🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Vận Dụng Phương Pháp Ngoại Giao Hồ Chí Minh Trong Sự Nghiệp Xây Dựng Và Bảo Vệ Tổ Quốc Hiện Nay
Ebooks
Nhóm Zalo
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Q. GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP PHẠM CHÍ THÀNH
Chịu trách nhiệm nội dung:
PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP TS. ĐỖ QUANG DŨNG
Biên tập nội dung:
Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Đọc sách mẫu:
ThS. PHẠM THỊ THINH TS. HOÀNG MẠNH THẮNG CAO THỊ LAN ANH
TRẦN PHAN BÍCH LIỄU NGUYỄN MẠNH HÙNG PHẠM THU HÀ
NGUYỄN MAI THẢO NHUNG VIỆT HÀ
Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 1360-2020/CXBIPH/14-301/CTQG. Số quyết định xuất bản: 5008-QĐ/NXBCTQG, ngày 09/6/2020. Nộp lưu chiểu: tháng 6 năm 2020.
Mã số ISBN: 978-604-57-5667-6.
Biªn môc trªn xuÊt b¶n phÈm
cña Th− viÖn Quèc gia ViÖt Nam
NguyÔn ThÞ Minh Thuú
VËn dông ph−¬ng ph¸p ngo¹i giao Hå ChÝ Minh trong sù
nghiÖp x©y dùng vµ b¶o vÖ Tæ quèc hiÖn nay / NguyÔn ThÞ Minh
Thuú. - H. : ChÝnh trÞ Quèc gia, 2019. - 244tr. ; 21cm
1. T− t−ëng Hå ChÝ Minh 2. Ngo¹i giao 3. X©y dùng 4. B¶o
vÖ Tæ quèc 5. ViÖt Nam
327.597 - dc23
CTF0442p-CIP
C
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
hủ tịch Hồ Chí Minh - nhà tư tưởng lớn, vị lãnh tụ vĩ đại, nhà ngoại giao kiệt xuất của Việt Nam trong
thế kỷ XX. Những đóng góp của Hồ Chí Minh đối với nền ngoại giao Việt Nam vô cùng to lớn. Thực tiễn đã chứng minh phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh hết sức sáng tạo, độc đáo góp phần quan trọng vào những thắng lợi của nền ngoại giao Việt Nam hiện đại.
Trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước, ngoại giao Việt Nam đã góp phần làm nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo tư tưởng, phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh để
đề ra đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, từ đó đã phá vỡ thế bao vây cấm vận của các thế lực thù địch; xây dựng mối quan hệ hợp tác nhiều mặt, trên những nguyên tắc quan hệ và hợp tác quốc tế mang tính phổ biến, được cộng đồng quốc tế thừa nhận, góp phần quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, phát triển đất nước.
5
Nhằm làm rõ nội hàm khái niệm, những nội dung cơ bản của phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh và quá trình vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay của TS. Nguyễn Thị Minh Thùy - Giảng viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
Cuốn sách trình bày có hệ thống những kiến thức cơ bản về các phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh; quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới và việc tiếp tục vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh vào thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình biên tập, xuất bản, song cuốn sách khó tránh khỏi những hạn chế. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để nội dung cuốn sách được hoàn thiện hơn trong lần xuất bản sau. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 6 năm 2019
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT6
C
LỜI NÓI ĐẦU
hủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là người sáng lập, giáo dục và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt
Nam mà còn sáng lập nền ngoại giao hiện đại. Người đã kế thừa, vận dụng, phát triển sáng tạo ngoại giao truyền thống để hình thành hệ thống quan điểm, tư tưởng ngoại giao tiến bộ, phù hợp với các nguyên tắc quan hệ quốc tế mới. Phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh hết sức sáng tạo, độc đáo, bền vững, góp phần quan trọng vào những thắng lợi của nền ngoại giao hiện đại của Việt Nam trong hơn tám thập niên qua. Có thể khẳng định rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ
tịch Hồ Chí Minh, hoạt động ngoại giao ngày càng lớn mạnh cùng những bước đường cách mạng của cả dân tộc, đóng góp xứng đáng vào những thắng lợi của đất nước. Trong giai đoạn hiện nay, cùng với sự phát triển của đất nước, ngoại giao Việt Nam cũng đã không ngừng lớn mạnh, trưởng thành, trở thành một nhân tố quan trọng góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp, phấn đấu vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
7
Kế thừa và phát huy những truyền thống cũng như thành tựu trên lĩnh vực ngoại giao nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh để xây dựng đường lối và chỉ đạo thực hiện hoạt động ngoại giao nhằm tạo môi trường hòa bình, ổn định và điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội... Trong tình hình mới, công tác nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và phương pháp ngoại giao Hồ
Chí Minh nói riêng vẫn được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, kết quả của việc vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh còn một số tồn tại nhất định, đòi hỏi tiếp tục vận dụng tốt hơn trong bối cảnh mới.
Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, với hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tình hình quốc tế có nhiều biến động. Trên thế giới, trong những năm tới tình hình quốc tế sẽ còn nhiều diễn biến rất phức tạp, mâu thuẫn giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, gây ra nhiều thách thức đối với các quốc gia, dân tộc có chủ quyền, tình hình an ninh chính trị thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn biến rất phức tạp khó lường; tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến tranh cục bộ, chiến
8
tranh mạng... tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực. Cục diện thế giới theo xu hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh hơn. Các nước lớn điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác vừa thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau, tác động mạnh đến cục diện thế giới và các khu vực. Vì thế, Việt Nam đang đứng trước nhiều thời cơ và vận hội mới, nhưng đồng thời cũng có nhiều thách thức đan xen. Tuy nhiên, hiện nay, hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Các cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn được các nước trên thế giới chủ yếu giải quyết bằng con đường đàm phán, hòa bình để đi tới thống nhất.
Ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong những năm gần đây, vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông giữa các quốc gia trong khu vực nói chung và Trung Quốc đối với Việt Nam nói riêng diễn biến rất phức tạp, cùng với đó, các thế lực thù địch vẫn không từ bỏ âm mưu chiến lược “diễn biến hòa bình” hòng làm mất ổn định chính trị, lật đổ chính quyền... Trước tình hình trên, vấn đề đặt ra hết sức quan trọng là bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc và ngoại giao đã và đang là một mặt trận quan trọng hàng đầu.
Vì vậy, việc nghiên cứu, vận dụng sáng tạo phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh có ý nghĩa cả về mặt khoa học và thực tiễn, là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam huy động các nguồn lực từ bên ngoài kết hợp với nguồn
9
lực nội sinh của dân tộc tạo ra sức mạnh tổng hợp trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa giai đoạn hiện nay.
Công trình nghiên cứu này gồm 3 chương, trình bày một cách có hệ thống các phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh; sự vận dụng sáng tạo phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc hoạch định đường lối, chính sách đối ngoại trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới đất nước; đánh giá về những thành tựu và kinh nghiệm trong việc chỉ đạo thực hiện đường lối chính sách ngoại giao của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Thông qua đó, tác giả phân tích xu hướng, diễn biến của thế giới và khu vực trong bối cảnh hiện nay, đánh giá những thành công và những vấn đề nảy sinh trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Từ đó, đề xuất các giải pháp tiếp tục vận dụng sáng tạo phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong xây dựng đường lối, chính sách và chỉ đạo hoạt động ngoại giao để giải quyết những yêu cầu đặt ra trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam ở giai đoạn mới.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình nghiên cứu, song công trình này hẳn còn không ít thiếu sót. Tác giả mong nhận được nhiều ý kiến góp ý của bạn đọc để lần xuất bản sau cuốn sách được hoàn chỉnh hơn.
Hà Nội, tháng 6 năm 2019
TÁC GIẢ
10
Chương I
HỆ THỐNG PHƯƠNG PHÁP
NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH
I- MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1. Khái niệm ngoại giao
Đối ngoại và ngoại giao là hai khái niệm riêng biệt tuy gắn bó chặt chẽ với nhau, nhưng vẫn có sự khác biệt nhất định. Đối ngoại là toàn bộ mục tiêu, nhiệm vụ, phương hướng, nguyên tắc, phương châm, biện pháp mà quốc gia theo đuổi trong quan hệ với các quốc gia khác hoặc chủ thể khác trong cộng đồng quốc tế nhằm phục vụ
cho lợi ích của quốc gia.
Cùng với đối ngoại, ngoại giao là một lĩnh vực nghiên cứu rộng lớn, được các nhà khoa học nghiên cứu đưa ra từ lâu, đến hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm “ngoại giao”.
Ở nước ngoài: Từ “ngoại giao” có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp “diploma” với nghĩa là giấy chứng nhận, giấy ủy quyền mà sứ giả nước này trao cho người phụ trách công tác ngoại giao của quốc gia đó
11
với các nước khác. Từ đó xuất hiện từ “diplomacy” với nghĩa là ngoại giao1.
Từ điển tiếng Anh Oxford định nghĩa: “Ngoại giao là việc tiến hành quan hệ quốc tế bằng cách đàm phán, là phương pháp mà các đại sứ, công sứ... sử dụng để điều chỉnh và tiến hành các quan hệ đó, là công tác hoặc nghệ thuật của nhà ngoại giao”2. Tác giả Garden trong Giáo trình môn ngoại giao cho rằng: “Ngoại giao là khoa học về quan hệ đối ngoại”, còn theo nghĩa hẹp: “Ngoại giao là đàm phán chính thức”3. Từ điển Le Nouveau Petit Robert của Pháp đưa ra định nghĩa: “Ngoại giao là hoạt động chính trị liên quan đến các mối quan hệ giữa các quốc gia”4. Đại từ điển bách khoa toàn thư Liên Xô ghi: “Ngoại giao là hoạt động chính thức của người đứng đầu nhà nước, chính phủ và của các cơ quan chuyên trách về quan hệ đối ngoại, nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của chính sách đối ngoại của quốc gia cũng như nhằm bảo vệ quyền lợi quốc gia ở nước ngoài”5. Từ điển ngoại giao của Liên Xô do Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
_______________
1. Xem Vũ Dương Huân: Ngoại giao và công tác ngoại giao, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.13.
2, 3. H. Nicolson: Diplomacy, Oxford University, London, 1965, p.15, 11.
4. Le Nouveau Petit Robert, Dictionnaires le Robert, Paris, 1994, p.649.
5. Đại từ điển bách khoa toàn thư Liên Xô, Nxb. Moring Mátxcơva, 1998, tr.359.
12
Liên Xô (giai đoạn 1957 - 1985) A.A. Gromyko chủ biên định nghĩa: “Ngoại giao là công cụ thực hiện chính sách đối ngoại của quốc gia, là tổng thể những biện pháp phi quân sự, những phương pháp, thủ thuật được sử dụng có tính đến điều kiện cụ thể và đặc điểm của yêu cầu nhiệm vụ; hoạt động chính thức của người đứng đầu nhà nước, chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, các cơ
quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài, các đoàn đại biểu các hội nghị quốc tế nhằm thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ chính sách đối ngoại của quốc gia, bảo vệ quyền và lợi ích quốc gia, pháp nhân và công dân của mình ở
nước ngoài. Đồng thời, ngoại giao là nghệ thuật đàm phán nhằm ngăn chặn, hoặc dàn xếp những xung đột quốc tế, tìm cách thỏa hiệp và đưa ra những giải pháp có thể được các bên chấp nhận, cũng như việc mở rộng và củng cố hợp tác quốc tế”1.
Ở Việt Nam: Theo Từ điển tiếng Việt, “ngoại giao là sự giao thiệp với nước ngoài để bảo vệ quyền lợi của quốc gia mình và để góp phần giải quyết những vấn đề quốc tế chung2.
Giáo trình Một số vấn đề cơ bản về nghiệp vụ ngoại giao nêu nhận thức: Ngoại giao là một khoa học mang
_______________
1. Từ điển ngoại giao, Nxb. Khoa học, Mátxcơva, 1984, t. 1, tr.327.
2. Xem Viện Ngôn ngữ học: Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển học, Nxb. Đà Nẵng, Hà Nội - Đà Nẵng 2005, tr.683.
13
tính tổng hợp, một nghệ thuật của những khả năng, là hoạt động của những cơ quan làm công tác đối ngoại và các đại diện có thẩm quyền, là công tác đối ngoại của nhà nước, bảo vệ quyền lợi, lợi ích, quyền hạn quốc gia, dân tộc ở trong nước và trên thế giới, góp phần giải quyết những vấn đề quốc tế chung bằng con đường đàm phán và các hình thức hòa bình khác1.
Trong cuốn sách Ngoại giao và công tác ngoại giao, khái niệm ngoại giao được hiểu là: Ngoại giao - công cụ thực hiện chính sách đối ngoại của quốc gia - được hiểu là tổng thể những biện pháp phi quân sự, những phương pháp, thủ thuật được sử dụng có tính đến điều kiện cụ thể và đặc điểm của yêu cầu, nhiệm vụ; là hoạt động chính thức của người đứng đầu Nhà nước, Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài, các đoàn đại biểu tại các hội nghị quốc tế nhằm thực hiện mục tiêu và chính sách đối ngoại của quốc gia, bảo vệ quyền và lợi ích quốc gia, pháp nhân và công dân mình ở nước ngoài. Ngoại giao là nghệ thuật đàm phán nhằm ngăn chặn hoặc dàn xếp những xung đột quốc tế, tìm cách thỏa hiệp và những giải pháp có thể được các bên chấp nhận, cũng như việc mở rộng và củng cố hợp tác quốc tế. Lãnh đạo
_______________
1. Xem Học viện Quan hệ quốc tế: Giáo trình Một số vấn đề cơ bản về nghiệp vụ ngoại giao, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.1, tr.19-20.
