" 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Văn Hoá Trong Chính Trị Và Văn Hoá Trong Kinh Tế Ở Việt Nam – Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn Ebooks Nhóm Zalo Chịu trách nhiệm xuất bản: Q. GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP PHẠM CHÍ THÀNH Chịu trách nhiệm nội dung: ỦY VIÊN HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP - XUẤT BẢN TS. VÕ VĂN BÉ Biên tập nội dung: Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Đọc sách mẫu: ThS. PHẠM NGỌC BÍCHThS. NGUYỄN THỊ HẢI BÌNH ThS. VÕ THỊ TÚ OANH NGUYỄN MAI ANH ThS. NGUYỄN VIỆT HÀ ĐƯỜNG HỒNG MAI NGUYỄN QUỲNH LAN ĐÀO QUỲNH HOA BÙI BỘI THU Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 4139-2020/CXBIPH/19-337/CTQG. Số quyết định xuất bản: 5370-QĐ/NXBCTQG, ngày 15/10/2020. Nộp lưu chiểu: tháng 10 năm 2020. Mã số ISBN: 978-604-57-6114-4. TẬP THỂ TÁC GIẢ PGS.TS. PHẠM DUY ĐỨC - PGS.TS. VŨ THỊ PHƯƠNG HẬU (Đồng chủ biên) GS.TS. CHU VĂN CẤP PGS.TS. LÊ VĂN CƯƠNG PGS.TS. NGUYỄN QUỐC DŨNG PGS.TS. ĐOÀN THẾ HANH PGS.TS. NGUYỄN NGỌC HÒA PGS.TS. NGUYỄN THỊ XUÂN HƯƠNG PGS.TS. LÊ HỒNG HUYÊN PGS.TS. BÙI SỸ LỢI PGS.TS. NGUYỄN TOÀN THẮNG PGS.TS. HUỲNH VĂN THỚI PGS.TS. NGUYỄN HỮU THỨC PGS.TS. PHẠM MINH TUẤN PGS.TS. VÕ VĂN THẮNG 4 TS. NGUYỄN VIỆT ANH TS. BÙI THỊ KIM CHI TS. LÊ THỊ HƯƠNG TS. PHAN CÔNG KHANH TS. NGUYỄN THỊ KIM LIÊN TS. NGHIÊM THỊ THU NGA TS. NGUYỄN HUY PHÒNG TS. LƯƠNG HUYỀN THANH TS. NGUYỄN THỊ TUYẾN ThS. ĐÀO DUY ANH ThS. NGUYỄN THỊ HẰNG ThS. LÊ THỊ TRANG ThS. ĐẶNG THỊ TUYẾT Đ LỜI NHÀ XUẤT BẢN ể xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (năm 2014) đã xác định một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng là “xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế”1. Đây là nhiệm vụ có vai trò to lớn trong việc xây dựng, xác lập và thực hành các giá trị chuẩn mực văn hóa, làm cho văn hóa thấm sâu và lan tỏa vào các lĩnh vực chính trị và kinh tế, từ đó, tác động tích cực đến toàn bộ đời sống văn hóa và môi trường văn hóa của đất nước. Đây cũng là một trong những nhiệm vụ có ý nghĩa quan trọng để nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động chính trị và kinh tế, góp phần xây dựng và hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam, đồng thời tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chống sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Để có thể xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế một cách có chất lượng và hiệu quả, cần có sự nghiên cứu cả về cơ sở lý luận, quan điểm, đường lối của Đảng ta cũng như khảo sát, đánh giá thực trạng xây dựng văn hóa trong các lĩnh vực chính trị và kinh tế, _____________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr.53. 5 từ đó chỉ ra những quan điểm, giải pháp hữu ích để tiếp tục đẩy mạnh công tác này trong thời gian tới. Nhằm giúp bạn đọc có thêm tài liệu tham khảo về những vấn đề trên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế ở Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn. Cuốn sách là tổng hợp kết quả nghiên cứu của Đề tài khoa học cấp nhà nước Văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng, vấn đề đặt ra và giải pháp, mã số KX.04.18/16-20, thuộc Chương trình khoa học công nghệ trọng điểm cấp quốc gia Nghiên cứu khoa học lý luận chính trị giai đoạn 2016 - 2020, mã số KX.04/16-20. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc. Tháng 12 năm 2019 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 6 T LỜI NÓI ĐẦU rong sự nghiệp đổi mới đất nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, Đảng ta xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực, là sức mạnh nội sinh quan trọng để xây dựng và phát triển bền vững đất nước. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã xác định một nhiệm vụ quan trọng là: “Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế. Chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể; coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Thường xuyên quan tâm xây dựng văn hóa trong kinh tế. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân với ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật, giữ chữ tín, cạnh tranh lành mạnh vì sự phát triển bền vững của đất nước, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”1. Trong quá trình triển khai nghiên cứu đề tài khoa học Văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng, vấn đề đặt ra và giải pháp, mã số KX.04.18/16-20 thuộc Chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp quốc gia Nghiên cứu khoa học lý luận chính trị _____________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.128. 7 giai đoạn 2016 - 2020, mã số KX.04/16-20, Ban Chủ nhiệm đề tài đã đúc kết được một số kết quả nghiên cứu và trân trọng giới thiệu với độc giả quan tâm về vấn đề này. Cuốn sách Văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế ở Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn chắt lọc kết quả nghiên cứu với những vấn đề lý luận về văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế; khảo sát, đánh giá thực trạng văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế ở nước ta trong thời kỳ đổi mới, đề xuất mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp để tiếp tục đẩy mạnh xây dựng văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế trong giai đoạn tới. Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Chủ nhiệm Chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp quốc gia Nghiên cứu lý luận chính trị giai đoạn 2016 - 2020, mã số KX.04/16-20; Bộ Khoa học và Công nghệ; Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật; Viện Văn hóa và Phát triển - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, đặc biệt là cảm ơn các nhà khoa học đã tham gia nghiên cứu, thẩm định và góp ý để chúng tôi hoàn thành cuốn sách này. Xin trân trọng giới thiệu và mong được sự trao đổi của bạn đọc về những vấn đề cùng quan tâm trong cuốn sách này. BAN CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI KX.04.18/16-20 8 Chương I CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU VĂN HÓA TRONG CHÍNH TRỊ VÀ VĂN HÓA TRONG KINH TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY I- CƠ SỞ LÝ LUẬN 1. Một số khái niệm cơ bản a) Khái niệm văn hóa Văn hóa là một khái niệm mang tính đa nghĩa gắn liền với tất cả các hoạt động sống của con người, từ hoạt động sản xuất vật chất đến hoạt động tinh thần, từ hoạt động của cá nhân tới hoạt động của cộng đồng, phản ánh sức sáng tạo hướng tới các giá trị nhân văn, thúc đẩy sự tiến bộ xã hội. Văn hóa là một phẩm chất đặc hữu chỉ thấy ở con người, nó là dấu hiệu để phân biệt con người và động vật. Đồng thời văn hóa là dấu hiệu đặc trưng của tổ chức xã hội loài người, do quá trình học hỏi, tích lũy được mà có, khác với tổ chức của loài vật kế thừa theo bản năng sinh học. E.B.Taylor trong công trình Văn hóa nguyên thủy (Primitive Culture, 1871) lần đầu tiên đã đưa ra định nghĩa về văn hóa: “Văn hóa hay văn minh, theo nghĩa rộng về tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán và một số năng lực và 9 thói quen khác được con người chiếm lĩnh với tư cách là một thành viên của xã hội”1. Từ đó đến nay, các định nghĩa về văn hóa liên tục xuất hiện để nhằm giải quyết các vấn đề khác nhau trong nhận thức lý luận cũng như đáp ứng nhu cầu của thực tiễn. Nhìn một cách tổng quát, văn hóa được xác định là toàn bộ các giá trị vật chất và giá trị tinh thần do loài người sáng tạo ra nhằm mục đích phục vụ cho sự tồn tại và phát triển của loài người. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”2. Hội nghị quốc tế bàn về chính sách văn hóa họp tại Mêhicô từ ngày 26/7 đến ngày 26/8/1982 đã đưa ra một quan niệm chung về văn hóa: “Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính cách của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét về _____________ 1. E.B.Taylor: Văn hóa nguyên thủy, Tủ sách văn hóa, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật dịch và xuất bản, Hà Nội, 2000, tr.13. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.3, tr.458. 10 bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lý”1. Khái quát lại có ba cách quan niệm về văn hóa: Cách thứ nhất quan niệm văn hóa như là thuộc tính bản chất của con người, chỉ toàn bộ năng lực lao động sáng tạo của con người hướng tới cái đúng, cái tốt và cái đẹp (khoa học, đạo đức và thẩm mỹ) để thúc đẩy sự phát triển của xã hội và hoàn thiện nhân cách của con người. Ở đây, văn hóa là phạm trù chỉ chất lượng của sự sáng tạo trong hoạt động thực tiễn xã hội của con người (bao gồm cá nhân và cộng đồng). Cách thứ hai quan niệm văn hóa bao gồm toàn bộ các hoạt động sáng tạo tinh thần của con người, là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng chịu sự quy định của cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội và có tác động năng động đối với cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội. Đây là quan niệm theo lý thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác. Cách thứ ba là quan niệm văn hóa như một bộ phận trong cấu trúc tổng thể của xã hội bao gồm chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội (theo quan điểm của Hồ Chí Minh). Nhìn từ góc độ lý luận chính trị, ba cách quan niệm này đều giúp ích cho các chủ thể chính trị xác định vị trí và vai trò của văn hóa trong tương quan với các lĩnh vực khác như kinh tế, chính trị, xã hội trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước phù hợp với hoàn cảnh lịch sử - cụ thể ở mỗi giai đoạn khác nhau. _____________ 1. Tuyên bố về những chính sách văn hóa, Hội nghị quốc tế do UNESCO chủ trì từ ngày 26/7 đến ngày 26/8/1982 tại Mêhicô. Dẫn theo Hoàng Vinh: Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hóa ở nước ta, Viện Văn hóa, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1999, tr.42. 11 b) Khái niệm chính trị - Chính trị (tiếng Anh: politic): Là một trong những lĩnh vực hoạt động chủ yếu của con người phản ánh mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia về vấn đề giành, giữ, phát triển, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước, là sự tham gia của người dân vào công việc của nhà nước và xã hội, là hoạt động chính trị thực tiễn của các đảng phái chính trị, các nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện đường lối và mục tiêu chính trị đề ra đáp ứng nhu cầu lợi ích của chế độ chính trị. - Chế độ chính trị: Là nội dung, phương thức tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị quốc gia mà trung tâm là nhà nước. Chế độ chính trị được cấu thành bởi sự kết hợp giữa các yếu tố: chính trị, kinh tế - xã hội, tư tưởng, văn hóa, pháp luật. Chế độ chính trị được hiểu rõ nét trong mô hình tổ chức nhà nước, trong hiến pháp của mỗi nhà nước quy định về nguồn gốc và tính chất của quyền lực, sự phân bổ và tổ chức các cơ quan quyền lực, và mối quan hệ giữa các cơ quan quyền lực, về mối quan hệ giữa nhà nước với công dân, các đảng phái chính trị, các tổ chức xã hội, giữa các giai cấp và các tầng lớp xã hội, giữa các dân tộc trong nước và thế giới1. - Quyền lực chính trị: Là quyền sử dụng sức mạnh của một hay liên minh giai cấp và tập đoàn xã hội để đạt mục đích thống trị xã hội, thỏa mãn lợi ích của giai cấp và quốc gia. Đặc điểm của quyền lực chính trị là quyền lực của xã hội nhằm để giải quyết lợi ích của giai cấp, lợi ích của quốc gia, quốc tế, là khả năng áp đặt và thực thi các giải pháp phân bổ _____________ 1. Xem Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam: Từ điển bách khoa Việt Nam, Trung tâm biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam, Hà Nội, 1995, t.1, tr.432. 12 giá trị có lợi cho một giai cấp, là sức mạnh bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp giai cấp khác. - Hệ thống chính trị: Bao gồm toàn bộ các tổ chức chính trị, được lập ra để thực hiện quyền lực chung của xã hội - quyền lực chính trị. Đây là một chỉnh thể các tổ chức chính trị trong xã hội bao gồm các đảng chính trị, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp được liên kết với nhau trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào các quá trình của đời sống xã hội, để củng cố, duy trì và phát triển chế độ chính trị cho phù hợp với lợi ích của chủ thể giai cấp cầm quyền. - Hệ thống chính trị Việt Nam: Là một chỉnh thể thống nhất theo mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa đơn đảng, giai cấp công nhân và nhân dân lao động làm chủ thể chân chính của quyền lực. Hệ thống chính trị ở Việt Nam bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Trong đó, Đảng giữ vai trò lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. c) Khái niệm kinh tế Kinh tế là tổng thể các yếu tố sản xuất, các mối quan hệ trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội. Nói đến kinh tế là nói đến sở hữu và lợi ích kinh tế được phản ánh vào thu nhập. Theo Wikipedia tiếng Việt: Kinh tế là tổng hòa các mối quan hệ tương tác lẫn nhau giữa con người và xã hội liên quan trực tiếp đến việc sản xuất, trao đổi, phân phối, tiêu dùng các loại sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người trong một xã hội với một nguồn lực có hạn. 13 Thể chế kinh tế là hệ thống những quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các chủ thể kinh tế, các hành vi sản xuất kinh doanh và các quan hệ kinh tế. Thể chế kinh tế bao gồm các yếu tố chủ yếu: các đạo luật, chính sách, quy định, quy tắc... về kinh tế gắn với các chế tài xử lý hành vi vi phạm, các tổ chức kinh tế, cơ chế vận hành nền kinh tế. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa chịu sự chi phối của các yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã khẳng định: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà nước ta xây dựng là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp từng giai đoạn phát triển của đất nước; là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh””1. d) Quan niệm về văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế Văn hóa trong chính trị là quá trình xác lập và thực hành các giá trị văn hóa (cái đúng (chân), cái tốt (thiện), cái đẹp (mỹ)) trong bộ máy tổ chức và hoạt động chính trị, cả trong chấp chính (lãnh đạo và cầm quyền của đảng, quản lý điều _____________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, tr.30. 