"
Văn Hóa Ứng Xử Việt Nam Hiện Nay
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Văn Hóa Ứng Xử Việt Nam Hiện Nay
 Ebooks
Nhóm Zalo
VĂN H Ó A ỨNG ẦỦ VIỆT NAM HIỆN NAY
NGUYÊN THANH TUẤN 
VĂN HÓA ỨNG ẴỬ  VIỆT NAM HIỆN NAY 
NHÀ XUẤT BẢN TỪ ĐIỂn b á c h k h o a 
&VIÊN VĂN HÓA
'Văn £óa M7y xử V iệi OGim Áiện naỳ 
/d ờ ĩ n ó i ắ ầ ư 
ưng xử c ó văn hóa trong cuốn sách nầỵ, được nâng lên  thành "văn hóa ứng xử". 
Văn hóa ứng xử Việt Nam truyền thống cơ bản được  thể hiện ỏ nếp ứng xử khoan hòa thiên về hành động với tư  duy trực giác tổng họp. Nhưng cái hành động của ứng xử  không ra ngoài nguyên tắc trọng tình, trọng đức, trọng văn,  và cả trọng nữ, vói cái miệng hay cười và lòi nói khôn ngoan. 
Nếp ứng xử khoan hòa thiên về hành động, thường chú  trọng đến cá c mối quan hệ đang vận động, nhất lồ cái trọng  tâm, trọng điểm, cấp bách, nên d ễ dẫn dến những cách ứng  xử linh hoạt. Hoàn cảnh càng câu thúc b ao nhiêu, năng lực  "ứng vạn biến" ỏ người Việt Nam càng tỏ rõ tính "quyển  biến" bấy nhiêu. Nhưng nếp ứng xử khoan hòa thường dược  biểu hiện ỏ lối ứng xử quân bình, và cũng không hiếm trường  hợp biến thái ỏ dạng mểm d ẻo , c ó khi tùy tiện.
Nguyên Thanh Tuấn 
Cả cái Lốt và cái xấu ấy, bây giò được thừa nhận rộng  rãi. Khi người ta thừa nhện, thậm chí còn ch ế giễu cái xấu của  mình, không có nghĩa là ngưòi ta yếu. 
Khi đốt nước đã sắp thoát khỏi Lỉnh trạng kém phát  triển, vồ trực tiếp bước vào xây dựng xã hội công nghiệp  th eo hướng hiện đại, thì những biến đổi trong ứng xử của  người Việt Nam, có lẽ, lại một lần nữa "quyền biến" như đã  "quyổn biến" khi đất nước chuyển sang kinh tế thị trường. 
Văn hóa ứng xử ỏ V iệt Nam được bắt đầu từ phong  trào "Dời sống mói" d o Hổ Chí Minh phát dộng từ năm 1946.  Từ dó dến nay cái mói liên tục được làm cho mỏi nữa; trong  đó việc chuyển sang kinh tế thị trường và xây dựng xã hội  công nghiệp theo hướng hiện dại, lả những bước biến dổi  sâu sắc không chỉ trong văn hóa ứng xử. 
Lồ cái xã hội trong cái cá nhân, văn hóa ứng xử, vì thế,  cũng b ao hàm nhiều vấn d ề, c ó thể nói lồ Lương dương vói  phạm vi mọi hoạt dộng, sinh hoạt của con người. Ẵin đ ộ c giả  vui lòng d ọ c cuốn sách nhỏ này, đ ể c ó thể c ó những chiêm  nghiệm b ổ ích cho bản thân. 
Ẵin cảm ơn Viện Văn hóa vồ Nhà xuất bản Từ diển bách  khoa dã giúp Lôi được làm quen vối bạn d ọ c qua cuốn sách  nhỏ này. 
TẢCGỈẨ
U ăiì Êóa ứnỹ xứ O iêi OGun £ iện na^ 
C I I I Í O M G I 
Triết lý về văn hóa ứng xử Việt Nam 
1. QUAN NIỆM vẩ VĂN HÓA ỨNG xử 
Trong nền văn hóa Việt Nam cổ truyền không có khái  niệm văn hóa ứng xử, văn hóa lối sống. Trưóc năm 1945,  khái niệm phong hóa và phong tục được dùng rộng rãi  trong ngôn ngữ nói và viết. Khái niệm phong hóa, vừa  phản ánh sự bền vững của phong tục tập quán vừa chỉ rõ  mức độ thấm đưỢm nhuần nhụy, tinh tê của giáo dục và  văn hóa dân tộc trong muôn mặt đòi thường. Trong khi đó,  phong tục là lốì sốhg đã thành nền nếp, thành nếp sốhg và  tập quán lâu đòi. Trên cơ sở ấy, gia đình có gia phong, làng  xã có hương phong, quân đội có quân phong, đất nước có  quốc pháp và quốc hồn, quốc túy.
Mguyén Thanh Tuấn
Cuộc cải biến phong hóa dân tộc ỏ xã hội ta được mở  đầu từ những năm 30 của thế kỷ XX và phát triển mạnh  mẽ thành phong trào đòi sông mới do Chủ tịch Hồ Chí  Minh phát động từ năm 1946. Từ đó việc tổ chức cuộc sông  lành mạnh, khoa học trong gia đình, ngoài thôn xóm, phô"  phường được mọi người quan tâm. Cách may mặc mới,  cách xưng hô mới, cách quan hệ mói, cách lao động mới,  cách ứng xử mới v.v... trở thành phong trào sâu rộng khắp  đô thị và nông thôn, cả tín ngưỡng, hội hè, đình đám, ma  chay, giỗ chạp cũng được xem xét lại theo tinh thần mói.  Từng bưốc một, đòi sốhg mới được hình thành trong quá  trình cải cách kinh tê - xã hội diễn ra toàn diện, sâu sắc,  đặc biệt trong hai cuộc kháng chiến thần thánh chống xâm  lược Pháp và Mỹ. 
Đồi sống mới tạo ra nền văn hóa mới và con người mới  với đạo đức mới, chuẩn mực xã hội mói, khuôn mẫu ứng xử  mới. Lối sốhg mới hay văn hóa lối sốhg trở thành thuật  ngữ thông dụng trong cuộc sốhg hằng ngày và trong đòi  sốhg khoa học. Có thể nói khái niệm lôi sống hay văn hóa  lôi sống là tương đương với phạm trù văn hóa ứng xử, nhất  là khi tiếp cận lôi sống chỉ gồm các hoạt động sống (hay  cũng có thể gọi là hoạt động ứng xử), và không mở rộng lôl  sống gồm cả điều kiện sống. 
Thuật ngữ văn hóa lôl sông (văn hóa ứng xử) xuất  hiện như là kết quả của quá trình cải biến xã hội nói 
X)ăn £óa ííwy xử D iệi OGun Ẻiệiì nay 
chung và xây dựng con người mới, văn hóa mới nói riêng.  Và cùng với quá trình xây dựng con người mới, ván hóa  mới thì lốì sống mói được nghiên cứu sâu rộng trên bình  diện khoa học xã hội và nhân văn ở nước ta. 
1.1. Quan điểm vã cách tiếp cận ỏ các nưỡc xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô trưỡc đây 
Trong các thập niên 60 - 80 của thê kỷ XX, tại Liên  Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu có đến hơn 50  định nghĩa tiêu biểu về lốì sốhg và có thể quy về ba  khuynh hưóng sau: 
Khuynh hướng thứ nhất, thường định nghĩa lối sổng  dựa vào khái niệm "hoạt động", "hành vi". Riêng khái niệm  "hoạt động" cũng có tác giả hiểu theo nghĩa rộng nhất, tức  là bao hàm cả những sinh hoạt thường ngày. Những định  nghĩa thuộc loại này có ưu điểm khắc họa được đặc điểm cơ  bản của lốỉ sốhg xã hội chủ nghĩa là coi lao động sáng tạo  với tính chất là hạt nhân trong hoạt động sống của con  người. Tuy nhiên, đốì vối cả những định nghĩa khái niệm  "hoạt động" cũng chưa phản ánh đầy đủ được các đặc điểm  của lốì sống. Thí dụ, G.Glezerman (Liên Xô) cho rằng: "lối  sống là tổng hòa những nét cơ bản, nói lên những đặc điểm  của các hoạt động sống của xã hội, dân tộc, giai cấp, các  nhóm xã hội, các cá nhân trong một hình thái kinh tê - xã
Nguyên Thanh Tuân
hội nhất định. Tiến sĩ triết học xô viết V.I.Tônxtưkhơ cũng  dựa vào hình thái kinh tế - xã hội, một phạm trù bao quát  tất cả những điều kiện và những nhân tô" quyết định lối  sống để xác định nội dung lốì sống, ông định nghĩa lối  sông là những hình thức cô" định, điển hình của hoạt động  sông cá nhân và tập đoàn của con người; những hình thức  ấy nói lên các đặc điểm về sự giao tế, hành vi và nếp nghĩ  của họ trong các lĩnh vực lao động, hoạt động xã hội -  chính trị, sinh hoạt và giải trí. Những định nghĩa bao quát  này có thể phản ánh được đầy đủ "cái xã hội" của lô"i sông;  nhưng lối sống là cái xã hội trong cái cá nhân cho nên tính  chủ thể của lô"i sông chưa được phản ánh rõ nét trong các  định nghĩa trên. 
Khuynh hướng thứ hai, tập trung vào nền tảng của  lô"i sống - đó là các điều kiện vật chất quy định sự tồn tại  của con người. Những định nghĩa thuộc loại này thiên về  đề cao vai trò của "mức sông", thậm chí dùng phạm trù  "chất lượng sông" thay cho phạm trù lô"i sốhg. Chẳng hạn,  theo Z.Dunô"p (Hunggari), lối sông trưốc hết là những điều  kiện trong đó con người tự tái sản xuất về mặt sinh hoạt  cũng như về mặt xã hội. Đó là toàn bộ những hình thức  hành vi hàng ngày, ổn định và điển hình của con người. 
Các điều kiện sông cũng như mô"i quan hệ của các  điều kiện ấy là nền tảng đánh giá sự thỏa mãn các nhu cầu 
X)ăn £óa ứiìỹ xứ U iệi OCam Ă iện naỳ
vật chất và tinh thần của con người và xã hội. Song tính  chất của hình thức thỏa mãn ấy như thế nào thì các định  nghĩa thuộc loại này giải đáp không tường minh. Do đó,  chúng không thể hiện rõ được tính chất xã hội, dân tộc,  văn hóa cũng như vai trò tích cực của chủ thể trong phạm  trù lối sống. 
Khuynh hướng thứ ha, muốn kết hỢp những ưu điểm  và khắc phục những nhược điểm của hai khuynh hướng  trên. Các định nghĩa thuộc loại này xem xét lốĩ sống như  một dạng hoạt động thực tế của con người trong một xã hội  nhất định và cần phải phân biệt nó với những điều kiện  của hoạt động sốhg ấy. Như vậy, khuynh hướng thứ ba này  tiếp cận lối sốhg tương đồng với văn hóa ứng xử. A.p.  Butencô, một chuyên gia nghiên cứu về lối sống của Liên  Xô trưóc đây, tán thành quan điểm này. Sự phân biệt đó có  ý nghĩa hết sức quan trọng về mặt phương pháp luận. Trên  thực tế nhiều nhà nghiên cứu thường đồng nhất lổĩ sốhg  vói các điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội. Như vậy, vô  hình chung họ không phân biệt tính đặc thù của lốĩ sốhg  trong các chê độ xã hội, các dân tộc và các nền văn hóa  khác nhau, ở phương diện khác nhau, một sô" nhà nghiên  cứu đã xem lối sống như một hình thức hành động hoặc  một hệ thốhg các hoạt động sốhg của con người, và xem xét  các điều kiện sông chỉ là môi trường bên ngoài của lốĩ sông. 
IMguyén Thanh Tuấn 
Quan điểm này không thấy rõ được môi quan hệ giữa chủ  thể và khách thể, do đó làm giảm vai trò quan trọng vổh có  của nền tảng xã hội đối vói ý thức và hành động, lẽ sông và  mức sốhg của con người. 
1.2. Quan điểm vã cách tiếp cận ở Việt Nam 
Nhìn chung, ba khuynh hướng định nghĩa về lối sống  trên đây là kết quả của cách tiếp cận khoa học khác nhau,  triết học, xã hội học, xã hội - tâm lý, xã hội - kinh tế, xã hội  - lịch sử, xã hội - chính trị, v.v... ở Việt Nam cũng đã có  những định nghĩa khác nhau về lôi sông, và nhìn chung  đều thuộc khuynh hướng thứ nhất và thứ ba. Thuộc  khuynh hưống thứ nhất phải kể đến định nghĩa của các  tác giả tập bài giảng Văn hóa xã hội chủ nghĩa của Học  viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Theo đó thì "lốì sốhg  là một phạm trù xã hội học khái quát toàn bộ hoạt động  sống của các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá  nhân trong những điều kiện của một hình thái kinh tế - xã  hội nhất định, và biểu hiện trên các lĩnh vực của đòi sốhg;  trong lao động và hưỏng thụ, trong quan hệ giữa người và  người, trong sinh hoạt tinh thần và văn hóa"^'\ Còn định 
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Văn hóa xã hội chù nghĩa. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, tr.217-218. 
12
X)ăn £óa ttwy xử X )iêí OGim £ ìện nay 
nghĩa sau đây có thể xếp vào khuynh hướng thứ ba: "Nói  một cách đơn giản, lôi sốhg nói rõ con người sống như thế  nào, để làm gì, họ làm những gì, cuộc sốhg của họ chứa  đựng những hành vi nào. Vì thế, về thực chất, lối sông  không bao quát những điều kiện sốhg, mà toàn bộ những  hình thức hoạt động sông của con người trong quá trình  sản xuất của cải vật chất và tinh thần, cũng như trong  lĩnh vực xã hội - chính trị và gia đình - sinh hoạt”‘^\ Định  nghĩa này tiếp cận lốì sốhg gồm toàn bộ các hình thức hoạt  động đòi sốhg và không bao quát các điều kiện sống. Do đó,  nó rất gần với khái niệm văn hóa ứng xử. 
Quan điểm của các nhà khoa học thuộc đề tài cấp  Nhà nước, nghiên cứu về lốì sốhg và môi trường, mã sô"  EX.06-13 đưỢc nêu khái quát trong Báo cáo tổng kết  chương trình nghiên cứu về văn hóa, văn minh, mã sô" KX 
06 (1991-1995) như sau: "Lô"i sống, trong một chừng mực  nhất định, là cách ứng xử của những người cụ thể của môi  trường sốhg. Môi trường là cái khách quan quy định, là  điều kiện khách quan trực tiếp tác động và ảnh hưởng đến  lô"i sông của con người, của các nhóm xã hội và cộng đồng  dân cư". Định nghĩa này tiếp cận lốỉ sông như một phương  thức ứng xử thực tê của con người trong một môi trường  nhất định. Và lô"i sông tuy chịu sự quy định khách quan 
’ Thanh Lê, v ề lối sống..., Tạp chí Cộng sản, sô 2.1981. tr.45.
IMguyén Thanh Tuấn 
của môi trường sông nhưng khi trở thành văn hóa lôi sông  thì cùng vói truyền thống văn hóa có thể biến cải môi  trường tự nhiên sao cho thích hỢp với hệ thống các nhu cầu  sống của con người. Định nghĩa này cũng thuộc khuynh  hướng thứ ba như phân tích ở trên, ưu điểm của nó là ở  chỗ trong khi làm sáng rõ được mốì quan hệ biện chứng  giữa lối sông và môi trường đã chỉ ra đưọc vai trò tích cực  của văn hóa lốì sống. 
Trong những năm gần đây, ngoài một số công trình  liên quan đến văn hóa lốì sống, như bàn luận về lốĩ sống,  nếp sống, đạo đức chuẩn giá trị xã hội thì cũng có một vài  công trình nghiên cứu văn hóa ứng xử. 
Trước hết, trong công trình "Cơ sở văn hóa Việt  Nam", Trần Ngọc Thêm không trình bày một định nghĩa  về văn hóa ứng xử, nhưng đã xác định nội hàm của khái  niệm này. Tác giả cho rằng, các cộng đồng chủ thể văn hóa  tồn tại trong quan hệ với hai loại môi trường (các dân tộc,  quốc gia láng giềng...). Vối mỗi loại môi trường đều có cách  thức xử thế phù hỢp là: tận dụng môi trường (tác động tích  cực) và ứng phó với môi trường (tác động tiêu cực)^^\ Đốì  vói môi trường tự nhiên, việc ăn uống là tận dụng, còn  mặc, ỏ, đi lại là ứng phó. Đối với môi trường xã hội - tác giả 
Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, 1999, tái bản lán thứ 2, tr.16-17. 
14
Z)ănÁỗa ứnỹ xứ U iệi OGim £ ìện na^ 
xác định; "Bằng các quá trình giao lưu và tiếp biến văn  hóa, mỗi dân tộc đều cô" gắng tận dụng những thành tựu  của các dân tộc lân bang để làm giàu thêm cho nền văn  hóa của mình; đồng thòi lại phải lo ứng phó với họ trên các  mặt trận quân sự, ngoại giao..."'^^ Văn hóa ứng xử với môi  trường tự nhiên và môi trường xã hội có hai hàm nghĩa là:  tận dụng và ứng phó. Có thể coi đó là thái độ ứng xử. Cách  thức thể hiện thái độ này là giao lưu và tiếp biến văn hóa. 
