🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Văn học dân gian Việt Nam
Ebooks
Nhóm Zalo
VĂN HỌC DÂN GIAN VIỆT NAM
VM HỌC
DM (iIAX VÌỊH MM
(Tác phẩm dùng trong nhà truờng)
Chương trình lớp 10
Trọn vẹn tác phẩm
- Đẻ đất đẻ nước
- Đăm Sần
- Vượt biển (Khảm hải)
- Tiễn dặn người yêU|
• • Ui* AAiMiĩi i W iể'*,
---- UUALm e s j
NHÀ XUẤT BẢN THANH NIÊN
LỜI NỐI ĐẦU
Văn học là một môn học chính yếu trong nhà trường phô thông hiện nay. Chương trình, sách giáo khoa văn học phô thông vừa đòi hỏi phải tuyển chọn được những tác phẩm xuất sắc nhất, đại diện cho tiếng nói văn chương từng thời kì trong nền văn học nước nhà, vừa yêu cầu phải đủ lương kiến thức phù hợp với lứa tuổi, thể lực, trí tuệ của học sinh trong tương quan chung với các bộ môn khoa học khác đang được giảng dạy ở nhà trường. Sách giáo khoa văn học ở các cấp học hiện nay đã cô gắng làm được điều đó. Tuy nhiên, có nhiều tác phẩm văn học xuất sắc nhưng lại quá dài khiến cho khi đưa vào sách giáo khoa các nhà biên soạn thường phải làm công việc lược trích. Học sinh học trích giảng tác phẩm và nhiều giáo viên củng không có gì hơn là một đoạn trích trong tay, bởi nhiều tác phẩm trong số đó vì lí do này hay khác chưa được lưu truyền rộng rãi hoặc từ lâu chưa được tái bản. Điều này đã hạn chế khả năng bao quát, cảm thụ tác phâm một cách chủ động và trọn vẹn của giáo viên và tất nhiên hạn chế việc truyền thụ các tác phẩm đó cho học sinh. Đó củng là một trong những lí do khiến cho một số không ít học sinh không còn thích học môn văn. Nhân dịp bồi dưỡng giáo viên trung học phổ thông ở một số địa phương, chúng tôi được biết nguyện vọng tha thiết của giáo viên là muốn tiếp xúc với nguyên tác những tác phẩm đang được trích giảng
5
trong nhà trường. Điều đó đã thúc đẩy chúng tôi tuyên chọn và giới thiệu bộ sách này.
Khái niệm nguyên tác nếu xét một cách chính xác phải là trọn vẹn những tác phẩm bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của nó, nhưng ở đây chúng tôi dùng với nghĩa những sáng tác đó đã được dịch trọn vẹn ra tiếng phô thông (tiếng Việt). Bởi những nguyên tác chỉ có ý nghĩa khi nó được nhiều người biết và quan tâm. Trong khi tuyên chọn các tác phẩm chúng tôi thấy, mỗi tác p h ă m hiện nay đang tồn tại một sô bản dịch khác nhau, trong sô đó những văn bản được sách giáo khoa sử dụng thậm chí không phải là bản được dùng p h ổ biến nhất. Tuy vậy, đ ể cung cấp chính xác các nguyên bản hỗ trợ việc chuẩn bị bài giảng của giáo viên, chúng tôi chỉ chọn đưa vào bộ sách này những tác p hẩm đã được sách giáo khoa trích giảng. H i vọng rằng với sự cô gắng của chúng tôi, các thầy cô giáo có được m ột bộ cẩm nang tin cậy đ ể góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy văn học
cho học sinh trong nhà trường.
Cùng với việc giới thiệu trọn vẹn các tác phẩm , chúng tôi củng giới thiệu một số ý kiến nghiên cứu, đánh giÁ về tác phâm đó đê cung cấp thêm tư liệu cho thày và trò chuản bị tốt bài giảng và bài học. N hững nghiên cứu đánh giá về tác phàm mà chúng tôi đưa ra không phải là những định hướng đê hiểu hay hiểu lại tác phẩm mà chỉ nhăm làm phong phú hơn những khía cạnh nhận thức về tác phăm , căn bản vẫn là đê nâng đỡ những cảm nhận và suy nghĩ một cách chủ động của người đọc.
6
Chúng tôi dự định sẽ giới thiệu lần lượt các tác phẩm được trích giảng ở hệ thống nhà trường phổ thông trung học gồm những tác phẩm được tuyển học chính thức và cả những tác phẩm đọc thêm, ơ tập sách này, chúng tôi xin giới thiệu trọn vẹn những tác phẩm văn học dân gian của dân tộc ít người đang được tuyển trích trong Sách giáo khoa lớp Mười, gồm những tác phẩm sau:
- Đẻ đất đẻ nước
- Đăm San
- Vượt biển
- Tiễn dặn người yêu
Từng tác phẩm sẽ được giới thiệu theo trình tự: 1. Phần giới thiệu của người tuyển chọn và giới thiệu. 2. Trích ý kiến phân tích, binh giá của các nhà nghiên cứu. 3. Giới thiệu trọn vẹn tác phẩm.
Vì chưa có điều kiện thu thập đầy đủ hơn mà phần khảo dị là bản dịch không nguyên bản cùng với sự hạn chê về dung lượng của cuốn sách tham khảo dùng trong nhà trường nên phần khảo dị của từng tác phẩm chúng tôi không đưa vào đây.
Rất mong sự đón nhận và ý kiến đóng góp của bạn đọc cho cuốn sách này. Xin chân thành cảm ơn
Hà Nội, ngày 12 tháng 5 năm 2005
Người tuyển chọn và giới thiệu
PGS. TS. NGUYỄN BÍCH HÀ
7
BẺ ĐẤT, ĐÈ Nlíớc
I/ Giới thiệu tác phẩm “Đẻ đất đẻ nước”
Đẻ đất đẻ nước là áng sử thi thần thoại của dân tộc Mường. Áng sử thi đó gồm nhiều đoạn, Đẻ đất đẻ nước là tên của hai đoạn mở đầu và quan trọng của sử thi này. Đẻ đât đẻ nước gắn liền với một nghi thức của người Mường trong tang lễ là mo. Thực ra MO là một hành động ma thuật có tính chất tổng hợp, bao gồm các động tác, lời kể, lòi hát và một sô' vật dụng trong khi hành lễ tiễn đưa người chết sang thế giới bên kia. Khái niệm mo gắn với nhiều nghĩa:
Người hành lễ chính trong đám tang : thày mo Lời và âm nhạc sử dụng trong đám tang : kể mo Toàn bộ văn bản mo: bài mo
Những đoạn mo khác nhau chia theo các chủ đê và từng đêm hành lễ: roóng mo (chương hay đoạn mo).
Vì vậy, khái niệm “sử thi Đẻ đất đẻ nước’'là do các nhà nghiên cứu đặt cho tác phẩm, còn người Mường vẫn gọi là Mo Đẻ đất đẻ nước.
Mo Mường có 4 loại:
Mo lễ: là những bài mo dùng trong nghi lễ cúng tế. Người hành lễ này là các thày mo.
9
Mo vải: vải là vía. Đó là những bài mo được diên xướng trong khi cúng vía cho người ốm. Người hành lê là các thày trượng (thày cúng).
Mo vái: vái nghĩa là cúng bái. Đó là những bài mo đọc lên để cúng xua đuổi tà ma. Công việc này do thày trượng (thày cúng) làm.
Mo ma (tiêu): ma tức hồn người chết. Mo. ma là mo đưa hồn người chết về th ế giới khác. Người đọc mo này là thày mo.
Mo “Đẻ đất đẻ nước”\à loại mo ma. Mo đựa hồn ngưòi chết đến Mường ma. Điều này thể hiện quan niệm của người Mường: Chết chính là sống một cuộc sống khác, ở th ế giới khác.
Hiện nay dân tộc Mường có ít n h ất hai bản chính mo Đẻ đất đẻ nước đã được dịch và giới thiệu ra tiếng Việt. Bản thứ n h ất do hai ông Vương Anh và Hoàng Anh N hân sưu tầm ở T hanh Hoá, được Ty Văn hoá T hanh Hoá xuất bản năm 1975, có tên là Đẻ đất đẻ
nước, gồm 28 roóng (tức 28 đoạn). N ăm 1988, hai ông cùng Đặng Văn Lung bổ sung và giưới thiệu. Bản thứ hai do Bùi Thiện, Quách Giao, Thương Diễm SƯU tầm ở Hoà Bình và được Nhà xuất bản Văn học giới thiệu năm 1976 có tên là Đẻ đảt đẻ nước, thơ dân gian dân
tộc Mường, gồm 35 roóng. Trên cơ sở văn bản của Vương Anh và Hoàng Anh N hân, năm 1988 Đ ặng Văn Lung tham gia chỉnh sửa và giới thiệu bản Đẻ đất đẻ
10
nước. Lần này văn bản gồm 26 roóng. Năm 1997 Vương Anh lại cùng Bùi Nhị Lê, Phạm Tô" Châu, Lê Thành Hiểu biên soạn lại Đẻ đất đẻ nước, cơ bản vẫn dựa trên văn bản cũ đã xuất bản năm 1975. Bản này gồm 30 roóng. Đó là những văn bản Đẻ đất đẻ nước đã được xuất bản cho tới nay.
