thành tích chào mừng thắng lợi Đại hội Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ II, tiến tới tổ chức hội nghị tổng kết phong trào nông dân sản xuất nông - lâm nghiệp giỏi lần thứ ba vào cuối năm 1996. 2. Đảng đoàn Hội Nông dân tỉnh có kế hoạch chuẩn bị Đại hội cấp tỉnh và hướng dẫn các cấp hội phối hợp với các huyện, thị ủy thống nhất việc tổ chức thực hiện chỉ thị này trên cơ sở bảo đảm nguyên tắc và Điều lệ quy định của Hội Nông dân Việt Nam. 3. Ủy ban nhân dân các cấp, các ban, ngành, đoàn thể tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ Hội Nông dân mở Đại hội các cấp đạt kết quả tốt, đúng thời gian quy định. Chỉ thị này được quán triệt đến các huyện, thị ủy và chi, đảng bộ cơ sở, các ban, ngành, đoàn thể và Hội Nông dân các cấp trong toàn tỉnh. 64 Nhận được Chỉ thị này, các huyện, thị ủy, các chi, đảng bộ cơ sở, Đảng đoàn Hội Nông dân, các ban, ngành, đoàn thể tổ chức triển khai và báo cáo kết quả thực hiện về Tỉnh ủy. T/M BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY BÍ THƯ TRÁNG A PAO Lưu tại Kho Lưu trữ Tỉnh ủy. 65 THÔNG BÁO KẾT LUẬN CỦA BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY TẠI PHIÊN HỌP LẦN THỨ NHẤT Số 27-TB/TU, ngày 17-6-1996 Ngày 15-6-1996, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Lào Cai họp phiên thứ nhất dưới sự chủ trì của đồng chí Tráng A Pao, Bí thư Tỉnh ủy (vắng đồng chí Nguyễn Đức Thăng). Nội dung: I. Đồng chí Tráng A Pao thông báo Quyết nghị số 1062 ngày… tháng 5-1996 của Bộ Chính trị về việc chuẩn y Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lào Cai gồm 47 đồng chí và Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 13 đồng chí (có danh sách cụ thể). Chuẩn y đồng chí Tráng A Pao giữ chức Bí Thư Tỉnh ủy, đồng chí Nguyễn Quý Đăng và đồng chí Nguyễn Nghĩa Vụ giữ chức Phó Bí thư Tỉnh ủy. II. Sau khi nghe đồng chí Phạm Ngọc Sửu trình bày tờ trình dự kiến phân công Ban Thường vụ, các đồng chí trong Thường vụ phát biểu ý kiến. Ban Thường vụ nhất trí phân công các đồng chí trong Ban Thường vụ như sau: 1. Đồng chí Tráng A Pao, phụ trách chung, trực tiếp Khối An ninh - quân sự. 2. Đồng chí Nguyễn Quý Đăng, phụ trách Khối Chính quyền và huyện Bắc Hà. 3. Đồng chí Nguyễn Nghĩa Vụ, Thường trực Tỉnh ủy và phụ trách Đảng ủy các cơ quan. 66 4. Đồng chí Nguyễn Đức Thăng, phụ trách huyện Than Uyên 5. Đồng chí Thào A Tráng, Trưởng ban Dân vận, phụ trách huyện Bảo Yên và Khối Đoàn thể. 6. Đồng chí Lương Xuân Mầu, Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, phụ trách huyện Bảo Thắng 7. Đồng chí Bùi Quang Vinh, phụ trách thị xã Cam Đường và Công ty Apatít. 8. Đồng chí Phạm Ngọc Sửu, Trưởng ban Tổ chức, phụ trách huyện Văn Bàn. 9. Đồng chí Vũ Đình Đỗi, phụ trách Bộ chỉ huy Quân sự và Biên phòng. 