🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Ứng dụng của Kinh Dịch trong Y học cổ truyền Ebooks Nhóm Zalo í A ?;sị ' ' -1 ■^ 5^ S:v.‘ KINH DỊCH và lý luận RUYÊN -------------- — Y HỌC 1 \\ V 31 .C’J' ' . - 1 ÍẲ ' /ị 3---> í - : ThS. BS. KIỀU XUÂN DỮNG Nguyên Chủ nhiệm Bộ môn YHCT Học viện YDHCT Việt Nam ỨNG DỤNG CỦA KINH DỊCH Trong đời sống và lý luận Y HỌC CỔ TRUYỀN NHÀ XUẤT BÀN Y HỌC HÀ N Ộ I-2010 NHÀ XUẤT BẢN Y HỌC ÚNG DỤNG CỦA KINH DỊCH TRONG ĐỜI SỐNG VÀ LÝ LUẬN Y HỌC cổ TRUYỀN Chịu trách nhiệm xuất bản HOÀNG TRỌNG QUANG Biên tập: Sửa bản in: Trình bày bìa: Kt vi tính: HOÀNG BẢO KHÁNH HOÀNG BẢO KHÁNH CHU HÙNG HOÀNG BẢO KHÁNH In 500 cuốn, khổ 19x27 tại Xưởng in Nhà xuất bản Y học. Giấy phép xuất bản số; 11 - 2010/CXB/297 - 173A'H In xong và nộp lưu chiểu quý IV năm 2010. LỜI NÓI ĐẨU Trải qua hàng ngàn năm, nền y học cổ truyền (YHCT) phương Đông nói chung và nền YHCT Việt Nam nói riêng đã có nhiều thăng trầm theo các tiến trình lịch sử. Trong thòi kỳ Pháp thuộc, nền YHCT và các thầy thuốc YHCT bị xem nhẹ, không có trường lớp đào tạo, không có vị trí trong ngành y tê và chỉ tồn tại trong nhân dân, chủ yếu trong tầng Idp nhân dân nghèo. Tuy nhiên, sự thật là nền YHCT và các thầy thuốc YHCT vẫn tồn tại và ngày càng phát triển bởi vì YHCT có tác dụng chữa bệnh thực sự hiệu quả, đem lại sức khỏe và cuộc sông cho hàng triệu triệu con người. Từ khi cách mạng thành công, với sự ra đời của nhà nưốc Việt Nam dân chủ cộng hòa, Đảng, Chính phủ và Bác Hồ đã chắp cánh cho nền YHCT bay lên với sự ra đòi của cả một hệ thống các trường đại học, các bệnh viện có khoa YHCT trong cả nưốc mà những người tiên phong trong ngành là GS Trần Thúy, GS Hoàng Bảo Châu, PGS Phạm Duy Nhạc ... cùng các lương y giỏi của Viện Đông Y Trung ương. Lý luận YHCT đã được soạn thảo thành tài liệu giảng dạy cho rất nhiều lớp người: các lương y, bác sĩ, thạc sĩ, tiến sĩ, chuyên khoa 1,, chuyên khoa 2 và các học viên quốc tế. Từ khi thành lập Viện Đông Y và Bộ môn YHCT của Trường Đại Học Y Hà Nội đến nay, đã có nhiều sách về Lý luận YHCT được viết, in và tái bản nhưng hầu như đều bám vào cuốn Bài giảng YHCT của Bộ môn YHCT Trường Đại Học Y Hà Nội. Dựa vào kinh nghiệm giảng dạy nhiều năm về lý luận YHCT, so sánh các tài liệu khác nhau, vận dụng kiến thức trong Y văn cô và kiến thức khoa học của Y học hiện đại. Tác giả muôn biên soạn một cuốh sách vận dụng kinh dịch vào trong hệ thông lý luận YHCT và đòi sống một cách đơn giản, dễ hiểu và có thêm phần bàn luận như một kênh thông tin nhằm giúp cho bạn đọc, các đôi tượng muốh tìm hiểu, học tập và nghiên cứu về YHCT được dễ dàng hơn. Tuy nhiên, ước vọng thì