Người Mường thường quan niệm, chết không phải là hết mà là dời đi sông ở một thế giới khác, thế giới đó cũng không khác lắm với cuộc sông của xã hội Mường dưới trần gian. Câu chuyện về dân tộc Mường từ lúc xuất hiện: đẻ đất, đẻ nước, đẻ cây si, đẻ mường, đẻ người... đến khi hình thành tổ chức xã hội sơ khai, có người trên kẻ dưới. Dịt Dàng, Lang Tà Cái, Lang Cun Cần được chọn làm vua nhưng chỉ Lang Cun cần được thần và người đồng lòng cho làm vua mường. Chuyện kể đến giai đoạn phát triển đời sông sinh hoạt và sản xuất: tìm lửa, tìm nước, tìm lợn, tìm gà, tìm lúa, tìm rượu, làm nhà, hỏi vợ...đến các chiến công chống thiên nhiên và chông xâm lấn: săn moong lồ, đánh cá điên quạ điên, đánh ma may, ma lang... xây dựng một cộng đồng, hoàn chỉnh một chê độ cai trị: làm nhà Chu, rước vua về Đồng chì Tam Quan kẻ chợ.... Tất cả đã được thâu tóm trong lời mo và trở thành một tài sản thiêng liêng đốì VỚI mọi người Mường, thành niềm tự hào về tổ tiên oai hùng và chiến công kì vĩ của dân tộc. Lòi mo trên được kể lại mỗi lần các gia đình Mưòng có người chết. Bài mo kèm các hành động ma thuật, nhằm gửi
11
theo người chết tài sản tinh thần quý giả n h ất để mang sang nơi sổng mới, để những người Mường dù sống hay đã chết cũng không quên được cội nguồn, không quên được lịch sử vẻ vang của dân tộc. Mục đích của việc diễn xướng mo được nói rõ trong lời bài mo:
Rước mo vê nhà
Để mo kể chuyện
Cho ngưòi chết không buồn
Cho ngưòi chết khỏi lo
Cho người chết hết thương
Cho người chết hết khổ...
Mo Đẻ đất đẻ nước vì vậy không những m ang ý nghĩa lịch sử trọng đại m à còn m ang ý nghĩa nhân văn to lớn. G ạt bỏ đi những yếu tô" mê tín và những hình thức nghi lễ quá cồng kềnh không còn phù hợp với thời đại, một số yếu tô' hủ tục nặng nề trong thực h àn h nghi lễ tiễn đưa người chết sang th ế giới bên kia (cúng tế linh đình, tốn kém; để người chết trong nhà quá lâu gây m ất vệ sinh...) thì mo Đẻ đất đẻ nước chính là một bộ sử thi th ần thoại đồ sộ bằng văn vần vô cùng quý giá, đáng trâ n trọng của dân tộc Mường, phản ánh sự hình th àn h dân tộc, p hát triển sản xuất, xây dựng bản mường, sáng tạo văn hoá... của người Mường.
Mo có thể diễn xướng dài ngắn khác nhau tuỳ theo gia cảnh người chết và tục lệ của dân bản. Nếu không có mo thì chưa thể mai táng, nếu không có tiền
12
cúng mo thì phải quàn xác ngươi chết trong nhà bao giờ có tiền thì mới phát .tang và động tiếng, nhưng người nghèo có thể chỉ có khả năng mo từ một đến ba ngày, người giàu có thể mo từ sáu đến mười ba ngày. Mo vì vậy có liên quan chặt chẽ với tục tang ma của người Mường.
Mo có phần bất biến. Đó là phần diễn xướng mo dài hay ngắn cũng không thể thiếu. Những phần sau là khả biến, những nội dung cơ bản được thêm thắt cho dài rộng hơn. Phần bất biến là phần hướng dẫn hồn ma
đi gặp tô tiên và thu xếp nơi ăn ở của hồn ở thế giới khác. Người chết nào cũng cần thày mo chỉ cho biết nơi mình sẽ đến, sẽ yên nghỉ...Đường đi của hồn ma theo sơ đồ sau:
Bắt đầu từ mường người. Chuyên thứ nhất đi vào mường ma là để chuẩn bị cho cuộc sông vĩnh viễn. Chuyến đi thứ hai lên mường trời thấp, sau đó vượt cầu Liêm La đi lên mường trời cao đối kiện, chuộc sô", xin đuông (xin trở lại hình vật tổ). Sau đó b.a.y lên tận cùng trời xin nước đầu nguồn đem về làm mát mẻ cho mình và con cháu. Sau đó hồn cùng đoàn trở về mường trời thấp trả hết nợ nần. Cuối cùng lại trở về mường trần gian. Chuyến đi tỊiứ ba, từ nhà qua mường nước sang mường tĩnh ngục, đi chợ Khuông tỵ, đi chợ Quốc nam. Xong việc ở âm phủ, đoàn lại đi thẳng về nhà (mường người). Chuyên đi thứ tư đưa hồn đến những miền đất của sô' phận. Hồn được thăm di tích lịch sử, được nghe
13
lịch sử dân tộc từ hỗn mang đến khi xây dựng một chê độ lang đạo ổn định. Chuyên đi thứ năm từ nhà xe ra đi, đi mãi vào nơi vĩnh viễn, đi sông với họ hàng bên ma, dưới sự cai quản của vua ĐôYig (vua âm phủ).
Một đêm mo có mo chính (thày mo đọc), mo phụ (người đọc mo thay mo chính khi người ấy mệt), chí chuốc (người giúp thày mo điểm nhịp trống, chiêng, cồng).
Mo Mường T hanh Hoá do Hoàng Anh N hân và Vương Anh SƯU tầm ở các huyện: Thạch Thành, Ngọc Lạc, Bá Thước, cẩm Thuỷ, Như Xuân, Q uan Hoá thuộc tỉnh T hanh Hoá. Bản này được Ty Văn hoá T hanh Hoá xuất bản năm 1975. Mo T hanh Hoá dài 28 roóng (đoạn), gồm:
1. Mở đầu (Cấn dấn)
2. Đẻ đất (Tẻ tất)
3. Đẻ nước (Tẻ rác)
4. Đẻ cây si (Tẻ khi)
5. Đẻ Mường (Tẻ Mướng)
6. Đẻ người (Tẻ Moón)
7. Chia năm tháng
8. Dịt Dàng (Dịt Dáng)
9. Lang Tà Cái
10. Lang Cun Cần
11. Làm nhà Lang Cun Cần
12. Tìm lửa, tìm nước (xím củi ’
14
13. Tìm cơm, tìm lúa ( xím cơm)
14. Tìm rượu ( Tẻ rác toòng)
15. Tìm lợn, tìm gà (Tẻ ka)
16. Tìm trâu (Tẻ Klu)
17. Lang Cun Cần lấy vợ (lang Cun cần lé du) 18. Lấy vợ khác cho Lang Cun cần
19. Lang Cun Cần chia đất (chia tất)
20. Tìm chu (Xím chu)
21. Chặt chu (Cổn chu)
22. Làm nhà chu (mấn nhá chu)
23. Đốt nhà chu (toch nhá chu)
24. Săn Moong Lồ (Toọc moong lồ)
25. Săn cá điên, quạ điên (thăn cà rô”cà rái...) 26. Giặc ma ruộng (tèng giặc ma trủa) xím rác) 27. Giặc ma may /m a lang xím lúa)
28. Đưa vua (Tủa vua).
Qua tên của các roóng mo ta có thể thấy phần nào tiến trình lịch sử hình thành và phát triển cộng đồng Mường.
Chắc chắn không phải tất cả những gì được lưu giữ trong mo Đẻ đất đẻ nước đều là thần thoại, bởi ngoài lớp lịch sử thần thoại, nó còn phản ánh lớp lịch sử muộn hơn gắn liền với công cuộc xây dựng và bảo vệ cộng đồng dân tộc Mường . Nhưng có thể khẳng định 1’ằng có những phiến đoạn của tác phẩm này ra đời từ
15
rấ t sớm, phản ánh quan niệm vũ trụ của người Mường cổ xưa cùng vối sự hình th àn h dân tộc Mường ở buôi sơ khai. Hơn nữa, ngoài tác phẩm này của dân tộc Mường, hầu như hiếm có dân tộc nào có được hệ thống thần thoại đầy đủ và sắp xếp có trậ t tự theo một trục lịch sử là quá trình phát triển dân tộc như vậy.
II- M ột sô ý k iến về 'T)ẻ đất đẻ nước".
- Một điều may m ắn là người Mường còn giữ lại hệ huyền thoại của m ình một cách gần như trọn vẹn chủ yếu trong hai tập trường ca đồ sộ là mo Đẻ đất đẻ nước và mo Lên trời.
(P han N gọc và P h an Đ ăng N hật. Thử xây dựng lại hệ thống huyền thoại Việt Mường. T/C Văn hóa dân gian. 1/1991. tr.6)
- T hần thoại của người Mường trong sử thi Đẻ đất đẻ nước dầu đã được bọc trong m àn khói hương thiêng liêng của tang lễ cũng bộc lộ khá rõ những yếu tô" phản ánh sự phân hóa giai cấp và cuộc đấu tran h giai cấp đã đến độ gay gắt, quyết liệt.
(Võ Q uang N hơn - Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt N am . NXB ĐH và THCN. H. 1983. tr. 128)
- Đẻ đât đẻ nước là sử thi mô tả bước đi lên trong lịch sử của một cộng đồng người. Do ý đồ khái q uát các chặng đường lịch sử từ lúc con người xuất hiện đến lúc
16
trở thành cộng đồng vững mạnh, sử thi buộc phải quan tâm đến cả sự hình thành vũ trụ.
(Đặng Thái Thuyên - Mô tip sáng tạo vũ trụ trong sử thi Đẻ đất đẻ nước. T/C Văn học. Sô 4.1985. Tr.69)
- Khi một thành viên xa rời cộng đồng, ông mo dùng lời mo hướng dẫn hồn đi đến xứ tổ tiên. Lúc hướng dẫn hồn đi trên cõi đất thì ông đọc mo tiêu (tức tác phẩm Đẻ đất đẻ nước). Lúc hướng dẫn hồn đi trên cõi trời, ông đọc mo vái.
Đẻ đất đẻ nước là một sử thi thật sự được tổ chức theo một hệ thông chặt chẽ. Bản mo chia làm nhiều rằn (đoạn). Đẻ đất đẻ nước là tên của hai rằn, nhưng trong ý niệm của người Việt - Mường thì đất nước còn mang ý nghĩa Tổ quốc, giống nòi, địa vực cư trú, nên tên của hai rằn này được dùng làm tên chung cho tác phẩm.
(Đ ặng Văn Lung. Giới thiệu Đẻ đất đẻ nước. Tổng tập Văn học Việt Nam. Tập 37C. NxbKHXH.) - Đẻ đất đẻ nước là một công trình văn hoá nguyên hợp, trong đó có giá trị ngữ văn dân gian. Đó là hệ thống chi tiết trũng điệp vốn là thủ pháp của nghệ thuật sử thi phù hợp với cấu trúc có tính hoành tráng. Đó còn là cả một hệ thống từ ngữ, hình ảnh vừa cụ thể theo tiêu chuẩn tôn trọng thực tiễn Mường một cách hồn nhiên vừa gợi cảm ttíéờ ríhờrtg* mối liên hệ thẩm mĩ kì thú giữa trí tưởng tượng bay bổng và hiện thực phóng khoáng...