14
hoạt động ngoại giao của quốc gia là Chính phủ, trước hết trực tiếp của Bộ Ngoại giao. Ngoại giao bất cứ quốc gia nào đều mang tính giai cấp. Nội dung, nguyên tắc, mục đích, nhiệm vụ của ngoại giao do chế độ kinh tế - xã hội của quốc gia quyết định và lợi ích giai cấp cầm quyền chi phối đường lối đối ngoại của quốc gia1.
Như vậy, có thể thấy có nhiều cách hiểu khác nhau về ngoại giao. Từ những cách tiếp cận trên có thể rút ra một số nhận xét như sau về ngoại giao: Ngoại giao là hoạt động của nhà nước trong lĩnh vực đối ngoại, ngoại giao là công cụ quan trọng nhất, công cụ hòa bình thực hiện chính sách đối ngoại của quốc gia; là tất cả các cơ quan chuyên trách về quan hệ đối ngoại ở Trung ương cũng như ở nước ngoài và những cán bộ làm công tác ngoại giao nhà nước; là nghề nghiệp của các nhà ngoại giao; là khoa học và nghệ thuật, trước hết là nghệ thuật đàm phán và ngoại giao mang tính giai cấp sâu sắc.
2. Khái niệm phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh
Phương pháp thực chất là những cách thức mà con người thực hiện các mục tiêu đã định sẵn, là sự phù hợp giữa hoạt động chủ quan có hướng đích của con người với quy luật khách quan của tự nhiên và xã _______________
1. Xem Vũ Dương Huân: Ngoại giao và công tác ngoại giao, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 20-21.
15
hội. Trong cuốn sách Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh đã đưa ra khái niệm phương pháp là toàn bộ những cách thức với tính chất là một hệ thống các nguyên tắc xuất phát từ các quy tắc tồn tại và vận động của đối tượng, khách thể đã được nhận thức, để định hướng và điều chỉnh hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn của con người, nhằm tác động vào
đối tượng, khách thể để thực hiện mục đích đã định1. Về phương pháp Hồ Chí Minh, trong cuốn sách Một số vấn đề phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu về Hồ Chí Minh, đưa ra định nghĩa: Phương pháp là hệ thống các quy tắc, chuẩn mực, cách thức điều chỉnh nhận thức và hoạt động của con người trong việc tiếp cận lý luận và khảo sát thực tế. Phương pháp hình thành tư duy lý luận, nhưng không phải một chiều. Lý luận đẻ ra phương pháp, phương pháp tác động trở lại lý luận, làm cho lý luận phát triển, hình thành lý luận mới; đến lượt nó, lý luận mới lại đẻ ra phương pháp mới2. Trong cuốn sách Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, cũng đã đề cập đến phương pháp Hồ Chí Minh:
_______________
1. Xem Đặng Xuân Kỳ (Chủ biên): Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, tr. 24-25. 2. Xem Song Thành (Chủ biên): Một số vấn đề phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu về Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, tr. 28.
16
Phương pháp Hồ Chí Minh là phương pháp ở tầm tư tưởng, lý luận, thể hiện sự nhuần nhuyễn giữa lý luận với thực tiễn trong các lĩnh vực hoạt động của Người, lý luận hóa thực tiễn gắn liền với thực tiễn hóa lý luận. Phương pháp Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện một trình độ tư tưởng mà còn là năng lực và bản lĩnh sáng tạo văn hóa, với tầm nhìn rộng lớn, dự báo sáng suốt và ứng xử linh hoạt, tinh tế1.
Ngoại giao muốn đạt được mục đích thì phải có phương pháp. Trong cuộc đời hoạt động ngoại giao của mình, Hồ Chí Minh thường xuyên xác định đường lối cách mạng đúng đắn và lựa chọn phương pháp cách mạng thích hợp. Đường lối quyết định phương pháp, phương pháp lại đưa đường lối vào cuộc sống, thể hiện đường lối trong hoạt động thực tiễn.
Trong hoạt động ngoại giao, phương pháp đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi vì môi trường hoạt động ngoại giao là thế giới không ngừng biến đổi, không ngừng vận động, cần phải có những cách thức đánh giá, nhận định, dự báo tình hình thế giới một cách khoa học, năng động. Sự thay đổi của tình hình đòi hỏi phải có phương pháp mới. Mặt khác, do đối tác của ngoại giao đa dạng và phức tạp, cần có sự linh hoạt,
_______________
1. Xem Hoàng Chí Bảo: Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005, tr.12-13.
17
chủ động và sáng tạo trong việc lựa chọn phương pháp cho phù hợp với từng đối tượng. Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách là một nhà hoạt động cách mạng, đã xác định đường lối và phương pháp cách mạng chủ yếu trong hoạt động thực tiễn. Trong hoạt động ngoại giao, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng xác định được đường lối và phương pháp ngoại giao phong phú, đa dạng góp phần vào thắng lợi chung của cách mạng.
Phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh là một nội dung quan trọng trong tư tưởng của Người, góp phần hình thành nền ngoại giao Việt Nam hiện đại. Ngoại giao vừa là khoa học, ứng xử, giao tiếp, đàm phán, vừa là chính trị. Ngoại giao muốn đạt mục đích đề ra phải có phương pháp.
Đánh giá về tầm quan trọng của phương pháp hoạt động chính trị, đồng chí Trường Chinh khẳng định: Lịch sử phát triển cách mạng thế giới cho thấy một phong trào nào đó có khi bế tắc, không lối ra, thậm chí thất bại, không phải vì không có mục tiêu và phương hướng rõ ràng, cũng không phải không tổ chức được lực lượng cách mạng, mà chủ yếu vì thiếu phương pháp cách mạng và hình thức đấu tranh thích hợp1.
Đối với Hồ Chí Minh, phương pháp ngoại giao được thể hiện rất đa dạng, phong phú, đó là: phương pháp dĩ _______________
1. Xem Trường Chinh: Chủ tịch Hồ Chí Minh và cách mạng Việt Nam, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1991, tr. 149.
18
bất biến ứng vạn biến; thêm bạn bớt thù; vừa đánh, vừa đàm; biết thắng từng bước; lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù trong đấu tranh ngoại giao; dự báo và nắm bắt đúng thời cơ; ngoại giao công tâm; phối hợp các lĩnh vực, trước hết là chính trị, quân sự và ngoại giao, tạo sức mạnh tổng hợp cho đấu tranh ngoại giao...
Như vậy, có thể hiểu: Phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh là bộ phận rất quan trọng trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, bao gồm một hệ thống các cách thức, các phương thức khác nhau để giải quyết các vấn đề trong quan hệ quốc tế nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của cách mạng Việt Nam.
Phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh không đồng nhất với những quan điểm, quan niệm trong ngoại giao Hồ Chí Minh mà từ những quan điểm đó để đưa ra những cách thức xử lý tình huống, vấn đề cụ thể. Ngoại giao muốn đạt được mục đích thì phải có phương pháp. Phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh là nét đặc sắc trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, góp phần tạo nên bản sắc của nền ngoại giao Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.
Thực tiễn lịch sử cho thấy, phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh đã phát huy hiệu quả to lớn trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Mặc dù việc vận dụng tư tưởng, phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong hoạch định đường lối ngoại giao và thực hiện nhiệm vụ đối ngoại trong
19
hoàn cảnh có nhiều khó khăn, thách thức, song chúng ta vẫn đạt được những thành tựu cơ bản, quan trọng. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược quan trọng hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Hai nhiệm vụ đó có sự liên quan mật thiết với nhau, có mối quan hệ khăng khít, chi phối mọi hoạt động và lĩnh vực của đời sống xã hội. Xây dựng Tổ quốc giàu mạnh trên các phương diện sẽ là điều kiện hết sức cơ bản để bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được thực hiện trọn vẹn, tạo lập môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Thực hiện hài hòa và tốt đẹp hai nhiệm vụ chiến lược này sẽ hướng tới mục tiêu chung là xây dựng đất nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay được hiểu là vận dụng những cách thức xử lý tình huống, vấn đề cụ thể ở lĩnh vực ngoại giao theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Nhằm mục tiêu xây dựng, thúc đẩy phát triển các lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội, văn hóa, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội,... Tăng cường tiềm lực quốc phòng, bảo đảm vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia cả ở đất liền, vùng trời, vùng biển và
20
hải đảo. Giữ vững hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.
II- CÁC PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH
1. Phương pháp “Dĩ bất biến ứng vạn biến”
“Dĩ bất biến ứng vạn biến” vừa là phương châm, vừa là phương pháp có tính nguyên tắc trong hoạt động ngoại giao của Hồ Chí Minh. Phương pháp này xuất phát từ tư duy triết học phương Đông “lấy cái không thể
thay đổi để ứng phó với muôn sự thay đổi”, hay lấy cái bất biến để ứng với cái vạn biến. Hồ Chí Minh đã kết hợp hài hòa triết lý phương Đông với phép biện chứng duy vật mácxít. Điều “bất biến” trong phương pháp ngoại giao của Hồ Chí Minh là lợi ích dân tộc, mục tiêu giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, lý tưởng của cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân tiến lên chủ
nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ quá trình đấu tranh trên các phương diện, đặc biệt là đấu tranh ngoại giao trong thời đại Hồ Chí Minh.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, để đạt được những mục tiêu cơ bản là độc lập, tự do, thống nhất đất nước, Hồ Chí Minh đánh giá đúng tình hình quốc tế và so sánh lực lượng ở những thời điểm cụ thể để vận dụng sách lược một cách linh hoạt, mềm dẻo, giành thắng lợi từng bước. Người chỉ ra rằng:
21
“Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt”1.
Phương pháp ngoại giao “Dĩ bất biến ứng vạn biến” được vận dụng một cách linh hoạt trong đấu tranh đàm phán với kẻ thù. Khi đàm phán với kẻ thù, Hồ Chí Minh luôn giữ nguyên tắc bất biến là: độc lập thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của Nhân dân, quyền cơ bản của dân tộc, đó là những thứ không thể đổi chác, không thể nhân nhượng. Nguyên tắc đó được thể hiện bằng quyết tâm: “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”2. Để đảm bảo nguyên tắc “bất biến” phục vụ cho mục tiêu cách mạng, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở: Trước hết là phải giành cho kỳ được độc lập, tất cả cho độc lập, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”3. Nhưng khi có độc lập rồi phải xây dựng chế độ xã hội mới, đem lại tự do, hạnh phúc cho Nhân dân. Vì theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, có độc lập mà dân không được hưởng tự do, hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng có nghĩa gì.
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.8, tr.555.
2. Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2018, tr.224.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr. 131.
22
Hòa bình, độc lập, thống nhất của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của Nhân dân là mục tiêu đấu tranh và phấn đấu của mọi người Việt Nam. Nhưng con đường đi đến mục tiêu đó là con đường dài, đầy khó khăn gian khổ, đòi hỏi phải có sự phấn đấu, hy sinh của nhiều lớp người, nhiều thế hệ. Trong mỗi bước đi lên, cách mạng phải đối phó với muôn vàn biến đổi, đòi hỏi người cách mạng phải sáng suốt, tỉnh táo, nhạy bén để thay đổi cách thức ứng phó với những điều kiện lịch sử mà cuộc đấu tranh đặt ra. Chiến lược, sách lược cách mạng phải linh hoạt, phù hợp: “ứng vạn biến” trong mỗi thời điểm, điều kiện nhất định sao cho đạt được mục tiêu cuối cùng đã xác định. Phương pháp “Dĩ bất biến ứng vạn biến” của Hồ Chí Minh hoàn toàn phù hợp với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong đấu tranh cách mạng phải giành cho được thắng lợi để từng bước tiến lên, nhưng không phải chỉ biết mục tiêu trước mắt mà quên mục tiêu lâu dài, cũng không thể hy sinh mục tiêu lâu dài chỉ vì những mục tiêu trước mắt. Trong đấu tranh ngoại giao, có những lúc cần thỏa hiệp, nhân nhượng, nhưng thỏa hiệp phải có nguyên tắc, không được rời bỏ những vấn đề có tính nguyên tắc khi thương lượng với kẻ thù. Có nghĩa là phải xác định giới hạn của nhân nhượng trong ngoại giao, đó là không được làm tổn hại đến chủ quyền của quốc gia và lợi ích dân tộc. Năm 1946, Đảng ta khẳng định: “Tạm ước 14-9 là một bước nhân nhượng cuối cùng. Nhân nhượng nữa là
23
phạm đến chủ quyền của nước, là hại quyền lợi cao trọng của dân tộc”1. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã kiên quyết đấu tranh để có “ngoại giao riêng”, vì “nếu quân đội và ngoại giao Việt Nam ở dưới quyền Pháp tức là Việt Nam chưa được độc lập hẳn và vẫn là thuộc địa của Pháp”2.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh đã đánh giá đúng tình hình quốc tế và so sánh lực lượng ở những thời điểm cụ thể để vận dụng sách lược một cách linh hoạt, mềm dẻo, giành thắng lợi từng bước. Căn cứ vào thực lực cách mạng và tương quan lực lượng trong những thời điểm nhất định, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra những hình thức đấu tranh thích hợp, những sách lược phù hợp để tranh thủ mọi lực lượng có thể tranh thủ được trên trường quốc tế, ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, phương pháp “Dĩ bất biến ứng vạn biến” được thể hiện ở nỗ lực tìm kiếm những cơ hội hòa bình trong mối quan hệ với Pháp... của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau Cách mạng Tháng Tám. Điều đó cũng đã thể hiện rõ lập trường có tính nguyên tắc của nước ta trong giữ
_______________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr.148.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.494.