10. Đồng chí Giàng Seo Phử, phụ trách huyện Sa Pa. 11. Đồng chí Hoàng Minh Ngọc, phụ trách Công an tỉnh và huyện Bát Xát. 12. Đồng chí Nguyễn Văn Lăng, phụ trách thị xã Lào Cai, trực tiếp làm Bí thư Thị ủy Lào Cai 13. Đồng chí Nguyễn Đình Vững, phụ trách huyện Mường Khương, trực tiếp làm Bí thư huyện Mường Khương. Yêu cầu các đồng chí trong Ban Thường vụ xây dựng chương trình công tác toàn khóa của cá nhân gửi về Thường trực Tỉnh ủy để tiện theo dõi, chỉ đạo và giúp đỡ các đồng chí. III. Đồng chí Tráng A Pao phổ biến Công điện số 328, ngày 13-6- 1996 triệu tập Đại hội của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và trình bày dự kiến phân công các đồng chí trong Ban Thường vụ, Thường trực tỉnh trong thời gian Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII từ ngày 20-6-1996. Ban Thường vụ nhất trí như sau: 1. Đồng chí Bùi Quang Vinh, Thường trực bên Tỉnh ủy. 2. Đồng chí Nguyễn Đức Thăng, Thường trực bên Ủy ban nhân dân tỉnh. Các đồng chí làm nhiệm vụ Thường trực có trách nhiệm giải quyết các công việc hằng ngày mà Ban Thường vụ đã có chủ trương. 67 Khi có vấn đề đột xuất xảy ra phải giải quyết ngay thì đồng chí Bùi Quang Vinh chủ trì triệu tập các đồng chí trong Ban Thường vụ có mặt ở tỉnh để họp bàn cách giải quyết và báo cáo các đồng chí lãnh đạo đang dự Đại hội qua điện thoại. Nếu sự việc nghiêm trọng thì phải điện xin ý kiến ngay các đồng chí lãnh đạo. IV. Sau khi nghe đồng chí Phạm Ngọc Sửu đọc tờ trình về việc cho thôi giữ chức đại biểu Hội đồng nhân dân và bầu bổ sung một số đại biểu Hội đồng nhân dân huyện, thị xã và phường, Ban Thường vụ thảo luận nhất trí như sau: 1. Thị xã Lào Cai - Nhất trí cho đồng chí Vũ Ngọc Cừ thôi giữ chức Chủ tịch Hội đồng nhân dân thị xã, đại biểu Hội đồng nhân dân thị xã Lào Cai vì đã chuyển công tác khác trên tỉnh. - Nhất trí cho đồng chí Tẩn Láo San thôi giữ chức đại biểu Hội đồng nhân dân thị xã vì đã chuyển công tác khác trên tỉnh. - Nhất trí bầu bổ sung đồng chí Nguyễn Văn Lăng, Bí thư Thị ủy Lào Cai vào Hội đồng nhân dân thị xã để bầu giữ chức Chủ tịch Hội đồng nhân dân thị xã. - Nhất trí giao cho Thị ủy Lào Cai kết hợp với Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Ban Tổ chức chính quyền lựa chọn 1 đồng chí để bầu giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Thị ủy, đại biểu Hội đồng nhân dân thị xã và giữ chức Trưởng Ban pháp chế của Hội đồng nhân dân thị xã. - Nhất trí cho thị xã Lào Cai tổ chức bầu bổ sung 6 đại biểu Hội đồng nhân dân phường Cốc Lếu thay thế cho các đại biểu bị bãi miễn. 2. Huyện Than Uyên - Nhất trí cho đồng chí Lò Hải Luân thôi giữ chức đại biểu Hội đồng nhân dân huyện vì đã nhận công tác khác trên tỉnh. - Nhất trí bầu đồng chí Hoàng Văn Bòng, Phó Bí thư Huyện ủy, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện vào Hội đồng nhân dân huyện để bầu giữ chức Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện. 68 3. Huyện Sa Pa - Nhất trí bầu đồng chí Đinh Ngọc Cân, Ủy viên Thường vụ Huyện ủy, Trưởng phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện. 4. Huyện Mường Khương - Nhất trí cho đồng chí Nguyễn Văn Đạt, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện nghỉ hưu. - Nhất trí cho đồng chí Hồ Hữu Cơ, Ủy viên Thường vụ Huyện ủy, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy, Trưởng phòng Pháp chế Hội đồng nhân dân huyện thôi giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra, Trưởng ban Pháp chế để bầu giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện Mường Khương. - Nhất trí bầu đồng chí Nguyễn Văn Trường, Ủy viên Thường vụ Huyện ủy giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy. * Giao cho Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai quyết định thời gian bầu cử cho phù hợp và tổ chức việc bầu cử các chức danh Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân huyện, thị xã, phường theo đúng luật định. * Các ban đảng, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, Ban cán sự các ngành chức năng có liên quan chỉ đạo ban, ngành mình giúp cho Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai tổ chức thực hiện việc bầu cử. Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã Lào Cai, huyện Than Uyên, Sa Pa, Mường Khương có trách nhiệm chỉ đạo bầu cử bổ sung đại biểu Hội đồng nhân dân và kiện toàn cơ quan Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân huyện, thị, phường đúng quy định của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp. T/M BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY BÍ THƯ TRÁNG A PAO Lưu tại Kho Lưu trữ Tỉnh ủy. 69 THÔNG BÁO CỦA BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY Số 38-TB/TU, ngày 5-8-1996 Về kết luận của đồng chí Tráng A Pao, Bí thư Tỉnh ủy Lào Cai tại phiên họp giao ban Khối Nội chính ngày 1-8-1996 Ngày 1-8-1996, đồng chí Tráng A Pao, Bí thư Tỉnh ủy chủ trì phiên họp giao ban Khối Nội chính, dự họp có 10 ngành trong Khối Nội chính, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, đại diện Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy, Ban Bảo vệ chính trị nội bộ Tỉnh ủy, Bí thư Thị ủy Lào Cai. Sau khi nghe các ngành trong khối báo cáo tình hình công tác tháng 7 và kế hoạch hoạt động tháng 8, các đại biểu dự họp phát biểu ý kiến, đồng chí Tráng A Pao kết luận như sau: 1- Tình hình quản lý biên giới và chống buôn lậu, chống đưa người qua lại biên giới trái phép có tiến bộ so với tháng trước. Tuy nhiên vẫn giữ được tình hình biên giới cơ bản ổn định, những vấn đề nảy sinh đã sớm được giải quyết thông qua đối ngoại, theo tinh thần hợp tác. 2- Tai tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng, xảy ra nhiều vụ án nghiêm trọng như giết người, chống người thi hành công vụ, nhiều vụ trọng án chưa tìm và bắt được thủ phạm, đã ảnh hưởng tới trật tự, an toàn xã hội ở nhiều địa phương trong tỉnh. 3- Tình hình tuyên truyền phản động và mê tín dị đoan có chiều hướng phát triển ở Bảo Yên, Bắc Hà, Than Uyên, Sa Pa, Bát Xát, có 70 hiện tượng mở rộng tới các đối tượng là người Tày, Dao, Thái mà chưa có biện pháp giải quyết dứt điểm. 4 - Quản lý người nước ngoài vào sâu nội địa chưa được tốt. Trong tháng 8 yêu cầu Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo các ngành, các cấp thực hiện tốt một số vấn đề sau: 1- Tăng cường quản lý biên giới, nhất là ở các cửa khẩu, các lối mòn bằng các biện pháp chấn chỉnh lại các lực lượng làm nhiệm vụ trên biên giới, xử lý thích đáng những cán bộ vi phạm, thay ngay những người không đủ năng lực phẩm chất, có hành vi tiêu cực khi làm nhiệm vụ, tăng cường sự phối hợp giữa các lực lượng hoạt động trên biên giới, đẩy mạnh hợp tác với các lực lượng của nước bạn để chống vi phạm hiệp định quản lý biên giới. Bố trí lại dân cư sống sát biên giới, nhất là dân cư của phường Lào Cai và phường Duyên Hải - thị xã Lào Cai. Kiên quyết thu hết các thuyền nan hoạt động trái phép