14 hành của nhà nước, kiểm tra, giám sát quyền lực của nhân dân), lẫn tham chính (tham gia đời sống chính trị của cán bộ, công chức, công dân và mọi người dân) với vai trò, vị thế, thẩm quyền và trách nhiệm, nghĩa vụ khác nhau, phối hợp với từng đối tượng của chủ thể. Văn hóa trong chính trị biểu hiện tập trung ở trình độ dân chủ hóa chính trị, bảo đảm quyền con người trong phát triển. Đồng thời, văn hóa trong chính trị biểu hiện ở con người - chủ thể của tổ chức chính trị và hoạt động chính trị, nhân tố quyết định văn hóa trong đảng, cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị, trong đó đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức giữ vai trò nòng cốt. Văn hóa chính trị không chỉ liên quan đến kỷ luật chính trị, đạo đức chính trị mà còn quan hệ chặt chẽ với phong cách chính trị. Phong cách chính trị dân chủ, quần chúng, nêu gương chính trị là phong cách của cán bộ lãnh đạo, quản lý cần được xây dựng hiện nay. Văn hóa trong kinh tế là quá trình xây dựng và thực hành các giá trị văn hóa trong tổ chức và cá nhân tham gia hoạt động kinh tế nhằm nâng cao tính sáng tạo, tính nhân văn trong kinh tế, khắc phục những mặt trái do kinh tế thị trường tạo ra. Văn hóa trong kinh tế là khẳng định cái đúng (chân), cái tốt (thiện), cái đẹp (mỹ) của sự phát triển kinh tế, chú trọng các giá trị pháp lý và giá trị đạo lý trong hoạt động kinh tế, phấn đấu làm giàu vì sự phồn vinh của đất nước, nâng cao năng lực sáng tạo và cạnh tranh, đề cao tinh thần chia sẻ, trách nhiệm xã hội và đạo đức nghề nghiệp. Văn hóa trong kinh tế được biểu hiện trong tư duy chiến lược và phát triển kinh tế quốc gia, thể hiện trong đường lối phát triển kinh tế, trong văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân và sự tham gia của người dân vào hoạt động kinh tế. 15 2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế a) Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế - Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về văn hóa trong chính trị: Trong nhận thức lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin luôn luôn đề cao văn hóa trong chính trị nói chung, văn hóa trong lãnh đạo chính trị nói riêng. Vấn đề đầu tiên mà chủ nghĩa Mác - Lênin quan tâm là bàn đến vai trò của văn hóa đối với lĩnh vực chính trị. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu rõ: “Vậy là về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản”1. Như vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đặt ra yêu cầu rất cao đối với Đảng Cộng sản trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng. Tầm văn hóa trong chính trị của Đảng Cộng sản ở đây đòi hỏi Đảng Cộng sản phải có năng lực: “Hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung” của phong trào cách mạng, nắm vững quy luật và hành động theo quy luật của cách mạng. _____________ 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr.614-615. 16 Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, văn hóa trong chính trị được hiểu trước hết là tri thức lý luận chính trị để cải tạo thế giới. Hai ông đã nhận xét: “Công nhân đã có một trong những yếu tố thành công là số lượng. Nhưng số lượng chỉ giải quyết được vấn đề khi quần chúng được tổ chức lại và được sự hiểu biết chỉ đạo”1. C.Mác đã khẳng định sức mạnh của hệ tư tưởng, của lý luận cách mạng, một bộ phận trọng yếu của văn hóa trong chính trị: “vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất cũng chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”2. Mặt khác, C.Mác cũng đã cảnh báo rằng: “Sự ngu dốt là sức mạnh ma quỷ và chúng ta lo rằng nó sẽ còn là nguyên nhân của nhiều bi kịch”3. Đề cao vai trò của văn hóa trong việc vận động và thức tỉnh giai cấp công nhân và nhân dân lao động về trí tuệ của mình trong cuộc đấu tranh giải phóng khỏi áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã hội mới, C.Mác và Ph.Ăngghen đã yêu cầu đội ngũ trí thức của Đảng “phải tiến hành tranh luận, thuyết minh, phát triển và bảo vệ những lợi ích của Đảng, bác bỏ và đánh bại các luận điệu huênh hoang của Đảng đối địch”4. Là người kế tục thiên tài sự nghiệp vĩ đại của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đặc biệt coi trọng vai trò của văn hóa trong chính trị, trước hết là vai trò của hệ thống lý luận _____________ 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.16, tr.21. 2, 3. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.580, 166. 4. C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin: Về văn học và nghệ thuật, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1977, tr.287. 17 chính trị. V.I.Lênin đã khẳng định: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”1. Đối với tổ chức đảng, V.I.Lênin cho rằng: “chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong”2. Ông nhấn mạnh: “Không thể có một đảng xã hội chủ nghĩa vững mạnh, nếu không có lý luận cách mạng để đoàn kết tất cả những người xã hội chủ nghĩa lại, để họ rút ra từ trong lý luận đó tất cả những tín điều của họ và đem áp dụng lý luận đó vào những phương pháp đấu tranh và phương sách hành động của họ”3. Đánh giá cao vai trò của chủ nghĩa Mác đối với cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, V.I.Lênin đã rút ra nhận xét xác đáng: Chủ nghĩa Mác khác tất cả các lý luận xã hội chủ nghĩa khác ở chỗ nó kết hợp một cách tài tình sáng suốt khoa học hoàn toàn trong việc phân tích tình hình khách quan và sự tiến hóa khách quan, với việc thừa nhận một cách hết sức dứt khoát tác dụng của nghị lực cách mạng, tính sáng tạo cách mạng và tính chủ động cách mạng của quần chúng, và dĩ nhiên là cả của những cá nhân, những tập đoàn, những tổ chức và những chính đảng biết phát hiện và thực hiện được sự liên hệ với những giai cấp này hoặc giai cấp khác. Mặc dù đề cao chủ nghĩa Mác nhưng Lênin không tuyệt đối hóa chủ nghĩa Mác như một công thức giáo điều bất định mà ông cho rằng: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; _____________ 1, 2. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.6, tr.30, 32. 3. V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.232. 18 trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”1. Điều này hoàn toàn đúng, đặc biệt là trong bối cảnh tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa đang có nhiều biến đổi sâu sắc như hiện nay. V.I.Lênin luôn luôn mong muốn và tin tưởng Đảng Cộng sản phải trở thành “trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại chúng ta”2. Đây chính là các giá trị văn hóa đã thấm sâu vào trong đời sống chính trị để Đảng Cộng sản trở thành biểu tượng tinh hoa của xã hội, có sứ mệnh lãnh đạo và dẫn dắt sự phát triển xã hội vươn tới sự cao đẹp. V.I.Lênin nhấn mạnh: “Chỉ có đảng cộng sản, nếu nó thực sự là đội tiên phong của giai cấp cách mạng, nếu nó bao gồm những đại biểu ưu tú nhất của giai cấp đó, nếu nó gồm tất cả những chiến sĩ cộng sản hoàn toàn có ý thức và trung thành, có học vấn và được tôi luyện bằng kinh nghiệm đấu tranh cách mạng bền bỉ, nếu nó biết gắn mình với toàn bộ cuộc sống của giai cấp mình và thông qua giai cấp đó, gắn liền với tất cả quần chúng bị bóc lột, và biết làm cho giai cấp và quần chúng đó tin tưởng hoàn toàn vào mình, - chỉ có một đảng như vậy mới có thể lãnh đạo được giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh cuối cùng, kiên quyết nhất, thẳng tay nhất chống lại tất cả mọi thế lực của chủ nghĩa tư bản”3. V.I.Lênin nhận thức rất rõ tác động to lớn của văn hóa đối với chính trị. Ông đã tuyên bố: “Toàn bộ quan điểm của _____________ 1. V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.232. 2. V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.34, tr.122. 3. V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.41, tr.227. 19 chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã thay đổi trên căn bản. Sự thay đổi trên căn bản đó là ở chỗ: chúng ta đã đặt và không thể không đặt trọng tâm vào đấu tranh chính trị, vào cách mạng, vào việc giành lấy chính quyền, v.v.. Ngày nay, trọng tâm ấy đang chuyển dần sang công tác tổ chức “văn hóa””1. Tổng kết kinh nghiệm lịch sử, V.I.Lênin đã rút ra nhận xét hoàn toàn xác đáng về sức mạnh riêng của văn hóa trong chính trị mà không có lĩnh vực nào có thể thay thế được: “Trong cuộc cách mạng trước kia thường bị diệt vong là vì công nhân không biết giữ bằng một nền chuyên chính cứng rắn, và họ cũng không hiểu được rằng chỉ bằng một việc chuyên chính, chỉ bằng bạo lực, bằng cưỡng bách không thôi, thì không thể giữ vững được. Người ta chỉ có thể giữ vững cuộc cách mạng ấy bằng cách lấy tất cả kinh nghiệm, văn hóa và kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản, tiến bộ, bằng cách thu nạp tất cả những người đó làm việc cho họ”2. Khi bàn đến văn hóa trong chính trị, không thể không đề cập văn hóa trong tổ chức bộ máy nhà nước. V.I.Lênin đã chỉ rõ những yếu kém trong bộ máy nhà nước Xôviết sau Cách mạng Tháng Mười: “Tình hình bộ máy nhà nước của ta rất đáng buồn, nếu không muốn nói là rất tồi tệ, đến nỗi trước hết chúng ta phải suy nghĩ nghiêm chỉnh xem nên khắc phục những khuyết điểm của bộ máy ấy như thế nào; và đừng quên rằng những khuyết điểm đó bắt nguồn từ quá khứ, quá khứ này tuy đã bị lật đổ, nhưng chưa bị tiêu diệt, nó chưa phải là một giai đoạn văn hóa đã hết thời từ lâu. Tôi sở dĩ đặt ra đây chính ngay vấn đề văn hóa, vì về mặt này, _____________ 1, 2. V.I.Lênin: Về văn hóa và cách mạng văn hóa, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, tr.153, 73. 20 chỉ có cái gì đã ăn sâu vào đời sống văn hóa, vào phong tục, tập quán, mới có thể coi là đã được thực hiện”1. Để đổi mới bộ máy nhà nước, V.I.Lênin đã nhấn mạnh đến nhiệm vụ học tập: “Muốn đổi mới bộ máy nhà nước của chúng ta, phải cố hết sức tự đặt cho mình nhiệm vụ sau đây: một là học tập, hai là học tập mãi, và sau nữa, phải làm sao cho học thức ở nước ta không nằm trên giấy hoặc là một lời nói theo mốt nữa (điều này, phải thú thực là thường hay xảy ra ở nước ta), phải làm sao cho học thức thật sự ăn sâu vào trí não, hoàn toàn và thực tế trở thành một bộ phận khăng khít của cuộc sống của chúng ta”2. V.I.Lênin cho rằng, uy tín chính trị của Đảng và của Nhà nước Xôviết là ở sự trung thực, là sự nhất quán giữa lời nói và việc làm. Người cho rằng, giai cấp vô sản và nhân dân cần biết sự thật, và chẳng có gì tệ hại hơn cho sự nghiệp cách mạng bằng những lời dối trá có vẻ đẹp đẽ và êm tai của bọn tiểu tư sản. Nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân là một trong những nhiệm vụ bức thiết nhất mà V.I.Lênin đã luôn luôn nhấn mạnh, vì theo ông: “Một người không biết chữ là người đứng ngoài chính trị”3. Để nâng cao văn hóa trong chính trị, V.I.Lênin không chỉ đề cao vai trò của học tập, của giáo dục mà Người còn rất chú ý đến khoa học, đề nghị những người cộng sản phải có thái độ tôn trọng khoa học: “Phải biết quý trọng khoa học, gạt bỏ thái độ huênh hoang “cộng sản” của những nhà tài tử và những anh chàng quan liêu, phải học tập làm việc _____________ 1, 2. V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.45, tr.442-443, 444. 3. V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.44, tr.218. 21 một cách có hệ thống, sử dụng chính ngay kinh nghiệm của mình và thực tiễn của mình”1. Đồng thời, ông cho rằng có ba kẻ thù chính đối với đảng viên, tổ chức đảng và bộ máy nhà nước là: “kẻ thù thứ nhất - tính kiêu ngạo cộng sản chủ nghĩa; kẻ thù thứ hai - nạn mù chữ; kẻ thù thứ ba - nạn hối lộ”2. Để nâng cao văn hóa trong chính trị, V.I.Lênin yêu cầu những người cộng sản “phải biết học tập kẻ thù của mình”3. Theo ông: “Cần phải giành lấy toàn bộ nền văn hóa mà chủ nghĩa tư bản đã để lại, và xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng nền văn hóa ấy. Cần phải giành lấy toàn bộ nền khoa học, kỹ thuật, toàn bộ tri thức, nghệ thuật. Không có những thứ đó, chúng ta không thể nào xây dựng được một cuộc sống của chủ nghĩa cộng sản được”4. Đồng thời V.I.Lênin cũng kiên quyết phê phán thái độ rập khuôn máy móc, chạy theo “mốt” và sùng bái phương Tây, mất phương hướng chính trị cũng như mục tiêu thực tiễn. Để xây dựng văn hóa trong chính trị, V.I.Lênin đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản. Đây là yêu cầu sống còn đối với sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. V.I.Lênin đã khẳng định: Đảng có thể phù hợp hoặc nhiều, hoặc ít với lợi ích của giai cấp mình, nó thường phải trải qua những đổi thay sửa đổi này hay sửa đổi khác. Song chúng ta không thấy có một hình thức nào tốt hơn. Đồng thời, V.I.Lênin cũng chỉ rõ: Toàn bộ những kinh nghiệm của chúng ta chỉ rõ ràng đó là vấn đề cực kỳ hệ trọng, bởi vậy việc công nhận vai trò lãnh đạo của Đảng là _____________ 1, 2. V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.44, tr.217. 3, 4. V.I.Lênin: Về văn hóa và cách mạng văn hóa, Sđd, tr.38. 22 việc không một phút nào xao lãng, và chúng ta không được quên khi thảo luận về hoạt động và xây dựng tổ chức. Nhìn lại một cách khái quát quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về văn hóa trong chính trị, chúng ta nhận thấy các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã đặc biệt quan tâm đến vai trò của giá trị tư tưởng lý luận trong chính trị của Đảng Cộng sản, đề cao vai trò của tri thức, của khoa học, của các giá trị đạo đức như niềm tin, sự trung thực trong việc bảo đảm uy tín chính trị của Đảng và Nhà nước, của tinh thần tự phê phán nhằm khắc phục những thói quen, tập quán bảo thủ, lạc hậu cản trở sự phát triển của cách mạng. Những chỉ dẫn trên đây của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở để chúng ta tiếp tục đi sâu nghiên cứu về văn hóa trong chính trị ở Việt Nam hiện nay. - Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về văn hóa trong kinh tế: Theo lý thuyết về hình thái kinh tế - xã hội, văn hóa là một bộ phận của thượng tầng kiến trúc, chịu sự tác động của cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, khi tìm hiểu về văn hóa trong kinh tế và văn hóa trong chính trị cần chú ý các mối quan hệ cơ bản sau: Thứ nhất là mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế. Đây là biểu hiện tập trung của quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, giữa sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần. Ở đây, cần phải nhận thức sâu sắc và toàn diện về mối quan hệ biện chứng và quan điểm lịch sử - cụ thể khi xem xét mối quan hệ này. Theo C.Mác: Để nghiên cứu mối liên hệ giữa sản xuất tinh thần và sản xuất vật chất, trước tiên cần phải xem xét ngay bản thân nền sản 23 xuất vật chất này không phải với tư cách là một phạm trù phổ biến, mà là dưới một hình thức lịch sử nhất định: “Ví dụ, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phù hợp với một loại sản xuất tinh thần khác với phương thức sản xuất thời trung cổ. Nếu không lấy bản thân nền sản xuất vật chất dưới cái hình thái lịch sử đặc thù của nó, thì không thể nào hiểu được những nét đặc trưng của nền sản xuất tinh thần thích ứng với nó và sự tác động qua lại giữa hai cái đó... từ một hình thái sản xuất vật chất nhất định sẽ toát ra, thứ nhất, một cơ cấu xã hội nhất định, thứ hai, một quan hệ nhất định giữa con người với thiên nhiên. Chế độ nhà nước của họ và phương thức sinh hoạt tinh thần của họ đều do cả hai cái đó quyết định. Do đó, điều ấy cũng quyết định cả cái tính chất của nền sản xuất tinh thần của họ”1. C.Mác đã khẳng định bước chuyển từ dạng sản xuất tinh thần này sang dạng khác, từ trình độ phát triển văn hóa tương đối thấp lên cao hơn là kết quả tất yếu của sự thay đổi phương thức sản xuất do sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định. Nhưng mặt khác, mối quan hệ này không phải là mối quan hệ cơ học đơn giản mà là một quá trình diễn biến phức tạp vì sự tiến bộ văn hóa và sự phát triển của sản xuất tinh thần không chỉ chịu sự tác động trực tiếp của sản xuất vật chất, của cơ sở kinh tế mà còn chịu sự tác động của các thành tố khác nhau trong kiến trúc thượng tầng như hệ tư tưởng, chính trị, tôn giáo, pháp luật, giáo dục, nghệ thuật, v.v.. Mặt khác, theo C.Mác: Sự phát triển văn hóa tinh thần bị quy định bởi nhân tố kinh tế, nhưng đến lượt mình, văn hóa _____________ 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.26, ph.I, tr.394-395. 