nhiều mà trình độ lại có hạn, Tác giả tha thiết mong được bạn đọc xa gần, các bậc trưởng lão chỉ bảo để cuốn sách ngày càng hoàn thiện, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận YHCT của chúng ta. Hà Nội, tháng 10 năm 2010. Tác giả . . Xin chân thành cảm ơn công ty cổ phần và thương mại đầu tư Echo - Kyoto. Số 32 Nghách 267/2 Hoàhg Hoa Thám - Ba Đình - Ba Đình - Hà Nội đã hỗ trỢ xuất bản cuốn sách này. \ . * ị •V .• MỤC LỤC Lòi nói đầu Một số ký hiệu viết tắt 9 Phần I: Cơ sở của lý luận YHCT 9 1. Nền tảng của lý luận YHCT dựa trên 5 tác phẩm kinh điển, đó là ngũ kinh gồm 10 2. Những kiến thức chính của Kinh Dịch được vận dụng vào xây dựng lýluậnYH C T 22 Phần II: Bàn về một số học thuyết YHCT 22 1. Học thuyết Âm dương 35 2. Học thuyết Ngũ hành 50 3. Học thuyết Thiên nhân hợp nhất 54 4. Học thuyết Kinh lạc 62 5. Học thuyết Vận khí 70 6. Học thuyết Tạng tượng 70 - Tạng tượng là gì? 70 - Tinh, khí, huyết, thần, tân dịch 73 - Ngũ tạng: 73 + Tạng tâm 74 + Tạng can 76 + Tạng tỳ 77 + Tạng phế 78 + Tạng thận - Lục phủ: + Đởm + Vị + Tiểu trường + Đại trường + Tam tiêu + Phủ Kỳ hằng - Mối quan hệ giữa tạng và tạng - MỐì quan hệ giữa tạng và phủ - MỐl quan hệ giữa ngũ tạng và ngũ quan - Kết luận 7. Các hội chứng bệnh YHCT - Các hội chứng về khí, huyết, tân dịch - Các hội chứng về tạng, phủ - Hội chứng bệnh phối hỢp của các tạng phủ 8. Hải Thượng Lãn ông và dịch lý trong Huyền tẫn phát vi - Dịch lý trong học thuyết Thuỷ hoả - Vận dụng bài thuốc Bát vị và Lục vị vào chữa bệnh . Một vài ứng dụng Kinh Dịch trong Mai Hoa dịch số Tài liệu tham kh ảo 83 83 83 84 84 85 86 87 88 •89 90 91 91 92 97 97 97 102 106 111 MỘT SỐ KÝ H IỆU V IẾT TẮT 1. Ký hiệu tên 14 kinh m ạch, tên huyệt và dùng thứ tự sô" La Mă cho các đường kinh 1- Kinh Thủ Thái âm Phế; I 2- Kinh Thủ Dương minh Đại trường: II 3- Kinh Túc Dương minh Vị: III 4- Kinh Túc Thái âm Tỳ: IV 5- Kinh Thủ Thiếu âm Tâm: V 6- Kinh Thủ Thái dương Tiểu trường: VI 7- Kinh Túc Thái dương Bàng quang; VII hoặc BQ 8- Kinh Túc Thiếu âm Thận: VIII 9- Kinh Thủ Quyết âm Tâm bào: IX 10- Kinh Thủ Thiếu dương Tam tiêu: X 11- Kinh Túc Thiếu dương Đởm: XI 12- Kinh Túc Quyết âm Can; XII 13- Mạch Đốc: XIII 14- Mạch Nhâm: XIV Huyệt chính: dùng số La Mã tên kinh đó cùng sô" thứ tự Ả Rập cho huyệt như huyệt Trung phủ thuộc kinh Phế: I-l, huyệt Ngoại quan thuộc kinh Tam tiêu: X-5, huyệt Chiếu hải thuộc kinh Thận: VIII-6. 