🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Văn Hóa võ hiệp Ebooks Nhóm Zalo Table of Contents CHƯƠNG I: KH\I QU\T VỀ VÕ HIỆP CHƯƠNG II: THẾ GIỚI GIANG HỒ CHƯƠNG III: XUẤT THÂN CỦA HIỆP KHÁCH CHƯƠNG IV: ĐẶC TRƯNG TÍNH C\CH CỦA VÕ HIỆP CHƯƠNG V: THẾ GIỚI QUAN VÕ HIỆP CHƯƠNG VI: NHỮNG MỐI QUAN HỆ LỚN CỦA VÕ HIỆP CHƯƠNG VII: Ý NGHĨA HIỆN ĐẠI CỦA VÕ HIỆP Chia sẻ ebook : http://downloadsach.com/ Follow us on Facebook : https://www.facebook.com/caphebuoitoi VĂN HÓA VÕ HIỆP - Ôn Tử Kiến - NHÀ XUẤT BẢN HỘI NH[ VĂN & CÔNG TY VĂN HÓA PHƯƠNG NAM PHỐI HỢP THỰC HIỆN CHƯƠNG I: KH\I QU\T VỀ VÕ HIỆP Từ “Võ hiệp” được dùng trong hai lĩnh vực: một là võ hiệp trong xã hội - lịch sử, hai l{ “võ hiệp” trong văn học. 1. Trong xã hội Võ hiệp l{ võ sĩ tự do trong xã hội truyền thống Trung Quốc. Đặc điểm của họ l{ thường tế khốn phò nguy, lấy sức mạnh để diệt trừ bạo lực, không quan t}m đến chuyện sống chết. Đo{n Ngọc T{i trong s|ch “Thuyết văn chú” đ~ giải thích: “Chữ “hiệp” vốn là chữ “gi|p”, một chữ tượng hình người mang áo giáp. Có thể thấy “hiệp sĩ” tức chỉ kẻ sĩ mặc gi|p, cũng tức l{ “võ sĩ”, Hiệp sĩ cũng l{ người coi thường sự sống chết, dám liều mình”. Chữ “võ” chỉ việc can qua chinh chiến, nhưng nghĩa gốc của nó l{ “chỉ qua” (tức dừng chinh chiến). Có thể thấy hiệp sĩ mặc giáp cầm binh khí xông pha chiến trận để thực hiện hòa bình. Từ “hiệp” xuất hiện đầu tiên trong s|ch “H{n Phi Tử”. Thiên “Ngũ đố” (năm loại một) trong s|ch “H{n Phi tử” viết rằng: “Nho lấy văn l{m loạn phép, hiệp lấy võ phạm cấm”, “những kẻ ấy mang kiếm, tập hợp đồ thuộc, lập khí tiết để được nổi tiếng, vì thế mà phạm cấm lệnh của vua quan”; “cần loại bỏ bọn d}n ương bướng không kính trọng bề trên, không sợ pháp lệnh. Vậy mà có kẻ lại dung dưỡng bọn du hiệp, cứ như thế thì nước không thể yên ổn được”. Trong thiên “Lục phản” (s|u điều tr|i ngược) Hàn Phi Tử [1] lại viết: “Những kẻ cầm kiếm giết người là loại dân hung bạo, nhưng người đời lại đề cao họ, gọi họ là kẻ sĩ dũng cảm cứng rắn. Những kẻ cứu sống giặc, che giấu bọn gian - đó l{ d}n đ|ng chết, vậy m{ người đời lại đề cao họ, gọi là những kẻ sĩ nghĩa hiệp.” Từ những cứ liệu trên, có thể thấy võ hiệp đều là những người giỏi võ công, vân du bốn phương, chủ yếu làm việc ám sát, dám mạo hiểm, lại lấy việc chống lại pháp lệnh quan phương l{m tiêu chuẩn giá trị; loại tiêu chuẩn giá trị ấy lại được sự khẳng định và tán thưởng của nhân dân tầng lớp dưới. Hàn Phi Tử đứng trên lập trường khắt khe khắc bạc của Pháp gia, chỉ trích họ vũ dũng hiếu sát, không coi trọng kỷ cương ph|p luật, là một trong năm loại sâu mọt của quốc gia, cũng l{ một trong “s|u loại dân gian ngụy vô ích”. Rõ ràng trong con mắt của Hàn Phi Tử “hiệp” l{ một từ mang nghĩa xấu, có một khoảng cách khá lớn so với “hiệp” trong con mắt của người ngày nay. Tư M~ Thiên không những l{ người đầu tiên viết “liệt truyện” về những người du hiệp và thích khách mà còn l{ người đầu tiên đ|nh gi| một cách khách quan, công bằng về công lao và sai lầm của họ. Trong thiên “Du hiệp liệt truyện” s|ch “Sử ký”, ông viết rằng: “Những kẻ du hiệp ngày nay, việc làm của họ tuy không theo pháp lệnh, nhưng lời họ đ~ nói l{ chắc chắn, việc họ làm thì quả quyết, đ~ hứa tất giữ lời, không tiếc tính mạng để cứu người ra khỏi nguy khốn. Sau khi đ~ xông pha v{o nơi nguy hiểm để cứu người, họ lại không khoe tài, coi việc kể ơn l{ đ|ng thẹn; như vậy thì xem ra cũng có nhiều điều đ|ng khen.” “Nếu xét về mặt công lao, giữ được lời đ~ hứa, thì có thể xem thường nghĩa khí của bọn hiệp khách được sao?” Cách nhìn nhận về võ hiệp của người ngày nay là kế thừa “Sử ký”; như thể đ~ thấy nhận thức và kiến giải siêu việt của vị sử gia hơn hai ng{n năm trước. Có người cho rằng, từ khi có sử đến nay vị hiệp kh|ch đầu tiên là Tào Mạt, một viên tướng nước Lỗ thời Xu}n Thu. Theo “Thích kh|ch liệt truyện” trong s|ch “Sử ký”, T{o Mạt ba lần cầm qu}n nước Lỗ giao chiến với Tề đều thất bại, nước Lỗ bị ép phải cắt đất cầu hòa. Thế là tại hòa hội của hai vua Tề Lỗ “T{o Mạt cầm chủy thủ sấn tới trước Tề Hoàn Công, tả hữu của Hoàn Công không dám nhúc nhích. Hoàn Công hỏi: “Ng{i muốn gì?”, T{o Mạt nói: “Tề mạnh Lỗ yếu, Tề x}m lăng Lỗ thật l{ qu| đ|ng. Nay th{nh nước Lỗ đổ, đè xuống nước Tề, ngài hãy liệu đi”. Ho{n Công bèn hứa trả lại tất cả những đất đ~ chiếm của nước Lỗ. Được lời hứa ấy rồi, Tào Mạt ném chủy thủ, bước xuống đ{n, ngồi vào vị trí của quần thần, mặt quay về hướng Bắc, sắc mặt không hề thay đổi, lời lẽ vẫn bình thường.” Điều không thể gi{nh được nơi chiến trường với thiên binh vạn mã lại nhờ v{o c|i dũng cảm của một người đơn độc m{ gi{nh được. Tào Mạt đúng l{ hiệp khí ngất trời. Nhưng, chúng ta không thể chỉ căn cứ vào một hành vi hiệp nghĩa m{ x|c định thân phận hiệp khách của một con người. Tào Mạt l{ tướng quân, chứ không phải là một hiệp sĩ theo ý nghĩa x~ hội của từ n{y. Cũng như “Tiểu Huyền Tử” hai ng{n năm sau, tuy cũng “nghiện” hành hiệp nhưng rốt cuộc cũng không thể l{m được một trang hiệp khách mà chỉ có thể làm một ho{ng đế (Kim Dung - “Lộc Đỉnh ký”). Đại để, trong thời chế độ cắt đất phong hầu của nhà Chu giải thể, giai tầng du hiệp đ~ hưng khởi lên. Họ là những người tự do, không chịu sự ràng buộc của kỷ cương ph|p luật, không có tài sản, không có nghề nghiệp cố định, mình mang võ công chu du c|c nước, “lộ kiến bất bình bạt đao tương trợ” (giữa đường thấy sự bất bình thì rút đao ra giúp đỡ), cứu người qua khỏi hoạn nạn, giúp người yếu đuối trừ kẻ bạo cường. Học trò của Mặc Tử là những võ sĩ (cự tử), du thuyết c|c nước chư hầu, ngăn chặn can qua, lấy lý lẽ để thuyết phục, dùng uy phong để |p đảo, tuyên truyền cho chủ trương “phi công” (chống chiến tranh) v{ “kiêm |i” (yêu thương tất cả). Lại có một loại thích khách hi sinh thân mình, hành thích kẻ cừu địch để b|o đ|p }n tình tri ngộ. Chẳng hạn như Chuyên Chư giấu chủy thủ trong bụng cá, thừa cơ đ}m chết Vương Liêu trong bữa tiệc, giúp Hạp Lư lên ngôi vua nước Ngô. Dự Nhượng sau khi chủ là Trí Bá bị Triệu Tương Tử tiêu diệt đ~ thề rằng: “Kẻ sĩ chết vì người tri kỷ”, rồi “sơn mình giả làm hủi, nuốt than giả l{m người c}m” hai phen h{nh thích Triệu Tương Tử đều không thành, bất đắc dĩ phải xin Triệu Tương Tử giao cho tấm |o để đ}m n|t rồi vung kiếm tự tử. Nhiếp Chính nhận lời Nghiêm Trọng Tử h{nh thích Tướng quốc nước Hàn là Hiệp Lũy, việc xong rồi ch{ng “tự lột da mặt, móc mắt, mổ bụng” khiến người ta không nhận ra nhân dạng để khỏi liên lụy đến người th}n. Nhưng chị của chàng không thẹn là một liệt nữ, công nhiên đến nhận thi hài của em trai, dõng dạc nói rằng: “Lẽ nào tôi sợ bị bắt giết m{ để cho tên tuổi của hiền đệ tôi bị mai một.” Đến câu chuyện Kinh Kha hành thích Tần Thủy Ho{ng thì nh{ nh{ đều biết, lời ca khẳng kh|i “Gió hiu hiu sông Dịch lạnh tê, tr|ng sĩ ra đi không trở về” còn vọng m~i ng{n năm. Ngoài những “hiệp khách áo vải” còn có những “hiệp kh|ch khanh tướng”. Họ đều là thân thuộc của vua chúa, sống trong phú quí, mở rộng cửa để tiếp đón hiền sĩ trong thiên hạ, nổi tiếng khắp c|c nước chư hầu. Chẳng hạn như môn kh|ch của Mạnh Thường Quân ở nước Tề, có kẻ chỉ biết mấy trò “g{ kêu chó sủa” nhưng lúc nguy cấp lại giúp Mạnh Thường Quân thoát khỏi nước Tần. Môn khách của Bình Nguyên Qu}n nước Triệu là Mao Toại, tự giới thiệu mình, đem c|i dũng của kẻ thất phu mà buộc vua Sở phải xuất binh cứu Triệu. Tín Lăng qu}n ở nước Ngụy kết giao với người ở tầng lớp dưới, nhờ người đồ tể Chu Hợi “giấu cây chùy 40 c}n trong tay |o”, đập chết Tấn Bỉ, đoạt lấy quyền thống lĩnh đại qu}n nước Ngụy đến giải v}y th{nh H{m Đan cứu Triệu. Đó l{ thời đại hoàng kim của hiệp khách, hiệp kh|ch được các bậc khanh tướng công hầu khẳng định và kính trọng, nhiều người nổi danh trong thiên hạ. Dù họ gắng sức phục vụ vương công quý tộc nhưng họ cũng giữ được quyền tự do của mình, một lời không ưng ý có thể phủi |o ra đi. Chẳng hạn như Phùng Huyên l{m môn kh|ch nh{ Mạnh Thường Quân, mấy lần vỗ kiếm ca rằng “Kiếm d{i ơi trở về thôi” để Mạnh Thường Quân phải biệt đ~i mình. Dự Nhượng thì nói rằng: “Ta theo họ Phạm và họ Trung Hàng, họ đ~i ta như người thường cho nên ta b|o đ|p họ như b|o đ|p người thường. Còn Trí B| đ~i ta như bậc quốc sĩ nên ta b|o đ|p Trí B| với tư c|ch quốc sĩ.” Vương công quý tộc đối xử với họ như thế nào họ sẽ b|o đ|p như thế ấy. Trong thời kỳ động loạn cuối Tần, hiệp kh|ch c{ng có đất dụng võ. Trương Lương từng một mình hành thích Tần Thủy Ho{ng. Còn đại tướng của Hạng Vũ l{ Quý Bố thời trẻ là một vị du hiệp nổi tiếng. Lúc bấy giờ người nước Sở có câu ngạn ngữ: “Được ngàn lạng vàng không bằng được một tiếng “ừ” của Quý Bố”. Đầu đời Hán, phong khí du hiệp rất thịnh, “hiệp khách rất đông”. Ở quê hương của Nho gi|o l{ nước Lỗ, có hiệp sĩ Chu Gia nổi danh thiên hạ. Ông không ngần ngại mở cửa đón tiếp v{ lưu kẻ thù của Hán Cao Tổ là Quý Bố trong nh{, đồng thời nhờ người đến thuyết phục Hán Cao Tổ Lưu Bang x| tội cho Quý Bố, “đến khi Quý Bố được tôn quí, Chu Gia suốt đời không gặp Quý Bố nữa.” Ở Hà Nam có Kịch Mạnh “Tể tướng được ông ta mừng như thu phục được một nước địch”. Đứa cháu của Quách Giải ở đất Chỉ ỷ thế cậu mà làm càn bị người ta giết chết. Người chị của Quách Giải để th}y con bên đường để khích Quách Giải ra tay. Quách Giải rất hiểu đại nghĩa, phóng thích kẻ hung thủ đ~ nhận tội, nói rằng: “Con của chị có tội, thu liệm m{ chôn ch|u đi.” Đầu đời Hán ngoài những đại hiệp quang minh lỗi lạc, còn có không ít những tay “hiệp đạo” như họ Diêu ở phương Bắc, Chư Đỗ ở phương T}y, Cừu Cảnh ở phương Nam, Triệu Tha, Vũ Công Tử ở phương Đông. Nhưng Tư M~ Thiên cho rằng nhân cách của họ không bằng được những người như Chu Gia, Qu|ch Giải nên không nói về họ. Theo xu thế ngày càng hoàn thiện của chính thể chuyên chế phong kiến, tập trung quyền lực đến cao độ, không gian sinh tồn của võ hiệp ngày càng bị thu hẹp. Chẳng cần biết anh có “dùng võ để phạm cấm” hay không, chỉ cần anh “có tiếng là nhậm hiệp” thì đ~ l{ một sự thách thức đối với quyền uy thần thánh của kẻ thống trị, thì đ~ l{ một nhân tố bất an của xã hội “đại nhất thống”. Chỉ cần có tiếng là nhậm hiệp thì đủ “đ|ng bị tru diệt” rồi. Ở các thời H|n Văn Đế, Cảnh Đế, Vũ Đế, Th{nh Đế và thời Vương M~ng nhiếp chính, đều đ~ từng ra sức “bắt giết bọn hào hiệp”. Qu|ch Giải “có cha nhậm hiệp bị giết ở thời Hiếu Văn ho{ng đế”, dù Giải rất “cung kính, không d|m đi xe v{o cửa huyện nha” nhưng cuối cùng Giải vẫn bị chém đầu mà không rõ tội danh gì. Vì thế một số đại hiệp buộc phải giao thiệp với các bậc công hầu, phòng khi nguy cấp còn có “bùa hộ mệnh” (lời Lỗ Tấn). Thiên “Du hiệp truyện” trong s|ch “H|n thư” của Ban Cố ghi chép truyện của bốn vị hiệp khách rất nổi tiếng, họ l{m “Th|i thú Quảng H|n”, “Th|i thú H{ Nam”, “Trấn nhung đại do~n” hoặc đi lại với quan Trung thư lệnh, hoặc được gia ân phong hầu. Dù phong khí du hiệp có bị suy giảm dưới áp lực chính trị nhưng vẫn không bị thất truyền. Ở thời kỳ chính trị ổn định, hiệp khách bị phân tán, mai danh ẩn tích, không thể tụ tập, không thể tồn tại với tư c|ch một giai tầng trong xã hội. Nhưng ở những thời điểm thay triều đổi đại thì lại có “giang hồ hào khách nổi bốn phương”, đao kiếm của hiệp khách thay thế pháp lệnh quan phương. Nói c|ch kh|c, trong một xã hội mà hiệp kh|ch v{ đạo phỉ tụ họp hoành hành thì phần lớn là chính quyền đang lung lay, đó l{ tín hiệu dự b|o nguy cơ. Thời Tam Quốc, dưới trướng T{o Th|o có viên m~nh tướng Hứa Chử “dung mạo hùng tráng kiên nghị, sức mạnh tuyệt lu}n” mọi người đều gọi l{ “Chử hiệp kh|ch”. Những vũ sĩ do Chử chỉ huy “mấy chục người có công được phong hầu, hơn trăm người l{m đô úy, hiệu úy, đều là kiếm khách cả.” Cuối đời nh{ Tùy, c|c nh{ sư Chí Th|o, Huệ Dương... của chùa Thiếu L}m đ~ phò t| Lý Thế Dân, bắt sống cháu của Vương Thế Sung l{ Vương Nh}n Tắc, họ đều được phong hầu. Võ công Thiếu Lâm lừng danh thiên hạ. Bắt đầu từ thời này, việc nhiều nh{ sư, đạo sĩ trở thành một bộ phận của võ hiệp là một điều khiến người ta phải chú ý. Phong khí nhậm hiệp đời Đường lại thịnh hành, thanh thiếu niên phần nhiều cảm thấy làm du hiệp là vinh dự. Phong khí ấy có nhiều nguyên nhân xã hội. Từ Ngụy, Tấn đến Tùy, Đường, các dân tộc thiểu số từ phương Bắc không ngừng di cư đến Trung Nguyên, Hồ Hán có sự đồng hóa. Thói quen thô ph|c h{o phóng, thượng võ hiếu dũng của người phương Bắc truyền vào nội địa khiến cho phong khí nhậm hiệp lại bùng lên. Đời Đường thương nghiệp ph|t đạt, đô thị phồn vinh, khiến cho các hiệp khách ở nơi hang cùng ngõ hẻm cũng có đất dụng võ. Họ, hoặc bảo vệ thương nh}n, bảo vệ h{ng hóa trên con đường giao thương hoặc l{m đạo phỉ cướp hàng hóa của thương nh}n. Ở thời Trung, V~n Đường, phiên trấn cát cứ, tranh đoạt lẫn nhau đều ra sức nuôi thích kh|ch để khống chế và uy hiếp đối phương. Ở vào tình thế bên trong thì bị phiên trấn cát cứ, bên ngoài thì có ngoại tộc nhòm ngó, triều đình cũng có ý thức khuyến khích tinh thần thượng võ trong dân gian, lại không quá câu nệ trong việc đề bạt nh}n t{i văn võ v{o c|c chức vụ thừa tướng, tướng quân. Cuối đời Nguyên và thời Minh mạt Thanh sơ, m}u thuẫn dân tộc hai phen trở nên kịch liệt, lời kêu gọi đ|nh đuổi dị tộc, phục hưng H|n tộc vang dội khắp nơi. Giang hồ hào kiệt phần nhiều tham gia các cuộc khởi nghĩa chống qu}n x}m lược, trở thành bộ phận chủ lực của các lộ nghĩa qu}n. Dưới hai thời Minh Thanh, số d}n lưu vong tăng vọt, khiến cho các tổ chức bí mật phát triển. Xã hội bí mật này bao gồm hệ thống giáo môn do Bạch Liên giáo làm chủ thể và hệ thống hội đảng do Thiên Địa hội đứng đầu. Thành viên của xã hội bí mật rất hỗn tạp, mục tiêu công khai v{ h{nh động thực tế của họ nhiều khi rất xa nhau. Xã hội bí mật vừa có mặt đo{n kết hỗ trợ nhau, giúp người yếu đuối trừ kẻ bạo cường trong đó đôi khi cũng s|ng rực lên tinh thần hiệp nghĩa như thời cổ đại; nhưng lại vừa có nhiều kẻ trộm cắp cướp bóc, hoành hành thôn xóm, loại ấy thì chẳng khác gì bọn lưu manh thổ phỉ. Nếu nói xã hội bí mật đ~ đem lại cho võ hiệp một không gian sinh hoạt mới thì võ hiệp lúc n{y cũng đ~ biến tướng, không những hiệp, đạo (kẻ cướp) cùng sinh tồn m{ “hiệp” v{ “đạo” còn chuyển hóa lẫn nhau, nhiều người vừa “hiệp” vừa “đạo” [2] . Ở các thành viên của xã hội bí mật tinh thần nghĩa hiệp thường nhường chỗ cho tính hung bạo. Trình độ tổ chức của các thành viên xã hội bí mật có được nâng cao so với hiệp khách thời cổ nhưng thói quen sinh hoạt lưu lãng giang hồ vẫn không thay đổi, sự tranh đoạt tông phái trong võ lâm càng thêm ghê gớm. Dù bị triều đình nhiều phen tiễu phạt diệt trừ, nhưng x~ hội bí mật vẫn ph|t động nhiều cuộc khởi nghĩa, công kích m~nh liệt nền thống trị chuyên chế và uy hiếp bọn đế quốc thực dân và giáo hội ngoại quốc. Thời cận đại, vận nước sa cơ, l}m v{o nỗi nhục “dưa chia đậu n|t”. Chấn hưng võ thuật quốc gia, làm cho quốc gia giống nòi mạnh mẽ đ~ th{nh một tr{o lưu của thời đại. Năm 1910, hiệp khách Hoắc Nguyên Gi|p đ~ s|ng lập “Tinh võ qu|n” ở Thượng Hải, mở ra con đường đi v{o đại chúng của võ thuật tinh anh. Từ năm 1928, lập nên một “đả lôi đ{i” (đ{i tỉ võ) có tính toàn quốc, các nhà võ thuật nổi tiếng như Hoắc Nguyên Gi|p, Vương Tử Bình, Hàn Mộ Hiệp, S|i Long V}n, Tưởng Hạo Tuyền v.v... đ~ đ|nh bại các lực sĩ ngoại quốc ngạo mạn. Cuộc tỉ võ mang tính quốc tế đương thời khiến cho đến bà già con trẻ cũng vui mừng, đem lại cho con người Trung Quốc chút an ủi tinh thần trong cảnh phải chịu tủi nhục đ~ mấy mươi năm. Ở thời cận đại, hiệp kh|ch cũng tham gia phong tr{o c|ch mạng dân tộc dân chủ. Năm 1900, trong quân khởi nghĩa, hội đảng ở vùng Tương, Ngạc (Hồ Nam Hồ Bắc) là bộ phận chủ lực. Đ}y l{ cuộc thử nghiệm đầu tiên của sự liên kết giữa những trí thức tiến bộ với giang hồ h{o kh|ch để cùng mưu nghiệp lớn. Đồng Minh hội do Tôn Trung Sơn l~nh đạo cũng đ~ nhiều lần ph|t động khởi nghĩa vũ trang có sự tham gia của các hội đảng. Sau khi khởi nghĩa Vũ Xương bùng nổ, tỉnh Hồ Nam độc lập, Tiêu Đạt Phong, thủ lĩnh của Hồng Giang hội thậm chí còn l{m đến đô đốc, khiến Hồ Nam một thời đ~ th{nh trung tâm của võ hiệp toàn quốc. Đảng cách mạng còn có nhiều vị “hiệp khí ngất trời chấn chín ch}u”, như Ngô Việt vì h{nh thích 5 đại thần của nh{ Thanh m{ xương tan thịt n|t, như Từ Tính Lân và “Gi|m hồ nữ hiệp” Thu Cẩn thề tiếp bước Kinh Kha, giết tên Tuần vũ An Huy Ân Minh v.v... Thế nhưng sau khi đảng cách mạng (tức Quốc D}n Đảng) đ~ nắm được chính quyền thì lại trở mặt, trấn áp hội đảng. Tại c|c căn cứ địa cách mạng ở nông thôn, đối với các hội đảng của d}n nghèo, đ~ thực hiện phương ch}m “cô lập thủ lĩnh, giành lấy quần chúng, giải thể tổ chức” v{ biên chế lại bộ đội lục lâm, khiến họ trở thành lực lượng vũ trang của cách mạng. Mao Trạch Đông còn th}n tự đến cải tạo bộ đội lục lâm của Viên Văn T{i v{ Vương T| ở Tỉnh Cương Sơn, hợp hai cánh qu}n n{y th{nh đoàn 32 của qu}n đo{n 4 Hồng quân Trung Quốc đồng thời chấn chỉnh thói quen lưu manh v{ tư tưởng “giặc cỏ” của họ. Sau khi đường lối của Vương Minh chiếm địa vị thống trị trong Đảng Cộng sản Trung Quốc, các tổ chức hội đảng như “Đại đao hội”, “Huynh đệ hội” cũng bị xếp v{o đối tượng bị thanh trừ, Vương T|, Viên Văn T{i đều bị sát hại. Ở thành phố, Đảng Cộng sản ph|i đảng viên vào các bang hội hoạt động. Trong thời gian vận động công nhân ở Thượng Hải, Lý Lập Tam đ~ từng kết thân với một vị thủ lĩnh của bang hội ở gần Tân Giáp Kiều, kết quả l{ trong “phong tr{o ngũ tạp” (phong tr{o 30 th|ng 5), những người bảo vệ Lý Lập Tam đều l{ đồ đệ của “bang xanh”. Trong cuộc tàn sát của Quốc d}n đảng trước khi rút khỏi Thượng Hải, thủ lĩnh của bang hội l{ Ho{ng Kim Vinh đã yểm hộ và tiếp tế cho một số đảng viên Cộng sản ở dưới hầm bí mật. Vì thế, mặc dù họ đ~ từng phạm trọng tội nhưng về sau vẫn được sự khoan hồng của chính phủ. Từ sau ng{y nước Cộng hòa Nh}n d}n Trung Hoa được thành lập, thì có chính sách rõ r{ng đối với bang hội, phần lớn thành viên của các bang hội bí mật đ~ đến cơ quan công an tuyên bố rút khỏi tổ chức bang hội; những bang hội có vũ trang v{ bọn thổ phỉ thì bị đại quân tiễu trừ. Từ đó, vấn đề các bang hội v{ d}n lưu vong đ~ tồn tại lâu dài trong xã hội Trung Quốc, đ~ căn bản được giải quyết. Võ hiệp v{ anh em sinh đôi của nó là thổ phỉ, vật ký sinh của nó l{ lưu d}n đều bị tiêu vong. Sự tiêu vong của võ hiệp có nguyên nhân lịch sử sâu sắc. Võ hiệp vốn là sản phẩm của văn minh nông nghiệp. Sự ra đời của nó trước hết là do mâu thuẫn giữa dân số và ruộng đất. Trong điều kiện kinh tế tự nhiên, dân số không được khống chế, trong thời bình dân số lại tăng nhanh, m{ chế độ ruộng đất phong kiến tất nhiên dẫn đến sự tập trung ruộng đất vào tay một số ít địa chủ; dù triều đình có ban bố một số chính s|ch để hạn chế việc kiêm tính ruộng đất cũng không thể ngăn chặn được một thiểu số địa chủ chiếm đoạt rất nhiều ruộng đất, đa số nông dân không có ruộng cày. Dân số tăng v{ nạn kiêm tính ruộng đất đến một độ nhất định, tất nhiên sẽ có hàng loạt nông dân không ruộng đất trở thành những kẻ lưu vong; họ lưu lạc giang hồ tìm lối thoát. Những lưu d}n ấy, có người thì bán sức lao động, có người thì buôn b|n ngược xuôi, có người đi ăn m{y, có người thì làm kẻ cướp; loại giỏi võ công thì giúp người yếu đuối, trừ kẻ cường bạo, hành hiệp trượng nghĩa. D}n lưu vong l{ nguồn gốc chủ yếu của võ hiệp. Nếu không giải quyết vấn đề lưu d}n thì võ hiệp vẫn còn tồn tại. Thứ nữa, kinh tế tiểu nông ở nông thôn và thủ công nghiệp ở thành trấn đều phân tán, như đống cát rời, khiến cho bất kỳ vương triều phong kiến n{o cũng không thể xây dựng được một cơ sở chính quyền vững chắc, không có cách gì khống chế được những người tiểu sản xuất. Điều ấy khiến cho “lưới trời lồng lộng, thưa v{ dễ lọt” (thiên võng khôi khôi, sơ nhi hữu lậu) [3] từ đó m{ khiến cho võ hiệp có thể “dùng võ lực mà phạm cấm lệnh”. Thứ ba là: trong xã hội tông pháp ở Trung Quốc, nh}n lu}n cao hơn ph|p luật, người ta quen với ân o|n riêng tư không muốn hoặc không biết thủ tục tố tụng ở công đường, pháp lệnh của quốc gia thường chỉ là hình thức, chỉ có đao kiếm của hiệp khách là không từ gian khổ, dám vùng lên để dẹp bất bình. Thời cận đại, ở Trung Quốc bắt đầu tiến trình công nghiệp hóa, cơ sở xã hội đ~ có những biến đổi sâu sắc, khí số võ hiệp đ~ tận. Trước hết, văn minh công nghiệp đ~ dần dần thu hút lao động dư thừa ở nông thôn v{o c|c công xưởng, từ đó m{ tạo ra một lối thoát cho dân lưu vong. Chỉ cần không còn d}n lưu t|n thì võ hiệp không còn cơ sở tồn tại, dần dần sẽ tự tiêu vong. Nhưng chúng ta cũng không nên vội lạc quan. Vấn đề d}n lưu t|n cũng có thể lại xuất hiện. Cuối thế kỷ XX, toàn Trung Quốc có khoảng 300 triệu lao động dư thừa, lìa xa ruộng đất, ở thành phố cũng có nạn thất nghiệp. Giải quyết sao cho thỏa đ|ng vấn đề này, không để xuất hiện d}n lưu t|n l{ một thách thức rất lớn đối với Trung Quốc. Nếu không giải quyết được vấn đề d}n lưu t|n v{ thất nghiệp thì hiệp khách và kẻ cướp sẽ chẳng phải là câu chuyện truyền kỳ l{m rung động lòng người nữa mà sẽ làm rối loạn đời sống của chúng ta. Lại nữa, nền kinh tế hiện đại đ~ l{m thay đổi tình trạng đống cát rời của sản xuất nhỏ, sản xuất v{ đời sống của con người đều được xã hội hóa cao độ, chính đảng và chính trị hiện đại đ~ quản lý được đến tận các tế bào của xã hội. Hai nhân tố n{y đ~ khiến cho Trung Quốc xây dựng được một chính quyền đủ mạnh, có thể kịp thời dập tắt những hành vi “dùng võ lực để phạm cấm lệnh”, thậm chí có thể khiến người ta không nghĩ đến chuyện mạo hiểm nữa. Ba là việc xây dựng pháp chế dân chủ đ~ khiến người ta có ý thức tôn trọng pháp luật, }n o|n riêng tư cũng có thể đến ph|p đình, người yếu kẻ mạnh đều bình đẳng trước pháp luật, đều được pháp luật bảo vệ và chế ước. Những hành vi vung kiếm báo oán trả }n đ~ dần dần không còn điều kiện. Hơn nữa, theo đ{ ph|t triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, đao kiếm đ}u phải l{ đối thủ của vũ khí hiện đại, c|i dũng của kẻ thất phu đ~ không còn sức mạnh như xưa nữa. 2. Trong văn học Võ hiệp l{ hình tượng nhân vật trong tiểu thuyết võ hiệp, là nhân vật chính trong “thế giới giang hồ” được hư cấu nên trong tác phẩm, cũng l{ tượng trưng cho một loại nhân cách đặc thù. Trong lịch sử Trung Quốc thực có một loại người gọi l{ “võ hiệp” đ~ trở thành nguyên mẫu cho những câu chuyện của sáng tác tiểu thuyết võ hiệp. Các tiểu thuyết gia ngoài những nguyên mẫu vốn có trong xã hội, lại càng hứng thú trong việc hư cấu nên những hình tượng nhân vật đối kháng với thế giới quan phủ; họ sống trong “thế giới thứ hai” - thế giới giang hồ. Đọc tiểu thuyết võ hiệp có thể thấy: hình như ở Trung Quốc luôn tồn tại một giai tầng võ hiệp (tức hiệp kh|ch) đông đảo. Các hiệp khách này chỉ h{nh động theo quy luật giang hồ, là loại dân tiêu dao ngoài pháp luật “Thiên tử hô lai bất thượng thuyền” [4] (Vua gọi lên thuyền không nhúc nhích). Lại tựa hồ như một khi họ đ~ tuốt kiếm là có thể trừ bạo an lương, tha hồ báo ân báo oán, thậm chí có thể quyết định cả sự tồn vong của quốc gia dân tộc. Hiển nhiên đó chẳng qua chỉ là sự khoa trương phóng đại mức độ tự do và sức mạnh của hiệp khách. Trong một số tiểu thuyết võ hiệp kiểu thần quái, hiệp kh|ch còn được miêu tả thành những người giỏi pháp thuật, những siêu nhân kiểu phù thủy, “kiếm tiêu”. Trong truyện “Tỉ kh}u ni” s|ch “Sưu thần hậu ký” kể câu chuyện rằng: Khi quan Đại tư m~ của nhà Tấn là Ho{n Ôn }m mưu tiếm ngôi, Tỉ khâu ni liền phanh |o vung đao, tự mổ bụng, kéo ruột ra, rồi lại tự chặt đầu phanh th}y để cảnh cáo Hoàn Ôn rằng nếu y ph|t động chính biến thì tất sẽ gặp đại họa. Xong việc, Tỉ khâu ni lại lành lặn như thường, khiến người ta phải lè lưỡi kinh sợ. Trong thời cận địa, bộ tiểu thuyết trường thiên “Thục trung kiếm hiệp truyện” của Hoàn Châu lâu chủ, hiệp khách có thể không ăn m{ không đói, không mặc mà không lạnh, đường đi vạn dặm mà chỉ như trong gang tấc, trong khoảng nói cười đ~ có thể từ mặt đất lên đến thiên đình. Những nhân vật như thế chẳng còn chút bóng dáng gì của người trần thế. Võ hiệp thực có trong lịch sử là một chuyện, võ hiệp trong tiểu thuyết lại là một chuyện khác. Một đằng là vốn có, một đằng là chuyển hóa, có giống mà có khác, thậm chí cách nhau trời vực. Đó l{ điều chúng ta cần phải nắm vững khi đọc tiểu thuyết võ hiệp. Từ “Du hiệp liệt truyện” trong s|ch “Sử ký” của Tư M~ Thiên về sau, trải qua sự hư cấu của c|c t|c gia văn học võ hiệp, hiệp kh|ch đ~ trở thành một dạng kết tinh văn hóa truyền thống Trung Quốc v{ “liệt căn tính của dân tộc” bị loại bỏ. Tính cách của hiệp sĩ trong tiểu thuyết thường có những đặc điểm cơ bản sau: 1) Có tinh thần dũng cảm, thượng võ. Chốn giang hồ phong ba hiểm |c, chưa nói chuyện trừ bạo an lương, chỉ riêng việc hiệp khách có thể an thân lập mệnh cũng đ~ không dễ dàng chi. Hiệp khách biểu hiện một tinh thần đấu tranh chống định mệnh, khí phách hào hùng lẫm liệt. Trong tiểu thuyết văn ngôn “Triều dã thiêm tải” đời Đường, kể chuyện Trù thiền sư lúc nhỏ xuống tóc làm chú tiểu, vì thể chất yếu đuối mà bao phen bị bắt nạt. Chú bé không cam chịu nhục, v{o điện đường ôm chặt Kim Cương trong 6 ng{y liền, được Kim Cương ban cho thần lực. Chú bé nói với mọi người: “C|c vị cứ bắt nạt tôi. Tôi có sức mạnh, e rằng các vị không địch nổi đ}u”. Mọi người đến kéo tay, quả là gân cốt mạnh vô cùng, đều kinh ngạc. Chú bé nói: “Tôi thử cho các vị xem”. Rồi v{o điện đường, nhảy lên đi như bay trên tường, rồi lại húc đầu vào xà ngang mấy lần, n}ng pho tượng nặng mấy ngàn cân, quyền cước nhanh và mạnh phi thường. Những kẻ trước đ}y bắt nạt chú bé đều quì mọp không dám ngẩng lên nhìn. Ở đời lắm sự bất bình. Ngay đến người ở nơi cửa Phật cũng không thể chỉ lấy tấm lòng từ bi để cảm hóa kẻ ác mà phải khổ công luyện võ, dùng sức mạnh để chống kẻ bạo tàn. Rất nhiều tiểu thuyết võ hiệp đời sau có mô típ: người tốt chịu oan, buộc phải tìm thầy học võ, cuối cùng luyện thành võ công tuyệt thế, báo thù rửa hận, lừng lẫy ở đời. “Thiền trượng đả khai nguy hiểm lộ Giới đao sát tận bất bình nhân” [5] (Thiền trượng mở thông đường nguy hiểm Giới đạo trừ hết kẻ bạo tàn) “Biết là không thể l{m được mà vẫn cứ l{m”, đó l{ quan niệm chung của những trang hiệp khách. Họ không cam chịu làm kẻ yếu hèn, quyết chí làm kẻ mạnh, cả về võ công cả về tinh thần. C|i dũng của hiệp khách khác với sự khát máu của kẻ vũ phu tầm thường. Trong “Lưu hầu luận”, Tô Thức nói: “Người hào kiệt ng{y xưa, tất có khí tiết hơn người. Người đời có điều không thể nhẫn được, thất phu bị nhục bèn tuốt kiếm đứng lên, như thế chưa đ|ng gọi l{ dũng. Người đại dũng thì bỗng dưng l}m nguy m{ không sợ, vô cớ bị ức hiếp mà không giận, người như thế có khả năng tự kiềm chế rất mạnh, chí hướng rất cao xa”. Kinh Kha l{ một vị đại hiệp có khí tiết hơn người như thế. Khi chàng và Cáp Nhiếp luận kiếm mà sinh tranh chấp, bèn từ biệt m{ đi. Khi tranh luận với Lỗ Câu Tiễn, Lỗ Câu Tiễn mắng chàng, Kinh Kha cũng lẳng lặng bỏ đi. Sự khiêm cung nhường nhịn ở đ}y cũng dũng cảm cường liệt như khi đối diện với Tần Thủy Hoàng - mở hết bản đồ, hiện ra chủy thủ. Có người lo lắng rằng: tiểu thuyết võ hiệp sẽ khiến thanh thiếu niên thích ẩu đả, “chẳng cần biết trắng đen xanh đỏ, đ|nh trước nói sau”, như thể là hiểu nhầm tinh thần hiệp khách. 