17
(Vũ A nh Tuấn, Nguyễn Xuân Lạc. Giảng văn Văn học dân gian. Nxb GD. H. 1992. Tr. 22)
- Lí thuyết cây vũ trụ chiếm địa vị trung tâm trong Đẻ đất đẻ nước. Dấu vết của nó vẫn còn trong tục lệ thờ cây mía của người Mường và cả người Việt: Ngày têt bao giờ con cháu cũng vác về nhà một bó mía có cả gốc để cho “ông bà chông gậy”...
Tác phẩm vĩ đại này đã bắt đầu từ chỗ phải bắt đầu. Đó là nguồn gốc của trời đất và muôn vật. Nó đã kết thúc ở đỉnh điểm. Đó là lúc chia tách giữa người Mường, người Kinh với sự chuyển rời của kinh đô. Khó lòng có một tác phẩm thứ hai có nội dung to lớn hơn, trọn vẹn hơn. Xét về m ặt này, không có một tác phẩm nào trong văn học Việt Nam sánh ngang với nó về quy mô cũng như về ý nghĩa lịch sử.
(P han N gọc. Đẻ đất đẻ nước, bản sử thi đầu tiên của nền văn học Việt Mường. T/C Văn hoá dân gian. Sô" 4.1986)
m . s ử thi thần thoại Đẻ đất đẻ nước
18
ĐẺ ĐẤT ĐẾ HỈƯỐC
(Dân Tộc Mường)
ĐẶNG VĂN LUNG, VƯƠNG ANH, HOÀNG ANH NHÂN giới thiệu năm 1988
I - MỞ ĐẦU
Nói một chuyện đòi xưa
Trên đồi ta nói VỚI con bướm bạc
Dưới nước, ta nói với con chạng kha(1)
Trên trời, ta nói với sông Ngân Hà
Trong cửa trong nhà
Người già truyền cho con cháu.
Ngày xưa, ngày ấy
Dưới đất, chưa có đất
Trên trời, chưa có trời
Trên tròi chưa có ngôi sao đỏ đổ
Dưới đất chưa có ngọn cỏ xanh xanh
(1) Con gọng vó, loài côn trùng sống trong nước
19
Đ ất còn rời rạc
Nước còn bùng nhùng
Ngó lên, trông xuống m ịt mùng
Con người còn đó
Chưa nên chưa có
Thứ gì cũng chưa có chưa nên
Gió ầm chưa qua
Rừng cây chưa có lá
Trên trời chưa có con bướm bạc
M ặt nước chưa có con chạng kha Trong cửa trong nhà
Chưa có ông già truyền đi nối lại
II- ĐẺ ĐẤT
Muốn ăn cơm phải tìm giống gieo mạ Muốn ăn cá phải tá t suối, tá t ao Muốn biết vì sao có đất đỏ, đất nâu Phải bảo nhau ngồi nghe chuyện kể Ngày xưa ngày ấy
Trông trời, tròi bao la rộng rãi
Trông đất, đất vắng vẻ trông không Đồn rằng:
Có một năm mưa dầm mưa dãi Nước vượt khỏi đồi u
Nước dâng trà n đồi Bái
20
Năm mươi ngày nước rút
Bảy mươi ngày nước xuôi
Mọc lên một cây xanh xanh
Có chín mươi cành
Cành chọc lên tròi lá xanh biết cựa
Thân trên mặt đất, thân cây biết rung
Trong tán trong cành có tiếng đàn bà con gái Cành chọc trời là con đầu
Tên gọi ông Thu Tha
Cành bung xung là con thứ hai
Tên gọi bà Thu Thiên
Hai ông bà nên đôi nên lứa
Truyền cho:
Con gà có cựa
Dây dưa biết leo
Tre pheo có gai, có ngọn
Con người biết nói
Khi đó dưới đất không còn rời rạc
Dưới nước không còn bùng nhùng
Tròi không mung lung
Trông lên ngó xuống đã có nơi có chốn
Đã có
Lối đi xuống
21
Luồng muốn dây đã có ngãnh
Cau muốn dây đã có mo ne
Dây củ mài muôn dây leo vắt vẻo
Dây sẵn muốn dây néo buộc
Đã có nơi néo buộc
Con thác muốn dậy đã có con sao
Con sao muốn dậy, đã có trời sáng
Con nhà người muốn dậy, đã có em có anh Đạo làm vua không tran h
Đạo làm người không cướp
Vua đã yêu, chúa đã chuộng
Đã có ngưòi vụng người tài
Đã có người trai người gái
Đồi bãi đã có th ú to
Rừng thư a đã có chim nhỏ
Dưới nước
Đã đẻ COĨ1 cá, con tôm
Đầu hôm đã sinh con rùa
Tôi ngày đã sinh con rái
Dưối đất,
Cái gì cũng có
Gió ầm ầm đã nghe
Mưa le re đã thấy
Thứ nào muôn dậy đều nên th ân nên hình Đ ất đã có
22
Đất rộng thênh thang
Chuyện chưa kể nên một gang
Chuyện chưa kể sang một lẽ
Người già người trẻ
Lại nghe chuyện đến chuyện đi
Lại nghe chuyện xưa chuyện cũ
Người ở sướng, ăn ngon
Cũng có đứa khôn, thằng dại
Người khôn nghe kể lại
Thằng dại nghe vội nghe vàng phải chò nghe thêm Chuyện đẻ nước
III- ĐẺ NƯỚC
Con gà gáy trên đèo xao xác
Con ác kêu trên núi oang oang
Mặt tròi lên, sáng rừng sáng bãi
Sáng cả chín tròi, mười phương
Làm mùa không ra cơm
Lưới chài không ra cá
Nóng quá
Đất xác xơ
Đất cằn cỗi hanh khô
Dây sắn úa hết lá
Cây cau úa hết tầu
Rừng vàu không mọc măng
23
Con chim mò xuống đất
Con thú mò xuồng nước
Chó thè lưỡi
Rái cá chạy lên đồi
H ạn chín tháng trời
N ắng mươi hai năm xác đất
Cạn suối, vỡ m ai ba ba
Khô đồi, gãy sừng hươu,
Nắng nhiều, cây hết lá
Nắng cả đất h ết cỏ
T râu ăn đất cóng
Người uống nước sương
Gà rừng kiếm nước ở m ắt lóng bương Ông Pồng Pêu (thần nước)
Ngồi đan lưói đan chài ở cửa sổ Trông ra ngoài ngõ
Trông lên trên trời
Ông Pồng Pêu ao ước
Ước ơi là ưóc
Ưốc sao được một trậ n mưa
Mưa dầm dê chín đêm mười bữa sáng Mưa rào rào chín buổi sáng mười đêm Mưa ở giữa đồng
Mưa vòng ra bờ suối
Mưa xói núi
24
Mưa mòn gió
Mưa từ chân trời này
Mưa sang chân trời nọ
Mưa mưa, gió gió
Mưa ngập ruộng sâu ruộng cạn
Mưa tran bò suối, bờ cao
*
* *
Đồn rằng khi đó
Tròi kéo mây ùn ùn
Trời đùn mây kìn kìn
Gió âm âm bôn bên
Mây ùn lên từng đông
Mây kéo chồng từng mảng
Mưa mưa, mây gió
Mây đen, mây vàng
Nghe cơn gió vù vù
Nghe ù ù cơn mưa
Tiếng thần sấm thét xuống
Nữ thần sét xuông gào
Đầu đêm mưa to bằng hột cà
Sáng ra mưa to bằng quả bưởi
Mưa dù mưa dịn
Mưa chín đêm
Mưa liền chín ngày
25
Mưa bẻ cành, gãy lá
Mưa rước nàng Ngâu về trời
•Mưa đưa chàng Ngâu qua sông Ngân Mưa rửa sừng đàn nai
Mưa sạch lông chim phượng
Hôm đầu mưa ngập bụi
Hôm sau mưa ngập cây
*
* *
Bôn tháng nước rú t
Bôn tháng nước xuôi
Nước chín đồi đổ về một biển
Nước mười đồi đô về một sông
Nước làm khó làm dễ
XỚI đất đen lên bằng miệng ang Xới đất vàng lên bằng miệng thúng Trôi đàn cua đá
Trôi đàn cá trong hang
Trôi đàn ba ba đi thăm suôi
Trôi đàn cá chuôi đi thăm vực
Trôi đàn nòng nọc đi thăm đầm Trôi đàn cá cơm đi ra bể rộng
Nước rút, nước xuôi
Nước dậv, nưóc đi
Có đất. đất đang xơ xác
26
Có nưốc, nước còn đục ngầu Người khôn nghe kể lại
Người dại nghe vội nghe vàng Phải chờ nghe thêm - đẻ cây Si
IV- ĐẺ CÂY SI
Đất chẳng ngấm nước, nước đã tơi Đất đồi ngấm nước, đất đã bở Cây Si mọc lên rờ rỡ
Cây Si lớn lên nhanh nhanh Đầu hôm, Si bằng thân chày Sáng ngày, Si bằng cây lim Cây Si mọc bôn cành chìm Cây Si mọc ba mươi cành nổi Có một cành chót vót
Có một lá chon von
Vút thẳng, vút lên
Cha con Trời thấy lạ
Đang ngồi trên cửa sổ
Uống rượu khề khà
Trông xuống gầm nhà
Thây Si mọc lên lồ lộ
Thấy Si mọc lên sum suê
Che kín một bên đất
Che kín một bên trời
Trần gian phơi lúa không khô
Phơi rau không ráo
Gai mắt, Trời muốn phá
Gai mắt, Sét muốn phang
Nhưng sợ hư ruộng mạ
Hỏng ruộng khoai
Trần gian chết đói
Bố con Trời cạp thép vào miệng sau Gang
Cạp vàng vào miệng sâu Hốc
Sai sâu Hốc xuống ăn hết da
Sai sâu Gang đục hết lõi
Từ đó
Sâu Hốc xuống ăn da
Sâu Gang xuống ăn ruột
Cắn gốc móc lòng cây Si
Cây Si héo rũ
Cây Si úa vàng
Rễ Si đã mọc
Gốc Si đã đổ
Cành Si đã lấp đầy thung lũng
Đầu Si gẫy vật lên đồi Chu(1)
1 Đổi Chu: Nay thuộc xã cẩm Châu & cẩm Tân huyện cẩm Thủy - Tỉnh Thanh Hóa.