Nội hàm khái niệm "văn hóa ứng xử" được tập thể tác  giả công trình "Văn hóa ứng xử của người Hà Nội với môi  trường thiên nhiên" xác định tương đối đầy đủ, và "gồm  cách thức quan hệ, thái độ và hành động của con người đốì  với môi trường thiên nhiên, đốì với xã hội và đốĩ vói người  khác"*^\ Nghĩa là, văn hóa ứng xử, theo các tác giả, gồm 3  chiều quan hệ: với thiên nhiên, xã hội và bản thân. Văn  hóa ứng xử gắn liền với các thước đo mà xã hội dùng để  ứng xử. Đó là các chuẩn mực xã hội. 
Cụ thể văn hóa ứng xử thông thường được chi phôi  bởi bô"n hệ chuẩn mực cơ bản của nhân cách: hệ chuẩn  mực trong lao động; hệ chuẩn mực trong giao tiếp; hệ  chuẩn mực gia đình; các chuẩn mực phát triển nhân 
Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxh Giáo dục, 1999, tái bdn lần thử2, IV.Ỉ6-I7. 
Ngiivễn Viết Chức, chả biên, Những giá trị lịch sử văn hóa 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, Nxb Chính trị Quốc gia. Hà Nội. 2002, lr.54.
Nguyén Thanh Tuân 
cách. Trong quá trình ứng xử, con người phải lựa chọn  giữa cái thiện và cái ác, cái đúng và cái sai, cái đẹp và  cái xấu, cái hỢp lý và cái phi lý... trong một cộng đồng  nhất định. Sự lựa chọn này bị chi phôi cũng bởi bôn hệ  chuẩn mực là: hệ chuẩn mực đạo đức, hệ chuẩn mực luật  pháp, hệ chuẩn mực thẩm mỹ và trí tụê, hệ chuẩn mực  về niềm tin. 
Ngoài ra, phải thấy rằng, văn hóa giao tiếp của con  người có liên quan chặt chẽ với các kỹ năng giao tiếp đặc  trưng, được hình thành ở họ, ví dụ kỹ năng "chỉnh sửa" các  ấn tưỢng ban đầu về người khác khi mới làm quen với họ;  tôn trọng các quan điểm, sở thích, thị hiếu, thói quen...  của người khác v.v...*’\ 
Cho đến nay ở Việt Nam, nhìn chung khái niệm văn  hóa ứng xử đã được gián tiếp, trực tiếp làm rõ gồm: thái  độ, cách thức quan hệ, hành động và cả kỹ năng lựa chọn  nhằm tận dụng, ứng phó và thể hiện tình người với môi  trường tự nhiên, môi trường xã hội và với bản thân. Thái  độ, cách thức quan hệ, hành động và cả kỹ năng lựa chọn  đều bị chi phôi bởi các giá trị được biểu hiện dưới dạng  chuẩn mực cơ bản của xã hội. 
Có thể nhận xét rằng, các định nghĩa về văn hóa ứng  xử, văn hóa lôi sống ở Việt Nam phần lớn thiên về cách 
Phạm Minh Hạc, chù biên. Văn hóa và giáo dục, giáo dục và văn hóa, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 1998, tr.123-124. 
16
'ĩ)ăn £óa úwy xứ UịệỂ OCim £iện nat^
nhìn tổng hỢp. Đến nay đã có hai giai đoạn tiếp cận vê văn  hóa lốì sống ở nước ta. 
- Trước những năm 70 của thế kỷ XX, văn hóa lốì  sốhg được nghiên cứu dưới góc độ triết học, mà cụ thể là  chuyên ngành chủ nghĩa duy vật lịch sử; và là đối tượng  nghiên cứu của chuyên ngành chủ nghĩa cộng sản khoa  học. Nói chung, cách tiếp cận triết học đối với lối sốhg là  định hướng nhận thức sự vật được sâu sắc hơn. Tuy vậy,  do thiên về nhận thức bản thể luận nên cách tiếp cận này  có phần trừu tượng. Nhà nghiên cứu Phan Ngọc gọi đó là  cách tiếp cận "tinh thần luận", không gắn với thao tác, cho  nên rất hạn chê trong việc nêu ra được cách làm việc cụ  thể trong hoạt động thực tiễn. Cách tiếp cận triết học nếu  không đạt đến trình độ nhận thức sâu sắc sẽ mang đậm  tinh thần "ý chí luận", mà hậu quả là tô đậm những mong  muốn chủ quan và đồng nhất cái ưóc vọng chủ quan với cái  thực tại khách quan. 
Theo cách tiếp cận triết học - chính trị thì văn hóa lốì  sốhg xã hội chủ nghĩa nằm trong phạm trù cách mạng tư  tưởng - vàn hóa, và là một đặc trưng cơ bản để phân biệt  giữa xã hội chủ nghĩa với xã hội tư bản chủ nghĩa. Cơ sở xã  hội - kinh tê của lối sông xã hội chủ nghĩa được xác định là:  chê độ sở hữu xã hội chủ nghĩa, tính chất lao động xã hội  chủ nghĩa (lao động tập thể xã hội chủ nghĩa), quan hệ  phân phối xã hội chủ nghĩa và sự phát triển phúc lợi toàn 
Nguyên Thanh Tuấn 
dân. Nội dung xây dựng văn hóa lối sống xã hội chủ nghĩa  là quá trình biến thê giới quan, hệ tư tưởng và những tiêu  chuẩn đạo đức của giai cấp công nhân thành thê giới quan,  hệ tư tưởng và những tiêu chuẩn đạo đức phổ biến đôi với  tất cả các giai cấp và các tập đoàn xã hội. Con đường và  cách thức xây dựng văn hóa lối sống xã hội chủ nghĩa là kê  hoạch hóa lối sổhg xã hội chủ nghĩa, xem đó vừa là tính tất  yếu vừa là khả năng; cần phải xây dựng hệ thống các chỉ  tiêu phát triển lốì sốhg xã hội chủ nghĩa 
- Từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX trở lại đây, văn  hóa lối sốhg được nghiên cứu, giảng dạy, kể cả ở hệ thống  trường Đảng, dưới giác độ xã hội học, văn hóa học. Và chủ  nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở lý luận, phương pháp luận  chi phối cơ sở lý luận và phương pháp tiếp cận văn hóa  học, xã hội học v.v... trong nghiên cứu văn hóa lốì sốhg.  Thí dụ, trong lòi mở đầu tập bài giảng Văn hóa xã hội chủ 
nghĩa, các tác giả khẳng định: "Tập bài giảng Văn hóa xã  hội chủ nghĩa lấy chủ nghĩa duy vật lịch sử làm cơ sở  phương pháp luận..."®. 
Tiếp cận xã hội học đổì với văn hóa lối sốhg bắt đầu  từ việc phân tích khoa học sự khác biệt giữa hành động  ứng xử xã hội vói hành vi tự nhiên để xác định khuôn mẫu 
"T ậ p thể tác giá - Lối sống xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội. 1982 Học viện Chính trị Quốc gia Hổ Chí Minh: Văn hóa xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993. tr.3.
X)ăn Ăóa ứiiỹ xứ U iệí OCim £ iện nat^ 
ứng xử. Sau đó, phân tích cách thức kết hỢp khuôn mẫu  ứng xử trong những vai trò xã hội và mối liên hệ qua lại  giữa chúng để tạo nên một thể chê xã hội. Cuôi cùng tìm  hiểu sự phối hỢp và cách thức vận hành toàn bộ các thể  chế xã hội theo một bảng giá trị xã hội nào đó, để hình  thành văn hóa lối sổhg hay văn hóa ứng xử. 
Tiếp cận văn hóa học là nghiên cứu các biểu trưng  văn hóa của các quá trình xã hội hình thành, thực hiện  khuôn mẫu ứng xử; cụ thể là các giá trị đạo đức, chuẩn  mực xã hội của khuôn mẫu ứng xử. Tìm hiểu ý nghĩa của  các biểu tượng văn hóa mà con người và xã hội loài người  cung cấp cho thế giới vật thể và phi vật thể. Với cách tiếp  cận văn hóa học, có thể làm rõ được lối ứng xử có văn hóa  và ý nghĩa tích cực của văn hóa ứng xử trong quá trình cải  biến thế giới (vật thể) tự nhiên sao cho thích ứng được với  hệ thống các nhu cầu xã hội của con người. Bởi lẽ, các giá  trị tinh thần - ván hóa là cơ sở và định hướng vận hành  của các khuôn mẫu ứng xử và chuẩn mực xã hội phối hỢp  và tổng hỢp chúng thành phương thức sống của con người  và xã hội. 
Có thể nói, cho đến nay ở nưốc ta các cách tiếp cận  triết học, xã hội học, văn hóa học là các hướng tiếp cận  chính trong nghiên cứu văn hóa lối sông, văn hóa ứng xử.  Ngoài ra, còn các cách tiếp cận lịch sử, tâm lý và kinh tê  cũng đã được vận dụng trong các công trình nghiên cứu về 
19
Nguyên Thanh Tuân
lối sông tại Việt Nam. Tuy vậy, vấn đề đặt ra đốì vói công  trình này là phối hỢp và huy động các cách tiếp cận đó như  thê nào, để không giới hạn và "để ngỏ" các kết luận khoa  học ở cấp độ triết học (bản thể luận), mà có thể trở thành  hệ thống thao tác tư duy và hành động cải biến tích cực  thê giối tự nhiên, xã hội và bản thân con người. 
1.3. Nội dung và phạm vi của khói niệm vãn hóa ứng xử 
Bản chất con người, theo tinh thần của C.Mác, trong  tính hiện thực của nó là tổng hòa các quan hệ xã hội. Các  quan hệ xã hội tất nhiên là rất đa dạng và phong phú,  song cũng có thể quy về hai phương diện chính: đòi sống  vật chất - xã hội và đòi sống xã hội - văn hóa. Để có thể  tổng hòa được hai phương diện phức hỢp thường xuyên vận  động và phát triển ấy, con người phải hoạt động, giao tiếp  và ứng xử với tự nhiên, với cộng đồng tộc (loài) người và vói  chính mình trong quá trình bảo tồn và phát triển đòi sổng  của cá nhân và cộng đồng lớn nhỏ. Có nhiều cách thức  (kiểu) bảo tồn và phát triển đòi sống trong những điều  kiện lịch sử - cụ thể thuộc các không gian và thời gian khác  nhau. Như vậy, các cách thức, kiểu sốhg là kết quả tác  động tích cực của con người vào điều kiện, môi trường tự  nhiên, xã hội đồng thời cũng chịu sự quy định khách quan  của điều kiện và môi trường ấy. 
Z)ăn £óa ííny xử X)iệí OGim £iện nat^ 
Từ thực tê ấy, có thể dựa vào ý kiến xác đáng của các  nhà sáng lập chủ nghĩa Mác để khái quát rằng “hoạt động  sống của họ như thê nào thì họ là như thê ấy. Do đó họ là  như thê nào, điều đó ăn khóp vối sản xuất của họ, vối cái  mà họ sản xuất ra cũng như vối cách họ sản xuất. Do đó,  những cá nhân là như thế nào, điều đó phụ thuộc vào  những điều kiện vật chất của sự sản xuất của họ"^''. Cho  nên, khi nghiên cứu văn hóa ứng xử tất nhiên phải cơ bản  dựa vào việc tiếp cận phương thức sản xuất. Theo C.Mác  và Ph.Ănghen; "Không nên nghiên cứu phương thức sản  xuất ấy đơn thuần theo khía cạnh nó là sự tái sản xuất ra  sự tồn tại thể xác của các cá nhân. Mà hơn thế, nó là một  phương thức hoạt động nhất định của những cá nhân ấy,  một hình thức nhất định của hoạt động sống của họ, một  phương thức sinh sống nhất định của họ"®. 
Văn hóa ứng xử chịu sự quy định của phương thức sản  xuất xã hội và toàn bộ những điều kiện sốhg của con người.  Tuy vậy, văn hóa ứng xử không phải là sản phẩm thụ động  của mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản  xuất và những điều kiện sống. Bởi lẽ, phạm vi của văn hóa  ứng xử rộng hơn phạm vi của phương thức sản xuất. Ngoài  sản xuất vật chất con người còn có các hoạt động khác, như  hoạt động chính trị xã hội, văn hóa sinh hoạt v.v... Phạm vi 
CM ác và Ph.Ảnghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.3, tr.30. 
21
Nguyên Thanh Tuấn 
của văn hóa ứng xử có thể tướng ứng với phạm vi của hình  thái xã hội. Hình thái xã hội gắn với hoạt động mọi mặt của  con người nhưng nó là một hiện thực khách quan, độc lập  vói ý thức và tình cảm con người. Trong khi đó, văn hóa  ứng xử phản ánh hoạt động của chủ thể và bao gồm: nhận  thức, tình cảm, động cơ, hành động xã hội (hoặc ứng xử xã  hội), khuôn mẫu ứng xử, thể chê xã hội và toàn bộ mốì liên  hệ biện chứng giữa chúng cũng như hệ thống vận hành mối  liên hệ đó theo một bảng giá trị xã hội nhất định. Nói cách  khác, văn hóa ứng xử là sự khúc xạ hình thái kinh tế - xã  hội trong nhận thức, tình cảm, thái độ và động cơ hoạt  động xã hội, tổ chức đòi sốhg và sinh hoạt cá nhân của con  người. Nhiều mặt trong lối sống có tính chất độc lập tương  đối so với sự phát triển của cơ sở hạ tầng xã hội. Văn hóa  ứng xử của con người là kết quả hoạt động của con người  trong quá trình thích nghi và biến đổi hoàn cảnh sống mà  con người vừa là sản phẩm của hoàn cảnh, vừa là chủ thể  sáng tạo ra hoàn cảnh sốhg của chính nó. Tác động của  phương thức sản xuất (và những điều kiện sốhg khác) đốì  với văn hóa ứng xử bao giờ cũng phải thông qua các hoạt  động của chủ thể và mang dấu ấn khúc xạ bởi các chủ thể.  Văn hóa ứng xử là biểu hiện của cái xã hội trong cái cá  nhân, cho nên nó có tính linh hoạt và cơ động cao. Văn hóa  ứng xử phản ánh mối liên hệ biện chứng giữa cái phổ biến  với cái đặc thù và cái đơn nhất, cho nên nội dung và phạm  vi của nó rộng lớn và đa tầng, đa nghĩa.
'Đăn Êóa ứnỹ xử UỉệỂ OCam £iện nay 
Vì thế, để xác định đúng đặc trưng cơ bản của văn  hóa ứng xử cần coi trọng các hoạt động lao động nhằm sản  xuất ra mọi của cải vật chất và tinh thần. Bởi lẽ, đây là  hoạt động chủ yếu có tính sông còn đối vói đòi sống con  ngUÒi và là hoạt động sáng tạo nhò sự kết hỢp hài hòa giữa  hoạt động cơ bắp và trí tuệ, để hoạt động sống là "hoạt  động thực sự có tính nguòi của những cá nhân, thành viên  tích cực của xã hội, biết đau khổ, cảm giác, suy nghĩ và  hành động nhu những con nguòi"'^^ Đồng thòi, khi xem xét  các quan hệ xã hội của văn hóa ứng xử phải chú ý đặc biệt  đến các quan hệ giai cấp, vì nó chính là cơ sở quyết định  các quan hệ xã hội của các tập đoàn xã hội. 
Văn hóa ứng xử bao hàm cả đặc trưng nội dung và  hình thức. Văn hóa ứng xử có mặt vật chất của nó, nhu  quan hệ lao động, trình độ và thời gian lao động, các  phương thức thỏa mãn nhu cầu vật chất, các cách thức ứng  xử với tự nhiên. Lĩnh vực tinh thần của văn hóa ứng xử  dựa trên các hoạt động sản xuất vật chất của các cá nhân  và nhóm xã hội. Chúng bao gồm các kiểu lịch sử nhất định  của hoạt động sáng tạo, luu thông, trao đổi và giữ gìn các  giá trị tinh thần nhU: các định hướng và thước đo giá trị,  các quan hệ đạo đức và thẩm mỹ. Bình diện tinh thần của  văn hóa ứng xử là những tiềm năng tinh thần của xã hội, 
(ỉ) CMác và Ph.Ảnghen, Toàn tập, Sđd, T.2, tr.233. 
23
Nguyên Thanh Tuấn 
quy định các hoạt động sông của con người trong các điều  kiện và môi trường xã hội cụ thể. 
Những nét đặc thù trong văn hóa ứng xử phản ánh  các điều kiện và môi trường vật chất, địa - văn hóa, truyền  thống dân tộc, dân cư (nhân khẩu), các hệ giá trị chính trị,  đạo đức, tinh thần - văn hóa v.v... Có văn hóa ứng xử của  một hình thái xã hội nhất định và có những khuôn mẫu  ứng xử được thể hiện trong một sô" hình thái xã hội khác  nhau. Có sự khác nhau giữa văn hóa ứng xử của giai cấp  phong kiến, giai cấp tư sản với văn hóa ứng xử của giai cấp  nông dân và giai cấp công nhân. Do sự quy định của điều  kiện và môi trường địa - văn hóa, nên có văn hóa ứng xử  du mục và văn hóa ứng xử trồng lúa nước. Do sự quy định  của điều kiện và môi trường kinh tê - xã hội mà có văn hóa  ứng xử trong nền kinh tế thị trường và văn hóa ứng xử  trong công xã truyền thốhg v.v... 