trên sông Hồng và sông Nậm Thi, Công an tỉnh quản lý chặt chẽ các loại mô tô Minxk mà bọn buôn lậu thường sử dụng để chở lậu gỗ pơ mu, chấm dứt việc trồng chuối thuê cho người Trung Quốc ở Bát Xát. 2- Những vụ trọng án đã bắt được đối tượng, các ngành phải phối hợp hoàn chỉnh hồ sơ và xét xử ngay để lập lại trật tự trị an trong xã hội. 3- Trước tình hình đơn khiếu nại, tố cáo ngày càng gia tăng, yêu cầu các ngành, các cấp tập trung giải quyết kịp thời, công minh để giữ gìn kỷ cương và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, giao cho Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy và Ban Bảo vệ chính trị nội bộ tiến hành kiểm tra các vụ vi phạm xảy ra ở Sở Xây dựng và công tác thanh tra của Thanh tra tỉnh tại đây, để Tỉnh ủy có kết luận và giải quyết dứt điểm vào tháng 9-1996. 4- Về điểm dừng tàu liên vận quốc tế thực hiện theo nguyên tắc tàu của nước nào dừng tại địa phận của nước đó, tàu nước ta không được phép dừng sang đất bạn và chúng ta không cho phép tàu bạn dừng sang nước ta, trừ khi Bộ Giao thông vận tải có thỏa thuận khác với nước bạn. 71 5- Yêu cầu các ngành, các cấp xây dựng chương trình hành động để thực hiện Nghị quyết 14 của Bộ Chính trị về chống tham nhũng. Các ngành, các cấp thực hiện Thông báo này và hằng tuần báo cáo về Thường trực Tỉnh ủy. T/L BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY PHÓ VĂN PHÒNG PHẠ ĐÌNH CHƯƠNG Lưu tại Kho Lưu trữ Tỉnh ủy. 72 THÔNG BÁO KẾT LUẬN CỦA BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY Số 42-TB/TU, ngày 8-8-1996 Về vấn đề cán bộ và tổ chức tại phiên họp ngày 7-8-1996 Ngày 7-8-1996 Ban Thường vụ Tỉnh ủy Lào Cai họp dưới sự chủ trì của đồng chí Tráng A Pao, Bí thư Tỉnh ủy. Tham dự phiên họp có mặt 12 đồng chí (vắng đồng chí Thào A Tráng). Sau khi nghe đồng chí Phạm Ngọc Sửu lần lượt trình một số vấn đề về công tác cán bộ và tổ chức, các đồng chí trong Ban Thường vụ thảo luận và đi đến thống nhất như sau: I. VỀ ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ THỊ XÃ LÀO CAI LẦN THỨ II NHẤT TRÍ DUYỆT BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THỊ XÃ LÀ 33 ĐỒNG CHÍ THEO DANH SÁCH TRONG TỜ TRÌNH. BAN THƯỜNG VỤ THỊ ỦY GỒM 11 ĐỒNG CHÍ ĐỂ GIỮ CÁC CHỨC VỤ 1. Đồng chí Nguyễn Văn Lăng, Bí thư Thị ủy 2. Đồng chí Phạm Khắc Khang, Phó Bí thư Thị ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã 3. Đồng chí Nguyễn Kim Đê, Phó Bí thư Thị ủy 4. Đồng chí Nguyễn Công Tính, Trưởng ban Tổ chức 5. Đồng chí Đào Xuân Hanh, Trưởng công an thị xã 6. Đồng chí Phan Minh Chanh, Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy Quân sự 73 7. Đồng chí Đào Đăng Khoa, Trưởng ban Tuyên giáo 8. Đồng chí Cao Đức Hải, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã 9. Đồng chí Vũ Năng Đại, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Thị ủy 10. Đồng chí Nguyễn Văn Thuyết, Bí thư Đảng ủy phường Cốc Lếu 11. Đồng chí Nguyễn Danh Pho, Bí thư Đảng ủy phường Kim Tân. Thời gian Đại hội từ ngày 12 đến 15-8-1996. II. CỦNG CỐ TỔ CHỨC CÁC BAN CÁN SỰ 1. Ban cán sự Đảng Đài Phát thanh - Truyền hình: Bổ sung đồng chí Phan Quang Hưng, Phó Giám đốc Đài vào Ban cán sự thay đồng chí Mã A Lềnh chuyển công tác khác, giữ chức Ủy viên. 2. Đổi