2) Có niềm cảm thông sâu sắc đối với con người. Có “võ” m{ không có “hiệp” không đ|ng gọi l{ “võ hiệp”. Thượng võ mà trọng nghĩa mới là hình tượng võ hiệp chân chính. Hiệp khách vốn mang truyền thống nhiệt tình, “lộ kiến bất bình, bạt đao tương trợ” (giữa đường thấy sự bất bình liền rút đao ra giúp đỡ), chủ trương “người thiên hạ phải lo việc thiên hạ”. Trong “Tam hiệp ngũ nghĩa” có một đoạn rằng: “Người hành hiệp trượng nghĩa, đ}u cũng l{ nh{, tùy ngộ nhi an. Không phải họ cố tình gây sự, mà chỉ vì thấy chuyện bất bình, không nhịn được, coi như đó l{ việc của mình, như thế mới không thẹn với chữ “hiệp”. Trong “Thần điêu hiệp lữ”, Qu|ch Tĩnh đ~ nói: “Chúng ta luyện tập võ công để l{m gì? Để hành hiệp, cứu người trong lúc khốn cùng là bổn phận của chúng ta. Chỉ mong con (Dương Quá) nhớ kỹ tám chữ này - “Vì nước vì dân, ấy l{ đại hiệp” sau n{y vang danh thiên hạ, trở thành vị đại hiệp ch}n chính được muôn d}n ngưỡng mộ.” La Gia Lu}n đ~ định nghĩa: “Hiệp là niềm cảm thông vĩ đại”. Không nhất thiết có võ công mới l{ “hiệp”, chỉ cần có lòng cảm thông, coi trọng nghĩa khí thì xứng đ|ng l{ hiệp, Chu Gia [6] chính là một vị “văn hiệp” như thế. 3) Hành vi tự do cao độ, tính cách hết sức chân thật. Hiệp khách không chấp nhận pháp lệnh của quan phương v{ sự ràng buộc của lễ nghi thế tục, dám nói dám làm, dám yêu dám ghét, tha hồ báo oán báo ân [7] . Họ đ}u sợ sự chê bai của người đời, mình làm mình chịu. Trong “Thần điêu hiệp lữ”, Tiểu Long Nữ v{ Dương Qu| từ tình thầy trò chuyển thành tình yêu, Dương Qu| ngang nhiên tuyên bố trước mọi người: “C|c người có chém tôi ngàn nhát vạn nhát, tôi vẫn lấy n{ng”. “Tôi không sai!” Trong “Tiếu ngạo giang hồ”, Lệnh Hồ Xung nhận lời trăng trối của Định Nh{n sư th|i, đem thân nam tử đảm đương tr|ch nhiệm “Chưởng môn sư huynh” của phái Hằng Sơn, to{n những nữ ni, “L{m một việc chưa từng có trong võ l}m”. Những bậc trí giả trong võ l}m như Phương Chứng đại sư, Xung Hư đạo trưởng không những không coi đó l{ việc đại nghịch bất đạo mà còn khen ngợi Định Nh{n sư th|i suy nghĩ s}u xa, có tuệ nhãn biết người. Hiệp kh|ch đều là những con người chí tình chí tính, không che đậy khuyết điểm và sai lầm của mình, không “khẩu Phật t}m x{”. Trong “Đa tình kiếm khách vô tình kiếm”, Mai Đại tiên sinh muốn dùng thuốc giải để đổi lấy bức họa “Thanh minh thượng h{ đồ” của gia đình Lý Tầm Hoan. Nghe nói Lý Tầm Hoan đ~ tặng bức họa ấy cho người khác rồi, bèn nói luôn mười mấy lời “đ|ng tiếc”, rồi đứng lên bảo bọn người hầu dẹp tiệc rượu. Mai Nhị tiên sinh chau m{y nói: “Không có “Thanh minh thượng h{ đồ” thì không thể uống rượu sao?” Mai Đại tiên sinh cười nhạt nói: “Rượu của ta vốn không định đ~i kh|ch”. Nghe vậy Lý Tầm Hoan không những không giận m{ còn cười. Chàng cảm thấy con người này tuy tự ái, hẹp hòi nhưng chất phác thật th{, ít ra thì cũng không phải là ngụy quân tử. Trong đ|m hiệp khách không hiếm kẻ d|m l{m “ch}n tiểu nh}n” như Mai Đại tiên sinh. “Ch}n tiểu nh}n” tuy chẳng hay gì nhưng còn hơn xa những kẻ “ngụy quân tử” luôn mồm nh}n nghĩa đạo đức mà lòng dạ gian manh. 4) Phát huy tối đa tiềm năng của con người. Đ}y l{ một đặc trưng của hiệp khách, rất hấp dẫn người đọc. Thông thường, hiệp khách có hai mục tiêu lớn: tuyệt đỉnh võ công và tuyệt đỉnh nhân sinh. Hai cảnh giới tuyệt đỉnh này chỉ có thể đạt được khi con người bị đẩy đến khốn cảnh bên bờ vực thẳm. Tôn Tử nói: “Đặt vào chỗ mất rồi mới còn, h~m v{o đất chết mới tìm ra đường sống.” Khi hiệp khách bị đẩy đến bên bờ vực thẳm vạn trượng, đứng trước địch thủ có ưu thế tuyệt đối, võ công luyện được đ~ trở nên bất lực, nhưng nếu có thể siêu việt ranh giới sinh tử, thì trong trạng thái tuyệt lộ ấy, trí tuệ, võ công đột nhiên được ph|t huy đến tuyệt đỉnh. Trong “Bình tung hiệp ảnh”, Trương Đan Phong bị khốn trong hang, không còn hi vọng sống sót trở về, chàng bèn mở “Huyền công yếu quyết” ra đọc, không nghĩ gì đến chuyện sống chết nữa. Thế là ở trong hang đ| ấy chàng luyện tập theo yếu quyết trong bộ kỳ thư ấy v{ đạt được nội công thượng thừa. Quả nhiên ch{ng đ~ luyện được võ công cái thế trong khốn cảnh ấy. Đồng thời với sự truy cầu tuyệt đỉnh võ công, hiệp kh|ch cũng dần dần tham ngộ được tuyệt đỉnh của nhân sinh. Trong “Thần điêu hiệp lữ”, Dương Qu| trước sau đ~ học võ công của các phái Toàn Chân, Cổ Mộ, cho đến bí truyền của T}y Độc, Đông T{, Bắc C|i nhưng m~i đến khi bị chặt đứt c|nh tay, được sự giúp đỡ của thần điêu ch{ng mới lãnh hội được chân đế kiếm thuật của Độc Cô Cầu Bại, độc s|ng nên “Ảm nhiên tiêu hồn chưởng”, đạt đến tuyệt đỉnh võ học. Đồng thời cảnh giới tư tưởng của ch{ng cũng thăng hoa, từ chỗ vừa chính vừa t{ đến chỗ từ bỏ ân oán cá nhân, cùng Tiểu Long Nữ xả th}n vì nước, đạt đến đỉnh cao của đạo nghĩa hiệp sĩ. Nietzsche [8] đ~ từng nói rằng: “Chỉ có thể tìm thấy siêu nhân ở nơi con người phải vượt qua những trở lực cực kỳ to lớn.” v{ “Bí quyết của thành quả lớn lao và hạnh phúc tối cao của đời sống là sống trong hiểm cảnh.” Phải trải qua sự sống chết, tai nạn, xung đột, tội nghiệt... thì người hiệp khách mới ngộ được ý vị của cuộc đời. Trong đoạn kết thúc của tác phẩm “Đ{o hoa truyền kỳ” (thuộc bộ “Hiệp đạo Sở Lưu Hương”) có hai c|nh cửa lớn giống hệt nhau, một cánh mở thông vào cuộc sống trần thế, một cánh mở thông đến bờ vực sâu vạn trượng thăm thẳm, l{m sao để chọn đúng c|nh cửa mở vào sự sống? “Sở Lưu Hương bỗng mỉm cười, mở một cánh cửa - cánh tay chàng rất quả quyết. Trong khoảnh khắc ấy, ch{ng đ~ trở lại với Sở Lưu Hương vốn có. Chàng mở rộng cánh cửa, bước ra. Chàng đ~ mở cánh cửa nào vậy? Không ai biết được. Nhưng điều ấy không quan trọng, bởi vì ch{ng đ~ đến, đ~ sống, đ~ yêu. Dẫu là thế n{o, đối với bất kỳ ai, như thế cũng l{ đủ rồi.” Chính như một c}u trong “Thần điêu hiệp lữ”: “Đời người đ~ đến thế, còn đòi hỏi gì nữa?” Với tư c|ch l{ một thứ phù hiệu của văn hóa, hiệp khách là một c}u đố, như một b{i thơ m~i m~i không đo|n nổi, nói không cùng, mà nếu nói rõ ra được thì lại trở thành tầm thường. Từ “Thích kh|ch liệt truyện” v{ “Du hiệp liệt truyện” dưới ngòi bút của Tư M~ Thiên đến truyền kỳ đời Đường, từ tiểu thuyết võ hiệp cựu ph|i đến tiểu thuyết võ hiệp tân phái, từ Lương Vũ Sinh đến Kim Dung, Cổ Long, Ôn Thụy An, trên cơ sở những đặc điểm chung ấy, hình tượng hiệp khách lại rất khác nhau. Chẳng hạn như quan hệ giữa hiệp khách và quan phủ, ở rất nhiều triều đại tiểu thuyết võ hiệp đ~ nhấn mạnh sự vượt qua chính trị hiện thực của hiệp kh|ch. Trong “Tiếu ngạo giang hồ”, Định Dật sư th|i đ~ nói rất hay rằng: “Người học võ chúng ta, lấy tinh thần hiệp nghĩa l{m trọng, tiêu dao tự tại chốn giang hồ, nhọc lòng với việc quan l{m gì?” Nhưng trong tiểu thuyết võ hiệp công án thời Vãn Thanh (cuối đời Thanh), hiệp khách phần đông lại “thấy rõ lục lâm chẳng tốt đẹp gì”, đầu hàng quan phủ, cam t}m l{m chó săn chim mồi quay mũi đao trở lại trấn áp anh em kết nghĩa trên giang hồ. “Thủy hử truyện” ở vào khoảng giữa của hai loại ấy. Các hảo h|n Lương Sơn Bạc trước làm hiệp đạo, về sau lại nhận chiêu an. Lại chẳng hạn như th|i độ đối với tình yêu và tình dục cũng có sự khác nhau. Triệu Khuông Dẫn, trong “Tống Thái Tổ thiên lý tống Kinh Nương”, hết lần đến lần khác cự tuyệt một cách thô bạo tình yêu của Kinh Nương, chỉ sợ làm hoen ố phong độ hiệp sĩ cao khiết của mình; đó l{ một hình tượng “thanh t}m quả dục” tiêu biểu. Còn những nhân vật như Lục Tiểu Phượng, Sở Lưu Hương dưới ngòi bút Cổ Long thì lại là những “tình hiệp” phong lưu rất yêu nữ sắc, vung vãi tình yêu, chẳng hề chung tình với ai. Trong tác phẩm của ba đại gia tiểu thuyết võ hiệp tân phái, tính cách của hiệp khách trong tác phẩm của mỗi nh{ văn đều có đặc sắc riêng. Hiệp kh|ch dưới ngòi bút Lương Vũ Sinh đầy tính chất lý tưởng, có phần luân lý hóa, nhân vật chính tà phân biệt rạch ròi, tính c|ch đơn nhất. Dưới ngòi bút Kim Dung thì hiệp khách không có ranh giới tuyệt đối giữa chính và tà, nhân vật n{o cũng có tính c|ch phức tạp, thường là vừa chính vừa t{; chính như lời của Trương Tam Phong trong “Ỷ thiên Đồ long ký”: “Hai chữ chính tà vốn rất khó phân biệt. Đệ tử chính phái mà tâm thuật bất chính thì chỉ là kẻ t{ |c; người trong tà phái chỉ cần một lòng hướng thiện thì lại thực sự là chính nhân quân tử.” Kim Dung v{ Lương Vũ Sinh đều phú cho nhân vật hiệp khách của mình một nội h{m văn hóa xã hội thâm hậu, thậm chí nhiều cao thủ võ l}m được viết thành nhân vật chính trị. Cổ Long thì ho{n to{n kh|c. Hình tượng hiệp kh|ch dưới ngòi bút Cổ Long không có bối cảnh lịch sử và bối cảnh chính trị, thậm chí chẳng có mấy nội dung xã hội, chỉ chú trọng thể nghiệm sự vi diệu và phức tạp của nhân sinh, trong những xung đột gay gắt đ~ thể hiện nhân cách cao quý và thế giới nội tâm phong phú của hiệp khách. Tính cách của hiệp sĩ trong tiểu thuyết võ hiệp vốn có nguồn gốc từ đời sống hiện thực, lại thêm tiếp nhận một cách sâu sắc ảnh hưởng của những câu chuyện anh hùng hiệp nữ trong s|ch xưa, như “Đ{o viên kết nghĩa”, “Ngõa Cương uy phong” (trong “Tùy Đường diễn nghĩa”), “Lương Sơn tụ nghĩa” (trong “Thủy hử”). Những câu chuyện n{y được truyền tụng rộng rãi trên chốn giang hồ v{ trong d}n gian, đ~ trở thành những tấm gương của lòng trung nghĩa, tạo thành những tổ chức kết xã bí mật trong d}n gian. Đương nhiên hình tượng hiệp khách trong tiểu thuyết võ hiệp tân phái có nhiều c|ch t}n nhưng không phải là không ít nhiều mang bóng dáng của hiệp kh|ch trong văn học truyền thống. [1] Hàn Phi tử: Tên là Hàn Phi (khoảng 280-233 TCN), nh{ tư tưởng nổi tiếng thời Chiến Quốc, tập đại thành của phái Pháp gia cổ đại Trung Quốc; ông là tác giả bộ sách "Hàn Phi tử". [2] Như Mạc Ngôn nói rằng: "Tổ tiên tôi vừa là anh hùng vừa là kẻ cướp". [3] Nguyên văn trong s|ch "L~o tử": "Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu" (lưới trời lồng lộng thưa m{ không lọt), người viết đ~ cố ý chữa chữ "bất" thành chữ "hữu" để diễn đạt tình trạng võ hiệp "lọt lưới" pháp lệnh phong kiến. [4] Thơ Đỗ Phủ - “Ẩm trung b|t tiên ca” có một đoạn viết về Lý Bạch: Lý Bạch một hũ thơ trăm b{i, Qu|n rượu Trường An cứ nằm dài. Vua gọi xuống thuyền không nhúc nhích, Tự xưng kh|ch rượu chốn tiên đ{i. [5] Hai câu thơ nói về Lỗ Trí Th}m trong “Thủy Hử” (Thiền trượng mở thông đường nguy hiểm Giới đạo trừ hết kẻ bạo tàn) [6] Chu Gia: nhân vật trong "Du hiệp liệt truyện", sách Sử ký của Tư M~ Thiên. [7] Nguyên văn: Kho|i ý }n cừu [8] Nietzsche, F.W. (1844-1900): Triết gia người Đức. Tác phẩm có ảnh hưởng sâu rộng nhất là những “Zarathusttra đ~ nói như thế (1883), đưa ra mẫu người “siêu nh}n” (superman) để thay thế mẫu người đạo đức truyền thống. CHƯƠNG II: THẾ GIỚI GIANG HỒ Giang hồ là từ chỉ thế giới văn học mang sắc th|i lý tưởng có nguồn gốc là xã hội bí mật trong lịch sử Trung Quốc diễn biến m{ th{nh. Nó l{ môi trường hoạt động chủ yếu của hiệp khách. Không có thế giới giang hồ thì không có hiệp khách và càng không có tiểu thuyết võ hiệp. “Giang hồ” vốn là một từ để chỉ sông Trường Giang và hồ Động Đình, cũng phiếm chỉ tam giang ngũ hồ. Đ}y l{ một từ địa lý bình thường, không có nghĩa gì kh|c. Trong “Hóa thực liệt truyện”, s|ch “Sử ký” của Tư M~ Thiên, có nói Phạm L~i “cưỡi thuyền lênh đênh trên giang hồ”, chữ “giang hồ” ở đ}y chỉ ngũ hồ. Thiên “Việt ngữ - hạ” trong “Quốc ngữ” cũng nói Phạm L~i “cưỡi thuyền nhẹ lênh đênh ngũ hồ, không biết cuối cùng ra sao.” Cảm khái về việc Phạm Lãi siêu nhiên thoát tục, người đời sau lại bàn chuyện “giang hồ”, rất có thể l{ đ~ không còn là một từ địa lý chỉ tam giang ngũ hồ nữa. Thơ Cao Thích có c}u: Thiên địa Trang Sinh mã Giang hồ Phạm Lãi châu (Đất trời là ngựa Trang Sinh Giang hồ Phạm L~i lênh đênh l| thuyền) Thơ Đỗ Phủ có câu: Dục ký giang hồ khách, Đề huề nhật nguyệt trường. (Muốn làm giang hồ khách, Rong ruổi th|ng ng{y chơi) Thơ Đỗ Mục thì lại viết: Lạc phách giang hồ tái tửu hành. Sở yêu tiêm tế chưởng trung khinh. (Chuếnh choáng giang hồ lệch bước say, Trong tay gái Sở múa như bay...) Ở trong những trường hợp n{y “giang hồ” đ~ h{m nghĩa ph}n biệt với triều đình, tức là “cõi nh}n gian” cũa ẩn sĩ v{ bình d}n. Trong tiểu thuyết hào hiệp đời Đường đ~ xuất hiện từ “giang hồ” v{ coi đó l{ nơi hoạt động của hiệp kh|ch. Như “Tạ Tiểu Nga truyện” kể rằng: “Th}n phụ của Tiểu Nga giàu có, thường chở hàng chung với người họ Đo{n, đi lại trên giang hồ”. Nữ hiệp Hồng Tuyến trong “Hồng Tuyến truyện” tự xưng rằng: “Kiếp trước ta l{ đ{n ông, rong ruổi chốn giang hồ, đọc sách “Thần nông dược”, cứu tai nạn cho người đời.” Chữ “giang hồ” trong tiểu thuyết đời Đường h{m nghĩa chốn dân gian, xa cách triều đình v{ quan trường m{ chưa được miêu tả cụ thể. Trong tiểu thuyết thoại bản thời Tống Nguyên, chữ “giang hồ” đ~ gắn liền với việc cướp bóc, thuốc mê và bánh bao nhân thịt người. Trong truyện “Uông Tín Chi liều chết cứu nh{” kể “Uông Thế Hùng ẩn náu chốn giang hồ, sống bằng nghề mãi võ bán thuốc”, chữ “giang hồ” trong loại truyện n{y đ~ có mùi m|u. Còn trong “Tống Tứ Công đại náo cấm hồn trương”, từ chuyện giết người cướp của cho đến việc đấu võ trên chốn “giang hồ” đ~ gần với “giang hồ” trong “Thủy hử” v{ tiểu thuyết võ hiệp đời sau (tức sau Tống Nguyên). Tiểu thuyết viết về hiệp khách thời Minh-Thanh, khắp nơi đều gặp chữ “giang hồ”. Dưới ngòi bút của các nhà tiểu thuyết võ hiệp cựu phái (cuối đời Thanh cho đến đầu thế kỷ XX) thì ngay tên s|ch cũng đ~ đề hai chữ “giang hồ”. Chỉ một mình nh{ văn Bình Giang Bất Tiếu Sinh đ~ viết các tiểu thuyết “Giang hồ kỳ hiệp truyện”, “Giang hồ đại hiệp truyện”, “Giang hồ tiểu hiệp truyện”, “Giang hồ quái dị truyện”, “Giang hồ dị nhân truyện”. C|c nh{ tiểu thuyết võ hiệp t}n ph|i cũng không tho|t khỏi thói quen này, như “Giang hồ tam nữ hiệp” của Lương Vũ Sinh, “Tiếu ngạo giang hồ” của Kim Dung. Chỉ cần là tiểu thuyết võ hiệp thì không ra khỏi thế giới giang hồ. “Giang hồ” đ~ trở thành trời đất của “người giang hồ” theo “đạo nghĩa giang hồ” l{m “việc giang hồ”. Vậy thì, rốt cuộc “giang hồ” l{ gì? Muốn hiểu một cách sâu sắc thế giới “giang hồ” trong tiểu thuyết võ hiệp, chúng ta không thể không bắt đầu xem xét từ xã hội bí mật trong đời sống hiện thực. Từ “x~ hội bí mật” một người Nhật Bản tên l{ Bình Sơn Chu giới thiệu với Trung Quốc, còn ở nước ta (Trung Quốc) thì thường gọi l{ “bí mật kết x~”. “Xã hội bí mật” l{ chỉ những đo{n thể bí mật hoạt động tôn giáo, xã hội và chính trị đặc biệt, có tôn chỉ và lễ nghi bí mật. Nó gồm hai loại lớn là hệ thống giáo môn và hệ thống hội đảng. Từ đạo “Năm đấu gạo” thời Đông H|n đến “Bạch Liên gi|o”, “Thiên địa hội” thời Minh Thanh, xã hội bí mật trải qua nhiều bước thăng trầm, nhưng chưa bao giờ dứt. Đến cuối Thanh và thời Dân Quốc (1911-1949), đ~ có đến 300 đo{n thể thuộc xã hội bí mật, với hàng chục triệu thành viên. Xã hội bí mật gồm những đo{n thể của quần chúng tầng lớp dưới, những người hành tẩu chốn giang hồ trong tiểu thuyết võ hiệp cũng cơ bản là những hiệp khách áo vải. Hệ thống giáo môn chủ yếu là nông dân, họ cố thủ một góc trời, không rời quê hương, thường thường “đêm tụ ng{y t|n”, “tụ họp thì làm giặc, ph}n t|n thì l{m d}n”. Th{nh viên của hệ thống hội đảng thì chủ yếu l{ d}n lưu t|n, không có nghề nghiệp. Họ hoạt động vô thường, lưu t|n bất định, hoặc “tụ tập chốn sơn l}m” hoặc “tụ tập nơi bến sông”. Rõ r{ng l{ phong c|ch của hội đảng rất gần với “khách giang hồ” trong tiểu thuyết. Hiệp khách giang hồ chủ yếu l{ d}n lưu tán, hành hiệp trong lúc chu du khắp nơi. Xã hội bí mật là loại hệ thống xã hội kh|c được lập nên bên cạnh xã hội vốn có. Nó đối lập với trật tự xã hội chính thống. “Giang hồ” cũng như thế. Giáo môn dùng cách truyền gi|o để thu hút đồ chúng, có giáo chủ độc chiếm đại quyền, thống trị theo kiểu gia trưởng, đẳng cấp trên dưới chặt chẽ. Hội đảng thì phần nhiều là dùng cách mở hội lập đảng, kết minh tuyên thệ để chiêu mộ quần chúng, những người trong hội thì gọi nhau bằng anh em, “Trung nghĩa đường tiền vô đại tiểu” (trong trung nghĩa đường không phân biệt lớn nhỏ). Sắc thái tôn giáo của giáo môn rất đậm, tuyên truyền những quan niệm có tính chất tôn gi|o để động viên quần chúng. Sắc thái tôn giáo của hội đảng mờ nhạt, lấy nghĩa khí để duy trì sự đo{n kết. Từ đó có thể thấy những tổ chức như “Thần long gi|o” ( Lộc Đỉnh ký), “Tinh tú ph|i” ( Thiên Long bát bộ ) gần với gi|o môn. Nhưng đa số các môn phái trong võ lâm thì dựa vào mô hình hội đảng trong thực tế lịch sử. Dù là hội đảng hay gi|o môn thì cũng đều có nghi thức “nhập môn”, có những ẩn ngữ, ám hiệu, những bang quy giới luật của mình. Tiểu thuyết võ hiệp đ~ trực tiếp đưa những điều ấy vào thế giới “giang hồ”, khiến nó trở nên có vẻ chân thực. Chức năng của xã hội bí mật chủ yếu l{ mưu cầu duy trì đời sống cho thành viên của nó, vì thế thường hoạt động trộm cướp kiểu lưu manh thổ phỉ. So ra, thế giới “giang hồ” trong tiểu thuyết võ hiệp sạch sẽ hơn nhiều, cao nh~ hơn nhiều. Tác giả hầu như không hề nói gì đến thu chi kinh tế của các bang phái trong võ lâm và vấn đề cơm ăn |o mặc của hiệp khách. Hơn nữa trong phần nhiều tiểu thuyết thế giới “giang hồ” cũng được lu}n lý hóa cao độ. Hiệp khách tuyệt đối không giết người cướp của. Chỉ có “giang hồ” trong tiểu thuyết bạch thoại thời Minh Thanh thì mới tương đối tả thực, như đại hiệp Sử Hoằng Triệu trong truyện “Sử Hoằng Triệu long hổ quân thần hội” mời người ăn uống trong qu|n rượu mà không trả tiền, bị đòi tiền rất gấp bèn cho người ta “ăn một quả đấm”. Ngo{i ra, x~ hội bí mật thường can dự vào chính trị, tạo ra tin đồn, mưu đồ làm phản, có khi vì tranh giành ảnh hưởng mà dẫn đến cừu thù, những điều ấy đều được phản ánh trong thế giới “giang hồ” của tiểu thuyết võ hiệp. Qua các thời đại, giai cấp thống trị đều coi xã hội bí mật là lực lượng chống đối v{ đ{n |p t{n khốc. Thành viên của xã hội bí mật đều bị vây hãm trong khốn cảnh. Tiểu thuyết võ hiệp thì lại dùng thủ pháp lãng mạn chủ nghĩa cao độ, tả thế giới giang hồ thành một xứ đ{o nguyên tiêu dao tự tại. Mức độ tự do của thế giới giang hồ kiểu đ{o nguyên ho{n to{n l{ hư cấu, khác xa với xã hội bí mật trong đời sống xã hội. Nói chung, “giang hồ” mang bóng d|ng của xã hội bí mật có thực trong lịch sử nhưng lại không mô tả giản đơn x~ hội bí mật. Qua sự cải tạo của tiểu thuyết gia các thời đại, “thế giới giang hồ” đ~ dần dần bước ra khỏi lịch sử, trở thành một hình thái xã hội hoàn chỉnh, có tính chất tượng trưng, một loại ký thác tinh thần nh}n văn Trung Quốc. Nói một c|ch kh|i qu|t, “giang hồ” có 3 đặc trưng cơ bản: Đối chọi ngang ngửa với thế giới quan phủ, không can thiệp vào nội bộ của nhau . Giang hồ có phương thức sống của giang hồ, có ẩn ngữ ám hiệu, có tiêu chuẩn thị phi của giang hồ. Người ở trong “vương thổ” cần phải tuân thủ vương ph|p quốc gia, còn người trong giang hồ phải theo quy tắc giang hồ, không cần phải quan t}m đến vương ph|p. Dẫu chốn giang hồ có xảy ra những chuyện kinh thiên động địa, triều đình cũng không can thiệp. Trong “Ỷ thiên Đồ long ký”, Tạ Tốn công nhiên coi cả võ l}m l{ thù địch, giết người như ngóe, cũng không thấy nha môn điều tra, phát lệnh truy nã. Bởi vì “giang hồ” v{ “vương thổ” vốn là hai thế giới kh|c nhau, “giang hồ” l{ một “x~ hội thứ hai” nằm ngoài hệ thống xã hội thực có trong lịch sử. Nói c|ch kh|c, người giang hồ thường cũng không muốn quan t}m đến triều chính. Họ vốn không phải là một lực lượng chính trị tự giác. Dù họ có ra tay dẹp những sự bất bình ngoài thế giới võ l}m cũng chỉ l{ “chống tham quan không chống ho{ng đế”, trừ kẻ gian ác, không trừ bỏ kỷ cương, phần lớn không có ý lật đổ chính quyền. Hoạt động có tính chất vô chính phủ. Hiệp khách trong văn học võ hiệp cổ đại cơ bản là tự do không bị câu thúc (thiên mã hành không ), một mình tự đến tự đi. Mặc dù có cả hàng ngàn thực khách tụ tập trong nhà “bốn công tử thời Chiến quốc” [1] cũng không hình th{nh tổ chức chính thức. Các môn khách hợp ý thì ở, không hợp thì đi, hết sức tự do. Bình Nguyên Qu}n “yêu nữ sắc mà khinh rẻ kẻ sĩ”, “t}n kh|ch bỏ đi qu| nửa”, m~i đến sau khi Bình Nguyên quân giết |i cơ thì “họ mới dần dần trở lại”. Có thể thấy người trên chốn giang hồ sở dĩ tụ hội l{ vì nghĩa khí hạp nhau chứ không có kỷ luật ràng buộc. Ở thời cận đại, từ khi Bình Giang Bất Tiếu Sinh, trong tác phẩm “Giang hồ kỳ hiệp truyện”, hư cấu nên một ph|i Không Động, trên giang hồ mọc lên rất nhiều môn phái võ học. Nhìn bên ngo{i, người giang hồ đều ở trong một tổ chức nào đó, nhưng loại tổ chức này lấy đạo nghĩa l{m chuẩn tắc tối cao, bang quy giới luật là thứ yếu. Trong “Thiên Long b|t bộ”, khi bang chủ mới của Cái Bang là Trang Tụ Hiền giao đấu với Đinh Xu}n Thu đ~ thi triển “hủ thi công” }m độc, liên tiếp làm