28
Chuyện đó đã rồi
Hồi đó đã xong
Lại nghe chuyện cây Si long gôc
Lại nghe chuyện cây Si mục cành
Đẻ ra mường, ra nước.
V- ĐẺ MƯỜNG
Cây Si chết ra điềm hay điềm dở
Trong năm đó
Thân Si mục
Hóa thành rắn nhiều đầu
Đuôi rắn ỏ rốn núi
Đầu rắn ở đồi Chu
Chạm phải rắn, rắn cắn, rắn thù
Rắn cắn chảy máu đen
Máu đen thành con vắt
Mắt Si lồi hóa thành con ong
Ong bạc đầu, nọc dài chín gang
Lưng ong dài chín sải
Gặp hổ nai, ong lùng ong đuổi
Lá Si nát hóa ra thú muông
Thú dữ như hổ lang
Muông hiền như chồn cáo
Gôc Si đổ ầm ầm
29
Rễ Si đổ ình ình
Đổ một nghìn chín trăm mười chín cành Một cành đổ thành đất Sạp
Nên mường Sạp(1)
Một cành đổ thành đất giạp
Nên mường Giạp(2)
Một cành đổ thành đất Bi, đất Lỗ Nên mường Bi<3), mường Lỗ(4)
Một cành đổ thành đất Ong, đất Sà Nên mường Ó ng(5), mường Sà<6>
Một cành ngả về đất Vong
Nên mường Vong(7)
Một cành đổ về đất Khoòng, đất Đẹ(8) Một cành đổ về đất Cò Ké, Tiên Lãng<9) Một cành đổ về đất Bằng, đất B in <10) Một cành đổ về đất Lập, đất Yến(11) Một cành đổ vê đất Khi, đất Dồ(12) Một cành đổ về đất En, đất Khò(13) Một cành đổ về đất Ai, đất K ha<14> Một cành đổ về đất Nát, đ ất Trào(15) Một cành đổ về đất Mo, đ ất Bói(16)
(1) (2)(3)(4) fvjgy thuộc tỉnh Hòa Bình.
(5) (6) (7) (8)(9) Nay thuộc tỉnh Thanh Hóa.
(10)(11)(12,(13X14) (15)(Í6)T h u ộ c t ỉ n h T h a n h H ó a
Một cành ngã vê đất Khói(1)
Một cành ngã vê đất Kim(2)
Một cành ngã vê đất Nang(3)
Một cành ngã sang đất Đèn, đất Chẹ(-4)
Một cành ngã vê đất Vấm(5)
Một cành đâm sang đất Lụt, đất Lồ(6)
Một cành ngã vê đất vồng<7)
Một cành ngã sang đất Sàng, đất Tông(8) Một cành ngã về đất Bằng, đất ú n (9>
Một cành ngã về đất Khao(10)
Một cành ngã vê đất Ao(U>
Một cành ngã sang đất Cợi(12)
Một cành ngã về đất Vịn<13)
Một cành ngã vê đất Ấm(14)
Một cành ngã sang đất Đủ, đất Ó(15)
Một cành ngã về đất Già<16)
Một cành ngã sang đất Rắc<17)
Một cành ngã về Hao Hao(18)
Một cành ngã vào đất Én<19)
Một cành ngã lên đất Ngón(20)
Một cành vòng lên Lau, lên Khu(21)
Một cành rủ về đất Khói, đất Nen(22)
Một cành trở lên Vin Vơng(23)
(21>Nay thuộc tỉnh Thanh Hóa.
31
Một cành sang mường Vang, mường Vó'1’
Một cành sang mường Tráng, mường T re<2) Một cành vể đất V ành(3)
Một cành về mường Chín'4)
Một cành về mường Rồng
Một cành chót thì nên mường Mê, mưòng Marf* Còn một cành xanh non
vẫn trơ trơ, sừng sững
Đòi về đất Sấm, đất Sét, đất ông N hà Trời.
★
* *
Đ ất đã có
Đ ất chẳng còn nên xơ xác
Nước đã có
Nước chẳng còn tiêu điều
Trời đã có
Trời không còn mông lung
Có đất, có nước, có mường
N hưng loài người chưa có
Nghe chuyện cho tỏ
Kể chuyện cho tưòng
(1) (2)(3)(4)(5) J ệ n Ịệ n mu-ờng thuộc 2 tỉnh Thanh Hóa, Hoà Binh. Hiện nay người nghiên cứu vẫn dễ dàng tìm thấy tên đất tên mường này
32
Nghe chuyện đẻ người
Đoạn sau sẽ kể.
VI- ĐẺ NGƯỜI
Cành lòa xòa hóa ra chân tav mụ Dạ Dần(1) Cành lù xù hóa ra đầu mụ Dạ Dần
Cành thìa lia hóa ra tai, ra mắt mụ Dạ Dần Cành sừng sững hóa ra ngực, ra luìig mụ Dạ Dần Mụ Dạ Dần
Miệng hay đòi ăn cá
Da hay đòi ăn cơm
Miệng hay nói lời dạy bảo
Da nghĩ điều khôn ngoan
Mụ ở dưới đất nên thâp
Muôn cất lên trời cao cao
Mụ ăn. mụ đẻ
Mụ đẻ ra hai trứng
Một trứng nở ra Cun(2) Bướm Bạc
Một trứng nở ra Cun Bướm Bờ
Cun Bướm Bạc vừa nỏ
Đã ăn chín chõ cơm(3)
Nữ thần dạy dân cách làm ăn.
' 2) C hứ c vu cao của người Mường.
131 Mỗi chõ = 5 kg gạo.
33
Một cành sang mường Vang, mường Vó'1'
Một cành sang mường Tráng, mường T re(2> Một cành về đất V ành(3)
Một cành về mường Chín(4)
Một cành về mường Rồng
Một cành chót thì nên mường Mê, mường MarP Còn một cành xanh non
vẫn trơ trơ, sừng sững
Đòi về đất Sấm, đất Sét, đất ông N hà Tròi.
*
* *
Đ ất đã có
Đ ất chẳng còn nên xơ xác
Nước đã có
Nước chẳng còn tiêu điều
Trời đã có
Trời không còn mông lung
Có đất, có nước, có mường
Nhưng loài người chưa có
Nghe chuyện cho tỏ
Kể chuyện cho tường
(1) (2)(3)(4)(5)-|-gn (Jã't tên mường thuộc 2 tỉnh Thanh Hóa, Hoà Binh Hiện nay người nghiên cứu vẫn dễ dàng tìm thấy tên đất tên mường này.
32
Nghe chuyện đẻ người
Đoạn sau sẽ kể.
VI- ĐẺ NGƯỜI
Cành lòa xòa hóa ra chân tay mụ Dạ Dần(1) Cành lù xù hóa ra đầu mụ Dạ Dần
Cành thia lia hóa ra tai, ra mắt mụ Dạ Dần Cành sừng sững hóa ra ngực, ra lúng mụ Dạ Dần Mụ Dạ Dần
Miệng hay đòi ăn cá
Da hay đòi ăn cơm
Miệng hay nói lời dạy bảo
Da nghĩ điều khôn ngoan
Mụ ở dưới đất nên thấp
Muôn cất lên trồi cao cao
Mụ ăn. mụ đẻ
Mụ đẻ ra hai trứng
Một trứng nở ra Cun(2) Bướm Bạc
Một trứng nở ra Cun Bướm Bờ
Cun Bướm Bạc vừa nỏ
Đã ăn chín chõ cơm<3)
01 Nữ thẩn dạy dân cách làm ăn.
(2) Chức vụ cao của người Mường.
131 Mỗi chõ - 5 kg gạo.
Người lớn bằng cái thúng(1)
Cun Bướm Bờ mói sinh
Đã ăn hết năm chõ xôi
Người lớn bằng cái nia(2>
Năm tháng qua
Hai anh em vao hơn đun chín, đun mười(3) Tiếng cười như tiếng trống cái
Tiếng nói như tiếng sấm vang
Xương vai dài 80 lóng
Xương ống dài bảy trăm gang
Có tướng làm đạo, làm cun, làm lang
Một năm vua Trời cho con gái xuống chơi qua Ba năm vua Trời cho con gái xuống thăm lại Con gái trời gọi là Tiên
Tiên xuống trần đi chơi bông chơi hoa Một sáng Tiên xuống cành mây mưa
Một trư a Tiên xuống cành mây gió
Tiên bay xuống tắm
Tắm bờ sông Tằm, sông Tè
Ả Tiên đi ra đường rộng
Ả Tiên đi xuống đường quang
Thấy chàng Bướm Bạc
(1) Đường kính thúng £ 0,70 cm, dùng để đựng.
<2) Đường kính nia thường = 1m10, dùng xảy thóc. (3) Chiều cao của đun £ 3m dùng đựng thóc.
34
Thấy cun Bướm Bờ
Chàng cưỡi ngựa vàng
Thấy chàng Bướm Bạc
Thấy cun Bướm Bờ
Cun cưỡi ngựa trắng
Nàng ả. nàng hai muôn hỏi thăm đường Còn nghe nể con trai
Liền tránh lại một mé
Ké sang một bên
Cho ngựa ngài đi tới
Hai cun đi hẳn
Gặp được ba nàng con mái
Thấy người lạ muôn hỏi
Thấy người đẹp muôn ướm lời
Rằng:
Người ở đất mường nào?
Mà đẹp dáng, đẹp người, lưng ong, tóc mượt Cun em giật cương cho ngựa dừng lại
Cun anh kéo cương cho ngựa đừng đi
Cùng mở lời chào:
- “Các nàng ở đất mường nào ?