Sự tương tác giữa các quan hệ giai cấp và sự tương  tác giữa các quan hệ địa - văn hóa (thiên nhiên, môi  trường sinh thái, dân cư, lãnh thổ, dân tộc, tín ngưỡng và  tôn giáo...), đã tạo nên biểu tưỢng và giá trị văn hóa riêng  biệt như là bản sắc văn hóa ổn định của văn hóa ứng xử.  Vì thế, như đã đề cập ở trên, nhiều mặt của văn hóa ứng  xử có tính độc lập tương đối so vối sự phát triển của cơ sở  hạ tầng. Do vậy, có những phương thức sản xuất đã qua đi
T)ăn £óa ửiìỹ xử 'D iệi OGun Ẻ ìệiì na^ 
trong lịch sử, nhưng nhiều yếu tô" của văn hóa ứng xử vẫn  được bảo lưu và phát huy trong phương thức sản xuất mới.  Chẳng hạn, khuôn mẫu ứng xử một vỢ một chồng, khuôn  mẫu ứng xử tôn trọng người già, yêu chuộng lao động "đói  cho sạch, rách cho thơm" v.v... có khuôn mẫu ứng xử phổ  biến trong nhiều chế độ xã hội khác nhau, dẫu rằng hình  thức biểu hiện và tính chất của nó có thể khác nhau ở một  mức độ nào đó. Thực tê đó cho thấy tính đặc thù chỉ có ý  nghĩa tương đối trong khái niệm văn hóa ứng xử. Bởi lẽ,  như đã đề cập ở trên, trong văn hóa ứng xử thường có sự  thông nhất giữa cái riêng và cái chung, cái đặc thù và cái  phổ biến. Điều cần nhấn mạnh là sự thống nhất này  không dẫn đến chỗ khép kín và đơn điệu của văn hóa ứng  xử, trái lại nó dung hòa và bao hàm cả tính linh hoạt và  tính cơ động cao của văn hóa ứng xử. Cho nên để tiếp cận  được đầy đủ nội dung và phạm vi rộng lớn, đa tầng và đa  nghĩa của văn hóa ứng xử không thể chỉ dừng lại ở cấp độ  bản thể luận (tiếp cận triết học), mà phải biết xuất phát  từ đó để tiếp cận xã hội học và văn hóa học nhằm làm  sáng tỏ và lĩnh hội các hàm nghĩa sau đây của khái niệm  văn hóa ứng xử. 
a. Văn hóa ứng xử là tổng hòa những dạng hoạt độngsốhg ổn định của con người được vận hành theo một bảng giá  trị xã hội nào đó trong sự thống nhất với các điều kiện của 
25
Nguyên Thanh Tuân 
một hình thái xã hội nhất định. Là sự tổng hòa những tính  chất cơ bản nhất của các mối quan hệ giữa vật chất và tinh  thần, cá nhân và xã hội, dân tộc và quốc tế, cho nên các đặc  điểm của văn hóa ứng xử được thể hiện qua tất cả các hình  thức hoạt động sông của con người trong phạm vi một hình  thái xã hội. Tuy vậy, đặc trưng bản chất của văn hóa ứng xử  trực tiếp gắn với hệ thống giá trị tinh thần - văn hóa của  con người. 
b. Văn hóa ứng xử chịu sự quy định của phương thức  sản xuất và toàn bộ các điều kiện sốhg của con người. Tuy  vậy, sự quy định đó phải thông qua hoạt động của chủ thể  và mang dấu ấn khúc xạ bởi các chủ thể mà các chủ thể đó  là con người hoặc các cộng động người với tư cách vừa là  sản phẩm của hoàn cảnh, vừa là chủ thể sáng tạo ra hoàn  cảnh. Do đó, văn hóa ứng xử có tính chất độc lập tương đổi  so với sự phát triển của cơ sở hạ tầng xã hội. Nó có thể gây  ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đối với phương thức sản  xuất và những điều kiện khác quy định nó. 
c. Văn hóa ứng xử có tính linh hoạt và cơ động xã hội  cao. Mỗi lổi sống đều có đặc trưng riêng về nội dung và  hình thức biểu hiện. Có văn hóa ứng xử chung của một xã  hội, một quốc gia, một vùng địa - văn hóa, nhưng cũng có  lối sông riêng của mỗi dân tộc, giai cấp, giai tầng xã hội,  của mỗi gia đình và mỗi cá nhân. Mỗi văn hóa ứng xử có
Uăn £óa ứiìỹ xứ U iệi OGun Ẻiện nay 
chung đặc trưng về nội dung; nhưng đặc trưng hình thức  của nó thì lại được biểu hiện rất sống động và phong phú.  Khái niệm văn hóa ứng xử là kết quả của môi liên hệ biện  chứng giữa cái phô biến với cái đặc thù và cái đơn nhất  theo một bảng giá trị xã hội nào đó. 
d. Để nắm bắt được đặc trưng bản chất của văn hóa  ứng xử (vốh có tính mở và cơ động xã hội cao), khi xem xét  toàn bộ các hình thức hoạt động sông của con người cần coi  trọng đặc biệt hoạt động lao động - sản xuất, các giá trị vật  chất và tinh thần. Bởi lẽ, đây là hình thức hoạt động nền  tảng để con người bồi dưỡng tính người và bản chất cá  nhân - xã hội; và khi xem xét toàn bộ các quan hệ xã hội  của con người, cần xuất phát từ việc tìm hiểu các quan hệ  giai cấp, vì đây là quan hệ cơ bản đóng vai trò bản lề cho  sự phân định và tổng hòa các quan hệ xã hội trong bản  chất hiện thực - lịch sử của con người. 
đ. Con đường để nắm bắt nội dung và p^iạm vi của  khái niệm văn hóa ứng xử là tìm hiểu các hành động xã  hội (hành vi ứng xử), cách thức hình thành và định hình  các khuôn mẫu ứng xử. Từ đó phân tích cách thức kết hỢp  các khuôn mẫu ứng xử và các vai trò xã hội của chúng  cũng như những mốì liên hệ qua lại giữa chúng trên cơ sở  những chuẩn mực văn hóa - xã hội nhất định. Tổng hòa  các khuôn mẫu ứng xủ trên cơ sở các chuẩn mực xã hội 
27
NguyỂn Thanh Tuân 
được vận hành theo một bảng giá trị xã hội nào đó trong  toàn bộ điều kiện xã hội cụ thể, chính là nội dung và phạm  vi xã hội của văn hóa ứng xử. 
Trước tiên, theo chúng tôi, từ các hoạt động trong  quan hệ của con người vối môi trường thiên nhiên, môi  trường xã hội đã hình thành những khuôn mẫu ứng xử của  con người vói thế giới thiên nhiên, xã hội và đốĩ với nhau. 
Khuôn mẫu ứng xử là các hành động ứng phó và xử  lý được lặp lại một cách lâu bền ở đa sô" cá nhân trong  cộng đồng xã hội thuộc các cấp độ khác nhau, từ địa  phương nhỏ (làng, xã, huyện), đến vùng, miền, cả nước,  khu vực và thế giới, theo những chuẩn mực xã hội nhất  định. Nó được tổng quát hóa, tiêu chuẩn hóa và hỢp thức  hóa để làm mẫu mực chỉ dẫn cho các cá nhân và cả cộng  đồng xã hội đó. 
Khuôn mẫu ứng xử gồm 4 tiêu chí'^^: 
- Sự lặp đi lặp lại của các ứng xử thông thường. - ứng xử được đa sô" người trong cộng đồng cùng thực  hiện thông nhất theo một cách. 
- Chuẩn mực xã hội hay quy tắc (quy chế) ứng xử. - Ý nghĩa xã hội của ứng xử. 
" Huỳnh Khái Vinh, Nguyễn Thanh Tuấn..., Một sô'vấn đề về lối sống, đạo đức. chuẩn giá trị xã hội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 2001, tr.37-38.
'Dăiì £ỏa áaiỹ xử D iệi OGun £iện naỵ 
Căn cứ vào các tiêu chí này có thể thấy trong các  cộng đồng xã hội, nhất là ở các cộng đồng làng với lịch sử  văn hóa dài hàng trăm năm, có bô"n loại khuôn mẫu ứng  xử sau: 
- Phong tục là những khuôn mẫu ứng xử đã được  định hình, định tính hay được phong hóa lâu dài, bất  chấp những thay đổi lớn trong xã hội. Nó được cả cộng  đồng chấp nhận và tuân thủ mạnh mẽ. Vi phạm phong  tục là xúc phạm giá trị tinh thần của cộng đồng. Thí dụ  các phong tục về chi họ trên dưới trong họ tộc, nam nữ  trong các trực hệ không được lấy nhau, phong tục cưối  hỏi, giỗ chạp, thò cúng tổ tiên và những người có công  giáo dưỡng, tục không ăn thịt bò ở các cộng đồng Ấn Độ  giáo v.v... 
- Tập quán (hoặc tập tục) là các tục lệ hình thành từ  thói quen và không chịu sức ép lớn của xã hội. Việc vi  phạm các tập quán này có thể không gây nên những xúc  phạm lớn về tinh thần trong cộng đồng, và dư luận xã hội  có thể cũng không điều chỉnh. Thí dụ tập quán ăn bằng  đũa hay bằng thìa, bắt tay, ôm hôn nhau khi gặp mặt và  chia tay, sử dụng dao gọt úp tay như ở Việt Nam hay gọt  ngửa tay như ở châu Âu v.v... 
(1) Huỳnh Khái Vinh, Nguyễn Thanh Tuấn, Mộí sô' vấn đề về lối sống... Sđd, tr.103-104.
Nguyên Thanh Tuấn
- Thông lệ (hoặc thông tục) là khuôn mẫu ứng xử  thông thưòng, phổ biến và ít có tính cưỡng chế. Đó là một  sô" nghi thức xặ giao trong ứng xử, như cách chào hỏi, cách  biểu thị sự tán thưởng bằng vỗ tay hay tung hoa v.v... 
- Cấm kỵ (hoặc kiêng kỵ) là những chuẩn mực đạo  đức nghiêm ngặt. Nó được quy tắc hóa và mang tính pháp  quy mạnh mẽ nhất. Đây là hình thức cấm đoán có thưởng,  có phạt và mang tính luật lệ nghiêm minh. Thí dụ cấm  không được loạn luân, cấm con gái không đưỢc chửa hoang,  cấm không được xúc phạm bề trên v.v... 
Trong bốn loại khuôn mẫu ứng xử trên thì sự phân  loại hai dạng đầu là phong tục, tập quán chỉ có ý nghĩa rất  tương đối, vì chúng hay lẫn với nhau. Và trong cả bổh dạng  khuôn mẫu đó đều có hủ tục. Chẳng hạn đó là những tục  hèm của địa phương này, loại người này nhưng có thể  thành hủ tục đối vói địa phương khác, loại người khác. Sự  kéo dài quá mức và không đúng chỗ, đúng lúc của phong  tục, tập tục cũng sẽ bị coi là hủ tục. 
Sau nữa, các khuôn mẫu ứng xử Việt Nam và các  nước A Đông cho đến nay vẫn cơ bản dựa vào văn hóa ứng  xử ổn định lâu dài trong lịch sử văn hóa dân tộc. Vì thế,  chúng mang nội dung và ý nghĩa luân lý, đạo đức sâu sắc  và khá bền vững. Đến mức, luân lý, đạo đức thường đóng  vai trò nền móng và xuyên suốt trong các khuôn mẫu ứng 
Z)ăn £óa ứnỹ xứ U iệi OGim £ìện na^ 
xử. Luân lý, đạo đức đồng thòi cũng trở thành giá trị hay  chuẩn mực gốc và tương đốì độc lập bên cạnh giá trị hay  chuẩn mực khoa học, luật pháp, thẩm mỹ v.v... Rôt cuộc  các khuôn mẫu ứng xử và văn hóa ứng xử Việt Nam cho  đến nay vẫn có thuộc tính đạo đức sâu sắc. 
Sau nữa, các khuôn mẫu ứng xử luôn có tính lịch sử -  cụ thể; nghĩa là nó luôn gắn với điều kiện, môi trường cụ  thể, nhất là điều kiện kinh tế - xã hội, và khi những điều  kiện, môi trường thay đổi thì nó cũng có sự điều chỉnh cần  thiết cho thích hỢp. Điều kiện kinh tế - xã hội của văn hóa  ứng xử, trước tiên và cơ bản, thể hiện ở trình độ phát triển  của nền sản xuất xã hội, cụ thể là trình độ phát triển của  lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất của xã hội. Trình độ  của lực lượng sản xuất xã hội thể hiện trình độ đã đạt được  của con người trong mối quan hệ với tự nhiên; còn trình độ  quan hệ sản xuất phản ánh trình độ đã đạt được của con  người trong mốĩ quan hệ xã hội. 
Từ đó có thể suy rộng ra rằng, khuôn mẫu ứng xử  phụ thuộc vào môi trường thiên nhiên, môi trường xã hội  và môi trường văn hóa. 
Môi trường thiên nhiên gồm; a) thế giới tự nhiên hay  gọi là thiên nhiên thứ nhất, tồn tại ngoài sự tác động của  con người và cần thiết cho sự tồn tại, phát triển của con  người và mọi sinh vật. Đó là các dạng vật thể (đất, nước, 
31
IMguyén Thanh Tuân 
không khí...) và các dạng sinh vật, kể cả con người; b) thế  giói thiên nhiên thứ hai - thiên nhiên có sự tác động của  con người và do con người tạo ra một bản sao từ thiên  nhiên thứ nhất để làm thành một thế giối mới (nhà ở, kết  cấu hạ tầng nông thôn, đô thị, cây trồng, vật nuôi...).  Thiên nhiên thứ hai này, kể cả con người, là một bộ phận,  hơn nữa là một bộ phận đặc thù của tự nhiên hay của  thiên nhiên thứ nhâV^\ Thiên nhiên thứ hai bao gồm cả  môi trường xã hội và môi trường ván hóa, vì đều là môi  trường mà con người đã thích nghi và biến đổi. 
Môi trường xã hội là môi trường của các môi quan hệ  và tác động qua lại giữa người và người. Xã hội, theo  C.Mác "cho dù nó có hình thức gì đi nữa - là cái gì? Đều là  sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con  ngưòi"‘^\ Từ các môl quan hệ và tác động này, đã hình  thành cơ sở hạ tầng của xã hội, trước tiên và cơ bản là  phương thức sản xuất của xã hội và tương ứng vói nó là cơ  cấu xã hội - giai cấp. Cùng với việc sáng tạo ra những giá  trị vật chất kinh tế, con người cũng sáng tạo ra. các giá trị  xã hội khác. Các giá trị này là cơ sở và định hưóng cơ bản  cho việc phát triển các quan hệ xã hội và các mối tác động 
Nguyễn Việt Chức, chủ biên, Văn hóa ímg xử của người Hà Nội với môi trường thiên nhiên, Viện văn hóa và Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. 2002, tr.13-14. C.Mác và Plĩ.Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia. Hà Nội, 1996, T.27, tr.657.
Uăn £óa ứnỹ xứ 'Oìệí OGun £ìèn nai^ 
qua lại giữa người với người. Các giá trị vật thể, phi vật  thể này đã tạo ra một môi trường sống mới của con người  - đó là môi trường văn hóa. 
Môi trưòng văn hóa là môi trường mà con ngưòi  không chỉ thích ứng, hơn thê còn đã biến đổi môi trường tự  nhiên và môi trường xã hội. Đặc trưng của môi trường văn  hóa là luôn vận hành theo một hệ thông các giá trị văn hóa  được cả cộng đồng chấp nhận và làm theo. 
Có thể coi hệ thốhg giá trị là chỉ sô" đánh giá trình độ  đã đạt được của môi trường văn hóa. Giá trị có mặt khách  quan và mặt chủ quan: Mặt, khách quan là những thực thể  thiên nhiên và xã hội cũng như mối liên hệ của chúng để  tạo ra giá trị. Mặt chủ quan là thái độ, cách thức lựa chọn  giá trị và quy trình đánh giá giá trị thông qua các cá nhân  và xã hội. Qua sự phân biệt hai mặt khách quan và chủ  quan này có thể thấy rằng, giá trị chủ yếu tồn tại, phát  triển thông qua cái chủ quan. Mà cái chủ quan thì luôn  mang tính lịch sử - cụ thể. 
Giá trị, dù đó là vật thể hay tư tưởng, là vật thực hay  vật ảo, luôn luôn được các thành viên xã hội tin tưởng  mạnh mẽ và coi như một biểu tượng quan trọng trong đòi  sốhg tinh thần của họ, và cần đến nó như một nhu cầu  thực thụ. Giá trị, vì thế là nhân tô" nền tảng quyết định  thái độ và hành động của cá nhân và cộng đồng; nó đóng 
33
Mguyén Thanh Tuấn 
vai trò điều chỉnh thái độ và hành động của cá nhân và  cộng đồng, để định đoạt lợi ích xã hội của họ. Nói khác đi,  giá trị là nền tảng và đóng vai trò định vị văn hóa ứng xử;  nó quy định tính lịch sử - cụ thể của văn hóa ứng xử. 