chết mấy thành viên trong bang. Bang chúng cho rằng h{nh động của y đ~ “l{m nhục thanh danh hiệp nghĩa mấy trăm năm của C|i Bang” bèn đường đường chính chính từ bỏ y. Đại hiệp chân chính là siêu việt tổ chức. Họ, hoặc l{ như Lệnh Hồ Xung sau khi bị khai trừ khỏi ph|i Hoa Sơn lại cự tuyệt gia nhập ma giáo, tuy phải miễn cưỡng l{m chưởng môn phái Hằng Sơn mấy ngày nhưng cuối cùng đ~ nhẹ nh{ng ra đi (“Tiếu ngạo giang hồ”); hoặc như Trương Vô Kỵ làm thủ lĩnh Minh gi|o nhưng rồi trao hết đại quyền cho Dương Tiêu, đem s|ch kinh điển binh ph|p “Vũ Mục di thư” tặng cho Từ Đạt, rồi cùng Triệu Mẫn đến chùa Thiếu Lâm cứu nghĩa phụ Tạ Tốn, cuối cùng thì từ chức giáo chủ, lấy lại tự do (“Ỷ thiên Đồ long ký”). Hiệp khách dù thân có ở trong tổ chức hay không, về cơ bản là cá thể độc lập, chủ yếu là lấy ý chí và sức mạnh cá nhân mà lập thân trong chốn giang hồ đầy phong ba hiểm ác. Tính chất luân lý hóa cao độ Thế giới giang hồ rộng lớn, nhưng có thể quy kết vào hai trận doanh thiện-ác. Tất cả cái xã hội rối ren phức tạp ấy thường bị đơn giản hóa thành sự tranh chấp thiện-ác, chính-tà. Những cuộc xung đột ấy, tuy rất quanh co, ác liệt, nhưng cuối cùng “người thiện tất được phúc báo, kẻ ác tất gặp họa; kẻ tà tất chịu tai ương, người chính cuối cùng sẽ gặp l{nh” (Vấn Trúc chủ nhân - lời tựa “Trung liệt hiệp nghĩa truyện”) [2] . Kiểu lu}n lý hóa n{y được thể hiện rất rõ trong các cuộc tỉ đấu. Tỉ đấu vốn là so tài võ công, mạnh được yếu thua, chẳng có cái gọi là phân biệt chính-tà, thiện-|c. Nhưng trên giang hồ lại chỉ trích việc sử dụng những đòn hiểm độc l{ công phu “hạ tam lạm”. Trong “Mục D~ lưu tinh” của Lương Vũ Sinh, nh}n vật chính phái tất tu luyện tâm pháp nội công chính tông, vừa có thể đ|nh địch vừa lợi cho việc tu t}m dưỡng tính; nhân vật tà phái phần lớn đều luyện tập “tu la }m s|t chưởng”, “lôi thần chưởng”... l{ những công phu t{ |c b| đạo, tuy hiệu quả rất nhanh nhưng dễ tẩu hỏa nhập ma. Thế giới giang hồ dưới ngòi bút của ba bậc đại gia tiểu thuyết võ hiệp tân phái mỗi người đều có đặc sắc riêng. Thế giới “giang hồ” của Lương Vũ Sinh gắn với lịch sử, có lý tưởng chính trị, nh{ văn dùng nhiều bút mực để phô trần bối cảnh lịch sử đặc định, trực tiếp biểu hiện những cuộc đấu tranh dân tộc v{ đấu tranh giai cấp gay gắt. Ông khẳng định mình “theo đuổi tính chân thật lịch sử, coi trọng chủ nghĩa hiện thực”. T|c phẩm của ông, nhìn tổng thể không vượt khỏi cái khung lịch sử, tuy bên trong không ít những nhân vật và võ công có tính hư cấu. Hơn nữa lịch sử được tái hiện phần lớn đều có tính chất luân lý hóa, giản đơn hóa. Ông rất ít khi xây dựng thế giới giang hồ thành một thế giới đồng thoại. Cho nên lời phê bình của La Lập Quần trong “Lịch sử tiểu thuyết võ hiệp Trung Quốc” l{ rất thích hợp: Tác phẩm của Lương Vũ Sinh “tính hiện thực chưa đủ độ sâu, tính ngụ ngôn cũng mờ nhạt, thiếu sức thuyết phục về phương diện triết lý”. Kim Dung cũng thường lấy đề tài từ lịch sử, nhưng ông chỉ lấy nhân vật và câu chuyện lịch sử l{m “vật liệu xây dựng”, cấu tạo nên một thế giới giang hồ hư ảo. Thế giới giang hồ của Kim Dung rất rộng lớn, đầy sức hấp dẫn, có tính tượng trưng cao độ. Đối với việc biểu hiện hoàn cảnh lịch sử đặc định, Kim Dung không mấy hứng thú với những lý niệm chính trị. So với Lương Vũ Sinh, thế giới giang hồ của Kim Dung có tính chất siêu tho|t hơn. Mặt kh|c “giang hồ” của Kim Dung lại có gốc rễ trong sự thể nghiệm hiện thực xã hội. Trong sóng gió giang hồ hoang đản lại thấm đẫm ý vị văn hóa v{ t}m lý chính trị của Trung Quốc. “Giang hồ” trong tiểu thuyết Kim Dung thường là tấm gương của hiện thực xã hội, nó vừa né tránh hiện thực xã hội lại vừa có những khiếm khuyết như trong đời sống. Trong “Tiếu ngạo giang hồ”, Lưu Chính Phong muốn “rửa tay gác kiếm”, rút khỏi chốn giang hồ mà tiểu thuyết võ hiệp hằng ca ngợi. Ở đ}y Kim Dung đ~ dùng thế giới giang hồ để phê phán hiện thực xã hội. Chẳng tr|ch có người nói rằng: tiểu thuyết Kim Dung “viết về giang hồ mà ý ở giang sơn; vừa biểu hiện tình cừu vừa liên quan đến thời vận.” Cổ Long lại khác với Lương, Kim. Ông không quan t}m đến bối cảnh lịch sử, biến giang hồ thành một thế giới đồng thoại thuần túy. Trong tiểu thuyết của ông, thường chỉ thấy một vùng, một đoạn hang núi, một thôn trang đủ biến thành một “s}n khấu” đại bi đại hỉ cho hiệp khách xuất sinh nhập tử. Hưng V}n Trang trong “Đa tình kiếm khách vô tình kiếm” l{ ở đ}u? Lang Sơn (trong “Thất chủng vũ khí”) tọa lạc ở nơi n{o? Cổ Long không cần kể rõ. Điều Cổ Long hứng thú chỉ là nhân tính trong cảnh ngộ sinh tử tồn vong. “Giang hồ” của Cổ Long cũng giống như võ công trong t|c phẩm của ông, chẳng theo khuôn mẫu nào, mà chỉ là một loại thế giới, một cảnh giới thiền với triệt tâm kiến tính là tông chỉ. Nói một cách cụ thể, giang hồ do bốn yếu tố lớn tạo th{nh, đó l{: - Người giang hồ, - Việc giang hồ, - Đạo nghĩa giang hồ - Trời đất giang hồ. Đ~ l{ người giang hồ thì phải giẫm trên đất giang hồ, giữ đạo nghĩa giang hồ, xử lý việc giang hồ. Người giang hồ quản việc giang hồ, người thường không can thiệp. Người giang hồ “Suất thổ chi tân, Mạc phi vương thần.” (Khắp cõi bờ đất nước, Không ai không phải là bề tôi của nhà vua) Điều ấy đ~ được khẳng định trong Kinh Thi, tổng tập thơ Trung Quốc đời Chu (thế kỷ XI đến thế kỷ III TCN). Nhưng người giang hồ không ở trong giới hạn ấy. L{m người ở giang hồ tất phải có bản lĩnh v{ tư tưởng của người giang hồ. Không thế thì phải làm bề tôi của nhà vua. Cho nên người giang hồ kh|c người thường. Người giang hồ tất phải có “võ công” v{ “võ đức”. Dân tộc Trung Hoa vốn có tinh thần thượng võ. Điều ấy không có gì lạ, bởi vì sự thay triều đổi đại trong suốt mấy ng{n năm đều dựa vào sức mạnh để “gi{nh được thiên hạ trên lưng ngựa”, những người anh hùng “vung đao tế ngựa” được người đời hâm mộ và noi theo. Trong xã hội Trung Quốc cổ đại, chiến tranh liên miên không ngớt, vua chúa c|c nước chư hầu đều rất cần những người t{i kiêm văn võ để bảo vệ xã tắc của mình. Bắt đầu từ thời ]n Thương, việc dạy học đ~ coi trọng cả văn lẫn võ. Khổng Khâu, thủy tổ của Nho gia ở thời Tiên Tần đ~ rất coi trọng võ bị. Ông thường dạy học trò: để giữ nước cần phải có đủ lương thực v{ qu}n đội. Ông cho rằng: “Không dạy dân võ nghệ mà bắt họ chiến đấu, như thế là bỏ d}n”. Trong nội dung dạy học, Khổng Tử chủ trương dạy “lục nghệ” (lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số = lễ nghi, âm nhạc, bắn cung, đ|nh xe, viết chữ, tính toán), coi trọng “xạ”, “ngự”. L{m người giang hồ, không phải chỉ thích võ công mà phải võ công cao cường, nếu không thì không thể tồn tại trên chốn giang hồ, xử lý việc giang hồ. Giang hồ tuy có đạo nghĩa giang hồ nhưng vẫn phải tuân thủ cái quy luật sắt “mạnh được yếu thua”. L{ “hiệp” l{ “ma” (t{ ph|i) hay “đạo” (kẻ cướp) thì cũng phải dùng sức mạnh để bảo vệ chủ trương v{ lợi ích của mình. Cho nên trên giang hồ nhân vật có danh tiếng tất phải là cao thủ võ lâm. Thanh danh cao thủ phải gi{nh được bằng sức mạnh. Võ công, thoái có thể tự vệ, tiến có thể giết người, đầy tính chất thách thức, cho nên võ công là thứ rất nguy hiểm. Vi Tiểu Bảo là nhân vật ngoại lệ duy nhất. Y võ công kém cỏi (nói kém cỏi e còn vinh dự qu|) cho nên thường bị người ta bắt sống một cách dễ dàng. Dù y mồm mép nịnh hót trơn như mỡ, nhưng lúc nguy cấp vẫn phải rút chủy thủ trong tay áo ra, hoặc dựa vào sức lực của Song Nhi, hoặc nhờ cao thủ của Thiên Địa hội giải cứu. Giang Tiểu Hạc ngậm oan v{o tù đ~ thở than ai o|n: “đường giang hồ quả thực khó đi”, không hiểu sao người ta cứ ch{ đạp y; nhưng sau khi y học được tuyệt nghệ ở Thiên Mục sơn thì đường giang hồ trở nên dễ đi hơn nhiều. Có thể thấy, không có võ công thì khó lòng đứng được trên chốn giang hồ, khó lòng l{m người giang hồ. Người giang hồ sống trên lưỡi đao, không có võ công không được. Nhưng người giang hồ học võ công là có mục đích, cho nên đạo nghĩa giang hồ chủ trương “lấy đức khống chế võ”. Giết người một cách bậy bạ thì đều l{m đồng đạo trên chốn giang hồ tức giận, công phẫn. Một khi đ~ l{m cho mọi người phẫn nộ thì cũng không có chỗ đứng trên giang hồ, kết quả là chỉ còn con đường chết hoặc tuyệt tích giang hồ. Chu Vũ Vương từng để lại “kiếm minh” (lời khắc trên kiếm), “cung minh” (lời khắc trên cung) để dạy thần tử. Lời khắc trên kiếm nói rằng: “Mang kiếm để chế phục, rút ra l{ để h{nh đức, h{nh đức thì hưng thịnh, bội đức thì lu mờ.” Như vậy có nghĩa l{ nhấn mạnh võ công phải được điều khiển bởi nh}n đức. Cao thủ chính phái và cao thủ t{ ph|i đều có thể th{nh công nhưng chỉ có võ công của cao thủ chính phái mới đạt đến tuyệt đỉnh. Vì sao? Cao thủ chính phái có giết người thì cũng để ngăn chặn kẻ giết người, còn cao thủ tà phái thì giết người vô tội vạ, không ghê tay. Bởi vì cao thủ chính phái tâm bình khí hòa, khí hòa thì không có hại; cao thủ t{ ph|i t}m độc khí bạo, khí bạo thì tất nhiên tẩu hỏa nhập ma. Võ đức chế ngự võ công, công dụng của nó đại để l{ như thế. Có tu dưỡng võ công v{ võ đức mới coi l{ “đạt đạo”. Đạt đạo rồi thì hành tẩu giang hồ. Một khi đ~ đặt ch}n lên đất giang hồ thì th{nh người giang hồ, muốn ra khỏi chốn giang hồ cũng khó. Các nhà tiểu thuyết võ hiệp căn cứ trên những tiêu chuẩn mơ hồ, chia nhân vật giang hồ ra làm ba loại; chính, tà và trung gian giữa chính với tà (chính tà lẫn lộn). Sự phân biệt chính-tà này nói chung là do chủ đề quyết định. Nếu chủ đề của tác phẩm là chủ trương giang hồ bình yên thì kẻ có tham vọng “nhất thống giang hồ” như Nhậm Ngã Hành (trong “Tiếu ngạo giang hồ” của Kim Dung) tất thuộc loại tà phái, còn Lệnh Hồ Xung, Doanh Doanh... là nhân vật chính phái. Cùng là kết giao với nước khác nếu lấy Hán tộc làm trung t}m thì “Võ l}m thiên kiêu” (Bối lặc của nước Liêu trong tác phẩm “Cuồng hiệp thiên kiêu ma nữ” của Lương Vũ Sinh) l{ nh}n vật chính phái, còn thúc phụ của Liễu Thanh Dao là nhân vật tà phái. Người giang hồ có những nghề nghiệp, thân phận kh|c nhau. Người chốn giang hồ trong tiểu thuyết võ hiệp thường là: du hiệp, đại đạo (kẻ cướp), thần thâu (kẻ trộm), tiêu sư (bảo vệ h{ng hóa), võ sư hộ viện, quyền sư (thầy dạy võ), đại nội thị vệ (bảo vệ hoàng cung), tăng, ni, đạo sĩ, c|i (ăn m{y), quan lại, hoạn quan, nhà buôn, nông phu, thầy thuốc, nghệ nhân, ẩn sĩ, lục lâm, sát thủ (kẻ đ}m thuê chém mướn), bổ kho|i (người làm việc bắt cướp ở công phủ) v.v... Người giang hồ đặc biệt coi trọng thanh danh, bởi vì thanh danh l{ “giấy thông h{nh” để đi lại trên chốn giang hồ, nó còn hơn cả võ công. Để có thanh danh thì trước hết phải dựa võ công, thứ hai là dựa v{o tín nghĩa. Võ công thấp kém chưa phải là nhục, đ|ng nhục là nói lời rồi lại ăn lời. Một tiếng “ừ” đ|ng gi| ng{n v{ng, nói chắc đúng, l{m tất th{nh công, đó l{ chuẩn tắc đạo đức m{ người giang hồ đều tuân thủ, đó cũng l{ c|i đức của người học võ. Đạo nghĩa hiệp khách coi trọng tín nghĩa. Mao Thập Bát (hiệp đạo trong “Lộc Đỉnh ký” của Kim Dung) giữ lời hứa đến nơi hẹn từ mấy năm trước, y đ~ không sợ lộ tung tích, không quản th}n đang bị thương nặng, nhất quyết phải thực hiện “lời hứa chết người”. Tín nghĩa trọng hơn sinh mệnh. Không có tín nghĩa không xứng l{ người giang hồ. Người giang hồ lấy tín nghĩa l{m gốc, lấy võ công l{m phương tiện. Trong xã hội giang hồ đầy những cao thủ võ lâm ấy, sức mạnh của một người không đủ đối địch với cả giang hồ. Cho nên người trên chốn giang hồ thường kết thành các phái. Vì thế mà các môn phái mọc lên như rừng. Danh tiếng lẫy lừng nhất trên giang hồ là Thiếu L}m v{ Võ Đang (Vũ Đương). Quang vinh của môn ph|i được quyết định bởi tình hình hưng thịnh của nh}n t{i trong môn ph|i. Địa vị tông sư của võ lâm có thể khiến cho bản phái danh chấn giang hồ. C|c ph|i Thiên Sơn, M}n Sơn, Không Động, Hoa Sơn, Ho{ng Sơn, C|i Bang, Tiên Thiên Vô Cực v.v... đều từng đứng đầu một thời. Có người cho rằng người giang hồ là loại người tiêu dao tự tại, không chấp nhận pháp luật quan phương, không chịu sự ràng buộc của lễ giáo thế tục. Họ là những “siêu nh}n” khác hẳn với phàm phu tục tử. Đúng l{ loại tiểu thuyết hạng hai hạng ba (hạng xoàng) thường đem đến cho người ta ấn tượng ấy. Thế nhưng, những tiểu thuyết gia cao minh thông qua những cảnh giới hư ảo lại biểu hiện nhân tính chân thực của con người. Cổ Long có một câu danh ngôn rằng: “Người ở chốn giang hồ, thân không còn là của mình” (Nh}n tại giang hồ, thân bất do kỷ). Câu danh ngôn ấy đ~ trở thành chủ đề trong các tác phẩm thời kỳ sau của ông. Cổ Long không những cũng như Kim Dung đ~ vạch ra những khiếm khuyết của thế giới giang hồ mà còn suy ngẫm sâu sắc về nhân tính. Nỗi niềm cảm khái trong nhiều tác phẩm của ông mang ý vị triết lý, chẳng hạn: “Có những việc dầu anh biết rõ rằng có l{m cũng vô ích nhưng lại không làm không được”. “Sau khi thắng lợi, con người thường cảm thấy rất mệt mỏi, rất hiu quạnh. Bởi vì anh ta đ~ ho{n to{n thắng lợi, hoàn toàn th{nh công, không có điều gì để anh ta phấn đấu nữa; còn một người thất bại thì tinh thần lại còn có phần hăng h|i. Người bạn đ|ng tin cậy nhất có khi lại là kẻ cừu địch đ|ng sợ nhất. Nhưng một đối thủ đ|ng sợ nhất cũng có khi l{ người bạn tri âm. Bởi vì người đủ tư c|ch l{m đối thủ của anh mới đủ tư c|ch l{ tri kỷ của anh. Có lẽ n{ng m~i m~i yêu ch{ng, nhưng chỉ vì yêu quá sâu sắc nên không sao nói được thành lời. Đó chính l{ nhược điểm và mâu thuẫn của nh}n tính.” Người giang hồ chính ở trong cảnh ngộ không sao tưởng tượng nổi. Với sự khoa trương kh|c thường, với hình thức đặc biệt, các tác gia tiểu thuyết võ hiệp n{y đ~ biểu hiện “nhược điểm và mâu thuẫn của nh}n tính” của con người chúng ta, từ đó m{ có thể trở thành bằng hữu của chúng ta. Trời đất giang hồ Muốn l{m người giang hồ, phải giẫm ch}n lên đất giang hồ. Giang hồ, ấy là trời đất của người giang hồ. Nhưng “Phổ thiên chi hạ, Mạc phi vương thổ” (Khắp dưới gầm trời Không đ}u không phải l{ đất của nhà vua) Tìm đ}u ra một “l~nh địa” siêu thoát khỏi vương quyền để tạo dựng nên thế giới giang hồ cho người giang hồ? Giang hồ vẫn ở trên lãnh thổ của thế giới quan phương. Về mặt địa vực mà nói, ngoại diên của thế giới giang hồ bằng, thậm chí còn rộng hơn thế giới quan phương. Trời đất giang hồ có thể mở rộng đến nước ngoài, thí dụ như băng hỏa đảo ở Bắc cực có khi cũng trở thành một bộ phận của trời đất giang hồ (“Ỷ thiên Đồ long ký”). Tuy có sự co gi~n như vậy nhưng cơ bản là ở trong giới hạn của một nước, vượt ra ngoài giới hạn đất nước chỉ là ngoại lệ. Xã hội giang hồ ở trong xã hội quan phương. Điều cơ bản này cho thấy người giang hồ xử lý việc giang hồ thực tế cũng l{ việc ph|t sinh trong đời sống của trăm họ. Thế nhưng, thế giới giang hồ thường mang màu sắc thần bí, dân chúng bình thường chưa hề thấy. Làm sao khiến cho người thường tin rằng thế giới giang hồ là một tồn tại khách quan, chỉ có điều ta chưa hề thấy tận mắt m{ thôi? Đ}y chính l{ chỗ khó của việc xây dựng thế giới giang hồ. Thế giới giang hồ là một thế giới ước lệ, hình thái ý thức xã hội cơ bản của nó là miệt thị sự thống trị quan phương v{ coi trọng tín nghĩa, h{nh vi cơ bản l{ đ|nh nhau, giết người. Căn cứ khách quan của việc xây dựng thế giới giang hồ là: sự thống trị trong thế giới quan phương có lúc có nơi yếu kém vì thế mới có khả năng tồn tại một thế giới giang hồ. Vấn đề l{ l{m sao tr|nh được tai mắt của người ta. Tác gia tiểu thuyết võ hiệp đ~ chọn nơi m{ người thường ít đến v{ lúc m{ người thường ít xuất hiện. Người giang hồ thường đi đêm, họ thích ngày nghỉ đêm đi, đêm tối là thiên hạ của giang hồ. Nơi ít dấu ch}n người là thiên hạ của người giang hồ. Người giang hồ cần tránh quan phủ. Người giang hồ giết người, người ngoài không biết nhưng họ phải tránh sự truy sát của người giang hồ cho nên phải chọn nơi ẩn tránh có thể phòng thủ. Núi cao rừng rậm sa mạc hoang đảo... là bình phong thiên nhiên của người giang hồ, chùa chiền đạo quán cách xa trần thế là những trời đất giang hồ kh| lý tưởng. Trời đất giang hồ trước hết phải kể đến núi rừng, thứ hai là chùa chiền đạo quán rồi đến sơn trang, sa mạc, hoang đảo, sông biển, quán trà tiệm rượu, sòng bạc, kỹ viện (lầu xanh) và cả... cung đình. Núi rừng (sơn lâm) “Thiên hạ danh sơn tăng chiếm đa” (Thầy chùa chiếm nhiều danh sơn trong thiên hạ) Vì sao? Núi cao rừng rậm ám hợp với chữ “ẩn”. Ph{m những người muốn xa cách hồng trần đều chọn núi mà ở. Đại trung thần “không chịu ăn thóc nh{ Chu” cuối cùng chết đói ở trong núi. Người xưa h{nh qu}n đ|nh trận, thích dựa vào thế núi để an dinh hạ trại, tiến có thể đ|nh lui có thể giữ, hàm một chữ “cố” (vững chắc). Binh ph|p nói “Phùng l}m mạc nhập” (gặp rừng chớ vào) vì ở đó h{m một chữ “hiểm”. “Bất thức Lư Sơn chân diện mục Chỉ duyên thân tại thử sơn trung” [3] (Không biết gương mặt thật của Lư Sơn Chỉ vì thân ở trong núi này) Ở đó h{m chứa chữ “bí”. Vì những nhân tố ấy, núi rừng trở thành trời đất giang hồ lý tưởng. Kẻ lục l}m thích “chiếm núi l{m đại vương”. Cuối thời Vương M~ng triều Tân [4] , Vương Khuông Vương Phượng tụ tập quần chúng khởi nghĩa, chiếm cứ núi Lục Lâm (nay ở huyện Đương Dương tỉnh Hồ Bắc), gọi qu}n đội của mình l{ “lục l}m qu}n”. Vì thế đời sau thường dùng hai chữ “lục l}m” để chỉ những đội quân tụ tập ở rừng núi chống lại triều đình phong kiến, trừng trị bọn cường hào ác bá. Chữ “lục l}m” cũng được dùng để chỉ bọn cường đạo, thổ phỉ. Võ lâm là hợp thể của người giang hồ. S|ch “Từ hải” giải thích từ “võ l}m” như sau: một là địa danh cổ; hai là tên núi cổ - nay là núi Thiên Trúc Chử, ở Linh Ẩn, phía tây thành phố Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang. “Võ l}m” tuy không giống lục l}m nhưng cũng rất có duyên nợ với rừng núi. Người giang hồ thích núi rừng, những môn phái lớn của võ lâm giang hồ phần nhiều phát tích từ núi, như ph|i Thiên Sơn, ph|i Hoa Sơn, ph|i Vũ Đương... Núi lớn có phái lớn, núi nhỏ có phái nhỏ như ph|i C}u Lậu ở núi Câu Lậu. Người giang hồ luyện võ công thường thích ở một mình trong núi sâu vì ở trong núi yên tĩnh, ít bị quấy rầy. Người tránh kẻ thù cũng thích ẩn cư nơi hang núi, hang núi không những dễ dàng ẩn nấp m{ thường có phong cảnh thích hợp với con người. Chỗ cao nhất l{ đỉnh núi, chỗ sâu nhất là khe, hiểm nhất là bờ vực, âm u nhất là hang, tối nhất l{ động. Ở những nơi ấy thường có di tích của bậc tiền bối giang hồ, hoặc có chưởng kinh kiếm phổ khắc trên v|ch đ|, hoặc giấu bí cấp võ công trong động. Sơn l}m có sức quyến rũ rất mạnh đối với người giang hồ. Chuyện giang hồ xưa nay qu| nửa là viết về chốn sơn l}m. Người thường chỉ nghe tác gia tiểu thuyết nói thao thao về chốn ấy, m{ chưa có duyên may được thấy bao giờ. Chùa chiền đạo quán (tự miếu đạo quán) Chữ “Tự” nguyên l{ tên quan thự thời cổ đại, như Đại Lý tự, Th|i Thường tự, Hồng Lô tự... Khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc, sớm nhất là Bạch mã chở kinh v{ tượng Phật đến Lạc Dương, đầu tiên là ở Hồng Lô tự, cơ quan chưởng quản về ngoại giao, năm sau x}y dựng tự (chùa), mệnh danh l{ “Bạch m~”, gọi l{ “Bạch mã tự”, đó l{ chùa thờ Phật đầu tiên ở Trung Quốc. Chùa cũng gọi l{ “miếu” hoặc gọi ghép l{ “tự miếu”. “Miếu” vốn l{ nơi thờ phụng tổ tông và hiền triết đời trước, cũng dùng để gọi nơi thờ phụng thần Phật. Nh{ tranh, nơi người l|nh đời tu hành ở, gọi l{ “am”. Về sau chùa thờ Phật mà ni cô ở cũng được gọi l{ “ni cô am” hoặc “ni am”. Chùa thờ Phật từ đời Hán ở Trung Quốc, trải qua quá trình diễn biến lâu dài, trở nên phổ biến ở thời Lục triều, hưng thịnh ở thời Tùy-Đường, sa sút ở thời Minh Thanh. Kiến trúc chùa Phật ở Trung Quốc đại khái chia làm hai loại lớn là kiểu y sơn v{ kiểu bình xuyên, tương ứng với hai kiểu ấy, bố cục của tự viện cũng có hai loại là thạch quật tự và tháp miếu. Đến cuối Đường, nơi tín đồ Phật giáo tập trung triều bái có 4 xứ: Ngũ Đ{i Sơn (th|nh địa của Văn Thù Bồ Tát); Phổ Quang Vương Tự ở Tứ Xuyên (Th|nh địa của Tăng gi{ Đại thánh); Chung Nam sơn (Th|nh địa Tam giai giáo) và Pháp Môn Tự ở Phượng Tường (Th|nh địa phật cốt). Phật giáo Trung Quốc thời Tùy Đường đ~ hình th{nh nên 8 Tông ph|i lớn. Nhưng tự viện (chùa chiền) mà tổ sư c|c ph|i khai s|ng hoặc trụ trì được gọi l{ “Tổ đình”. C|c tổ đình n{y l{: Thiên Thai sơn, Thê H{ Tự, Từ Ân Tự, Hưng Gi|o Tự, Hoa Nghiêm Tự, Thảo Đường Tự, Đại Minh Tự, Đại Hưng Thiện Tự, Thanh Long Tự, Huyền Trung Tự, Hương Tích Tự, Đông Lâm Tự. Tổ đình của Thiền Tông gồm Thiếu Lâm Tự, Sơn Cốc Tự, Tứ Tổ Tự v.v... Chùa chiền của Phật giáo Lạt Ma ở Trung Quốc, ngoài Bố Đạt Lạp cung ra phần nhiều chùa chiền là ở Tây Tạng và Thanh Hải. Tám miếu ở quanh tị thử sơn trang Thừa Đức ở Hà Bắc, Ung Hòa Cung ở Bắc Kinh cũng rất nổi tiếng. Trong thế giới võ hiệp, th|nh địa của Đạo gi|o l{ núi Vũ Đương (hay Võ Đang). Th|nh cảnh ở Vũ Đương có t|m cung, hai qu|n, 36 am, 39 cầu, 12 đình. T|m cung ở núi Vũ Đương l{ Tĩnh Lạc, Nghênh ]n, Ngũ Hổ, Ngộ Chân, Nam Nham, Tử Tiêu, Ngọc Hư, Th|i Hòa. Ngo{i ra các núi Thanh Thành, Hoa Sơn, Ho{ng Sơn đều là những th|nh địa của Đạo gia v{ Đạo giáo nổi tiếng trên thế giới giang hồ. Đạo giải thoát của Phật giáo là dựa vào giới, định, tuệ m{ đạt tới cảnh giới Niết b{n; đạo giải thoát của Đạo giáo là dựa vào sự tu dưỡng thân tâm mà thành tiên. Đạo và Phật, một trọng tu thân một trọng tu t}m cho nên đều cần yên tĩnh, tr|nh tức giận. Chùa chiền v{ đạo qu|n được coi là tịnh thổ, l{ nơi thanh khiết. Nhưng chùa chiền đạo quán trong giang hồ thì khó lòng tr|nh được đả đấu lưu huyết. 