tên Ban cán sự Đảng Ủy ban Kế hoạch tỉnh thành Ban cán sự Sở Kế hoạch và đầu tư. Bổ sung đồng chí Cao Trí Thức, Giám đốc Sở vào Ban cán sự giữ chức Bí thư Ban cán sự thay đồng chí Nguyễn Đức Thăng đã chuyển công tác khác. Bổ sung đồng chí Lâm Thị Giáo, Bí thư chi bộ vào Ban cán sự giữ chức Ủy viên Ban cán sự. 3. Đổi tên Ban cán sự Đảng Sở Nông - Lâm nghiệp thành Ban cán sự Đảng Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Ban cán sự gồm các đồng chí sau: 1. Đồng chí Hoàng Mịch, Giám đốc Sở, Bí thư Ban cán sự 2. Đồng chí Ma Quang Trung, Phó Giám đốc Sở, Ủy viên 3. Đồng chí Nguyễn Văn Hà, Phó Giám đốc Sở, Ủy viên 4. Đồng chí Đặng Văn Nghiết, Phó Giám đốc Sở, Ủy viên 5. Đồng chí Nguyễn Duy Hưng, Phó Giám đốc Sở, Ủy viên 4. Thành lập Ban cán sự Đảng Sở Khoa học - Công nghệ và Môi trường gồm các đồng chí sau: 1. Đồng chí Ngô Trọng Mỹ, Giám đốc Sở,Bí thư Ban cán sự 2. Đồng chí Trần Đình Sự, Phó Giám đốc Sở, Ủy viên 3. Đồng chí Dương Bá Trực,Trưởng phòng Tổng hợp - tổ chức, Ủy viên 4. Đồng chí Phạm Thị Lan, phụ trách Phòng Môi trường, Chủ tịch Công đoàn, Ủy viên 74 5. Thành lập Ban cán sự Đảng Sở Lao động - Thương binh và Xã hội gồm các đồng chí sau: 1. Đồng chí Hoàng Phú Khèn, Giám đốc Sở, Bí thư Ban cán sự 2. Đồng chí Trịnh Văn Thanh, Phó Giám đốc Sở, Ủy viên 3. Đồng chí Đặng Kim Trọng, Chủ tịch Công đoàn, Ủy viên 6. Thành lập Đảng đoàn Liên đoàn Lao động tỉnh Lào Cai gồm các đồng chí sau: 1. Đồng chí Trần Tiến Hòa, Chủ tịch Liên đoàn Lao động, Bí thư Đảng đoàn 2. Đồng chí Nguyễn Quang Tụ, Phó Chủ tịch Liên đoàn Lao động, Ủy viên 3. Đồng chí Nguyễn Thị Lương, Ủy viên Thường vụ Liên đoàn Lao động, Ủy viên 7. Thành lập Đảng đoàn Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh gồm các đồng chí sau: 1. Đồng chí Mã A Lềnh, Chủ tịch Hội, Bí thư Đảng đoàn 2. Đồng chí Phùng Chiến, Phó Chủ tịch Hội, Ủy viên 3. Đồng chí Nguyễn Thị Minh Thông, Trưởng ban Biên tập, Ủy viên 8. Thành lập Ban cán sự Đảng Chi cục Kiểm lâm nhân dân tỉnh gồm các đồng chí sau: 1. Đồng chí Nguyễn Quang Hưng, Chi cục trưởng, Bí thư Ban cán sự 2. Đồng chí Nguyễn Tiến Khoát, Phó Chi cục trưởng, Ủy viên 3. Đồng chí Trần Văn Lưu, Trưởng phòng Tổ chức tổng hợp, Ủy viên Nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và phương thức hoạt động của Đảng đoàn, Ban cán sự Đảng theo quy định của Ban Tổ chức Trung ương Đảng. III. CÔNG TÁC CÁN BỘ 1. Nghỉ chế độ hưu trí theo Nghị định 29-CP 1. Đồng chí Hà Lát, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Lào Cai. 75 2. Đồng chí Bùi Bằng Thịnh,Chánh Văn phòng Tỉnh ủy Lào Cai. 3. Đồng chí Vũ Đinh Khúc, nguyên Phó Bí thư Đảng ủy các cơ quan tỉnh. 4. Đồng chí Nguyễn Trọng Khang, Nguyên Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy Sa Pa. Thời gian bắt đầu nghỉ: Từ ngày 1-9-1996. 2. Đề bạt cán bộ 1. Đồng chí Trần Nguyên, Phó Văn phòng Tỉnh ủy giữ chức Chánh Văn phòng Tỉnh ủy. 2. Đồng chí Đặng Đình Đào, Chủ tịch Công đoàn Bưu điện tỉnh giữ chức Phó Giám đốc Bưu điện tỉnh. IV. CÔNG TÁC ĐÀO TẠO CÁN BỘ 1. Đi học lớp Đại học chính trị (khóa V) tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh từ ngày 9-9-1996 đến ngày 30-6-1998: 1. Đồng chí Nguyễn Chí Sử, Huyện ủy viên, Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân huyện Mường Khương. 