Mà qua rừng nhà tôi một sớm
Cho đất mường tôi tốt thêm lộc nuôi tằm Mà các nàng đến thăm
Cho rừng dâu nhà tôi xanh kín lá
35
Cho suối lắm cá nhiều tôm
Cho con sao hôm về chậm
Cho con sao mai đến nhanh
Cho con chim nhảy nhót trên cành
Hót lời thương lời nhớ
Chị em nghe lời đó,
Cùng giục nàng ả hai:
- “Hai chàng thưa chào
Chào ta như sao thức sao
Ta m ất lòng nào mà chưa lên tiếng
Ra mà thăm mà nhìn
Ra mà chào mà thưa
Nghe thấy vui vui thì hãy đứng lâu
Nghe thấy mà cau, mà có th ĩ đi ngay cho bõ ghét N àng ả nàng hai
Đi ra đương cái
Đi ra đường con đứng đợi
Nàng ả nàng hai
Bước ra cúi đầu thưa lại:
- “Thưa ngài Cun cả
Thưa ông Cun hai
Chị em đâu dám tìm đường lấn tran h
Chị em muôn về mường Đủ, mường Khói Lạc lối, lạc bước đến vườn nhà ngài
Hai ngài mở lòng thương cùng
36
Thì cho chung em vài tiếng nói”.
Cun Bướm Bạc nói rằng:
- “Các nàng đã quá chân vê' đây
Đã nhúng chân vào đất nghèo
Chang ngại đất khô bám dính
Xin bước chân về giếng
Xin quá chân vê nhà
Đất khó, mường nghèo
Nhưng ngõ còn thông thông”.
Nàng ả đi xuông
Cun Bưỏm Bạc dắt ngựa đi xuông
Nàng hai bước ra
Cun Bướm Bạc dắt ngựa đưa ra
ơ trên đỉnh núi đá Voi Nằm
Còn gọi là đỉnh Non Tiên
Hàng ngàn chị em đã nóng lòng đợi hai chị Càng đợi càng lâu
Càng lâu càng vắng
Lắng chị càng bặt tăm
Trông nhà Trời đã điểm canh năm
Trông nhà Trời đã báo giờ cấn
Đành lòng hai chị vắng
Các tiên nàng vội vã về nhà Tròi
Chị em lúc đi đông đủ
Lúc vê bỏ lại hai
37
c ủ a con, Tròi đã cài
Cửa lớn, Trời đã đóng
N àng ả, nàng hai
Tai nghe cửa đóng sập
Tai lắng cửa cài then
Đ ành ở lại đây, nơi trần gian mường trời
Cun Bướm Bạc lấy được nàng ả
Nên ho Lang
Cun Bướm Bò lấy được nàng hai
Nên ho Dân
Chín tháng 12 năm
Các nàng sinh con nốì dõi
Thứ nhất, sinh ra Cun Khổng Làng
Thứ hai, sinh ra Cun Khổng Và
Thứ ba, sinh ra Cun Khổng Tập, Khổng Tồi Thứ tư, sinh ra Cun Khổng Em, Khổng Anh Thứ năm , sinh ra Cun Khổng Lẫm, Khổng Lồ Thứ sáu, sinh ra Cun Khổng May
Thứ bảy, sinh ra Cun Khổng Lốt
Thứ tám , sinh ra Cun Chàng Vàng
Thứ chín, sinh ra Lang Chàng Xê
Thứ mười, sinh ra Trông Chim Tùng, Mái Chim Tót Trông Chim Tùng
Mái Chim Tót
Là con ú t con yêu
38
*
★ *
Lại kể chuyện Trông Chim Tùng và Mái Chim Tót Không có ndi ăn
Chẳng có nơi ở
Đậu cành dâu da, đứt cành dâu da
Bám dây Ta Tến(1), đứt dây Ta Tến
Chim Tùng, Chim Tót
Định ra bến đê nuốt lá ngón cho chết
Chết đi cho đỡ khổ
Định ra rừng dang thắt cổ
Chết đi cho đỡ nhục đỡ thương
Ra đường quang, sân rộng
Trông Chim Tùng, Mái Chim Tót
Gặp Mụ Dạ Dần hay lo
Gặp Mụ Dạ Dần hay thương hay bảo
Rằng:
- “Hai cháu đừng ra rừng mà sợ con gấu
Đừng vào thung mà sợ con cọp
Con mái thì tìm chỗ mát rỉa lông
Cho nên đá hang Trống(2)
Con trông thì ra rỉa mỏ
(,) Thứ dây dùng để làm dây néo buộc cày bừa.
,2) Hang ở trên trời.
39
Cho nên đá hang Hao
Đi đào đất cho nên sông sâu ruộng rộng Cho có nơi mà ăn
Cho có nơi mà ở
Chớ đi liều thân mà khổ”
Nghe lời mụ Dạ Dần
Con mái đã ra rỉa lông
Con trông đã ra rỉa mỏ
Đã có nơi mà ăn
Đã có ngăn mà ở
Đã có chỗ chơi
Ban sáng chim đi xem
Mụ Dạ Dần dệt lụa
Buổi chiều chim đi xem
Mụ Dạ Dần dệt gấm
Lụa mụ Dạ Dần có chấy có rận
Gấm mụ Dạ Dần có bọ chó, bọ ma
Chim xem chim đã rõ
Chim ngó. chim đã tường
Trông Chim Tùng. Mái Chim Tót
v ể nhà học dệt lụa
Học dệt gấm
Lúa của chim Tùng không có chây có rận Gấm của chim Tót chảng có bọ chó. bọ ma Mụ Dạ Dần lại bảo:
40
- “Các cháu phải nghe
Con mái bay vào núi đá hang Trống
Đục lấy chín phiến đá
Con trông bay vào núi đá hang Hao
Đục lấy chín phiến đất
Đục thành hốc, thành lỗ
Con trống bay vào sông Cái
Cặp lấy chín nén cỏ bái
Con mái bay xuống sông con
Cõng lấy mười nén cỏ gianh
Vê khoanh đi khoanh lại làm tổ
Tổ tròn như mặt trời
Tổ rỗng như cửa sông
Miệng tổ cao như quả núi
Cuôi tổ như mái nhà sàn
Đầu tổ như mái nhà trước
Đi vào phải nhẹ bước
Đi ra phải nhẹ chân
Đáy tổ to bằng miệng sông miệng bể”
Được ngày, được tháng
Chim Tùnẹ. Chim Tót vào hang vào ổ
Vào tố đẻ trứng
Chín ngày, chín đêm, chín tháng
Được một nghìn chín trăm mười chín trứng tốt Còn một trứng bày góc, chín cạnh, mười khuông
41
Đó là trứng ung, trứng xấu
Chim Tùng ấp chín mươi chín ngày bật tăm Chim Tót ấp chín mươi ngày bặt tăm Chim Tót ấp chín mươi ngày bật tích Trứng không hé không nỏ
Trứng không nở con
Chim Tùng, chim Tót nổi giận hầm hầm Đem trứng đi bỏ
Bỏ một trứng lên trời
Nở ra ông thần Chớp
Ném một trứng lên trời
Nở ra ông thần Mây
Ném một trứng dài dài
Nở ra nòi chuột chù
Ném một trứng to to
Nở ra nòi con lợn
Ném một trứng lùn lùn
Nở ra loài voi
Ném một trứng loi ngoi
Nở ra nồi con cá
Ném một trứng vào lá
Nở ra nòi thú dữ trong rừng
Ném một trứng ra chuôm
Nở ra nên họ hàng nhà cỏ
Ném một trứng lên đồi đất đỏ
Nở ra họ cây nứa
Trông Chim Tùng, Mái Chim Tót
Tháng tư lại đi xem
Mụ Dạ Dần dệt lụa
Tháng ba lại đi xem
Mụ Dạ Dần dệt gấm
Dệt gấm dệt lụa chưa xong
Trông Chim Tùng, Mái Chim Tót đã mang trứng Được ngày được tháng
Chim Tùng, Chim Tót lại vào ổ đẻ
Lại vào tổ ấp trứng
Âp bôn mươi chín ngày bật tăm
Ấp năm mươi ngày bặt tích
Được một trứng đen đen bôn khúc
Trứng bầu dục bôn khuông
Mặt vuông, mặt tròn chín cạnh
Rành rành mưòi hai quai
Trứng này là trứng “Giống”, trứng “Dòng” Là nòi trứng nên ông, nên người
Chim Tùng, Chim Tót
Ra đường về tổ
Trả ổ cho mụ Dạ Dần
- “Trứng mụ đem cất
Con mụ chăm nom”
43
Mụ Dạ Dần chạy đi rao chín tiêng
- “Hỡi đất ma nhà tròi
Hỡi chim côi chim góa
Ai bay vào tang Trông
Âp cho nứt trứng
Ap cho nở trứng Chiêng
Mai sau
Ta cho ấp xống?