24 tinh thần lại có tác động tích cực hoặc tiêu cực đối với sự phát triển kinh tế. Nghiên cứu về mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, C.Mác và Ph.Ăngghen đã rút ra kết luận: “những điều kiện kinh tế xét cho cùng quy định sự phát triển lịch sử. Bản thân chủng tộc là một yếu tố kinh tế. Nhưng ở đây không nên quên hai điều: a) Sự phát triển của chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật v.v. đều dựa trên cơ sở sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế. Vấn đề hoàn toàn không phải là chỉ có hoàn cảnh kinh tế mới là nguyên nhân, chỉ có nó là tích cực, còn tất cả những cái còn lại đều là hậu quả thụ động. Không, ở đây tác động qua lại trên cơ sở tất yếu kinh tế, xét cho cùng bao giờ cũng mở đường đi cho mình. Chẳng hạn, nhà nước ảnh hưởng bằng thuế quan bảo hộ, tự do buôn bán, chính sách thuế tốt hoặc xấu. Ngay cả sự mệt mỏi tột độ và sự bất lực của người tiểu thị dân Đức - do hoàn cảnh kinh tế thảm hại của nước Đức trong thời kỳ từ năm 1648 đến năm 1830 quy định và biểu hiện trước hết ở giáo phái Kiền thành, sau đó ở sự đa cảm và ở sự luồn cúi như nô lệ đối với các quận vương và tầng lớp quý tộc, - cũng không phải không có ảnh hưởng đến kinh tế. Đó là một trong những trở ngại lớn nhất đối với sự hưng thịnh mới, và trở ngại này chỉ bị lay chuyển do các cuộc chiến tranh cách mạng và các cuộc chiến tranh Napôlêông đã làm cho sự nghèo khổ kinh niên trở thành gay gắt. Do đó, tình hình kinh tế không tác động một cách tự động - như một số người tưởng tượng cho tiện, - mà chính con người làm ra lịch sử của mình, nhưng 25 trong một hoàn cảnh nhất định, quy định họ, trên cơ sở các quan hệ thực hiện hữu, trong đó các điều kiện kinh tế, dù những điều kiện khác - các điều kiện chính trị và tư tưởng - ảnh hưởng đến chúng mạnh mẽ đến đâu, - xét cho cùng vẫn là có tính chất quyết định và tạo thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ sự phát triển và chỉ có nó mới dẫn tới chỗ hiểu được sự phát triển ấy. b) Chính con người làm ra lịch sử của mình, nhưng cho tới nay họ đã làm ra lịch sử ấy mà không tuân theo một ý chí chung, theo một kế hoạch chung thống nhất và thậm chí cũng phải trong khuôn khổ một xã hội nhất định, bị hạn chế một cách nhất định. Những mong muốn của họ đan xen lẫn nhau, vì vậy trong tất cả những xã hội như vậy, tính tất yếu thống trị, mà cái bổ sung và hợp tác biểu hiện của tính tất yếu ấy là tính ngẫu nhiên. Tính tất yếu xuyên qua toàn bộ tính ngẫu nhiên ở đây, - xét đến cùng lại vẫn là tính tất yếu kinh tế”1. Tuy nhiên, đứng trước tình trạng một số người mácxít trẻ đã ngộ nhận và cho rằng chỉ có kinh tế là nguyên nhân duy nhất và có tác dụng tích cực, còn các hoạt động ý thức khác đều đóng vai trò thụ động, Ph.Ăngghen đã kịp thời chấn chỉnh lại trong thư ông gửi cho I.Bơlôkhơ vào ngày 22/9/1890. Ông viết: “C.Mác và bản thân tôi là có lỗi khi một số bạn trẻ thỉnh thoảng quá nhấn mạnh mặt kinh tế. Trong cuộc đấu tranh chống lại kẻ thù, chúng tôi buộc phải nhấn mạnh nguyên tắc chủ yếu và nguyên tắc đó đang bị họ bác bỏ, và chúng tôi không phải lúc nào cũng có thời gian, điều kiện để _____________ 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.39, tr.271-272. 26 chứng minh những tác động của nhân tố còn lại”. Trong thư gửi V.Bacquix ngày 25/01/1894, Ph.Ăngghen viết: “Sự phát triển của chính trị, luật pháp, tôn giáo, văn học và nghệ thuật... đều xây dựng trên cơ sở phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng đều tác động lẫn nhau và tác động đến cơ sở kinh tế”1. Như vậy, theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, văn hóa vừa chịu quy định của kinh tế, vừa có tác động đối với kinh tế. Mối quan hệ ở đây là mối quan hệ biện chứng, gắn bó hữu cơ với nhau. Thứ hai, khi nghiên cứu về văn hóa trong kinh tế, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh đến sự phát triển năng lực bản chất của con người tác động đến sự phát triển kinh tế. Trong sách Bản thảo triết học, C.Mác đã nhận xét: “Chúng ta nhận thấy lịch sử công nghiệp và sự tồn tại của nền công nghiệp là một quyển sách mở của lực lượng bản chất người”2. Trong công trình khác, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Của cải là gì nếu không phải là sự biểu hiện tuyệt đối của những tài năng sáng tạo của con người, không cần tiên đề nào khác ngoài sự phát triển lịch sử đã có, sự phát triển vốn lấy cái chính thể của phát triển làm mục đích tư nhân, tức là mọi lực lượng bản chất người, bất chấp quy luật đã định”3. Chính vì vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đi đến nhận xét: “Căn cứ vào mức độ tự nhiên được con người biến thành bản chất người, tức là mức độ tự nhiên được con người _____________ 1. Dẫn theo Phạm Duy Đức (Chủ biên): Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về văn hóa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr.75. 2. C.Mác và Ph.Ăngghen: Tác phẩm (tiếng Nga), t.3, tr.3. 3. C.Mác và Ph.Ăngghen: Tác phẩm (tiếng Nga), t.16, ph.I, tr.476. 27 khai thác, cải tạo thì có thể xét được trình độ văn hóa chung của con người”1. Dựa theo các đoạn trích trên đây cho thấy, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh đến các lực lượng bản chất người bao gồm sức lao động và tài năng sáng tạo là nguồn gốc và động lực để tạo ra của cải, làm giàu cho xã hội. Lực lượng bản chất người này không phải là sản phẩm tự nhiên mà chúng được sinh ra và biến đổi do tác động của các mối quan hệ xã hội và trình độ phát triển văn hóa. Các lực lượng bản chất ấy được khách thể hóa thông qua hoạt động lao động và cải tạo thế giới của con người. Giôn Échác (John Erhart) - nhà nghiên cứu người Đức nhận thấy trong hai tác phẩm Gia đình thần thánh và Hệ tư tưởng Đức của C.Mác và Ph.Ăngghen đã đặt đối lập hai quan niệm: “Lao động như một phạm trù kinh tế và lao động như hoạt động sáng tạo”2 với nhau. Nếu phương diện kinh tế của lao động là sự sản xuất ra của cải vật chất thì phương diện văn hóa của lao động là sáng tạo - biểu hiện của các lực lượng bản chất người. Đó chính là quá trình sức sáng tạo được vật thể hóa trong hoạt động thích ứng và cải tạo thế giới, trong đó có bản thân con người. C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định vai trò của nền văn hóa Hy Lạp và La Mã cổ đại, nền văn hóa Phục hưng và các thành tựu của nền văn hóa Khai sáng (thế kỷ XVIII) trong sự phát triển của lịch sử loài người. Các ông đã khẳng _____________ 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Những tác phẩm thời trẻ (tiếng Nga), Mátxcơva, 1956, tr.587. 2. Giôn Échác: Những vấn đề văn hóa và hoạt động văn hóa (tiếng Nga), Mátxcơva, 1969. 28 định các thành tựu về tư tưởng, khoa học, nghệ thuật đã góp phần tạo ra động lực để phát triển tư duy, đạo đức và tình cảm xã hội, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen đặc biệt quan tâm đến phát triển giáo dục trong chủ nghĩa cộng sản: “Công tác giáo dục sẽ làm cho những người trẻ tuổi có khả năng nắm vững nhanh chóng toàn bộ hệ thống sản xuất vật chất trong thực tiễn, làm cho họ có thể lần lượt chuyển từ ngành sản xuất này sang ngành sản xuất nọ, tùy theo nhu cầu của xã hội hoặc tuỳ theo sở thích của bản thân họ... làm cho những thành viên trong xã hội đó có khả năng sử dụng một cách toàn diện năng lực phát triển toàn diện của mình”1. Kế thừa và phát huy những quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen vào trong thực tiễn xây dựng và phát triển nước Nga - Xôviết sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917, V.I.Lênin đã nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội. V.I.Lênin nhấn mạnh đến việc cần thiết phải thay đổi tư tưởng tâm lý, tập quán, thói quen của xã hội trên sự áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản để chuyển sang xây dựng chế độ xã hội mới tốt đẹp và nhân văn hơn, trong đó vai trò của giáo dục chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. V.I.Lênin xác định nhiệm vụ của nền giáo dục mới là phải tổ chức lại hệ thống giáo dục quốc dân, xây dựng hệ thống các cơ quan văn hóa - giáo dục, xây dựng nhà trường theo nguyên tắc mới là phải đem lại cho thanh niên những kiến thức cơ bản về khoa học và tinh thần cộng sản. _____________ 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.475. 29 Trong khi thực hiện Chính sách kinh tế mới, V.I.Lênin nhận thức sâu sắc hơn về vai trò của văn hóa đối với phát triển kinh tế. Trong hầu hết các báo cáo chính trị quan trọng của mình, V.I.Lênin đều tập trung nhấn mạnh vào nhiệm vụ văn hóa. Theo Người: ““Mấu chốt lúc này” (mắt xích) = sự xa cách giữa các nhiệm vụ vĩ đại được giao phó và sự nghèo nàn không những về vật chất mà cả về văn hóa”1. Đứng trước sự cản trở của những “cái ung nhọt của xã hội cũ” để lại như tệ quan liêu, nạn tham nhũng, thói lười biếng, lề mề, vô trách nhiệm, V.I.Lênin đã cho rằng: “Trên thực chất không thể dùng những thắng lợi quân sự và những cải cách chính trị để chữa khỏi cái ung nhọt ấy mà chỉ có nâng cao trình độ văn hóa lên mới có thể chữa khỏi được”2. Theo ông, những trở ngại, khó khăn, những vấp váp, chậm trễ trong tiến trình cách mạng đều có nguồn gốc sâu xa từ văn hóa, từ trình độ hiểu biết, trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật, ý thức xã hội chậm phát triển. V.I.Lênin đã nhấn mạnh: “chúng ta buộc phải thừa nhận là toàn bộ quan điểm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã thay đổi về căn bản. Sự thay đổi căn bản là ở chỗ... trọng tâm của chúng ta đã chuyển sang hoạt động giáo dục... nếu gác tình hình quốc tế ra mà chỉ nói đến quan hệ kinh tế trong nước của chúng ta thì trọng tâm công tác của chúng ta hiện nay quả thật là xoáy vào hoạt động giáo dục”3. V.I.Lênin đã cảnh báo những khó khăn trong điều kiện phát triển kinh tế hoàn toàn khác với việc giải quyết các nhiệm vụ quân sự và chính trị: “Có thể giải quyết các nhiệm vụ chính trị và quân sự _____________ 1, 3. V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.45, tr.474, 428. 2. V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.44, tr.215. 30 bằng cách đẩy mạnh nhiệt tình, ở một trình độ giác ngộ nhất định của công nhân và nông dân. Tất cả họ đều hiểu rằng cuộc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa giết hại họ; không cần phải nâng lên một trình độ giác ngộ mới, một trình độ tổ chức mới, họ cũng hiểu được điều đó. Tinh thần hăng say, tinh thần anh dũng, tinh thần xung phong đã giúp ta giải quyết những nhiệm vụ đó... nhưng ưu điểm đó ngày nay đã trở thành khuyết điểm nguy hiểm nhất của chúng ta. Chúng ta cứ nhìn lại đằng sau và cho rằng những nhiệm vụ kinh tế cũng có thể giải quyết theo cách ấy được. Nhưng chính sai lầm là ở chỗ đó: khi tình hình đã thay đổi và chúng ta phải giải quyết những nhiệm vụ thuộc loại khác, thì không nên nhìn lại đằng sau và sử dụng những phương pháp của ngày hôm qua”1. Như vậy, V.I.Lênin đã phát triển quan điểm về văn hóa trong kinh tế của C.Mác và Ph.Ăngghen vào thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp cách mạng ở nước Nga Xôviết, phát huy giá trị văn hóa trong cuộc đấu tranh xây dựng, phát triển kinh tế, bảo đảm cơ sở vật chất vững chắc của chủ nghĩa xã hội. những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về văn hóa trong kinh tế vẫn còn mang tính chất thời sự, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn nhất định để triển khai nghiên cứu về văn hóa trong kinh tế ở Việt Nam hiện nay. b) Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế * Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa trong chính trị: Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất của dân tộc. Theo quan điểm của Người, văn _____________ 1. V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.44, tr.398. 31 hóa là những sáng tạo và phát minh ra các sản phẩm vật chất và tinh thần cũng như phương thức sử dụng các kết quả đó để đáp ứng nhu cầu sinh tồn và phát triển của con người. Điểm đặc sắc và độc đáo trong định nghĩa này là Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh đến một vấn đề rất quan trọng là phương thức sử dụng các kết quả của sự sáng tạo. Chính phương thức sử dụng này là thước đo trình độ văn hóa của con người. Nếu phương thức sử dụng đúng, nó sẽ nhân đạo hóa con người; nếu phương thức sử dụng sai, nó sẽ làm tha hóa con người. Chính vì hiểu theo nghĩa rộng này mà ngay từ năm 1942, Hồ Chí Minh đã phác họa năm nhiệm vụ của văn hóa Việt Nam là: 1) Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường; 2) Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng; 3) Xây dựng xã hội: Mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội; 4) Xây dựng chính trị: dân quyền; 5) Xây dựng kinh tế1; Như vậy, theo Hồ Chí Minh, văn hóa bao quát, thẩm thấu và tác động tới toàn bộ hoạt động làm nên diện mạo của quốc gia, bao gồm cả tâm lý, luân lý, xã hội, chính trị, kinh tế. Từ tầm nhìn này, Hồ Chí Minh đã nhận rõ vai trò của văn hóa đối với sự phát triển của quốc gia, dân tộc. Người khẳng định: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”2. Tính khoa học, nhân văn và cách mạng của văn hóa đòi hỏi văn hóa _____________ 1. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.458. 2. Xem Báo Cứu quốc, ngày 24/10/1946. 