72 tuyệt nghệ của Thiếu Lâm uy chấn giang hồ; Liên Ho{n Đoạt Mệnh Kiếm và Thái Cực Kiếm của Vũ Đương lừng danh thiên hạ, những tiếng tăm ấy đều đẫm m|u. Nhưng tăng v{ đạo không tùy tiện giết người như những hán tử lỗ mãng trên chốn giang hồ. Họ rất thận trọng, trước hết là khuyên kẻ địch “phóng hạ đồ đao”, khuyên không được thì dùng đến phép “nhẫn” (nhường nhịn), đến mức không thể nhẫn được mới “đại khai sát giới”. Cho nên việc chém giết xảy ra nơi chùa chiền đạo quán rất có c|ch điệu, võ công đ~ cao cường, lễ nghi cũng nhiều, tiếng niệm “A di đ{ Phật”, “Vô lượng thọ phật” lẫn trong tiếng đao thương ch|t chúa. Quán trà tiệm rượu (trà lâu tửu tứ) Người Trung Quốc thích uống tr{ v{ cũng thích uống rượu, quán trà tiệm rượu mọc khắp nơi. Người v{o qu|n tr{, có người “quanh năm vất vả, tình cờ có được ngày nhàn, cùng với v{i ba người tri kỷ nhâm nhi tách trà tán chuyện”, cũng có người “ngồi lê la vui vẻ quên về”. Ở vùng Giang Nam m~i đến cuối thời C{n Long, “Giang Ninh mới có qu|n tr{. Vườn Hồng Phúc, vườn Xu}n Hòa đều có văn tinh c|c, mỗi vườn chiếm một khoảng bờ sông, luôn đầy kh|ch”. Đời Thanh, dẫu l{ nơi biên viễn xa xôi hay xóm thôn vắng vẻ cũng nhiều quán trà tiệm rượu, l{m nơi giải kh|t cho kh|ch qua đường. Những qu|n tr{ như thế phần nhiều do tăng đạo xuất gia hoặc thiện nam tín nữ làm việc từ thiện, gọi l{ “thí tr{ sở”, đều không lấy tiền. Xuôi ngược giang hồ không thể không v{o qu|n tr{. Qu|n tr{ l{ nơi tam gi|o cửu lưu tụ hội, có thể nghe ngóng được nhiều tin tức, có thể nghỉ ngơi trên dặm đường bôn ba. Tính chất của tr{ ôn hòa, người xuất gia kiêng rượu chứ không kiêng tr{. Người giang hồ đưa đón kh|ch đều thích dùng tr{. Đặc biệt là ở trong chùa chiền đạo quán, trà rất được quí trọng. Nhưng người uống trà rất cẩn thận, bởi vì họ phải chú ý xem trong trà có thuốc độc không, hiệp khách trẻ tuổi ngại nhất là bị các cô gái bỏ “xu}n dược”. Dù thế, trà vẫn đem lại ý vị bình yên cho chốn giang hồ vốn tanh mùi máu. Nếu bảo giang hồ còn có chỗ an to{n thì nơi an to{n nhất là quán trà, có lẽ bởi vì trà vốn là dành cho văn nh}n. Nhưng rượu thì lại kh|c. Rượu tính mãnh liệt, uống nhiều dễ sinh chuyện. Người ta lúc vui uống rượu, lúc buồn cũng uống rượu, gặp việc gì cũng uống rượu. Người giang hồ càng khoái uống rượu, hòa thượng cũng uống rượu cũng tìm được cách lấp liếm. Đến tiệm rượu có rất nhiều người không vui. Người không vui thường thích kiếm chuyện. Đến tiệm rượu rất nhiều người rỗi r~i, người rỗi hơi thích sinh sự, gây gổ. Tiệm rượu cũng có nhiều người vui vẻ, người đang cao hứng ghét nhất là bị người ta làm cụt hứng. Cho nên tiệm rượu l{ nơi lắm chuyện, vài câu không vừa ý là có thể thượng cẳng chân hạ cẳng tay. Qu|n rượu chốn giang hồ càng nguy hiểm. Người giang hồ thích mở “hắc điếm”, bỏ thuốc mê v{o rượu, hại người cướp của. Không chỉ ở “hắc điếm” m{ ở bất kỳ nơi n{o người giang hồ uống rượu cũng đề phòng trong rượu có thuốc độc. Dù người chết vì rượu rất nhiều nhưng người giang hồ vẫn quí rượu hơn tính mạng, có lẽ vì người giang hồ qu| ư hiu quạnh. Có lẽ không có vị độc giả nào không muốn Lý Tầm Hoan ho đến đứt hơi kia kiêng rượu nhưng Lý Tầm Hoan vẫn uống rượu không thôi. Trong thế giới giang hồ, rượu chẳng những gắn liền với phong độ hiệp khách mà còn gắn liền với võ công. Uống rượu, đấu rượu, truyền cốc, những ngón nghề ấy thường được dùng để đ|nh gi| võ công, một tay n}ng ly rượu một tay lấy mạng người - thật l{ “tiêu s|i đ|ng nể”. Nếu nói bình phẩm danh trà thể hiện sự cao nhã của hiệp khách thì uống rượu tì tì càng biểu hiện rõ khí độ hùng tráng của hiệp khách. Những anh hùng hảo h|n dưới ngòi bút Cổ Long như Sở Lưu Hương, Lục Tiểu Phượng, Lý Tầm Hoan, Diệp Khai, Tiêu Thập Nhất Lang... Không ai là không bẩm sinh hải lượng [5] . Nhân vật Hồ Thiết Hoa trong tác phẩm “Hiệp đạo Sở Lưu Hương” hễ thấy rượu là mắt sáng lên, mặt ửng đỏ, 3 ng{y 3 đêm không ngủ cũng được, một ng{y không rượu không xong. Nhân vật “đệ nhất kỳ nam tử” Kiều Phong trong “Thiên Long b|t bộ” của Kim Dung đ~ biểu hiện hùng khí trong hào ẩm. Trước cuộc đại chiến ở Tụ Hiền Trang, chàng cùng anh hùng thiên hạ uống bữa rượu tuyệt giao, hơi rượu bốc men say khiến độc giả cũng cảm thấy sảng kho|i. Người trong làng say có thể có nhiều nhược điểm nhưng ho{n to{n không có giả dối kiểu c|ch. Trong đấu rượu thấy rõ nhất chân tính của con người. Đo{n Dự và Kiều Phong trong cuộc cuồng ẩm ngàn chén trong quán rượu đ~ phơi gan trải mật mà kết th{nh huynh đệ. Còn loại người âm hiểm ngụy quân tử như Nhạc Bất Quần trong “Tiếu ngạo giang hồ” thì không bao giờ dám uống rượu thoải mái vì sợ lộ ch}n tướng. L{ng say thường là muốn trốn tránh thế giới hiện thực. Lý Tầm Hoan trong mối xung đột giữa tình v{ nghĩa, vì muốn trọn tình bằng hữu m{ hy sinh tình yêu, nhưng mối tình ấy đ~ khắc cốt ghi xương, dù bao năm xa c|ch ng{n dặm vẫn không c|ch gì khu}y nguôi được. Chàng chỉ còn biết dìm nỗi thống khổ trong ly rượu. Có khi uống rượu lại là một c|ch để che giấu bộ mặt thật của mình. Đối với người hay xỉn, người khác không biết khi nào anh ta say thật khi nào anh ta giả đò. Người say có khi tâm trí rất tỉnh t|o. Trong “Thất chủng vũ khí” của Cổ Long, Tiêu Thiếu Anh, đệ tử của Song Ho{n môn ham rượu như mạng sống, biết rượu có thuộc độc vẫn uống, nằm trong quan tài còn kêu: “Rượu chưa uống hết sao có thể chết được?” Người nghiện rượu thường bị coi là ý chí bạc nhược, tự vứt bỏ mình, chẳng khác gì cái xác không hồn. Cho nên, C|t Đình Hương sau khi tiêu diệt Song Hoàn môn, chẳng thèm đếm xỉa gì đến Tiêu Thiếu Anh. Thế nhưng chàng Tiêu Thiếu Anh kia nhờ sự yểm hộ của rượu đ~ thừa cơ h{nh động, cuối cùng đ~ trả được mối thù của môn phái. Trong tiểu thuyết võ hiệp, không thể thiếu tr{ v{ rượu, nhất l{ rượu càng là một thứ “đạo cụ” rất thuận tay vừa ý để cho tác giả khắc họa tính cách nhân vật. Cổ Long là một đại gia về rượu, bản thân Cổ Long cũng l{ cư d}n l{ng rượu, ông chết sớm cũng l{ vì rượu. Bản thân ông có thể nói l{ tìm được chân ý vị của nh}n sinh trong ly rượu. Bạn thân của ông là Yến Thanh đ~ từng nói “Cổ Long chẳng những nghiện rượu mà còn có tri thức rất phong phú về rượu. Nếu ông hứng thú viết một bộ “tửu kinh” thì chắc chắn cũng đắt kh|ch như tiểu thuyết võ hiệp.” Sa mạc hải đảo (đại mạc cô đảo) Sa mạc rộng lớn, hải đảo cô quạnh. Cái rộng lớn của sa mạc có thể ẩn thân; cái cô quạnh của hải đảo thích hợp với người phiêu linh lưu lạc. Người giang hồ không tự nhiên đi v{o sa mạc, người vào sa mạc phần lớn l{ để chạy trốn sự truy n~; người giang hồ cũng không vô cớ mà ra hải đảo, người cư trú trên hải đảo phần nhiều là vì thất ý trên chốn giang hồ. Sa mạc hải đảo vắng dấu ch}n người, ngọn roi của quan phủ cũng ít với tới, cho nên cũng là một đất trời lý tưởng của khách giang hồ. Sa mạc chẳng khác gì tử địa, cho nên người chạy vào sa mạc thực tế l{ đ|nh một canh bạc lớn: đ|nh bạc sống chết với sa mạc, đ|nh bạc can đảm với kẻ truy nã. Canh bạc lớn này càng tăng thêm sức mạnh sinh tồn của người bị truy nã. Kẻ truy nã chỉ khoảng 50% dám vào sa mạc, khả năng bắt được người cũng chỉ 50%, cũng đ|ng một canh bạc đấy chứ. Người giang hồ vào sa mạc còn có hai động lực, một l{ tìm người, một nữa là tìm báu vật. Chính vì sa mạc rất nguy hiểm, rất rộng lớn cho nên đầy tính chất thần bí. Khi tìm khắp nơi chẳng được thì sa mạc bí ẩn trở thành hy vọng cuối cùng. Hải đảo là lục địa giữa biển khơi. Đảo đem đến cho con người cảm gi|c phiêu lưu, cho nên người thất ý trên chốn giang hồ thích nương th}n nơi hải đảo. Hải đảo cũng thường l{ nơi bọn cướp biển chiếm cứ, bởi vì hải đảo cách xa sự thống trị của quan phủ, ở trên hải đảo người ta có thể làm những việc mình muốn làm. Trong con mắt của người thường, hoang đảo rất đ|ng sợ. Trước hết, biển là rất đ|ng sợ, nơi vắng bóng người đ~ đ|ng sợ, huống chi trên hoang đảo còn có thể có bọn cướp biển hoặc yêu qu|i. Nhưng trong con mắt của người ở trên đảo, đảo rất nhỏ cho nên rất dễ bị tiêu diệt. Đó l{ nguyên nh}n vì sao người ở trên đảo rất coi trọng việc phòng thủ. Đảo Bất Lạc mà Bất Lạc Bang chiếm cứ (Tiêu Dật - “Vô Ưu công chúa”) không những có doanh trại ven bờ m{ trên đảo còn bố trí kỳ trận khắp nơi. Trước khi Hải Vô Nhan hủy diệt Bất Lạc Bang tương truyền chưa có ai rời khỏi đảo mà còn sống sót. Ham chơi v{ s|ng ý như L~o Ngoan Đồng Chu B| Thông m{ cũng chỉ có thể nương n|o trên đảo Đ{o Hoa bởi vì lão không biết trận thế trên đảo. (Kim Dung - “Xạ điêu anh hùng truyện”). Có những hải đảo lại được sự phòng vệ thiên nhiên như “Thần Long đảo” (Kim Dung - “Lộc Đỉnh ký”), trên đảo đầy rắn độc, người thường không c|ch gì lên được đảo. Người ở trên đảo tất nhiên võ công cao cường, bởi vì sau khi suy ngẫm về quá khứ thì miệt mài luyện võ. Sau khi đ~ luyện đạt đến hỏa hầu kh| cao thì vì tĩnh qu| lại muốn động, muốn trở lại Trung Nguyên rửa hận. Cho nên đối với Trung Nguyên thì hải đảo là một mối đe dọa tầm xa. Sòng bạc lầu xanh (đổ trường kỹ viện) Sòng bạc lầu xanh đều chẳng phải đất l{nh, nhưng người giang hồ lại riêng thích đến những nơi bất hảo như thế, thậm chí hiệp khách chính phái trong giang hồ cũng tr{ trộn ở đó. Người giang hồ vốn thích đ|nh bạc, thích nhất l{ “c| độ” đầu người, còn bạc vàng châu báu chỉ là canh bạc nhỏ, là chuyện vặt. Đ|nh bạc là một cõi “triết học nh}n sinh”. Vi Tiểu Bảo (Kim Dung - “Lộc Đỉnh ký”) thích đ|nh bạc, ngay cả khi y bị khốn trong thôn quả phụ, trong tình hình y không biết Ngao Bái là kẻ thù hay l{ đồng bọn thì cái tính cách con bạc vẫn phát t|c, nghĩ bụng: “Bố mày thua thì thua sạch s{nh sanh m{ được thì được tất cả.” Đối với hiệp kh|ch m{ nói, đối thủ lớn nhất trong canh bạc không phải l{ người mà là số phận. Cuộc sống giang hồ đầy sóng gió bất trắc, ở giữa khoảng sống chết cách nhau trong đường tơ kẽ tóc, bao nhiêu điều khó lường, họ phải có được th|i độ sống ung dung, an nhiên tự tại. Họ không cam chịu sống tầm thường, sống tầm thường thà chết quách. Há chẳng thấy Lý Tầm Hoan sau khi giết Thượng Quan Kim Hồng, phá tan hắc bang Kim Tiền bỗng cảm thấy hiu quạnh giống như kẻ thất bại lại là chính mình. Không có cái vị lai khó đo|n, không có canh bạc nhân sinh thì thật là vô vị. C|ch đ|nh bạc của khách giang hồ khác với người thường. Người thường đ|nh bạc hay bày trò gian lận hoặc dùng xảo thuật, còn khách giang hồ thích lấy khí thế chế ngự cuộc đỏ đen, dùng võ công điều khiển “con b{i”. Vi Tiểu Bảo tự cho là cao thủ trên chiếu bạc, nhưng khi y đi qua một sòng bạc n{o đó ở Quảng Tây, nhìn thấy công lực của đ|m con bạc ở đó thì y cũng chỉ lác mắt ngó. Có người biểu lộ công lực giành phần thắng trong canh bạc, có người không phục, thế l{ “đổ trường” (sòng bạc) biến th{nh “đồ trường” (nơi chém giết). Người không có quả đấm mạnh mà vào sòng bạc thì cũng như con bò đi v{o lò mổ. Còn kỹ viện (lầu xanh)? Hiệp kh|ch chính ph|i nói chung l{ không đến lầu xanh, nhưng nhiều khi vì tình thế bắt buộc thì cũng phải liều. Lệnh Hồ Xung đ~ từng có lúc phải cùng Nghi Lâm và Khúc Phi Yên lánh nạn trong kỹ viện (Kim Dung - “Tiếu ngạo giang hồ”). Kh|ch giang hồ đến lầu xanh là chuyện thường, bởi giang hồ quạnh quẽ. Cao thủ giang hồ thường bao kỹ nữ, đặc biệt là danh kỹ. Cho nên kẻ thù thường đến kỹ viện quấy rối họ. Thế là phồn hoa biến thành rừng kiếm. Ở chốn lầu xanh cũng có người thục nữ, như Đổng Tiểu Uyển, đến ho{ng đế cũng thất điên b|t đảo vì nàng huống chi là khách giang hồ? Danh kỹ và danh hiệp thường tìm được tiếng nói chung, bởi vì họ đều không quan t}m đến sự sống chết thì còn kể gì đến danh dự thế tục. Khách giang hồ thích chơi với kỹ nữ mà kỹ nữ cũng thích chơi vơi kh|ch giang hồ, đặc biệt l{ thích chơi với danh sĩ giang hồ. Lâm Tiên Nhi (Cổ Long - “Đa tình kiếm khách vô tình kiếm”) từng chơi cho một loạt cao thủ võ l}m xoay như chong chóng, người chết vì ả nhiều không kẻ xiết. Nhiều sòng bạc lầu xanh là tài sản của giang hồ hắc đạo, vì thế khách giang hồ trà trộn trong đó cũng l{ chuyện đương nhiên. Cung đình - Sơn trang Cung đình v{ sơn trang - một tại triều, một tại dã (thôn dã), vừa có cung đình vừa có sơn trang, thế là thành thiên hạ. Kẻ thống trị ở cung đình, kẻ bị trị ở sơn trang thôn d~. Ở điểm n{y m{ nói, cung đình v{ sơn trang có tính đối kháng rõ rệt. Sơn trang bị cuốn vào thế giới giang hồ vì gốc rễ của người giang hồ là ở sơn trang. Cho nên vô luận người của quan nha truy nã khách giang hồ hay l{ người giang hồ tìm kẻ thù đều đến sơn trang. Dù vậy, sơn trang thuộc thế giới giang hồ cũng không nhiều. Sơn trang bị cuốn vào giang hồ vì trong trang có người giang hồ. Trong giang hồ, sơn trang nổi tiếng không nhiều. Sơn trang sở dĩ lừng lẫy giang hồ một là vì trong trang có nhân vật kiệt xuất, hai là vì trong trang có bí kíp võ công gia truyền tuyệt thế. Phái Thục Trung Đường danh động giang hồ vì ở đó có |m khí v{ độc công đệ nhất thiên hạ; Nam Cung thế gia nổi tiếng vì có phép đ|nh roi tổ truyền; Mộ Dung thế gia ở Cô Tô nổi tiếng vì có môn võ gia truyền “lấy gậy ông đập lưng ông”. Động Đình sơn trang một thời uy phong trấn tám phương vì nó đ~ từng l{ cơ nghiệp của Trương Đan Phong. Sơn trang l{ nơi quyền thống trị của quan phương kh| mạnh cho nên người giang hồ ở trong sơn trang thường có hai bộ mặt, bên ngoài là dân lành thần phục triều đình m{ trong bóng tối lại là khách giang hồ. Làm việc phi pháp thì tốt nhất l{ không để quan phủ biết được, nếu không thì khó lòng ở được trong trang. Người giang hồ đến sơn trang tìm kẻ thù thường v{o ban đêm. Cho nên sơn trang bị làm cỏ trong một đêm l{ chuyện thường. Đương nhiên giữa ban ngày ban mặt trong sơn trang cũng có thể đổ máu, kẻ giết người tất phải có đảm lược và võ công cao cường. Cung đình bị cuốn vào vòng giang hồ trước hết l{ vì người trong cung không cho phép xã hội giang hồ tồn tại; thứ nữa là những vị khách giang hồ to gan thích quấy nhiễu vua. Trong cung có quân cấm vệ, tiến ra thì đ|nh giang hồ, lui vào thì bảo vệ hoàng thân quốc thích, cho nên nếu không phải là kẻ đ~ ăn mật cọp thì chẳng dám vào cung vuốt râu cọp. Người giang hồ vào cung hoặc l{ để hành thích (ám sát) hoặc l{ để cứu người. Đôi khi có vị cuồng khách giang hồ v{o cung để tỏ rõ bản lĩnh của mình, như Hồng Thất Công (Bắc C|i trong “Xạ điêu anh hùng truyện”) thường vào ngự thiện phòng (nhà bếp hoàng cung) trộm thức ăn. Động cơ v{o cung của Trương Đan Phong rất đặc biệt - ch{ng v{o cung để khuyên ho{ng đế cải tà quy chính. Rất ít người v{o cung m{ đạt được mục đích, ngo{i Lữ Tứ Nương (|m s|t Ung Chính) ra thì không có người thứ hai. Người lẻn vào cung nhọc xác mà quay trở về được là may mắn rồi; còn thông thường l{ m|u đẫm cung đình. “Bạch phát ma nữ” mười phần tài giỏi nhưng n{ng v{o cung cũng chỉ phí công toi. Còn có loại bị người ta bắt v{o cung như Vi Tiểu Bảo và Mao Thập B|t. Nhưng hai người n{y được phúc tinh chiếu, may không mất mạng. Có lẽ chính vì thế một khi có người vào cung thì chỉ trong vài ngày tiếng đồn đ~ vang động chốn giang hồ. Nếu khách giang hồ có một vùng cấm địa, thì cấm địa đó chính l{ cung đình. Việc giang hồ (giang hồ sự) Người giang hồ quản việc giang hồ không liên quan gì đến người thường. Giang hồ có một việc chủ yếu: giết. Lấy giết người để chặn đứng việc giết người, giết người để cứu người. Mũi kiếm không hề dính máu, lấy đạo nghĩa v{ uy danh để chinh phục người ta như Sở Lưu Hương l{ rất hiếm. Giang hồ là tử địa. Khách giang hồ đều biết chốn giang hồ phong ba hiểm |c. Thơ Nguyên Chẩn có câu: Hiệp khách bất phạ tử, Phạ tử sự bất thành. (Hiệp khách không sợ chết Sợ chết việc chẳng thành). Người giang hồ liều mạng, quên chết mục đích vẫn là vì cuộc sống, “đặt vào chỗ chết mới tìm ra đường sống”. Người mới bước chân vào chốn giang hồ thường sợ phải trở thành kẻ cướp. Họ sở dĩ giẫm chân vào gió bụi giang hồ là vì trong xã hội quan phương họ không có chỗ đứng nên phải rơi v{o chốn giang hồ tìm đất sống. Hiệp kh|ch bước vào cõi giang hồ cũng vì sự sinh tồn, vì cũng không có chỗ đứng trong xã hội quan phương. Hiệp kh|ch v{ đạo tặc tuy bản chất kh|c nhau nhưng có một điểm chung là không có chỗ dung thân trong xã hội quan phương. Trong nội bộ thế giới giang hồ, cường đạo muốn sinh tồn phải dựa vào việc “giết người”, mà hiệp khách muốn ngăn chặn sự giết chóc cũng phải dựa vào sự “giết”. Cùng l{ “giết” nhưng xuất ph|t điểm và mục đích lại khác nhau. Hiệp kh|ch v{ cường đạo cùng rong ruổi giang hồ, giang hồ vì thế mà không thể bình lặng, giang hồ nhiều chuyện lắm thay. Việc giang hồ có thể chia làm hai loại lớn, một là cuộc đấu tranh giữa giang hồ và quan phủ, một nữa là việc trong nội bộ giang hồ. Đấu tranh giữa giang hồ với quan phủ là tuyệt đối, tranh đoạt trong nội bộ giang hồ l{ tương đối. Giang hồ và quan phủ [6] Người giang hồ đều có tư tưởng vô chính phủ, theo đuổi tự do cá tính không bị ràng buộc, cho nên việc họ phản kháng quan phủ là tất nhiên. Quan phương quyết không chấp nhận sự tồn tại của “x~ hội thứ hai” không tu}n vương ph|p, thì việc họ quyết tiễu trừ người giang hồ cũng l{ điều tất nhiên. Lục lâm là trận tuyến h{ng đầu trong cuộc đấu tranh giữa giang hồ v{ quan phương. Người lục lâm lấy núi hoặc sông l{m căn cứ địa v{ thường liên kết với nhau để đối phó với sự công kích của quan phủ. Tất nhiên phía quan binh cũng coi c|c căn cứ địa của lục lâm là mục tiêu công kích. Lương Sơn Bạc (trong “Thủy hử”) mấy phen bị đại quân vây quét, cuối cùng thì bị “chiêu an”. Đại bản doanh của minh chủ lục lâm Thiết Ma Lặc (“Đại Đường du hiệp truyện”, “Tuệ t}m ma” của Lương Vũ Sinh) mấy phen bị thiêu trụi. Lục l}m cũng thường chủ động xuất kích, đặc biệt hay cướp qu}n lương, cống phẩm. Lục l}m cũng có khi liên hợp với quan phủ, chủ yếu là cùng chiến đấu chống qu}n x}m lược. Chẳng hạn như Liễu Thanh Dao (trong “Cuồng hiệp, thiên kiêu, ma nữ” của Lương Vũ Sinh) từng thống lĩnh lục lâm 5 tỉnh phương Bắc hiệp đồng với quan binh chiến đấu với quân Liêu ở Thái Thạch Cơ khiến cho lời nói huênh hoang “Gò ngựa đỉnh non Ngô” của Ho{n Nhan Lượng chỉ là chuyện hão. Chùa chiền v{ sơn trang l{ chiến tuyến thứ hai trong cuộc đấu tranh giữa giang hồ và quan phủ. Thiếu Lâm tự từng mấy lần bị thiêu hủy, còn sơn trang của các cao thủ giang hồ bị quan binh bao v}y v{ sưu tra l{ chuyện thường thấy trong tiểu thuyết võ hiệp. Đối với những tay du hiệp giang hồ v{ đạo tặc đơn độc, quan phủ thường dùng cách bắt giết. Những cuộc tụ họp của võ lâm là thời cơ thuận lợi nhất để quan binh bắt giết người giang hồ. Ho{ng đế Khang Hy đ~ từng lợi dụng lúc các hiệp sĩ trong “Thiên Địa hội” v{ “Mộc Vương phủ “ tụ tập ở phủ tử tước Vi Tiểu Bảo ph|i binh đến v}y đ|nh, toan bắt giết thủ lĩnh của Thiên Địa Hội và các hiệp sĩ Mộc Vương phủ (“Lộc Đỉnh ký” của Kim Dung). Cuộc đấu tranh giữa giang hồ và quan phủ chỉ đ|ng gọi l{ “chuẩn giang hồ sự” hoặc “tiền giang hồ sự”. Người giang hồ mơ tưởng một “thế giới giang hồ” siêu tho|t khỏi thế giới quan phủ. Đ}y l{ sứ mệnh cơ bản nhất. Bởi vậy, giang hồ vượt thoát khỏi trói buộc của quan phủ cũng chỉ đ|ng gọi l{ “tiền giang hồ sự”. Nếu thực hiện được sự “vượt qua” n{y cũng chưa chiếm “một chiếu” trong “việc giang hồ”. Nhưng trên thực tế, sự siêu việt (vượt qua) này rất ít khả năng thực hiện được. Đ~ l{m người giang hồ thì luôn luôn đấu tranh với quan phủ; vì thế m{ đấu tranh giữa giang hồ và quan phủ là tuyệt đối. Nội bộ thế giới giang hồ Thế giới giang hồ là không gian sinh tồn của người giang hồ. Bất kỳ xã hội n{o cũng có mâu thuẫn xã hội cơ bản của mình. Thế giới giang hồ cũng có m}u thuẫn cơ bản trong lòng nó. Có mâu thuẫn tất có đấu tranh, có đấu tranh tất có lắm chuyện. Việc giang hồ tất nhiều. Đấu tranh chính - tà Xưa nay chính với tà, hiệp sĩ với đạo tặc luôn không đội trời chung. Cuộc đấu tranh giữa chính với tà khiến thế giới giang hồ dậy sóng. Ai l{ đạo tặc? Ai là hiệp khách? thật khó phân biệt. Trong con mắt quan phương, đạo tặc l{ đạo tặc, hiệp kh|ch cũng l{ đạo tặc. Minh chủ lục lâm Thiết Ma Lặc l{ đại đạo, đồng thời lại được tôn l{ đại hiệp. Nhạc Bất Quần l{ chưởng môn ph|i Hoa Sơn, hiệu l{ “Qu}n tử kiếm”, danh tiếng hiệp khách lẫy lừng thiên hạ nhưng ai có thể nói rằng y không phải là “đạo”. Sự phân biệt chính t{ cũng hỗn mang như thế. “Ho{ng L~o T{” (Đông T{ Ho{ng Dược Sư) lại không tà... Chính những điều này khiến cho ranh giới chính tà trở nên khó x|c định rạch ròi. Từ xuất th}n, địa vị, tiếng tăm, lời nói v{ h{nh động của người trên chốn giang hồ đều không đủ để phân biệt chính tà. Vì vậy việc phân biệt chính tà chỉ có thể dựa trên tiêu chuẩn đạo nghĩa [7] . Các tác giả khác nhau xuất phát từ tiêu chuẩn đạo nghĩa kh|c nhau, ph}n chia nhân vật trong tác phẩm thành hai phía chính-tà. Sự phân chia chỉ là trên nguyên tắc. Nói chung, tác gia tiểu thuyết võ hiệp theo ý chí chủ quan của mình m{ x|c định tính chất của nhân vật giang hồ một cách thiếu công bằng. Kiều Bắc Minh (trong “T|n hoa nữ hiệp” của Lương Vũ Sinh) l{ con người rất ích kỷ, nhưng khi ông ta tranh chấp với người vẫn mang phong độ của một vị tông sư, tinh thần truy cầu võ học và cống hiến của ông ta không hề thua kém Trương Đan Phong, vậy m{ Lương Vũ Sinh cho rằng ông ta đứng đầu bọn tà ma thì e rằng định kiến thiên lệch. Một hiện tượng rất thú vị là cái gọi l{ “nh}n vật chính ph|i” cũng thường làm những việc bất chính với thủ đoạn thấp hèn chẳng kém gì “nh}n vật t{ ph|i”. C{ng đê tiện hơn l{ “nh}n vật chính ph|i” khi l{m việc xấu lại thường tìm cách nấp dưới những chiêu bài tốt đẹp, như thế thì thực sự là không quang minh bằng “nh}n vật tà ph|i”. C|ch lấp liếm của họ thường l{ “Gặp Văn vương thì dùng lễ nhạc, gặp Kiệt Trụ thì dùng đao binh”, để đối phó với kẻ xấu thì thủ đoạn n{o cũng có thể sử dụng. Vậy thì những “thủ đoạn thấp hèn” thường bị chỉ trích của nhân vật tà phái có gì là xấu xa? Tiêu Phong (trong “Thiên Long b|t bộ” của Kim Dung) từng bị võ lâm chính phái Trung Nguyên vây đ|nh. C|i đạo nghĩa đ|ng tự hào của nhân vật chính phái Trung nguyên ở đ}u? Nguyên tắc đạo nghĩa chính ph|i được biểu hiện ở đ}u? Nói tóm lại: sự phân biệt giữa chính v{ t{ cũng chả có nguyên tắc gì cả. Trung Quốc xưa nay rất coi trọng việc “ra binh có danh nghĩa” (“Xuất sư hữu danh”), không có “danh” thì phải tìm “danh”. Chó sói muốn ăn thịt cừu thì cứ việc ăn, thế mà lại còn lấy lý do là vì cừu làm bẩn nước sông. Người trong chốn giang hồ cứ thích nêu chiêu bài “đấu tranh chính t{” khi họ tranh giành lợi ích với nhau. Ch}n lý l{ tương đối. Thuyết “địa t}m “ (tr|i đất là trung tâm) của giáo hội là sai lầm, thuyết “nhật t}m” (mặt trời l{ trung t}m) cũng sai lầm nốt. Côpecnic cho rằng mình chết vì chân lý, thực ra cũng l{ một sự sai lầm. Đó l{ bi kịch của lịch sử. Người giang hồ cũng mang màu sắc bi kịch của lịch sử. Nhậm Ng~ H{nh (trong “Tiếu ngạo giang hồ” của Kim Dung) ôm mộng tưởng nhất thống giang hồ; Tần Thủy Hoàng thống nhất s|u nước, ai đúng ai sai? C|c cao tăng chùa Thiếu Lâm dù thông suốt tất cả nhưng vẫn bị cuốn vào bi kịch lịch sử một cách không tự giác. Người giang hồ chẳng biết thế nào là chính thế nào là tà mà lại “đấu tranh chính t{” đời n{y sang đời khác. Có lẽ vì không biết đ}u chính đ}u t{ cho nên mới “đấu tranh chính t{” chăng? Xưa nay “t{ không thể thắng chính”, vậy thì kẻ thắng lợi tất nhiên l{ chính ư? Nhân vật chính phái kết th{nh “chính gi|o”, nh}n vật tà phái kết th{nh “ma gi|o”. Chính t{ chẳng đội trời chung, thế là trên chốn giang hồ các cuộc đấu tranh không bao giờ ngừng nghỉ. Chốn giang hồ như thế không thể tồn tại tự do cá tính. Hồng Thất Công nói rằng làm ăn m{y vì muốn tự do tự tại, thảo nào Lệnh Hồ Xung, Vi Tiểu Bảo đều muốn rút thân ra khỏi chốn giang hồ. Trong xã hội quan phương, có thể nói (một c|ch tương đối) rằng các hiệp kh|ch l{ đại biểu cho chính nghĩa. Phẩm đức hành hiệp trượng nghĩa, tế khốn phò nguy của họ được người đời ca ngợi. Nhưng sau khi hiệp khách không chốn dung thân trong xã hội quan phương m{ lu}n lạc giang hồ, từ chỗ chiến đấu vì người khác chuyển thành chiến đấu vì sự sinh tồn của mình, thì lúc đó rất khó nói rằng họ đại biểu cho “chính nghĩa”. Thế nhưng, đ~ l{ một xã hội thì cần có chính nghĩa. Chiến đấu vì chính nghĩa l{ đúng đắn. Nếu nói rằng những người như Lệnh Hồ Xung chống sự nhất thống giang hồ của Nhậm Ngã H{nh l{ đúng, Nhậm Ng~ H{nh cũng không sai, vậy thì sự phân biệt chính nghĩa với tà ác trong chốn giang hồ là cái gì? Là ở đ}u? Đó l{ b{i to|n khó giải trong thế giới giang hồ. Tranh chấp môn phái Quan niệm môn phái rất mạnh trong xã hội giang hồ bắt nguồn từ quan niệm tông tộc bền vững trong xã hội Trung Quốc. Rất nhiều môn phái trong giang hồ kỳ thực l{ được kiến lập trên cơ sở tông tộc. Các thế gia võ l}m đủ sức ngang hàng với c|c danh môn đại phái, có địa vị quan trọng trên giang hồ, như “Mộ Dung thế gia”, “Nam Cung thế gia”, “Thục Trung đường môn” v.v... Rất nhiều sơn trang tiếng tăm hiển hách trong giang hồ như “Chúc gia trang”, “Tụ hiền trang”, “S|t nh}n sơn trang”. “Thầy trò như cha con, đồng môn là huynh đệ”. Quan niệm như thế về môn phái khiến các môn phái trên giang hồ được kiến lập trên cơ sở quan hệ “chuẩn huyết duyên”. Đồng môn vinh nhục, sống chết có nhau. Một người gặp nạn đồng môn đều có trách nhiệm cứu ứng; trong môn ph|i có người bị giết, đồng môn tất phải báo thù. Thế là, mỗi môn phái trên giang hồ đều có môn quy của bản phái. Môn quy này có giá trị như ph|p luật, kẻ vi phạm tất phải xử phạt, nặng thì bị trục xuất khỏi bản phái, thậm chí bị “thanh lý môn hộ” (giết chết). Người giang hồ một khi bị trục xuất khỏi môn ph|i thì như chó nh{ đ|m, không còn mặt mũi n{o để nhìn giang hồ đồng đạo. Khi Lệnh Hồ Xung bị Nhạc Bất Quần đuổi khỏi phái Hoa Sơn cũng l{ khi ch{ng lưu lạc giang hồ. Mai Siêu Phong được Ho{ng Dược Sư cho trở lại môn ph|i đ~ cho rằng mình l{ người may mắn nhất. Sự thịnh suy của môn phái liên quan đến vinh nhục của người trên chốn giang hồ. Khi Tiêu Phong làm bang chủ Cái bang, Cái bang là bang lớn đứng đầu thiên hạ, được người giang hồ càng thêm kính trọng. Khi Tiêu Phong bị đuổi khỏi Cái bang, Cái bang mất đi |nh s|ng, đệ tử Cái bang chỉ còn là những kẻ ăn m{y thực sự, khắp nơi bị người khinh rẻ. Thảo nào bang chúng Cái bang thiết tha yêu cầu Tiêu Phong trở lại địa vị bang chủ. Tai họa diệt bang cũng như tai họa mất nước, cho nên các môn phái trên giang hồ đều cố gắng làm rạng rỡ môn phái, vì sự vinh nhục hưng suy của môn phái mà sẵn sàng hiến dâng sinh mệnh. “Tranh chấp môn ph|i” l{ tranh chấp gì đ}y? Thứ nhất l{ “danh”, thứ hai l{ “lợi”, vì danh dự mà chiến đấu. Th|i