24
gìn nền độc lập, hòa bình cho dân tộc, tránh nguy cơ chiến tranh. Hiệp định sơ bộ ngày 06/3/1946, Tạm ước ngày 14/9/1946 được ký với Pháp trước thời điểm ta buộc phải kháng chiến toàn quốc khi cơ hội hòa bình
cuối cùng không còn nữa là minh chứng điển hình. “Dĩ bất biến ứng vạn biến” còn là sự linh hoạt mềm dẻo trong sách lược nhưng cũng phải thể hiện thái độ kiên quyết và biết tận dụng mọi cơ hội để tấn công ngoại giao. Tháng 01/1966 trong thư gửi một số nước có liên quan đến Hiệp định Giơnevơ, Hồ Chí Minh viết: “Chính phủ Mỹ phải tuyên bố công nhận lập trường bốn điểm của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và chứng tỏ điều đó bằng những việc làm thực sự”1. Tháng 01/1947, trong thư gửi tướng Lơcléc, Hồ Chí Minh thể hiện thái độ quyết tâm và kiên quyết trong việc giải quyết vấn đề Việt Nam với Pháp “Chúng tôi đã nhất quyết ở trong khối Liên hiệp Pháp, cộng tác thành thực với nước Pháp và tôn trọng quyền lợi kinh tế, văn hóa Pháp trong nước chúng tôi. Nhưng chúng tôi cũng nhất quyết chiến đấu đến cùng cho độc lập và thống nhất quốc gia”2.
Trên thực tế, Hồ Chí Minh cũng đã biết tận dụng mọi cơ hội để mở mặt trận ngoại giao tấn công kẻ thù. Ngay sau khi chiến thắng Điện Biên Phủ, chúng ta đã
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr. 665.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 6.
25
tiến hành ngay việc ký kết Hiệp định Giơnevơ, lợi dụng phong trào phản đối chiến tranh xâm lược của Mỹ ở miền Nam Việt Nam trong giai đoạn 1954 - 1960, Người chỉ đạo tích cực vận động quốc tế mở mặt trận ngoại giao, chủ động đấu tranh ngoại giao và coi đây là
một bộ phận quan trọng trong đấu tranh cách mạng. Nhìn nhận kết quả Hiệp định Giơnevơ, đánh giá về tương quan so sánh lực lượng thời điểm đó, thấy rằng phương châm, phương pháp “Dĩ bất biến ứng vạn biến” đã được Hồ Chí Minh và Đảng vận dụng hết sức sáng tạo, linh hoạt để giành thắng lợi. Nhân dân Việt Nam phải chấp nhận sự hy sinh mất mát và nhân nhượng để có được hòa bình ở miền Bắc sau Hiệp định Giơnevơ. Nhưng nhờ cái “vạn biến” đó mà cách mạng Việt Nam có điều kiện xây dựng hậu phương miền Bắc, chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng chiến trường kỳ ở miền Nam và sau này trở thành nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng. Trong bức thư gửi Tổng thống Mỹ ngày 15/02/1967, Hồ Chí Minh viết: “Nhân dân Việt Nam chúng tôi rất thiết tha với độc lập, tự do và hòa bình... con đường đưa đến hòa bình ở Việt Nam là Mỹ phải chấm dứt xâm lược...; phải rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam”1.
Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, nguyên tắc này luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ _______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.301.
26
Việt Nam vận dụng để chủ động đàm phán nhằm chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam vào năm 1975. “Dĩ bất biến ứng vạn biến” không chỉ được vận dụng trong thực hiện ngoại giao với các nước xâm lược Việt Nam trong quá trình tiến hành cách mạng mà còn được thực hiện trong quan hệ ngoại giao với các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa và các nước khác trên thế giới. Hồ Chí Minh luôn có một nhận thức sâu sắc về nhân tố quốc tế trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Người không chỉ đấu tranh cho dân tộc mình mà còn đấu tranh cho các dân tộc khác. Theo Hồ Chí Minh, cần phải kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong sáng; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để thành lập nên mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống xâm lược, góp phần đưa mục tiêu cách mạng đi tới thắng lợi cuối cùng.
Tóm lại, phương pháp ngoại giao “Dĩ bất biến ứng vạn biến” là phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh sử dụng linh hoạt, xử lý thành công nhiều tình huống, nhiều sự kiện có tính phương pháp luận trong hoạt động ngoại giao của Người, góp phần đưa ngoại giao Việt Nam từng bước tạo thế và lực làm thay đổi cục diện chiến tranh và tương quan lực lượng có lợi cho ta. “Dĩ bất biến ứng vạn biến” không chỉ là một phương châm hành động, mà còn là hạt nhân phép biện chứng
Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó xử lý linh hoạt, hiệu quả mọi tình huống nhiệm vụ đặt ra.
27
2. Phương pháp biết thắng từng bước
Biết thắng lợi từng bước là một trong những phương pháp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời cũng là phương pháp và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh. Phương pháp này được thể hiện rõ nhất trong đấu tranh giành chính quyền, trong giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc.
Lê Duẩn cho rằng: Biết thắng từng bước cho đúng có nghĩa là ở mỗi thời kỳ nhất định hay mỗi tình thế nhất định, biết đề ra được mục tiêu cụ thể sát hợp nhất, biết dựa theo quy luật khách quan mà điều khiển cuộc đấu tranh thế nào để thực hiện mục tiêu đó với mức thắng lợi tối đa, mở đường cho cách mạng tiến lên những bước mới cao hơn và tạo ra triển vọng chắc chắn nhất cho thắng lợi cuối cùng1.
Phương pháp biết thắng từng bước có cơ sở lý luận từ chủ nghĩa Mác - Lênin, đó là quan điểm phát triển biện chứng từ tuần tự đến nhảy vọt. Trong tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam thường phải đối phó với kẻ thù mạnh hơn mình như: Các triều đại phong kiến Trung Hoa, thực dân Pháp, phátxít Nhật và đế quốc Mỹ. Cũng có khi chúng ta cũng phải đối phó với nhiều kẻ thù cùng một lúc như
_______________
1. Xem Lê Duẩn: Tuyển tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, t. 2, tr. 565-566.
28
giai đoạn 1945 - 1946. Do vậy, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh, phương pháp hợp lý nhất, hiệu quả nhất là giành thắng lợi từng bước để đi tới giành thắng lợi hoàn toàn1.
Để thực hiện mục tiêu cách mạng, giành thắng lợi trước quân xâm lược, Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối độc lập tự chủ, sáng tạo và đã lãnh đạo quân và dân nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công, đánh thắng địch từng bước, tạo thế, tạo lực, tạo thời cơ tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Trong cách mạng giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn là chủ trương chiến lược đúng đắn, sáng tạo, thể hiện bản lĩnh, tầm nhìn và nghệ thuật chỉ đạo chiến lược của Đảng.
Hiệp định sơ bộ ngày 06/3 và Tạm ước ngày 14/9/1946 thể hiện rất rõ phương pháp giành thắng lợi từng bước trên mặt trận ngoại giao. Trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ, linh hoạt trong đấu tranh, chủ động, kiên quyết và khôn khéo, luôn hướng đích, việc nhân nhượng này cho phép cách mạng trong những thời điểm nguy nan của đất nước biến nghịch thành thuận, biến những khả năng mỏng manh thành hiện thực có lợi cho
_______________
1. Xem Vũ Dương Huân: Một số vấn đề quan hệ quốc tế chính sách đối ngoại và ngoại giao Việt Nam, Nxb. Chính trị - Hành chính quốc gia, Hà Nội, 2009, t.1, tr. 45.
29
cách mạng. Nói cách khác, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nắm vững quy luật cách mạng, nắm vững thời và thế, từ đó giành thắng lợi từng bước, đi từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao và đi tới thắng lợi cuối cùng.
Thắng lợi ở Hội nghị Giơnevơ là thắng lợi trong cuộc đấu tranh ngoại giao bằng việc quán triệt sâu sắc các nghị quyết của Đảng, bằng đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, bằng nội lực của dân tộc và sự khôn khéo, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của dư luận tiến bộ trên thế giới để có bước phá vây quốc tế có kết quả thuận lợi, tạo cục diện quốc tế có lợi cho nước ta trong một bối cảnh phức tạp lúc đó.
Trong cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam dự tính cần thực hiện những bước đi phù hợp với điều kiện thực lực của cách mạng Việt Nam lúc đó. Đảng đã chỉ đạo phát huy thế mạnh về chính trị, dựa vào sức mạnh to lớn là lực lượng chính trị của quần chúng. Và thực tế lịch sử
chứng tỏ đó là một chủ trương đúng đắn, sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lãnh đạo và chỉ đạo cách mạng.
Căn cứ vào thắng lợi quân sự hai mùa khô 1965 - 1966, 1966 - 1967 và trên cơ sở thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, cách mạng Việt Nam đã chủ động mở rộng mặt trận đấu tranh ngoại giao, buộc phía Mỹ và chính quyền Sài Gòn phải
30
ngồi vào bàn đàm phán tại Hội nghị Pari, mở ra giai đoạn “vừa đánh vừa đàm”. Thực hiện phương hướng chiến lược mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra là “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” và để biến phương hướng chiến lược đó thành hiện thực, đồng thời với việc tiếp tục đẩy mạnh tiến công quân sự, trong quá trình đàm phán chúng ta chủ trương thiết lập tại miền Nam một chính quyền liên hiệp ba thành phần, xem đó là một bộ phận trong giải pháp buộc phía Mỹ phải chấp nhận rút hết quân ra khỏi cuộc chiến, chấm dứt sự dính líu quân sự của Mỹ ở Việt Nam. Kết hợp chặt chẽ và nhịp nhàng giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự, đã triển khai và phát triển thế trận chiến tranh nhân dân trên ba vùng chiến lược là rừng núi, nông thôn, đồng bằng và đô thị, thực hành chiến lược tiến công địch cả về chính trị, quân sự và ngoại giao; đánh địch bằng phương thức kết hợp giữa chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy, chiến tranh nhân dân địa phương với chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực hợp thành.
Bằng cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân, cách mạng Việt Nam đã giáng cho địch một đòn chí mạng, buộc đế quốc Mỹ phải đơn phương xuống thang chiến tranh, ngừng ném bom miền Bắc, ngồi vào bàn đàm phán, mở ra giai đoạn “vừa đánh vừa đàm”. Đây là thắng lợi bước đầu, nhưng có ý nghĩa chiến lược quan trọng, góp phần làm cho hậu phương thêm vững chắc,
31
tiềm lực cách mạng được tăng cường và chi viện cho chiến trường miền Nam thêm thuận lợi. Do đó yêu cầu chính của cách mạng Việt Nam là giữ vững những thắng lợi mới giành được và chuyển sang đấu tranh đòi đế quốc Mỹ rút hết quân khỏi miền Nam Việt Nam.
Phương pháp ngoại giao giành thắng lợi từng bước, tiến tới thắng lợi hoàn toàn là phương pháp sáng tạo phù hợp của một nước nhỏ đối đầu với một nước lớn hùng mạnh, một quân đội nhà nghề, quân số đông, vũ
khí hiện đại... Nắm vững phương châm đánh lâu dài, tranh thủ thời cơ, làm suy yếu kẻ địch, giành thắng lợi từng bước, tiến lên đánh bại hoàn toàn ý chí xâm lược của địch. Đó là một thành công trong chỉ đạo chiến lược, sách lược “biết người biết ta”. Trong từng giai đoạn đấu tranh, để đánh bại âm mưu và thủ đoạn của kẻ thù, Đảng Cộng sản Việt Nam, trên cơ sở đánh giá khách quan, khoa học, phân tích rõ những điểm mạnh - yếu của địch và của ta để đề ra nhiệm vụ, mục tiêu cho phù hợp. Đảng đã quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công cho toàn quân, toàn dân, liên tục tiến công địch, liên tục tạo lực, tạo thế, nắm vững thời cơ, đánh bại từng biện pháp và kế hoạch chiến lược của địch. Những bài học kinh nghiệm, đặc biệt là những nét đặc sắc trong nghệ thuật giành thắng lợi từng bước trên mặt trận ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh có giá trị sâu sắc trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng của Đảng và Nhân dân Việt Nam.
32
3. Phương pháp “thêm bạn, bớt thù”
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Sức mạnh, sự vĩ đại và sự bền bỉ của nhân dân Việt Nam cơ bản là ở sự đoàn kết của nhân dân Việt Nam và sự ủng hộ của nhân dân thế giới”1. Người đặt cách mạng Việt Nam trong quỹ đạo cách mạng thế giới, tranh thủ tối đa các lực lượng có thể, thêm bạn, bớt thù, mở rộng đoàn kết quốc tế trên cơ sở độc lập tự chủ là chiến lược, nguyên tắc ngoại giao cơ bản trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh.
Phương pháp “thêm bạn, bớt thù” chỉ có thể thực hiện trên cơ sở xác định đúng mâu thuẫn. Từ nhận thức đó sẽ giúp người cách mạng xác định đúng nhiệm vụ, xác định chính xác những lực lượng nòng cốt của cách mạng. Với nhãn quan chính trị sắc bén và tinh thần dân tộc cao cả, Hồ Chí Minh xác định mâu thuẫn xã hội bằng cách đặt các quyền dân tộc cơ bản: độc lập, tự do, toàn vẹn lãnh thổ lên trên hết. Từ đó, Người nhận ra mâu thuẫn chủ yếu, nổi bật trong xã hội Việt Nam luôn là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thế lực đế quốc xâm lược và vì vậy, kẻ thù chính yếu của Nhân dân Việt Nam là đế quốc, thực dân cướp nước, áp bức, bóc lột dân ta.