Ta cho vàng bạc
Ta cho ruộng sâu
Ta cho ruộng mùa”
Khi đó, ở đất ma nhà tròi
Đất chim côi, chim góa
Có con Bìm Bịp lành lòng
Có con Công lành đuôi
Truyền tiếng truyền lời
- “Chúng tôi xin vào ấp
Nhưng không có lưng để mặc váy
Không có bụng đê mặc áo
Chúng tôi không biết ăn cơm uôrig rượu
Nên không cần ruộng nương
Tháng tư cho chúng tôi được làm tổ nơi tô't Tháng chín, tháng mười cho chúng tôiv làm tổ ớ nơi đẹp”
Mụ Dạ Dần đã ưng
44
Chim Bìm Bịp, chim Công vào ấp
Âp bôn tháng nghe nên biền biệt
Âp chín tháng nghe nên mịt mù
Chim Bịp, Chim Công
Vội trở về nhà
Mụ Dạ Dần lại đi rao:
- “Hỡi đất ma nhà trời
Hỡi chim côi chim góa
Có ai ấp trứng pỏ
Nở trứng Chiêng
Mai sau
Muôn có quần áo ta cho quần áo
Muôn vàng bạc ta cho vàng bạc
Muôn ruộng sâu ta cho ruộng sâu
Muôn ruộng mùa ta cho ruộng mùa
Khi đó lại có chim Chiền Chiện
Bay qua nhà mụ Dạ Dần
Lên tiếng:
- “Chúng tôi xin vào ấp
Nhưng có lưng đâu mà mặc quần
Có bụng đâu mà mặc áo
Chúng tôi không biết ăn cơm uống rượu Nên chẩng lấy ruộng nương
Chúng tôi xin làm tổ nơi hay nơi đẹp”
Lòng mụ Dạ Dần đã ưng
45
Chim Chiền Chiện hối hả bay vào ấp Nhưng buổi sáng
Con mái lấy cánh che mặt tròi Buổi chiều
Con trông lấy cánh bạc che mặt trời Con mái lấy hòn đá đập giả
Con trống lấy ngọn lá đập hờ hờ Bỗng thấy nướt trứng pỏ
Nở trứng Chiếng
Nghe ồn ào tiếng Lào
Nghe lao xao tiếng Kinh
Nghe ình ình tiếng Mường
Nghe xôn xao tiếng Thái
NgỊ^e hối hả tiếng Mán
Nghe nháo nhác tiếng Mèo
Nghe léo xéo inh inh
Nghe tiêng nói tiếng cười
Trứng một - nở ra ông Dịt Dàng Trứng hai - nở ra ông Lang Tà Cái Trứng ba - nở ra Lang Cun c ầ n Trứng bổn - nỏ ra Bô' Bướm Khang Trứng năm - nở ra Xang Xí
Trứng sáu - nở nàng Vạ Hai Kíp Trứng bảy - nỏ ra nàng Càm
Trứng tám - nở ra cả Chu Chươn. 46
Trứng chín - nở ra đứa bạc tang đứa lồi mắt Trứng mười - nở ra con côi bà góa
Trứng mười một - nở đứa què hay trèo cây cọ Trứng mười hai - nở đứa chột đứa đui
Như vậy:
Người “Trần gian”ai cũng sinh ra từ Hang Trống Lấy tiếng từ Hang Hao
Hãy nghe tiếp chuyện sau
Hãy nhớ câu đàng trước
Truyền đi cho được
Cả mưòng cả nước đừng quên
Để nghe chuyện chia năm, chia tháng.”
VII- CHIA NĂM CHIA THÁNG
Dưới đã có đất
Trên đã có tròi
Đã có Chu chương Mường nước
Nhưng chưa có ngày có tháng
Chưa biết đưa ngày nào ra trước
Rước ngày nào ra sau
Thuở ấy,
Có ông Cuông Minh Vàng Râm
Có nàng Ả Sấm trời
47
Đã đi khai mỏ đồng
Đúc làm mặt trăng
Đã ra khai mỏ vàng
Đúc làm mặt trời
Đúc được chín mặt trời
Đúc được mưòi mặt trăng
Nắng gay nắng gắt.
Làm rẫy chẳng nên ngô
Trên nguồn không có nưóc
Làm nương không nên lúa
Để có gạo ăn
Để có nước uông
Để có ruộng làm
Để có sân mà chơi
Ta phải bán bớt mặt trời
Mới yên mường mà ở
Đồn rằng:
Lúc ấy họ nhà Ngao
Ông thần Nỏ Ná
Sắm tên bương già. ba năm xông khói Chín m ặt trời bắn rơi đi tám
Mười hai m ặt trăng bắn rơi đi mười một Ai không biết đêm thì tìm mặt trăng Ai không biết ngày thì theo m ặt trời
48
Từ đó
Ban ngày có mặt trời
Ban đêm có mặt trăng
Nhưng chưa có năm có tháng
Chu Chương Mường Nước đi rao:
“Ai kêu được trời đem sáng
Muôn bạc muôn vàng
Muôn chín trâu mười bò
Muôn gì mường cho cái đó”
Có con gà thưa rằng:
- “Tôi không lấy bạc lấy vàng
Không ruộng dọc ruộng ngang
Nên không lấy trâu, bò mộng”
Có con vịt thưa rằng:
- “Từ nay về sau
Trứng chúng tôi đẻ ra phải ấp
Con chúng tôi nở, người phải chăm"
Lòng ông Pồng Pêu đã ưng
Gà nhảy lên lưng vịt
BỞI trên sông trên hồ
Nó gáy một tiếng đằng đông
Gáy vông sang phía tây
Mặt trời nghe gà kể
Nên dải nắng vàng
Mặt trăng nghe tiếng vịt
49
Mặt trầng đã mọc lên
Từ đó có tròi đêm, trời sáng
Nhưng chưa có tháng có năm
Đồn rằng:
Mường lón nhất có ông Thu Tha Mường lớn nhì có bà Thu Thiên Đứng ra truyền làm năm làm tháng Đặt ra rằng:
Một năm có 12 tháng
Một tháng có 30 ngày
Có năm đầy năm vơi
Có tháng no tháng thiếu
Lấy tháng đủ trước là tháng giêng Gọi là tháng đầu năm
Cho tằm lên leo lá
Đặt ra tháng hai, tháng ba
Cho cá lên đồng
Đặt ra tháng tư
Cho cá biển phơi lưng
Đặt ra tháng năm, tháng sáu
Cho vua Nước lên nuôi binh, nuôi mường Đặt ra tháng bảy, tháng tám
Cho trời làm mưa làm gió
Đặt ra tháng chín, tháng mười
Cho sai bông cơm trái lúa
Đặt ra tháng mưòi một, mười hai
Cho ông Táo cưỡi mây lên thượng giối
Chuyện chưa hết lối
Nói chưa hết lời
Chuyện ta hãy còn dài
Ngồi lại mà lắng
Đứng lại mà nghe
VIII- DỊT DÀNG
Dưới đã có đất
Trên đã có tròi
Mọi người muốn ông Dịt Dàng ra cầm binh Thì mường Nước mối sang
Năm mới giàu mới có
Ông Dịt Dàng gọi đứa con trong cửa
Gọi đứa ở trong nhà
Lấy chiếu trải ra
Lấy trầu lấy cau đãi bạn
Lúc này Dịt Dàng cất giọng
Gọi vọng ra mọi người”
- “Mường ơi, mường à!
Hôm nay ngày nắng tỏ
Xanh cây xanh cỏ
Mường Nước đến đây có việc gì
Hay đến gọi tôi đi săn nai
51
Hay đến gọi tôi đi săn hoẵng”
Mọi người thưa:
- “Không, không Dịt Dàng à!
Dạ ông DỊt Dàng ơi!
Chúng tôi không gọi ông đi săn nai Chúng tôi không mời ông đi săn hoẵng Chúng tôi thấy
Từ thuở có trời
Từ ngày có đất
Có ngưòi ăn người ở
Chúng tôi muôn cử ông ra cầm mường Để mường Nước được yên
Để dân giàu dân có”
Dịt Dàng nói rằng: *
- “Mường Nước à
Tôi ra cầm binh còn sỢ ma
Tôi ra giữa mường còn sợ thuồng luồng Dân mường phải nướng mười con thịt Để cúng ma ấm
Phải nộp chín gánh vàng
Phải cúng vua Đất, vua Tròi
Trời nắng
Dân mương dọn cây
Để vua có lối
52
Tròi mưa
Dân mường hạ cành hạ CỐI
Để vua có cần
Kẻ đón đằng trước, người rước đằng sau Dịt Dàng bước xuống bậc thang đầu
Mọi người xì xào bàn tán
Dịt Dàng đi ra sân
Ai cũng rõ cũng tường
Dịt Dàng đi ra đường
Gió ào ào, ạt ạt
Lá quất cành cong
Dịt Dàng bị ma ếm đón đường
Ma ếm thì chín mươi chín lưỡi đỏ
Ma ếm giơ chín mươi chín răng cọp
Liếm mặt Dịt Dàng
Lại rồng xông tới như nanh
Lại thuồng luồng mào xanh nhe nọc
Lúc đó Dịt Dàng đành quay chân về
Bởi đi chẳng nổi
Dịt Dàng đành bảo rằng:
- “Xin dâng mường cho tôi được trở lại nhà Tôi chẳng dám đi ra
Chẳng dám cầm binh cầm mường
Bởi đàn ma đã ngăn đường
BỞI rồng vàng đã ngăn ngõ”
53
Nghe xong
Dân mường đưa Dịt Dàng về nhà
Lại vào xin Lang Tà Cái
Xin Lang Tà Cái ra cầm binh cho sang Ra làm lang chỗ dân mường giàu có
IX- LANG TÀ CÁI
Dưới đã có đất
Trên đã có trời
Đã có người chọn nơi để ở
Nhưng dân mường nước phải giàu phải có Dân mường muôn Lang Tà Cái ra cầm binh Rạng ngày:
Người ta kêu nhau ầm ầm
Đi chật một bên mưòng
Vòng sang núi con núi cái
Tiếng cười vang đồi bãi
Họ kéo nhau đến nhà Lang Tà Cái
Lang Tà Cái rằng:
- “Mường ơi hôm nay ngày nắng đẹp
Dân mường gọi tôi đi săn hoẵng hay săn nai" Mường nước liền thưa:
- “Lang Tà Cái
Không gọi ông đi săn hoẵng săn nai
Mà Chu Chương chúng tôi
54
Thấy từ thuở đã có trời
Dưới đất có lắm người đi tìm ăn tìm ở
Muôn ông cử ra cầm mường
Để mường nước được yên được ấm”
Lang Tà Cái rằng:
- “Tôi ra cầm binh sợ con ma
Tôi ra cầm mường sợ con rồng, sợ thuồng luồng Chu Chương phải thịt mười con thú lớn Đê cúng ma ếm
Phải gánh chín gánh vàng, mười gánh bạc Để cúng vua Đất, vua Trời”
Trời sáng
Chu Chương dọn cây
Để Lang Tà Cái có lối
Trời mưa
Mường Nưốc hạ cây hạ cối
Lang Tà Cái có cần đi lại
Lang Tà Cái đi vội
Rồng cuốn tới nhe nanh
Thuồng luồng xanh nhe nọc
Lang Tả Cái đành trở về
Đi chẳng nôi
Để ra giữ mường giữ nước
Lang Tà Cái đảnh bảo:
- “Xin Chu Chương Mường Nước
55
Cho tôi được trở lại nhà
Tôi chẳng dám cầm binh cầm mường BỞI ma chắn đường
Thuồng luồng, rồng xanh chắn ngõ” Đưa Lang Tà Cái về đến nhà đến cửa Chu Chương Mường Nước trở ra
Lại vào nhà Lang Cun cần
Mời Lang Cun c ầ n ra giữ mường giữ nước.