Sơn, Bắc Đẩu của c|c danh môn đại phái trên giang hồ - một là Thiếu Lâm, một l{ Vũ Đương (Võ Đang). Thiếu L}m, Vũ Đương, để duy trì sự tôn quí của bản môn, ng{n năm nay đ~ tiến h{nh đấu tranh không hề ngừng nghỉ. Các môn các phái muốn có chút tiếng tăm, đều muốn một phen so tài với Thiếu L}m, Vũ Đương. Thế l{ cao tăng chùa Thiếu L}m, đạo sĩ núi Vũ Đương phải rời Phật kinh Đạo tạng mở ra những cuộc sát lục tàn nhẫn ở trong và ngoài chốn tĩnh thổ. “Kho|i Lạc Bang” (trong “Tịch mịch cao thủ” của Ôn Thụy An) để đoạt được danh hiệu “lớn nhất” đ~ phải trả gi| qu| đắt, rồi để giữ gìn danh hiệu ấy lại phải không ngừng “minh tranh |m đấu” với c|c đại môn phái khác, cuộc đấu tranh quyết liệt chẳng khác gì tranh bá của c|c chư hầu thời Xu}n Thu. “Ngũ Nhạc kiếm ph|i” “đồng khí liên chi” muốn tranh một chiếu trên chốn giang hồ (trong “Tiếu ngạo giang hồ” của Kim Dung), nhưng trong nội bộ Ngũ Nhạc kiếm phái lại vì tranh đoạt quyền l~nh đạo mà phái n{o cũng giở những thủ đoạn xảo tr|, tranh gi{nh nhau đến kinh t}m động ph|ch. Để tranh đoạt địa vị bá chủ khu vực, cuộc đấu tranh của c|c môn c|c ph|i cũng thảm khốc phi thường. Như “Ngư nh}n bang” v{ “Động Đình bang” (trong “Vũ Đương nhất kiếm” của Lương Vũ Sinh) vì tranh đoạt địa b{n m{ đ|nh nhau hết năm n{y sang năm kh|c. Kết thúc cuộc đấu tranh thường xuất hiện bá chủ của một vùng, thế là lại diễn ra cuộc đấu tranh chống bá quyền. Các cuộc đấu tranh môn phái trên chốn giang hồ liên miên chẳng bao giờ dứt. Tranh chấp võ công Giang hồ không chuộng hư danh. Tiếng tăm của người giang hồ gắn liền với võ công cao cường. Hai tay của vị “cao thủ võ l}m” n{o cũng đẫm m|u. Điều n{y cũng như vị tướng quân trong xã hội quan phương, tiếng tăm của một vị danh tướng cũng được xây dựng trên xương m|u. Người giang hồ là nhà võ, luyện võ giết người là việc thường ngày của người giang hồ. Người võ công tầm thường không những không thể giết người m{ cũng khó lòng tự bảo vệ mình. Cho nên quyến rũ người giang hồ không gì bằng bí cấp võ công. Người giang hồ có thể không coi tiền bạc ra gì, coi sinh mạng như trò đùa nhưng coi trọng võ công cũng như tín nghĩa. Người giang hồ coi tín nghĩa l{ gốc, võ công l{ phương tiện. Không có võ công thì cũng không thể bảo vệ tín nghĩa. Người giang hồ thích nhất là ấn chứng võ công. Một cuồng hiệp có thể chạy đến chùa Thiếu Lâm hoặc núi Vũ Đương gọi đích danh chưởng môn ra tỉ võ. L~o tăng Gi|c Viễn ở Tàng Kinh Các chùa Thiếu L}m trong tình hình chúng tăng trong chùa bị mất hết sức lực đ~ ra tay đ|nh bại tổ sư ph|i Linh Thứu vì thế m{ danh động giang hồ. Mấy phen “Hoa Sơn luận kiếm”, lần n{o cũng l{ để tranh đoạt danh hiệu “Võ l}m đệ nhất cao thủ”. Tranh đoạt võ nghệ chính tông cũng l{ việc m{ người giang hồ thích làm. Hai họ Hoắc và Triệu ở Thiên T}n năm n{y qua năm kh|c tranh gi{nh nhau để chứng minh ai là chính tông “mê tung nghệ”. Ph|i Thiếu L}m v{ ph|i Vũ Đương l{ hai đại ph|i trong võ l}m, nhưng ngay cả đến họ cũng thích tranh đoạt danh hiệu “võ l}m chính tông”. Người giang hồ một phen thất bại bởi một môn võ công n{o đó, tất dốc toàn tinh lực một đời để nghiên cứu cách phá giải. Hải Vô Nhan (trong “Vô Ưu công chủ” của Tiêu Dật) thất bại bởi “Túy Kim Ô”, th}n bị trọng thương, không chữa thì chết. Nhưng Hải Vô Nhan bằng nghị lực ngoan cường đ~ chịu đựng vết thương trí mạng, ra sức nghiên cứu cách phá giải, cuối cùng đ~ đ|nh bại cao thủ “Túy Kim Ô” ở đảo Bất Lạc. Để bảo vệ sự tôn nghiêm của võ công bản môn, chưởng môn thường nghiêm cấm đệ tử học võ công của môn phái khác. Học trộm võ công của môn ph|i kh|c thường bị coi l{ điều đại kỵ trong võ l}m. C|c môn c|c ph|i đều giữ bí truyền võ công của môn phái mình. Công Tôn Kỳ (trong “Cuồng hiệp thiên kiêu ma nữ” của Lương Vũ Sinh) để học võ công của Tang Kiến Điền mà lấy con gái nhà họ Tang nhưng rốt cuộc anh ta vẫn là người khác họ, tuy học được võ vẽ đôi chút nhưng bị tẩu hỏa nhập ma. Dù học lén võ công của môn phái khác bị coi l{ điều đại kỵ trong võ l}m nhưng trong giang hồ vẫn thỉnh thoảng có việc ăn trộm bí cấp võ học. C|c “thần th}u” (kẻ trộm như thần) thường “chiếu cố” T{ng Kinh C|c của chùa Thiếu Lâm. Một khi đ~ vớ dược thì người trong giang hồ lại một phen tranh đoạt. Không có điều gì l{m c|c cao tăng chùa Thiếu Lâm tức giận bằng việc tàng kinh các bị mất trộm. Một khi bị mất trộm, trước khi tìm lại được thì giang hồ không thể bình yên. Xoay quanh việc tranh đoạt bí cấp võ học là một trong những sóng gió lớn nhất trên chốn giang hồ, cho nên kẻ võ công tầm thường tốt nhất là không nên nhúng tay vào, nhúng tay vào tất chết.Chưa nói đến “Dịch c}n kinh” của Thiếu Lâm tự, chỉ l{ng nh{ng như “Vô sắc kiếm phổ” (trong “Ho{ng Kim Kh|ch” của Thu Mộng Ng}n) cũng đủ khiến bao kẻ giang hồ mất mạng. Tranh giành tiền tài Có câu ngạn ngữ rằng “Người chết vì tiền, chim chết vì mồi”. Người giang hồ tuy trọng nghĩa khinh t{i, nhưng họ cũng không phải là thần tiên không cần ăn uống. Họ vẫn cần cơm |o cho nên người giang hồ còn phải tranh giành tiền tài. Có người bảo tiêu (bảo vệ hàng hóa) thì có kẻ cướp tiêu. Tranh đoạt tiêu ngân (hàng hóa và kho tiền) là khu vực nhạy cảm của việc tranh đoạt tiền tài. Mà tiêu ngân lại vừa khéo gắn với uy tín của tiêu cục, một khi bị mất thì tất phải nghĩ mọi c|ch để đoạt về. “Bạch phát ma nữ” (trong “Bạch phát ma nữ truyện” của Lương Vũ Sinh) còn có hiệu l{ “Ngọc La S|t”, n{ng thích nhất l{ cướp tiêu cục, đặc biệt l{ thích cướp tiền tài bất nghĩa. Kẻ bị mất tất phải tìm cao thủ khắp nơi để tìm hàng hóa tiền tài về, thế là chỉ một tiêu cục cũng dẫn đến sóng gió giang hồ. Cướp cống phẩm, tiền lương l{ việc mà các hào khách trong giang hồ đặc biệt thích thú. Trương Tiểu Hổ trong “Liên kiếm phong vân lục” của Lương Vũ Sinh) từng suất lĩnh võ công cao thủ cướp cống phẩm của triều đình, chỉ để cho hai đường Vân Nam và Chiết Giang đến được kinh đô. Ngô Dụng (trong “Thủy hử truyện” của Thi Nại Am) cùng nhóm Tiều C|i cướp cống phẩm của Lương Trung Thư do Dương Chí bảo vệ, khiến Dương Chí không thể không làm nghề lạc thảo. Vợ chồng Ho{ng Kim Kh|ch (trong “Ho{ng Kim Kh|ch” của Thu Mộng Ngân) tuy làm nghề bảo tiêu nhưng họ cũng l{ những tay cướp tiêu đ|ng sợ, chẳng khác gì bọn đòi tiền mãi lộ. Các hiệp khách giang hồ thích cướp của nh{ gi{u để giúp người nghèo. Lục l}m cường đạo thích đ|nh c|c gia trang, đều là việc tranh đoạt tiền t{i. C|c nh{ gi{u đau đầu nhất là bị c|c “kẻ đi đêm” “chiếu cố đến thăm”, bởi vì chỉ cần trong một đêm có thể mất sạch tài sản. Ngoài ra còn có của báu gia truyền, tuyệt đối không được lộ ra, nếu không cả người và của đều mất. Cho nên người có kinh nghiệm thường khuyên kẻ mới vào chốn giang hồ chớ có lộ của cải kẻo nguy hiểm. Tuyệt nhất trong việc “trấn” tiền l{ “bất lạc quyên” của “Bất Lạc bang”. Người bị “bất lạc quyên” trưng thu tuy không vui vẻ gì nhưng còn “được” giao nộp như số. “Trấn” tiền kiểu “thủ t{i nô” cũng rất tuyệt. “Thủ t{i nô” (trong “Vô Ưu công chủ” của Thu Mộng Ngân) thích trưng thu thuế đầu người, giá chuộc căn cứ theo tiếng tăm, địa vị của kẻ bị bắt. Kẻ bị trưng thu nghĩ đủ mọi cách rồi cũng phải nộp “thuế đầu người”, cho nên người nổi tiếng tốt nhất là không nên gặp “thủ t{i nô”. Tranh chấp bởi ân cừu Cái dụng của võ công là giết người. Giết người tất kết oán. Có kẻ giết người thì cũng có kẻ cứu người, kẻ cứu người tất người được cứu mang ơn. Người giang hồ rất coi trọng có ơn trả ơn, có thù b|o thù, }n o|n ph}n minh. Đối với đo{n thể mà nói, thù lớn nhất là thù kẻ cướp nước, thứ đến là diệt môn ph|i; đối với cá nhân mà nói, mối thù lớn nhất là thù giết cha mẹ. Quần hùng trong Thiên Địa Hội (“Lộc Đỉnh ký” của Kim Dung) giương cao ngọn cờ “phản Thanh phục Minh”, đấu tranh với nhà Thanh, nguyên nhân là vì mối thù mất nước. Bi kịch của Tiêu Phong (trong “Thiên Long b|t bộ” của Kim Dung) bắt nguồn từ chỗ ch{ng rơi v{o giữa mối thù của hai nước Tống-Liêu. Người giang hồ tuy chống quan phủ nhưng vẫn yêu nước, cho nên bọn người tư thông với nước địch như Công Tôn Kỳ bị coi là bại hoại, không có chỗ dung thân trên giang hồ. Diệt môn cũng như vong quốc hận. Đối với người giang hồ, môn phái tức là quốc gia. Cho nên một môn phái nếu bị tiêu diệt, bị thôn tính thì thành viên của môn phái tất phải suốt đời cố gắng khôi phục bản môn và báo mối thù diệt môn. “Tinh Vũ môn” bị võ sĩ Nhật Bản mượn tay quan phủ đóng cửa, c|c đệ tử của Hoắc Nguyên Giáp nếm mật nằm gai, quyết chí xây dựng lại Tinh Vũ môn, ph|t huy “mê tung nghệ”. Nguyện vọng này cuối cùng được Hoắc Đông C|c thực hiện. Mối thù của cha mẹ là mối thù không đội trời chung. Cái gọi l{ “hữu thù bất báo phi quân tử”, căn th}m đế cố của quan niệm này tạo thành sát kiếp không bao giờ thôi trên chốn giang hồ. Các bậc trí giả nói rằng: “o|n thù nên giải không nên kết”, than thở rằng “oan oan tương b|o h{ thời liễu”, nhưng xưa nay siêu tho|t được mấy người? Lâm Bình Chi vì báo thù cho cha mẹ, đ~ không tiếc thân mình, tự cung luyện võ. Đối với chàng trên thế giới chỉ có cừu hận, ngoài báo thù ra, sự sống trên đời này chẳng có ý nghĩa gì (Kim Dung - “Tiếu ngạo giang hồ”) “Sư kiếm kh|ch” tìm mọi cách diệt “Kim kiếm minh” bởi vì “Kim kiếm minh” với chàng có mối thù không đội trời chung (Trần Thanh Vân - “Sư kiếm kh|ch”). Cừu hận trở th{nh ý nghĩa sinh tồn của người giang hồ. Một khi đ~ b|o được thù, hoặc hết hy vọng báo thù, thì tinh thần rệu r~, “Di Hoa Cung Chủ” xúi Tiểu Ngư Nhi quyết đấu một mất một còn với Hoa Vô Khuyết bởi vì giữa họ có mối thù không đội trời chung. Mối cừu hận n{y đ~ chiếm hết tinh lực tuổi thanh xuân của Di Hoa Cung Chủ. Khi Tiểu Ngư Nhi và Hoa Vô Khuyết biết được mối quan hệ huyết thống giữa hai người và nhận ra }m mưu hiểm ác của Di Hoa Cung Chủ, hai người bèn liên kết với nhau chống lại Di Hoa Cung Chủ. Di Hoa Cung Chủ tuy có thuật trụ nhan (giữ nhan sắc như trẻ) nhưng chỉ trong một đêm đ~ gi{ đi mấy chục năm. Người b|o được đại cừu chỉ trong khoảnh khắc trở th{nh người tinh thần trống rỗng. Loại người này từ khi mới sinh ra đ~ mang định mệnh làm khách giang hồ bởi vì họ mang mối thù sâu tựa bể, họ không thể không đi khắp nơi cầu danh sư, thậm chí có kẻ đến trước cửa những danh môn đại ph|i như Thiếu Lâm tự, quỳ suốt 7 ng{y 7 đêm, có lẽ đến khi chết đói hoặc chết cóng cũng không có người nhận họ l{m đồ đệ. Vì sao họ khắc khổ đến như vậy? Vì khi còn sống song thân của họ là kẻ địch chung của võ lâm hoặc do một nguyên nh}n n{o đó m{ để lại mối đại cừu khiến họ phải dốc lòng báo phục. Kẻ may mắn trải qua thiên nan vạn hiểm, học được võ công cao cường rồi bắt đầu báo thù. Sau khi báo được đại thù, mục đích cuộc đời đ~ đạt, tinh thần họ không còn nơi ký th|c. Chỉ đến lúc ấy họ mới nhận ra tất cả những việc đ~ l{m vốn chẳng có ý nghĩa gì lớn lao. Trên giang hồ có hai bi kịch lớn, một l{ đại thù đ~ b|o, một l{ chưa b|o được đại thù. Điều n{y cũng giống như lời của một nh{ văn Mỹ nói: đời người có hai bi kịch lớn - một l{ chưa đạt được điều sở nguyện, một l{ đ~ thỏa nguyện rồi. Người lão luyện giang hồ có lẽ cũng hiểu rõ rằng: tất cả những cuộc tranh đoạt trên chốn giang hồ rốt cuộc cũng chẳng có ý nghĩa gì. Có lẽ chính vì như thế nên người giang hồ thích nương mình cửa Phật hoặc rửa tay gác kiếm rút khỏi chốn giang hồ. “Mang ơn một giọt nước, đem cả dòng suối b|o đ|p” (“Trích thủy chi }n, đương dũng tuyền tương b|o”), “có ơn phải b|o” l{ một trong những tín điều m{ người giang hồ luôn ghi lòng tạc dạ. Vì trả ơn m{ người ta có thể làm bao nhiêu việc vô nguyên tắc làm dậy sóng giang hồ. Vì báo ân mà gây nên cừu hận mới; báo ân, phục cừu là vòng tuần hoàn ác tính trong thế giới giang hồ. Lịch sử giang hồ là một lịch sử ân cừu. Đạo nghĩa giang hồ Giang hồ là một xã hội. Đ~ l{ một xã hội thì tất nhiên có những chuẩn tắc hành vi và những quy phạm đạo đức mà mọi người đều phải tuân thủ. Những tiêu chuẩn hành vi và quy phạm đạo đức m{ người giang hồ cùng tuân thủ ấy l{ “đạo nghĩa giang hồ”. Đạo nghĩa giang hồ chia thành hắc đạo và bạch đạo. Mục tiêu lợi ích, hoàn cảnh sinh tồn và thủ đoạn mưu sinh của hắc đạo và bạch đạo kh|c nhau cho nên c|i “đạo” m{ họ coi trọng cũng kh|c nhau. Núi có “sơn quy”, chùa có “tự quy”, môn có “môn quy”. Nh}n vật hắc đạo và nhân vật bạch đạo theo những đạo nghĩa kh|c nhau. Trong phạm vi thế lực của bạch đạo phải theo bạch đạo; người của bạch đạo bước vào phạm vi thế lực của hắc đạo cũng phải theo hắc đạo. Người giang hồ đến núi Vũ Đương phải nộp vũ khí ở “giải kiếm trì” (hồ tháo kiếm), nữ hiệp giang hồ đến chùa Thiếu L}m cũng được phương trượng chùa Thiếu Lâm tiếp; đó đều l{ “giang hồ đạo”. Hắc đạo, bạch đạo đều sống trong thế giới giang hồ cho nên đều phải tuân thủ đạo nghĩa giang hồ. Người giang hồ lấy tín nghĩa l{m gốc, không thủ tín không thể lập thân, không trọng nghĩa không thể lập th}n. “Tín nghĩa” l{ quy phạm đạo đức chí cao vô thượng trong xã hội giang hồ. “Tín” tức là biết giữ lời, phải thành thật, “một tiếng ừ đ|ng gi| ng{n v{ng” (“nhất nặc thiên kim”). Người ở địa vị càng cao càng phải giữ chữ tín, nếu không thì sẽ mất tôn nghiêm trước đ|m tiểu bối thuộc hạ, mất uy tín trong giang hồ. Trong “Hiệp kh|ch h{nh” của Kim Dung, Tạ Yên Khách từng hứa một lời rằng: ai tìm được “huyền thiết lệnh” về cho ông ta, ông ta sẽ l{m cho người ấy một việc, bất kỳ đó l{ việc gì. Chú ăn m{y “Cẩu Tạp Chủng” tình cờ nhặt được “huyền thiết lệnh” v{ tự tay đưa lại cho Tạ Yên Khách. Ông ta liền tìm mọi c|ch để “Cẩu Tạp Chủng” yêu cầu mình làm một việc gì đó cho chú bé; nhưng “Cẩu Tạp Chủng” lại chẳng hề yêu cầu gì cả. Ông ta sốt ruột quá bèn dẫn “Cẩu Tạp Chủng” đi ăn bánh bao, muốn để chú bé phải nhờ ông ta trả tiền, rồi ông ta lại tìm cách khiến chú bé nhờ ông ta h|i t|o, nhưng kết quả là chú bé lại trả tiền bánh bao và hái táo cho ông ta. Thế là Tạ Yên Khách ghi lòng tạc dạ rằng mình vẫn còn chưa thực hiện lời hứa với chú ăn m{y “Cẩu Tạp Chủng”. Tạ Yên Khách vốn là nhân vật vừa chính vừa t{, thường vẫn ho{nh h{nh b| đạo trên chốn giang hồ nhưng lại cực kỳ trọng chữ tín, lời đ~ nói ra thì vững chắc như núi. Thế là một cao thủ võ lâm bị một chú bé ăn m{y xoay như chong chóng. Thế nhưng “người thiên hạ theo những “nghĩa” kh|c nhau, một người một “nghĩa”, mười người mười nghĩa, trăm người trăm nghĩa, người thiên hạ thật đông, c|i gọi l{ “nghĩa” của họ cũng thật nhiều” (Mặc Tử - “Thượng đồng”), người giang hồ đều trọng tín nghĩa nhưng cách lý giải về chữ “nghĩa” lại kh|c nhau. Điều mà hắc đạo cho l{ “nghĩa”, bạch đạo lại có thể cho l{ “bất nghĩa”, thế là lại có sự phân tranh vô cùng vô tận. Nói một c|ch đại thể, chữ “nghĩa” h{ng đầu trong thế giới giang hồ l{ “nghĩa khí giang hồ”, thứ hai l{ “lộ kiến bất bình bạt đao tương trợ” (giữa đường thấy sự bất bình, rút đao ra giúp đỡ), thứ ba là trừ kẻ cường bạo giúp người yếu đuối. Hạt nhân trung tâm của “nghĩa khí giang hồ” l{ “vì bạn bè hai sườn dắt đao” (“vị bằng hữu lưỡng lặc s|p đao” - ý nói: xả thân vì bạn bè). Người giang hồ sử dụng võ công, thích đấu võ để phân cao thấp, cho nên “Võ lực quyết thắng” trở thành quy phạm h{nh vi cơ bản nhất của người giang hồ. L{ ơn, l{ thù, l{ công lý - tất cả đều phải được luận chứng bằng võ công. Bầu bang chủ cũng vậy, bầu lục lâm minh chủ, thậm chí bầu võ lâm minh chủ cũng vậy, nếu không trải qua ấn chứng võ công thì không được mọi người khẩu phục tâm phục. “Kẻ mạnh thì thắng”, thắng đ|ng để cho mọi người tâm phục. Dùng mưu mẹo thì dù có thắng cũng không tr|nh bị đồng đạo giang hồ dị nghị. Coi trọng tín nghĩa v{ dựa v{o võ công l{ “hiến ph|p” của đạo nghĩa giang hồ. “Đạo nghĩa giang hồ” trên thực tế l{ “ph|p luật giang hồ”. Đ}y l{ một điều rất thú vị. Nguồn gốc của giang hồ vốn là từ sự miệt thị pháp luật, nhưng từ khi hình thành thế giới giang hồ, bản thân nó cũng cần “ph|p trị”. Đ}y l{ tất yếu lịch sử chăng? Hay l{ do hạn chế của tác gia tiểu thuyết võ hiệp tạo nên? Người giang hồ không thể tìm ra đ|p |n. Dưới “hiến ph|p” giang hồ có hắc đạo và bạch đạo, cũng có quy củ của các môn các phái... Những thứ “đạo nghĩa giang hồ” ấy rất phức tạp, trong đó có một số điểm tương đối giống nhau, như: “cấm tư thông với quan phủ”, “cấm ỷ mạnh hiếp yếu”, “cấm ỷ lớn hiếp nhỏ”, “cấm dối thầy diệt tổ”, “cấm học lén võ công ph|i kh|c”, “cấm dâm dục cường bạo” v.v... Không giữ gìn đạo nghĩa giang hồ khó l{m người giang hồ, khó làm việc giang hồ. Vi phạm đạo nghĩa giang hồ tất phải bị xét xử. [1] "Chiến quốc tứ công tử": Mạnh Thường qu}n, Bình Nguyên qu}n, Tín Lăng qu}n, Xu}n Thân quân. [2] Chính đặc điểm này khiến cho gi|o sư Hoa La Canh gọi tiểu thuyết võ hiệp l{ "đồng thoại cho người lớn." [3] Thơ Tô Đông Pha - "Đề Tây Lâm bích" [4] Vương M~ng cướp ngôi nh{ T}y H|n, l{m vua 15 năm, đặt quốc hiệu là "Tân". [5] Tửu lượng cao gọi là hải lượng. [6] Chữ "quan phủ" ở đ}y được dùng với nghĩa hệ thống quan lại các cấp. [7] Chữ "Đạo trong "đạo nghĩa" v{ "đạo tặc" tuy đồng }m nhưng l{ 2 chữ được viết khác nhau. CHƯƠNG III: XUẤT THÂN CỦA HIỆP KHÁCH 1. Sĩ Trong tiểu thuyết võ hiệp, người đọc s|ch cũng thường có võ công. Trong tác phẩm “Hạc Kinh Côn Lu}n”. Vương Độ Lư đ~ viết: “Đi lại trên giang hồ có hai loại người không thể coi thường, thứ nhất l{ người xuất gia, thứ hai l{ văn nh}n tú sĩ. Bởi vì hai loại người này phần nhiều là có chân truyền đặc biệt.” “Người xuất gia” được chân truyền đặc biệt thì khỏi phải nói cũng rõ, một Thiếu Lâm một Vũ Đương vốn l{ “hai ngôi sao” hùng qu|n võ l}m. Còn “văn nh}n tú sĩ” xem ra văn chất bân bân , có vẻ như không chịu nổi một cú đấm thì có gì là đ|ng sợ? Trong “Lộc Đỉnh ký” của Kim Dung, ch{ng thư sinh nho nh~ Lý T}y Hoa xông v{o cứ điểm bí mật của Thiên Địa Hội, đến cả bốn cao thủ của Thiên Địa Hội và Mộc Vương phủ cũng không ngăn cản được, họ Lý trong lòng thầm đắc ý. Nào ngờ một vị thư sinh khác là Trần Cận Nam, chỉ qua hai chiêu đ~ khiến họ Lý bị trúng “ngưng huyết thần trảo”, Lý T}y Hoa phải chôn mình trong huyệt 7 ngày mới hóa giải được, nếu không “m|u trong người sẽ dần dần ngưng kết, đặc sệt lại, không có thuốc nào chữa nổi”. Lý T}y Hoa bấy giờ “mới biết ngoài trời lại có trời, hơn người lại có người hơn”, lặng lẽ ra đi. Hình tượng nho sinh hiệp khách (nho hiệp) trong tiểu thuyết l{ nơi ký th|c ước vọng khí ph|ch dương cương h{o sảng của những người trí thức. Lý Bạch từng cảm khái: Nho sĩ đâu bằng người hiệp sĩ, Bạc đầu đọc sách có ích gì. Văn minh c{ng ph|t triển người trí thức càng xót xa cảm thấy cả thể chất lẫn tinh thần của mình đều yếu đuối. Theo khảo chứng của Cố Hiệt Cương tiên sinh trong b{i “Sự thoái hóa [1] của võ sĩ v{ văn sĩ” thì ở thời viễn cổ “kẻ sĩ đều vũ dũng, nước có việc binh nhung thì đứng lên cầm vũ khí, không nề nguy hiểm, nh}n t{i văn võ chưa chia l{m hai.” Thời ấy chiến tranh liên miên không ngớt, kẻ thống trị rất cần người văn võ to{n t{i để bảo vệ xã tắc. Vì thế, từ thời Ân Thương trong gi|o dục coi trọng cả văn lẫn võ. Thầy giáo thời cổ được tôn xưng l{ “phu tử”, chữ “phu tử” n{y vốn có nguồn gốc từ tên gọi chức quan võ: “B|ch phu trưởng” (chỉ huy đội qu}n trăm lính) “Thiên phu trưởng” (chỉ huy đội quân ngàn lính). Khổng Tử xuất thân nhà võ tướng, bản th}n ông cũng l{ người cường tráng, nếu không thế thì sao đủ sức chu du liệt quốc. Điều thú vị l{ con người khang kiện cường tr|ng như Khổng Tử lại “không chịu nghe chuyện sức mạnh”, không hề b{n đến những chuyện quái dị, vũ lực, làm loạn, quỉ thần (quái, lực, loạn, thần). S|ch “Tả truyện” có ghi: Năm thứ 11 thời vua Lỗ Ai Công, Khổng Văn Tử sắp đ|nh Đại Thúc, tìm Khổng tử để hỏi. Khổng Tử nói: “Việc gi|p binh, tôi chưa từng nghe.” Điều này cho thấy một dấu hiệu quan trọng: Có một bộ phận trong giai tầng “sĩ” đ~ dần dần rút v{o tu dưỡng nội tâm mà xao lãng việc võ. Từ thời Chiến Quốc về sau đ~ hình thành hai loại văn sĩ v{ võ sĩ. Đời H|n đ~ đ{n |p t{n khốc những người du hiệp mà coi trọng “hiền lương” (tức nho sĩ có t{i), lập h{m “b|c sĩ” (về sau gọi l{ “tiến sĩ”, ng{y nay ở Trung Quốc lại gọi l{ “b|c sĩ”), khiến cho võ đạo ngày một suy t{n, nho phong đại thịnh. Từ đó (từ đời Hán) chữ “Sĩ” chỉ được dùng để gọi loại “văn nhược thư sinh” m{ không dính d|ng gì đến những võ nh}n múa thương đ|nh kiếm nữa. Từ đời Hán về sau, tuy thỉnh thoảng cũng có thư sinh h}m mộ lối sống du hiệp nhưng rất ít người thật sự sống đời sống giang hồ. Lý Bạch từng khoe “Mười năm giỏi kiếm thuật” “Một tay địch mấy người”, e rằng nói cho oai vậy, chẳng qua cũng chỉ l{ “Bên hông đeo bảo kiếm” để tăng thêm h{o khí m{ thôi. Lý Bạch say mê “Kiếm thuật”, có lẽ ông cũng đ~ từng đeo bảo kiếm đi du lịch khắp danh sơn thắng địa; nhưng nếu thực sự vào chốn giang hồ thì chẳng biết cơ sự sẽ ra sao. Trong tiểu thuyết võ hiệp người thi đỗ Thám hoa rồi mới luyện phi đao như Lý Tầm Hoan thì chỉ có trong tưởng tượng kỳ diệu của Cổ Long mà thôi chứ khó có thể là sự thực. Mười năm đọc sách bên song lạnh, không cận thị đ~ l{ may, làm sao có thể “b|ch bộ xuyên dương” được nữa? Tiểu thuyết võ hiệp tả võ công của nho hiệp chỉ có tính chất tượng trưng ước lệ, nó chỉ giúp cho văn nh}n tú sĩ đ~ cơn nghiện hành hiệp mà thôi (thì tác giả tiểu thuyết võ hiệp cũng l{ “văn nh}n tú sĩ”). Thế nhưng, trong khí chất và hoài bão nội tại thì không ít thư sinh có h{o khí cho nên tả nho hiệp không phải chỉ có ý nghĩa tượng trưng m{ còn có phần chân thực. Kẻ sĩ Trung Quốc qua các thời đại đều đầy tinh thần trách nhiệm đối với xã hội. Tinh thần trách nhiệm ấy đ~ được thể hiện qua những lời bất tử: “Điều nhân là trách nhiệm của mình”, “Đối với việc hưng vong của thiên hạ, kẻ thất phu cũng có tr|ch nhiệm” (Thiên hạ hưng vong thất phu hữu tr|ch); “Lo trước nỗi lo của thiên hạ, vui sau niềm vui của thiên hạ” (Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc). Đời người sau trước ai không chết Để tấm lòng son rạng sử xanh (Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, Lưu thủ đan t}m chiếu hãn thanh) Phẩm c|ch vô tư v{ tinh thần hiến thân ấy của nho sĩ l{ nhất trí với nhân cách của hiệp khách. Ở những thời điểm quan trọng có nguy cơ chính trị hoặc thay triều đổi đại có những thư sinh không cam tâm ẩn mình m{ bước v{o võ l}m. Nhưng giữa họ và những vũ phu đầu óc giản đơn tứ chi phát triển kia có sự khác biệt quan trọng, đó l{ ở họ có lý tưởng xã hội và hoài bão chính trị rõ ràng. Chẳng hạn như, trong Thiên Địa Hội, không thiếu những người như Vi Tiểu Bảo, chỉ biết c|i nghĩa khí anh em mơ hồ, nhưng thư sinh Trần Cận Nam thì có thể vạch ra phương hướng chính trị cho các hiệp khách - lật đổ nền thống trị của Mãn Thanh, giúp đỡ họ Trịnh ở Đ{i Loan. Hiệp khách là một loại năng lượng lớn nhưng thường cũng l{ năng lượng mù quáng chỉ có người đọc sách (trí thức) mới có thể hướng năng lượng ấy vào sự nghiệp cải cách xã hội và cải cách chính trị. Đêm trước của cách mạng Tân Hợi, một số lưu học sinh đ~ chủ động liên lạc với “Hồng Môn”, ph|t động giang hồ hào khách lao vào cuộc đấu tranh chống nhà Thanh. Sĩ tử có tố chất văn hóa rất cao, vì thế dưới ngòi bút của các tác gia võ hiệp, nho hiệp đủ khả năng kết hợp võ công với phong hoa tuyết nguyệt, cầm kỳ thư họa một cách hữu cơ. Chẳng hạn như trong “Tiếu ngạo giang hồ”, bút vẽ, bàn cờ cho đến âm nhạc của “Giang Nam tứ hữu” đều l{ vũ khí giết người. Dưới đao quang kiếm ảnh, trong quyết đấu tử sinh vẫn hiện ra vẻ h{o hoa phong nh~, đem lại cho võ lâm cả thi ý lãng mạn. Giang hồ vốn là thiên hạ của những kẻ thô hào, Nho hiệp thường qu| ư văn minh, qu| ư viển vông, qu| ư nhu nhược. Trong “Xạ điêu anh hùng truyện”, Ho{ng Dung tinh qu|i đ~ đùa giỡn các vị thư sinh “Ngư, Tiều, Canh, Độc”. ]u Dương Phong có một lần đi qua thư viện nghe thấy một thư sinh đang dạy học trò, nói những là cần phải làm trung thần hiếu tử. Âu Dương Phong nghe đến phát ngấy, bèn giết qu|ch ch{ng thư sinh nọ. H{nh động ấy cố nhiên có quan hệ với bản tính của “T}y Độc” nhưng cũng phản |nh t}m lý “chướng tai gai mắt” của hiệp kh|ch đối với sự tuân thủ lễ giáo, rập khuôn quy củ của thư sinh. Còn trong “Lộc Đỉnh ký”, Trần Cận Nam vì ngu trung với họ Trịnh ở Đ{i Loan m{ chết dưới tay Trịnh Khắc Sảng nhỏ mọn, làm mất đứt sự nghiệp chống Thanh của Thiên Địa hội, khiến người ta phải than thở. Trong “Thủy hử truyện”, thư sinh Tống Giang cũng tìm mọi c|ch để kiềm chế tính cách thô dã của hảo h|n Lương Sơn, đem “Tụ nghĩa sảnh” hoằng dương nghĩa khí đổi th{nh “Trung nghĩa đường” ủng hộ chính thống triều đình lại còn mong mỏi ho{ng đế anh minh xuống chiếu “chiêu an”. Có thể thấy, thư sinh dù có bị “bức lên Lương Sơn”, gửi thân giang hồ ngoài pháp luật nhưng vẫn không quên cương thường luân lý, không thoát khỏi tính chất nô lệ mà họ tiếp nhận từ văn hóa truyền thống. Sự mềm yếu do dự trong tình yêu cũng thể hiện sâu sắc nhược điểm trong tính cách của trí thức. Trong “Thư kiếm ân cừu lục”, Trần Gia Lạc, thủ lĩnh của “Hồng Hoa hội” vốn xuất th}n thư sinh, ch{ng cùng công chúa của Hồi tộc là Hoắc Thanh Đồng quyến luyến nhau nhưng chưa tỏ tâm ý. Chính ở thời điểm quan trọng ấy chàng tình cờ nhìn thấy Lý Nguyên Chỉ, vốn là gái giả trai, thân thiết với Hoắc Thanh Đồng, chàng ta hiểu nhầm rằng trái tim của Hoắc Thanh Đồng đ~ thuộc về người khác, Trần Gia Lạc vừa không đủ bộc trực tỏ bày tình cảm vừa không đủ dũng khí vung đao đoạt tình, rốt cuộc đ{nh để mối tình đẹp đẽ trôi theo dòng nước. Ở đ}y còn có nh}n tố tâm lý vi diệu: Hoắc Thanh Đồng võ nghệ cao cường, trước nàng Trần Gia Lạc thiếu tự tin. Về sau chàng lại yêu Kha Tư Lệ, em gái Hoắc Thanh Đồng, điều này rõ ràng là có quan hệ với thiên tính nhu nhược, không biết võ công của Kha Tư Lệ. Quan niệm truyền thống nam tôn nữ ti, nam mạnh nữ yếu đ~ tạo nên tâm lý thẩm mỹ của ch{ng thư sinh Trần Gia Lạc. Thế nhưng ngay cả đối với Kha Tư Lệ ch{ng cũng chẳng dám yêu hết mình. Khi ho{ng đế C{n Long đề nghị đem Kha Tư Lệ l{m điều kiện ép Trần Gia Lạc từ bỏ chí “phản Thanh phục Minh” Trần Gia Lạc lại dao động: “N{ng đối với ta tình sâu như thế, vì ta mà liều chết để giữ gìn trinh bạch, nàng tin rằng ta sẽ cứu nàng. Lẽ nào ta lại nhẫn tâm bỏ rơi n{ng, phản bội n{ng? Nhưng nếu bảo to{n được ta v{ Kha Tư Lệ thì nhất định phải đoạn tuyệt với đại ca [2] . Đ}y l{ cơ hội tốt nhất để phục quốc, nếu để mất thì há chẳng phải hai ta trở thành kẻ có tội sao?” Đầu óc chàng hỗn loạn, không biết làm thế nào cho phải. Như thế, Trần Gia Lạc tự tay đ|nh mất tình yêu của hai người con g|i cũng đồng thời đ|nh mất hạnh phúc của mình. Biểu hiện tình yêu phản ánh rõ nhất tính cách của con người. Trần Gia Lạc qu| ư do dự trong tình yêu, “Hồng Hoa hội” cuối cùng thất bại cũng chẳng có gì lạ. Các hào kiệt “Hồng Hoa hội” đ~ trả gi| đắt mới bắt được Càn Long. Lúc bấy giờ Trần Gia Lạc lại dao động, cuối cùng lại không giết Càn Long. Có lẽ vì giang hồ vốn l{ đất trời của những anh hùng thảo mãng, có cố đưa đẩy thư sinh xông v{o thì e cũng không tr|nh khỏi làm tổn thất bản tính của cõi giang hồ, chỉ có thể tạo thành bi kịch. 2. Nghĩa quân Một bộ “Thủy hử truyện” to{n kể chuyện nông dân khởi nghĩa. Trước khi lên Lương Sơn làm nghề lạc thảo, những người như Lỗ Trí Th}m, Võ Tòng, Dương Chí, Lý Quỳ lưu lạc khắp nơi, bốn bể là nhà, thực sự là du hiệp. Sau khi lên Lương Sơn, họ “chiếm sơn vi vương” (chiếm núi làm vua), xếp vị trí ở Trung nghĩa đường, nghe lệnh điều khiển, tổ chức thành nghĩa qu}n có kỷ luật nghiêm minh. Có tổ chức l{ đặc trưng cơ bản để phân biệt nghĩa qu}n với du hiệp. Du hiệp cơ bản là cá thể độc lập, đem c|i dũng của kẻ thất phu m{ đối kháng với sóng gió hiểm ác chốn giang hồ. Ở hồi thứ hai của “Thủy hử truyện” có c}u thơ: “Thiền trượng mở thông đường nguy hiểm Giới đao giết hết bọn bất bình.” Ở đ}y, thiền trượng và giới đao đều mở ra trường chiến đấu của mình, có con đường riêng. Dù có kết nghĩa kim lan cũng chỉ là “thần giao” chứ không có mối liên hệ có tính tổ chức, khi nguy nan có thể giúp đỡ nhau nhưng xong việc lại ra đi, mỗi người riêng một góc trời. Nghĩa qu}n thì kh|c. Họ xuất hiện với tư c|ch một chỉnh thể tập đo{n qu}n sự, có căn cứ địa, có tổ chức chặt chẽ, kỷ cương nghiêm minh, không trọng c|i dũng của kẻ thất phu mà cần sự đồng tâm hiệp lực. Trong “Ỷ thiên Đồ long ký”, Minh Gi|o bầu giáo chủ, đặt tả hữu sứ, có trật tự rõ ràng với tông chỉ đuổi giặc Nguyên phục hưng H|n tộc. Các lộ hiệp khách, theo sở trường của mình mà biên chế th{nh “Hồng thủy kỳ”, “Liệt hỏa kỳ”, “Cự mộc kỳ”, “Hậu thổ kỳ”, “Nhuệ kim kỳ”. Ưu thế của đo{n thể là lớn mạnh. Tại hội quần hùng ở Thiếu Lâm tự, ngọn cờ nhỏ của Quang minh hữu sứ Dương Tiêu phất lên, 500 mũi thương của “Nhuệ kim kỳ”, 500 mũi tên dài nhất bay vào giữa quảng trường. Lại có 500 lưỡi búa sắc nghiêm trận chờ lệnh, hiệp kh|ch đơn thương độc mã dù bản lĩnh cao cường e cũng khó lòng tho|t khỏi thiên la địa võng. Tiếp theo, “Cự mộc kỳ”, “Hồng thủy kỳ”, “Liệt hỏa kỳ” đều hiển thần thông. Cuối cùng, giáo chúng của “Hậu thổ kỳ” từ dưới chân quần hùng đội đất chui lên, và chỉ trong khoảnh khắc lấp bằng cái hố mỗi bề ba bốn trượng. “Quần hùng đứng xem không ai không kinh hãi thất sắc. Mọi người đều biết mấy năm gần đ}y Minh gi|o đ~ nổi dậy chống Nguyên ở các vùng Hoài, Tứ, Dự, Ngạc, đ|nh th{nh chiếm đất, liên tục đ|nh bại quân Nguyên, nay họ đem hiểu biết về binh pháp dùng vào cuộc tỉ đấu với võ lâm, số người đ~ đông, kỷ luật lại nghiêm, lại thêm tập luyện có phép, môn phái nào trên chốn giang hồ cũng không thể đối địch.” Đúng vậy, vô luận là phái Thiếu L}m đầy cao thủ hay l{ ph|i Vũ Đương dưới trướng Trương Tam Phong đều không đủ sức hoàn thành sứ mệnh thay triều đổi đại. Nhưng Minh gi|o đ~ l{m được điều ấy. Chu Nguyên Chương, một vị tướng của Minh giáo cuối cùng đ~ lên ngôi ho{ng đế. Kỳ thực, c|c cao nh}n tăng đạo của Thiếu L}m, Vũ Đương căn bản là không có ý nhúng tay vào việc chính trị. Trương Tam Phong tuy đau lòng nhức óc trước nỗi đau khổ lầm than của trăm họ dưới ách thống trị ngoại tộc, thỉnh thoảng cũng tình cờ ra tay giết mấy tên Mông Cổ nhưng rốt cuộc ông cũng không dựa vào danh tiếng lẫy lừng của mình để kêu gọi ph|i Vũ Đương v{ liên lạc với võ sĩ thiên hạ để chống lại quân Nguyên, làm nên sự nghiệp oanh liệt. Nói thẳng ra là ông sợ bẩn tay. Là một đại sư võ học ông đ~ siêu việt vượt lên trên tiến trình chính trị hiện thực m{ đặt tâm trí vào bí ẩn của võ học và những vấn đề hình nhi thượng vạn vật tiêu trưởng... Các hiệp kh|ch bình thường thì vị tất đạt đến trình độ như Trương Tam Phong, nhưng họ cũng không nhiệt tâm với chính trị xã hội, không m{ng đến những công việc thế tục như kiến công lập nghiệp, ở họ tồn tại phổ biến khuynh hướng “võ thuật vị võ thuật”. Nếu nói lý tưởng giá trị của hiệp kh|ch l{ l{m “thế ngoại cao nh}n” thì mục tiêu phấn đấu của nghĩa qu}n l{ chiến thắng trong cuộc đấu tranh chính trị. Minh Giáo là một loại lực lượng chính trị tương đối tự giác. Trong “Minh đích phong v}n lục” của Lương Vũ Sinh, mục tiêu chính trị của nghĩa qu}n ở Kim Kê lĩnh cũng rất rõ ràng, tức là - đối ngoại thì chống qu}n Kim, đối nội thì khống chế bọn quan lại thuộc ph|i đầu hàng. Chính trị hóa cũng l{ một đặc trưng để phân biệt nghĩa quân với hiệp kh|ch bình thường. Do nghĩa qu}n có tính chất chính trị hóa, tổ chức hóa cao, nhấn mạnh lợi ích chung của tập thể nên thiên tính tự do của hiệp khách bị hạn chế. Trong cuốn s|ch “Trung Quốc cổ điển tiểu thuyết đạo luận”, Hạ Chí Thanh có chỉ ra rằng: trong “Thủy hử truyện”, “những kinh lịch của đại bộ phận hảo hán khiến người ta khó quên nhất đều l{ trước lúc họ lên Lương Sơn”, “một khi đ~ lên Lương Sơn tụ nghĩa, mọi người đều trở th{nh đầu lĩnh cầm qu}n không kh|c nhau bao nhiêu, hình tượng của họ không còn nổi bật như trước nữa.” Ở trên Lương Sơn “Hắc To{n Phong” Lý Quỳ rất không thoải m|i đối với sự quản thúc của Tống Giang, thường tìm chỗ sơ hở để tự do thoải mái một chút. Cuối cùng, với tư c|ch thủ lĩnh, để giữ trọn chữ “trung” cho quần h{o Lương Sơn, Tống Giang đ{nh phải nhẫn tâm lừa Lý Quỳ cùng với mình uống rượu độc, cùng xuống hoàng tuyền. Ở đ}y sự áp chế của tổ chức đối với cá tính thực khiến người ta rợn gáy. Trong tiểu thuyết võ hiệp, số tác phẩm đơn thuần miêu tả nghĩa qu}n không nhiều. Mãi đến trong tiểu thuyết thoại bản thời Tống-Nguyên, hiệp kh|ch đều xuất hiện với tư cách cá thể. Tiểu thuyết võ hiệp cận đại cũng phần lớn để cho hiệp khách hoạt động phi tổ chức, nguyên nhân là tiểu thuyết viết về nghĩa qu}n không thuận lợi cho việc miêu tả cá tính của hiệp kh|ch. Cho nên trong “Minh đích phong v}n lục”, đối với các loại b{n mưu tính kế, vạch s|ch lược trên Kim Kê lĩnh, Lương Vũ Sinh đều chỉ hư tả mà dành nhiều bút mực để miêu tả những cảnh ngộ cá biệt của Cốc Khiếu Phong và các hiệp khách khác. Còn Kim Dung, trong “Ỷ thiên Đồ long ký” thì cuối cùng đ~ để Trương Vô Kỵ từ chức Giáo chủ Minh gi|o, để cho vị đại hiệp n{y được thực hiện tự do tâm linh của mình. Có vị học giả thậm chí còn cho rằng: “Thủy hử truyện” đưa c|c vị hiệp khách lên tham gia tập đo{n qu}n sự Lương Sơn Bạc, khiến cho bộ sách này nhiều lắm là chỉ có phân nửa tiểu thuyết võ hiệp, sau khi lên Lương Sơn Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng... chỉ còn l{ “anh hùng” m{ không còn l{ hiệp khách nữa. 3. Ăn mày (Cái) Trong tiểu thuyết võ hiệp t}n ph|i, c|i bang thường được miêu tả th{nh đại môn ph|i đệ nhất trong giang hồ. Đó là vì trong lịch sử, ăn m{y rất đông, có mặt khắp nơi trong to{n quốc. Văn minh nông nghiệp của Trung Quốc phát triển sớm, khiến cho ruộng đất khai khẩn được nhanh chóng đạt tới cực hạn, mà sự bùng nổ dân số và nạn kiêm tính ruộng đất khiến cho mâu thuẫn người nhiều ruộng ít càng ngày càng nổi cộm lên. Nông dân phần nhiều không có ruộng đất, buộc phải rời bỏ xóm làng lên các thành thị để tìm đường sống, trong đó có một bộ phận rất lớn trở thành hành khất. Ăn m{y v{ đo{n nhóm của họ là một bộ phận tổ thành quan trọng của xã hội bí mật ở Trung Quốc. Hình tượng hiệp cái (hiệp kh|ch ăn m{y) trong tiểu thuyết võ hiệp để lại trong người đọc ấn tượng khó quên, như Hồng Thất Công trong “Xạ điêu anh hùng truyện”, Kiều Phong “Thiên Long b|t bộ”. Ăn m{y chuộng hành hiệp trượng nghĩa, có thể phát huy tinh thần nghĩa hiệp đến cao độ. Trong “V}n gian tạp chí” của một tác giả vô danh đời Minh có truyện “Trương Nhị Lang”, viết về một người ăn m{y lặn cực giỏi tên l{ Trương Nhị Lang. Anh ta tham gia chống quân Nụy Khấu [3] . Trương Nhị Lang nhiều lần lặn xuống biển, thâm nhập vào trại giặc, thám thính tình hình, giết giặc lập công. Trương Nhị Lang “được thưởng vàng bạc đều không nhận, xin trả lại kho công, thưởng cho thịt bò thì nhận. Sau khi đuổi được giặc, luận công, cho thế tập trăm hộ, biểu dương ở quận huyện, đem kỹ nữ gả cho làm vợ, Trương từ chối, chỉ muốn tiếp tục đi ăn m{y. Đêm thì ngủ ở trong Nhạc miếu, vui vẻ vô lo. Về sau có quan khai phủ ở Giang Nam đến thăm Trương, thấy Trương nằm dưới ch}n tượng Kim Cương, ra lệnh lĩnh v{ng ban thưởng vẫn cười mà không nhận, tặng rượu thịt thì cảm ơn rồi đi.” Đại kh|i, Trương Nhị Lang l{ hình tượng hiệp c|i đầu tiên trong lịch sử tiểu thuyết võ hiệp. Tinh thần hiến thân vì việc nước, coi thường danh lợi cho đến tính thích rượu thịt của anh ta đ~ ảnh hưởng phong cách Cái bang trong tiểu thuyết võ hiệp đời sau. Du hiệp, hiệp cái thể hiện rõ nhất chữ “du” [4] n{y. So ra, tăng đạo phần lớn tu hành ở chùa chiền đạo qu|n; người ở chốn quan trường thì thân chẳng tự do; kẻ sĩ tuy có truyền thống du học nhưng cũng hy vọng một mai được triều đình bổ dụng có thể “giúp vua vượt Nghiêu Thuấn, lại khiến phong tục thuần” [5] , lại còn bị ràng buộc bởi gia thất; thích khách và hiệp y thì phần lớn là mai danh ẩn tích, nghĩa qu}n chiếm núi l{m vua; hình như chỉ có ăn mày không nhà không cửa, không buộc không ràng, vân du bốn phương, tự do h{nh động. Ăn m{y không có nghề nghiệp, không chịu sự ràng buộc của bất kỳ quyền lợi v{ nghĩa vụ n{o; địa vị của họ thấp kém hèn mọn, không được sự tôn trọng v{ đếm xỉa của các quần thể xã hội khác. Họ cách biệt với văn hóa chủ lưu của xã hội, thuộc “loại người ngo{i rìa”. Vị trí “người ngo{i rìa” khiến họ d|m đấu tranh, không sợ trời, không sợ đất. Trong tiểu thuyết võ hiệp, Thiếu L}m Võ Đang thường chín chắn thận trọng không dễ dàng bị cuốn vào sóng gió giang hồ, còn Cái Bang thì dám nói dám làm, thích gây sự. Trong “Xạ điêu anh hùng truyện”, bang chủ Cái bang Hồng Thất Công có câu diệu ngữ: “Chúng ta sở dĩ l{m ăn m{y l{ vì muốn không bị ràng buộc, thích tự do tự tại, nếu như c|i n{y không nên, c|i kia không được thì mắc gì m{ không đi l{m quan, l{m t{i chủ quách cho rồi?” Thế nhưng, d~ tính vẫn sống chung với lỗ mãng, cứ ưa gì làm nấy m~i thì cũng có chỗ sơ hở. Với tư c|ch l{ “người ngo{i rìa”, đ|m ăn m{y nếu không được quản thúc thì có thể thành lực lượng phá hoại mù quáng, thành ít bại nhiều. Ngay đến bang chủ Hồng Thất Công cũng đ~ từng vì ham chén rượu m{ để một người bạn mất mạng, khi tỉnh rượu hối hận không kịp, đ~ tự chặt đứt một ngón tay, trở th{nh “Cửu chỉ thần c|i” (thần ăn m{y chín ngón). Người có gia thất đề huề thường thông cảm v{ quan t}m đến kẻ ăn m{y với tư c|ch của kẻ trên cao nhìn xuống, n{o hay đối với hiệp cái mà nói, họ coi lòng thương hại là kẻ thù. Họ tuy chẳng có gì nhưng lại ngạo mạn ở đời, cự tuyệt th|i độ hống hách của kẻ giàu sang, hoàn toàn không bị cám dỗ bởi phú quí và áp lực của cường quyền. Trong “Xạ điêu anh hùng truyện”, Dương Khang tr| xưng nhận di mệnh của Hồng Thất Công tiếp nhiệm bang chủ Cái Bang và lấy “đả cẩu bổng” (gậy đ|nh chó) l{m chứng, bang chúng Cái Bang vốn tin là thật, về sau thấy Dương Khang uốn lưng quỳ gối trước Cừu Thiên Nhận, có ý bảo vệ người Kim thì họ sinh nghi. Bởi vì họ nhận thấy nh}n c|ch Dương Khang tr|i ngược với bẩm tính của hiệp cái, Hồng Thất Công nhất định không phó th|c đại bang đệ nhất giang hồ cho con người như vậy. Những người ăn m{y đều luân lạc nơi ch}n trời góc bể; không có sự bảo hộ của gia tộc nên cần nhất là sự giúp đỡ của bạn bè. Vì thế kẻ ăn m{y tôn sùng nhất chữ “nghĩa”, có phúc cùng hưởng, có nạn cùng chịu. Hiệp cái phần nhiều là những con người hào sảng, chân th{nh, tình s}u nghĩa nặng như Hồng Thất Công, Kiều Phong. Họ không nhục vì nghèo mà nhục vì vô tình bạc nghĩa. Kiều Phong với địa vị tôn quý của bang chủ vẫn yêu cô thị nữ A Ch}u, tương tư nhập cốt, tình sâu tựa biển, vì lời gửi gắm của A Châu lúc lâm chung chàng đ~ hết lần n{y đến lần kh|c quan t}m chăm sóc cô bé A Tử điêu toa độc ác, dù có vì thế mà phải nếm trải bao nỗi vất vả khổ sở cũng chẳng hề oán hận thở than. Còn Mộ Dung Phục phong lưu t{i mạo, gia tài ức vạn lại là một kẻ khinh bạc; trên giang hồ “Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung” cùng nổi tiếng như nhau nhưng họ trở thành một cặp chiếu ứng đối lập rất rõ. Kiều Phong mang dòng máu Khiết Đan, lớn lên ở Trung nguyên, đối với dân tộc Khiết Đan v{ d}n tộc H|n ch{ng đều tận trung tận nghĩa. Khi vua Khiết Đan dẫn qu}n x}m lăng đất Tống, ch{ng trước hết bắt ép vua Khiết Đan để cứu tính mệnh hiệp khách H|n v{ trăm họ Trung nguyên rồi sau đó tự s|t để chuộc tội vì đ~ xúc phạm quốc vương của dân tộc mình. Cái chết của Kiều Phong l{ do xung đột của trách nhiệm đạo nghĩa đối với hai dân tộc đang đối địch nhau đưa lại. Đ}y l{ một sự chứng minh - tinh thần hiệp nghĩa cao hơn sinh mệnh. Kiều Phong không thẹn là bang chủ anh minh của Cái Bang. Chính vì dựa trên nghĩa khí anh em s}u nặng ấy mà những người ăn m{y vốn sống phân tán khắp nơi mới có thể có sức ngưng tụ, khắc phục được sự phân liệt và chia rẽ nội bộ. Trong tiểu thuyết võ hiệp, C|i bang đông đúc lại có trình độ tổ chức hóa cao, thường là toàn bang nhất trí, đồng tâm hiệp lực. Điều này mang sắc th|i lý tưởng. Bởi vì trong lịch sử, sự phân liệt chia rẽ là cố tật của xã hội bí mật. Ở đời Thanh có một b{i “Vịnh c|i thi” (Thơ vịnh kẻ ăn m{y) của một tác giả l{ “Thông Ch}u thi c|i” (nh{ thơ ăn m{y ở Thông Ch}u). Thơ rằng: Phú tính sinh lai thị dã lưu, Thủ trì trúc trượng quá Thông Châu. Phạm lam hướng hiểu nghênh tàn nguyệt, Ca bản lâm phong xướng vãn thu. Lưỡng cước đạp phiên trần thế lộ, Nhất kiên đảm tận cổ kim sầu. Nhi kim bất thụ ta lai thực, Thôn khuyển hà tu phệ vị hưu. Tạm dịch: Sinh ra gặp phải vận cơ cầu, Tay cầm gậy trúc vượt Thông Châu. Giỏ cơm mỗi sáng chờ trăng lặn, Bài ca trong gió hát chiều thu. Hai gót giẫm nghiêng đường trần thế, Một vai gánh hết cổ kim sầu. Mà nay chẳng chịu “ê, tới đớp”, [6] Chó thôn cứ sủa mãi, vì sao? B{i thơ n{y nói về dã tính và ngạo khí của hiệp cái, có thể nói là rất đúng với tính cách của họ. 4. Thầy thuốc (Y) Võ l}m thường đẫm máu. Một lời không hợp l{ chĩa đao v{o nhau, hoa rơi l| rụng cũng có thể hại người. Nếu như chỉ có sát phạt, võ lâm chắc sẽ điêu linh vắng vẻ cũng chẳng viết nổi một bộ tiểu thuyết võ hiệp. Thế nhưng, mệnh mạch của võ vẫn không bị đứt bởi vì may mắn còn có hai loại người - một loại l{ tăng đạo (nh{ sư v{ đạo sĩ) đầy lòng từ bi chủ trương cần giỏi võ nhưng phản đối say máu, làm trong sạch tâm linh hiệp khách; một loại người nữa chính là thầy thuốc, cứu người, chữa bệnh, giải độc, giữ gìn tính mệnh và võ công của hiệp khách. Trong võ lâm, thầy thuốc được sự tôn sùng đặc biệt. Vô luận là nhân vật bạch đạo hay hắc đạo, thông thường đều không làm khó thầy thuốc. Đạo lý rất giản đơn: người trong võ lâm luôn luôn bị ám ảnh bởi cái chết, càng lo võ công của mình bị mất hết, giống như người tàn phế, sống không bằng chết. Mà thầy thuốc trong tiểu thuyết võ hiệp phần lớn l{ “danh y”, “thần y”, “y tiên”, y đạo tuyệt vời, chính là vị thiên sứ bảo vệ sinh mệnh của người tập võ và vị thần gìn giữ võ công. Y học Trung Quốc tất tinh thông kinh lạc, huyệt vị trên cơ thể người. Trong tiểu thuyết võ hiệp, kinh lạc huyệt vị không phải chỉ quan trọng đối với việc chữa bệnh, cứu thương m{ còn rất quan trọng đối với việc luyện võ. Danh y Vương Duy Nhất thời Bắc Tống từng đề nghị triều đình đúc hai pho tượng người bằng đồng làm mô hình huyệt vị châm cứu; ông còn tự tay biên soạn ba quyển “Đồng nhân du huyệt châm cứu đồ kinh” (Sơ đồ huyệt vị châm cứu trên người đồng). Người đồng v{ sơ đồ huyệt vị vốn chỉ có giá trị y học, qua tưởng tượng của tiểu thuyết gia đ~ trở thành bí tịch võ học khiến cả cõi đời kính nể khâm phục. Người đồng bị mất rất nhiều năm rồi lại xuất hiện trên giang hồ, gây nên gió to sóng dữ. Hắc bạch đều nóng mặt, thầy trò chẳng nhìn nhau, ngọc đ| đều bị thiêu hủy. Câu chuyện ấy cơ hồ đ~ th{nh một mô típ thông dụng trong một số tiểu thuyết võ hiệp. Trong đó hiệp y (thầy thuốc hiệp kh|ch) thường được miêu tả thành cao nhân có võ công thâm hậu, chỉ đường cho người ta ra khỏi bến mê. Nói một cách khái quát, truyền thống sùng y trên giang hồ một là vì mạng sống, hai là vì muốn học võ công bí truyền. Hiệp y thường không màng danh lợi, ẩn th}n nơi vắng vẻ, không tham gia những cuộc tranh giành môn phái trên chốn giang hồ, có phong cốt ẩn sĩ. Điều n{y có căn cứ lịch sử. Đầu thời Đông H|n, có một vị thần y ở gần sông Bồi Thủy vui với việc c}u c|, xưa nay không muốn để lộ tính danh, người ta chỉ gọi ông là Bồi ông. Cuối đời Hán, Hoa Đ{ tiếng tăm lừng lẫy, từng cự tuyệt việc l{m quan. Đ{o Hoằng Cảnh thời Nam triều từ quan, ẩn cư ở Mao Sơn, được gọi l{ “Sơn trung tể tướng”. Ông ở nơi sơn d~ tìm h|i thuốc, viết nên bộ s|ch “Bản thảo kinh tập chú”. Từ đó có thể thấy, hiệp khách ở chốn giang hồ tanh mùi m|u, còn sơn l}m nơi mà thầy thuốc say mê lại vắng vẻ tịch mịch, hai loại không gian sinh tồn khác nhau ấy mang ý vị của hai hệ thống giá trị khác hẳn nhau. Thầy thuốc phần lớn không biết võ công. Họ có tri thức phong phú về giữ gìn sức khỏe, như Hoa Đ{ từng ph|t minh “ngũ cầm chi hí” (trò chơi năm lo{i chim), nhưng chỉ có thể kéo dài tuổi thọ chứ không thể cự địch, thảng hoặc gặp kẻ cường bạo, phần nhiều họ như Mai Nhị tiên sinh trong “Đa tình kiếm khách vô tình kiếm”, bị đặt trên thớt đ| mặc người ta mổ sả. Nhưng, có lẽ vì nghiên cứu y lý thâm sâu nên tất hiểu rõ lẽ sống chết, thầy thuốc thường có khí ph|ch “phú quý bất năng d}m, uy vũ bất năng khuất”. Mai Nhị tiên sinh thà bị đ|nh vỡ đầu cũng không chịu để cho kẻ bất tài chữa bệnh. Do đó có thể thấy thầy thuốc và hiệp khách thực sự có chỗ tương thông. Thầy thuốc có tinh thần hiến th}n cho y đạo, như hiệp khách hiến th}n cho võ đạo. Tương truyền vị tổ của y dược là Thần Nông “nếm trăm vị cây cỏ trong một ngày bị ngộ độc bảy mươi lần”, cuối cùng nếm phải một thứ kịch độc l{ “đoạn trường thảo” không có thuốc giải cứu mà chết. Thần Nông là linh hồn bất tử của y đạo. Trong “Tiếu ngạo giang hồ”, Bình Nhất Chỉ không chữa được bệnh cho Lệnh Hồ Xung bèn tự s|t để tạ tội. Trong “Ỷ thiên Đồ long ký”, thầy thuốc sợ vợ là Hồ Thanh Ngưu dù đ~ thề không cứu người ngo{i Minh Gi|o nhưng một khi phát hiện ra Trương Vô Kỵ bị trúng h{n độc Huyền Minh Thần Chưởng mà sau mấy năm vẫn không chết, liền “như tửu đồ thấy rượu ngon l{m sao m{ l{m ngơ được?” thế là lại ra tay trục độc cho Trương Vô Kỵ. Niềm say mê y thuật ấy có thể khiến cho thầy thuốc vượt lên trên những tín điều lu}n lý thông thường, không quản gì đến tính mệnh của mình. Họ cũng như hiệp khách là những người chí tình. Y thuật có thể cứu người cũng có thể giết người, thầy thuốc trong võ l}m cũng vì thế mà phân cao thấp. Loại linh đan diệu dược như tiểu ho{n đan mọi người đều ca ngợi, m{ “hắc huyết thần ch}m”, “hóa thi phấn” l{ những loại độc dược m{ người chính phái phỉ nhổ. Trong tiểu thuyết võ hiệp chỉ có bọn hạ lưu mới thích đầu độc, như “Cực Lạc đồng tử” độc thuật cái thế trong “Đa tình kiếm khách vô tình kiếm” thì tiếng xấu đồn xa, tựa như chỉ Tứ Xuyên Đường môn mới không thua kém. Trong “Phi hoa trục nguyệt” của Ngọa Long Sinh, con gái của danh y Triệu Bách Niên là Triệu U Lan phải uống thuốc độc để tự bảo vệ rồi khống chế cả tổ chức xã hội đen, nhưng vì thế mà ma tính dấy lên, không còn là một cô bé đ|ng yêu nữa. Có thể thấy: người có thể đầu độc dễ thành cái tật thích đầu độc đến mức: “nghiện” thì cũng có thể thay đổi tính tình. Thầy thuốc mà lại là hiệp khách há chẳng đ|ng sợ sao? 5. Thích khách Nhà sử học Tư M~ Thiên (145-90? TCN), tị tổ của văn học võ hiệp đ~ l{ người đầu tiên viết về thích khách trong bộ “Sử ký” của mình. Đó l{ những người như Chuyên Chư ở nước Ngô thời Xuân Thu, Nhiếp Chính ở nước Hàn thời Chiến Quốc cho đến tr|ng sĩ Kinh Kha đem tính mạng đ|nh cuộc với bạo chúa Tần Thủy Ho{ng thì nh{ nh{ đều biết, tiếng lưu muôn thuở. Trong lịch sử Trung Quốc, thích khách luôn xuất hiện, không bao giờ dứt, đ~ cung cấp cho văn học võ hiệp những nguyên mẫu nhân vật và những nguồn tư liệu phong phú. Có nhà biên soạn và nghiên cứu tiểu thuyết võ hiệp đời Minh trong lời tựa “Cổ kim dật sử” thậm chí còn quả quyết rằng: “Kiếm hiệp thực chất là kế thừa thích kh|ch”. C|ch nói ấy có phần thiên lệch. Kiếm hiệp không chỉ là thích khách mà còn bao gồm du hiệp, đạo hiệp v.v... Nhưng nếu nói rằng thích khách là một trong những lưu ph|i võ hiệp sớm nhất thì ho{n to{n có căn cứ lịch sử. Thích khách thường thường đều có thân thủ phi phàm. Cuối Tần, giữa rừng vệ sĩ của ho{ng đế, Trương Lương có thể xông đến hành thích Tần Thủy Ho{ng, sau khi đập nhầm vào xe phụ, lại có thể thoát ra. Từ đó có thể tưởng tượng võ công cao siêu đến đ}u. Đằng sau võ công cái thế l{ dũng khí v{ mưu lược kinh người. Trong khoảnh khắc sinh tử, thích khách hoàn toàn không sợ chết mà còn sẵn sàng chấp nhận bị ngũ m~ ph}n th}y, loạn tiễn bắn chết, lấy đó l{m nơi trở về của cuộc đời. Đối với họ, điều khó chịu đựng nhất có lẽ là sự hiu quạnh sau khi “tho|i hưu”. Nhân phẩm của thích khách có cao thấp khác nhau, có khi còn cách biệt như trời vực. Trang Tử từng chia kiếm làm 3 loại: “có Thiên Tử kiếm, có Chư Hầu kiếm, có Thứ Nhân kiếm.” Những người như Kinh Kha, Trương Lương lấy đức chế ngự kiếm, thế thiên hành đạo, xả th}n vì thương sinh, thuộc loại tuấn kiệt trong thích khách. Họ khác với những kẻ làm nghề “s|t thủ” T}y phương hiện đại. Phần lớn họ không phải là kẻ say máu, chỉ vì một lý tưởng xã hội n{o