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr. 675.
33
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn làm cách mạng thắng lợi thì phải phân biệt rõ ai là bạn, ai là thù, phải thực hiện thêm bầu bạn, bớt kẻ thù”1. Đó là nguyên tắc chung của mọi cuộc cách mạng, đối với một dân tộc nhỏ lại phải đối đầu với các kẻ thù mạnh và thâm độc thì việc làm cho nước mình ít kẻ thù hơn hết và nhiều bạn đồng minh hơn hết càng trở nên cấp thiết. Bên cạnh đó, phương pháp thêm bạn bớt thù còn hướng tới mục tiêu lớn hơn là góp phần tập hợp lực lượng cho cách mạng Việt Nam.
Dựa trên đặc điểm thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh còn phát triển thêm những phương cách mới để tư tưởng “thêm bạn, bớt thù” của Người được vận dụng với những chủ trương hết sức linh hoạt và phong phú như lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù; nhân nhượng có nguyên tắc để lôi kéo đồng minh; phân biệt chính phủ hiếu chiến với nhân dân yêu chuộng hòa bình của nước đối phương; độ lượng, khoan dung, lôi kéo những người con của dân tộc đã lầm lạc đi theo đế quốc... Như vậy, đối với Hồ Chí Minh, “thêm bạn, bớt thù” vừa là tư tưởng, vừa là phương pháp đã đạt tới trình độ nghệ thuật để mang lại những hiệu quả to lớn... Điều này đã đưa Người trở thành một nhà ngoại giao kiệt xuất đầy trí tuệ và bản lĩnh. Có thể hiểu
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr. 453.
34
phương pháp ngoại giao “thêm bạn, bớt thù” bao gồm những nội dung cơ bản sau:
Một là, để “thêm bạn, bớt thù” phải biết lợi dụng triệt để mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù là chủ trương, biện pháp quan trọng mà Hồ Chí Minh đã thực hiện. Bài học về lợi dụng mâu thuẫn của kẻ thù để phân hóa kẻ thù sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 mà Hồ Chí Minh chỉ đạo, thực hiện là một minh chứng sinh động trong lịch sử ngoại giao Việt Nam.
Sau Cách mạng Tháng Tám, các thế lực đế quốc Mỹ, Tưởng, Anh, Pháp lợi dụng danh nghĩa quân Đồng minh vào tước khí giới phátxít Nhật để thực hiện mưu đồ đen tối của chúng là loại bỏ chính quyền nhân dân của Việt Nam, thành lập chính quyền tay sai của chúng, biến nước Việt Nam thành thuộc địa của chúng. Hai mươi vạn quân Tưởng vào nước ta mang theo bè lũ
tay sai phản động Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc) và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh hội (Việt Cách). Nhìn rõ mâu thuẫn giữa hai tập đoàn đế quốc là Anh - Pháp và Mỹ - Tưởng, chỉ trong vòng hơn một năm, nền ngoại giao non trẻ Việt Nam dưới sự chèo lái của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện các sách lược ngoại giao khác nhau, thậm chí trái ngược nhau như
lúc thì hòa với quân Tưởng để tập trung chống thực dân Pháp ở miền Nam (từ tháng 8/1945 đến tháng 3/1946), lúc thì hòa với thực dân Pháp để đuổi quân Tưởng về nước (từ tháng 3/1946 đến tháng 12/1946).
35
Trước tình thế phải đối phó với nhiều kẻ thù có ưu thế hơn ta rất nhiều về kinh tế và quân sự, Hồ Chí Minh đã thấy rõ những điểm mạnh và điểm yếu của chúng và khẳng định: chỗ mạnh của địch chỉ là tạm thời, chỗ yếu của chúng mới là cơ bản. Hàng ngũ của chúng đang bị những mâu thuẫn gay gắt xâu xé, mâu thuẫn trong việc tranh giành những thuộc địa đã mất, mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau và mâu thuẫn ngay trong bản thân mỗi kẻ thù. Ở Đông Dương, sự mâu thuẫn giữa hai phe Đồng minh Anh - Pháp và Mỹ - Tưởng là một vấn đề cách mạng Việt Nam có thể lợi dụng.
Phân tích mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù để phân hóa chúng, để tránh phải đối phó với nhiều kẻ thù (Tưởng, Pháp, Anh, Mỹ), Hồ Chí Minh đã đưa ra đối sách sáng tạo, mềm dẻo, theo phương châm làm cho mình ít kẻ thù hơn hết và nhiều bạn đồng minh hơn hết. Muốn vậy thì phải biết đàm phán, thương lượng. Theo nhận định của Hồ Chí Minh, kẻ thù chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng và phải đặt riêng bọn thực dân Pháp xâm lược ra một bên mà đánh, đừng bỏ cả Anh, Pháp vào một bị và đừng coi họ là một kẻ thù ngang nhau. Đối với Anh, Mỹ, Tưởng thì tránh xung đột, giao thiệp thân thiện. Đối với bọn tay sai của Tưởng, một mặt Hồ Chí Minh vừa mềm dẻo thuyết phục, tranh thủ những người có xu hướng yêu
36
nước; mặt khác buộc bọn cầm đầu phải chấp nhận hòa hoãn, kiên quyết ngăn chặn những hành động phá hoại của chúng.
Sau này, tại Đại hội III của Đảng (năm 1960), Hồ Chí Minh và Đảng Lao động Việt Nam xác định: Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù là một nguyên tắc chiến lược chứ không chỉ là vấn đề sách lược1. Từ đó, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng đưa ra chủ trương: “Đoàn kết bất cứ người nào có thể đoàn kết được, tranh thủ bất cứ người nào có thể tranh thủ được, trung lập bất cứ người nào có thể trung lập, cốt nhằm phân hóa và cô lập kẻ thù, kiếm thêm nhiều bạn cả trong nước và ngoài nước”2. Thực hiện chủ trương đó, Đảng Lao động Việt Nam đã đưa ra những biện pháp khéo léo nhằm khoét sâu mâu thuẫn giữa đế quốc Mỹ và các đồng minh của họ; giữa Mỹ với các nước phụ thuộc; giữa Mỹ và chính quyền tay sai ở miền Nam Việt Nam... Cuối cùng, Mỹ buộc phải chấp nhận xuống thang chiến tranh, đưa đến cuộc kháng chiến của Nhân dân Việt Nam giành thắng lợi hoàn toàn vào năm 1975.
_______________
1. Xem Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.258.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.16, tr.187.
37
Hai là, thực hiện “thêm bạn, bớt thù”, phải biết thỏa hiệp, biết nhân nhượng để giữ vững lực lượng, lôi kéo đồng minh. Trong giai đoạn 1945 - 1946, để hòa hoãn với quân Tưởng ở miền Bắc khi cần tập trung chống thực dân Pháp ở miền Nam, Hồ Chí Minh đã sử dụng các biện pháp tổng hợp như tiến hành các cuộc tiếp xúc ngoại giao với tinh thần trọng thị và chấp nhận nhân nhượng cho quân Tưởng một số quyền lợi về kinh tế, chính trị và quân sự... Chỉ 8 ngày sau khi Tưởng và Pháp ký Hiệp ước Trùng Khánh (ngày 28/02/1946), Hồ Chí Minh đã ký kết Hiệp định sơ bộ ngày 06/3/1946 với Pháp trên tinh thần “cương quyết giữ quyền độc lập” nhưng liên minh với Pháp, nhân nhượng cho Pháp một số quyền lợi về kinh tế, văn hóa... để Pháp phải thừa nhận quyền dân tộc tự quyết của ta.
Để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ đã diễn ra trên mọi mặt trận. Điển hình như tại Hội nghị Pari, trong hơn 4 năm (từ tháng 5/1968 đến tháng 10/1972), quan điểm giữa Việt Nam và Mỹ hoàn toàn đối chọi nhau về hai vấn đề: Việt Nam đòi Mỹ rút quân và phế bỏ chính quyền tay sai của Mỹ để nhân dân miền Nam tự lựa chọn chính quyền của mình; Mỹ đòi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mỹ cùng rút quân khỏi miền Nam Việt Nam và giữ lại chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Sự đối lập gay gắt về quan điểm làm cuộc đàm phán nhiều lúc rơi vào tình trạng “giậm chân tại chỗ”. Đến tháng 10/1972 do những
38
nhận thức mới và tính toán mới, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mỹ chấp nhận phương án mỗi bên nhân nhượng cho nhau một điều kiện: Việt Nam đạt được mục tiêu số một là Mỹ rút quân; Mỹ đạt được mục tiêu là giữ lại chính quyền tay sai. Việt Nam đã nhân nhượng yêu cầu số hai để đạt được yêu cầu số một là “đánh cho Mỹ cút” để rồi tiến tới “đánh cho ngụy nhào”. Bằng sự nhân nhượng này, ta đã thu hẹp được lực lượng cần đánh đổ khi gạt ra khỏi miền Nam Việt Nam hàng chục vạn lính viễn chinh Mỹ, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975. Đó là minh chứng hùng hồn cho lợi ích của sách lược nhân nhượng, thỏa hiệp đúng đắn.
Đối với Hồ Chí Minh, nhân nhượng, thỏa hiệp lẫn nhau là điều tất yếu trong đàm phán ngoại giao nhưng đó là sự nhân nhượng có chừng mực trong nguyên tắc và đối phương cũng phải nhân nhượng với cách mạng Việt Nam. Muốn nhân nhượng có nguyên tắc lại phải xác định đâu là mục tiêu, lợi ích lâu dài; đâu là lợi ích bộ phận; đâu là nguyên tắc không thể
nhượng bộ... để từ đó lựa chọn hy sinh cái bộ phận vì lợi ích lâu dài, giành thắng lợi từng bước đi tới mục tiêu cuối cùng.
Ba là, để “thêm bạn, bớt thù”, Hồ Chí Minh phân biệt rõ giữa nhân dân yêu chuộng hòa bình với bọn phản động, hiếu chiến trong chính phủ của nước xâm lược và chú ý mâu thuẫn trong giới cầm quyền của chúng.
39
Chủ tịch Hồ Chí Minh khi trả lời phỏng vấn của nhà báo Ôxtrâylia W. Bớcsét tháng 8/1963 và tháng 4/1964, Người khẳng định: “Trước đây, chúng tôi đã chú ý phân biệt thực dân Pháp với nhân dân Pháp yêu chuộng hòa bình, thì ngày nay chúng tôi cũng chú ý phân biệt nhân dân Mỹ vĩ đại có truyền thống tự do, với bọn can thiệp Mỹ và bọn quân phiệt ở Hoa Thịnh Đốn”1, “Chúng tôi phân biệt nhân dân Mỹ với đế quốc Mỹ. Chúng tôi muốn có những quan hệ hữu nghị và anh em với nhân dân Mỹ mà chúng tôi rất kính trọng...”2. Trong lực lượng của đối phương thì “thêm bạn” chính là “bớt thù”, vì khi đó Nhân dân Việt Nam chỉ phải chống chính phủ hiếu chiến của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ chứ không phải chống toàn bộ nước Pháp và nước Mỹ. Tương quan lực lượng vì thế đã xoay chuyển theo chiều hướng có lợi cho ta. Chủ trương đó đã làm kẻ thù bị cô lập trên thế giới và đặc biệt là ngay trong nội bộ đất nước mình.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, những thắng lợi của ta trên chiến trường có ý nghĩa quyết định đối với việc chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp. Nhưng cuộc chống đối trong nội bộ của Pháp cũng đã góp một phần không nhỏ trong việc gây sức ép lật đổ nội các Pháp và buộc Chính phủ Mendes France phải hứa trước quốc hội là sẽ chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.
_______________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr. 148, 304.
40
Bốn là, để “thêm bạn, bớt thù”, Hồ Chí Minh có chủ trương khoan hồng với những người Việt Nam đã từng làm tay sai cho thực dân, đế quốc xâm lược.
Các nước đế quốc, thực dân trong quá trình tiến hành xâm lược Việt Nam, luôn cấu kết với lực lượng phản động trong nước, thi hành chính sách thâm độc “dùng người Việt đánh người Việt”. Do đó, để chống chủ nghĩa thực dân, Hồ Chí Minh có chủ trương cô lập kẻ thù đế quốc bằng cách cảm hóa, lôi kéo những người Việt lầm đường đó trở về với chính nghĩa, với dân tộc; loại bỏ phần tử tay sai của chúng. Xuất phát từ quan điểm trên, Người chủ trương: “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”1. Điều đó thể
hiện truyền thống nhân văn của dân tộc Việt Nam “đánh kẻ chạy đi chứ không đánh người chạy lại”. Chủ trương khoan hồng đại độ đã lôi kéo được những người lầm đường lạc lối trở về với dân tộc, đánh bại âm mưu “chia để trị” của kẻ thù. Đây thực sự là một phương pháp quan trọng trong đấu tranh ngoại giao của cách mạng Việt Nam.
Là một dân tộc nhỏ, trong cuộc đấu tranh bảo vệ các quyền lợi chân chính của dân tộc, Việt Nam nhất thiết phải thực hiện phương pháp “thêm bạn, bớt thù”, phải _______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.244.
41
coi đó là một nguyên tắc chiến lược chứ không phải là sách lược hay thủ đoạn chính trị.