Và sau nữa, do khuôn mẫu ứng xử là thể chế hành  động (ứng phó và xử lý) của con ngưòi trong môi trường  văn hóa lịch sử - cụ thể, cho nên nó được thể hiện và thực  hiện thông qua những chuẩn mực xã hội (tiêu chí, quy  ưốc, quy chế...) và cả những kỹ năng ứng xử. Các chuẩn  mực này cơ bản dựa vào các giá trị văn hóa (luân lý, đạo  đức, khoa học, luật pháp, thẩm mỹ, tâm linh...) mà mỗi  người hay cộng đồng tự xác định tin tưởng làm theo; và xã  hội đòi hỏi sự "trở thành" của nhân cách. Các giá trị văn  hóa, trong đó có các giá trị nhân cách, đều mang bản chất  chân, thiện, mỹ. Tuy vậy, các chuẩn mực, tiêu chí..., vì là  sự áp dụng cụ thể các giá trị văn hóa vào đòi sông thường  nhật theo những lợi ích khác nhau, cho nên chúng có hệ  số biến dạng không phải là nhỏ. Phải trải qua một  khoảng thòi gian nhất định mói có thể sàng lọc được  những chuẩn mực, tiêu chí... hỢp lý, vừa phản ánh đúng  được các giá trị văn hóa, vừa có thể cụ thể hóa được  những giá trị này thành các tiêu chí được đa sô" thành  viên xã hội tin tưởng và dễ nhớ, dễ làm theo. Thực tế cho  thấy các chuẩn mực truyền thống được thể hiện trong  phong tục, tập quán..., đều đã được sàng lọc, trải nghiệm 
34
T)ăiì £óa ứnỹ xứ U ỉệí OGun £iện naỳ • 
qua những thòi kỳ lịch sử khác nhau, trước khi chúng trở  thành giá trị văn hóa dân tộc. 
Khuôn mẫu ứng xử còn được thể hiện, thực hiện bằng  những kỹ năng ứng xử. Các kỹ năng này chỉ đạt đến chuẩn  mực văn hóa khi chúng được rèn luyện, bồi dưỡng bởi  những tư tưởng, đạo đức, lối sổhg có văn hóa. Các kỹ năng  này được hình thành chủ yếu thông qua con đường giáo dục. 
Các kỹ năng ứng xử có thể gồm: 
- Kỹ năng "chỉnh sửa" các ấn tượng ban đầu khi mới  giao tiếp, để hạn chế những sai lệch trong cảm nhận về vẻ  bề ngoài của đối tượng giao tiếp (như một hiện tượng thiên  nhiên, một con người cụ thể...). 
- Kỹ năng bước và giao tiếp một cách không định kiến. - Kỹ năng tự rèn luyện, bồi dưỡng và thể hiện được  tính cách tôn trọng người khác, như thiện chí, tê nhị, trung  hậu và cân bằng hỢp lý giữa tính nguyên tắc và tính  nhường nhịn (nhượng bộ). 
Cuối cùng, tính chất định hưóng cơ bản và xuyên suôt  của khuôn mẫu ứng xử là thái độ ứng xử. 
Thái độ ứng xử với việc lựa chọn, thực hiện khuôn  mẫu ứng xử; thái độ ứng xử trong môi trường thiên nhiên,  xã hội và văn hóa cụ thể; thái độ đổi vối việc thể hiện, thực  hiện các kỹ năng ứng xử. Nghĩa là thái độ đóng vai trò  định hướng và có ý nghĩa xuyên suốt của văn hóa ứng xử.
Nguyên Thanh Tuân 
Nó là một phần nền tảng và có tính định hướng của vàn  hóa ứng xử. 
Có thể quan niệm thái độ là trạng thái sẵn sàng về  mặt tư tưởng, tình cảm và lựa chọn của chủ thể, để có  phản ứng ban đầu đối với tình huống hoặc quá trình ứng  xử mà kết quả là chủ thể phải đặt ra được các nhiệm vụ cụ  thể đồng thòi sẵn sàng giải quyết được các nhiệm vụ đó.  Thái độ là kết quả tổng hỢp và biểu hiện năng lực của tư  tưởng, đạo đức, lốì sốhg trên cơ sở tính cách của mỗi người;  hay nói cách khác nó là kết quả và biểu hiện năng lực của  nhân cách trong quá trình ứng phó và xử lý. 
Từ việc phân tích các hàm nghĩa của văn hóa ứng xử  có thể quan niệm; văn hóa ứng xử là hệ thống các khuôn  mẫu ứng xử được thể hiện ở thái độ, kỹ năng ứng xử của cá  nhân và cộng đồng người trong mốĩ quan hệ vói môi trường  thiên nhiên, xã hội và bản thân, trên cơ sở những chuẩn  mực văn hóa - xã hội nhất định, để bảo tồn, phát triển cuộc  sống của cá nhân và cộng đồng nhằm làm cho cuộc sống  của cá nhân và cộng đồng giàu tính người hơn. 
Từ quan niệm về văn hóa ứng xử, có thể thấy rằng  đây là loại hình văn hóa hành động của con người trong  mốì quan hệ với môi trường thiên nhiên, xã hội và bản  thân. Vì thế, có thể định hướng, điều tiết được các hành  động này hướng vào mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt  Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. 
36
T)ăn £óa ííny xứ U iêi OGim £ ièn nay 
Định hướng, điều tiết văn hóa ứng xử thể hiện tính  năng động tích cực của nhân tô' chủ quan với tính vừa là  sản phẩm vừa là chủ thể của văn hóa. Bởi, trong điều kiện  đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa và hội  nhập quốc tế, ở Việt Nam đã và đang xuất hiện những  khía cạnh tiêu cực; cho nên chí ít phải điều tiết những hiện  tượng này để bảo đảm cho lốĩ ứng xử mới, năng động, hiện  đại diễn ra trên cơ sở kê thừa, phát huy khuôn mẫu hay  nếp ứng xử truyền thông. Nguồn lực văn hóa được tích tụ,  phát triển qua các năm đổi mới cũng cho phép xây dựng  văn hóa ứng xử trong các tầng lóp nhân dân. 
Định hưóng, điều tiết văn hóa ứng xử là khơi dậy,  phát triển những lời nói hay, những việc làm tốt, những  phong cách đẹp, là làm cho cái đúng, cái tốt, cái đẹp lan  tỏa, phát huy tác dụng và tiếp tục phát triển trong thực tế.  Nói cách khác, định hưóng và điều tiết văn hóa ứng xử là  khơi dậy, tận dụng, phát triển các yếu tô' tích cực, tiến bộ,  hữu ích trong quá trình hình thành văn hóa ứng xử; đồng  thòi phải hạn chế, khắc phục những yếu tô' tiêu cực, cản  trở quá trình hình thành văn hóa ứng xử phù hỢp với mục  tiêu xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản  sắc dân tộc. 
Thực chất của văn hóa ứng xử là thực hiện các biện  pháp tư tưởng, chính trị, văn hóa, quản lý và cả kinh tế,
Mguyén Thanh Tuấn 
nhằm khơi dậy, phát triển các thái độ ứng xử, các kỹ năng  ứng xử có văn hóa của các hành động ứng xử. Đồng thời  phải có những chế tài hạn chế, loại bỏ những lối ứng xử phi  vàn hóa và phản văn hóa. 
Khơi dậy các thái độ ứng xử và kỹ năng ứng xử có  văn hóa là tạo điều kiện, đồng thời khai thông những  vướng mắc trong việc bộc lộ đầy đủ những tiềm năng  vôn có và khuynh hướng phát triển theo hướng tiến bộ  của chúng. Phát triển các thái độ ứng xử, kỹ năng ứng  xử có văn hóa là nhân rộng những điển hình tiên tiến,  từ nói lời hay cho đến làm việc tô"t, phong cách đẹp; đồng  thòi hạn chế, loại bỏ những lôl ứng xử phi văn hóa, phản  ván hóa. 
Khơi dậy và phát triển là hai cách thức định hướng  và điều tiết văn hóa ứng xử; trong khơi dậy và phát triển  đều có điều tiết, hạn chế, loại bỏ cái tiêu cực. Định  hướng, điều tiết văn hóa ứng xử trong điều kiện xây dựng  Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tất nhiên sẽ đặt  trọng tâm vào các biện pháp luật pháp nghiêm minh, có  kết hỢp với cách thức điều chỉnh của phong tục, tập quán  truyền thống và những biện pháp tự quản của các tế bào  xã hội (gia đình, xóm, làng, tổ dân phô", cơ quan, trường  học, doanh nghiệp v.v...), để văn hóa ứng xử "sốhg" và  phát triển cùng cộng đồng. 
38
Văn £óa xử Việí OGun Ẻiện nat^ 
2. CÁC CẤP ĐỘ CỦA VĂN HÓA ỨNG xử 
2.1. Đạo đức là gốc của văn hóa ứng xử 
Trong lịch sử văn hóa Việt Nam và Á Đông, đạo đức  luôn luôn được coi là gốc của văn hóa, đặc biệt trong ứng xử. Quan niệm về đạo đức 
Trong Nho giáo, đạo chính là năm mổì quan hệ cơ bản  của con người: vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bè bạn;  gọi chung là ngũ luân. Trong đó, ba mối quan hệ quan  trọng nhất là: vua tôi, cha con, chồng vỢ được gọi là tam  cương. Đức theo Khổng Tử là trí, nhân, dũng. Sau đó  Mạnh Tử và Đổng Trọng Thư mở rộng thành ngũ thường  (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Đạo đức chính là sự kết hỢp tam  cương với ngũ thường thành cương thường (nghĩa hẹp), hoặc kết hỢp ngũ luận với ngũ thường thành luân thường  (nghĩa rộng). Cương thường và luân thường là nguyên tắc  chi phối mọi suy nghĩ và hành động của con người, đó là  cốt lõi của tư tưởng, đạo đức và luân lý Nho giáo. 
ở Việt Nam, đạo đức Nho giáo có thể nói không gây  được ảnh hưởng sâu đậm trong đời sốhg thường nhật bằng  đạo đức Phật giáo. Bởi vì, Phật giáo xuất phát từ cái day  dứt nhất của con người là nỗi khổ cuộc đời, để tìm con  đường diệt khổ. Mục đích của Phật giáo là chỉ ra con đường 
< § )
Mguyén Thanh Tuân 
để cứu con người nói riêng và chúng sinh nói chung tự giải  thoát; và con đưòng diệt khổ không ở ngoài bản thân con  người. Đạo đức Phật giáo được thể hiện tập trung ở quan  hệ Thiện ác trên cơ sở thuyết "Tứ vô lượng tâm" bao gồm  bô"n tâm vô lượng là: Từ - bi - hỷ - xả. Tứ vô lượng tâm đốì  lập vói tham, sân, si vói những biểu hiện: tham dục, thù  hận, mê muội, tà kiến, nghi ngờ, kiêu ngạo, keo kiệt. Đạo  đức Phật giáo được thể hiện ỏ các giá trị: Từ, bi, hỷ, xả, vô  ngã, vị tha; và được biểu hiện ở chuẩn mực văn hóa - xã  hội như thiện, ác, công bằng, bình đẳng, khoan dung. 
ở phương Tây, khái niệm đạo đức xuất xứ từ phạm  trù luân lý. Thoạt đầu, phạm trù luân lý bao quát toàn bộ  các nguyên tắc hoạt động và ứng xử của con người trong  cộng đồng. Thuật ngữ gốc của luân lý (Ethies) là Ehthos  trong tiếng Hy Lạp cổ đại có nghĩa chủ yếu là thói quen,  tập quán. Ngoài ra còn các ý nghĩa, như; 
- Nơi cư ngụ, quê hương, xứ xở. 
- Nguồn gốíc, lai lịch, họ hàng, bộ tộc. 
- Nét đặc trưng của một nhóm xã hội hoặc một dân  tộc (trong tiếng Anh, Mỹ hiện đại thuật ngữ Ethos mang ý  nghĩa này). 
- Y thức đạo đức, tính chất của chính kiến và thái độ  đạo đức. Đạo đức gắn liền với thói quen, tập quán sống nên  ý nghĩa của nó thường xuyên biến đổi theo tiến trình phát 
40
'V ăn£óa ửnỹ xử 'V iệi OCim £ iện na^
triển của nhân loại trên hai phương diện lịch đại và đồng  đại. Nghĩa là, có những giá trị đạo đức của ngày hôm qua  song hôm nay có thể bị coi là phản giá trị hay phi đạo đức.  Hoặc ở dân tộc này, giai tầng này được coi là giá trị đạo  đức nghiêm chỉnh, song ở dân tộc khác, giai tầng khác lại  không được thừa nhận hay đơn giản chỉ coi là một vấn đề  thường nhật. 
Trong xã hội nguyên thủy, thuật ngữ luân lý được  hiểu là sự sống chung (sốhg bầy đàn, quần tụ...). Tức là nó  thể hiện đặc điểm của mối liên hệ tinh thần - vật chất cơ  bản giữa mọi người trong một không gian sinh tồn còn giữ  được sự thông nhất mà chưa bị phân chia giữa thế giới  thần linh và xã hội. Khi đó luân lý chưa có hàm nghĩa là ý  thức đạo đức, thái độ đạo đức như sau này. 
Từ khoảng thế kỷ VI-V trước công nguyên, ở Hy Lạp  cổ đại (ở Trung Quốc và An Độ còn sớm hơn), đạo đức học  đưỢc hình thành. Tại Hy Lạp cổ đại, Arixtôt (384-322)  trước công nguyên - người mà C.Mác gọi là nhà tư tưởng vĩ  đại nhất của thời cổ đại - trong các tác phẩm Đạo đức học, 
Thuật hùng biện... có khuynh hướng đặt luân lý, đạo đức  phải phục vụ pháp luật. Đến Hêghen (1770-1831), luân lý  và pháp luật được triết lý một cách hệ thổng. Nói chung, ở  phương Tây luân lý, đạo đức thống nhất có khi đến mức  "hòa tan" trong pháp luật hoặc bị "pháp luật hóa". Do đó, 
Nguyên Thanh Tuân 
luân lý, đạo đức là một chủ đề không nổi bật trong các trào  lưu triêt học, mỹ học, xã hội học... ở phương Tây hiện đại. 
Đặc trưng duy lý này của xã hội công dân tư sản  phương Tây đã đưa đến một quan niệm đặc thù về đạo đức  khi coi đạo đức chỉ là sự "ứng xử tình thế". Một sô" nhà triết  học hiện sinh như G.Mácxen, d.Xáctơrơ... cho rằng, đạo  đức là toàn bộ những cá tính tự do tuyệt đốì hoặc coi đạo  đức là sự tính toán khoái lạc. Nhà triết học hiện sinh  Máctin Hâyđécgơ quan niệm về đạo đức có tình người hơn.  Ông coi đạo đức là lĩnh vực của con người mà bản chất của  nó là các hành vi, các mốì quan tâm, những tình cảm được  chia sẻ giữa người này và người khác theo những mục tiêu  và tiêu chí nhất định liên quan đến tự do và trật tự phức  tạp của cộng đồng^^'. 
Đạo đức chính là phép ứng xử có nhân phẩm giữa  người này và người khác. Đạo đức luôn luôn là một quan  hệ hai chiều, là một thể chế đặc thù của xã hội nhằm điều  chỉnh các hành vi của con người trong các lĩnh vực của đòi  sống xã hội. Đạo đức chính là phương thức xác lập mối  quan hệ giữa cá nhân và xã hội, giữa lợi ích xã hội và lợi  ích cá nhân. Cho nên, C.Mác cho rằng, đạo đức chính là lực  lượng bản chất của con người trong sự phát triển của nó 
Xem J.L. Metta và M.Hâyđécgơ: Cá tính vá áo ảnh, tiếng Anh. Khoa Báo chí Trường Đại học Haoai xuất bản. ỉ 976, tr.90-91. 
42
T)ăn Hóa ứnỹ xứ U iệí OGim £iện nat^ 
theo hướng ngày càng đạt tới giá trị đích thực của cái  thiện. Còn Ph.Ảnghen xác định ý thức đạo đức là sự phản  ánh thực tiễn đạo đức của xã hội, là sản phẩm của tình  hình kinh tê - xã hội. Nó phát triển trong sự độc lập của  các giai cấp khi xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp.  Tuy vậy, theo C.Mác, bất luận trong mối quan hệ xã hội  nào thì đạo đức cũng là quan hệ thực sự người. Hồ Chí  Minh quan niệm đạo đức là "phải yêu kính nhân dân, phải  thực sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân... Phải  nắm vững quan điểm giai cấp, đi đúng đưòng lốì quần  chúng, thành tâm học hỏi quần chúng... Phải thật thà,  ngay thẳng; không được giấu dốt, giấu khuyết điểm, sai  lầm. Phải khiêm tốh, gần gũi quần chúng, không được kiêu  ngạo; phải thực sự cầu thị, không được chủ quan. Phải "chí  công vô tư" và có tinh thần "lo trước thiên hạ, vui sau thiên  hạ"'^\ Như vậy, Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là sự  thống nhất tư tưởng và phong cách sống, ở Người đạo đức  đóng vai trò như là lẽ sống thấm vào tư tưởng và ván hóa  ứng xử. 