32 phải có trách nhiệm xã hội lớn lao trong việc “soi đường” cho quốc dân đi, phải đánh thức những khát vọng hướng tới cái đúng (khoa học), cái tốt (đạo đức), cái đẹp (thẩm mỹ) trong Nhân dân, tạo điều kiện để Nhân dân phát huy hết năng lực của mình trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới ấm no, tự do, hạnh phúc. Mục tiêu văn hóa trong chính trị được Hồ Chí Minh diễn đạt một cách giản dị, hàm súc và sâu sắc. Về mối quan hệ giữa văn hóa và chính trị, Hồ Chí Minh đã nêu một luận điểm rất quan trọng là “Văn hóa ở trong chính trị”1. Người khẳng định: “Văn hóa có liên lạc với chính trị rất mật thiết, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, được lười biếng, phù hoa xa xỉ. Tâm lý của ta lại muốn lấy độc lập tự do làm gốc, văn hóa phải làm thế nào cho cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do, đồng thời văn hóa phải làm cho quốc dân có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng”2. Đối với Nhân dân, Hồ Chí Minh xác định: “Văn hóa phải làm thế nào cho mỗi người dân Việt Nam từ già đến trẻ, cả đàn ông và đàn bà, ai cũng phải thể hiện nhiệm vụ của mình và biết hưởng cái hạnh phúc của mình nên được hưởng, số phận dân ta ở trong tay ta, văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”3. Như vậy, văn hóa không đứng ngoài chính trị mà ở trong chính trị, gắn bó mật thiết với chính trị. Hồ Chí Minh nêu rõ: dân tộc bị áp bức thì văn hóa cũng không có tự do. Văn hóa muốn tự do thì phải tham gia giải phóng dân tộc. Chính trị có được giải phóng thì văn hóa mới được giải phóng. _____________ 1, 2, 3. Xem Báo Cứu quốc, ngày 24/10/1946. 33 Theo Hồ Chí Minh: “Văn hóa với chính trị có quan hệ chặt chẽ với nhau. Có chính trị mới có văn hóa, xưa kia chính trị bị đàn áp, nền văn hóa của ta vì thế không nảy sinh được”1. Để phát huy vai trò của văn hóa trong chính trị, Hồ Chí Minh đề ra phương châm “Văn hóa hóa kháng chiến” và “Kháng chiến hóa văn hóa”. Văn hóa hóa kháng chiến có nghĩa là các binh chủng văn hóa và các hoạt động văn hóa phải tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến để giành độc lập dân tộc. Kháng chiến hóa văn hóa là phải nâng cao trình độ của cuộc kháng chiến của dân tộc và nhân loại, khẳng định các giá trị chân chính và nhân văn của cuộc kháng chiến, thu phục nhân tâm, lôi cuốn được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế đối với sự nghiệp chính nghĩa của Nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến này. Như vậy, chính trị phải được đặt lên tầm văn hóa, hướng tới cái đúng (chân), cái tốt (thiện), cái đẹp (mỹ) để phục vụ chính nghĩa, phục vụ lợi ích chân chính của Nhân dân, của dân tộc, phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại. Như vậy, nói rộng ra đây là “văn hóa hóa chính trị”, văn hóa phải làm cho mục tiêu và hành động chính trị mang tính nhân văn, khoa học và dân chủ. Mặt khác chính trị cũng phải “hóa văn hóa”, chính trị cũng phải chuyển thành các giá trị và các hoạt động văn hóa để thâm nhập sâu sắc vào đời sống xã hội, thuyết phục Nhân dân thực hiện các mục tiêu chính trị và nhiệm vụ chính trị. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã có nhận xét rất đúng rằng: “Tôi hình dung Hồ Chí Minh là người đem lại ánh sáng, ánh sáng văn hóa, ánh sáng cách mạng cho nhân dân ta và _____________ 1. Hồ Chí Minh: Về văn hóa, Bảo tàng Hồ Chí Minh, 1997, tr.10. 34 góp phần đem lại ánh sáng cho nhân dân nhiều nước khác, để xua tan bóng tối của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, của dốt nát, đói nghèo, bệnh tật đè nặng lên cuộc sống của các dân tộc thiểu số bị áp bức”1. Nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng đã rút ra nhận xét sâu sắc về tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh: “Tư tưởng Hồ Chí Minh tất nhiên là tư tưởng chính trị, định hướng chính trị song mang đặc thù dễ phân biệt với các tư tưởng đương thời khác ở phần lớn biểu hiện của tư tưởng dưới dạng văn hóa. Nói cách khác, tư tưởng Hồ Chí Minh tác động vào xã hội như một sức mạnh văn hóa, thuyết phục bằng cảm hóa... Tự biểu hiện đến trình độ một nền văn hóa, tư tưởng Hồ Chí Minh thâm nhập vào xã hội, ảnh hưởng đến nếp nghĩ, nếp sống hàng chục triệu người, đến quan hệ cộng đồng, và đến sự tu thân cá nhân”2. Sự chuyển hóa tư tưởng chính trị “dưới dạng văn hóa”, biến chính trị trở thành sức mạnh của văn hóa, thẩm thấu vào đời sống tinh thần, tình cảm của xã hội là phương pháp chính trị độc đáo và đặc sắc của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh xác định rõ: “Phải đem văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ”3. Trong Thư gửi các họa sĩ nhân triển lãm hội họa năm 1951, Hồ Chí Minh khẳng định: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. _____________ 1. Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh - Quá khứ, hiện tại và tương lai, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.43. 2. Trần Bạch Đằng: Tư tưởng Hồ Chí Minh - Sinh khí của một học thuyết, trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh xuất bản, Hà Nội, 1993, t.2, tr.57-58. 3. Hồ Chí Minh: Về công tác văn hóa, văn nghệ, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1971, tr.77. 35 Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy. Cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ nhất định, tức là phục vụ kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân”1. Người còn lưu ý: “Chắc có người nghĩ: Cụ Hồ đưa nghệ thuật vào chính trị. Đúng lắm. Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”2. Chính Hồ Chí Minh đã khẳng định mục tiêu chính trị trong toàn bộ các tác phẩm của mình: “Về nội dung... tất cả những bài Bác viết chỉ có một “đề tài” là: chống thực dân đế quốc, chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”3. Như vậy, mục tiêu chính trị mà Hồ Chí Minh suốt đời phấn đấu là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là “ham muốn tột bậc” và là “đề tài duy nhất” mà Người theo đuổi suốt cuộc đời. Đó chính là tư tưởng chính trị nhân văn, hành động chính trị nhất quán ở Hồ Chí Minh để phấn đấu cho một đất nước Việt Nam hòa bình, dân chủ và giàu mạnh, “ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”4. Như vậy, hệ giá trị văn hóa trong chính trị mà Hồ Chí Minh đã hướng tới là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu để giải phóng con người khỏi sự áp bức bóc lột về phương diện dân tộc, giai cấp và xã hội, đem lại tự do hạnh phúc cho Nhân dân. Giá trị văn hóa cốt lõi về chủ nghĩa xã hội mà Hồ Chí Minh quan tâm là dân giàu, nước mạnh: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu nước mạnh”5. _____________ 1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.246. 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.171. 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.187. 5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.390. 36 Để xây dựng văn hóa trong chính trị, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc nâng cao trình độ dân trí cho Nhân dân. Ngay sau khi chính quyền đã về tay Nhân dân, Hồ Chí Minh trên cương vị Chủ tịch lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa được thành lập đã tuyên bố: “Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập”1. Hồ Chí Minh đã đề ra chủ trương diệt “giặc đói”, “giặc dốt” và giặc ngoại xâm, phát huy phong trào “Bình dân học vụ”, tiếp đến là “Bổ túc văn hóa”, - phong trào văn hóa giáo dục có tính chất rộng rãi nhất trên đất nước ta để tập trung xóa nạn mù chữ, nâng cao trình độ dân trí của Nhân dân. Quan điểm về văn hóa trong chính trị ở đây chính là văn hóa trong chính trị của quảng đại quần chúng nhân dân. V.I.Lênin cũng đã từng nói, những người mù chữ đứng ngoài chính trị. Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”2. Muốn cho dân tộc phát triển thì phải diệt “giặc dốt”, nâng cao trình độ dân trí, trình độ văn hóa của Nhân dân để Nhân dân tham gia tích cực vào đời sống chính trị. Những tư tưởng chính trị vĩ đại và nhân văn của Hồ Chí Minh đã thống nhất với những tư tưởng lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin và phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Để xây dựng văn hóa trong chính trị, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng văn hóa trong Đảng và bộ máy nhà nước để lãnh đạo và quản lý đất nước thực hiện những nhiệm vụ chính trị cụ thể của từng thời kỳ cách mạng. _____________ 1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.7. 37 Đối với Đảng, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”1. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tư cách của đảng chân chính cách mạng: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng... Mọi công tác của Đảng luôn luôn phải đứng về phía quần chúng. Phải đem tinh thần yêu nước và cần, kiệm, liêm, chính mà dạy bảo cán bộ, đảng viên và nhân dân...”2. Để đánh giá về bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhà nước tư bản, đế quốc và phong kiến, Hồ Chí Minh dùng chuẩn giá trị là thiện và ác với Nhân dân để so sánh, làm rõ tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa chính là cái thiện. Hồ Chí Minh khẳng định: “Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ, thì nhân dân không ai dẫn đường. Vậy nên Chính phủ với nhân dân phải đoàn kết một khối. Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”3. Đối với Chính phủ, Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc _____________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.622. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.289. 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.64. 38 chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”1. Điều mà Hồ Chí Minh quan tâm không chỉ là lĩnh vực hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước mà Người còn đặc biệt đề cao đạo đức cách mạng, đạo đức của cán bộ, đảng viên trước Nhân dân. Đạo đức cách mạng là giá trị văn hóa cốt lõi của chính trị, dù ở bất cứ lĩnh vực nào, dù ở bất kỳ cương vị nào. Hồ Chí Minh đã xác định rõ trách nhiệm của cán bộ: “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người đem chính sách của Chính phủ, của Đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được”2. Vì vậy, Người khẳng định, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc... huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”3, trong đó tư cách của người cách mạng phải được đặt lên hàng đầu. Đây chính là giá trị đạo đức trong chính trị, một bộ phận trọng yếu của văn hóa trong chính trị. Hồ Chí Minh không chỉ đề cao đạo đức trong chính trị mà Người cũng rất đề cao phong cách, tài năng trong chính trị. Hồ Chí Minh nhận xét rất đúng rằng: “Trong các ngành hoạt động của chúng ta, nào chính trị, kinh tế, nào quân sự, văn hóa, chắc không thiếu những người có năng lực, có sáng kiến... _____________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.64-65. 2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.68, 309. 39 Nhưng vì cách lãnh đạo của ta còn kém, thói quan liêu còn nồng cho nên có những người như thế cũng bị dìm xuống, không được cất nhắc. Muốn tránh khỏi sự hao phí nhân tài, chúng ta cần phải sửa chữa cách lãnh đạo: Thí dụ: “bắt buộc trong mỗi ngành phải thiết thực báo cáo và cất nhắc nhân tài”1. Ngay từ đầu thành lập Chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh đã kêu gọi người hiền tài ra giúp nước. Người khẳng định: “Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển thêm nhiều”2. Như vậy, theo Hồ Chí Minh, văn hóa trong chính trị bao gồm cả việc đề cao đạo đức và tài năng (năng lực) trong chính trị. Những điều đó phụ thuộc vào công việc đào tạo, huấn luyện cán bộ, đảng viên. Là người am hiểu sâu sắc văn hóa dân tộc và đặc điểm của cán bộ, đảng viên tham gia vào đời sống chính trị của đất nước, Hồ Chí Minh đã dành nhiều thời gian để viết các tác phẩm Đời sống mới (20/3/1947) và Sửa đổi lối làm việc (10/1947) nhằm tuyên truyền, giáo dục và huấn luyện cán bộ, đảng viên trong lãnh đạo và quản lý đất nước. Có thể nói đây là những cuốn sách có tính chất bách khoa đối với cán bộ, đảng viên và có ý nghĩa thời sự sâu sắc đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay. Hồ Chí Minh chỉ rõ năm đức tính tốt cần thiết làm nên đạo đức cách mạng là nhân, nghĩa, dũng, trí, liêm: “Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức _____________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.281. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.114. 40 vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người. Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hoá, xấu xa thì còn làm nổi việc gì”1. Để bảo đảm xây dựng văn hóa trong tổ chức đảng, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đảng một mặt phải làm công việc giải phóng dân tộc, một mặt phải giáo dục đảng viên và cán bộ, kiên quyết cảm hóa những phần tử xấu, sửa chữa những thói xấu còn lại. Phải cố sửa chữa cho tiệt nọc các chứng bệnh, khiến cho Đảng càng mạnh khỏe, bình an”2. Theo Hồ Chí Minh, giá trị cốt lõi của người đảng viên chân chính là thực hiện bổn phận của mình gồm: “a) Suốt đời đấu tranh cho dân tộc, cho Tổ quốc. b) Đặt lợi ích của cách mạng lên trên hết, lên trước hết. c) Hết sức giữ kỷ luật và giữ bí mật của Đảng. d) Kiên quyết thi hành những nghị quyết của Đảng. đ) Cố gắng làm kiểu mẫu cho quần chúng trong mọi việc. e) Cố gắng học tập chính trị, quân sự, văn hóa. Phải gần gũi quần chúng, học hỏi quần chúng, cũng như phải lãnh đạo quần chúng”3. Hồ Chí Minh yêu cầu phải nâng cao tính đảng của mỗi đảng viên. Tính đảng thể hiện ở việc phải đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết; việc gì cũng phải làm cẩn thận, _____________ 1, 2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.292, 303, 306. 41 đến nơi, đến chốn; lý luận và thực hành phải đi đôi với nhau. Đồng thời, Người cũng chỉ rõ các căn bệnh làm tổn hại đến rèn luyện tính đảng. Đó là các bệnh ba hoa, bệnh địa phương, bệnh ham danh vị, bệnh thiếu kỷ luật, bệnh cẩu thả (gặp sao hay vậy), bệnh xa quần chúng, bệnh chủ quan, bệnh hình thức, bệnh ích kỷ, bệnh hủ hóa, bệnh thiếu ngăn nắp, bệnh lười biếng. Mắc phải một trong những bệnh đó tức là hỏng việc. Theo Người: “chúng ta phải ráo riết dùng phê bình và tự phê bình để giúp nhau chữa cho hết những bệnh ấy. Có như thế Đảng mới chóng phát triển”1. Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa, muốn có con người xã hội chủ nghĩa phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa, muốn có tư tưởng xã hội chủ nghĩa phải gột rửa tư tưởng cá nhân chủ nghĩa”2. Theo Người, chủ nghĩa cá nhân là nguyên nhân đẻ ra các căn bệnh làm hại đến sự phát triển của đất nước. Đối với Hồ Chí Minh, xác định giá trị văn hóa trong chính trị phải được cụ thể hóa đối với từng đối tượng cụ thể, từng ngành, từng lĩnh vực, từng lứa tuổi, từng giai cấp và tầng lớp khác nhau trong xã hội để có thể thực hành được trong đời sống. Đối với ngành Công an, Hồ Chí Minh đã xác định tư cách người công an cách mạng là: “Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính, Đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ. Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành. Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép. _____________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.307. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.11. 42 Đối với công việc, phải tận tụy. Đối với địch, phải cương quyết, khôn khéo”1. Đối với Quân đội, Hồ Chí Minh xác định: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Cán bộ và chiến sĩ thương yêu nhau như ruột thịt, chia ngọt sẻ bùi. Quân với dân như cá với nước, đoàn kết một lòng, học hỏi, giúp đỡ lẫn nhau”2. Đối với thanh niên, Người căn dặn: “Không có việc gì khó. Chỉ sợ lòng không bền. Đào núi và lấp biển. Quyết chí ắt làm nên”3. Đối với thiếu niên, Người có năm điều dạy các cháu: - Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào - Học tập tốt, lao động tốt - Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt - Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm. Đối với các cụ phụ lão, Hồ Chí Minh rất trân trọng và động viên các cụ: “Tuổi già nhưng chí không già Góp phần xây dựng nước nhà phồn vinh”4. _____________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.498-499. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.435. 3. Bài thơ Hồ Chí Minh tặng Đơn vị thanh niên xung phong 321 làm đường tại xã Cẩm Giàng, Bạch Thông, Bắc Kạn, ngày 28/3/1951. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.440. 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.338. 43 Như vậy con đường đi từ chính trị đến với nhân dân là con đường văn hóa - con đường vừa thuyết phục bằng trí tuệ và tình cảm để thu phục nhân tâm, vừa khích lệ được tính tích cực, chủ động của các đối tượng khác nhau tự vươn lên tham gia vào đời sống chính trị. Chiều sâu của các giá trị văn hóa mà Hồ Chí Minh đưa đến cho chính trị ở đây chính là sức cảm hoá, sức thuyết phục từ trái tim đến trái tim, từ trái tim vĩ đại của một nhân cách vĩ đại tới trái tim của hàng triệu người dân bằng những lời nói, hành động tác phong giản dị, hàm súc, có sức lan tỏa mạnh mẽ. Văn hóa trong chính trị ở Hồ Chí Minh chính là làm cho các giá trị văn hóa thấm sâu vào đời sống của từng cá nhân và cộng đồng, từ đội ngũ cán bộ, đảng viên trong tổ chức đảng và nhà nước đến các tầng lớp, các lĩnh vực khác nhau trong xã hội để xác lập uy tín chính trị và tạo sự đồng thuận trong chính trị, huy động được sức mạnh đại đoàn kết của Nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhận thức sâu sắc và toàn diện tư tưởng về văn hóa trong chính trị ở Hồ Chí Minh giúp chúng ta có phương hướng và giải pháp cụ thể để xây dựng văn hóa trong chính trị ở thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đặc biệt là trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI và khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. * Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa trong kinh tế: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa trong kinh tế là hệ thống quan điểm nhân văn và khoa học trong xây dựng nền kinh tế Việt Nam hướng tới các giá trị chân, thiện, mỹ, phấn đấu tất cả vì hạnh phúc của con người, của nhân dân lao động. Khi bàn về mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, 44 Người nhấn mạnh rằng nền văn hóa dân tộc phải được thể hiện cả trong “xây dựng kinh tế”1. Đây không chỉ là mối quan hệ tương tác lẫn nhau mà là mối quan hệ có ý nghĩa thẩm thấu và lan tỏa các giá trị văn hóa vào trong hoạt động kinh tế, làm cho văn hóa trở thành bộ phận cấu thành của kinh tế, nội lực để thúc đẩy kinh tế phát triển. Nhận thức đầy đủ và toàn diện tư tưởng văn hóa trong kinh tế của Hồ Chí Minh sẽ góp phần định hướng cho quá trình xây dựng văn hóa trong kinh tế ở nước ta hiện nay. Có thể làm rõ tư tưởng văn hóa trong kinh tế của Hồ Chí Minh ở các nội dung chủ yếu sau: Thứ nhất, văn hóa trong kinh tế thể hiện ở mục tiêu và tầm nhìn đối với sự phát triển kinh tế. Trong bài phát biểu tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban Nghiên cứu kế hoạch kiến quốc ngày 10/01/1946, Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”2. Và Người xác định rõ mục tiêu của kế hoạch kiến quốc: “Chúng ta phải thực hiện ngay: 1. Làm cho dân có ăn. 2. Làm cho dân có mặc. 3. Làm cho dân có chỗ ở. 4. Làm cho dân có học hành. Cái mục đích chúng ta đi đến là bốn điều đó. Đi đến để dân nước ta xứng đáng với tự do độc lập và giúp sức cho tự do độc lập”3. _____________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.458. 2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.175. 45 Tư tưởng nhân văn vĩ đại của Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ trong mục đích phát triển đất nước nói chung, phát triển kinh tế nói riêng của Người. Quan tâm đến mục tiêu phát triển kinh tế vì con người, vì Nhân dân là mục tiêu bao trùm, xuyên suốt và nhất quán ở Hồ Chí Minh. Người xác định rõ phương châm hành động cách mạng nói chung cũng như hành động kinh tế nói riêng là: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”1. Tầm nhìn chiến lược của Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã được Người đúc kết trong một luận điểm tổng quát là: “đặc điểm to nhất của nước ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa... Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội”2. Từ đặc điểm to nhất của nước ta trong thời kỳ quá độ này mà Hồ Chí Minh đã chỉ rõ đặc điểm của nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong Báo cáo về dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 18/12/1959, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Trong nước ta hiện nay có những hình thức sở hữu chính về tư liệu sản xuất như sau: - Sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân. - Sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động. _____________ 1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.65, 411-412. 46 - Sở hữu của người lao động riêng lẻ. - Một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản”1. Người nhấn mạnh rằng: “kinh tế quốc doanh là hình thức sở hữu của toàn dân, nó lãnh đạo nền kinh tế quốc dân và Nhà nước phải bảo đảm cho nó phát triển ưu tiên. ... kinh tế hợp tác xã là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động, Nhà nước đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ cho nó phát triển... Đối với người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác, Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của họ, ra sức hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất theo nguyên tắc tự nguyện. Đối với những nhà tư sản công thương, Nhà nước không xóa bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ, mà ra sức hướng dẫn họ hoạt động nhằm làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của Nhà nước”2. Tầm nhìn về văn hóa trong kinh tế của Hồ Chí Minh còn được thể hiện ở vai trò của nông nghiệp trong phát triển kinh tế ở nước ta. Ngay trong Thư gửi điền chủ nông gia Việt Nam, ngày 11/4/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nước nhà, Chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn. Nông dân ta giàu thì nước giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh”3. Theo Người, phát triển nông nghiệp là điểm _____________ 1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.372, 373. 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.246. 47 xuất phát, là nền tảng để phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa, là cơ sở để tích lũy cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Điều này hoàn toàn phù hợp quy luật phát triển kinh tế ở một nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong Chính sách kinh tế mới, V.I.Lênin đã chủ trương, phải bắt đầu từ kinh tế nông dân, phải chấn hưng kinh tế nông nghiệp. V.I.Lênin đã coi nông nghiệp là nhân tố đột phá đầu tiên để mở mang nền sản xuất, tạo tiền đề cần thiết cho phát triển kinh tế của đất nước. Rất tiếc rằng những tư tưởng khoa học và nhân văn về kinh tế này đã không được quán triệt trong chính sách và hành động thực tiễn trong thời kỳ trước đổi mới, dẫn đến việc xóa bỏ nền kinh tế nhiều thành phần, góp phần đưa đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. Từ khi bắt tay vào công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước đã nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn tư tưởng kinh tế của Hồ Chí Minh, quán triệt trong đường lối, chính sách kinh tế, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, tạo nên động lực cho kinh tế Việt Nam phát triển liên tục trong bối cảnh kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh trong phát triển kinh tế còn được thể hiện ở sự khuyến khích của Người đối với mọi thành viên trong xã hội tham gia làm giàu cho mình và cho đất nước. Theo Hồ Chí Minh, phát triển kinh tế là để mọi người, kể cả người giàu và người nghèo đều được hưởng lợi, ngày càng khá giả hơn. Ngay trong tác phẩm Thường thức về chính trị (1953), Hồ Chí Minh đã khái quát chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ gồm có mấy điều: “1. Công tư đều lợi. Kinh tế quốc doanh là công. Nó là nền tảng và sức lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới. Cho nên 48 chúng ta phải ra sức phát triển nó và nhân dân ta phải ủng hộ nó. Đối với những người phá hoại nó, trộm cắp của công, khai gian lậu thuế, thì phải trừng trị. Tư là những nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá nhân của nông dân và thủ công nghệ. Đó cũng là lực lượng cần thiết cho cuộc xây dựng kinh tế nước nhà. Cho nên Chính phủ cần giúp họ phát triển. Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phải hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân. 2. Chủ thợ đều lợi. Nhà tư bản thì không khỏi bóc lột. Nhưng Chính phủ ngăn cấm họ bóc lột công nhân quá tay. Chính phủ phải bảo vệ lợi quyền của công nhân. Đồng thời, vì lợi ích lâu dài, anh chị em thợ cũng để cho chủ được số lợi hợp lý, không yêu cầu quá mức. Chủ và thợ đều tự giác tự động, tăng gia sản xuất lợi cả đôi bên. 3. Công nông giúp nhau. Công nhân ra sức sản xuất công cụ và các thứ cần dùng khác, để cung cấp cho nông dân. Nông dân thì ra sức tăng gia sản xuất, để cung cấp lương thực và các thứ nguyên liệu cho công nhân. Do đó mà càng thắt chặt liên minh giữa công nông. 4. Lưu thông trong ngoài: Ta ra sức khai lâm thổ sản để bán cho các nước bạn và để mua những thứ ta cần dùng. Các nước bạn mua những thứ ta đưa ra và bán cho ta những hàng hóa ta chưa chế tạo được. Đó là chính sách mậu dịch, giúp đỡ nhau rất có lợi cho kinh tế ta. Bốn chính sách ấy là mấu chốt để phát triển kinh tế của nước ta”1. _____________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.267. 49 Phải chăng đây chính là tư tưởng phát triển bao trùm, phát triển bền vững ở các lĩnh vực, các thành phần kinh tế khác nhau mà thế giới đang hướng tới. Tầm nhìn nhân văn về phát triển kinh tế của Hồ Chí Minh và những định hướng phát triển kinh tế của Người là cơ sở tư tưởng để chúng ta tiếp thu, kế thừa nhằm phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Những nhận thức này chính là nhân tố văn hóa trong kinh tế, tác động đến các quyết định về chính sách kinh tế của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thứ hai, văn hóa trong kinh tế là phát huy các giá trị văn hóa trong phát triển kinh tế, chống các tiêu cực trong kinh tế. Một nội dung đặc sắc về “văn hóa trong kinh tế” của Hồ Chí Minh là Người luôn luôn nhấn mạnh tinh thần tiết kiệm, một giá trị quan trọng trong truyền thống văn hóa dân tộc. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm... tăng gia phải đi đôi với tiết kiệm”1. “Sản xuất mà không tiết kiệm thì như gió vào nhà trống”2. Người chỉ rõ: “Tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là con đường đi đến xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, xây dựng hạnh phúc cho nhân dân. Tăng gia là tay phải của hạnh phúc, tiết kiệm là tay trái của hạnh phúc”3. Tiết kiệm ở đây không chỉ có ý nghĩa như một nội dung kinh tế mà còn liên quan đến hạnh phúc của con người. Trong tác phẩm Đời sống mới, Hồ Chí Minh xác định tăng gia sản xuất là một bộ phận của đời sống mới. Có tinh thần đời sống mới, thì tăng gia sản xuất mới chóng thành công. _____________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.551. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.600. 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.311. 50 Mà tăng gia sản xuất có thành công, thì đời sống mới dễ thực hiện. Người nhấn mạnh: “Muốn gia tăng sản xuất, mọi người phải Cần, phải Kiệm. Không Cần, thì phí thời giờ nhiều mà sản xuất được ít. Không Kiệm thì làm được bao nhiêu, dùng hết bấy nhiêu, rút cục cũng như sản xuất ít. Tăng gia sản xuất ích riêng cho mình mà cũng ích chung cho cả nước. Nếu không có tinh thần Liêm và Chính, nếu tham lam ích kỷ, thì không thể phát đạt việc tăng gia sản xuất. Vì vậy, tăng gia sản xuất và đời sống mới phải đi đôi với nhau, không thể lìa nhau”1. Bên cạnh việc đề cao các giá trị văn hóa đạo đức cần, kiệm, liêm, chính trong hoạt động kinh tế, Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đấu tranh chống tình trạng tham ô, lãng phí, quan liêu. Người khẳng định: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân”2. Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Vì những người và những cơ quan lãnh đạo mắc bệnh quan liêu thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững. Kết quả là những người xấu, những cán bộ kém tha hồ tham ô, lãng phí. Thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ô, lãng phí”3. Hồ Chí Minh đã đề cao trách nhiệm của Nhân dân trong công cuộc chiến đấu gian khổ này: “Nhiệm vụ của quần chúng là phải hăng hái tham gia phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu... Tham ô, lãng phí, quan liêu là một thứ “giặc ở trong lòng”. Nếu chiến sĩ và nhân dân ra sức chống _____________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.116. 2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.357. 