4. Phương pháp lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù
Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù trong đấu tranh ngoại giao là một trong những phương pháp quan trọng trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh. Người đã tiếp thu những luận điểm về mâu thuẫn và lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ đối phương từ quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin và vận dụng sáng tạo, phát triển trong thực tiễn hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Trong cuốn sách Bệnh ấu trĩ tả khuynh trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, V.I. Lênin căn dặn: “Chỉ có thể thắng một kẻ địch mạnh hơn bằng một nỗ lực hết sức lớn, và với điều kiện bắt buộc là phải lợi dụng một cách hết sức tỉ mỉ, hết sức chăm chú, hết sức cẩn thận, hết sức khôn khéo bất cứ một “rạn nứt” bé nhỏ nhất nào giữa các kẻ thù, bất cứ những mâu thuẫn bé nhỏ nhất nào về lợi ích giữa giai cấp tư sản các nước, giữa các tập đoàn hay các hạng tư sản khác nhau ở trong từng nước, cũng như phải lợi dụng mọi khả năng dù bé nhỏ nhất để có được một bạn đồng minh mạnh về số lượng, dù đó là bạn đồng minh tạm thời, bấp bênh, có điều kiện, ít chắc chắn và ít đáng tin cậy. Người nào
42
không hiểu được chân lý ấy thì cũng chẳng hiểu gì về chủ nghĩa Mác, nói chung cũng chẳng hiểu gì về chủ nghĩa xã hội khoa học hiện đại”1.
V.I. Lênin cũng nhấn mạnh: “... phải lợi dụng những mâu thuẫn và những sự đối lập giữa hai nước đế quốc, giữa hai nhóm nước tư bản chủ nghĩa, khích động chúng chống lại lẫn nhau. Chừng nào chúng ta chưa giành được toàn thế giới, chừng nào về hai mặt kinh tế và quân sự, chúng ta còn yếu hơn thế giới tư bản chủ
nghĩa, thì chúng ta còn phải giữ vững nguyên tắc này”2. Trong thư gửi cho đồng chí Saumian, viết tháng 5/1918, V.I. Lênin viết: “Nên biết lợi dụng những sự xung đột ấy: trong lúc này cần phải học làm ngoại giao”3. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển các luận điểm của Lênin về lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù trong đấu tranh ngoại giao của Việt Nam. Phương pháp ngoại giao này được thể hiện trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trước năm 1945, Hồ Chí Minh đã rất chú ý theo dõi mâu thuẫn giữa các nước đế quốc liên quan đến Đông Dương, tìm cách lợi dụng các mâu thuẫn đó có lợi nhất cho cách mạng Việt Nam.
_______________
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 2006, t.41, tr. 68-69.
2. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.42, tr. 67.
3. V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.50, tr. 96.
43
Trong chính sách đối với Đông Dương, thái độ giữa Mỹ và Anh, Pháp có khác nhau. Tại Hội nghị những người đứng đầu Nhà nước, Chính phủ Liên Xô, Mỹ, Anh tại Têhêran tháng 11/1943, khi bàn về các vấn đề thuộc địa sau chiến tranh, Tổng thống Mỹ Rudơven đã tán thành ý kiến của Stalin là không cho Pháp tái lập chế độ thuộc địa ở Đông Dương và đề nghị lập chế độ thác quản và sau đó trao trả độc lập khi điều kiện chín muồi như mô hình Philíppin.
Từ tình hình trên, Hồ Chí Minh quyết định phải tiếp cận với Mỹ, tranh thủ sự đồng tình của Mỹ, vì Chính phủ Mỹ gây khó khăn cho Pháp thiết lập lại chế độ thuộc địa ở Đông Dương.
Nhân dân ta đang bị sự áp bức một cổ hai tròng. Mâu thuẫn giữa Pháp và Nhật cũng tăng lên cùng thời gian và đã đến đỉnh điểm là Nhật đảo chính Pháp vào ngày 09/3/1945. Ba ngày sau, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta. Chỉ thị đã phân tích tình hình và nguyên nhân Nhật - Pháp bắn nhau và nêu những nhiệm vụ cách mạng cần phải làm; lợi dụng xung đột Nhật - Pháp và chính nhờ mâu thuẫn này, tranh thủ điều kiện thuận lợi tạo ra do quân Đồng minh đánh tan phátxít Đức, Nhật mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo Nhân dân làm Cách mạng Tháng Tám thành công.
44
Sau Cách mạng Tháng Tám, trước những khó khăn chồng chất, nước Việt Nam mới trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Về kinh tế, nạn đói mà thực dân Pháp và quân phiệt Nhật gây ra đã làm hơn hai triệu người chết đói và nạn đói vẫn đang đe dọa. Về chính trị, Nhà nước non trẻ vừa được thành lập, các cơ sở chính quyền chưa hoàn chỉnh. Về mặt quốc tế, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chưa được nước nào công nhận. Bên cạnh khó khăn về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, đất nước còn đối mặt với nạn thù trong giặc ngoài. Do vậy, so với các thời kỳ khác, chưa bao giờ Việt Nam có nhiều kẻ thù đến thế.
Trong bối cảnh trên, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích, đánh giá tình hình và đề ra những quyết sách, trong đó có chính sách ngoại giao. Chỉ thị “Hòa để tiến” của Ban Thường vụ Trung ương ngày 25/11/1945 nhận định: “Cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng. Cuộc cách mạng ấy đang tiếp diễn, nó chưa hoàn thành, vì nước chưa được hoàn toàn độc lập...”1. Về ngoại giao, “Lợi dụng mâu thuẫn của Trung Quốc - Mỹ và Anh - Pháp Đờ Gôn để tranh thủ ngoại viện, ký
_______________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.8, tr.26.
45
hiệp ước với các nước Đồng minh, và để họ thừa nhận nền độc lập của dân tộc ta”1.
Như vậy trong hoàn cảnh trên, nhiệm vụ trung tâm của cách mạng Việt Nam là củng cố và giữ vững chính quyền cách mạng non trẻ. Để tránh phải đối phó với nhiều kẻ thù cùng một lúc, Đảng đã xác định được kẻ thù chính là Pháp, tập trung lực lượng chống kẻ thù chính, hòa hoãn với Tưởng, thực hiện chính sách Hoa - Việt thân thiện. Sở dĩ ở đây có thể hòa hoãn với Tưởng để chống Pháp là do Pháp và Tưởng đều có mục tiêu vào nước ta để tiêu diệt cách mạng Việt Nam, song cách thức có khác nhau. Pháp dùng quân sự để thiết lập chế độ
thuộc địa, còn Tưởng lợi dụng tư cách là quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật, kéo theo bè lũ tay sai để thiết lập chính quyền tay sai của chúng nên ta có thể hòa hoãn được với Tưởng.
Hơn nữa, lúc đó quân Tưởng gặp nhiều khó khăn lớn, như Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhấn mạnh: Khó khăn lớn nhất của bọn chúng là trước sức mạnh đoàn kết nhất trí của Nhân dân ta, chúng không tạo ngay được chỗ dựa về chính trị. Chúng muốn lật ta nhưng nhận thấy nếu không có sự giúp đỡ của chính quyền ta, chúng không thể nào giải quyết được những nhu cầu rất to lớn về vật chất cho đội quân đông đảo bị nhân dân xa _______________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.390.
46
lánh, căm ghét. Chúng còn phải tính cả những nguy cơ nghiêm trọng khác có thể xảy ra đối với chúng. Quân Tưởng còn gặp những khó khăn khác như đang phải lo đối phó với cuộc nội chiến ở trong nước. Khó khăn khác nữa là lực lượng đông, song quân ô hợp, binh lính ốm yếu, mặt mũi bủng beo, chân tay phù thũng, râu tóc bơ phờ, quân phục rách rưới, gánh gồng lề mề, mang theo cả đàn bà và trẻ con...1.
Ngày 28/02/1946, Pháp và Tưởng đã ký Hiệp ước Hoa - Pháp tại Trùng Khánh. Theo Hiệp ước, Pháp trả cho Tưởng các tô giới Thượng Hải, Hán Khẩu, Quảng Châu, Thiên Tân, đất mướn Quảng Châu Loan, bán lại đường sắt Vân Nam, mở cửa Hải Phòng thành cảng tự do, hàng hóa quân Tưởng vận chuyển qua miền Bắc được miễn thuế và lót tay cho quân Tưởng khoản tiền lớn; quân Tưởng đồng ý cho quân Pháp thay quân Tưởng ở Bắc Đông Dương.
Tình hình trên đặt cách mạng Việt Nam vào tình thế vô cùng khó khăn, nguy hiểm. Trước đây, nhờ lợi dụng mâu thuẫn kẻ thù để tránh phải đối đầu với cả Pháp và Tưởng cùng một lúc, nay chúng đã thỏa hiệp với nhau. Sau khi nghiên cứu kỹ tình hình, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị tình hình và chủ trương ngày 03/3/1946. Chỉ thị phân tích
_______________
1. Xem Lê Giản: Những ngày sóng gió, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1985, tr.111-112.
47
cho rằng đây không phải là chuyện mua bán riêng giữa Tưởng và Pháp mà là sự nhân nhượng giữa Mỹ, Anh, Tưởng và Pháp về vấn đề Đông Dương. Chúng tạm thời dẹp mâu thuẫn nội bộ để cứu vãn quyền lợi của chúng đang bị cao trào cách mạng đe dọa...
Trong bối cảnh gian nguy đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng đã chủ trương hòa với Pháp vì có hai điều lợi lớn: Phá được mưu mô của quân Tưởng, của phátxít và Việt gian, bảo toàn được thực lực; giành được giây phút nghỉ ngơi chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới.
Ngày 06/3/1946, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Pháp đã ký Hiệp định sơ bộ với nội dung: Nước Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là nước tự do, có chính phủ, có nghị viện, có quân đội, có tài chính riêng, nằm trong Liên bang Đông Dương và khối Liên hiệp Pháp; Chính phủ Pháp cam kết sẽ thừa nhận những quyết định của cuộc trưng cầu dân ý về vấn đề thống nhất ba kỳ; Việt Nam chấp thuận để 15.000 quân Pháp vào Bắc Việt Nam làm nhiệm vụ, thay quân đội Trung Hoa, hạn không quá 5 năm1. Có thể đánh giá việc ký Hiệp định sơ bộ là một biện pháp ngoại giao sáng suốt, lợi dụng mâu thuẫn Pháp - Tưởng, nhất là khi chúng đã thỏa hiệp với nhau.
Chuyến thăm Pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời gian họp Hội nghị Phôngtennơblô, Người đã
_______________
1. Xem Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử, Sđd, tr.412.
48
gặp nhiều người Pháp từ chính khách đến nhà báo, nhà khoa học, bạn bè. Người đã giải thích rõ lập trường của Đảng và Chính phủ Việt Nam để cô lập bọn phản động Pháp, để lợi dụng “sự khác nhau” của nhân dân Pháp và bọn thực dân Pháp có lợi cho cuộc kháng chiến của Việt Nam.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng rất chú ý lợi dụng mâu thuẫn giữa Mỹ và các đồng minh của Mỹ, trước hết là Pháp. Pháp và Mỹ vốn có mâu thuẫn trong vấn đề Đông Dương, khi Đờ Gôn trở
lại cầm quyền, mâu thuẫn đó càng tăng. Ngày 29/3/1963 tại Hội nghị Hội đồng Bộ trưởng NATO, lần đầu tiên Đờ Gôn nhận xét: Những biến cố quan trọng đang xảy ra ở Việt Nam làm cho Pari chú ý và lo lắng. Đó là lời chỉ trích vì lúc này Mỹ đang tăng cố vấn, viện trợ cho ngụy quyền miền Nam Việt Nam. Ngày 23/7/1964, Đờ Gôn đề nghị triệu tập hội nghị xem xét vấn đề Đông Dương, trung lập hóa Việt Nam và Đông Dương, Tổng thống Mỹ Giônxơn đã phản đối.
Trước đó, nắm được những bất đồng giữa Pháp và Mỹ, vào tháng 12/1960, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Chính phủ Việt Nam đã đề ra chủ trương miền Nam độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc với việc thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Với chủ
trương này, cách mạng đã hạn chế cuộc đấu tranh trong
49
phạm vi dân tộc chống đế quốc, gắn đấu tranh của ta với bảo vệ hòa bình thế giới, do vậy mà tranh thủ được sự đồng tình của đồng minh cũng như Pháp, khơi sâu thêm mâu thuẫn Pháp - Mỹ có lợi cho Việt Nam.
Ngoài mâu thuẫn Pháp - Mỹ, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chú ý khơi sâu mâu thuẫn giữa Mỹ và các đồng minh khác, giữa Chính phủ Mỹ và nhân dân Mỹ, các phe phái trong giới cầm quyền Mỹ, giữa Mỹ và tay sai... Cụ thể Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần gửi thư cho người đứng đầu các nước, trong đó có Tổng thống Mỹ, tiếp nhiều chính khách, phóng viên báo chí, viết nhiều bài... nhấn mạnh sự nghiệp chính nghĩa của Nhân dân Việt Nam, phê phán cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, phân hóa hàng ngũ đối phương, tranh thủ thêm sự đồng tình ủng hộ của bạn bè, nhân dân thế giới đối với cách mạng Việt Nam.
Ngoài ra, đối với Hồ Chí Minh, lợi dụng mâu thuẫn kẻ thù không những là vấn đề chiến lược, biện pháp sách lược của cách mạng Việt Nam mà còn là nghệ thuật trong đấu tranh ngoại giao. Đây là sự sáng tạo lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong đấu tranh ngoại giao, vận dụng trong thực tiễn đã đem lại những thắng lợi to lớn cho cách mạng Việt Nam.