Đạo đức được xác định bởi hai yếu tố quan trọng nhất  là lao động và tình thương. Lao động làm cho con người trở  thành người hơn. Và quan hệ ứng xử người - người chỉ trở  thành quan hệ đạo đức khi nó mang trong mình sự tự 
’ Hồ Chi Minh: Toàn lập. Nxh Chính tri Quốc gia. Hà Nội, 1996, t.ỉO, tr.31 ỉ.
Mguyén Thanh Tuấn 
nguyện. Tự nguyện là sự tự ý thức về giá trị đạo đức, tự  hành động, tự kiểm tra mình theo giá trị đó. Tự nguyện là  cơ sở của tình thương. Theo Hêghen, tình thương là sự từ  bỏ ý thức về bản thân mình, quên mình đi trong người  khác và chính trong sự quên mình trong người khác ấy mà  con người lại nhận ra mình và làm chủ được mình. Sự từ  bỏ ý thức cá nhân, không tính toán, không vụ lợi là bản  chất của tình thương. Như vậy, tình thương là "cho" chứ  không phải là "nhận", là sự "tự hiến dâng" chứ không "bị  hiến dâng". 
Chính là với đặc trưng này mà đạo đức có tính độc lập  tương đối. Đạo đức ngoài sự chi phối của kinh tế còn được  chi phốĩ bởi sự tự ý thức và niềm tin về bản thân mình, về  giai cấp, dân tộc theo những lý tưởng, định hướng giá trị  nhất định. Tính độc lập tương đối của đạo đức mang ý  nghĩa kế thừa sâu sắc. Có những giấ trị đạo đức còn tồn tại  khá lâu khi mà các cơ sở kinh tê sinh ra nó đã tiêu vong. 
Ý thức đạo đức xã hội cơ bản là sự phản ánh tồn tại xã  hội, cho nên mỗi hình thái xã hội hay mỗi giai đoạn lịch sử  đều định hình những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức tương  ứng. Trong đó, ngoài những giá trị chung, nó cũng hàm  chứa các nét đặc thù, kể cả cái đơn nhất trong giá trị đạo  đức. Đây là cơ sở hình thành các thang bậc đạo đức của mỗi  giai đoạn lịch sử hoặc mỗi hình thái xã hội nhất định. 
44
Uăn £óa ứnỹ xứ U iệí OGun £ ìèn naỳ 
Từ những lập luận trên, có thể định nghĩa đạo đức là  một hình thái ý thức xã hội bao gồm những nguyên tắc và  chuẩn mực xã hội, nhò đó con người tự giác điều chỉnh  hành vi cho phù hỢp với lợi ích, hạnh phúc của mình và sự  tiến bộ xã hội, trước hết trong môi quan hệ người - người. 
ơ Việt Nam và A Đông nói chung, khái niệm con  người được xác định bằng luân lý, để nhấn mạnh thuộc  tính đẳng cấp xã hội của con người và coi nhẹ thuộc tính tự  nhiên của nó. Đổ tìm căn cứ luân lý từ thế giối khách quan,  người ta đem luân thường đạo lý của con người gán cho vạn  vật trong vũ trụ, biến "tròi" thành hóa thân của đạo đức, để  rồi lại lấy thiên đạo chứng minh cho nhân đạo. Vũ trụ quan,  nhân sinh quan, nhận thức luận vi thế đều thấm đượm luân  lý, tức đạo đức học. Phiếm đạo đức luận trở thành một thuộc  tính của triết học, bởi vậy thiện và ác trở thành tiêu điểm  bình phẩm, và tranh luận thường xuyên trong đòi sốhg học  thuật và đòi sốhg xã hội. 
Được sự cổ vũ của cương thường, ngũ thường Nho  giáo, tính trung thực và tính thiện của Phật giáo, và trên  cơ sở tình nghĩa của văn hóa làng xóm, nên Việt Nam đã  xây dựng được đặc điểm "lễ nghĩa chi bang"; tức nưốc trọng  lễ nghĩa, với một nền văn hóa đạo đức dày dặn. Đó là hệ  thống các giá trị đạo đức cùng toàn bộ các phương tiện, thể  chê truyền bá và giáo dục đạo đức trong xã hội. Ngoài ra,
IMguyén Thanh Tuấn 
văn hóa đạo đức còn các yếu tô khác, như phong tục, tập  quán, nghi thức (lễ nghi), các danh nhân giáo hóa đạo đức  tiêu biểu của dân tộc và thời đại (các biểu tượng đạo đức -  văn hóa v.v...). 
Trong bổi cảnh lịch sử - văn hóa Việt Nam và cả vùng  Á Đông, luân thường đạo lý luôn gắn bó chặt chẽ vói thực  hành đạo đức, với nếp sống dân tộc và phong tục tập quán  đến mức kết thành phong hóa. Trong hệ thống đạo đức -  văn hóa dày dặn đó, cơ chê vận hành của đạo đức rất phức  tạp và gồm các khía cạnh chính sau đây: 
Thứ nhất, các bộ phận của ý thức đạo đức: Bộ phận  thứ nhất gồm những vấn đề nhận thức triết học, như bản  chất và chức năng của đạo đức, cấu trúc của ý thức đạo đức  xã hội và đạo đức cá nhân, chức năng và cấu trúc của các  giá trị đạo đức, các nguyên tắc và quy tắc đánh giá đạo đức  cá nhân và xã hội, mối quan hệ của đạo đức với các hình  thái ý thức - xã hội khác (nghệ thuật, tôn giáo, triết học...).  Trong đó, có không ít khía cạnh thuộc về phiếm đạo đức  luận hay đạo đức siêu hình. 
Bộ phận thứ hai gồm tập hỢp những chuẩn mực, thói  quen, tập quán và phong tục đạo đức tác động đến tư  tưởng, cảm giác (tình cảm) và hành vi của con người.  Chúng đóng vai trò định hướng tinh thần trong cuộc sống  cá nhân và cộng đồng. Trong đó phải kể đến các chuẩn 
46
Uăn £óa ứnỹ xứ X)iệi OGun Ẻ iện na^ 
mực về cái thiện, cái ác, lương tâm, trách nhiệm, bổn phận  và công lý v.v... ở bộ phận này, trong nhiều trường hỢp, ý  thức đạo đức được thể hiện trong khuôn mẫu ứng xử,  phong tục, tập quán; do đó trong nó xen lẫn không ít ý  thức kinh nghiệm, tri thức thường ngày, (tức thói quen có  tính bản năng). 
Hai bộ phận trên có quan hệ nội tại vói nhau, mà  không thể đồng nhất hay quy giản một bộ phận nào cả.  Trong ý thức đạo đức cần phải phân biệt hai khái niệm  luân lý và đạo đức; vì nhiều lý do khác nhau, trong mấy  thập niên vừa qua luân lý hầu như không được đề cập ở  Việt Nam. 
Luân lý là những tính quy luật đạo đức bền vững có  giá trị cho tất cả mọi người. Trong khi đó, khái niệm đạo  đức là hình thái ý thức và là môn đạo đức học. Đạo đức  theo ý nghĩa nghiêm ngặt được hiểu là những thái độ có  tính thực tiễn, vì thê có tính nhân dân và cũng có hàm  lượng biến đổi cao. Luân lý là phần kết tinh nhân bẫn của  tư tưởng đạo đức, nhưng đó là những ý thức đạo đức ổn  định. Luân lý chỉ bao gồm những giố trị đạo đức. Phần lớn  chúng được lĩnh hội và được thuyết phục một cách tự giác  bởi lương tâm con người, và có thể trở thành động lực tinh  thần dẫn đến những cách thức hành động phù hỢp với lợi  ích lâu dài của quảng đại các tầng lóp tiến bộ trong xã hội.
Nguyên Thanh Tuân 
Do đó, luân lý phần nhiều mang ý nghĩa nhân ván sâu sắc và thường thống nhất với các giá trị nhân văn, giá trị văn hóa. Trong thực tê nhiều khi các giá trị đạo đức của một nhóm người nhất định có thể không phù hỢp với các giá trị nhân văn và văn hóa chung của cả cộng đồng; và cũng có một sô" trường hỢp luân lý thiếu tính nhân dân, có khi còn phản ánh một sô" quan hệ gia trưởng, đẳng cấp nào đó. 
Với những nội dung như trên, nên việc vận dụng khái  niệm luân lý luôn đòi hỏi một sự đánh giá có tính lịch sử và  tính phê phán. Do tính hạn chê nhiều mặt của luân lý Nho  giáo, nên ở miền Bắc nước ta từ sau năm 1954 và trên cả  nước từ sau năm 1975, nói chung khái niệm luân lý rất hiếm  khi được đề cập đến. Thay cho luân lý là phạm trù đạo đức  học. Và gộp chung các giá trị luân lý, tức là các giá trị đạo  đức bền vững và có tính nhân bản phổ biến cho tất cả mọi  người, vào phạm trù giá trị đạo đức trong đạo đức học. Vì  thế, không bóc tách được giá trị luân lý vói giá trị đạo đức. 
Có lẽ đây là một cách nghĩ phiến diện, vì luân lý  không đồng nghĩa với cương thường, luân thường của Nho  giáo. Vả lại, trong sự nghiệp đổi mới hiện nay đã và đang  có sự nhận thức lại một sô" yếu tô" tích cực của luân lý Nho  giáo. Sự bóc tách mối quan hệ chung và riêng của hai khái  niệm luân lý và đạo đức không chỉ có ý nghĩa về mặt khoa  học, mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Bởi lẽ, hiện nay 
48
Dăn lìóa ứriỹ xứ U ìệí OGim £iện na^ 
đạo đức của chúng ta có một sô biểu hiện xuông cấp, thậm  chí suy thoái. Hiện đã xuất hiện nhiều yếu tô" sòng phẳng,  minh bạch, dân chủ và nhân văn trong các giá trị đạo đức,  song còn biến động, chưa thích ứng được với kinh tê thị  trường. Do đó, nếu bóc tách và khẳng định được các giá trị  luân lý sẽ kiến lập được hạt nhân ổn định của văn hóa đạo  đức thích ứng với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa,  hiện đại hóa, hội nhập quốc tê thông qua kinh tế thị  trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 
Thứ hai, hành vi đạo đức: Hành vi đạo đức vừa là  biểu hiện của nhận thức và tình cảm đạo đức cá nhân vừa  bị chi phối bởi các chuẩn mực và quy tắc của xã hội. Quan  niệm của cá nhân về nghĩa vụ đốì với xã hội và đổi với  người khác là tiền đề khiến hành vi đạo đức có tính độc lập  tương đối so với nền tảng kinh tê - xã hội và đạo đức xã  hội. Tính độc lập này rõ nét hơn so vói ý thức đạo đức, vì  nó có nhiều dấu ấn lương tâm hoặc bổn phận cá nhân  trong những hoàn cảnh đặc thù, không lặp lại. Sự lựa chọn  tự do trong ứng xử giữa người này với người khác là do  những nhân cách quyết định. 
Trong quan hệ đạo đức, nhân cách là một phạm trù  cá nhân có tính xã hội. Các hành vi đạo đức của nhân  cách, vừa là hành vi tự điều chỉnh, vừa được điều chỉnh  trong các quan hệ xã hội. Sự "tự điều chỉnh" theo hướng
IMguyén Thanh Tuán
tích cực hoặc tiêu cực gắn với các phẩm chất cá nhân cả  về mặt chất và lượng của nhân cách. Phẩm chất cá nhân  là nội dung của tính cách. Tính cách là tập hỢp những xu  hướng xác định và có tính đặc thù về nhu cầu, lợi ích cá  nhân thông qua các hoạt động sống của cá nhân. Tính  cách cá nhân là tổng hòa cái xã hội của các thê hệ trưóc  "trầm tích" lại hay di truyền lại, và là kết quả của quá  trình chủ thể hóa trong hoạt động sống của con người. Nó  đóng vai trò cơ bản cho quá trình hình thành nhân cách  và tự điều chỉnh hành vi đạo đức. Trong khi đó, tính  "đưỢc điều chỉnh" của hành vi đạo đức chủ yếu do dư luận  xã hội. Dư luận xã hội là con dao hai lưỡi. Dư luận đúng  tạo ra các hành vi tích cực và ngược lại. Nếu ý thức đạo  đức là sự ý thức về các tương quan lợi ích của cá nhân và  cộng đồng thì hành vi đạo đức luôn luôn phục tùng tự  nguyện ý thức đó. Mỗi hành vi đạo đức được thực hiện do  sự soi sáng của ý thức, sự mách bảo của tình cảm và sự  rèn luyện của nghị lực. Ý thức, tình cảm và nghị lực là ba  mặt cấu thành của đạo đức. 
Các hành vi ứng xử đạo đức của cá nhân và xã hội đều  có khuynh hướng tự bảo tồn thành nếp (khuôn mẫu), thành  tập quán, thành phong tục. Phong tục, tập quán là hình  thức biểu hiện ổn định của một nội dung đạo đức nhất định.  Nó giữ gìn một cách lâu dài các giá trị của cộng đồng. Tuy  vậy, ở vào thòi kỳ có những biến chuyển xã hội lớn (di cư, sự 
Uăn £óa ứiìỹ xứ X )iệí OOun £ìện nat^
xâm lược, sự áp đặt văn hóa, sự thay đổi phổ biến của công nghiệp, công nghệ hoặc cách mạng xã hội ...) thì nhiều tập quán đạo đức cũ sẽ biến đổi, để tạo ra những tập quán và phong tục mới phù hỢp với sự biến đổi xã hội, văn hóa. 
Thứ ba, đánh giá đạo đức: Đánh giá đạo đức là hoạt  động thẩm định các quan niệm, các hành vi ứng xử đạo  đức phù hợp với các thước đo, các chuẩn mực, các quy  phạm nhất định về mặt xã hội. Giá trị đạo đức không phải  do đánh giá mà có. Nhưng đánh giá sẽ xác định các ứng  xử, các quan hệ đạo đức theo các tiêu chí: đúng, tốt, đẹp  (chân, thiện, mỹ). Các giai cấp, nhóm xã hội thường có  những lợi ích không giống nhau, cho nên có các cách thức  đánh giá đạo đức khác nhau. 
Trong đánh giá đạo đức, nhất là đốì với hành vi đạo  đức, đòi hỏi phải thống nhất được cả hai mặt khách quan  và chủ quan. Sự đánh giá mặt khách quan của hành vi đạo  đức tương đối đơn giản, vì cái chuẩn chính của nó là lợi ích  chung của xã hội. Song, đằng sau mặt khách quan của  hành vi còn có mặt chủ quan, tức là động cơ của hành vi.  Có hành vi đạo đức xét về khách quan đáp ứng chuẩn mực  chung của xã hội, nhưng động cơ chủ quan lại mang tính  vụ lợi, ích kỷ. Một hành vi đạo đức được đánh giá là giá trị  đạo đức khi về bản chất thông nhất với cái có ích mang  tính tự nguyện, tự giác, vô tư của hành vi. 
IMguyén Thanh Tuân 
Tựu trung, với tính cách là một hình thái ý thức - xã  hội thuộc kiến trúc thượng tầng, đạo đức vừa là một thể  chế phản ánh tồn tại xã hội quan hệ mật thiết vói các hình  thái ý thức - xã hội khác. Đạo đức phản ánh một cơ sở kinh  tê - xã hội và lợi ích xã hội nhất định của một dân tộc, một  giai cấp hoặc một nhóm xã hội, đồng thòi có quan hệ chặt  chẽ với các hình thái ý thức - xã hội khác. Sự tương tác  giữa chính trị, đạo đức, pháp luật, triết học, tôn giáo, khoa  học tạo nên sự thống nhất trong đa dạng các ý thức xã hội,  để bảo đảm cho chúng và kiến trúc thượng tầng nói chung  có một vai trò độc lập tương đối trước sự quy định của cơ sở  hạ tầng. 
Biểu hiện rõ nhất cho tính độc lập tương đốỉ của đạo  đức so với cơ sở kinh tế và trong mối tương quan với các hình  thái xã hội khác là một sô" phong tục, tập quán và thưốc đo  giá trị đạo đức tồn tại lâu dài, mặc dù cơ sỏ kinh tê và các  thiết chê chính trị đã thay đổi. Nếu giữ gìn và phát huy được  chúng sẽ tạo nên được một tiềm lực cho sự phát triển bền  vững. Tính thiện, tính trung thực trong tương thân, tương ái,  ý thức đoàn kết cộng đồng, tinh thần vỊ tha, khoan dung và  hòa đồng dân tộc V .V ... chẳng hạn, luôn luôn có giá trị lâu dài  cả trong thòi kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội  nhập quốc tế thông qua phát triển kinh tế thị trường định  hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. 
52
'Văn £óa ííwy xử 'Việi OGim £iện na^
2.2. Chuẩn mực xã hội là nguyên tắc định hưởng, điểu tiết văn hóa ứng xử 
Chuẩn mực xã hội và giá trị xã hội là hai phạm trù  của triết học (giá trị học) giò đây được sử dụng rộng rãi  trong đạo đức học, xã hội học, văn hóa học... Chuẩn mực  xã hội là sự vận dụng cụ thể các giá trị vào việc định  hướng, điều tiết các khuôn mẫu ứng xử (văn hóa ứng xử).  Các hành động (ứng xử) hoặc suy luận được lặp lại đều  đặn và được tổng quát hóa, tiêu chuẩn hóa, hỢp thức hóa  thành các nguyên tắc của khuôn mẫu ứng xử. Chuẩn mực  xã hội chính là xã hội hóa giá trị, và có thể coi là định  hướng giá trị. 