X- LANG CUN CẨN
Rạng sáng
Người kêu nhau ầm ầm
Đi đến nhà Lang Cun c ầ n
Lang Cun Cần
Gọi lính vác chiếu ra trải
Lấy trầu lấy cau ra mời
Lang Cun Cần thay quần bảy gang
Mang áo chín sải
Dắt múi khăn như đầu rái
Thắt dầy lưng tám sải màu đen
Đứng dậy rõ tưống con thú dữ
Nói oang, như sấm
Nhưng nhắm mắt lại
Lang Cun cần hiền hiền
Mở mắt ra
56
Lang Cun cần cũng lành lành
Lang Cun cần hỏi:
- “Mường ơi, mường à!
Hôm nay ngày tốt gió
Nước trong, nước đỏ, rừng yên
Mường nước gọi tôi đi săn
Hay đi quăng chài thả lưói”
Mường nước nói:
- “Không, không, Lang Cun cần à!
Dạ, dạ, Lang Cun cần ƠI
Dân mường không gọi ông đi săn
Không gọi ông đi quăng chài thả lưới
Chúng tôi thấy,
Từ năm có tròi
Dưới đất có người tìm ăn tìm ở
Đã cử Dịt Dàng. Lang Tà Cái
Cầm binh cho sang
Cầm mường cho yên cho ấm
Nhưng hai ông ra đến đầu mường
BỊ ma ếm
Đành quay về nhà
Bây giờ Lang Cun cần đừng chê rằng khó Mường Nựớc muôn rừớc Lang ra cầm mường” Lang Cun cần rằng:
- “Nghe Chu Chương nói
57
Tôi rối trong thân
Lo xa lo gần trong dạ
Sức bằng quả sung quả vả
Tai lại nhỏ như hột muồng muồng Vâng, tôi sẽ ra cầm binh giữ mường Nhưng còn sỢ ma ếm
Chu Chương phải đốt mười núi lớn Để đuổi ma ra khỏi mường khỏi ngõ” Trời nắng
Chu Chương dọn cây
Để Lang Cun Cần có lối
Trời tối
Mường Nước dọn cối dọn cành
Cho Lang Cun Cần ra đường
Kẻ đón trước, người rưóc sau
Ma chạy từng bầy trôn vào trong núi Ma rồng sợ Lâng Cun c ầ n trói Thuồng luồng sợ Lang Cun Cần đánh
Từ nay, đã có Lang Cun c ầ n
Cầm binh, binh sẽ sang
Cầm mường, mường sẽ giàu sẽ có Có người, chưa có của
Có người, phải có nhà
Nghe chuyện sau, làm nhà Lang cho trọn
XI- LÀM NHÀ LANG CUN CAN
Lang Cun Cần chưa có cửa mà vào mà ra Chưa có nhà mà ăn mà ngủ
Còn phải lấy rừng làm nhà
Thuở ấy có một người đi săn
Đi vào giữa rừng dang
Thấy con rùa đen
Nằm trong gầm núi đá
Một bận lật mai rùa đê ngửa
Chẻ lạt nứa buộc ngang
Chẻ lạt dang buộc dọc
Trói vào cọc
Néo cổ néo chân
Quấn dây quanh thân
Người đi săn, vững dạ hả lòng
Mới chặt cây song làm đòn, khiêng đòn gánh Người đi săn thấy lòng vui lắm:
- “Rùa ơi!
Tao trói mi vào đòn
Đem về róc thịt vào nồi con nấu dấm
Bỏ thịt vào ấm lớn tao rang
Nấu với rau răm
Băm với riềng ớt
Tao vừa ăn cái, vừa húp nước canh rùa Rùa thưa:
59
“Đừng trói tôi làm chi chết oan
Thịt tôi chẳng đầy một ông bương
Xương tôi chẩng đầy một ông nứa
Gân không no con nít
Tôi biết kiểu làm nhả
Xin ông thả tôi ra
Tôi bày cho kiểu dựng"
Người đi săn nghe thương
Tháo dây đầu dây gót
Cỏi nút buộc ngang cổ
Mở lạt buộc ngang hầu
Rùa ngẩng đầu lên thưa:
- “Bôn chân tôi làm nên cột cái
Xhìn sườn dài, sườn cụt mà xếp làm rui
Nhìn qua đuôi làm trái
Xhìn lại mặt làm cửa thang cửa sổ
Nhìn vào xương sông làm đòn nóc dài dài Muôn làm mái thì trông vào mai
Vào rừng mà lấy tranh, lấy nứa mà làm vách Lấy chạc vớt mà buộc kèo
Xgười đi săn nửa đêm bước đến đất Cun Bướm Bò Sáng nhờ nhò đến đất Cun Bướm Bạc
Đi hêt sáng về chiều
60
Đến hang chim Tùng, chim Tót
Tổi sầm sầm đến đất mường Bằng
Sáng giăng giăng đến đất Đồng Chì, Tam Quan Kẻ Chợ
Sáng I'a vào hầu Lang Cun Cần
Kể lại chuvện con rùa
Lang Cun cần nghe reo trong dạ
Nghe hả trong lòng
Cho người đi rao
Gọi dân mường
Trong ngày một phải qua
Ngày hai ngày ba phải đên
Dựng nhà cho Lang Cun cần có nơi ăn chôn ở
Cửa tròi sáng sáng
Bụng tròi rạng rạng
Mường gần kéo qua
Mường xa kéo đến
Làm nhà cho Lang Cun cần
Lang Cun Cần có nơi ăn chôn ở
Mường lớn. mường nhỏ
Đã làm được cửa được nhà
Cửa nhìn qua ngó lại
Xhà hai trái mười hai ngăn
Ba mươi sáu cái cửa sô
61
Này
Lang Cun cần làm Cun đã sang Làm Lang đã giàu, đã có
Đời đó đã vang
Đoạn kể đã qua
Ta kể sang đoạn khác
XII- TÌM LỬA TÌM NƯỚC
Lang Cun c ầ n đã có nhà mà ở Nhưng chưa có lửa để đúc bạc Chưa có nưốc để rửa nhà
Nuốt thuốc, thuốc không vào
Ăn rau còn đau bụng
Lang Cun Cần giao cho Viếng Cu Linh Một mình đi xin lửa
Phải đi mấy ngày mấy bữa
Đem cho được lửa về
Mang cho được lửa về
Viếng Cu Linh ra đi
Đi xin nước xin lửa
Bước tới lật đật
Bước đi vội vàng
Đầu hôm đến mặt trăng
Sáng ra đến mặt trời
Rẽ vào chơi nhà Tà cắm Cọt
Tà Cắm Cọt thăm hỏi:
- “Mỏi chân nên cháu phải vào nhà
Hay có việc gì đến hỏi”
Viếng Cu Linh thưa rằng:
- “Tà Cắm Cọt à
Tôi đến nhà sớm sớm
Vì Lang Cun cần chưa có lửa đúc bạc
Lang Cun Cần chưa có nước rửa nhà
Tôi đi xin nước xin lửa”
Tà Cắm Cọt đã ưng
Liền gọi lũ em lấy con dao cán ngà
Lên đồi Ca Da
Chặt lấy năm cành cây năng
Chẻ lấy bảy mảnh lạt dang
Che nứa vàng, nứa già làm bùi nhùi
Kéo lạt dang đi đi lại lại
Lửa bén bùi nhùi
Mang về trăm bó lửa
Chia một nửa cho Viếng Cu Linh
Tà Cắm Cọt nhốt Viếng Cu Linh vào mặt trông Hỏi rằng:
- “Mày thấy tối hay thấy sáng”
Viếng Cu Linh trả lời:
“Tôi thấy tối như đêm như ống
Lúc ấy,
63
Tà Cắm Cọt mới cho làm lửa
Lấy chín lá dong lành
Đùm tám gói lửa đỏ dưới
Gói chín gói nước để trên
Lửa góa đã được
Xưóc đùm đã nên
Tà Cám Cọt mới cho
• k
~ k -k
Viếng Cu Linh ra khỏi mặt trông
Cầm lấy tám gói lửa
Đỡ lây chín gói nước
Thừa rằng:
- "Xin chào Tà cắm Cọt tốt bụng
Chăm việc chăm làm
Tôi xin trở về Đồng Chì Tam Quan Kẻ Chợ" Tà Cắm Cọt ra tiễn
Cả mường Xước mường Lửa ra đứa
Viếng Cu Linh xuống thang lửa quanh co Vê theo mặt trời
Đi theo mặt trăng
Tay va vào núi
Võ chín đùm nước ó trên
64
Tưới lên tám gói lửa ở dưới
Khói tắt đằng khói
Nước trôi đằng đồng
Viếng Cu Linh vế không
Lưng đã mỏi
Gối đau nhừ
Tay cầm nước, nước đã khô
Vai gánh lửa, lửa đã nguội
Mang hai tay về không
Vê Đồng Chì Tam Quan Kẻ Chợ
Nửa đêm
Viếng Cu Linh vào hầu Lang Cun cần
Quỳ gôi đê van
Co chân xin tội
Lang Cun cần nổi cơn dữ
Cử cơn hờn
Lấy chân phải đạp lại
Chân trái đạp đạp qua
Đạp Viếng Cu Linh ở giữa nhà
Đạp văng ra cửa sô
Mở tiếng mắng tiếng chửi
Dồn tiếng thôi tiếng cay:
- “Mày phải lấv phân con lợn làm nhà
Đội phân con gà làm cửa”
65
Miệng Viếng Cu Linh(1) đã thưa
Lang Cun Cần lại hội Chu Chương Mường Nước Hôm trưốc, con nít bàn qua
Hôm sau, ông già bàn lại
Bây giờ phải cử anh chàng Tun Mun(2)
Đi xin lửa về cho Lang Cun Cần đúc bạc
Đi xin nước về cho ông Lang Cun Cần lau dọn sàn nhà
Anh chàng Tun Mun
Đòi ăn cơm giữa cửa sổ
Đòi uống rượu giữa sàn
Mới chịu đi xin lửa mang về cho Lang
Tun Mun bảo rằng:
- “Chúng tôi đi lấy lửa nước mang vể
Ngày trước chẳng nói làm gì
Nhưng từ nay về sau
Mường phải cho chúng tôi cắn người nằm trong rừng Cắn trâu bò ngủ trong núi”
Miệng Lang Cun cần đã thưa
Lòng Lang Cun Cần đã chịu
Tun Mun đến nhà Tà cắm Cọt
<1) ViếngCu Linh nghĩa là con bọ hung, loại sâu bọ sinh sống trong phản
<2) Chỉ loại ruổi trâu
66
Tà Cắm Cọt bước ra thăm hỏi:
- “Chàng Tun Mun ơi!