2. Các ký hiệu viết tắ t khác - Kinh dương: D, kinh âm; Â, trước Công nguyên: TCN, Đông Bắc: ĐB, Đông Nam: ĐN, Tây Bắc: TB, Tây Nam: TN, Linh quy bát Pháp: LQBP, Hải Thượng Lãn Ông; HTLÔ. Tiên thiên bát quái: TTBQ, Hậu thiên bát quái: HTBQ. - Càn, Ly: là quẻ Càn, quẻ Ly hoặc tượng của quẻ Càn, Ly như Càn là tròi, Khôn là đất, Tôn là gió là gỗ, Đoài là đầm hoặc Càn cha; Càn ví như cha, Tôn là trưởng nữ, Chấn là trưởng nam, Khảm là trung nam - Khi nói vê tính của quẻ thường hay nói hoặc viết tắt, chẳng hạn như: Càn thì cương quyết, mãnh liệt; Đoài thì vui vẻ, đẹp lòng; Ly thì sáng sủa, trống rỗng; Chấn thì động, cứng rắn; Tốh mềm mại, thuận hòa; Khảm thì hiểm; Cấn ngồi im, dừng lại; Khôn thuận hòa là nói về tính của các quẻ đó. Ví dụ: khi viết: Đoài đẹp lòng mà làm Chấn động theo thì phải hiểu là vì tính của quẻ Đoài là đẹp lòng, tính quẻ Chấn là động nên đẹp lòng thì động theo. - Khi viết: hào 6 là hào lục hay còn gọi là hào âm, hào 9 còn gọi là hào cửu hay hào dương, ví dụ hào 6 ngôi 5 thì phải hiểu là hào lục ngũ hay hào âm ngôi 5, hào 9 ngôi 2 là hào cửu nhị hay hào dương ngôi 2. về số của hào thì hào âm là số 6, hào dương là sô" 9, còn khi viết là hào 1, hào 2, hào 3, hào 4,'hào 5, hào 6 là có ý chỉ rằng đó là hào số 1 ở ngôi 1, hào sô" 2 ở ngôi 2, hào sô" 3 ở ngôi 3, hào sô" 4 ở ngôi 4, hào sô 5 ở ngôi 5, hào sô" 6 ỏ ngôi 6. Hào 6 có hai ý: một là hào âm, hào lục; hai là hào sô" 6, ngôi trên. PHÃNI Cơ sở CỦA LÝ LUẬN YHCT 1. NỀN TẢNG CỦA LÝ LUẬN YHCT DựA TRÊN 5 TÁC PHẨM k in h Đ IEN , ĐÓ LÀ NGỦ KINH GOM - Nội kinh Tô" vấn - Nội kinh Linh khu - Nạn kinh - Thương hàn luận - Kim quĩ yếu lược Trong đó nền tảng của lý luận YHCT dựa nhiều vào Nội kinh, Tô vấn và Linh khu. Các tác phẩm này ghi chép lại trao đổi về y thuật giữa Hoàng Đê và Kỳ Bá. Linh khu bàn về châm cứu. Thương hàn luận của Trương Trọng cảnh bàn vê các bệnh ngoại cảm và Kim quĩ yếu lược nói về tạp bệnh. Kim quĩ là hòm vàng. Người xưa coi những sách quí như hòm vàng để cất giấu những đồ vật quí giá còn Nạn kinh được Biển Thưốc tổng kết một sô" thực tiễn lâm sàng và lý luận YHCT. Người có công lốn trong vận dụng sáng tạo y lý phương Đông vào nền YHCT nước nhà là Hải Thượng Lãn ồng Lê Hữu Trác. Đó là pho sách đồ sộ Hải Thượng Y tôn tâm lĩnh, ghi chép, biên soạn toàn bộ lý luận YHCT, các chuyên khoa sâu củaYHCT, Điều trị học, Dược học, thành công và thất bại trong quá trình chữa bệnh. Đó là cơ sở quan trọng cho người thầy thuốc YHCT học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ chuyên môn ngày càng tiến bộ. Lùi về quá khứ phải kê đến Đại danh Y thiền sư Tuệ Tình, ông tổ thuốc Nam với câu tuyên ngôn nổi tiếng: “Nam dược trị Nam nhân. Đế đi sâu vào lý luận YHCT, người thầy thuốc không thể không nghiên cứu về Kinh Dịch, một môn triết học cổ phương Đông, là chữ viết đầu tiên của dân tộc Trung Hoa, là sự quan sát các sự vật và hiện tượng