So vối các chuẩn mực xã hội, giá trị có tính khái quát  hơn, vì nó không quy định những ứng xử cụ thể cho những  tình huống cụ thể. Trong thực tế, cùng một giá trị có thể  hỗ trỢ cho một sô" chuẩn mực gần nhau, khác nhau, thậm  chí xung đột nhau. 
Giá trị là các tư tưởng bao quát được cùng nhau tin  tưởng mạnh mẽ ở một nhóm người, một giai tầng, một dân  tộc, hoặc một thòi đại về cái gì là đúng, sai, thiện, ác, hỢp  lý, không hỢp lý, xấu, tốt. C.Mác phân biệt hai thuật ngữ:  giá trị sử dụng và giá trị trao đổi để làm rõ các hàm nghĩa  định hướng giá trị, giá cả, phẩm giá, phẩm chất, ý nghĩa  xã hội của phạm trù giá trị. Trong tiếng Anh có hai thuật 
Nguyên Thanh Tuấn 
ngữ "value" và "worth" tương đương với thuật ngữ giá trị.  Tuy vậy, hai thuật ngữ này có sự khác biệt nhất định.  "Value" chỉ có ý nghĩa là giá trị, giá cả, ý nghĩa tinh thần  văn hóa, trong khi đó "worth", ngoài các ý nghĩa đó có  nghĩa là phẩm chất, phẩm giá. Trước đây người ta dùng từ  "worth" để chỉ giá trị sử dụng, còn từ "value" để chỉ giá trị  trao đổi. Từ cuối thế kỷ XIX, với sự xuất hiện của giá trị  học, thuật ngữ "value" được dùng phổ biến gần nội hàm  của cả "worthe". 
ở Việt Nam, thuật ngữ giá trị là để chỉ phẩm chất,  phẩm giá, đức tính (giá trị đạo đức). Nhìn chung, các công  trình nghiên cứu, ví dụ của giáo sư Trần Văn Giàu*^*, giáo  sư Phạm Minh Hạc... đều quan niệm "giá trị là tính có giá  trị nghĩa tích cực, tốt đẹp, đáng quý, có ích của các đôi  tượng vối các chủ thể"'^l Tức là phải phân biệt giữa giá trị  vói quan hệ, giá trị với hoạt động, giá trị vói các sự vật của  hiện thực, để khẳng định rõ giá trị chỉ là những thuộc tính  chính diện (mặt tích cực trong ý nghĩa), chứ không phải  bất kỳ thuộc tính nào. Giá trị gắn liền vói cái tốt, cái hay,  cái đúng, cái đẹp nhưng không nên và cũng không thể "đạo  đức hóa" toàn bộ các giá trị. Đơn giản bởi lẽ, chỉ riêng cái 
Xem Trần Văn Giàu: Giá trị tinh thẩn truyền thống của dân rộc Việt Nam. Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1992. 
Phạm Minh Hạc: Phát triển oiáo dục. phát triển con người phục vụ phát triển .vã hội - kinh tế. N.xb Khoa /; c xã hội, Hà Nội, 1996, Ir.soi. 
54
X)ăn £óa ứiiỹ xứ X )ìệi OGun £iện naỳ 
tô"t đã là thuộc tính của rất nhiều những giá trị khác nhau,  chứ không đơn thuần là thuộc tính riêng của đạo đức. 
Tán thành vói quan điểm trên đây, chúng tôi cho  rằng bất kỳ sự vật nào cũng có thể được coi là "có giá trị",  dù đó là vật thể hay tư tưởng, là vật thực hay vật ảo nếu  nó được các thành viên xã hội thừa nhận và xem xét như  một biểu tượng quan trọng trong đòi sốhg tinh thần của họ  và cần đến nó như một nhu cầu thực thụ. Giá trị xã hội có  thể là lý tưởng xã hội cần vươn tối, là mục tiêu chính trị  cần đạt được, là lòng say mê khám phá và sáng tạo, là sự  đam mê nghề nghiệp, là danh dự, tình yêu, sức khỏe, tiền  bạc, du lịch, vui chơi, giải trí... 
Là nhân tô" nền tảng góp phần quyết định nhận thức  và hành động cá nhân, giá trị xã hội đóng vai trò điều  chỉnh các chuẩn mực xã hội của con người và cộng đồng;  là chỗ dựa để đánh giá hành động của người khác và để  định đoạt lợi ích xã hội của các thành viên trong cộng  đồng. Do đó, giá trị xã hội xác định các tiêu chuẩn của  thang bậc xã hội. Mỗi nhóm xã hội và giai tầng xã hội đều  có bảng giá trị xã hội đặc thù, từ đó tạo nên đặc điểm  chung trong định hướng giá trị của đạo đức, văn hóa ứng  xử ở họ. Chính là thông qua sự vận động và phát triển  của các giá trị xã hội ở mỗi cá nhân và cộng đồng, đặc biệt  và chủ yêu là thông qua sự vận động và phát triển của các
Mguyén Thanh Tuân 
bảng giá trị xã hội của các giai tầng xã hội mà diễn ra sự  chọn lọc, đánh giá và xác định các chuẩn mực xã hội ở mỗi  giai đoạn lịch sử - cụ thể, ở mỗi giai tầng, mỗi dân tộc và  quốc gia. Do đó, có thể xác định nội dung của khái niệm  "chuẩn mực xã hội" thông qua việc phân tích tính chất,  nội dung của "bảng giá trị" được xã hội chọn lọc, điều  chỉnh trong mỗi giai đoạn lịch sử. 
Bảng (hay hệ thống) giá trị là một tập hỢp các phạm  trù giá trị khác nhau, được xã hội điều chỉnh theo những  thứ bậc khác nhau và có môi liên hệ có tính lịch sử - cụ thể  với nhau, để thực hiện một hay một sô" chức năng nhất  định. Nó có tính phát triển nội tại và có khả năng chuyển  hóa sang một hệ thông khác, nhằm thích ứng với điều kiện  và môi trường lịch sử - xã hội. Bảng giá trị có các đặc điểm  và nội dung sau: 
Thứ nhất, các giá trị thường được xã hội chọn lọc,  điều chỉnh theo từng nhóm (hay phân hệ). Các phân hệ  này có vị trí độc lập tương đối và tương tác vói nhau theo  những thứ bậc khác nhau, phù hỢp với quá trình thực hiện  các chức năng xã hội trong mỗi thời kỳ lịch sử - cụ thể.  Việc chọn lọc các giá trị (hay nhóm giá trị) theo một trật tự  ưu tiên nhất định được gọi là "thang giá trị" hay "thưóc đo  giá trị", trong đó các giá trị cốt lõi được coi là "chuẩn giá  trị". Những giá trị chuẩn đóng vai trò then chôt trong 
56
1)ă n £óa ứnỹ xứ 'Đ iệi OOun £ iện na^
nhận thức, tình cảm và hoạt động ứng xử của đa sô" thành  viên xã hội. 
Khi các giá trị được chọn lọc lên tối cấp độ chung cho  mọi người thì chúng trở thành "chuẩn giá trị xã hội" có vị  trí độc lập tương đối. ơ Việt Nam nói riêng và vùng Á  Đông nói chung, chuẩn giá trị xã hội thường mang ý nghĩa  luân lý sâu sắc, và do vậy gần như thống nhất với giá trị  nhân văn. Tuy vậy, các chuẩn giá trị xã hội không phải  bao giò cũng đồng nhất vối giá trị nhân văn và giá trị toàn  cầu. Trong các lĩnh vực tinh thần - văn hóa (triết học, tư  tưởng, văn hóa...) hay trong các lĩnh vực hoạt động thực  tiễn (kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội...) bao giò cũng có  những giá trị cốt lõi đóng vai trò điều chỉnh các giá trị  khác. Cũng tương tự như vậy, nếu xem xét sự hiện diện và  phát triển của các chuẩn giá trị xã hội trong các nhóm xã  hội, giai cấp, dân tộc, tôn giáo, khu vực và nhân loại. 
Hoạt động của xã hội, giai tầng, nhóm xã hội hoặc cá  nhân được thực hiện cơ bản theo những chuẩn giá trị xã  hội (giá trị cốt lõi) sẽ bảo đảm định hướng được các hoạt  động đó, hạn chê khả năng sai lệch chuẩn mực xã hội,  đồng thời tạo ra những giá trị mới để củng cô", bổ sung,  phát triển và nâng cao thang giá trị của họ. 
Thứ hai, bảng giá trị luôn có tính lịch sử - cụ thể.  Tính lôgíc của cấu trúc các giá trị hoặc nhóm giá trị chỉ 
IMguyén Thanh Tuấn 
được thực hiện và được biểu hiện trong mốì liên hệ lịch sử -  cụ thể. Mối liên hệ lịch sử - cụ thể phản ánh quá trình sinh  thành, tồn tại, phát triển và chuyển hóa của các giá trị  hoặc nhóm giá trị theo các tương quan lịch đại và đồng đại.  ơ khía cạnh lịch đại, chẳng hạn là sự tồn tại mối quan hệ  và sự chuyển hóa giữa giá trị truyền thống, giá trị cách  mạng, giá trị thời kỳ tập trung - bao cấp và giá trị trong  thòi kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh  tê thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ở khía cạnh  đồng đại là sự tồn tại mối quan hệ và sự chuyển hóa giữa  giá trị của các nhóm xã hội, giá trị Việt Nam, giá trị khu  vực và quốc tế v.v... 
Giá trị có mặt khách quan và chủ quan. Mặt khách  quan là những thực thể tự nhiên, cũng như bản chất quy  luật và các mối liên hệ xã hội của chúng cùng tất cả những  gì tạo ra giá trị. Còn mặt chủ quan là thái độ, quan điếm,  chuẩn mực, cách thức lựa chọn giá trị và quy trình đánh  giá của xã hội và cá nhân, cầ n phân biệt hai mặt cấu  thành của giá trị để thấy giá trị chỉ tồn tại và phát triển  thông qua cái chủ quan, mà cái chủ quan thì luôn mang  tính lịch sử - cụ thể. Vì vậy, phải thông qua mối liên hệ  lịch sử mới nhận thức, đánh giá được các giá trị. 
Do đó, phải xem xét đến định hướng các giá trị của  các cá nhân, nhóm xã hội, giai cấp, dân tộc... Định hướng 
58
Uăn £óa ứíìỹ xử X )ìệí OGun £iện nat^ 
giá trị cũng như thưốc đo giá trị có ý nghĩa với từng  ngưòi, nhóm người, giai cấp, dân tộc... Vì thê nó có ý  nghĩa khác nhau, có thể đối với chủ thể này có ý nghĩa  tích cực, song đối với chủ thể khác thì ngược lại. Nguyên  nhân này cắt nghĩa tại sao quan niệm về định hướng giá  trị lại rất khác nhau. 
Trong cuốh "Những cơ sở nghiên cứu xã hội học", các  tác giả quan niệm "định hướng giá trị là khuynh hướng  chung đã được quy định về mặt xã hội, được ghi lại trong  tâm lý cá nhân, nhằm vào mục đích và phương tiện hoạt  động trong lĩnh vực nào đó”^'^ I.T.Lêvưkin cho rằng, định  hướng giá trị là đánh giá các khả năng và tình hình hiện có  để xác định các phương tiện và phương pháp nhằm đạt  những mục tiêu đề ra. Các nhà khoa học trong đề tài nghiên  cứu về định hướng giá trị, mã sô"KX-07.10 (1991-1995) định  nghĩa: "Định hưống giá trị là thái độ, là sự lựa chọn các giá  trị vật chất và tinh thần, là một hệ thống tâm thế, niềm tin,  sở thích của con người đôl với một giá trị nào đó”®. 
Nội dung cơ bản của định hướng giá trị là những  niềm tin có tính thế giói quan, những khát vọng sâu xa và 
Tập thể tác giả: Những cơ sở nghiên cứu xã hội học, liếng Nga, Matxcơva, Ỉ9 9 8 ,tr.n . 
Thái Duy Tuyên (chủ biên): Tìm hiểu định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam, Chương trình KX-07 xuất bản. Hà Nội, 1995, tr.3.
Nguyẻn Thanh Tuân 
liên tục cũng như các nguyên tắc chân, thiện, mỹ. của hoạt  động xã hội và hành vi ứng xử. Nghĩa là nó liên hệ mật  thiêt và là sự phản ánh trình độ, tính chất của nhận thức,  đánh giá ý chí và cảm xúc (thử nghiệm) kể cả tiềm thức  (niềm tin, sự phán đoán) trong sự phát triển của nhân  cách con người. Nó được hình thành và củng cô" bởi năng  lực nhận thức, bởi kinh nghiệm sốhg qua sự trải nghiệm  lâu dài. Nó giúp cá nhân và cộng đồng tách cái có ý nghĩa,  có bản chất thiết thân đối với họ khỏi cái vô nghĩa, cái  không bản chất. Định hướng giá trị là cơ sở bên trong của  hoạt động và hành vi ứng xử, do đó nó có ảnh hưởng quyết  định đến đạo đức, lốì sổhg của cá nhân và cộng đồng. 
Định hướng giá trị liên quan mật thiết, và ở khía  cạnh nào đó có thể thống nhất vói "thái độ", như thái độ  đánh giá, thái độ cảm xúc, thái độ lựa chọn giá trị mà chủ  thể chấp nhận. Tuy vậy, cơ bản chúng phân biệt với nhau  về nội dung và hình thức. Thái độ là trạng thái sẵn sàng  toàn vẹn của chủ thể để có sự phản ứng ban đầu đối với  tình huống, trong đó chủ thể phải đặt ra và giải quyết các  nhiệm vụ. Còn định hướng giá trị là một phản ứng có cân  nhắc, một phản ứng có định hướng rõ ràng trên cơ sở thái  độ chung. 
Môl quan hệ trên cũng tương tự như mốì quan hệ  giữa định hướng giá trị với tâm thế (ý muôn, khát vọng), 
60
Uăn £óa ứnỹ xứ 'Uìệi OGzm £iện nat^ 
niềm tin và sở thích. Tâm thế, niềm tin và sở thích có  thể là một bộ phận tổ thành của định hưống giá trị, song  không nên đồng nhất chúng vói nhau. Bởi vì, tâm thế,  niềm tin, sở thích là "cái đã có trưốc" của cá nhân và  nhóm xã hội, để thích ứng và tiếp nhận cái thực tại  khách quan; còn định hướng giá trị là sự lựa chọn có chủ  đích và sẵn sàng hành động, ứng xử với thực tại khách  quan đó. 
Từ những lập luận trên đây, có thể định nghĩa định  hưóng giá trị là sự lựa chọn các giá trị vật chất và tinh  thần trên cơ sở hệ thống thái độ, tâm thế, niềm tin, sở  thích nhằm phân biệt các sự vật theo ý nghĩa của chúng  đốì với chính mình, từ đó hình thành nội dung cơ bản của  động cơ và xu hưóng hoạt động và ứng xử. Sự hình thành  định hướng giá trị có con đường riêng của nó và thường  trải qua ba giai đoạn: 
- Chọn lựa 
- Cân nhắc 
- Hành động 
Tập hỢp những giai đoạn đó là con đường xác định và  đánh giá giá trị theo các nguyên tắc: a) Lịch sử - cụ thể; b)  Liên hệ giữa chúng với nhau; c) Xem xét từ kinh nghiệm  thực tế.
Nguyên Thanh Tuân 
Thứ ha, bảng giá trị gồm các nhóm giá trị rất phong  phú nhưng tương tác với nhau, cơ bản theo trục quy định của  các chuẩn giá trị xã hội, để trên cơ sở đó có tính tự phát triển  và tự chuyển hóa sang các giá trị hoặc các nhóm giá trị mới. 
Các nhà khoa học có lý khi phân bảng giá trị thành  hệ thông các giá trị phổ biến theo các lĩnh vực hoạt động  của con người, để làm cơ sở tiếp cận giá trị. Đó là: 
- Giá trị nhân văn biểu thị sự tôn trọng và yêu thương  con người, thừa nhận quyền phát triển tự do, quyền mưu  cầu hạnh phúc. 
- Giá trị đạo đức biểu hiện ở những chuẩn mực quy  định mốĩ quan hệ người - người, người với giới tự nhiên và  xã hội (gia đình, cộng đồng...), trên tinh thần yêu thương  hay hận thù, tôn trọng hay không tôn trọng, sự phát triển  hay kìm hãm tài năng, tự do và hạnh phúc. 
- Giá trị văn hóa gắn liền với sự phát triển của khoa  học, kỹ thuật và công nghệ trên cơ sở tiến bộ xã hội và biểu  hiện ở đạo đức, lối ứng xử có văn hóa (ván hóa ứng xử)  cũng như sự phát triển toàn diện của con người. 
- Giá trị chính trị, luật pháp biểu hiện thái độ đôi với  việc giành và giữ chính quyền, thể chế nhà nưốc, vói quyền  lợi dân tộc, giai cấp, cộng đồng; và thể hiện ở quyền công  dân, mốì quan hệ bình đẳng, công bằng, tự do và dân chủ,  niềm tin và lý tưởng v.v... 