đó, một nghĩa vụ đạo đức hoặc một cảnh ngộ đặc biệt n{o đó trong cuộc đời mà họ không thể không ra tay, tìm ý nghĩa cuộc đời trước mũi đao lưỡi kiếm. Chính vì họ không làm nghề giết người cho nên có lúc võ nghệ chưa tinh, chí lớn không thỏa. Trong tập tiểu thuyết “Ph|ch |n kinh kỳ” đời Minh có viết: “Những người như Chuyên Chư, Nhiếp Chính, chẳng qua do nghĩa khí xui khiến họ trở thành những hảo h|n dũng cảm chứ không phải vốn có võ nghệ cao cường.” Đ{m Tự Đồng đọc “Kinh Kha truyện” cũng tiếc cho Kinh Kha: “chỉ biết nuôi dưỡng chí khí, chưa biết rèn luyện võ thuật.” Nếu không biết lấy đức chế ngự kiếm, chỉ biết trung thành mù quáng với một người nào đó hoặc vì kẻ n{o đó thuê với giá tiền cao m{ l{m “s|t thủ”, diệt kẻ thù riêng thì đó chỉ là “thứ nhân kiếm” theo lời Trang Tử. Loại người ấy chỉ là cái máy giết người, chẳng đếm xỉa gì đến nh}n lu}n đạo đức. Dù có sai khiến họ đi giết người thân họ cũng giết không cần chớp mắt. Họ không có c|i “hỉ nộ ai lạc” của c| nh}n. Trong “Đa tình kiếm khách vô tình kiếm”, Cổ Long đ~ miêu tả tay “s|t thủ chuyên nghiệp” Kinh Vô Mệnh như sau: “Đó căn bản không phải l{ đôi mắt của con người, cũng không phải là mắt dã thú. Vô luận mắt người hay mắt d~ thú chí ít cũng có sự sống, đều có tình cảm, dù đó l{ sự tham lam, tàn bạo, độc |c... thì chí ít cũng l{ thứ “tình cảm”. Đôi mắt này lại là chết. Nó không có một chút tình cảm, một chút sự sống nào - thậm chí đến cả sinh mệnh của chính nó.” Khi Lý Tầm Hoan xuống đao còn chút lưu tình, lưỡi đao nhẹ nh{ng đ}m trúng bả vai Kinh Vô Mệnh. Kinh Vô Mệnh không muốn nhận sự ban ơn của người khác, liền vỗ mạnh một chưởng, mũi đao đ}m thẳng vào, phế luôn cánh tay phải. Cái kiểu người cắt đứt mọi sợi dây tình cảm, lòng như giếng lặng ấy thật l{ đ|ng sợ. Nhưng, sau khi chủ của y l{ Thượng Quan Kim Hồng đ~ chết, c|i “s|t khí vô hình” ấy bỗng mất đi, y trở nên chậm chạp. Bởi vì không còn ai sai y đi giết người nữa, y mất luôn ý nghĩa của sự tồn tại, dù còn sống thì cũng chỉ còn là một cái xác trống rỗng mà thôi. Loại thích kh|ch như Kinh Vô Mệnh, về cá nhân mà nói, chỉ là sức mạnh mù quáng, dã man; thế nhưng trong x~ hội phong kiến họ thường bị lợi dụng, trở thành công cụ của những }m mưu chính trị. Từ xưa đến nay, những kẻ có quyền có thế thường mua thích kh|ch để |m s|t đối thủ chính trị. Chẳng hạn như Lương Hiếu Vương đời Hán muốn kế thừa ngôi vua, nhờ Viên Áng nói tốt cho mình. Không ngờ Viên Áng ở thời khắc quan trọng lại im lặng chẳng nói gì, Lương Hiếu Vương thẹn quá hóa giận bèn sai người đến cửa An Lăng để ám sát Áng. Việc |m s|t trên chính đ{n đến thời V~n Đường rất thịnh. Năm Nguyên Hòa thứ 10 đời Đường Hiến Tông, tể tướng Vũ Nguyên H{nh chủ trương thảo phạt các xứ Ho{i, S|i, đại thần Bùi Độ t|n đồng, vì thế mà kết oán với quan các trấn l{ Lý Sư Đạo, Vương Thừa Tông, Ngô Nguyên Tế. Thế l{ Vũ Nguyên H{nh bị hại ở Tĩnh An, Bùi Độ cũng bị đ}m ở Thông Hóa, thủ phạm là c|c võ sĩ tay sai của Lý Sư Đạo, Vương Thừa Tông. Bọn sát thủ chuyên nghiệp là bọn vô đạo đức, vô chính trị nhưng lại thường trở thành công cụ của đấu tranh chính trị, điều đó rất đ|ng để cho người ta suy nghĩ. Luyện võ mà không tu tâm tất chỉ thành công cụ mù qu|ng. Người trên chốn giang hồ có thể không thận trọng được sao? 6. Quan Thế giới của hiệp khách là giang hồ, thế giới của quan lại l{ quan trường, hai nơi đối lập nhau. Riêng có loại “Khanh tướng chi hiệp” (hiệp kh|ch khanh tướng) lại “lưỡng thê”, ở cả hai thế giới, th}n nơi cửa khuyết mà lòng ở trên sông trên biển. Tư M~ Thiên l{ người đầu tiên đ~ x}y dựng nên một loạt hình tượng “Khanh tướng chi hiệp”, m{ th{nh công nhất là hình tượng “tứ công tử” thời Chiến Quốc [7] . Họ mở rộng cửa nuôi dưỡng môn khách, lễ hiền hạ sĩ, lúc nguy nan thì đứng ra gánh v|c, phò vua giúp nước tỏa sáng cả chốn quan trường hắc ám. Họ là những “công tử đẹp thong dong giữa cõi đời ô trọc” (phiên phiên trọc thế chi giai công tử dã). Đặc trưng tính c|ch nổi bật của họ là dựa vào cái tôn nghiêm của dòng dõi quí tộc, phá vỡ sự trói buộc của vương ph|p, lễ gi|o. Tín Lăng Qu}n để các vị khanh tướng tông thất ngồi đợi ở nhà khách, bản thân mình thì lặng lẽ đến mời người gác cổng đông môn l{ Hầu Doanh đến dự tiệc. Mạnh Thường Quân thì hậu đ~i cả những người chỉ biết nhại tiếng gà kêu chó sủa. Những việc làm ấy nếu như diễn ra ở chốn giang hồ thì chẳng có chi là lạ. Giang hồ vốn chỉ trọng nhiệt tình, nghĩa khí, không ph}n biệt gi{u nghèo sang hèn. Điều hiếm có v{ đ|ng quý là ở chỗ bốn công tử đều xuất thân ở tầng lớp trên của xã hội đẳng cấp nghiêm ngặt mà lại thích xử sự theo qui tắc của thế giới giang hồ, thật khiến cho thế tục kinh ngạc. Công năng x~ hội của “Khanh tướng chi hiệp” l{ “phụ ph|p”, “gỡ những chỗ bế tắc của vương ph|p”. Họ có điều kiện để h{nh động khi quan trường tầm thường kém cỏi, hiệu suất thấp. Khi quân Tần bao v}y kinh đô H{m Đan của nước Triệu, vua nước Ngụy tầm mắt thiển cận hẹp hòi, ngoảnh mặt l{m ngơ. Còn Tín Lăng Qu}n (em của vua Ngụy) thì ý thức được mối quan hệ “môi hở răng lạnh” của Triệu với Ngụy, chống Tần cứu Triệu là phù hợp với lợi ích của nước Ngụy, nhưng khuyên m~i m{ vua Ngụy không nghe, ông bèn nhờ sủng cơ (thiếp yêu) của vua Ngụy lấy trộm binh phù, dẫn đại qu}n nước Ngụy đi đ|nh Tần cứu Triệu. Những người như Tín Lăng Qu}n nhờ khách quan nên sáng suốt, trên lĩnh vực chính trị có thể bổ khuyết cho kẻ cầm quyền, có ý nghĩa tiến bộ nhất định. Họ uy tín cao hơn chủ, khó tránh khỏi bị nghi ngờ. Tín Lăng Qu}n cứu Triệu có công nhưng từ đó về sau buộc phải ở lại l{m kh|ch nước Triệu. Nếu như không phải về sau nước Ngụy có nạn, vua Ngụy thay đổi th|i độ mời ông về nước thì Tín Lăng Qu}n đ{nh phải chết nơi đất kh|ch quê người. Nội tâm của những hiệp kh|ch khanh tướng ấy không thoải mái như bên ngo{i của họ m{ mang đậm sắc thái bi kịch. Trong tiểu thuyết võ hiệp cận đại, ở những nhân vật có thân phận song trùng, vừa là quan vừa là hiệp khách, phần nhiều đều có bóng dáng của bốn công tử thời Chiến Quốc. Trong “Thất kiếm hạ Thiên Sơn” của Lương Vũ Sinh, công tử con quan tể tướng nhà Thanh là Nạp Lan Dung Nhược “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Ch{ng nói: “Hai d}n tộc Mãn, Hán đều m|u đỏ. Họ vốn l{ anh em.” Ch{ng tuy không r{nh võ công, nhưng để cứu những người hiệp kh|ch như Phó Thanh Chủ, ch{ng đ~ giả c|ch sa cơ bị bắt, buộc phía nhà Thanh phải thả những người hiệp kh|ch để chuộc mạng công tử. Hành vi ấy biểu hiện rõ tinh thần hiệp kh|ch. Trong “Lộc Đỉnh ký” của Kim Dung, thậm chí đến ho{ng đế Khang Hy cũng thích hành hiệp. Trong hoàng cung, nửa đêm cùng Vi Tiểu Bảo lén đến cung Thái hậu, lại còn tự xưng l{ sư phụ, thu Vi Tiểu Bảo l{m đồ đệ. Khang Hy rất có khí ph|ch đại hiệp, thời niên thiếu đ~ từng mạo hiểm lừa bắt Ngao B|i. Khi đ~ trưởng thành, gặp lúc Ngô Tam Quế làm phản, quân triều đình bại trận, ông đ~ dứt khoát không nghe sự ngăn trở của triều thần, giết ngay con Ngô Tam Quế. Ông nghĩ rằng: “Trong triều không có đại tướng, tự ta l{ đại tướng”. Đúng vậy, chỉ Khang Hy mới l{ người có thể “tuy bại bất loạn” (tuy thất bại vẫn không hoang mang). Trong tiểu thuyết võ hiệp, các tác giả đ~ chú ý khắc họa tính cách song trùng của “hiệp - quan”. Họ bâng khuâng giữa vương ph|p v{ luật giang hồ. Linh hồn họ chịu sức ép từ hai phía quan phủ và hiệp khách, khó giữ được sự thanh thản trong tâm hồn. Trong “Xạ điêu anh hùng truyện” của Kim Dung, Dương Khang l{ một dạng của mâu thuẫn ấy. Là con trai của người H|n Dương Thiết Tâm, với người Kim y có mối thù sâu tựa bể, các hiệp khách người Hán lôi kéo y, hy vọng y gắng sức vì dân tộc; là công tử Hoàn Nhan quý phái của người Kim, mộng khanh tướng lại hấp dẫn y. Cuối cùng y tuy b|o thù cha nhưng vẫn ngã vào vòng tay của người Kim. Từ đó y tho|t khỏi thân phận song trùng, không còn là hiệp kh|ch, nhưng cũng vì thế mà thân bại danh liệt. C{ng có ý nghĩa l{ hình tượng Vi Tiểu Bảo trong “Lộc Đỉnh ký”. Đứa con hoang được sinh ra trong lầu xanh ở Dương Ch}u n{y vừa l{ người tâm phúc của ho{ng đế lại vừa l{ hương chủ trong “Thiên Địa Hội”. H~y khoan nói đến chuyện y có thực sự xứng đ|ng với hai danh phận này không, trớ trêu thế nào y lại khoác lên mình cả hai danh phận, nhưng rõ ràng là y bị sự trói buộc của cả vương ph|p v{ luật giang hồ. Khang Hy buộc y tiêu diệt Thiên Địa Hội, Thiên Địa Hội lại yêu cầu y ám sát Khang Hy. Y bối rối như g{ mắc tóc. Chính thể phong kiến không cho phép bề tôi hai lòng, dù Khang Hy lòng dạ có khoan dung nhưng rốt cuộc cũng không cho phép y hai ch}n đứng trên hai con thuyền. Qui tắc giang hồ cũng rất nghiêm khắc, ai phản bội bằng hữu, vi phạm chữ “nghĩa” thì “thiên hạ cùng giết nó” (“Thiên hạ cộng tru chi”). Quan trường hay giang hồ cũng đều nhấn mạnh tính hợp lý và tính thần thánh của những qui tắc của mình, tuyệt không cho phép người đ~ bước vào thế giới của nó lại lá mặt lá trái. Vi Tiểu Bảo ban đầu còn muốn được lòng cả hai bên: “Tốt nhất là vừa làm cho hoàng thượng vui vẻ, vừa giữ được nghĩa khí với bằng hữu”. Y dùng c|i thuật ma lanh của đứa con hoang diễn kịch giữa ho{ng đế v{ Thiên Địa Hội, mới đầu thì tạm lấp liếm được, về sau thì khó bề xoay xở. “Đối với ho{ng thượng phải có “lòng trung”, đối với bằng hữu phải giữ gìn “nghĩa khí”, nô t{i chỉ còn c|ch co đầu rụt cổ, câu cá ở trên đảo Thông Ngật n{y”. Cuối cùng, th|i độ của Khang Hy càng ngày càng khe khắt mà tàn quân của Thiên Địa Hội cũng lấy cái chết để bức b|ch, y đ{nh “không l{m quan, cũng không tạo phản”, “c|o l~o ho{n hương”. Vi Tiểu Bảo không giống Dương Khang “cầm lòng không đậu”, “lỡ một bước thành thiên cổ hận” nhưng rốt cuộc không thể tiếp tục “h{nh hiệp”, cũng không thể “l{m quan”. Cửa khuyết và giang hồ là hai thế giới chẳng thể n{o dung được nhau. Cái gọi l{ “khanh tướng chi hiệp” trong hoàn cảnh nền thống trị chuyên chế còn chưa kiến lập (tức thời Tiên Tần) thì còn có thể tồn tại. Từ khi chính thể chuyên chế đ~ được thiết lập và phát triển (Tần, Hán về sau) thì cái gọi l{ “hiệp quan” không còn đất sống, có chăng chỉ l{ như bông hoa lạ nở ra đầu ngọn bút của nhà tiểu thuyết mà thôi. 7. Người săn bắt tội phạm (bổ khoái) Trong tiểu thuyết võ hiệp hiện đại có những nhân vật “bổ kho|i” (săn bắt tội phạm) vốn l{ người ở công môn, nhưng h{nh sự, xử thế, tình nghĩa, tiết tháo lại không khác gì hiệp khách giang hồ. Với nghề nghiệp đặc thù, với không gian hoạt động độc đ|o, với phong cách hành hiệp kh|c thường, loại nhân vật n{y đ~ cấu thành một loại hình quan trọng trong giai tầng võ hiệp. Bổ khoái là một loại sai dịch đảm nhiệm việc bắt tội phạm ở nha môn thời cổ (thời phong kiến), họ cũng được gọi l{ “bổ dịch”. Đại khái là từ khi có pháp luật để duy trì trật tự xã hội thì bắt đầu có nghề này. Trong quan niệm thông thường của người ngày nay, loại địa vị thấp kém, loại sai dịch không có phẩm cấp như bổ khoái có lẽ cũng chẳng đ|ng kể v{o đ}u. Nhưng trên thực tế, trong xã hội phong kiến d{i đằng đẵng, nó là công cụ quan trọng bảo vệ sự thống trị của kẻ cầm quyền. Không những thế, với tư c|ch kẻ chấp pháp cụ thể, với tư c|ch kẻ thừa hành, bản chất của bổ khoái là trợ thủ v{ l{ chó săn cho kẻ thống trị phong kiến. Đọc “Khốc lại liệt truyện” trong “Sử ký” của Tư M~ Thiên, có thể hiểu được sự hắc ám, hủ bại, đẫm máu của cơ quan tư ph|p thời phong kiến; và từ “th{nh tích” xử án của bọn “khốc lại” như Đỗ Chu thời Tây Hán ta có thể hình dung được bọn làm nghề bổ kho|i xưa nay chẳng hề đếm xỉa đến thị phi thiện ác, công lý nhân quyền. Sự dã man tàn bạo của chế độ “lại trị” dưới thời phong kiến, sự khắc nghiệt khắt khe của luật pháp khiến cho người ta nghẹt thở; thế l{ người ta bèn gửi gắm hy vọng vào những ông quan thanh liêm “chấp pháp công bằng”. Trong tiểu thuyết lịch sử công án thời Minh Thanh, quanh những câu chuyện về các ông quan xử án sáng suốt như Bao Chửng, Hải Thụy... không những đ~ phản ánh một cách trực tiếp và khá hệ thống cuộc đời của các bổ khoái mà còn tạo nên một loạt hình tượng bổ kho|i như Ho{ng Thiên B| trong “Thi công |n”, Bạch Ngọc Đường, Triển Chiêu trong “Tam Hiệp ngũ nghĩa” [8] v.v... Một mặt, là tay sai của kẻ thống trị phong kiến, ở những nhân vật như Ho{ng Thiên B|, Triển Chiêu, Bạch Ngọc Đường đ~ biểu hiện đầy đủ “nô tính” (tính chất nô bộc), họ dựa vào thân phận “đặc nhiệm” của mình, mặc sức ho{nh h{nh, điều này phản ánh bản tính của bổ khoái; mặt khác do họ xuất thân thảo mãng giang hồ lại ở dưới trướng ông quan thanh liêm nên họ lại có ít nhiều khí phách hiệp nghĩa, cũng l{m được nhiều việc tốt trừ bạo an lương, h{nh thiện giúp đời, điều này lại phản ánh nguyện vọng và yêu cầu của nhân dân Trung Quốc. Lỗ Tấn tiên sinh cho rằng tiểu thuyết công |n đ~ đi trước mở đường cho tiểu thuyết hiệp nghĩa (“Trung Quốc tiểu thuyết sử lược”). Thế nhưng, có sự khác biệt về chất giữa tiểu thuyết võ hiệp tân phái hiện đại với tiểu thuyết công án lịch sử thời Minh Thanh. Hình tượng nhân vật bổ khoái trong tiểu thuyết võ hiệp hiện đại chẳng những nhiều sắc th|i đa dạng m{ đồng thời còn có gương mặt tinh thần v{ tư tưởng hoàn toàn mới. Trong tác phẩm của các danh gia tiểu thuyết võ hiệp như Cổ Long, Ôn Thụy An, Tư Mã Linh... một loạt nhân vật bổ kho|i sinh động hấp dẫn, vô luận là ở bên ngoài hay trong nội t}m đều khác với những kẻ săn bắt tội phạm nơi nha môn trong đời sống hiện thực lịch sử cam tâm làm nô bộc. Vậy thì, điều gì khiến cho nhân vật bổ khoái một khi bước vào tiểu thuyết võ hiệp lại tỏa ra sắc thái khác lạ? Trước hết, so với những hiệp khách phóng túng, những “nghĩa đạo” (kẻ cướp có nghĩa) thong dong chốn giang hồ cho đến c|c tăng ni nương n|u chốn cửa Phật... thì bổ khoái lại đóng một vai trò quan trọng trong đời sống xã hội cổ đại và không thể coi thường sự tồn tại và ảnh hưởng của họ. Thứ hai, bổ khoái tuy thuộc lớp người bình thường trong quần thể xã hội, nhưng công việc thường xuyên của họ - điều tra, phá án, tróc nã tội phạm - lại là công việc không bình thường; một người bình thường lại luôn phải làm công việc không bình thường, những việc siêu phàm tuyệt tục, câu chuyện của họ hẳn phải ly kỳ hấp dẫn. Lại nữa, các tác giả võ hiệp hiện đại “kết nạp” bổ khoái vào gia tộc võ hiệp một mặt là do nó có cơ sở chân thực: những tay bổ kho|i không cam lòng đ|nh mất nhân tính, bản ngã, trong phạm vi khả năng v{ điều kiện của mình họ có thể trừ kẻ cuồng bạo, giúp người yếu đuối, l{m điều thiện, trừng trị kẻ ác. Một mặt khác bổ khoái lại l{ người thế tục bình thường, biểu hiện nhân tính của họ càng khiến người ta phải suy nghĩ. Đ}y cũng l{ một kho tư liệu phong phú để t|c gia kh|m ph|. Đồng thời, chức nghiệp và không gian hoạt động của bổ khoái tuy khác với tính cách và không gian của hiệp khách giang hồ nhưng cũng rất đặc biệt, độc đ|o, do đó viết chuyện về họ cũng mở ra những nẻo đường mới, có hiệu quả nghệ thuật mới mẻ, đặc thù. Cho đến nay trong tiểu thuyết võ hiệp hiện đại, hình tượng bổ kho|i có tính đại biểu và có ảnh hưởng nhất phải kể đến bốn đại danh bổ Thiết Thủ, Lãnh Huyết, Truy Mệnh, Vô Tình trong “Loạt tác phẩm Tứ đại danh bổ” của Ôn Thụy An. Những việc làm của bốn người này đều theo qui tắc giang hồ, tuân thủ đạo nghĩa giang hồ, mà khí phách hiệp nghĩa của họ còn cao hơn cả hiệp khách giang hồ. Điều ấy có nghĩa l{, họ trước hết là hiệp khách giang hồ rồi mới đến là bổ đầu ở quan trường. Một khi nảy sinh mâu thuẫn thì điều mà họ lựa chọn là cái trước chứ không phải là cái sau. Sự thực, người trên giang hồ và kẻ thống trị phong kiến vốn đối lập. Hơn nữa, do thời đại ấy quá hắc ám, là bổ khoái ở nha môn, dựa dẫm vào tập đo{n thống trị, muốn làm việc gì theo ý mình cũng khó, thực chất là hầu như họ không thể nhiễm khí vị hiệp khách giang hồ. Nhưng tứ đại danh bổ không những kết bạn thân thiết với nhau theo đạo nghĩa giang hồ mà khi hành sự, ph| |n đều theo những phép tắc giang hồ. Điều ấy rõ ràng là rất nguy hiểm cũng tất nhiên là gặp phải thách thức và mâu thuẫn từ cả ba phía quan trường, hiệp khách và dân chúng. Họ ở giữa quan trường và giang hồ, làm sao có thể “l{m theo ý mình m{ không ra khỏi quy củ”? Đấy không những l{ “trung t}m hứng thú” của tác giả m{ cũng l{ tiêu điểm chú ý của độc giả. Thế nhưng, m}u thuẫn sẽ đến lúc không thể điều hòa được, bởi vì không thể kiêm nhiệm giang hồ v{ quan trường, cho nên Thiết Thủ, một trong “tứ đại danh bổ”, cuối cùng đ~ từ bỏ công việc bổ khoái, mà dứt kho|t bước vào giang hồ. (Xem: Ôn Thụy An - “Tứ đại danh bổ hội kinh sư”. “Nghịch thủy h{n”) - Thiết Thủ không có cách lựa chọn n{o kh|c ư? Kỳ thực, Thiết Thủ cũng có thể “an phận thủ thường”, l{m một “bổ kho|i” thực thụ, làm thuê cho tập đo{n thống trị phong kiến, nhưng Thiết Thủ và những người anh em của chàng chưa bao giờ là những bổ khoái thực thụ v{ cũng chưa hề coi mình là bổ khoái. Bởi vì họ căn bản l{ không “hạp” với nghể bổ khoái - bổ kho|i l{ chó săn, l{ nanh vuốt của kẻ thống trị mà họ lại là hào kiệt giang hồ. 8. Thái giám Hiệp không ở đ}u l{ không có. Có nam hiệp nữ hiệp, đại hiệp thiếu hiệp, thậm chí đến cả ở giống thứ ba - hoạn quan, cũng có khi không thiếu cốt cách hiệp nghĩa. “C|i đẹp tàn khuyết” (“t{n khuyết chi mỹ”) vốn là một phạm trù cơ bản của mỹ học tiểu thuyết võ hiệp. Cao thủ tuyệt đỉnh võ lâm có khi lại là một người mù, thọt ch}n, gù lưng, m{ người có bộ mặt xấu xí lại thường dịu d{ng như nước. Tư c|ch của người hiệp nghĩa, c|i chủ yếu không phải là ở sức mạnh thể chất mà là ở sự tự do và mạnh mẽ tâm linh, ở chỗ có năng lực tự vượt qua giới hạn của chính mình. Thân là hoạn quan đôi khi lại từ thân thể tàn tật, địa vị thấp kém của mình m{ theo đuổi sự viên mãn của tinh thần và sự cao thượng của nhân c|ch, như thế họ cũng xứng đ|ng với chữ “hiệp”. Chữ “hoạn” trong điển tịch cổ đại còn gọi l{ “tự nh}n”, “yêm nh}n”,”trung quan”, “nội quan”, “nội thị”, hoặc thường gọi l{ “th|i gi|m”. Đó l{ những người đ{n ông l{m việc trong cung nhưng lại bị loại bỏ cơ năng giới tính. Thiên “Xa L}n” thuộc “Tần phong” trong “Kinh Thi” viết “Vị kiến thiên tử, tự nhân chi lệnh” (chưa gặp vua, theo lệnh tự nh}n). Người phụ trách công việc truyền lệnh n{y l{ “tự nh}n” không có tên họ, là thái giám của vua Tần. Hoạn quan có ba nguồn gốc: một là tội nhân bị xử cung hình, phạt vào cung làm thái giám; hai là bắt con em của dân chúng, phẫu thuật rồi huấn luyện đưa v{o cung l{m th|i gi|m; ba l{ có kẻ tự cung (tự thiến mình) v{o cung l{m th|i gi|m để thực hiện mục đích riêng. Thời Tây Chu, hoạn quan ở trong cung vua chỉ phụ trách những việc lặt vặt, như đóng mở cửa cung, quét dọn cung điện, truyền đạt lời vua... Từ Xuân Thu Chiến Quốc về sau họ mới can dự vào việc chính trị, có quan chức bổng lộc khá cao, trở thành một lực lượng khá quan trọng trong chính trị truyền thống. Th|i gi|m đời Đường có thể nắm giữ “đại quyền” như đi sứ, chinh chiến, giám quân, phiên trấn, phán xét về án kiện, thậm chí còn chi phối cả hoàng đế và hậu phi. Đường Hiến tông, Đường Kính tông bị thái giám giết chết. Đường Mục tông, Đường Văn tông, Đường Vũ tông, Đường Định tông, Đường Ý tông, Đường Hy tông, Đường Chiêu tông thì lại được hoạn quan lập làm vua. Thời vua Minh Hiến tông, thái giám Uông Trực l{m “Đề đốc T}y xưởng” không coi c|c đại thần trong triều ra gì, dùng thủ đoạn đặc vụ để bức hại những người kh|c ý mình, l{m lòng người khắp kinh đô sợ hãi. Thái giám can dự vào chính trị gây họa ghê gớm không sao kể xiết. Thế nhưng, những người có công với nước tuy ít lại có thể lưu danh sử sách. Hoạn quan trong tiểu thuyết võ hiệp phần nhiều đều có sức mạnh rất lớn, điều n{y l{ có căn cứ lịch sử. Hoạn quan trong tiểu thuyết Kim Dung thường am hiểu võ học một cách sâu sắc, như Hải Đại Phú trong “Lộc Đỉnh ký” có võ công kinh người, còn tác giả của “Quì hoa bảo điển” trong “Tiếu ngạo giang hồ” cũng l{ một hoạn quan nghiễm nhiên trở th{nh tông sư võ học. Những điều này chỉ thuần túy l{ “lời của nhà tiểu thuyết” (ý nói hư cấu). Thái giám trong lịch sử tuy có thể được chỉ huy cấm qu}n, điều khiển thiên quân vạn m~ nhưng về võ thuật thì mù tịt. Thời vua Đường Đại tông, thống suất đội quân bảo vệ kinh đô l{ th|i gi|m Ngư Triều Ân, tuy tự khoe l{ “văn võ to{n t{i”, kỳ thực thì người mập ú, ngồi trên chiếc xe nhỏ, còn cách xa hàng dặm người ta đ~ nghe tiếng xe kêu cót két. Con người mà thân thể chậm chạp vụng về như thế há phải l{ người luyện võ đi lại nhanh nhẹn như gió, nói gì đến chuyện vung đao sử kiếm. Sự thực thì, sau khi bị “phẫu thuật”, hoạn quan dần dần phát phì, thịt mềm nhẽo, sức trói gà không chặt, yếu đuối như đ{n b{ con nít. Xưa nay, nhục nhã không gì bằng bị tội cung hình. Làm thân nam nhi, sống chết là việc nhỏ, có giữ được vẹn toàn thân thể để sống trọn cuộc nhân sinh thì mới l{ điều quan trọng. Kẻ bị dao cưa còn sống sót, mất hết cả tôn nghiêm của con người, bị người đời coi là vật gở. Vệ Linh Công xuất du, để hoạn quan Ung Cừ ngồi cùng xe, mà mời Khổng Tử ngồi cỗ xe thứ hai. Khổng Tử cảm thấy bị sỉ nhục, bèn phất tay áo rời nước Vệ. Cho nên Tư M~ Thiên sau khi bị “cung hình” [9] , “Mỗi khi nghĩ đến điều sỉ nhục ấy, mồ hôi lại ướt đầm lưng |o.” Hoạn quan vẫn cố gắng tiếp tục sống có thể có ba trạng thái: một là nghe trời theo mệnh, đ{nh cam chịu, khuất phục quyền uy tuyệt đối của vua, đem tấm thân hèn mọn mà lấy lòng bề trên, đa số th|i gi|m l{ như thế; hai là biến thái tâm lý, hết sức tham lam, tàn nhẫn, ngông cuồng, để thỏa mãn lòng tham của mình mà sẵn sàng làm mọi việc xấu xa, mất hết cả nhân tính, loại người này là thiểu số. Ba là tận trung với vua, tận nghĩa với bằng hữu hoặc vì một lý tưởng n{o đó m{ sống một c|ch ngoan cường, có nhiều cống hiến, không sợ sự chê bai của người đời, dám nhảy v{o nước sôi lửa bỏng, dẫu chết cũng không sờn lòng. Loại người n{y cũng rất hiếm. Loại thứ nhất l{ đ|nh mất nhân tính, loại thứ hai là nhân tính bị biến th|i méo mó, đầy thú tính; loại người thứ ba là sự thăng hoa của nhân tính, trở nên siêu phàm, thành hóa thân của “trung”, “nghĩa”, “đạo”, rất gần với nhân cách của hiệp khách. Trong “Lộc Đỉnh ký”, để hoàn thành trọng tr|ch m{ tiên đế Thuận Trị ủy thác, Hải Đại Phú đ~ dốc hết t}m trí, đến nỗi mù cả đôi mắt, mất cả tính mạng vẫn không mảy may hối tiếc. Tư M~ Thiên trong “thư trả lời Nh}m An” đ~ nói: “... Tôi chỉ vì chưa thỏa được chí nguyện của mình nên phải gắng sống”. Chí nguyện ông nói đ}y l{ ho{n th{nh bộ “Sử ký”. Những người như Tư M~ Thiên, Hải Đại Phú đ~ coi thường vinh nhục, coi thường sống chết m{ còn dũng cảm tự vượt mình. Họ đem gi| trị của sự sinh tồn gửi gắm vào sự nghiệp. Tiểu thái giám Khấu Liên Tài cuối đời nh{ Thanh vì lo nghĩ đến sự an nguy của xã tắc, không quản mình địa vị thấp hèn đ~ dũng cảm dâng bản điều trần yêu cầu Từ Hy thái hậu trả lại quyền bính cho ho{ng đế Quang Tự, dừng ngay việc tu tạo vườn Viên Minh; Khấu Liên Tài đ~ bị giết hại một cách thảm khốc lúc mới 18 tuổi. Hoạn quan vốn chỉ l{ “trò chơi của chúa thượng, được nuôi như đ|m nh{ trò con h|t, v{ người đời thì vẫn khinh rẻ”, vậy mà Khấu Liên Tài không bị bùn nhơ ô nhiễm, cương trực ngoan cường, hào khí lẫm liệt, có thể sánh với những bậc anh hùng như Đ{m Tự Đồng, Trâu Dung. Những vị thái giám ấy tuy thân thể bị tàn tật nhưng về mặt tinh thần lại rất mạnh mẽ. Tư M~ Thiên trở thành sử gia đầu tiên viết truyện về hiệp kh|ch, đưa họ vào sử sách, chẳng phải l{ điều ngẫu nhiên, mà bởi vì từ sự trải nghiệm đau đớn của mình ông đ~ ngộ được yếu quyết của hiệp khách. Những hiệp khách xuất thân từ hoạn quan có một số đặc điểm: - to gan làm liều, không sợ gì hết, bởi vì họ sống nhưng đ~ không còn quan t}m đến vinh nhục, buồn vui, sống chết (coi như đời đ~ bỏ đi); - nhẫn nhục gánh vác trách nhiệm nặng nề, kiên trì nhẫn nại, khéo giấu chí mình, như Hải Đại Phú tuy biết rõ Vi Tiểu Bảo là kẻ đ~ l{m mù đôi mắt của mình nhưng vẫn sống hòa thuận với y, sức ẩn nhẫn này thật quá sức tưởng tượng; - hiểu rõ thế thái nhân tình, hiểu rõ nội tình trong cung như lòng b{n tay, đối với những vấn đề, những tệ đoan triều