51 giặc ngoại xâm mà quên chống giặc nội xâm, như thế là chưa làm tròn nhiệm vụ của mình. Vì vậy, chiến sĩ và nhân dân phải hăng hái tham gia phong trào ấy”1. “Nếu không kiên quyết chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh, lãng phí, tham ô, thì nó sẽ cản trở, phá hoại ta tiến lên chủ nghĩa xã hội”2. Trong các bệnh đó, Hồ Chí Minh cho rằng: “Tham ô là hành động xấu xa nhất, tội lỗi, đê tiện nhất trong xã hội. Tham ô là trộm cắp của công, chiếm của công làm của tư. Nó làm hại đến sự nghiệp xây dựng nước nhà; hại đến công việc cải thiện đời sống của nhân dân; hại đến đạo đức cách mạng của người cán bộ và công nhân”3. Vì vậy, theo Hồ Chí Minh cần mở một cuộc vận động nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế tài chính, chống tham ô, lãng phí, quan liêu là yêu cầu cấp bách và thường xuyên để bảo đảm cho nền kinh tế phát triển lành mạnh. Tư tưởng này đến nay vẫn còn mang tính thời sự. Thứ ba, văn hóa trong kinh tế là phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục - đào tạo để thúc đẩy kinh tế phát triển. Trong quá trình lãnh đạo Nhân dân bước vào thời kỳ hòa bình, xây dựng và phát triển đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc về vai trò và nhiệm vụ của khoa học và kỹ thuật trong sự nghiệp cách mạng này. Theo Người, khoa học và kỹ thuật không chỉ lực lượng sản xuất trực tiếp mà còn là động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Hồ Chí Minh đã nhận xét: “Chúng ta đều biết rằng trình độ khoa học, kỹ thuật của ta hiện nay còn _____________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.362-363. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.503. 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.141. 52 thấp kém. Lề lối sản xuất chưa cải tiến được nhiều. Cách thức làm việc còn nặng nhọc. Năng suất lao động còn thấp kém... Nhiệm vụ của khoa học là ra sức cải biến những cái đó... Khoa học phải từ sản xuất mà ra và phải trở lại phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm nâng cao năng suất lao động và không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân, bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi”1. Vai trò của khoa học và kỹ thuật được Hồ Chí Minh khẳng định là điều kiện thiết yếu để nâng cao năng suất lao động, cải thiện đời sống của Nhân dân và bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi. Như vậy, khoa học và kỹ thuật không chỉ là nền tảng, là động lực phát triển kinh tế mà còn là tiền đề bảo đảm cho sự thắng lợi về mục tiêu chính trị. Người nhấn mạnh: “Chủ nghĩa xã hội cộng với khoa học, chắc chắn sẽ đưa loài người đến hạnh phúc vô tận”2. “Cách mạng xã hội chủ nghĩa gắn liền với sự phát triển khoa học và kỹ thuật, với sự phát triển văn hóa của nhân dân”3. Người chỉ rõ: “nhiệm vụ của khoa học, kỹ thuật là cực kỳ quan trọng, cho nên mọi ngành, mọi người đều phải tham gia công tác khoa học, kỹ thuật, để nâng cao năng suất lao động, sản xuất ra nhiều của cải vật chất, để xây dựng chủ nghĩa xã hội thắng lợi”4. Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của vấn đề dân chủ trong việc phát triển khoa học và kỹ thuật. Dân chủ ở đây là bảo đảm cho tất cả mọi người đều được tham gia vào hoạt động khoa học, kỹ thuật; tham gia vào học tập, nghiên cứu, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, thúc đẩy _____________ 1, 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.96-97, 97. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.354. 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.371 53 năng suất lao động phát triển. Dân chủ trong khoa học và kỹ thuật là bảo đảm công bằng, tự do, dân chủ, công khai trong mọi sinh hoạt khoa học, kỹ thuật, tôn trọng tài năng, khuyến khích và giúp đỡ tài năng khoa học, kỹ thuật phát triển. Một trong những vấn đề mà Hồ Chí Minh quan tâm là công tác giáo dục - đào tạo con người cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội nói riêng, cho xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung. Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”1. Ngay sau Lễ tuyên bố độc lập một ngày, Hồ Chí Minh đã xác định: “Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập”2. Hồ Chí Minh rất quan tâm đến mục tiêu định hướng xây dựng con người: “Ta xây dựng con người cũng phải có ý định rõ ràng như nhà kiến trúc. Định xây dựng ngôi nhà như thế nào rồi mới dùng gạch, vữa, vôi cát, tre gỗ... mà xây nên”3. Theo Người, con người mà chúng ta mong muốn là con người xã hội chủ nghĩa, vừa có đức, vừa có tài, có tinh thần yêu nước, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, sẵn sàng phấn đấu hy sinh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì tự do, hạnh phúc của Nhân dân. Một tư tưởng đặc sắc của Hồ Chí Minh để thúc đẩy sản xuất phát triển là kết nối trí thức với công - nông thông qua _____________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.66. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.7. 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.665. 54 chủ trương trí thức hóa công - nông và công - nông hóa trí thức. Người viết: “Đào tạo... trí thức công nông hóa... nghĩa là công nông cần học tập văn hóa để nâng cao trình độ tri thức của mình, tri thức cần gần gũi công nông và học tập tinh thần, nghị lực, sáng kiến và kinh nghiệm của công nông”1. Sự gắn kết chặt chẽ giữa hai nhóm chủ thể quan trọng là trí thức và công - nông là cơ sở để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội phát triển. Nhìn lại những tư tưởng của Hồ Chí Minh về văn hóa trong kinh tế, chúng ta có thể rút ra những bài học bổ ích và thiết thực, vận dụng vào trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế hiện nay. c) Mối quan hệ giữa văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế Trong tổng thể hệ thống xã hội, mối quan hệ giữa văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế không phải là mối quan hệ lệ thuộc của chính trị vào kinh tế hay kinh tế lệ thuộc vào chính trị, mà giữa chúng có mối quan hệ biện chứng, gắn bó, tương tác, ảnh hưởng qua lại và hô ̃ trợ lâ ̃n nhau. Văn hóa trong chính trị thể hiện tầm nhìn về quyền lực và sức mạnh của chính trị trong việc xác định đường lối phát triển kinh tế của quốc gia. Lý tưởng chính trị, hệ tư tưởng chính trị đóng vai trò quyết định đối với đường lối xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội. Thông qua việc xác lập thể chế chính trị và thể chế kinh tế, các giá trị văn hóa trong chính trị quy định chức năng, nhiệm vu ̣, phương hướng, chính sách _____________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.72-73. 55 phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, đạo đức trong chính trị, trong các chủ thể chính trị khác nhau có tác động mạnh mẽ tới đạo đức trong kinh tế, có thể thúc đẩy kinh tế phát triển lành mạnh thông qua cơ chế hoạt động minh bạch, công khai, trách nhiệm giải trình, thực hiện dân chủ của bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế. Đồng thời, những yếu kém trong văn hóa chính trị được thể hiện ở sự yếu kém về thể chế, về đạo đức công chức, công vụ, tình trạng quan liêu, tham nhũng, hối lộ, chuyên quyền, mất dân chủ... cũng dâ ̃n đến kìm hãm sự phát triển của nền sản xuất. Quá trình đổi mới tư duy của Đảng, đặc biệt là đổi mới tư duy về mô hình chế độ xã hội chủ nghĩa mà Nhân dân ta xây dựng, đổi mới nhận thức về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và những đặc điểm của thời kỳ quá độ... là những tiền đề cơ bản để Đảng ta đổi mới tư duy về kinh tế, nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn về mô hình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam..., từ đó xác định những chính sách kinh tế phù hợp. Như vậy, đổi mới tư duy trong chính trị chính là một bộ phận cốt lõi của văn hóa trong chính trị, có vai trò to lớn để định hướng văn hóa trong kinh tế. Sự tác động của văn hóa trong chính trị đối với văn hóa trong kinh tế được thể hiện tập trung nhất ở đạo đức, nhân cách của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, của đội ngũ công chức, viên chức tham gia vào xây dựng đường lối, chính sách phát triển kinh tế và quản lý kinh tế. Mọi chủ trương, chính sách, luật pháp, thể chế đều thông qua hoạt động thực tiê ̃n của con người mới đi vào cuộc sống. Đạo đức công chức, công vụ lành mạnh làm giảm các chi phí tiêu cực, kích thích sự cạnh tranh lành mạnh của nền kinh tế và ngược lại. Vì vậy, 56 xây dựng đạo đức công chức, công vụ đóng vai trò hàng đầu trong xây dựng văn hóa trong chính trị, đồng thời có tác động tích cực tới xây dựng văn hóa trong kinh tế hiện nay. Ảnh hưởng của văn hóa trong kinh tế đối với văn hóa trong chính trị diê ̃n ra theo xu hướng thuận chiều. Nếu các giá trị văn hóa trong kinh tế được phát huy theo chiều hướng tích cực và tiến bộ, đề cao cái đúng, cái tốt, cái đẹp trong hoạt động kinh tế sẽ giúp cho văn hóa trong chính trị được củng cố và phát triển lành mạnh. Ngược lại, nếu các giá trị văn hóa không được thẩm thấu vào trong hoạt động kinh tế, để cho tình trạng tiêu cực xuất hiện tràn lan như làm hàng giả, hàng kém chất lượng, tình trạng buôn gian bán lận, tranh cướp, trốn thuế, buôn lậu, chạy theo tìm kiếm lợi nhuận bằng mọi giá, bất chấp đạo đức và pháp luật... sẽ tác động tiêu cực đến văn hóa trong chính trị, làm cho chính trị bị lũng đoạn, tha hóa, thậm chí đe dọa sự tồn vong của chế độ chính trị. Vì vậy, mối quan hệ giữa văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế là mối quan hệ tương hô ̃, hoặc bổ sung thúc đẩy lâ ̃n nhau cùng phát triển, hoặc cản trở lâ ̃n nhau, làm suy thoái lâ ̃n nhau. Điểm tương đồng giữa văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế là cả hai lĩnh vực này đều phải lấy các giá trị văn hóa làm nền tảng. Đó là cái đúng (khoa học), cái tốt (đạo đức), cái đẹp (thẩm mỹ) làm điểm tựa và là mục tiêu phấn đấu. Đồng thời, cả hai lĩnh vực này đều dựa vào chủ thể là con người, được giáo dục và đào tạo trong một nền văn hóa nhất định. Vì vậy, vấn đề xây dựng con người, đặc biệt là xây dựng con người về tư tưởng, đạo đức, lối sống là vấn đề cốt lõi để tạo nên động cơ chính trị và động cơ kinh tế lành mạnh. Văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế đều phải 57 dựa trên nền tảng của giáo dục, luật pháp và đạo đức xã hội, đều phải dựa trên những giá trị văn hóa cơ bản là chân, thiện, mỹ. Nếu chính trị và kinh tế không dựa trên nền tảng này để phát triển thì chắc chắn sẽ bị suy thoái và đổ vỡ. Điều khác biệt cơ bản giữa văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế là ở đặc trưng của mô ̃i lĩnh vực này. Nếu đặc trưng của văn hóa trong chính trị là đạo đức quyền lực, đạo đức của người có quyền lực chính trị và ý nghĩa của việc sử dụng quyền lực chính trị thì đặc trưng của văn hóa trong kinh tế là đạo đức của người tìm kiếm lợi ích vật chất, tìm kiếm của cải thặng dư và sử dụng nguồn của cải đó. Tuy vậy, hành vi văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế này lại bị quy định bởi lý tưởng chính trị và ý nghĩa của cuộc sống mà con người lựa chọn trên cơ sở định hướng giá trị xã hội chung. Việc xây dựng văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế mà Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI nêu ra là hết sức cần thiết để góp phần tạo động lực cho quá trình phát triển bền vững của đất nước. Trong quá trình xây dựng văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế, chúng ta không chỉ khai thác và phát huy các giá trị văn hóa, các hoạt động văn hóa; không chỉ tập trung xây dựng con người và môi trường văn hóa trong chính trị và kinh tế mà còn tập trung xây dựng thể chế chính trị và thể chế kinh tế để kiến tạo văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế. Trong công trình nghiên cứu nổi tiếng của hai học giả Daron Acenmoglu và James A.Robinson là Nguồn gốc của quyền lực, thịnh vượng và nghèo đói. Tại sao các quốc gia thất bại? đã chứng minh rằng những thể chế chính trị và 58 thể chế kinh tế do con người tạo ra là nguyên nhân căn bản của thành công (hay không thành công) về kinh tế1. Tuy nhiên, chính các tác giả trong công trình này cũng xác nhận văn hóa có vai trò quan trọng trong xây dựng thể chế chính trị và thể chế kinh tế. Khi quyền về chính trị được mở rộng, thì người dân sử dụng những quyền ấy để tiếp tục mở rộng cơ hội phát triển kinh tế của họ. Những mong muốn tìm kiếm nguyên nhân của sự đói nghèo hay giàu có từ động lực lịch sử hay động lực văn hóa của các xã hội là những gợi ý có ý nghĩa để nhận thức sâu sắc hơn về mối quan hệ giữa văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế hiện nay. d) Vai trò của văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế đối với sự phát triển bền vững đất nước - Văn hóa là nền tảng tinh thần để chính trị và kinh tế phát triển lành mạnh: Trong đời sống xã hội, chính trị và kinh tế là hai lĩnh vực cơ bản có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát triển của xã hội. Nếu kinh tế là nhân tố cơ bản để tạo nên cơ sở vật chất của xã hội thì chính trị là nhân tố có ý nghĩa quyết định sự ổn định và phát triển của xã hội. Bất cứ chế độ chính trị và thể chế kinh tế nào cũng đều dựa trên nền tảng văn hóa của dân tộc, gắn liền với các truyền thống, các giá trị và chuẩn mực văn hóa của dân tộc đó. Các giá trị và chuẩn mực văn hóa này thẩm thấu, lan tỏa vào trong chính trị và trong kinh tế, tạo thành điểm tựa tinh _____________ 1. Xem Daron Acenmoglu và James A.Robinson: Nguồn gốc quyền lực, thịnh vượng và nghèo đói. Tại sao các quốc gia thất bại?, Trần Thị Kim Chi biên dịch với sự hợp tác của Hoàng Thạch Quân và Hoàng Ngọc Lan, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2016, tr.22-23. 