62
T)ăn Ẻóa ứng xử U iệí OGun £ ìện nag 
- Giá trị kinh tế hưóng vào sự hoạt động của nghề nghiệp, lao động, sản xu ất, kinh doanh, các hình thức sở hữu, thu nhập và đòi sống vật chất, sự giàu nghèo và hưởng thụ 
Các giá trị cũng có thể được phân loại theo các giác độ  bản thể luận (triết học), nhận thức luận trên các bình diện  chính trị, tư tưởng, văn hóa... và theo các lĩnh vực hoạt  động thực tiễn (chính trị, kinh tế, xã hội...). Cơ sở của sự  phân chia trên một phần xuất phát từ thực tế là trong đòi  sống xã hội có những giá trị thiên về bộc lộ mặt vật thể của  chúng, thí dụ như các giá trị kinh tế. Có những giá trị chủ  yếu thể hiện mặt chuẩn mực xã hội như các giá trị tư  tưởng, chính trị, luân lý - đạo đức, pháp luật. Tất nhiên,  cũng có các giá trị biểu đạt cả hai văn hóa vật thể và  chuẩn mực xã hội như một số giá trị nhân văn (sức khỏe,  nhan sắc con người, học vấn, nghề nghiệp). Trong khi đó  các tổ chức quốc tế thường xuất phát từ ý nghĩa của sự tồn  tại, phát triển của từng cá nhân con người để phân loại giá  trị. Chẳng hạn UNESCO coi hệ thống giá trị gồm bốn  nhóm: 1) Nhóm các giá trị cốt lõi; 2) Nhóm các giá trị cơ  bản; 3) Nhóm các giá trị có ý nghĩa; 4) Nhóm các giá trị  không đặc trưng. Nhóm 1 có các giá trị: hòa bình, tự do, 
Xem Thái Duy Tuyên (chủ biên): Tìm hiểu định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam, Chương trình KX-07 xuất bản Hà Nội, 1995, tr.ốHl.
IMguyén Thanh Tuân 
việc làm, gia đình, sức khỏe, an ninh, tự trọng, công lý,  tình nghĩa, sống có mục đích, niềm tin, tự lập, nghề  nghiệp, học vấn. Nhóm 2 gồm các giá trị sáng tạo, tình  yêu, chân lý. Nhóm 3 gồm có cuộc sống giàu sang và cái  đẹp. Nhóm 4 tập trung vào địa vỊ xã hội. 
Sự phân chia trên đây thực ra chỉ có ý nghĩa  tương đôl, vì sự tồn tại, phát triển của các giá trị được quyết định thông qua môl quan hệ tương tác giữa  chúng. Mặt khác, nhờ tính chất tự phát triển mà các  giá trị có thể chuyển hóa sang hệ thông giá trị mới  thích ứng với sự chuyển đổi các nhu cầu xã hội và đời  sống xã hội nói chung. 
Tựu chung, chuẩn mực xã hội là sự vận dụng các giá  trị của xã hội; chúng được lựa chọn, đánh giá và được xác  định như các chuẩn mực chung cho đại đa sô" thành viên  xã hội. Chúng luôn luôn tồn tại và phát triển thông qua  mốì quan hệ tương tác, nhất là các mối liên hệ theo tầng  bậc trong bảng giá trị xã hội, để đảm bảo tính ổn định và  tính đa dạng của thang giá trị xã hội. Các chuẩn mực xã  hội đóng vai trò định hướng, điều tiết cơ bản cho định  hướng giá trị của đại đa sô" thành viên xã hội. Mô"i liên hệ  cấu trúc (lôgíc) là kết quả của quá trình hình thành, phát  triển và chuyển đổi giá trị, tức là mốì liên hệ lịch sử, xã  hội. Chính từ mô"i liên hệ lịch sử, xã hội mới thấy được cơ 
64
T)ăn £óa ứriỹ xử U ỉệi OGun £ iện nay 
sở của sự vận động, phát triển trong bảng (hệ thông) giá  trị xã hội chính là nhu cầu kinh tê - xã hội và định hướng  giá trị của cá nhân và xã hội, nhằm vào các chuẩn mực xã  hội. Tính hệ thống - cấu trúc về mặt lôgíc và lịch sử của  bảng giá trị dẫn đến khả năng tự phát triển của nó. Đến  lượt mình, do tính tự phát triển nên sự vận động, phát  triển của bảng giá trị có vị trí độc lập tương đối với định  hưống giá trị của cá nhân và xã hội. Với sự vận động và  phát triển đó, nó có khả năng chuyển hóa sang bảng giá  trị mói hoặc bảo lưu giá trị cũ, thậm chí cả khi các điều  kiện xã hội và nhu cầu xã hội đã thay đổi một cách cơ  bản. ở đây, chuẩn mực xã«hội đóng vai trò bản lề cho sự  chuyển hóa đó diễn ra nhanh hay chậm, ổn định hay trì  trệ, phát triển hay phản phát triển. 
Các chuẩn mực xã hội được hình thành, được xác  định trong quá trình cá nhân hoặc cộng đồng gia nhập  vào các quan hệ xã hội vói tư cách chủ thể của các quan  hệ xã hội. Do vậy, các chuẩn mực xã hội luôn luôn đóng  vai trò định hướng, điều tiết thái độ bên trong của đạo  đức, khuôn mẫu ứng xử hay văn hóa ứng xử nói chung ở  mỗi cá nhân và cộng đồng, cũng như đóng vai trò bản lề,  nhất là trong quá trình chuyển hóa của bảng giá trị xã  hội ở những giai đoạn biến đổi trên những lĩnh vực cơ bản  của xã hội. 
I
Mguyén Thanh Tuấn
2.3. Khuôn mẫu ứng xử lã thể chế bảo đảm vã thực hiện ứng xử 
Các khuôn mẫu, cách thức, lôl ứng xử trong xã hội,  nói chung đều mang tính chất văn hóa, vì việc biểu tượng  hóa thê giối tự nhiên và xã hội thành thê giới của những  biểu trưng văn hóa trong nhận thức, tình cảm và hành  động của con người là đặc thù của xã hội loài người (so với  thế giới động vật). Khái niệm văn hóa ứng xử sẽ không  được tiếp cận triệt để và hệ thống nếu không tìm hiểu ý  nghĩa biểu tượng (giá trị văn hóa) từ các hành động xã  hội, quá trình xã hội, quan hệ xã hội cho đến khuôn mẫu  ứng xử và thể chế xã hội. Không xác định được các giá trị  văn hóa của chúng, thì không xác định được mối dây liên  hệ giữa chúng cũng như cơ chế vận hành của chúng, vì sự  vận hành của chúng đều tuân thủ theo một bảng giá trị  nào đó. 
Như vậy, khái niệm vãn hóa ứng xử theo đúng nghĩa  và đầy đủ của nó là hệ thống ứng xử có văn hóa. Khái niệm văn hóa ứng xử bao quát các lớp đối tượng  về quan hệ tích cực của con người với tự nhiên và xã hội,  các hoạt động sổng của con người trong các điều kiện lịch  sử dưới ảnh hưởng của một hình thái xã hội nhất định. Do  tính chỉnh thể và tính bao quát nhiều lĩnh vực của cuộc  sống mà văn hóa ứng xử bao gồm nhiều dạng thể chê ứng 
Uăn £ỏa ứnỹ xứ U iệí OGim £ iện nay 
xử, từ ý thức, chất lượng, nhịp độ đến môi trường, thể thức  (lổi sống, nếp sốhg và tiêu chuẩn ứng xử). Cụ thể: 
- Lẽ sống'. Lẽ sống là thuật ngữ triết học, đạo đức,  tâm lý để chỉ mặt ý thức của văn hóa ứng xử. Lẽ sống có  vai trò dẫn dắt, định hướng và định tính nhằm làm cho  các hoạt động ứng xử ổn định. Lẽ sổng dựa vào lý tưởng  và các giá trị hoặc chuẩn mực xã hội phản ánh tính chủ  thể của lối sống. 
- Chất lượng sống: Chất lượng sốhg là thuật ngữ triết  học - xã hội để chỉ mức độ thỏa mãn nhu cầu vật chất và  tinh thần, nhưng không thể đo lường trực tiếp về số lượng.  Thí dụ, nội dung của lao động và nghỉ ngơi, chất lượng của  điều kiện ăn, ở, hoặc chất lượng vận hành của các thể chế...  Nhìn chung, nó là sự tổng hỢp cả về số lượng và chất lượng  mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất, tinh thần theo một  cách nhìn, một thưóc đo nào đó. Theo cách hiểu rộng rãi thì  chất lượng sống là thưốc đo thiên về việc thể hiện mức độ tự  do, về mặt xã hội cũng như điều kiện phát triển của cá  nhân. Như vậy, chất lượng sổhg cho biết đạt đến trình độ  nào, tính chất nào sự phát triển của con người. 
- Phong cách sống: Phong cách sống là thuật ngữ  tâm lý - xã hội để đánh giá và nhận định thái độ, hành vi  ứng xử hàng ngày của cá nhân và các nhóm xã hội (cộng  đồng xã hội). Nó chính là hình thức biểu hiện của ứng xử 
67
Nguyẻn Thanh Tuân
trong hoạt động xã hội và sinh hoạt của cá nhân và của  các nhóm xã hội. 
- Nhịp (độ) sống: Nhịp (độ) sông là thuật ngữ tâm lý -  xã hội để đánh giá cách thức và tính chất sử dụng thòi gian  trong hoạt động và sinh hoạt của cá nhân và của các nhóm  xã hội. Đó là sự đo lường về mặt thòi gian của ứng xử; tức là  một khía cạnh quan trọng đánh giá chất lượng sốíng. 
- Môi trường sống: Môi trường sông gồm môi trường  thiên nhiên, môi trường vật thể văn minh (hay còn gọi là  tự nhiên thứ hai, tức là cái tự nhiên do con người tạo ra,  như công viên, kiến trúc, cảnh quan đô thị, nhà ở, trường  học, xí nghiệp...) và môi trường xã hội. 
- Lối sống, nếp sống văn minh: LỐI sốhg, nếp sống văn  minh là những thuật ngữ rất gần gũi và gắn bó với thuật  ngữ văn hóa ứng xử. Trong cách nói thông thường, thuật  ngữ nếp sống nhiều khi được dùng như lối sống. Tuy vậy,  nếp sống có nội dung hẹp hơn lối sông. 
Nếp sổng là một bộ phận của lối sống được lặp đi lặp  lại thành nền nếp, thói quen... Nghĩa là đã được định  hình, định tính, đã được xác lập giá trị thành một nét văn  hóa, được các cá nhân và cộng đồng thừa nhận, làm theo  và được quy định thành điều ước (quy ưốc hay hương ước)  hoặc luật pháp. Nếp sống lâu đòi có thể trở thành phong  tục, tập quán. Vì thế, giáo sư Vũ Khiêu có lý khi định 
'Văn £ỏa ửnỹ xú V ỉệí OGim £ iện na^ 
nghĩa; "Nếp sốhg là toàn bộ những thói quen được hình  thành trong cuộc sông hàng ngày, những thói quan đã trở  thành nếp trong sản xuất, chiến đấu, trong mọi quan hệ xã  hội và trong sinh hoạt riêng tư của mỗi con người. Những  thói quen ấy còn được gọi là tập quán" 
Nếp sống văn minh chỉ khía cạnh tích cực của nếp  sống. Văn minh là một phương diện của văn hóa, là mặt  vận động, là kết quả của văn hóa. Văn hóa là cái ổn định  hơn, là sự lắng lại của mình. Nếp sông văn minh là nếp  sông tích cực của cá nhân hoặc cộng đồng, để ứng xử thích  hỢp vối những hoàn cảnh cụ thể trong giao tiếp và tác động  đến một đốĩ tượng nào đó, theo hướng chân, thiện, mỹ.  Trái vói nếp sống văn minh là nếp sổng lạc hậu. 
- Tiều chuẩn sống: Là sự quy định có tính pháp luật  của nhà nưóc về ăn, ở, mặc, nghỉ ngơi, đi lại, giao tiếp nơi  công cộng, cơ quan, trường học... bảo vệ môi trường, kể cả  điều kiện lao động, học tập, thực hiện các quyền dân chủ... 
Tựu chung, khuôn mẫu ứng xử là hành động (ứng xử)  được lặp lại một cách đều đặn ở đa sô" người trong cộng  đồng xã hội và trong quá trình vận hành của xã hội. Nó  được tổng quát hóa, tiêu chuẩn hóa và hỢp thức hóa để làm  mẫu mực chỉ dẫn trong cộng đồng xã hội đó. 
Vũ Khiêu: Lao động, nguồn vô lận của mọi giá trị, Nxh Thanh niên, Hà Nội, I975.tr.135 
69
Nguyên Thanh Tuán 
3. ĐẶC đ iỂm Văn Hóa ứng xử việt n a m truyền th ố n g 3.1. Đặc điểm chung 
Trong truyền thông văn hóa ứng xử Việt Nam nổi bật  là các giá trị, nếp sốhg khoan hòa, thiên về hành động vói  lối tư duy trực giác tổng hỢp; lòng nhân ái (thương nòi), lốì  ứng xử linh hoạt, ý chí và nghị lực yêu nưóc, tự lập, tự  cường, đoàn kết đồng bào, dân tộc v.v... Tất cả các giá trị  này tạo nên chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. 
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, sở dĩ có tính nồng  nàn, thiết tha, và bất khuất là do được hun đúc bởi nếp  sông khoan hòa, lòng nhân ái (thương nòi), lôl ứng xử  cân bằng linh hoạt, tinh thần, nghị lực yêu nước, tự lập,  tự cường, đoàn kết đồng bào và dân tộc, đặc biệt trong sự  nghiệp giữ nước, trước nạn ngoại xâm và nạn đồng hóa  văn hóa. Tinh thần yêu nước hay tinh thần dân tộc  không phải là một giá trị độc lập, mà thẩm thấu vào các  giá trị trên đây. Chủ nghĩa yêu nước là tổng hỢp của các  giá trị đó. 
Các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam được hình  thành, hun đúc từ lôì (phương pháp) sống đặc trưng của  dân tộc gốc nông nghiệp điển hình Á Đông - Đông Nam Á,  nằm giữa hai nền văn hóa lớn là Trung Quốc và An Độ.  Thông qua những giá trị văn hóa nổi bật có thể nhận biết
X)ăn £óa ứnỹ xứ U iệi OCam lìiện nat^ 
đưỢc nếp, lối, cách thức (phương pháp luận) hoạt động của  ngưòi Việt Nam truyền thống. 
- Nếp sông khoan hòa thiên về hành động vói tư duy  trực giác tổng hỢp: khác vối khoan dung, và càng khác với  bao dung, ở tính kiêm nhường, tôn trọng, bình đẳng trong  hòa hỢp vói thiên nhiên, hòa đồng với con người và hòa  mục, hòa hiếu với lân bang. Nghề trồng lúa nước buộc con  người phải sống phụ thuộc, giao hòa với đất, với nước theo  thòi tiết thiên nhiên. Văn hóa lúa với tính cách là văn hóa  điển hình của văn hóa sản xuất vật chất ở Việt Nam, đã cơ  bản tạo dựng văn hóa làng Việt Nam. Phức hỢp văn hóa  lúa - văn hóa làng đã được định hình trong lịch sử, thông  qua thế quân bình năng động đõì với tự nhiên, đặc biệt  trong các dịp thiên tai. Từ chỗ ứng xử chênh với tự nhiên  đi đến ứng xử hòa điệu với tự nhiên ở miền đất thấp, miền  đồng bằng châu thổ, theo khí hậu, theo nhịp mùa thi, theo  địa hình cao thấp, theo điều kiện đất đai thổ nhưỡng phì  nhiêu hay chua mặn... Trong sản xuất nông nghiệp, trong  cách ăn, ở, mặc... người Việt Nam đều thể hiện sự thích  nghi, hòa hỢp vói tự nhiên*'^ 
Học tập, tôn trọng, chinh phục, mô phỏng, thích nghi  là những cách thức ứng xử theo hướng khoan hòa với tự 
Huỳnh Khái Vinh, Ngiivền Thanh Tuấn: Bàn vé khoan dung trong văn hóa. Nxh Chính trị Quốc gia. tái bản có sửa chữa, bô sung, Hà Nội, 2004. tr.205-208. 
71
Nguyên Thanh Tuân 
nhiên. Từ đó hình thành nên nếp sông khoan hòa, thuần  hậu không chỉ với tự nhiên, mà vối xã hội, vói bản thân.  Nếp sông khoan hòa được thể hiện, thực hiện từ cách sông  hòa thuận trong gia đình, láng giềng... đến hòa hiếu với  lân bang. Chính nếp sông này đã thúc đẩy hình thành lôi  hay phương pháp tư duy trực giác tổng hỢp cảm tính và  kinh nghiệm. Tổng hỢp gắn vói trừu tượng hóa và tư duy  biện chứng chất phác. Nếp sổhg đó không quan tâm đến  nhiều các yếu tô" riêng rẽ, như nước, phân, cần, giông mà  quan tâm đến những mối quan hệ giữa chúng. Trừu  tượng hóa để đi thẳng vào cái trọng tâm, trọng điểm, cái  bức xúc* tư duy biện chứng, nhằm vào tính vận động của  các môi quan hệ. Tất nhiên trong triết lý sông của người  Việt Nam cho đến nay, năng lực trừu tượng hóa và tư duy  biện chứng cơ bản mới dừng ở mức cảm tính, kinh  nghiệm; song dẫu sao, năng lực đó đã khiến nếp sông  khoan hòa có tính triết lý. Và do đó, nó có lề lôl, phép tắc  nhất định. Nếp sống khoan hòa, thiên về hành động vối  lôl tư duy trực giác, tổng hỢp có nhân tô" biện chứng là  một giá trị truyền thông rất cơ bản hình thành phương  pháp luận Hồ Chí Minh. 