chính họ am hiểu kỹ c{ng hơn cả ho{ng đế, có thể suy nghĩ s}u xa; - rất mực trung thành với chủ, rất ít khi thay đổi khí tiết. Đương nhiên, sinh lý bị tàn khuyết nên t}m lý cũng bất bình thường, tính khí thất thường, đôi khi l{m cả những việc bất cận nhân tình. Chẳng hạn như nh}n vật Hải Đại Phú trong “Lộc Đỉnh ký” cơ bản là thuộc nhân vật chính ph|i nhưng ra tay cũng rất độc ác, bảo bối tùy th}n l{ “hóa thi phấn” (bột tan thây), thủ đoạn ấy người thuộc danh môn chính phái không bao giờ làm. 9. Kẻ trộm (thâu) Trong tiểu thuyết võ hiệp, hiệp khách là một giai tằng xã hội rất đông đảo và hỗn tạp, có đủ “tam gi|o cửu lưu”, “thần th}u” cũng không ngoại lệ, nhưng kẻ trộm (th}u) l{ địa vị thấp nhất. Trong thiên “Mạnh Thường Quân liệt truyện” s|ch “Sử ký”, khi Mạnh Thường Quân sang thăm nước Tần, bị giam lỏng, định đem |o cầu đút lót cho |i thiếp của Tần Chiêu Vương để tìm c|ch tho|t th}n; nhưng |o cầu bằng lông hồ ly trắng đ~ tặng cho Chiêu Vương mất rồi. Thế l{, “kẻ thấp hèn nhất, có khả năng giả l{m chó để ăn trộm” bèn đứng ra, trong đêm khuya lẻn v{o cung điện nước Tần lấy trộm áo cầu. Vậy mà, trước đ}y, khi Mạnh Thường Quân tiếp nhận người ấy l{m kh|ch “t}n kh|ch đều thấy xấu hổ”. Thảo nào trong một số tiểu thuyết võ hiệp, c|c “thần th}u” tự xưng l{ “chuột trong hang”. Điều này một mặt là do kẻ trộm bị khinh rẻ, mặt kh|c cũng phản |nh địa vị xã hội thấp hèn và tâm lý tự ti của họ. Thiên “Khư kiệp” (cắp hòm) trong sách Trang Tử có viết rằng: “Biết được trong nhà có gì, thế l{ th|nh; v{o trước, l{ dũng; ra sau, l{ nghĩa; biết được hay không, l{ trí; chia đều, là nh}n. Không có đủ năm đức ấy thì không thể th{nh được kẻ trộm lớn”. Có được năm đức ấy gọi l{: “đạo (kẻ trộm) cũng có đạo”. Ở đ}y Trang tử không d{nh để chỉ bọn ăn trộm vặt nơi đường phố mà chủ yếu là nói về cường đạo chốn lục l}m. Nhưng lời đ|nh gi| “đạo cũng có đạo” của Trang Tử cũng phù hợp với “thần th}u”. “Thần th}u” “nghĩa tặc” đều to gan làm xằng, đầy lòng tự tin, chẳng sợ gì thiên la địa võng, thông thường lúc ra tay cũng không hề khiếp sợ. Trong “Xa trung nữ tử” (Cô g|i trong xe) của truyền kỳ đời Đường, có một đ|m “hiệp đạo” do một cô gái cầm đầu ngang nhiên vào lấy trộm bảo vật của hoàng cung, khiêu khích cả nhà vua. Trong tiểu thuyết đời Minh có câu chuyện kể về “thần th}u” Lại Long mỗi khi gặp tham quan ô lại là quyết không bỏ qua, nhất định phải trổ tài lấy trộm để cảnh cáo. Có một lần, y lấy trộm 200 lạng vàng của tri huyện huyện Vô Tích, để lại ký hiệu “Nhất chi mai”. Tri huyện điên đầu, hạ lệnh cho bổ khoái mau tróc nã tội phạm. Đ~ l{m thì làm cho tới tay, đang đêm Lại Long lại vào huyện nha, cạo đầu vợ bé quan huyện, đem tóc nhét v{o hộp đựng ấn, lại vẽ lên tường ký hiệu “nhất chi mai”. S|ng sớm hôm sau, cả huyện nha kinh ngạc: Tri huyện sợ líu cả lưỡi, nói rằng: “Hóa ra lại l{ người đến hôm trước, thấy ta ra lệnh truy nã gấp, y lại trổ tài thần thông, báo tin cho ta. Cắt cả đầu tóc, rõ ràng muốn nói là có thể cắt đầu; đặt vào trong hộp ấn rõ ràng muốn nói là có thể lấy được cả ấn vua ban. Tên giặc này thật là lợi hại! Hôm trước sai dịch khuyên ta không nên đụng đến người này hóa ra là vì thế. Nếu không dừng tay tất gặp đại họa. Vàng là việc nhỏ, khảo mấy nhà giàu là lại có. Thôi, không truy cứu nữa!” Bèn vội vàng thu hồi lệnh truy nã. Đến thế thì cả mệnh quan của triều đình cũng phải cúi đầu trước đạo tặc, khiến người ta không nhịn được cười. Vị quan huyện này có thể nói l{ “thức thời”, m{ Lại Long tài cao mật lớn cũng đ|ng gọi l{ “nhất tuyệt”. “Thần th}u” “nghĩa tặc” phần nhiều đều dám làm dám chịu, có phong độ “đại tướng”. Lại Long mỗi lần g}y |n đều cảnh c|o trước, xong việc đều để lại ký hiệu của mình. Đồng thời, kẻ trộm đều mưu trí, nhanh nhẹn hơn người v{ cũng có phần xảo trá. Trong tiểu thuyết “Ng~ Lai D~” đời Tống kể rằng: ở kinh đô có một tên kẻ trộm sau khi g}y |n đều để lại ba chữ “Ng~ Lai D~” (ta đến đ}y). Một hôm, bổ khoái bắt được cả người lẫn tang vật, cho rằng kẻ bị bắt chính l{ “Ng~ Lai D~”, nhưng y có chết cũng không chịu nhận. Vụ án cứ nhùng nhằng không xử được. Tên trộm ấy bèn đút lót cho ngục tốt, nửa đêm ra khỏi tù “trổ t{i” v{ lại đề lên cửa nhà bị mất trộm ba chữ “Ng~ Lai D~”. Cai ngục mắc mưu, cho rằng “Ng~ Lai D~” l{ một người khác bèn thả tên trộm này ra. Trong tác phẩm “Minh đích phong v}n lục” của Lương Vũ Sinh, một hôm phủ họ Hàn bỗng dưng đầy máu, thi thể ngổn ngang, lão anh hùng họ Hàn không biết đ~ đi đ}u. Trên hiện trường chỉ còn một tên trộm nh~i nhép đang ngất xỉu. Đợi y tỉnh lại, y liền liến thoắng kể l~o tướng họ Hàn cấu kết với dị tộc, tàn hại võ l}m đồng đạo. Y lừa được khối người khiến thanh danh của Hàn lão anh hùng bị bôi nhọ một cách oan uổng. Nghiêm khắc mà nói, võ hiệp chủ trương tỉ võ, đấu sức một cách trực diện, quang minh, thậm chí coi thường cả việc dùng |m khí hay đầu độc. Dù mục tiêu của “thần th}u” “hiệp đạo” có cao quý đi nữa thì cái thuật trộm cắp cũng khiến người ta cảm thấy thiếu quang minh chính đại. Lại nữa, những kẻ giở ngón khéo tay lấy trộm dù l{ để cảnh cáo tham quan ô lại nhưng vẫn có động cơ tham tiền của. Mà trong thế giới giang hồ tượng trưng của tiểu thuyết võ hiệp, hiệp khách không nên phí tâm sức cho vấn đề của cải mưu sinh, nếu không thì còn đ}u l{ anh phong hiệp cốt? Cho nên trong người giang hồ thuộc tam giáo cửu lưu, hình tượng “thần th}u” “nghĩa tặc” kém xa những hình tượng như tăng đạo, hiệp cái, thích khách. Nên hiểu rằng hiệp kh|ch tượng trưng cho nh}n c|ch siêu ph{m, “tuồng trộm cắp” rõ ràng là rất phàm tục. Dùng quan điểm lịch sử hiện đại m{ ph}n tích, thì “thần th}u nghĩa tặc” l{ sự phản kháng đối với nền chính trị hủ bại, là dấu hiệu cho thấy hiện thực xã hội đ~ vô phương cứu chữa, cho nên việc đả kích nhằm vào tham quan ô lại của “thần th}u” cũng có ý nghĩa tích cực nhất định. 10. Kẻ cướp (đạo) “Đạo” l{ một khái niệm rất khó x|c định. Trong mắt của Hàn Phi Tử, tất cả các loại du hiệp “dùng võ m{ phạm cấm” đều là kẻ cướp, đều thuộc vào loại “bọn d}n đ|ng chết”, nhưng không ít đạo phỉ tụ tập ở sơn l}m lại nêu cao tinh thần hiệp nghĩa. Trương Hoa (đời Tấn) trong b{i thơ “B|c Lăng vương cung hiệp khúc” nói: “Thê trì hùng bi huyệt, Dung dữ hổ báo lâm. Thân tại pháp lệnh ngoại, Túng dật thường bất cấm”. (Náu mình trong hang gấu, Chung rừng với cọp beo. Thân ngoài vòng pháp luật, Ai cấm đo|n được nào). Đối tượng ngâm vịnh ở đ}y l{ hiệp kh|ch hay l{ đạo tặc? Không rõ. Hiệp v{ đạo đều không chịu sự ràng buộc của pháp lệnh quốc gia, đều sống trong d}n gian, đều tự do phóng túng, vào sinh ra tử, d|m chung đ{n với hổ báo. Nh{ thơ Bảo Chiếu từng viết b{i “Đại kết khách thiếu niên trường h{nh”: “Thất ý hoài tửu gian, Bạch nhận khởi tương cừu. Truy binh nhất đán chí, Phụ kiếm viễn hành du”. (Bực mình say cuộc rượu, Mũi kiếm chẳng dung tha. Quan qu}n m{ đuổi đến, Đeo kiếm ruổi đường xa). Trong cuộc rượu tình cờ có lời không vừa ý, liền tuốt kiếm, trừng mắt báo thù, biểu hiện kiểu ấy quá tầm thường, còn như “g}y rối” rồi bỏ chạy thì lại quá kém cỏi, chẳng “d|m l{m dám chịu”. Xem ra anh ch{ng “|o gấm đeo gươm ngô” n{y nếu coi là hiệp thì chẳng thà gọi l{ “đạo”. Phương thức hành vi và khí chất tính cách của hiệp v{ đạo na ná giống nhau, chỉ có một điểm khác duy nhất là: tiêu chuẩn giá trị của hành vi khác nhau. Những võ sĩ “vì nước vì d}n”, “thế thiên h{nh đạo”, “trừ kẻ cường bạo giúp người yếu đuối”, “tế khốn phò nguy” l{ hiệp khách; mà những võ sĩ bắt nạt người cô đơn yếu đuối, ngang tàng làm bậy lại là kẻ cướp. Hiệp v{ đạo không phải là không liên quan gì với nhau. Nhân tính là phức tạp. Một người làm một việc tốt không khó, khó là ở chỗ suốt đời chỉ làm việc tốt không làm việc xấu; những người thường chỉ làm những việc đúng đắn cũng khó tr|nh khỏi nhất thời “lầm lỡ”; kẻ quen làm việc xấu cũng có thể “cải t{ qui chính”. Hiệp v{ đạo có thể chuyển hóa lẫn nhau, mà hiệp khí v{ đạo khí lại thường đồng thời tồn tại ở một con người [10] . Nếu dùng thuật ngữ của Freud m{ nói thì “đạo khí” l{ “bản ng~”, nó l{ tính động vật nguyên thủy của con người, làm việc theo nhu cầu khoái lạc của mình, không phục tùng lý tính và nguyên tắc đạo đức, là dục vọng mù quáng. Dùng con mắt tâm lý học hiện đại m{ ph}n tích, độc giả say mê với những cảnh đả đấu trong tiểu thuyết võ hiệp, phản ánh tâm lý hiếu chiến trong tiềm thức nhân loại, huống nữa hiệp khách luôn sống trước lưỡi kiếm mũi đao, thì sao lại không có tiềm thức hiếu dũng hiếu chiến? Còn hiệp khí thì tương đương với c|i “siêu ng~”, nó yêu cầu h{nh động của con người phải tuân theo quy phạm đạo đức xã hội, đạt đến cảnh giới tinh thần cao thượng, siêu việt đời sống thế tục. “Bản ng~” v{ “siêu ng~” về căn bản l{ đối lập, xung đột lẫn nhau, còn “tự ng~” l{ trung gian, điều tiết quan hệ giữa “siêu ng~” v{ “bản ng~”. Con người hiện thực vừa l{ con người bản năng, vừa l{ con người lý trí v{ con người xã hội, là hợp thể của con người “bản ng~”, “tự ng~” v{ “siêu ng~”. Một con người, khi cái “siêu ng~” chiếm địa vị chủ đạo thì anh ta l{ “đại hiệp sĩ”, khi “bản ng~” diệu vũ dương oai thì anh ta l{ đạo tặc, còn “tự ng~” l{ trạng th|i bình thường của con người, cho nên rất nhiều võ sĩ vừa l{ đạo tặc vừa là hiệp khách, có màu sắc vừa chính vừa tà. Trong “Thủy hử truyện”, hảo h|n Lương Sơn Bạc cơ bản là những hiệp kh|ch “thế thiên h{nh đạo” nhưng đồng thời cũng có nhiều hơi hướng của đạo phỉ. Hơi hướng đạo phỉ ấy trước hết biểu hiện ở sự hung h~n b| đạo, lạm s|t người vô tội. Lỗ Trí Thâm khi xuất gia trên núi Ngũ Đ{i, ép hòa thượng ăn thịt chó, có người khuyên can, anh ta “ném miếng thịt chó, vung quyền đả v{o c|i đầu trọc” của người ta. Võ Tòng ở Khổng gia trang đòi rượu thịt, không vừa ý bèn “đứng phắt dậy xòe năm ngón tay đ|nh v{o mặt chủ quán một chưởng khiến chủ qu|n văng sang một bên”. Võ Tòng xông v{o lầu Uyên Ương, giết một hơi 12 người. Vợ chồng Trương Thanh Tôn Nhị Nương mở “hắc điếm” giết người ở Thập tự pha, bao nhiêu kh|ch qua đường đ~ trở thành oan hồn nơi hoang d~. Đạo khí còn biểu hiện ở nghĩa khí anh em không ph}n phải tr|i. Võ Tòng say đ|nh Tưởng Môn Thần, thật khoái chá hả hê, người đời đều truyền tụng. Kỳ thực đằng sau “h{nh vi hiệp nghĩa” n{y lại có phần chẳng quang minh gì. Bởi vì Thi Ân đ~ từng nói: anh ta (Thi ]n) đ~ dặn các sòng bạc ở Khoái hoạt l}m “khi có bọn kỹ nữ đi qua thì trước hết phải đến “thăm” tiểu đệ sau đó mới cho phép chúng được gỡ gạc”. Từ đó có thể thấy, Thi ]n v{ Tưởng Môn Thần cũng như nhau, đều là ác bá một vùng, chẳng qua Tưởng Môn Thần b| đạo mạnh hơn nên Thi ]n phải lép vế. Tranh chấp giữa Thi ]n v{ Tưởng Môn Thần nói trắng ra chỉ là sự tranh chấp địa bàn l{m ăn của xã hội đen, chẳng có chính nghĩa gì đ|ng nói. Võ Tòng đ~ kết nghĩa anh em với Thi ]n bèn đứng về phía Thi Ân một c|ch vô điều kiện, chẳng hỏi nguyên do gì cả, thật khác xa phong độ hiệp kh|ch vì d}n vì nước. Người ta thường nói: “ấu bất độc Thủy hử” (trẻ em không đọc “Thủy hử”) vì “Thủy hử” dạy đ|nh bậy; quá khứ quan phủ chê tr|ch “Thủy hử” l{ “hối đạo chi thư” (s|ch dạy kẻ cướp) cũng có c|i lý nhất định. Đương nhiên, nguyên nh}n chủ yếu khiến quan phủ phủ định “Thủy hử” l{ do nó ca tụng nghĩa qu}n chống lại triều đình, thì sự ca tụng đó lại l{ điểm sáng của “Thủy hử truyện”. “Thủy hử truyện” không né tr|nh hơi hướng đạo tặc của các hảo h|n Lương Sơn chính l{ sự biểu hiện trung thực với đời sống khách quan, trung thực với nhân tính hiện thực của Thi Nại Am. Hiệp khách mà không có một chút hơi hướng đạo tặc l{ điều khó tin được. Trong “Đại đạo “Yến tử”, Lý Tam truyền kỳ” (chuyện truyền kỳ về đại đạo “Yến tử” Lý Tam) của Liễu Khê kể về tay “đại đạo” khét tiếng ở kinh thành là Lý Tam phiêu bạt giang hồ phường phố, ra vào lầu xanh quán trà, giao thiệp với tam giáo cửu lưu nhưng hầu như không có hành vi xấu, điều ấy có phần siêu phàm thoát tục. Kim Dung trong “hậu ký” của tác phẩm “Lộc Đỉnh ký” đ~ nói rất đúng rằng: “Nh}n vật trong tiểu thuyết nếu như mười phần toàn mỹ thì khó tránh khỏi thiếu chân thực. Tiểu thuyết phản ánh xã hội, trong xã hội hiện thực không có con người tuyệt đối hoàn mỹ. Tiểu thuyết không phải l{ s|ch gi|o khoa.” Có lẽ chúng ta có thể mạnh dạn nói rằng: Những tiểu thuyết m{ trong đạo có hiệp, trong hiệp có đạo là những tiểu thuyết chân thực và sâu sắc. Vô luận là trong tiểu thuyết võ hiệp hay trong sự thực lịch sử đều để lại những ví dụ nổi danh về sự chuyển hóa lẫn nhau giữa “hiệp” v{ “đạo”. Theo truyện “Chu Xử” trong “Thế thuyết tân ngữ” của Lưu Nghĩa Kh|nh thì: “Chu Xử thời niên thiếu hung dữ cường bạo, có hiệp khí”, “l{m hại b|ch tính”, người trong làng ghép anh ta với mãnh hổ và giao long mà gọi l{ “tam |c”. Chu Xử giết chết cọp, đ|nh nhau với giao long ba ng{y ba đêm, người trong làng nghĩ rằng thế là ba kẻ |c đều chết, cùng nhau ăn mừng. Chu Xử “giết chết giao long rồi lên khỏi mặt nước về làng, thấy người trong l{ng đang ăn mừng, mới biết hóa ra mình vốn là tai họa của dân làng, có ý hối cải”. Từ đó Chu Xử lập chí làm việc tốt, trở thành hiệp kh|ch được người đời tôn kính. Lại như, Thanh bang v{ Hồng bang vốn là hai tổ chức bí mật vừa hiệp vừa đạo trong dân gian. Nhưng sau khi hai bang n{y hợp nhất, nhất là sau khi Thanh Hồng bang tiến vào thành phố thì chúng đ~ ho{nh h{nh b| đạo, buôn bán thuốc phiện, mở sòng bạc và lầu xanh, bắt cóc tống tiền, l{m đủ mọi việc ác, biến thành hắc bang tàn hại nhân dân. Chúng còn cấu kết với bọn quân phiệt, chính phủ Quốc D}n đảng và thế lực ngoại quốc, đ{n |p những người Cộng Sản, phá hoại phong trào công nhân, hoàn toàn biến thành một lực lượng chính trị phản động. Xã hội bí mật có tính chất hai mặt. Nó vừa có thể làm dịu bớt nỗi đau khổ của nhân dân vừa có sức phá hoại lớn đối với sự ổn định của xã hội và diễn tiến của văn minh. Vì vậy không nên một mực t|n dương cũng không nên ho{n to{n phủ định, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa hiệp v{ đạo là một chứng minh. 11. Ẩn sĩ Hiệp khách phần lớn là ẩn sĩ, lìa công danh, xa triều đình, ở ẩn chốn giang hồ. Chữ “ẩn sĩ” ở đ}y còn có thêm một h{m nghĩa nữa tức là không chỉ thoát ra khỏi “thế giới quan phủ” m{ còn muốn thoát khỏi cả “thế giới giang hồ”, không muốn đụng đến đao kiếm nữa. Họ không những là ẩn sĩ trong con mắt của người thường mà còn là ẩn sĩ trong mắt của hiệp khách. Có tư c|ch rút khỏi võ lâm, tắt bóng chốn sơn l}m thường thường là những cao thủ giang hồ, hiệp khách nổi tiếng một thời. Nếu không vậy, một võ sĩ m{ võ công v{ nh}n c|ch đều tầm thường, vốn chẳng có tiếng tăm, thì có gì m{ gọi l{ “ẩn”? Hiệp khách rút khỏi giang hồ có nhiều nguyên nhân. Một loại l{ “công th{nh th}n tho|i” để tránh cái lụy của tiếng tăm, ẩn cư để yên ổn phần còn lại của cuộc đời, hoặc giả muốn chú tâm tham ngộ những điều bí ẩn của võ học và nhân sinh. Những người như Thẩm Lãng, Vương L}n Hoa trong “Đa tình kiếm khách vô tình kiếm” l{ thuộc loại này. Một loại là trải qua những biến cố lớn trong đời, đau lòng nhận rõ phong ba hiểm ác chốn giang hồ, từ sự phẫn nộ, đồng thời cũng vì sự an toàn của mình m{ cương quyết rút lui. Ẩn sĩ loại này thường thấy dưới ngòi bút của Kim Dung. Như cao thủ kiếm tông của ph|i Hoa Sơn trong “Tiếu ngạo giang hồ”, bị trúng gian kế của khí tông ph|i Hoa Sơn, rời Hoa Sơn th{nh th}n với một kỹ nữ giả trang thục nữ, lúc trở về mới biết thầy và bạn thuộc kiếm tông đ~ đ~ bị khí tông giết hết ở Ngọc Nữ Phong. Khí tông đ~ đoạt được ngôi vị chưởng môn trong vũng máu còn chỉ trích kiếm tông là tà môn ngoại đạo, đuổi khỏi môn phái. Trải qua nỗi thống khổ sâu sắc ấy, Phong Thanh Dương ch|n nản, lại không thèm báo thù kẻ “ngụy quân tử” Nhạc Bất Quần của khí tông, ông thề suốt đời không so kiếm với bất kỳ ai nữa, sợ bẩn tay mình, lặng lẽ ẩn cư sau ngọn Ngọc Nữ Phong núi Hoa Sơn. Bốn anh em Hoàng Chung Công, Hắc Bạch Tử, Đồi Bút Ông, Đan Thanh Sinh của Nhật Nguyệt thần giáo quá thất vọng vì sự sùng b|i c| nh}n Đông Phương Bất Bại và sự chuyên quyền của Dương Liên Đình, bèn nhận công việc nhàn hạ là canh gác giáo chủ tiền nhiệm Nhậm Ngã Hành, rời Hắc Mộc nhai, ẩn cư tại Mai trang tại Tô Châu, suốt ng{y chìm đắm trong cầm kỳ thư họa. Nhân vật thứ hai của ph|i H{nh Sơn l{ Lưu Chính Phong kết bạn tri âm với Khúc Dương, u trưởng lão của Nhật Nguyệt thần giáo, không muốn bị lôi cuốn vào cuộc xung đột giữa chính giáo và ma giáo, có ý “rửa tay chậu v{ng”, đưa gia đình đi xa sang Tây Vực, rốt cuộc bị người trong chính giáo không cho phép, thân bại danh liệt, gia đình tan n|t. Những tao ngộ của ẩn sĩ loại thứ hai này khiến người ta phải suy nghĩ s}u xa. Xưa nay, tiểu thuyết võ hiệp đều mỹ hóa tự do v{ nghĩa khí của thế giới giang hồ, lấy đó để phủ định cái xấu xa tàn ác của thế giới quan phủ. Thế nhưng, bi kịch của những người như Phong Thanh Dương, Lưu Chính Phong v{ bốn anh em Mai trang lại thuyết minh rằng: thế giới giang hồ cũng chẳng trong sạch gì, trên nhiều phương diện nó cũng cùng kết cấu với thế giới quan phủ. Sự xuất hiện của ẩn sĩ võ l}m khiến tiểu thuyết võ hiệp được nâng cao thêm một tầng: nó không dừng ở chỗ hư cấu nên một xứ “đ{o nguyên” của tinh thần nh}n văn Trung Quốc mà còn tiến thêm một bước, chỉ ra rằng xứ đ{o nguyên tận thiện tận mỹ kia không hề tồn tại. Những tác phẩm võ hiệp ấy không chỉ thuộc chủ nghĩa lý tưởng mà còn thuộc chủ nghĩa hiện thực phê phán. Cổ thi nói rằng: Lan diệp xuân uy nhụy, Quế hoa thu hạo khiết. ... Thùy tri lâm thê giả, Văn phong tọa tương duyệt. (Lan mùa xu}n tươi xinh, Hoa quế thu trong sạch. ... Ai biết ở rừng xanh, Gió thoảng hương thanh khiết) Ẩn sĩ nổi tiếng bởi tính tình cao khiết. Trong lời “Hậu ký” s|ch “Tiếu ngạo giang hồ”, Kim Dung viết: “Lệnh Hồ Xung l{ “ẩn sĩ” bẩm sinh, không thích thú gì quyền lực. Doanh Doanh cũng l{ “ẩn sĩ”, n{ng có quyền sinh s|t đối với giang hồ h{o sĩ nhưng n{ng th{ ẩn cư trong ngõ hẻm ở Lạc Dương, đ|nh đ{n thổi s|o l{m vui.” Cuối cùng Doanh Doanh và Lệnh Hồ Xung cùng từ chức, trong hôn lễ họ đ~ hợp tấu khúc “Tiếu ngạo giang hồ” nhắn nhủ cùng thiên hạ. Khúc nhạc ấy ý tượng rất cao siêu, kẻ phàm phu tục tử không thể diễn tấu, đủ thấy hai người có tấm lòng trong s|ng như nhật nguyệt. Sự tình n{o cũng có hai mặt của nó, ẩn sĩ “cao thượng kỳ chí” “độc thiện kỳ th}n”, không chịu hùa theo bọn t{ |c hư ngụy, đ|ng được khâm phục. Nhưng nếu qu| ư giữ mình trong sạch, không quan t}m gì đến những nỗi vui buồn của thế gian, thờ ơ trước những sóng gió giang hồ thì cũng gần với tâm thái của kẻ khuyển nho. Mạc Đại tiên sinh l{ chưởng môn ph|i H{nh Sơn tôn quý, nhưng coi thường địa vị của mình, như ẩn như hiện, tuy có lần ra tay giết Phí Bân là kẻ đ~ s|t hại cả nh{ Lưu Chính Phong nhưng cũng không muốn ra mặt đối kháng với những kẻ như Nhạc Bất Quần, Tả Lãnh Thiền. Với sự thông tuệ của mình, hẳn l{ ông ta đ~ dự cảm được sát khí của buổi lễ “rửa tay chậu v{ng” của Lưu Chính Phong nhưng trước đó ông đ~ cố ý tr|nh đi. Ông biết rõ Lệnh Hồ Xung bị đuổi khỏi môn phái là oan uổng nhưng cũng không đứng ra biện minh cho chàng. Tại thời điểm quan trọng, khi Tả Lãnh Thiền, Nhạc Bất Quần }m mưu thôn tính Ngũ nhạc phái, ông hầu như chẳng làm gì cả. ]m thanh m{ người ta có thể nghe thấy chỉ l{ khúc “Tiêu Tương dạ vũ” như khóc như than của ông. Thảo n{o Lưu Chính Phong nói: Mặc dù Mạc Đại tiên sinh l{ người tốt nhưng cứ nghe thấy tiếng tì bà của ông là khó chịu. Ông cứ đi trên con đường ai oán ấy. Văn hóa Trung Quốc rất chú trọng “ai nhi bất thương, o|n nhi bất nộ” (buồn mà không thảm, oán mà không giận - lời Khổng Tử đ|nh gi| “Kinh thi”). Ẩn sĩ nổi tiếng Đ{o Uyên Minh tuy một mặt nh{n thính vô vi “Th|i cúc đông ly hạ, du nhiên kiến Nam Sơn” (Dưới r{o đông h|i cúc, xa trông thấy Nam Sơn) nhưng vẫn có mặt phẫn nộ “Hình Thiên vũ can thích Mãnh chí cố thường tại” (Hình Thiên múa can thích Chí mạnh m~i còn đ}y) So ra th|i độ xử thế của Phong Thanh Dương tích cực hơn Mạc Đại tiên sinh nhiều. Tại giờ phút quan trọng, khi ma giáo chuẩn bị tấn công Hằng Sơn ông không ngại nguy hiểm, ra lệnh cho Đ{o Cốc lục tiên báo tin cho phái Thiếu Lâm, nhờ Thiếu Lâm lấy tinh thần nghĩa hiệp ngăn chặn ma giáo. Tuy ông thanh thản như hồ nước lặng nhưng vẫn đầy nhiệt huyết, vẫn mang một tấm lòng hiệp nghĩa quan t}m đến võ l}m đồng đạo. 12. Nhà sư và đạo sĩ (tăng - đạo) Trong tiểu thuyết võ hiệp, Đạo giáo và Phật giáo xuất hiện nhiều kỳ nhân dị sĩ, vô luận là hòa thượng ni cô, đạo sĩ đạo cô đều có võ công và nhân phẩm cao siêu, thường trở thành nhân vật quan trọng chỉ đường cho người ta ra khỏi bến mê, phán xét thị phi, hóa giải oan cừu. Hòa thượng đạo sĩ l{ người thoát tục, vốn chẳng nên oán giận, coi ân oán hồng trần như mây khói thoảng. Nhưng trong tiểu thuyết võ hiệp họ lại bị cuốn v{o vòng tranh đoạt đả đấu của thế giới giang hồ. Nơi hiệp tăng (nh{ sư hiệp khách) hiệp đạo (đạo sĩ hiệp khách) thể hiện sự quan tâm sâu sắc đối với những đau khổ nhân gian, một loại tinh thần nhập thế tích cực. Lỗ Trí Th}m trong “Thủy hử truyện” l{ một vị hiệp tăng quen thuộc với mọi nhà. Ông ta giữa đường thấy sự bất bình tất vung quyền vào trận, đấm chết Trấn Quan T}y, đại náo rừng d~ trư, đêm n|o thôn Đ{o Hoa, lửa thiêu chùa Ngõa Quan. Lý Trác Ngô khen rằng: “Nếu không có nắm đấm của Đề hạt, thì hóa ra lưới trời qu| thưa.” Tế Công lại là một vị tăng hiệp mang màu sắc h{i hước mà mọi người quen biết. Hồi thứ nhất trong tác phẩm “Tế Công toàn truyện” đời Thanh kể: Tế Công “vốn l{ người phụng thờ Phật ph|p, đến để độ thế, tự mình tế khốn phò nguy, khuyến hóa chúng sinh”. Lời thiền đầu miệng của ông là: “Việc này ta há chẳng quan t}m!” Đ|ng ra, niệm kinh, tham thiền, tu đạo mới là chính nghiệp của tăng đạo. Thế nhưng trong tiểu thuyết những vị tăng, đạo d|m bước chân vào chốn giang hồ phần nhiều đều có thân thủ phi ph{m. Điều n{y có căn cứ lịch sử nhất định. Đạo giáo và Phật giáo trong lịch sử Trung Quốc đều có truyền thống thượng võ. Trước hết, tăng đạo đều coi trọng việc cường thân kiện thể, phòng bệnh kéo dài tuổi thọ, để cầu thông linh mà thành Phật, nhẹ nhàng mà lên tiên. Nhân vật quan trọng trong lịch sử Đạo giáo Trung Quốc là Cát Hồng. Trong cuốn “B~o ph|c tử” ông viết: “Người biết được cái huyền diệu, thanh sạch thì nói phòng trung chi thuật có thể độ thế. Người biết được c|i đạo của sự thở ra hít vào thì có thể kéo dài tuổi thọ. Người biết được yếu quyết của sự co duỗi thì có thể trẻ mãi. Người biết dùng c|c phương thuốc thảo mộc thì nhờ đó m{ có thể vô cùng”. Tuy sách của Cát Hồng có nói đến “trường sinh bất l~o”, “đắc đạo th{nh tiên” một cách hoang đường nhưng thông qua sự nghiên cứu về lý luận v{ phương ph|p đạo dẫn, hành khí thì trên khách quan cũng có t|c dụng thúc đẩy sự phát triển của khí công. Thứ nữa, trong cái thế giới hiện thực m{ công lý không địch nổi cường quyền thì Phật v{ Đạo muốn siêu độ chúng sinh, bảo vệ giáo pháp, hàng phục yêu ma, có khi không thể không ra tay lấy sức mạnh chính nghĩa để diệt trừ sự tàn bạo. Trong bộ phim “Thiếu Lâm tự” có c}u nói rất đúng rằng: “Đức Phật của chúng ta từ bi và diệt |c”. Trong “Tế Công toàn truyện”, Tế Công cũng có quan niệm: “Diệt kẻ ác tức là làm việc thiện”. Để trừng ác, tru diệt kẻ ác thì phải luyện tập võ công. Luận về võ công của tăng đạo thì trước hết phải kể đến chùa Thiếu Lâm ở núi Tung Sơn và cung Tử Tiêu núi Vũ Đương. Quyền pháp Thiếu Lâm sở trường về chiến đấu, đứng đầu công phu ngoại gia; Thái cực quyền và Bát quái quyền của Vũ Đương lấy tĩnh chế động là tột đỉnh của nội công. Nhất là võ công Thiếu L}m, luôn được tôn là nguồn gốc của võ thuật Trung Quốc. Tăng đạo gửi thân võ lâm, không chỉ mang theo võ công cái thế m{ điều quan trọng hơn l{ đem đến cho võ lâm một loại quy phạm đạo đức. Người luyện võ luôn sống trước mũi đao lưỡi kiếm, ra tay là có thể làm bị thương hoặc lấy mạng người, rất dễ trượt xuống khuynh hướng tàn nhẫn. Phật, Đạo phản đối sự hiếu s|t đem tiếng mõ chiều chuông sớm giải độc cho chốn võ lâm chát chúa tiếng gươm đao. Trong “Thiên Long b|t bộ”, vị sư