trong thiên nhiên, xã hội và đòi sống con người, qua đó rút ra các qui luật hêt sức khách quan, trung thực và được các thê" hệ sau này tổng kết, vận dụng nhằm mục đích phục vụ lại cho con người. Chính Hải Thượng Lãn ông đã từng nói: người thầy thuốc mà không biết Kinh Dịch thì chỉ là người thầy thuốc tầm thường mà thôi. Vì vậy, muốn nghiên cứu, học tập về lý luận YHCT, nhất thiết phải tìm hiểu về Kinh Dịch. Trong tài liệu này, chúng tôi chỉ giối thiệu khái quát những nét cơ bản để vận dụng trực tiếp, còn muôn tìm hiểu sâu hơn, bạn đọc có thể tham khảo cuốh Kinh Dịch diễn giảng của Kiều Xuân Dũng, Nhà xuất bản Y học 2006 và các sách Dịch của các tác giả khác. 2. NHỮNG KIẾN THỨC CHÍNH CỦA KINH DỊCH Được VẬN DỤNG VÀO XÂY DựNG LÝ LUẬN YHCT 2.1. Kinh Dịch là gì? Kinh là quyển sách, Dịch là sự biến đổi, như vậy Kinh Dịch là quyển sách nghiên cứu về sự biến đổi, sự dịch chuyển của mọi sự vật và hiện tưỢng trong vũ trụ bao la. Mặt khác, phần Kinh là phần ghi chép các kinh văn như Thoán từ, Hào từ còn phần Truyện của Khổng Tử, Trình Di, Chu Hy w . là phần giảng nghĩa các câu kinh văn đó. 2.2. Kinh Dich do ai xây dựng ? Năm người đầu tiên xây dựng và hoàn chỉnh Kinh Dịch là: Phục Hy, Hạ Vũ, Văn Vương, Chu Công Đán và cuôi cùng Khổng Tử viết Thập dực là 10 cuôh truyện để giải thích, bình giảng về Kinh Dịch. 2.3. Kinh Dịch có 3 phần Phần cơ sở gồm có Hà đồ, Lạc thư, Tứ tượng và sự tạo thành Bát quái, Tiên thiên bát quái, Hậu thiên bát quái, Lục thập tứ quái. Phần 2 là Chu Dịch thượng kinh nghiên cứu về lý lẽ của trời đất từ quẻ Càn Khôn tới quẻ Bát Thuần Ly. Đó chính là nguyên thể. Phần 3 là Chu Dịch hạ kinh nghiên cứu về công việc của con người từ quẻ Hàm tới quẻ Vị Tế. Đó chính là công dụng. 2.4. Kinh Dịch chia làm 3 giai đoạn - Giai đoạn 1 là giai đoạn Càn Khôn, ở giai đoạn này nghiên cứu về các qui luật của tròi đất, càn khôn và vũ trụ, đó là sự quan sát thiên nhiên và rút ra các nhận xét khách quan như trời trên, đất dưối, mặt trời mọc ở phương Đông v.v... - Giai đoạn 2 là giai đoạn Hàm Hằng, ở giai đoạn này nghiên cứu về các mối quan hệ của con người trong xã hội loài người như đạo vỢ chồng phải sắt son, chung thủy, người trong nhà phải thương yêu, trung thành vối nhau v.v... - Giai đoạn 3 là giai đoạn Ký Tê và Vị Tế. ở giại đoạn này là sự kết thúc, là xong rồi mà vẫn chưa xong, mà chưa xong thì quay trở lại từ đầu lần lượt như năm tháng. Cuộc đời giốhg một chiếc vòng ngọc không có điểm nối như câu nói của cổ nhân: “Chu nhi phục thỉ, như hoàn vô đoan”. 