Tun Mun mỏi chân vào nghỉ
Hay có việc gì?”
Tun Mun gãi đầu gãi tai
Thở dài, thưa rằng:
- “Chúng tôi không phải mỏi chân xin nghỉ Mà có việc cần việc nóng
Tà Cắm Cọt ơi!
Lang Cun cần nhà chúng tôi
Đã có cửa có nhà
Mà chưa có nước có lửa
Lang sai chúng tôi đi xin lửa xin nước"
Tà Cắm Cọt hỏi rằng:
- “Hôm trước ta đã cho Viếng Cu Linh
Chín gói nước, tám gói lửa
Sao Tun Mun lại còn xin”
Chàng Tun Mun nói một lòi
Xin thêm một lể
“Của chẳng ăn chẳng để
Viếng Cu Linh gánh khỏe gánh tài
Nhưng đến núi Lèn En
Gói lửa va vào núi
Gói nước tưới lên trên
Lửa tắt im im
67
Miệng Viếng Cu Linh(1) đã thưa
Lang Cun Cần lại hội Chu Chương Mường Nước Hôm trước, con nít bàn qua
Hôm sau, ông già bàn lại
Bây giờ phải cử anh chàng Tun Mun(2)
Đi xin lửa về cho Lang Cun cần đúc bạc
Đi xin nước về cho ông Lang Cun Cần lau dọn sàn nhà
Anh chàng Tun Mun
Đòi ăn cơm giữa cửa sổ
Đòi uống rượu giữa sàn
Mới chịu đi xin lửa mang về cho Lang
Tun Mun bảo rằng:
- “Chúng tôi đi lấy lửa nước mang về
Ngày trước chẳng nói làm gì
Nhưng từ nay về sau
Mường phải cho chúng tôi cắn người nằm trong rừng Cắn trâu bò ngủ trong núi”
Miệng Lang Cun cần đã thưa
Lòng Lang Cun cần đã chịu
Tun Mun đến nhà Tà cắm Cọt
ViếngCu Linh nghĩa là con bọ hung, loại sâu bọ sinh sống trong phân
<2) Chỉ loại ruổi trâu
66
Tà Cắm Cọt bước ra thăm hỏi:
- “Chàng Tun Mun ơi!
Tun Mun mỏi chân vào nghỉ
Hay có việc gì?”
Tun Mun gãi đầu gãi tai
Thở dài, thưa rằng:
- “Chúng tôi không phải mỏi chân xin nghỉ Mà có việc cần việc nóng
Tà Cắm Cọt ơi!
Lang Cun Cần nhà chúng tôi
Đã có cửa có nhà
Mà chưa có nước có lửa
Lang sai chúng tôi đi xin lửa xin nước"
Tà Cắm Cọt hỏi rằng:
- “Hôm trước ta đã cho Viếng Cu Linh
Chín gói nước, tám gói lửa
Sao Tun Mun lại còn xin”
Chàng Tun Mun nói một lời
Xin thêm một lể
“Của chẳng ăn chẳng để
Viếng Cu Linh gánh khỏe gánh tài
Nhưng đến núi Lèn En
Gói lửa va vào núi
Gói nước tưới lên trên
Lửa tắt im im
67
Lửa chìm, nước chạy”
Tà Cắm Cọt sai người đi lấy lửa
Đem về chia cho Tun Mun
Tà Cắm Cọt lại cho Tun Mun
Chui vào trong bụng trông
Lắc lắc hồi lâu rồi hỏi :
- “Chúng mày thấy tối hay thấy sáng" Chàng Tun Mun nói cứng
Đứng dậy vỗ m ặt trông rồi nói bừa : - “Tôi thây sáng lòa, sáng lắm
Sáng chói, sáng choang
Thấy cả đất Đồng Chì Tam Quan Kẻ Chợ” Tà Cắm Cọt sợ lộ cách làm lửa
Vội nhốt Tun Mun vào giỏ
Bỏ lên gác bếp
Lại hỏi Tun Mun:
- “Chúng bay thâv tối hay thấy sáng?” Tun Mun trả lời:
- “Bây giờ nhìn xung quanh tối tối
Ngó lại thấy đen đen"
Nhưng anh chàng Tun Mun
Có mắt ở đinh đầu
Xhìn thâu qua giỏ
Xgó lọt qua nan
68
Thấy Tà cắm Cọt kéo lửa
Bằng bùi nhùi dang
Kéo đi giằng lại
Tun Mun thấy lửa bén nùn
Khói ùn ùn bổ'c lên
Thấy Tà cắm Cọt ra suôi
Lấy nưốc mang về đong vào ông
Tun Mun nhó trong bụng
Giữ trong lòng
Cách lấy nước trong
Mẹo kéo ra lửa
*
★ *
Lang Cun cần nghe bọn Tun Mun nói
Vội cho người đi sắm bùi nhùi, nứa già
Chở VỘI vê nhà Lang đê quấn dây ngang ông nứa Sai đứa ở kéo lửa
Càng kéo càng hăng
Khói bay ra ùn ÙĨ1
Lửa đun ra đỏ đỏ
Lúc đó. nhà Lang đã có lửa
Còn phải sai người đi cõng nước dưới bể Đi bê nước ngoài sông
Đào mạch trong đất
Lật mỏ trong suôi
69
Nước đã vào ông nứa
Lửa đã sáng trong nhà
Ăn cá không còn sợ tanh Ăn rau không còn đau bụng
XIII - TÌM CƠM, TÌM LÚA Lang chưa có cơm để ăn no Chưa có lúa để làm sang Nhà Lang phải gọi mụ Dạ Dần Cầm choòng đi đào củ mài Cho nhà Lang đủ ăn
Làm nên bàn nên bữa
*
Mụ già Râ'p lập cập đi đào củ Cố Mụ lụ khụ đi đào củ mài Tóc xác như tro bếp
Răng mòn đến lợi
Đào củ không còn bê nổi đầu i rau không còn bê nổi sọt pc mắt chảy đầy áo
Nước mắt chảy đầy váy
Có con chuột đen trong ống
Nghe tiếng khóc giữa rừng
Chuột hỏi rằng:
- “Sao các mụ chẳng ăn cơm
Lại nằm co ro mà khóc ?”
Già Rấp bèn nói :
- “Già không đau lưng, sưng cổ
Mà lo bữa ăn cho Lang Cun Cần chưa có !” Chuột thưa rằng :
- “Có phải nhà Lang Cun cần
Còn đòi ăn khó ở
Chưa có cơm làm no
Chưa có lúa làm nên
Mường dưới mường trên
Nhà Lang còn nghèo, còn khó ?
Chưa vui đằng ở
Chưa mật mỡ đằng ăn
Mụ nghe
Tôi nói cho mà làm
Các cô" mụ thưa rằng:
“ơi chuột chuột
Mày nói điểu hay, điều lành
Tao lắng tai nghe
Mày bày nơi có cơm, mày mách nơi có canh
Tao nghe, tao chịu".
Chuột lại nói :
- “Các cố mụ già
Ở núi nàng Ả, nàng út
Có nàng Tiên, TiênMái lúa
Còn thừa bôn mươi giông lúa ruộng Ba mươi giông lúa rẫy
Tôi không nói dối
Nhà Lang cho người lên mà xin” Trời sáng rõ chưa lâu
Các cô' mụ vào hầu Lang Cun c ầ n - “Lang ơi, Lang hỡi !
Chúng tôi vào rừng đi đào củ mài Gặp con chuột vàng co ro trong cmg nứa Chuột biết nói biết thưa
Nó thưa rằng : Vê bảo VỚI nhà Lang Đến nàng ú t vua Tiên
Đến nàng Tiên Tiên Mái lúa
Xin lấy £lông lúa ruộng, lúa rẫy Mang về làm nòi
Xin vê làm giông
Lòng Lang Cun Cần biết hay
Tay Lang Cun Cần năm phải
Chạy vội ra mường
Đứng giữa mường kêu to lên rằng :
- "‘Binh ơi. mường ƠI !
Tận trên nhà nàng Tiên Tiên Mái Lúa
Đủ bôn mươi giông lúa ruộng
Đủ ba mươi giông lúa rẫy
Phải đi. phải tới
Phải đến. phải xin
Hỡi mường dưới, mường trên
Chọn lấy người khéo miệng
Nói tiêng khôn tiêng lành
Binh mường
Hãy chọn nàng Dặt Cái Dành
Biết mẹo nói khôn
Khéo mồm nói phải
Lấy sọt bảy
Quảy gánh tre
Đi không đếm ngày
Đến nhà trên xin giông lúa
Đầu hôm
Xàng Dặt Cái Dành
Lên đến mặt trăng
Sáng ra
Luồn qua mặt trời
Lên đến đất mường Trời
Đến mùa nàng Ả - Tiên Tiên Mái Lúa
Men theo ruộng cửa
73
Qua thửa ruộng nhà
Qua bờ ao, bờ giếng
Vào đến rào đến giậu
Có chậu nước trong
Múc nước rửa chân
Bước lên thang
Vào trong gian nhà giữa
*
* *
Nàng Tiên Tiên Mái Lúa
Dậy, đi rửa mặt sóm mai
Rửa tay buổi sáng
Ngó ra cửa sổ
Ngó xuông cửa thang
Thấy người chít khăn
Thấy nàng mang giỏ
Ngó kỹ mặt mày
Nhận ra mặt nàng Dặt Cái Dành - “Ớ Dặt Cái Dành
Em đến chơi hay có công việc ? Dặt Cái Dành rằng :
- “Kêu chị, chị à
Gọi chị, chị ơi
Em chẳng đến chơi
74