5. Phương pháp dự báo và nắm bắt đúng thời cơ
Trong quá trình hoạt động thực tiễn của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi việc quan sát, phân tích và
50
nhận thức những diễn biến quốc tế, khu vực Thái Bình Dương và Đông Dương như là một trong những nhân tố quyết định để đề ra chiến lược cách mạng Việt Nam trong từng thời kỳ nhất định. Qua việc tiếp cận với nhiều nguồn thông tin, hệ thống hóa các sự kiện, nghiên cứu và suy luận, Người đã đi đến những khái quát đúng về xu thế thời cuộc, chiều hướng phát triển của những diễn biến chủ yếu trong quan hệ quốc tế và trong so sánh lực lượng toàn cầu... đang tác động đến cục diện chiến tranh của Nhân dân Việt Nam. Người cho rằng: "Tình hình thế giới dính dáng mật thiết với nước ta"1. Trên cơ sở đó và cùng với biến chuyển của tình hình trong nước. Người đã chỉ ra các khả năng phát triển của cách mạng Việt Nam trong từng thời kỳ cụ thể, nhất là trước những khúc quanh của thời đại.
Phương pháp ngoại giao dự báo và nắm bắt đúng thời cơ là một phương pháp thể hiện khả năng phân tích tình hình và dự báo xu thế phát triển tình hình của Hồ Chí Minh. Không phải bất cứ nhà ngoại giao nào cũng có khả năng này. Nội dung của phương pháp này tập trung vào bốn vấn đề chủ yếu sau:
Một là, phải phân tích một cách toàn diện và hệ thống bối cảnh thế giới và trong nước, tình hình ta và địch, chỉ ra những mối liên hệ, quan hệ biện chứng giữa
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr. 37.
51
các yếu tố có liên quan và ảnh hưởng đến cách mạng Việt Nam và ngoại giao hai bên. Hồ Chí Minh đã cho rằng tình hình thế giới dính dáng mật thiết với nước ta nên sự vận động và phát triển của cách mạng Việt Nam chịu tác động lớn của những xu thế trên thế giới. Vì vậy, trong quá trình xem xét tình hình thế giới phải gắn phân tích với tổng hợp, khái quát để rút ra những nét chung nhất, tránh tình trạng “chỉ thấy cây mà không thấy rừng”, chỉ thấy các sự kiện đơn lẻ mà không thấy mối quan hệ qua lại, phụ thuộc chặt chẽ và tác động lẫn nhau, không thấy các xu thế tồn tại khách quan đang chi phối sự vận động và phát triển của tất cả các dân tộc trên thế giới trong từng thời kỳ lịch sử.
Hai là, phân tích sự xuất hiện của các cường quốc mới, mâu thuẫn giữa các trung tâm quyền lực và các đối tác để dự báo chiều hướng vận động của quan hệ quốc tế và ngoại giao Việt Nam cũng như vận hội của nước nhà. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh sự thay đổi cơ bản của quan hệ quốc tế. Người cho rằng cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai đã chính thức kết thúc ở châu Âu, cũng như Viễn Đông, chủ nghĩa dân chủ được toàn thắng, các cường quốc Đồng minh đã trịnh trọng công nhận quyền dân tộc tự quyết, điều đó sẽ mở ra một kỷ nguyên mới đầy hy vọng cho các dân tộc Á Đông.
52
Ba là, phân tích tương quan lực lượng, chiều hướng phát triển của tình hình để dự báo khả năng, thời điểm và thời cơ của cách mạng và mở mặt trận ngoại giao. Ngay từ tháng 6/1941, Người đã đưa ra nhận định cục diện chiến tranh thế giới và điều kiện thời cơ cho cách mạng nước ta: “Nay cơ hội giải phóng đến rồi, đế quốc Pháp bên Âu đã không thể tự cứu, càng không thể cứu bọn thống trị Pháp ở ta”1. Năm 1946, Người nêu lên một kết luận có tính chất dự báo về triển vọng của cuộc kháng chiến: “Nước Việt Nam có thể bị tàn phá, nhưng nước Việt Nam sẽ lại hùng mạnh hơn sau cuộc tàn phá đó. Còn nước Pháp chắc chắn sẽ mất hết và sẽ biến hẳn khỏi cõi Á châu”2.
Bốn là, chủ động chuẩn bị lực lượng để chớp thời cơ giành thắng lợi khi thời cơ đến. Cùng với việc dự báo chính xác thời cơ cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tích cực, chủ động chuẩn bị lực lượng, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi, từng bước khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức để tạo thế và lực mới, hình thành tương quan lực lượng giữa ta và địch, ngày càng có lợi cho cách mạng, góp phần thúc đẩy thời cơ.
Phương pháp ngoại giao dự báo và nắm đúng thời cơ của Hồ Chí Minh đã tranh thủ được những điều kiện
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr. 230.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 24.
53
thuận lợi và đồng thời hạn chế được những khó khăn của tình hình trong nước và quốc tế để tiến hành các hoạt động ngoại giao giành thắng lợi dựa trên tinh thần đi trước một bước trong tư duy chiến lược, sách lược ngoại giao. Đồng thời cũng khẳng định ngoại giao phải nắm đúng thời cơ mà đưa ra mục tiêu của mình, phải tranh thủ tận dụng thời cơ, thời điểm có lợi cho mình mà đàm phán trên thế mạnh của Việt Nam. Phân tích thời cơ không chỉ dừng lại ở tìm đối sách, tình huống mà quan trọng hơn còn nhằm làm rõ chiều hướng phát triển của tình hình và dự đoán trước được khả năng phát triển của tình hình để chủ động nhận thức và đón nhận thời cơ, kịp thời đề ra những quyết định điều chỉnh chiến lược khi cần, nhằm tạo ra bước ngoặt thúc đẩy cách mạng.
6. Phương pháp ngoại giao tâm công
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã có truyền thống ngoại giao lâu đời. Vì thường xuyên phải chống giặc ngoại xâm mạnh, cần phải giao thiệp với nước lớn nên cần phải sử dụng các phương pháp ngoại giao trong đó có phương pháp ngoại giao tâm công. Tâm công là phương pháp ngoại giao của mọi thời đại. Tranh thủ người, thuyết phục người, chinh phục người là một trong những mục tiêu của phương pháp ngoại giao này.
54
Kết hợp truyền thống với hiện đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm vận dụng sáng tạo và đưa ngoại giao tâm công của cha ông lên một tầm cao mới trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do, thống nhất để đạt được mục đích và nhiệm vụ cách mạng. Cơ sở của ngoại giao tâm công chính là bản tính hướng thiện của mỗi con người và sự chia sẻ các giá trị nhân văn chung của nhân dân tiến bộ thế giới, “Tuy phong tục mỗi dân mỗi khác, nhưng có một điều thì dân nào cũng giống nhau. Ấy là dân nào cũng ưa sự lành và ghét sự dữ”1.
“Tâm công” có nghĩa là đánh vào lòng người, là một trong những phương pháp đặc sắc của ngoại giao truyền thống Việt Nam đã được Hồ Chí Minh kế thừa, vận dụng và phát triển trong ngoại giao Việt Nam hiện đại. Ông cha ta đã sử dụng phương pháp “tâm công” một cách có hiệu quả trong quá trình tiến hành cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, bảo vệ bờ cõi và chủ
quyền nước Nam. Sử dụng “tâm công” để thu phục lòng người bằng chính nghĩa, chinh phục bằng nhân tình, thuyết phục bằng lẽ phải và đạo lý.
Tâm công dùng trong binh vận để làm nhụt nhuệ khí của địch, gây hoang mang trong hàng ngũ đối phương, kết hợp với thắng lợi trên chiến trường buộc địch phải nghị hòa rút quân về nước. Đó là phương sách ngoại giao đã từng được Lê Lợi và Nguyễn Trãi _______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr. 397.
55
sử dụng trong thời kỳ kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh và đã đạt được hiệu quả rất cao. Từ bài thơ thần của Lý Thường Kiệt thời Lý đến những áng văn trong Thư dụ Vương Thông của Nguyễn Trãi là những kế sách “tâm công” của ông cha trong cuộc đấu tranh chống lại giặc phương Bắc xâm lược... Trong thời kỳ lịch sử mới, sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới, phong trào vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; chính sự tương đồng về tình cảm, tâm lý, yêu hòa bình và hữu nghị, yêu lẽ phải và đạo lý của nhân loại tiến bộ cùng với tinh thần quốc tế chân chính là cơ sở để Hồ Chí Minh thực hiện phương pháp ngoại giao “tâm công” nhằm khơi dậy và tăng cường tình đoàn kết, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân các nước, các tổ chức, các lực lượng, các nhân sĩ yêu hòa bình và công lý trên thế giới đối với cuộc đấu tranh chính nghĩa và công cuộc xây dựng đất nước của Nhân dân Việt Nam.
Đối với Hồ Chí Minh, tâm công được sử dụng như là một phương pháp ngoại giao đối với kẻ thù và các lực lượng tiến bộ trên thế giới.
Thứ nhất, đối với bạn bè đồng chí của Việt Nam: Hồ Chí Minh luôn hướng tới xây đắp tình cảm chân thành “vừa là đồng chí, vừa là anh em” và tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung. Trong quá trình hoạt động cách mạng, đi đến đâu Người cũng chủ động xây dựng tình hữu nghị, hữu ái với các nước. Người nhắc nhở cán bộ
56
làm công tác đối ngoại phải làm cho đúng đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước... tăng cường đoàn kết hữu nghị với các nước xã hội chủ nghĩa, tăng cường hữu nghị với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân thế giới... vì lợi ích của hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Hay trong vấn đề quan hệ với Ấn Độ, Người đã đề cao vai trò của Ấn Độ đối với Việt Nam “... luôn luôn biết ơn sự đồng tình và ủng hộ của Chính phủ và nhân dân Ấn Độ anh em. Nhân dân Việt Nam luôn luôn nhớ rằng Thánh Găng đi ủng hộ cuộc kháng chiến của Việt Nam ngay khi mới bắt đầu và Thủ tướng Nêru đã nhiều lần lên tiếng phản đối cuộc chiến tranh xâm lược ở Việt Nam”1. Với những nước láng giềng của Việt Nam, Người luôn đề cao những điểm tương đồng, nương tựa vào nhau, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau như anh em một nhà. Người từng nhấn mạnh: “Giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình”2. Mối quan hệ với Trung Quốc luôn được Hồ Chí Minh đặt vị trí quan trọng trong ngoại giao. Với các nhà lãnh đạo Trung Hoa, Hồ Chí Minh kết mối thân tình, tôn trọng lẫn nhau, tạo nên quan hệ cá nhân khá sâu sắc trong lịch sử quan hệ giữa hai nước. Có thể nói, Người đã khéo léo xử lý các mối quan hệ phức tạp để hình thành nên mối quan hệ quốc tế mới, có nguyên tắc, có lý, có tình.
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.264.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.105.
57
Thứ hai, phương pháp ngoại giao “tâm công” dựa trên cơ sở chủ nghĩa nhân văn, tìm những điểm tương đồng để thức tỉnh và khích lệ sự ủng hộ quốc tế, phân biệt rõ bạn thù, phân biệt nhân dân yêu chuộng hòa bình với bọn phản động trong chính phủ của đối phương để cô lập kẻ thù và tập hợp được lực lượng rộng rãi trên thế giới. Ngay sau khi Pháp thất bại tại Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ được ký kết (tháng 7/1954), Hồ Chí Minh đã nêu rõ lập trường của Chính phủ Việt Nam là bảo hộ lợi ích kinh tế và văn hóa của người Pháp ở Việt Nam và bày tỏ nguyện vọng bình thường ngay mối quan hệ giữa hai nước trên nguyên tắc bình đẳng, hai bên cùng có lợi.
Trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh cũng đã sử dụng phương pháp ngoại giao tâm công trong thực tiễn, đi sâu vào “lương tri” của nhân dân tiến bộ Mỹ, đánh vào những tổn thất của Mỹ... đã tạo ra phong trào phản chiến ở Mỹ, lên án cuộc chiến tranh phi nghĩa của Mỹ ở Việt Nam. Trong quan hệ ngoại giao với Mỹ, Hồ Chí Minh khẳng định với nhân dân Mỹ quan điểm của Việt Nam: “Chúng tôi không có xích mích gì với nhân dân Mỹ. Chúng tôi muốn sống hòa bình và hữu nghị với nhân dân Mỹ. Nhân dân chúng tôi được giáo dục theo tinh thần quốc tế chân chính. Trước đây, chúng tôi đã chú ý phân biệt thực dân Pháp và nhân dân Pháp yêu chuộng hòa bình,
58
thì ngày nay chúng tôi cũng chú ý phân biệt nhân dân Mỹ vĩ đại có truyền thống tự do, với bọn can thiệp và bọn quân phiệt ở Hoa Thịnh Đốn”1. “Chúng tôi muốn có những quan hệ hữu nghị và anh em với nhân dân Mỹ
mà chúng tôi rất kính trọng vì nhân dân Mỹ là một dân tộc tài năng, đã có nhiều cống hiến cho khoa học, và nhất là gần đây đã lên tiếng phản đối cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam”2.