2.5. Vô.cực, Thái cực, Lưỡng nghi, Tứ tượng và B át quái - Vô cực: trước khi tròi đất lập ngôi thì tất cả chỉ là một cõi hỗn mang cũng giống như khi cha mẹ chúng ta chưa gặp nhau thì chúng ta chưa là cái gì cả. Thê rồi trong cái cõi hỗn mang ấy nảy sinh một tiềm năng ẩn chứa. Đến một điều kiện nào đó thì nó nảy sinh tác dụng. Cái tiềm năng ấy được gọi là Thái cực. - Thái cưc: bàn về Thái cực, bên bò sông Hoàng Hà, Khổng Tử hỏi Lão Tử: thưa thầy, Thái cực là gì?. Lão Tử đáp: có một vật do sự hỗn hợp mà thành, nó 10 sinh ra trước tròi đất, vừa trống không, vừa yên lặng, trôi đi khắp nơi mà không dừng lại. Nó có thể làm mẹ đẻ của thiên hạ, ta không biết tên nó là gì, tạm gọi nó là lớn và đặt tên cho nó là Đạo, chỉ có biến động là thuộc tính của nó. Khổng Tử không dùng chữ Đạo mà dùng từ thái cực để chỉ ra cái khởi thủy của vũ trụ. - L ư ỡ n g n g h i: trên cơ sở đó, Thái cực động sinh dương, Thái cực tĩnh sinh âm và Lưỡng nghi ra đồi đó là Dương nghi và Âm nghi. Dương: động, nóng, sáng, trong, nhẹ nổi lên thành tròi. Dương sinh ra ở phương Bắc, bên trái chủ dương và đưỢc biểu hiện bằng một vạch liền ( ------). Âm: lạnh, tĩnh, đục, tối, nặng chìm xuốhg thành đất. Âm sinh ra ỏ phương Nam, bên phải chủ âm và được biểu hiện bằng một vạch đứt ( ------). - Tứ tương: 12h Lấy ví dụ trong một ngày, từ nửa đêm đến trưa thuộc trái, thuộc dương; từ trưa đến nửa đêm là phải, là âm; từ 6h sáng tới 18h chiều là ngày thuộc dương; từ 18h tối tới 6h sáng là đêm thuộc âm. + Như vậy từ 6h sáng tối 12 giò trưa là dương trùng dương ----- ta gọi đó là Thái dương, nghĩa là nơi đó dương khí dày đặc và trùm khắp nơi. + Từ 12h trưa tối 18h tối là âm sinh trong dương —-— ta gọi đó là Thiếu âm, nghĩa là âm còn non yếu. + Từ 18h tới Oh là âm trong âm, âm khí dày đặc, đen và tối, ta gọi đó là Thái âm “ — . 11 + Từ Oh tới 6h sáng, khí nhất dương phát sinh, đó là dương sinh trong âm, dương còn non yếu, người ta gọi đó là Thiếu dương II z . Một năm cũng vậy, một ngày cũng vậy, một đòi người cũng vậy, đó là quy luật sáng, trưa, chiều, tối, đó là quy luật sinh trưởng thu tàng, sinh lão bệnh tử. Đó chính là Tứ tượng. Vạch liền ( ------) được gọi là dương nghi, vạch đứt ( ------) được gọi là âm nghi, nếu chồng hai vạch lên nhau thì gọi là tượng. Trên vạch dương thêm vạch dương gọi là Thái dương: Trên vạch dương thêm vạch âm gọi là Thiếu âm: Trên vạch âm thêm vạch dương gọi là Thiếu dương: Trên vạch âm thêm vạch âm gọi là Thái âm: Thái Dương / \ Ngồi 1 Từ đó chúng ta nhận thấy: Thiếu Ằm Ngỗi 2 Hình 3 Thiếu Dương / \ Ngôi 3 Thái Âm Ngôi 4 - Thái dương ngôi số 1 nên sô" của nó là: 10-1 = 9. - Thiếu âm ngôi sô" 2 nên sô" của nó là: 10-2 = 8. - Thiếu dương ngôi sô" 3 nên sô" của nó là: 10-3 = 7. - Thái âm ngôi sô" 4 nên sô của nó là: 10-4 = 6. Như vậy: - Lão dương sô" 9. - Thiếu dương sô" 7 đều là sô"lẻ. - Lão âm sô" 6. - Thiếu âm sô" 8 đều là sô" chẵn. Trong các quẻ người ta dùng sô" cửu và sô" lục bởi vì đó là lão dương và lão âm. Già thì biến còn trẻ thì không biến, lão âm và lão dương là âm và dương phát triển tối cực độ nên dễ biến hơn Thiếu dương và Thiếu âm. Đó chính là sô" của hào đã nói ở muc 3 về sô của hào. 12 Hình 4 - B át qu ái và thuyết L ụ c tử của Văn vương Hệ từ thượng truyện viết: vô cực sinh thái cực, thái cực sinh lưổng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái lay động thành lục thập tứ quái gồm 384 hào. Mô hình tạo thành bát quái Vô Cực Thái Cực Lưỡng Nghi Dưdng nghi Âm nghi Thấi Dưcsng / \ TNếu Ằm Thiéu D ương^ \ Thài Âm Ngòi 1, số 9 Ngôi 2, số a Ngôi 3. s6 7 Ngôi 4, số 6 / \ / \ / \ / \ • Càn 1 Đoài 2 Ly 3 Chấn 4 Tốn 5 Khảm 6 c â i 7 Khôn 8 Hình 5 Sự xếp đặt tạo nên bát quái có một quy luật, chồng lên quẻ theo thứ tự cứ một âm lại một dương như: - Trên Thái dương chồng lên một vạch dương là quẻ Càn, chồng lên một vạch âm là quẻ Đoài. - Trên Thiếu âm chồng lên một vạch dương tạo thành quẻ Ly, chồng lên một vạch âm tạo thành quẻ Chấn. - Trên Thiếu dương chồng lên một vạch dương tạo thành quẻ Tốh, chồng lên một vạch âm thì thành quẻ Khảm. 13 - Trên Thái âm, chồng lên một vạch dương thì thành quẻ Cấn, chồng lên một vạch âm thì thành quẻ Khôn. * Quẻ Càn còn gọi là Càn tam liên là quẻ sô' 1. Tượng của quẻ Càn là tròi, là con rồng. Tính của quẻ Càn là mãnh liệt, cương quyết. Tên khác còn gọi là thiên, là cha. * Quẻ Đ oài còn gọi là Đ oài thượng khuyết, là quẻ sô'2. Tượng của quẻ Đoài là đầm lầy, là sông, suối. Tính của quẻ Đoài là vui vẻ, hoà duyệt. Tên khác còn gọi là trạch, là thiếu nữ. * Quẻ Ly còn gọi là Ly trung hư, là quẻ sô'3. Tượng của quẻ Ly là lửa, là mặt trời. Tính của quẻ Ly là sáng, rỗng. Tên khác còn gọi là hoả, Ly là trung nữ. * Quẻ Chấn còn gọi là Chấn ngưởng vu, là quẻ sô'4. Tượng của quẻ Chấn là sấm. Tính của quẻ Chấn là động. Tên khác còn gọi là lôi, Chấn là trưởng nam. * Quẻ Tốn còn gọi là Tốn h ạ đoạn, là quẻ sô'5 Tượng của quẻ Tốn là gió, là gỗ, là cây cỏ thảo mộc. Tính của quẻ Tốn là vào, là nhún nhường. Tên khác còn gọi là phong, Tốh là trưởng nữ. * Quẻ K hảm còn gọi là K hảm trung mãn, là quẻ sô'6. Tượng của quẻ Khảm là nước, là mây, là mưa. Tính của quẻ Khảm là hiểm, là dầy đặc. Tên khác còn gọi là thuỷ, Khảm là trung nam. * Quẻ Cấn còn gọi là Cấn phúc uyển, là quẻ sô'7. Tượng của quẻ Cấn là núi, là đồi. Tính của quẻ Cấn là đậu lại, dừng lại, đỗ lại. Tên khác còn gọi là sơn, Cấn là thiếu nam. * Quẻ Khôn còn gọi là K hôn lục đoạn, là quẻ sô'8. Tượng