2. Đồng chí Bùi Thị Kim Dung, Huyện ủy viên, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Văn Bàn. 3. Đồng chí Trần Quốc Toàn, chuyên viên chính Ban Tổ chức Tỉnh ủy. 4. Đồng chí Đinh Văn Toản, Giám đốc Lâm trường Bắc Hà - Lào Cai. 2. Đi học lớp đào tạo lý luận chính trị cao cấp ngắn ngày (khóa I) từ ngày 7-10-1996 đến ngày 21-6-1997: 1. Đồng chí Lê Hồng Phong, Trưởng phòng Giáo dục - Đào tạo huyện Bắc Hà 2. Đồng chí Tráng A Chơ, Thường vụ Huyện ủy, Trưởng Công an huyện Mường Khương. 3. Đồng chí Phạm Đình Quê, Huyện ủy viên, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Bảo Thắng. 4. Đồng chí Bùi Quang Bính, Phó ban Ngoại vụ - biên giới tỉnh 76 5. Đồng chí Trần Văn Thu, Bí thư Đảng ủy Xí nghiệp vận tải ô tô - Công ty Apatít Việt Nam. 3. Đi học lớp bồi dưỡng lý luận chính trị cao cấp (A7) từ ngày 5-9- 1996 đến ngày 31-01-1997: 1. Đồng chí Mai Quốc Tờ, Phó Bí thư Huyện ủy Bảo Thắng 2. Đồng chí Ngô Khoái, Thường vụ Huyện ủy, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Bắc Hà. V. KỶ LUẬT CÁN BỘ 1. Đồng chí Khúc Văn Chính, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Chữ thập đỏ Lào Cai. Khuyết điểm: Xâm tiêu và chi sai nguyên tắc một số tiền trong dự án “chăm sóc sức khỏe ban đầu” do Đan Mạch tài trợ cho tỉnh làm ảnh hưởng tới quá trình thực hiện dự án, quan hệ giữa tổ chức tài trợ và tỉnh, làm giảm lòng tin của nhân dân vùng dự án vào Đảng bộ và chính quyền các cấp. Hình thức kỷ luật: Khiển trách Giao cho Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy xem xét hóa đơn, chứng từ chi tiêu và yêu cầu ông Khúc Văn Chính bồi thường những chi phí sai, thất thoát, không được trừ vào kinh phí của cơ quan. Các ban Đảng của Tỉnh ủy, các Đảng ủy trực thuộc, Ủy ban nhân dân tỉnh, các Ban cán sự, Đảng đoàn và các cá nhân có liên quan thực hiện ngay Thông báo này. Trong quá trình thực hiện có gì vướng mắc báo cáo với Thường trực Tỉnh ủy. T/M BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY BÍ THƯ TRÁNG A PAO Lưu tại Kho Lưu trữ Tỉnh ủy. 77 QUYẾT ĐỊNH CỦA BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY Số 29-QĐ/TU, ngày 16-8-1996 Về việc thành lập Ban cán sự Đảng Sở Khoa học - Công nghệ và Môi trường tỉnh Lào Cai Căn cứ vào Quyết định số 62-QĐ/TW, ngày 15-3-1993 của Ban Bí thư Trung ương và hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương Đảng về thành lập Đảng đoàn, Ban cán sự Đảng; Căn cứ vào Nghị quyết của Ban Thường vụ Tỉnh ủy họp ngày 7-8 -1996 về công tác tổ chức, cán bộ; Xét đề nghị của đồng chí Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy, BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY QUYẾT ĐỊNH: Điều 1: Thành lập Ban cán sự Đảng Sở Khoa học - Công nghệ và Môi Trường tỉnh Lào Cai gồm các đồng chí sau: 1- Đồng chí Ngô Trọng Mỹ, Giám đốc Sở, Bí thư Ban cán sự Đảng. 2- Đồng chí Trần Đình Sự, Phó Giám đốc Sở, Ủy viên Ban cán sự Đảng. 3- Đồng chí Dương Bá Trực, Trưởng phòng Tổng hợp - tổ chức, Ủy viên Ban cán sự Đảng. Điều 2: Nhiệm vụ, quyền hạn và phương thức hoạt động của Ban cán sự Đảng Sở Khoa học- Công nghệ và Môi trường được quy định tại hướng dẫn ngày 5-4-1993 của Ban Tổ chức Trung ương. 78