Thứ ba, đối với kẻ thù và đối phương, Hồ Chí Minh vừa khơi dậy lòng tự hào, vừa dùng những lý lẽ có sức thuyết phục để thức tỉnh lương tâm. Trong quan hệ với Pháp, chính người Pháp đã phải thừa nhận rằng: Hồ Chí Minh đánh chìm chủ nghĩa thực dân Pháp mà vẫn giữ được tình hữu nghị với nhân dân Pháp.
Trong thư gửi tướng Lơcléc đầu năm 1947, Hồ Chí Minh viết: “Ngài là một đại quân nhân và một nhà đại ái quốc... Một nhà ái quốc trọng những người ái quốc nước khác. Một người yêu quê hương mình, trọng quê hương của kẻ khác... Giá thử ngài đánh được chúng tôi đi nữa - đấy là một điều viển vông, vì nếu ngài mạnh về vật chất, thì chúng tôi đây, mạnh về tinh thần, với một chí cương quyết chiến đấu cho tự do của chúng tôi - thì những thắng lợi tạm thời kia chẳng những không tăng
_______________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr.148, 304.
59
thêm mà lại còn làm tổn thương đến uy danh quân nhân và tư cách ái quốc của ngài”1.
Hồ Chí Minh còn rất quan tâm tới công tác đối xử với tù binh, cảm hóa tù binh, cùng với đó là công tác địch vận: “Địch vận là tìm cách làm sao phá được địch mà không phải đánh”2.
Phương pháp ngoại giao tâm công Hồ Chí Minh đã thực sự có hiệu quả trong cuộc đấu tranh ngoại giao của cách mạng Việt Nam. Với phương pháp này, Người đã cô lập được lực lượng kẻ thù, đồng thời tập hợp được đông đảo bạn bè và các lực lượng tiến bộ ủng hộ cuộc chiến tranh chống xâm lược của Nhân dân Việt Nam, đứng về phía cách mạng Việt Nam. Qua đó cũng làm cho đối phương hoang mang, dao động và thể hiện tính nhân văn chính nghĩa của cách mạng, Chính phủ và Nhân dân Việt Nam.
7. Phương pháp kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại giao, vừa đánh vừa đàm, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng
Phương pháp kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, ngoại giao, giữa đánh và đàm trở thành một chủ trương, một phương pháp và là một trong những nghệ thuật chỉ đạo đấu tranh cách
_______________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.5, 595.
60
mạng độc đáo trong chiến tranh giải phóng dân tộc. Theo Hồ Chí Minh, kết hợp giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, ngoại giao, giữa đánh và đàm chính là biểu hiện quan điểm ngoại giao phải có thực lực, được vận dụng một cách sinh động và sáng tạo trong thực tiễn cách mạng Việt Nam và trở thành quan điểm quan trọng của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam từ khi thành lập đến nay. Trong sự kết hợp giữa quân sự, chính trị và ngoại giao, có thể thấy chiến trường quyết định trên bàn đàm phán, ngược lại thắng lợi trên bàn đàm phán kiềm chế hoạt động của địch trên chiến trường; đàm phán không cản trở đánh, không bó “chân trong” chiến trường, mà khuếch trương chiến thắng.
Quan điểm về xây dựng thế và lực và thực hiện các phương pháp, hình thức để tạo thế - lực trong quan hệ ngoại giao, là vấn đề đầu tiên và lâu dài để thực hiện mục tiêu chiến lược. Hồ Chí Minh nói: “Ngoại giao ai thuận lợi hơn, thì thắng”1, đó là nói về tính chính nghĩa, lẽ phải trong đàm phán. Nhưng vì có chính nghĩa, nên sẽ nhận được sự ủng hộ của nhân dân trong nước và nhân dân tiến bộ trên thế giới, đó là sức mạnh để chiến thắng, đó lại là vấn đề thực lực. Do đó phải tích cực xây dựng tiềm lực kinh tế, quốc phòng, đó là cơ sở của “chính sách ngoại giao mạnh”.
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.559.
61
Để có thực lực, phải xây dựng đường lối đối ngoại theo phương châm: Kết hợp giữa chính trị, quân sự, ngoại giao; kết hợp giữa đánh và đàm..., làm chuyển hóa lực lượng, để ta ngày càng có lợi, địch ngày càng lúng túng. Đó là sự thể hiện mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng giữa mặt trận ngoại giao với mặt trận quân sự, mặt trận đấu tranh chính trị. Quan điểm này được khẳng định rất rõ tại Hội nghị Trung ương lần thứ 13 (01/1967), về đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao: “Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hiện nay, đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở thắng lợi trên mặt trận ngoại giao. Chúng ta chỉ có thể giành trên bàn hội nghị cái mà chúng ta đã giành được trên chiến trường. Tuy nhiên, đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên chiến trường, mà trong tình hình quốc tế hiện nay, với tính chất cuộc chiến tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động”1.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh, trong các cuộc chiến tranh, tuy sức mạnh quân sự, chiến thắng trên chiến trường có ý nghĩa quyết định đến cục diện chiến tranh, nhưng thực lực ở đây không phải chỉ là sức mạnh quân _______________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.28, tr. 125.
62
sự hay sức mạnh của bản thân mỗi dân tộc; nó là sức mạnh tổng hợp của các mặt trận chính trị, kinh tế, quân sự và ngoại giao; là sự kết hợp của sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và ngoài nước.
Thực tiễn lịch sử cho thấy, nếu chỉ riêng về sức mạnh kinh tế hay sức mạnh vật chất của nền quốc phòng, thì chúng ta thua kém xa tiềm lực chiến tranh của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhưng nhờ biết khai thác, kết hợp và cộng hưởng nhiều nguồn sức mạnh, mà chúng ta đã giành chiến thắng về quân sự, từ đó dẫn đến thắng lợi về ngoại giao. Đồng thời, có phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng các mặt trận đấu tranh: chính trị, kinh tế, quân sự và ngoại giao; kết hợp các cuộc chiến đấu trên chiến trường với cuộc đấu tranh trên chiến trường quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng lực nhằm đánh đúng vào chỗ yếu cơ bản về chính trị của Pháp và Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, thì hiệu quả của đấu tranh ngoại giao mới góp phần tạo thêm thế và lực mới cho cuộc chiến tranh toàn dân và toàn diện.
Thực lực trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh không chỉ là sức mạnh nội sinh của dân tộc, mà còn là sự kết hợp với sức mạnh của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới đoàn kết lại, sức mạnh từ sự giúp đỡ to lớn về vật chất và tinh thần của các nước xã hội chủ nghĩa, từ liên minh chiến đấu ba nước
63
Đông Dương trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung. Sức mạnh ấy còn được cộng hưởng hơn rất nhiều từ sự ủng hộ của mặt trận nhân dân thế giới chống chiến tranh xâm lược Việt Nam, từ xu thế phát triển tất yếu của cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Khẳng định ngoại giao phải có thực lực, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Phải trông ở thực lực. Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”1. Về phương châm chỉ đạo hoạt động đối ngoại, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: “Về ngoại giao, kiên trì chủ trương ngoại giao với các nước theo nguyên tắc “bình đẳng tương trợ”... muốn ngoại giao được thắng lợi phải biểu dương thực lực”2. Trong đấu tranh cách mạng, dù luôn cố gắng nỗ lực tìm kiếm một giải pháp hòa bình nhưng Người cũng hết sức lưu ý: “Ta luôn luôn nhớ rằng ngoại giao thắng hay bại phần lớn là dựa vào việc đoàn kết toàn dân, vào thực lực của bản thân ta, chứ không phải do “lòng tốt” của thực dân Pháp”3. Như vậy,
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 147.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.8, tr. 27.
3. Học viện Quan hệ quốc tế: Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp giành độc lập, tự do (1945 - 1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 78.
64
thắng lợi ngoại giao lớn hay nhỏ, đàm phán thất bại hay thành công tùy thuộc vào nhiều nhân tố, trong đó nhân tố quyết định là ở thực lực. Hoạt động ngoại giao phải lấy sức mạnh bên trong làm điểm tựa và kết quả
đấu tranh ngoại giao chính là sự phản ánh cụ thể của thực lực.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, mặt trận ngoại giao có vai trò quan trọng, tích cực và chủ động. Thực lực mạnh là điều kiện thuận lợi để ngoại giao sẽ thắng lợi; mặt khác, thắng lợi ngoại giao sẽ tạo tiền đề để xây dựng, phát triển thực lực cách mạng, tạo thế cho đất nước trong quan hệ chính trị. Chiến lược ngoại giao là một bộ phận trong chiến lược chung của cách mạng, bản thân nó lại có nội dung tổng hợp, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Bên cạnh việc khẳng định vai trò quyết định của đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự, Hồ Chí Minh cũng đã nêu rõ nhiệm vụ và vị trí của ngành ngoại giao: Đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên chiến trường, mà trong tình hình quốc tế, với tính chất cuộc chiến tranh giữa ta và địch, cuộc chiến tranh ngoại giao giữ vai trò quan trọng, tích cực và chủ động. Thông qua tấn công ngoại giao, cách mạng Việt Nam nêu cao lập trường chính nghĩa của cuộc đấu tranh, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới, góp phần phân hóa thế lực thù địch, làm suy yếu chúng.
65
Những thỏa thuận, hiệp định được ký kết là kết quả của cuộc đấu tranh tổng hợp trên tất cả các mặt, là sự minh chứng cụ thể của so sánh tương quan lực lượng, là sự khẳng định vị thế của các nước trên trường quốc tế. Nếu không có thực lực cách mạng thì chủ trương và đấu tranh ngoại giao của ta có đúng, có khôn khéo, có hay đến đâu cũng không thể mang lại hiệu quả vì “chỉ có thực lực của ta mới quyết định được sự thắng lợi giữa ta và Đồng minh”1. Rõ ràng nếu không có những chiến thắng to lớn của quân và dân ta trong gần 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp thì không thể có Hội nghị và Hiệp định Giơnevơ. Nếu không có thắng lợi của quân và dân hai miền Nam - Bắc, nhờ sự lớn mạnh không ngừng của cách mạng Việt Nam về thế và lực trên các chiến trường thì cũng không có Hội nghị và Hiệp định Pari. Về điểm này, chính Người đã tổng kết: “Ngoại giao ở Hội nghị Giơnevơ thắng lợi là vì Điện Biên Phủ thắng lớn. Bây giờ cũng thế, đánh thắng lợi thì ngoại giao thắng nhiều... Cố nhiên ngoại giao là rất quan trọng, nhưng cái vốn chính là mình phải đánh thắng và mình có sức mạnh thì ngoại giao là thắng”2.
_______________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.427.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.60.
66
Tư tưởng ngoại giao phải có thực lực là biểu hiện cụ thể của tư duy độc lập tự chủ, tự lực cánh sinh của Hồ Chí Minh. Người coi tự lập, tự cường là cái gốc, là điểm mấu chốt của mọi chính sách, “lấy sức ta mà giải phóng cho ta” là phương thức, là động lực chủ yếu để phát triển cách mạng. Người chỉ ra rằng: “Độc lập của Việt Nam luôn luôn nhờ nơi lực lượng của Việt Nam”1. Tăng cường sức mạnh tự thân còn là cơ sở hàng đầu để tranh thủ đồng minh và tránh sự áp đặt, chèn ép vào đồng minh, nhất là các nước lớn rằng: “Ta có mạnh thì họ mới chịu “đếm xỉa đến”. Ta yếu thì ta chỉ là một khí cụ trong tay của kẻ khác, dầu là kẻ ấy có thể là bạn đồng minh của ta vậy”2. Chính bởi nắm vững nguyên tắc thực lực quyết định kết quả đấu tranh ngoại giao, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức lưu ý không được ảo tưởng với kẻ thù, tránh cả hai khuynh hướng cực đoan hữu khuynh và tả khuynh trong đấu tranh ngoại giao.
Một trong những nguyên tắc cơ bản về đấu tranh ngoại giao trên bàn Hội nghị được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng vạch ra là: “Yêu cầu của ta chủ yếu là căn cứ vào lực lượng so sánh giữa ta và
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.39.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.244.
67
địch mà định”1. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, muốn kháng chiến thắng lợi phải phát huy sức mạnh dân tộc và sức mạnh đoàn kết quốc tế, lấy sức mạnh dân tộc là chủ yếu; phải kết hợp chính trị, quân sự và ngoại giao, lấy quân sự, chính trị là chủ yếu. Nắm vững mục tiêu và thực hiện theo nguyên tắc, là cơ sở
để cách mạng Việt Nam có thể định ra chính sách ngoại giao đúng đắn, phù hợp cho mỗi giai đoạn cách mạng. Từ đó, đấu tranh ngoại giao mới phát huy vai trò tích cực, chủ động, góp phần quan trọng vào việc tạo nên thế và lực, đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
Trong đấu tranh ngoại giao, phải xây dựng thực lực, sử dụng thực lực một cách khôn khéo và phát huy thực lực cách mạng tối ưu nhất. Do đó, phải phân tích, đánh giá đúng thực lực và nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng, tương quan so sánh lực lượng mà đề ra mục tiêu “thắng từng bước”. Đó cũng là phương châm của “Dĩ bất biến ứng vạn biến” biết sử dụng sách lược ngoại giao để
giành thắng lợi trong từng giai đoạn cách mạng; đó là cơ sở để thực hiện đường lối ngoại giao vừa đánh vừa đàm... để chuyển hóa lực lượng, xoay chuyển cục diện, tiến tới giành thắng lợi cuối cùng.