59 thần của chính trị và kinh tế trong một cộng đồng xã hội nhất định. Trong nền văn hóa Việt Nam, giá trị chủ đạo xuyên suốt lịch sử dựng nước và giữ nước của Nhân dân là chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đại đoàn kết dân tộc, truyền thống nhân đạo, tinh thần trọng đạo lý, trọng tình nghĩa, cần cù, dũng cảm, lạc quan, yêu đời v.v.. Những giá trị văn hóa này thẩm thấu và lan tỏa vào các hoạt động chính trị và kinh tế góp phần định hướng, đánh giá và điều chỉnh các hoạt động chính trị và kinh tế, tạo thành bản sắc và bản lĩnh của dân tộc trong chính trị và kinh tế, nâng cao sức mạnh của chế độ chính trị và khả năng phát triển của nền kinh tế. Vì vậy, kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa trong chính trị và trong kinh tế để phát triển đất nước là yêu cầu cấp thiết hiện nay. - Văn hóa là động lực để xây dựng, phát triển kinh tế và chính trị: Bản chất của văn hóa là sự sáng tạo hướng tới cái đúng (chân), cái tốt (thiện) và cái đẹp (mỹ), hay nói cách khác là hướng tới các giá trị nhân văn, đề cao con người, đặt con người vào vị trí trung tâm của quá trình phát triển. Đưa văn hóa vào trong chính trị và trong kinh tế nhằm mục tiêu xây dựng một chế độ chính trị nhân văn, mỗi người vì mọi người, bảo đảm tự do, bình đẳng cho con người, tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi để con người được tự do và hạnh phúc. Vì vậy, các giá trị văn hóa tốt đẹp cũng chính là mục tiêu để xây dựng văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế. Xây dựng văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế là hướng tới mục tiêu xây dựng một chế độ chính trị nhân văn, một nền kinh tế nhân đạo, phát triển kinh tế bền 60 vững và bao trùm, bảo đảm cho mọi người đều được thụ hưởng thành quả của phát triển kinh tế và không ai bị bỏ lại phía sau. Văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế là động lực để phát triển bền vững đất nước. Văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế là hai lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội có sức lan tỏa sâu sắc và toàn diện tới các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế được xây dựng vững chắc chính là hai “cột trụ” để xây dựng văn hóa trong các lĩnh vực xã hội khác, làm cho văn hóa thấm sâu vào đời sống xã hội và sinh hoạt của con người, góp phần tạo lập môi trường văn hóa lành mạnh để bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước. Văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế góp phần nâng cao trình độ và chất lượng cuộc sống của con người, tạo cơ hội và điều kiện cho con người tham gia tích cực vào đời sống chính trị và đời sống kinh tế, thúc đẩy quá trình dân chủ hóa xã hội, kích thích năng lực sáng tạo, chủ động của con người trong việc xây dựng chế độ chính trị vững mạnh và phát triển kinh tế phồn vinh. Sự phát triển con người sẽ góp phần tích cực vào xây dựng văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế. Đồng thời, môi trường văn hóa trong chính trị và trong kinh tế phát triển lành mạnh cũng là nguồn dinh dưỡng để phát triển nguồn lực con người trong chính trị và trong kinh tế. - Văn hóa trong chính trị và trong kinh tế phát triển góp phần đẩy lùi các tiêu cực và tệ nạn xã hội, đặc biệt là đấu tranh chống sự suy thoái về tư tưởng đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. 61 Công cuộc đổi mới ở nước ta diễn ra hơn 30 năm qua đã đem lại những “thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử”, nhưng đồng thời cũng đang đặt ra những thách thức mới, nhất là tình trạng suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống diễn ra phức tạp trong cán bộ, đảng viên và trong Nhân dân, gây bất bình trong xã hội, làm giảm sút niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, thậm chí đe dọa sự tồn vong của chế độ chính trị và phá hoại các thành tựu kinh tế đã đạt được. Vì vậy, xây dựng văn hóa trong chính trị và trong kinh tế nhằm nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển nhanh, bền vững và lành mạnh là điều kiện cơ bản và cấp thiết để đấu tranh chống lại các tiêu cực xã hội và tệ nạn xã hội, tạo lập môi trường tinh thần lành mạnh cho sự phát triển bền vững của đất nước. - Văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế có vai trò quan trọng trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chống lại âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, góp phần bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Chính trị và kinh tế là trụ cột để tạo nên “sức mạnh cứng” của quốc gia. Trong bối cảnh diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế hiện nay, các quốc gia, các dân tộc vừa cạnh tranh, vừa hợp tác để phát triển. Mặc dù trong hơn 30 năm đổi mới vừa qua, thế và lực của Việt Nam trên trường quốc tế đã có những bước tiến quan trọng nhưng các thế lực thù địch vẫn chưa từ bỏ âm mưu “diễn biến hòa bình”, lợi dụng các vấn đề “tôn giáo”, “dân tộc”, “dân chủ”, “nhân quyền” để can thiệp vào công việc nội bộ, hòng thay 62 đổi chế độ chính trị ở nước ta. Vấn đề tranh chấp lãnh thổ, biển đảo, tranh giành ảnh hưởng của các nước lớn ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương và khu vực Biển Đông diễn ra phức tạp, khó lường. Vì vậy, xây dựng văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế, đề cao các giá trị tinh thần của dân tộc trong chính trị và trong kinh tế, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, đấu tranh phê phán, phản bác các quan điểm sai trái của các thế lực quốc tế về các vấn đề chính trị, kinh tế ở Việt Nam hiện nay là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, góp phần vào bảo đảm an ninh, quốc phòng, làm thất bại mọi âm mưu phá hoại sự nghiệp đổi mới, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới. đ) Một số lý thuyết nghiên cứu về văn hóa trong chính trị và trong kinh tế - Tiếp cận theo lý thuyết hình thái kinh tế - xã hội: Nghiên cứu về văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế ở Việt Nam hiện nay cần xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, xem xét văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế trong mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội với kiến trúc thượng tầng, trước hết là mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Chính trị và kinh tế là hai bộ phận rất cơ bản của một hình thái kinh tế - xã hội, có tác động hữu cơ mật thiết với nhau. Mặt khác, văn hóa và chính trị là hai bộ phận khác nhau của kiến trúc thượng tầng đều chịu sự quy định của tồn tại xã hội, chịu sự quy định của cơ sở kinh tế - xã hội nhưng 63 đều tác động năng động đến cơ sở hạ tầng, hoặc là thúc đẩy hoặc là kìm hãm sự phát triển của cơ sở hạ tầng. Ở đây, cần chú ý đến tính đặc thù đối với sự tác động của văn hóa và chính trị đối với kinh tế. Văn hóa tác động tới kinh tế thông qua sức mạnh của truyền thống, của lối sống, phong tục, tập quán trong quá khứ và những tri thức, những sáng tạo về khoa học, công nghệ và trình độ, về kinh nghiệm và đạo đức trong sản xuất, kinh doanh và dịch vụ... Chính trị tác động đến kinh tế thông qua đường lối, chính sách, pháp luật và việc phân bổ, phối hợp các nguồn lực của nhà nước để phát triển kinh tế. Sự tác động của chính trị đối với kinh tế là tác động trực tiếp, tập trung và tức thì bằng các quyết định chính trị mang tính chất hành chính. Sự tác động của văn hóa đối với kinh tế thường thông qua con đường gián tiếp, từng bước, mang tính chất tự nguyện, tự ý thức để tạo nên sự thay đổi. Sự tác động của chính trị đối với kinh tế chủ yếu tập trung vào sức mạnh của thể chế, còn sự tác động của văn hóa đối với kinh tế chủ yếu thông qua thay đổi nhận thức và hành động của con người. Một vấn đề đáng lưu ý nữa ở đây là cần tôn trọng sự đa dạng trong sự khác biệt trong tác động của chính trị và văn hóa đối với kinh tế. Nếu chính trị điều tiết sự phát triển kinh tế thông qua quyền lực cứng là thể chế, luật pháp và các quy phạm mang tính chất hành chính, thì văn hóa điều tiết sự phát triển kinh tế thông qua sự thay đổi về các giá trị và chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ, sinh thái, nhân văn. Sự tác động của kinh tế tới chính trị và văn hóa là sự tác động đồng thuận. Kinh tế là cơ sở, là tiền đề để xây dựng và củng cố chế độ chính trị và phát triển văn hóa. Chủ nghĩa duy vật đòi hỏi phải xem xét, giải quyết các vấn đề chính trị 64 và văn hóa từ nguyên nhân sâu xa của nó là kinh tế. Đồng thời, ở đây cũng phải chú ý tới việc chống tuyệt đối hóa các nhân tố chính trị, nhân tố kinh tế hoặc nhân tố văn hóa trong quá trình phát triển. Quan điểm duy vật lịch sử cũng đòi hỏi việc nghiên cứu văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế phải đặt vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước, chú ý tới các điều kiện khách quan và chủ quan tác động để phát hiện ra những vấn đề cần giải quyết một cách thiết thực, hợp lý. - Tiếp cận theo lý thuyết văn hóa và phát triển của UNESCO: Nghiên cứu văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế ở Việt Nam cần dựa trên sự tiếp thu những thành tựu lý luận của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) về vai trò của văn hóa đối với phát triển. Nhận thức chung của loài người về của cải của một quốc gia đã được thể hiện trong Báo cáo Phát triển con người năm 1990 của Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP). Báo cáo bắt đầu bằng một tuyên bố: “Nhân dân là tài sản đích thực của một quốc gia”. Tuyên bố này đã khẳng định vai trò, vị thế của Nhân dân là chủ thể, động lực của lịch sử, đồng thời là của cải, tài sản quý giá nhất, có giá trị nhất của quốc gia. Điều này, chính Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân”. Đây là tuyên bố có ý nghĩa định hướng chiến lược đối với nền chính trị thế giới và quy tụ sự phấn đấu của các quốc gia vì lợi ích của nhân dân. Tuyên bố chung về Sự đa dạng văn hóa của UNESCO xác định: “Văn hóa tạo nên một chiều cạnh cơ bản của quá trình phát triển và giúp củng cố nền độc lập, chủ quyền và bản sắc của các quốc gia. Sự tăng trưởng thường 65 được hình dung dưới dạng định lượng mà không tính đến chiều cạnh chất lượng thiết yếu của nó, cụ thể là sự hài lòng về mặt tinh thần và những khát vọng văn hóa của con người. Mục tiêu của sự phát triển đích thực là duy trì sự khỏe mạnh, hạnh phúc và sự hoàn thiện của mô ̃i và mọi cá nhân”1. Theo Edgar Morin, văn hóa là: “Sự tổng hòa của các tri thức, các kỹ năng, các quy tắc, các chuẩn mực, các yêu cầu, các chiến lược, các đức tin, các tư tưởng, các giá trị, và các thần thoại được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và được tái tạo trong mô ̃i cá nhân, kiểm soát sự tồn tại của xã hội và duy trì sự phức tạp về tâm lý và xã hội”2. Như vậy, mục tiêu của chính trị là hướng tới phục vụ Nhân dân, vì lợi ích chân chính và hạnh phúc của Nhân dân. Đây chính là của cải, là tài sản quý giá nhất của mô ̃i quốc gia chứ không phải là tăng trưởng kinh tế, tách rời hạnh phúc của Nhân dân. Đây cũng chính là các giá trị văn hóa, giá trị con người mà các chế độ chính trị tiến bộ và nhân văn phải hướng tới. Theo quan điểm của UNESCO, văn hóa tạo nên một chiều cạnh cơ bản của quá trình phát triển giúp “củng cố độc lập, chủ quyền và bản sắc quốc gia”. Như vậy, văn hóa là một bộ phận cấu thành bên trong của chính trị và kinh tế, là “ở trong chính trị” và “trong kinh tế” như Hồ Chí Minh đã từng khẳng định. Những nhận thức của thế giới hiện nay về văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế cũng tương đồng _____________ 1. UNESCO: Universal Declaration on Cultural Diversity. Workd Conference on Cultural Policies, Mondialent Mexico City, 1982. 2. Dẫn theo E. Morin: Seven complex lessons education for the future. UNESCO, Paris, 1999, p.26. 66 với tư tưởng Hồ Chí Minh, không xa lạ đối với việc xây dựng chế độ chính trị và phát triển kinh tế ở Việt Nam, nhưng nó góp phần làm sâu sắc hơn, toàn diện hơn những nhận thức chung của Đảng và Nhà nước ta về lĩnh vực này để tự tin đổi mới, sáng tạo hơn nữa trong quá trình xây dựng và phát triển bền vững đất nước hiện nay. - Tiếp cận theo lý thuyết hiện đại hóa: Việc nghiên cứu văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế ở Việt Nam hiện nay cần đặt trong bối cảnh của quá trình hiện đại hóa và phát triển bao trùm, bền vững của đất nước. Khái niệm hiện đại hóa đã xuất hiện ở châu Âu từ cuối thế kỷ XIX. Các tác phẩm của các nhà lý luận xã hội nổi tiếng như Henry Maine, Emile Durkhein, Kark Marx, Ferdinand Tonnies và Max Veber đã xây dựng nên một loạt các khái niệm nhằm miêu tả sự thay đổi các chuẩn mực xã hội và quan hệ xã hội diê ̃n ra khi loài người chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp (chẳng hạn như các khái niệm: địa vị xã hội/khế ước xã hội; quan hệ cơ giới/ quan hệ hữu cơ; cộng đồng/xã hội; quyền lực duy lý/quyền lực quan liêu/quyền lực xã hội). Theo Francis Fukuama (giáo sư Đại học Johns Hopkins - Mỹ), học giả nổi tiếng với tác phẩm: Sự tận cùng của lịch sử và con người cuối cùng (1992), nhận xét: “Các nhà lý luận về hiện đại hóa đã đặt ra những chuẩn mực giá trị lớn cho hiện đại hóa và theo quan điểm của họ, những cái tốt đẹp của hiện đại hóa đều có xu hướng đồng hành với nhau. Phát triển kinh tế, biến đổi các quan hệ xã hội như đô thị hóa và phân rã các nhóm thị tộc cơ bản, nâng cao và mở rộng các trình độ giáo dục, chuyển đổi chuẩn mực hướng tới các giá trị như “hoàn thiện” và duy lý, thế tục hóa và phát triển các thiết chế chính trị dân chủ, tất cả đều được 67 xem là một tổng thể phụ thuộc lâ ̃n nhau. Phát triển kinh tế sẽ nuôi dưỡng giáo dục tốt hơn, từ đó dâ ̃n tới biến đổi giá trị, thúc đẩy nền chính trị hiện tại và cứ như vậy trong một chu trình hợp lý”1. Suốt một thời gian dài, mô hình phát triển “đuổi kịp” đã được coi là chủ đạo và gần như là duy nhất của các phi phương Tây muốn đứng ngang hàng với phương Tây và cố gắng đuổi kịp nó trong sự phát triển của mình. Nhưng chính Samuel Huntington (học giả nổi tiếng người Mỹ, giáo sư Đại học Harvard, Chủ tịch Viện Hàn lâm Harvard nghiên cứu quốc tế và khu vực) đã chỉ ra khả năng có một số con đường phát triển khác nhau: Con đường thứ nhất, đó là Tây phương hóa mà không hiện đại hóa. Đây là đặc trưng của sự tiếp thu bề ngoài, đôi khi mang tính thao tác, kinh nghiệm của phương Tây mà không tiếp thu các nguyên lý và đặc điểm văn hóa của đời sống phương Tây. Nó liên quan đến việc phá bỏ các truyền thống văn hóa của chính mình mà không tính đến việc bổ sung cho kho tàng đó, dù chỉ một phần, bằng các hình mẫu vay mượn. Một xã hội như thế được gọi là xã hội truyền thống bị phá vỡ, không chuyển lên một trình độ phát triển tiếp theo. Đó là con đường mà Ai Cập và Philíppin đã đi. Dường như sự hiện diện của Mỹ ở Philíppin là yếu tố góp phần thúc đẩy tiếp thu kinh nghiệm và lối sống Mỹ, nhưng ở đó không đẻ ra các mối quan hệ giống như chủ nghĩa tư bản phương Tây mà trái lại, đã hình thành xã hội kém hiệu quả nhất. Ai Cập và Philíppin hiện vâ ̃n đang trong cảnh đói nghèo. _____________ 1. Dâ ̃n theo Niên giám thông tin khoa học xã hội nước ngoài, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, số 2 (2011), tr.147. 68 Con đường thứ hai, hiện đại hóa mà không phương Tây hóa. Đây là con đường mới về nguyên tắc so với con đường hiện đại hóa cổ điển luôn đi kèm với phương Tây hóa. Tiêu biểu là con đường của các nước ở Đông Á và Đông Nam Á. Các nước này đã hiện đại hóa mà không thay đổi bản sắc của mình. Người Nhật Bản đã thực hiện công cuộc hiện đại hóa trên chính mảnh đất và văn hóa của mình, tức là họ vẫn giữ nguyên vẹn những giá trị bản sắc văn hóa truyền thống đồng thời vẫn sản xuất ra các vật phẩm hiện đại, thực hiện được cuộc cách mạng công nghiệp. Sự chiếm đóng về quân sự và kinh tế của Mỹ ở Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai đòi hỏi phải phá vỡ cấu trúc tập thể vốn là đường dẫn của kiểu ý thức quân phiệt để quá trình tự do hóa được bắt đầu, nhưng nó chỉ dẫn tới kết quả phá vỡ diện mạo xã hội truyền thống. Vào những năm 50 thế kỷ XX, giới xã hội học Nhật Bản đã đưa ra một cương lĩnh khác: Không phá bỏ các cấu trúc mang tính tập thể của xã hội Nhật Bản mà thay đổi các mục tiêu của nhà nước, vì các cấu trúc kiểu công xã của Nhật Bản rất thích hợp với phương thức tiến hành sự tác động của nhà nước. Người Nhật Bản đã tiến hành cải cách sau khi từ chối tự do hóa, duy trì tính hiệu quả tập thể đã có. Xã hội Nhật Bản thay đổi vì nhà nước thay đổi mục tiêu của mình. Ở đây, không phải văn hóa thích nghi với các nhiệm vụ hiện đại hóa, mà chính là giới elite1 lãnh đạo muốn thực hiện hiện đại hóa đã thích ứng với văn hóa. Hành động này giống như _____________ 1. Elite: từ tiếng Anh dùng để chỉ nhóm người có địa vị cao, có quyền lực và ảnh hưởng lớn đến xã hội, thường được hiểu là tầng lớp tinh hoa của xã hội (B.T). 