- Lòng nhãn ái Việt Nam: Được thể hiện và thực hiện  theo các nguyên tắc trọng tình, trọng đức, trọng văn và  trọng nữ. Nếp sông khoan hòa trong làng với tính cách là  một cộng đồng xã hội tuy có lệ làng (văn hóa pháp lý),
'ĩ)ăn Ẻóa Ú7?y xử U ìèi OGun £iện na^ 
nâng lên thành nguyên tắc trọng đức, trọng văn, và mở  rộng ra thành nguyên tắc trọng phụ nữ. 
Nguyên tắc trọng đức ở Việt Nam hướng vào những  giá trị nền tảng có tính bền vững của đạo đức là luân lý.  Và vì thế, nó dễ dàng tiếp thu đạo ngũ thường, luân  thường của Nho giáo Trung Quốíc và đạo đức Phật giáo Ân  Độ. Tình nghĩa trong quan hệ ngưòi - người, và lối ứng xử  tình nghĩa trong dân gian, được Nguyễn Trãi, theo nguyên  tắc trọng ván, nâng lên thành lối ứng xử nhân nghĩa, để  tình người hòa với đạo tròi, hay tình người hòa với phép tắc  chung của xã hội. 
Song sở dĩ nhân nghĩa Việt Nam vẫn có bản sắc  riêng bền vững, vì nó gắn vóh nguyên tắc trọng phụ nữ.  Nguyên tắc này được thể hiện, thực hiện nhất quán từ  gia đình đến tín ngưõng mẫu hệ và cả Bộ luật Hồng Đức  dưới triều Lê. 
Nếp sống khoan hòa thiên về hành động, với lối tư  duy trực giác tổng hỢp có tính biện chứng chất phác được  thể hiện trong tình nghĩa đối với con ngưòi theo các  nguyên tắc trọng tình, trọng đức, trọng văn (hay trọng  nghĩa) bằng triết lý nhân nghĩa. Nó đã thúc đẩy hình  thành lốì ứng xử nhân văn, tập thể và dân chủ. Đây cũng  là những giá trị truyền thống cơ bản góp phần hình thành  phương pháp luận Hồ Chí Minh. 
73
Nguyên Thanh Tuân 
- Lối ứng xử cân bằng linh hoạt: Nếp sông khoan hòa  thiên về hành động chú trọng đến mối quan hệ đang vận  động, nhất là những cái trọng tâm, trọng điểm, bức xúc,  nên cũng dễ dẫn đến cách ứng xử, hành động linh hoạt,  thậm chí biến báo sao cho thích hỢp với từng hoàn cảnh  lịch sử - cụ thể. Do đó, nếp sống khoan hòa thường đưọc  biểu hiện ở lối ứng xử quân bình, và cũng không hiếm khi  biến thái ở dạng mềm dẻo, tùy tiện. 
Thói tùy tiện vối tính cách là biểu hiện tiêu cực của  lốì ứng xử linh hoạt; còn tính mềm dẻo, nhìn chung là biểu  hiện tích cực của nó. Song cả hai biểu hiện linh hoạt đó  nhìn chung đều diễn ra trong khuôn khổ lối ứng xử quân  bình linh hoạt, theo cả hai chiều tiêu cực, tích cực. Chúng  đều là kết quả của lối tư duy trực giác tổng hỢp có tính  biện chứng chất phác. Chúng dẫn đến các tiếp nhận, thâu  thái kiểu dung hỢp và cả tổng hỢp theo hưống tích hỢp. Thí  dụ ở Việt Nam có sự dung hỢp nhiều tôn giáo ngoại lai và  bản địa; trong đó Nho, Phật, Lão đạt đến mức tích hỢp  đồng nguyên. Trưóc áp lực của hai nền ván hóa lớn: văn  hóa An Độ thiên về tâm linh, văn hóa Trung Quốc thiên về  thực tê - thực dụng, cho nên, để tồn tại và phát triển được, nền văn hóa Việt Nam đã phát huy lôi sông khoan hòa dựa  trên cơ tầng văn hóa Đông Nam Á. Việt Nam đã lựa chọn  lối ứng xử cân bằng linh hoạt, để không bị đồng hóa về văn
X)ăn £óa úwy xử T )iệi DCim £ iện na^ 
hóa. Lốĩ ứng xử cân bằng, linh hoạt và lối tư duy trực giác  tổng hỢp có tính biện chứng chất phác được Hồ Chí Minh  kê thừa có chọn lọc, để tạọ nên phương pháp luận tiêu biểu  của Người. 
- Ý chí, nghị lực yêu nước, tự lập, tự cường, đoàn kết đồng bào, dân tộc. Nhiều nhà nghiên cứu thường có xu  hướng nhấn mạnh một chiều, có phần thái quá về sự khép  kín của làng (xã) tiểu nông. Song nếu chỉ nhìn thấy tính tự  túc về kinh tế, sự đóng kín về văn hóa, sự vây bọc đơn vị tụ  cư bởi lũy tre làng v.v... thì rất khó giải thích được vì sao  người nông dân Việt Nam lại, có ý thức, hành động yêu  nưóc mãnh liệt, trường kỳ như vậy? Như ý niệm làng -  nước, đồng bào, quốc gia v.v... giải thích cho việc hơn 60  huyện, thành đồng thanh tương ứng khi Hai Bà Trưng  "phất cò nương tử"; và khi Bà Triệu cưỡi voi dóng trông thì  "toàn thể Giao Châu chấn động"*^\ Ý chí, nghị lực giao lưu,  đoàn kết đồng bào dân tộc của các làng tiểu nông xuất  phát từ sự liên kết giữa các làng, các vùng trong việc trị  thủy, chống thiên tai, chống ngoại xâm. 
Nói một cách công bằng, đặc điểm cơ bản của văn hóa  làng Việt Nam là tính lưỡng diện giữa khuynh hưống cá  thể, biệt lập vói khuynh hướng giao lưu, đoàn kết đồng 
Huỳnh Khái Vinh. Nguyễn Thanh Tuấn: Chấn hưng các vùng và tiểu vùng văn hóa ỏ nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Ỉ995, tr.14-15. 
75
Nguyên Thanh Tuấn
bào, dân tộc. Khi mà kinh tê tiểu nông tự cấp tự túc còn  chi phốĩ thì khuynh hướng cá thể, biệt lập, khép kín chiếm  vị trí chủ đạo, còn khuynh hướng phụ, thứ yếu này có lúc,  có nơi sẽ trở thành chủ đạo khi phải hiệp tác chống thiên  tai, trị thủy, chông ngoại xâm và nạn đồng hóa văn hóa. 0  người Việt Nam, ý chí, nghị lực yêu nước, tự lập, tự cường,  đoàn kết đồng bào, dân tộc là một điểm chủ đạo tạo nên  ván hóa ứng xử. 
3.2. ứng xử theo tư duy trực giác tổng hợp 
Tư duy phương Tây thiên về phân tích một cách  khách quan, khoa học trên cơ sở chủ nghĩa duy lý. Còn  tư duy Á Đông thì thiên về tổng hỢp tâm hồn với trí tuệ,  lý tính vói đạo đức xã hội, đạo đức xã hội vói luân lý  con người, đạo học Lão Trang vối thực tiễn Khổng học,  sự mát mẻ của Niết Bàn (Phật giáo) vối sự linh thiêng  của tổ tiên, bể khổ cuộc đời với huyền học "Tam giáo  đồng nguyên". 
Đặc điểm nổi bật của tư duy trực giác là đặt mình vào  giữa đối tượng để cảm nhận bằng cả tâm hồn và trí tuệ,  giao tiếp lý trí và tình cảm, khơi dậy linh cảm quán xuyến  nhiều chiều trong khoảnh khắc, nhờ đó mà bất thần hoặc  dần dần nắm bắt được bản thể trừu tượng của khách thể.  Nói chung, các nhà tư tưởng Á Đông đều quen với phương 
X)ăn £óa tíwy xử T )iệi OGim Ẻ ìện na^ 
thức tư duy trực quan, thể nghiệm lâu dài, bỗng chốc giác  ngộ. Phương thức tư duy trực giác đặc biệt coi trọng tác  dụng của cái tâm, lấy tâm để bao quát đổĩ tượng nhận  thức, coi tâm là gốic của nhận thức. 
Tư duy trực giác rất ít đi sâu phân tích quá trình tác  động của "tâm", cũng không chứng minh bằng suy lý sự  giác ngộ của tâm, mà chỉ mô tả trực tiếp sự giác ngộ không  liên tục của linh cảm. Từ chỗ nhấn mạnh tính chính thể  hỢp nhất của các nguyên lý và phạm trù, mà không tìm  hiểu sự khác biệt về bản chất giữa chúng với nhau, nên tư duy trực giác chỉ dựa vào "tâm" nhằm thỏa mãn quan điểm  chỉnh thể mơ hồ của sự cảm nhận. 
ở phương Đông, vô luận Phật giáo, Nho giáo hay Đạo  giáo đều hưống vào các mối thống nhất hài hòa quán  xuyến trong thế giới như: thiên nhân hỢp nhất, tri hành  hỢp nhất, thể dụng như nhất, tâm vật dung hỢp, nội ngoại  không cách biệt, cảnh và tình hỢp nhất v.v... Thuyết  "Thiên nhân hỢp nhất" bắt nguồn từ Khổng, Mạnh và dần  dần trở thành mệnh đề trung tâm của nguyên lý phương  Đông về sự hài hòa thống nhất, về "cái Một" của thế giới.  Theo thuyết này thì thiên nhiên và con người, vật và vật...  có mối liên hệ lẫn nhau, cho nên cần giữ trạng thái cân  bằng, hài hòa giữa chúng. Trạng thái cân bằng là quy luật  phổ biến trong vũ trụ. Thuyết "Trung dung" được coi là 
77
IMguyén'Thanh Tuấn 
tiêu chuẩn tối cao để duy trì sự cân bằng vạn vật, bởi vì  đạt đến trung dung hài hòa, theo Khổng Cấp, thì "tròi đất  như nằm ở đó vậy, vạn vật nhò đó như được nuôi dưỡng  vậy". Triết lý Phật giáo cũng nói về thực thể chân không  như một khôi thống nhất cả vật chất, tinh thần,- cả vô thức  và ý thức trong trạng thái đồng nhất phân biệt trên cơ sở  con đường lốn trung dung "Bát chính đạo". 
Từ lý luận về sự thống nhất của thế giói đã hình  thành phương pháp nhận thức tổng hỢp, tức là dùng quan  điểm chỉnh thể để tiếp cận đối tượng. Với lý luận và quan  điểm nhận thức tổng hỢp, chỉnh thể đó thì phương thức tư  duy giác ngộ trực giác đóng vai trò rất quan trọng, để gặp  sự vật là biết (cảm nhận) ngay được nội dung. 
Phương thức tư duy trực giác nhờ vào quan sát và  cảm thụ trực tiếp sự vật, nhò vào sức tưởng tượng, liên  tưởng, phỏng đoán, linh cảm đã được các trào lưu triết học  - tôn giáo và cả văn học, nghệ thuật, sử học, sử dụng và  xây dựng. Nho giáo cho rằng, cần phải "đưa một biết ba"  hoặc "đạt được ý quyên lòi". Đạo gia thì quan niệm "chỉ  lãnh hội đưỢc ý chứ không thể truyền bằng lời", "nói không  hết ý", để nắm bắt cái ý tứ sâu xa trong khoảnh khắc, từ  đó mà tham thiền. Phương pháp nhận thức của Phật Thích  Ca là phương pháp phân tích tâm lý. Đòi sống con người  đưỢc xem xét thông qua bản ngã vĩnh cửu. Trí óc được xem
V ăn £óa ứnỹ xứ V ỉệí OGun Ếiiện na^ 
chỉ là một phần của cơ thể con người, một hỢp nhất của các  lực lượng tinh thần mà con người có được và có thể huy  động được, để nhận biết về thế giói này. Cho nên, tư duy  chỉ là một phần của sự nhận biết về thê giới. Ngoài ra còn  sự cảm thụ trực tiếp, còn linh cảm. Phương pháp nhận biết  của đức Phật là phương pháp trung dung "Bát chính đạo".  Người thường ví con đường và biện pháp như con thuyền  chở người tu hành qua sông mê. Qua sông mê (cõi vô minh)  con người phải biết bỏ luôn thuyền. Nó cũng như ngón tay  chỉ lên mặt trăng, mặt trăng tức là chân lý "tuyệt đổì" ở  ngoài phạm vi của lời nói, chữ nghĩa. Thấy được mặt trăng  tức là tới chân lý rồi thì phải biết vươn lên câu chữ, đừng  nhìn mãi vào ngón tay trỏ. Khi đó người ta bưốc vào thế  giới mới với tâm hồn tĩnh lặng, trong sáng. Lúc đó kết thúc  quá trình nhận thức, con người hòa nhập và trở thành  chân lý tuyệt đốĩ. 
Toàn bộ quá trình nhận thức trên là quá trình tiêu  vong nhận thức để hư không hóa tất cả. Nhận thức tiêu  vong dần trong quá trình giải thoát - điều đó chứng tỏ  ngay từ đầu cái lý tính đúng chỉ là một phần của quá trình  giải thoát. Cái trực giác và cái cảm thụ trực tiếp được tổng  hòa theo con người "Bát chính đạo", và càng đạt đến sự  linh cảm thì càng phải "phá chấp" cái nhận thức lý tính  đến mức hư không hóa tất cả. 
79
IMguyén Thanh Tuân
Có thể nói, phương pháp tư duy trực giác tổng hỢp  đến mức khoan hòa, tổng hòa của Phật Thích Ca là tiêu  biểu cho tư duy phương Đông. Ngoài ra, trong sự sáng tạo  văn chương, nghệ thuật cái cảm thụ tự ngã, cái đẹp tự  nhiên thiên tạo cũng góp phần xây dựng bản sắc trực giác,  tổng hỢp của tư duy phương Đông. 
Tư duy trực giác trong văn chương, nghệ thuật được  thể hiện cụ thể ở tư duy hình tưỢng. Tư duy hình tượng có  đặc trưng là không dùng thực tế để chứng minh, mà dùng  cảm quan và tình cảm thẩm mỹ để phản ánh và tái sáng  tạo bằng óc tưởng tượng. Tư duy hình tượng nhằm vào các  trạng thái cơ bản nhất, cùng những ấn tượng và cảm xúc  sâu xa nhất, để lay động tâm tưởng nhằm nắm bắt được  tổng thể tiết tấu biến hóa của đôl tượng. 
Nhìn chung tư duy trực giác và tư duy hình tượng  nắm bắt cái tổng thể đôl tưỢng một cách ròi rạc, với một  linh cảm không liên tục. Nó thiên về sự phản ánh duy  tâm chủ quan và dễ gán cho sự vật vô nghĩa thành có  nghĩa một cách khiên cưỡng. Cái gọi là thấu cảm đến tận  cùng chân lý của Nho, Phật, Lão thiếu sự luận chứng đầy  đủ, bởi lẽ ta chỉ có thể dựa vào trực giác mà cảm nhận sự  tổng hỢp. 
Sự sáng tạo phương thức tư duy trực giác tổng hỢp  đương nhiên là thành quả quan trọng bậc nhất của tư 
U ăiìÊóa ứiìỹ xử T )iệí OCam £ ìện na^ 
tưởng triết học luôn được lồng ghép và được thể hiện trong  tôn giáo và bằng tôn giáo. Phương thức tư duy này, ở mức  độ khả quan nhất, có thể rút ra được quá trình nhận thức,  tăng thêm tốc độ tư duy, sự nhạy bén của quan sát và có  độ khái quát hóa cao. Nó có khả năng dung hòa được nhận  thức lý tính với tâm hồn, tình cảm, tâm lý và cả tâm linh  (đành rằng nhiều khi hỗn độn). Kết quả của tính dung hòa  này là nếp tư duy "nghĩ bụng" chứ không phải nghĩ bằng  đầu trong ứng xử với đất, tròi, người, vật... 
3.3. Nếp ứng xử cộng đống tĩnh nghĩa 
ớ Việt Nam, dân tộc, Tổ quốc là những cộng đồng lốn  nhất và thiêng liêng. Còn các khái niệm "khu vực", "nhân  loại" hiện vẫn đang định hình trong ý thức, tình cảm của con  người Việt Nam. Nhưng các khái niệm dân tộc và Tổ quốc  chỉ thực sự hiện ra một cách cụ thể trong ý thức, tình cảm  thường nhật của con người khi đất nước bị xâm lăng hay bị  uy hiếp, khi niềm tự hào dân tộc bị xúc phạm và thương tổn.  Trong hoạt động và sinh hoạt thường nhật thì ý thức và tình  cảm con người về dân tộc, Tổ quốc, không tách ròi, không  độc lập, mà thường xuyên phải cọ xát thể hiện ở những cộng  đồng cụ thể, như gia đình, họ mạc, xóm làng, trường, lớp,  hội, đoàn v.v... Những ý nghĩa nhân bản, dù đó là vui hay  buồn, điềm tĩnh hay giận dữ, khoan hòa hay xung đột, lương 
81
"""