_______________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.15, tr. 185.
68
Tóm lại, phương pháp kết hợp nhuần nhuyễn giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao, vừa đánh và đàm là một nghệ thuật, phương pháp chỉ đạo đấu tranh cách mạng độc đáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Mỗi giai đoạn lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng một cách linh hoạt, mềm dẻo và sáng tạo vào từng điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Trải qua quá trình lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh, đấu tranh cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã có thể kết hợp nhuần nhuyễn giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đóng góp vào kho tàng lý luận cách mạng Việt Nam một nghệ thuật độc đáo trong chỉ đạo chiến tranh, trong đấu tranh cách mạng để giành thắng lợi.
8. Phương pháp vận động quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để giành thắng lợi
Những hoạt động quốc tế của Hồ Chí Minh là một bộ phận quan trọng trong cuộc đời sự nghiệp cách mạng của Người. Nó gắn liền với mục tiêu cứu nước, đồng thời đóng góp tích cực vào cuộc đấu tranh giải phóng nhân loại bị áp bức. Hồ Chí Minh đã hoạt động hết mình, gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế
69
giới, tìm bạn đồng minh ở các nước, ngay cả những nước đang đô hộ mình và tranh thủ sự ủng hộ của các nước trên thế giới đối với cách mạng Việt Nam. Qua những hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã đóng góp to lớn vào phong trào cách mạng thế giới, Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn không những cho Nhân dân Việt Nam mà còn cho nhân dân nhiều nước thuộc địa và phụ thuộc. Để có được những thành công trong hoạt động quốc tế của mình, có thể thấy từ rất sớm ở Hồ Chí Minh bước đầu hình thành phương pháp vận động quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Cách mạng Tháng Tám thành công mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do. Tuy nhiên, sau Cách mạng Tháng Tám, Việt Nam rơi vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, phải cùng lúc đối phó với nhiều lực lượng quân sự đối địch, phía bắc là quân Tưởng, phía nam là quân Anh - Ấn, Pháp. Trong khi đó, chính quyền cách mạng của ta còn non trẻ, đất nước sau nhiều năm chiến tranh, kinh tế suy kiệt, tài chính kiệt quệ, nạn đói kéo dài. Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi Pháp tiếp xúc với các lực lượng cách mạng và tiến bộ ở Pháp, ở các thuộc địa Pháp và thế giới, đẩy mạnh đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, Đông Dương, ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa của Nhân dân Việt Nam. Cũng trong lúc này,
70
nhân dân thế giới đã có sự ủng hộ Nhân dân Việt Nam kháng chiến, đặc biệt phải kể đến sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc, phong trào giải phóng dân tộc, các đảng cộng sản và công nhân các nước. Mặt trận đoàn kết quốc tế cùng với mặt trận đoàn kết Việt Nam - Lào - Campuchia và mặt trận đoàn kết trong nước (ba tầng mặt trận) đã tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn góp phần đưa đến thắng lợi cho cách mạng Việt Nam sau này.
Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Pháp và Phái đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Phạm Văn Đồng dẫn đầu đàm phán với Chính phủ Pháp đã thông báo cho Đảng Cộng sản Pháp biết cụ thể tình hình Việt Nam, lập trường, nguyên tắc và các kiến nghị hợp lý của Việt Nam trong quan hệ với Pháp. Đảng Cộng sản Pháp đã có nhiều hiểu biết về Chính phủ Việt Nam và hết lòng ủng hộ nền độc lập của Việt Nam. Trong nhiều năm, MauRice Thorez (M. Tôrê) - Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Pháp cùng với Đảng Cộng sản Pháp tổ chức quần chúng đấu tranh bất chấp mọi sự đàn áp với nhiều hình thức khác nhau để ủng hộ triệt để cuộc đấu tranh của Nhân dân Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Pháp, từ năm 1950, phong trào phản chiến ở Pháp phát triển mạnh mẽ, thu hút ngày càng nhiều các tầng lớp nhân dân với nhiều hình thức đấu tranh phong phú, kiên quyết và dũng cảm với các
71
hành động quyết liệt, đòi Chính phủ phải chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương, rút quân viễn chinh về nước và công nhận nền độc lập, tự do của ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của Nhân dân Việt Nam ngoài sự ủng hộ của nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Pháp và nhân dân Pháp, còn nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân các nước trên thế giới như Xiêm (Thái Lan), Ấn Độ, Miến Điện (Mianma)... Ở các nước thuộc địa của Pháp như Mađagatxca, Tuynidi, Marốc, Angiêri... phong trào đấu tranh chống bắt lính đưa sang Đông Dương, đòi độc lập dâng lên ngày càng mạnh mẽ.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, ngày 21/7/1954, Hiệp định Giơnevơ về kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của Nhân dân Việt Nam, đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là minh chứng đúng đắn, chủ động, sáng tạo trong đường lối đối ngoại, nghệ thuật tranh thủ và sử dụng có hiệu quả, sự giúp đỡ của quốc tế đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, coi đoàn kết
72
quốc tế trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế chân chính là một vấn đề nguyên tắc có quan hệ tới sự sống còn của cách mạng và sự thành bại của công cuộc cứu nước. Thêm nhiều hội hữu nghị, Ủy ban đoàn kết với nhân dân các nước ra đời như Hội hữu nghị Việt - Pháp, Ủy ban Việt Nam đoàn kết với nhân dân tiến bộ Mỹ, Ủy ban đoàn kết châu Á, Ủy ban đoàn kết nhân dân Á - Phi. Ở mặt trận đối ngoại nhân dân, Mặt trận và các tổ chức thành viên đã cử hàng trăm đoàn đi các nước, đến cả thủ đô nhiều nước đồng minh và sân sau của Mỹ, đồng thời đón nhiều đoàn khách quốc tế vào Việt Nam, qua đó vận động sự ủng hộ của nhân dân thế giới đối với Việt Nam. Hoạt động đối ngoại nhân dân đã góp phần mở đường cho việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam với nhiều quốc gia trên thế giới.
Từ năm 1963, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Lao động Việt Nam đã chủ trương vận động nhân dân thế giới, các tổ chức của nhân dân Á, Phi, Mỹ Latinh có hành động phối hợp mạnh mẽ hơn đòi đế quốc Mỹ chấm dứt xâm lược Việt Nam, để Nhân dân Việt Nam tự giải quyết công việc của mình. Ở nhiều nước đã bắt đầu có những lời kêu gọi thành lập Ủy ban đoàn kết với Việt Nam và tháng 4/1967, khi Hội nghị Lơke được tổ chức để lên tiếng ủng hộ cuộc đấu tranh của Nhân dân Việt
73
Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược, Hồ Chí Minh đã gửi điện cảm ơn tới các vị đứng đầu năm nước châu Phi (Cộng hòa Arập thống nhất, Angiêri, Ghinê, Môritania và Tandania): “Chúng tôi coi đó là một sự ủng hộ quý báu đối với cuộc kháng chiến chính nghĩa của chúng tôi và là một biểu hiện đẹp đẽ của tình đoàn kết giữa nhân dân các nước Á - Phi”1.
Bằng những quan niệm đúng đắn về bạn - thù, với thái độ thiện chí và tình cảm chân thành, Hồ Chí Minh đã làm cho nhân dân thế giới hiểu đúng hơn về Nhân dân Việt Nam. Việt Nam trở thành trung tâm đoàn kết các dân tộc trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc mà đỉnh cao là Hội nghị quốc tế đoàn kết với Nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược bảo vệ hòa bình tổ chức tại Hà Nội tháng 11/1964. Tham dự hội nghị có 64 đoàn đại biểu đến từ 52 nước và 12 tổ chức quốc tế. Đánh giá về Hội nghị này, Hồ Chí Minh nói: “Hội nghị
lịch sử này là kết tinh của mặt trận nhân dân toàn thế giới đoàn kết đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc thực dân”2 và Người tỏ ý tin tưởng rằng sau hội nghị này, tình đoàn kết vĩ đại và làn sóng đấu tranh của nhân dân thế giới chống chủ nghĩa đế quốc thực dân sẽ dâng cao hơn nữa, mạnh mẽ hơn nữa.
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr. 331.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr. 420.
74
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của Nhân dân ta, Người đã giáo dục toàn dân phân biệt rõ ràng thực dân cướp nước, bọn đế quốc hiếu chiến với nhân dân yêu chuộng hòa bình và công lý ở các nước đi xâm lược. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng rất coi trọng sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ Mỹ, Người đã tích cực thúc đẩy phong trào quần chúng Mỹ chống chiến tranh của đế quốc Mỹ ở Việt Nam. Trong thư gửi nhân dân Mỹ (tháng 01/1962), Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh: “Nhân dân Mỹ và nhân dân Việt Nam không thù không oán. Nhân dân Việt Nam kính trọng các bạn là một dân tộc đầu tiên đã phất cờ chống chủ nghĩa thực dân (1775 - 1783) và chúng tôi mong muốn có quan hệ hữu nghị với các bạn”1.
Tiếng nói chính nghĩa của Hồ Chí Minh đã tác động sâu sắc tới nội bộ nước Mỹ, phân hóa hàng ngũ kẻ thù, ngày càng được nhiều người nhiều tầng lớp nhân dân Mỹ ủng hộ cuộc đấu tranh của Nhân dân Việt Nam, lên án chính quyền Mỹ và đòi chấm dứt cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Người đã nhận xét với nhà báo Anh, Phêlích Gơirin (ngày 18/11/1965): “Nhân dân chúng tôi đánh giá rất cao cuộc đấu tranh ấy của nhân dân Mỹ. Chúng tôi rất cảm động trước những tấm gương anh dũng hy sinh của bà cụ Henga Hécdơ
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr. 307.
75
và của các chiến sĩ hòa bình Noman Morixơn, Rôgiơ Lapotơ và Xilin Giancaoxki...”1.
Có thể nói những phong trào trên đã bùng nổ và lan rộng chưa từng có trong nước Mỹ, đưa tới đỉnh cao là những “Mùa hè nóng bỏng” vào những năm 1967 - 1968 với những cuộc biểu tình diễu hành được tổ chức cùng một lúc trong 120 thành phố của nước Mỹ.
Nhìn lại lịch sử dân tộc và sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất nước của Đảng và nhân dân Việt Nam (giai đoạn 1954 - 1969), thấy rõ được trí tuệ thiên tài Chủ tịch Hồ Chí Minh với: ý chí, đức độ khiêm nhường, thái độ thiện chí, đã vượt qua mọi trở ngại, khó khăn, từ trong những mối quan hệ chồng chéo, phức tạp của thời đại, đề ra được những đường lối, phương châm, phương pháp, đối sách, ứng xử... đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với mỗi tình hình, mỗi giai đoạn cách mạng, nên đã phát huy được tối đa sức mạnh dân tộc trong sự kết hợp với sức mạnh thời đại như Người đã khẳng định: “Sự đoàn kết quốc tế có một ý nghĩa to lớn đối với chúng tôi. Đúng là trước hết chúng tôi phải dựa vào sức mình, song chúng tôi còn được sự ủng hộ về vật chất và tinh thần của nhân dân các nước khác. Và như vậy, chúng tôi vừa có cả sức mạnh của mình, vừa có cả
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr. 669.
76
sức mạnh của sự đoàn kết quốc tế”1, nhờ vậy “mà chúng tôi đã chiến đấu và giành được những thắng lợi to lớn”2. Như vậy, có thể thấy thông qua phương pháp vận động quốc tế, kết hợp các phương pháp khác cùng với những hoạt động thực tiễn, đã góp phần làm tăng sự ủng hộ của nhân dân thế giới đối với cách mạng Việt Nam. Các nước xã hội chủ nghĩa hết lòng ủng hộ giúp đỡ; các nước bạn bè và mặt trận nhân dân thế giới kể cả nhân dân Mỹ luôn luôn cổ vũ, hậu thuẫn cuộc chiến đấu của Nhân dân ta. Đó là một thắng lợi lớn của mặt trận ngoại giao theo đường lối, phương pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
*
* *
Phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh là một nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần hình thành nền ngoại giao Việt Nam hiện đại. Nghiên cứu và hệ thống các phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh là nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Hệ
thống những phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh góp phần đặt nền móng cho những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong thực hiện các
_______________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr. 675, 589.
77
nhiệm vụ cách mạng trên lĩnh vực ngoại giao qua các thời kỳ lịch sử và đặc biệt có ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay. Đúng như đánh giá của Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng về tư tưởng, phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh như: Biết đánh giá, dự báo tình hình, nắm bắt thời cơ, tổ chức lực lượng, nhận rõ bạn thù, tranh thủ
đồng minh, cô lập kẻ thù chủ yếu, kiên định về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược, biết thắng từng bước để tiến tới thắng lợi hoàn toàn, độc lập, tự chủ gắn liền với đoàn kết quốc tế là di sản quý báu đối với chúng ta trong hoạt động ngoại giao để phục vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc1.
Đường lối ngoại giao của Đảng nhằm đưa đất nước tham gia tiến trình hội nhập quốc tế đã được chứng minh là đúng đắn và kịp thời trước tình hình thực tế những năm cuối của thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 thế kỷ
XX và đầu thế kỷ XXI. Đảng Cộng sản Việt Nam đã sớm nhận thấy sự cần thiết phải mở rộng, phát triển hơn nữa mối quan hệ láng giềng, hữu nghị với các nước trong khu vực và mở rộng giao lưu, hợp tác với các nước trên thế giới. Việc nước ta tham gia vào các tổ
chức lớn trong cộng đồng thế giới đã và đang đem lại cho Việt Nam nhiều lợi ích quan trọng, nâng cao vị thế
_______________
1. Xem Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh - quá khứ, hiện tại và tương lai, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1991, t.1, tr.55.
78