69 nhà lập pháp Solon của Hy Lạp thời cổ đại. Khi người ta hỏi ông ta rằng, các đạo luật mà ông ta nghĩ ra có minh triết không, ông đã đáp rằng luật của ông minh triết vì dân có thể sống theo các đạo luật đó; còn nếu đem áp dụng những luật mà dân không quen và không thể sống theo đó, dựa trên cơ sở giả định rằng cần phải thay đổi dân, thay đổi và phá vỡ văn hóa để họ có thể theo luật mới thì sẽ khó có thể đem lại kết quả. Tuy nhiên, hiện nay nhiều người cho rằng sự đình trệ của Nhật Bản vào thập niên 90 thế kỷ XX là hệ quả của phương Tây hóa không đầy đủ. Phải chăng kỹ thuật phương Tây cần phải có tinh thần phương Tây chứ không phải tinh thần Nhật Bản. Đây là bài toán cần lời giải đáp. Con đường thứ ba là phát triển đuổi kịp, trong đó tỷ lệ hiện đại hóa và phương Tây hóa là tương đương nhau. Đây là mô hình đã được Nga, Thổ Nhĩ Kỳ, Mêhicô và các nước khác đi theo. Nhưng cả mô hình này, dù đã có nhiều thành công, xét cho cùng vẫn đi vào chô ̃ bế tắc. Bởi vì, một là do sự chuyển hóa nhanh của phương Tây ngày nay không cho phép các nước này dừng lại, phải đuổi kịp một giai đoạn nào đó của phương Tây; và hai là, nếu quá trình hòa giải văn hóa (reculturalization), một yếu tố của quá trình phương Tây hóa, tức là phủ nhận văn hóa của chính mình được thực hiện một cách vội vã hoặc thô bạo thì không tránh khỏi sự phản kháng và bị đẩy ngược về phía sau. Những thất bại của cuộc cải cách ở Nga trong thập niên 90 thế kỷ XX là minh chứng rất rõ cho luận điểm này. Theo Huntington, hình thức phát triển thích hợp nhất của các xã hội là mô hình hiện đại hóa quốc gia - dân tộc. 70 Điển hình cho mô hình này là Trung Quốc. Công cuộc cải cách ở Trung Quốc được bắt đầu từ việc cải cách nền kinh tế - quan hệ sản xuất ở nông thôn; đồng thời tiến hành dần từng bước quá trình cải cách các quan niệm lý luận - thời kỳ đầu cải cách, người ta nói nhiều đến việc quay trở về các nguyên tắc kế hoạch hóa nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà trước đó đã bị tha hóa trong thời kỳ “cách mạng văn hóa”, rồi nói đến việc sử dụng thị trường, nhưng đó là thị trường chịu sự lãnh đạo của kế hoạch, sau này mới xuất hiện thuật ngữ “nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa”. Phương pháp luận của cải cách trong hiện đại hóa ở Trung Quốc là làm tuần tự, dần từng bước và có xét đến đặc điểm của nước mình, dân tộc mình. Đó là “quy tắc vàng của cải cách”, cải cách phân biệt với cách mạng, tốc độ của cải cách phải phù hợp với năng lực của người thích nghi với những bước chuyển của cải cách. Như vậy, hiện đại hóa không chỉ là gia tăng tư bản, phát triển kinh tế, mà cần quan tâm tới chiều cạnh văn hóa, xã hội của hiện đại hóa1. Nhìn lại quá trình đổi mới của Việt Nam, mô hình hiện đại hóa của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn, có những bước đi tuần tự, khoa học, tập trung vào đổi mới kinh tế, từng bước đổi mới chính trị trên cơ sở chú trọng phát triển văn hóa, xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội, tập _____________ 1. Xem thêm V.G.Fedetova: “Những xu hướng mới trong cách hiểu về hiện đại hóa”, trong Niên giám thông tin khoa học xã hội nước ngoài, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2012, số 4, tr.139-150. 71 trung vào đổi mới giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực, đảm bảo an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo bền vững, củng cố quốc phòng và an ninh quốc gia, tạo lập môi trường hòa bình cho phát triển đất nước. Đây là “những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử” của dân tộc, cần tiếp tục được nghiên cứu, đúc rút kinh nghiệm để tạo nên những “đột phá” mới trong thời kỳ hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hơn. Những định hướng phát triển bền vững đất nước được khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và các Nghị quyết Đại hội và Hội nghị Trung ương Đảng khóa XII về phát triển kinh tế - xã hội đã thể hiện tầm nhìn bao quát và sâu sắc của Đảng ta về hiện đại hóa đất nước. Về quan điểm biện chứng, tổng hợp và toàn diện trong chiến lược hiện đại hóa gắn với phát triển bền vững bao trùm, hướng tới sự phát triển của hiện tại không làm mất đi cơ hội của tương lai, không để lại ai phía sau quá trình phát triển, để làm được điều này, cần phải khẳng định rõ ràng và nhất quán hơn nữa vai trò của việc xây dựng văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế, để văn hóa thực sự vừa làm nền tảng tinh thần, vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển kinh tế và chính trị, nâng cao chất lượng của chính trị và kinh tế trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. - Tiếp cận từ lý thuyết giá trị học: Nghiên cứu về văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế ở Việt Nam cần quan tâm tới vấn đề chuyển đổi giá trị trong xu thế hiện đại hóa. Những nghiên cứu của Dự án Khảo sát giá trị thế giới do GS. Ronald Inglehart và GS. Christian Welzel chủ trì 72 và công bố gần đây trong cuốn chuyên khảo Hiện đại hóa, biến đổi văn hóa và dân chủ cho thấy những gợi ý tham chiếu có ý nghĩa nhất định khi nghiên cứu về văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế ở Việt Nam hiện nay. Trong công trình Phát triển dẫn tới dân chủ như thế nào? Những điều chúng ta biết về hiện đại hóa, hai ông đã cho thấy rõ mối liên hệ biện chứng giữa hiện đại hóa và phát triển dân chủ. Hai ông nhấn mạnh rằng: “Tiền đề cốt lõi của học thuyết hiện đại hóa là đúng đắn: phát triển kinh tế thị trường đưa đến những thay đổi quan trọng, gần như có thể tiên đoán được, trong các lĩnh vực xã hội, văn hóa và chính trị. Nhưng những kiến giải trước đây của học thuyết hiện đại hóa cần phải được chỉnh sửa ở nhiều phương diện”1. Theo các ông, đó là: Trước hết, hiện đại hóa không đi theo một đường thẳng. Nó không chuyển động mãi theo một hướng nhất định, thay vào đó, quá trình này luôn vấp phải những điểm chuyển điệu. Bằng chứng thực tế cho thấy, mỗi thời kỳ trong quá trình hiện đại hóa gắn với những chuyển biến đặc biệt trong thế giới quan của con người. Công nghiệp hóa kéo theo một quá trình biến đổi quan trọng, dẫn tới quan liêu hóa, phân chia giai cấp, tập trung quyền lực, thế tục hóa, và một sự chuyển dịch từ giá trị truyền thống sang giá trị duy lý phi tôn giáo. Sự phát triển của xã hội hậu công nghiệp đem đến hàng loạt chuyển biến về văn hóa, tạo ra một hướng chuyển _____________ 1. Xem Ronald Inglehart & Christian Welzel: “Phát triển dẫn tới dân chủ như thế nào? Những điều chúng ta biết về hiện đại hóa”, Niên giám Thông tin khoa học xã hội nước ngoài, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2011, số 2, tr.419. 73 mới: Khuynh hướng mới ngày càng nhấn mạnh ý chí tự do cá nhân và các giá trị bộc lộ bản ngã chứ không phải quan liêu hóa và tập trung hóa. Hai là, những chuyển biến về xã hội và văn hóa có tính phụ thuộc tuần tự và có tính lịch sử. Tuy phát triển kinh tế thường mang lại những chuyển biến có thể dự báo trước trong thế giới quan của con người, nhưng di sản của một xã hội - dù di sản đó là đạo Tin lành, Công giáo, Hồi giáo, Khổng giáo hay do chủ nghĩa cộng sản tạo nên thì đều để lại dấu ấn lâu dài trong thế giới quan của xã hội ấy. Hệ thống giá trị của một xã hội phản ánh sự tương tác giữa các động lực của quá trình hiện đại hóa và ảnh hưởng dai dẳng của truyền thống. Mặc dù các nhà nghiên cứu học thuyết hiện đại hóa cổ điển ở cả phương Tây và phương Đông đều cho rằng tôn giáo và truyền thống dân tộc rồi đây sẽ bị mai một, nhưng trên thực tế lại có một sức sống mãnh liệt. Mặc dù công chúng của các xã hội đang trong thời kỳ công nghiệp hóa trở nên giàu có hơn và có học vấn cao hơn, nhưng vẫn khó tạo được nền văn hóa đồng nhất toàn cầu. Các di sản văn hóa tồn tại cực kỳ bền vững. Ba là, hiện đại hóa không có nghĩa là phương Tây hóa, quan niệm này trái với cách kiến giải mang màu sắc chủ nghĩa vị chủng trước đây của học thuyết hiện đại hóa. Bốn là, hiện đại hóa không tự dẫn đến dân chủ. Đúng hơn là, xét về lâu dài, hiện đại hóa mang lại những thay đổi xã hội và văn hóa để dân chủ hóa dần trở thành hiện thực. Có mức thu nhập bình quân đầu người cao đơn thuần không tạo ra dân chủ, ví dụ như trường hợp Côoét và Các tiểu vương quốc Arập thống nhất. 74 Các nghiên cứu của hai ông cũng chỉ ra rằng: Điểm trọng yếu của chế độ dân chủ là trao quyền cho những người dân. Chỉ số thực chất tổng quát của chế độ dân chủ có thể tính toán được bằng cách nhân hai điểm số sau: dân chủ hình thức (được đánh giá bằng sự hiện hữu của các quyền trên giấy tờ theo cách đánh giá của tổ chức Freedom House dựa trên quyền dân sự và chính trị); và sự trong sạch của thể chế và của giới lãnh đạo (do Ngân hàng Thế giới đánh giá). Dân chủ thực sự là một tiêu chuẩn khắt khe hơn chế độ dân chủ tuyển cử. Chế độ dân chủ tuyển cử có thể thiết lập ở khắp mọi nơi nhưng nó không thể tồn tại lâu dài nếu không được chuyển giao quyền lực từ giới lãnh đạo tới tay người dân. Dân chủ thực sự gắn chặt với một cơ sở hạ tầng tương đối phát triển bao gồm không chỉ các nguồn lực về kinh tế mà cả những thói quen tham gia hoạt động chính trị và coi trọng quyền lực tự chủ, coi trọng bản ngã của người dân. Mặc dù còn có những ý kiến khác nhau về những nhận định này nhưng đây là những gợi ý cần thiết để chúng ta suy nghĩ về việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới hiện nay cũng đang ở vào quá trình chuyển đổi giá trị từ truyền thống sang hiện đại trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Mối quan hệ giữa các giá trị truyền thống và hiện đại, giá trị cá nhân và giá trị cộng đồng, vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới cũng đã tác động mạnh đến xây dựng văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế hiện nay. - Tiếp cận từ thực tiễn đổi mới ở Việt Nam: Nghiên cứu văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế ở Việt Nam 75 hiện nay cần đặt trong bối cảnh Việt Nam thời kỳ đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. Việt Nam bắt đầu tiến hành sự nghiệp đổi mới từ năm 1986 (từ khi tiến hành Đại hội VI), đến nay đã được hơn 30 năm. Quá trình đổi mới được bắt đầu từ đổi mới về kinh tế, chuyển từ mô hình kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp sang mô hình phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước và từng bước xác lập mô hình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Trên cơ sở đổi mới kinh tế, Việt Nam đã từng bước đổi mới chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng lợi ích của nhau, phấn đấu vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”1. Văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế trong hơn 30 năm đổi mới ở Việt Nam được xây dựng và phát triển liên tục gắn liền với quá trình đổi mới nhận thức của Đảng về mô hình chế độ xã hội chủ nghĩa mà Nhân dân ta xây dựng; về đặc điểm thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam; về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về vai trò của các thành phần kinh tế và kinh tế nhà nước; về xây dựng Đảng cầm quyền và xây _____________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.102. 76 dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; về phát triển văn hóa, khoa học, giáo dục, quản lý các vấn đề xã hội; về công tác đối ngoại, đảm bảo quốc phòng và an ninh quốc gia... Tổng kết 30 năm đổi mới, Đảng ta đã rút ra năm bài học kinh nghiệm, trong đó có bài học “đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra”1. Đây là những kết luận có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng để nghiên cứu vấn đề xây dựng văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở các phương pháp tiếp cận này, chúng tôi cố gắng tích hợp lại để có cái nhìn tổng thể, bao quát toàn diện hơn trong quá trình đi sâu vào nghiên cứu văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế ở Việt Nam hiện nay. II- CƠ SỞ THỰC TIỄN 1. Khái quát bối cảnh quốc tế và trong nước tác động đến văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế ở nước ta qua hơn 30 năm đổi mới (1986 - 2019) a) Tình hình quốc tế Những năm cuối thế kỷ XX, tình hình thế giới đã diễn ra những biến đổi to lớn, sâu sắc. Nhiều nước xã hội chủ nghĩa _____________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.69. 77 lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Để thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, cải tổ và đổi mới đã trở thành xu thế khách quan ở các nước xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, từ cuối thập niên 80 đến đầu thập niên 90 thế kỷ XX, chế độ xã hội chủ nghĩa theo mô hình Xôviết ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ; chủ nghĩa xã hội và phong trào cộng sản, công nhân quốc tế lâm vào tình trạng thoái trào, chủ nghĩa tư bản đã tự điều chỉnh, thích ứng và sử dụng những thành quả của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại nên đã có bước tăng trưởng đáng kể. Cục diện thế giới thay đổi to lớn và sâu sắc. Mỹ trở thành siêu cường số một muốn thiết lập trật tự thế giới đơn cực để chi phối thế giới. Mặt khác, xu hướng đấu tranh giữa các nước lớn để tạo lập trật tự thế giới đa cực cũng diễn ra phức tạp, đặc biệt là sự trỗi dậy của Trung Quốc, Nga, Liên minh châu Âu (EU), Ấn Độ, v.v.. Toàn cầu hóa và cuộc cách mạng khoa học và công nghệ diễn ra mạnh mẽ thúc đẩy sự hình thành nền kinh tế tri thức và xã hội thông tin, ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình phát triển của nhiều nước. Những mâu thuẫn về giai cấp, dân tộc, tôn giáo diễn ra ngày càng phức tạp. Mặc dù xu thế hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, vừa đấu tranh vừa hợp tác là xu thế lớn nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột và chạy đua vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ, tài nguyên và cạnh tranh vì lợi ích kinh tế vẫn diễn ra gay gắt. Các vấn đề toàn cầu và an ninh phi truyền thống như: an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh mạng, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, nước biển dâng, v.v. diễn biến phức tạp. Nền kinh tế 78 """