của quẻ Khôn là đất, là con trâu. Tính của quẻ Khôn là thuận, hoà, hiền lành. Tên khác còn gọi là địa, Khôn còn là mẹ. 14 * về nguyên tắc vạch quẻ: vạch từ dưới lên trên và từ trong ra ngoài. Trong 8 quẻ thì ngoài Càn là quẻ dương và Khôn là quẻ ám thì Tốn, Ly , Đoài là quẻ âm. Vì dương X âm X dương = âm. Chấn, Khảm, Cấn là quẻ dương vì dương X âm X ảm = dương. TH U YẾT LỤC TỬ CỦA VĂN VL/ƠNG Khi Văn Vương xếp ra thứ tự các quẻ cũng chưa có ý gì rõ mà sau này Thiệu Tử mới bàn thêm. Càn Khôn là tròi đất mà cũng là cha mẹ. Khôn tìm Càn lần một mà ra quẻ Chấn tức là trưởng nam. Khôn tìm Càn lần hai mà ra quẻ Khảm tức là trung nam. Khôn tìm Càn lần ba mà ra quẻ Cấn tức là thiếu nam. Càn tìm Khôn lần một mà ra quẻ Tốh tức là trưởng nữ. Càn tìm Khôn lần hai mà ra quẻ Ly tức là trung nữ. Càn tìm Khôn lần ba mà ra quẻ Đoài tức là thiếu nữ. Tại sao Tốn, Ly, Đoài lại là là nữ, bởi vì Tốn, Ly, Đoài là quẻ âm. Cũng như vậy Chấn, Khảm, Cấn là quẻ dương nên Chấn, Khảm, Cấn là nam. Dịch nói: được dương thì tiến, được âm thì lùi cho nên thuộc về Càn đạo thì thành nam, thuộc về Khôn đạo thì thành nữ. Đó cũng là lẽ một âm một dương mà thôi. THUYẾT LỤC TỬ Quẻ Càn là cha Quẻ Khôn là mẹ Quẻ Khôn tìm quẻ Càn lần một thì ra quẻ Chấn: Quẻ Khôn tìm quẻ Càn lần hai thì ra quẻ Khảm: Quẻ Khôn tìm quẻ Càn lần ba thì ra quẻ Cấn: 15 Quẻ Càn tìm quẻ Khôn lần một thì ra quẻ Tốn: Quẻ Càn tìm quẻ Khôn lần hai thì ra quẻ Ly: Quẻ Càn tìm quẻ Khôn lần ba thì ra quẻ Đoài; — — I T I _ _ _ Theo quy luật thì âm dương, tròi đất sinh ra tứ tượng, tứ tượng lay động mà thành bát quái, cũng chính là một gia đình thu nhỏ có đầy đủ bố mẹ, ba con trai và ba con gái. Ngoài ra Văn Vương cũng chẳng bàn luận gì cả nhưng tại sao mẹ tìm bố thì ra con trai, bố tìm mẹ mà ra con gái, phải chăng đó là tính chủ động của từng cá thể bố và mẹ? - S ư tao th à n h lục tháp tứ qu ái: Sau khi tìm ra Hà đồ, Phục Hy liền lấy 1 vạch liền làm phù hiệu cho khí dương, một vạch đứt làm phù hiệu cho khí âm, từ đó lưỡng nghi ra đòi. Hệ từ thượng truyện viết: vô cực sinh thái cực, thái cực sinh lưởng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái lay động thành lục thập tứ quái gồm có 384 hào. Bát quái là quẻ 3 vạch, (mỗi vạch gọi là hào) còn gọi là quẻ đơn, quái đơn, trong quái kép có 6 hào gồm 3 hào dưới là quái đơn còn gọi là nội quái, 3 hào trên cũng là quái đơn còn gọi là ngoại quái. Chồng lần lượt 8 lần bát quái lên từng quái một từ quái số 1 đến quái số 8 chúng ta có tổng cộng 8 X 8 = 64 quái kép. Trong 8 lần xếp đó, cứ lần lượt từ Càn tới Khôn, mỗi quái làm nội quái cho 8 quái một. Ví dụ: Càn = Đoài =-= Ly — Chấn = = Càn ~ Càn ~ Càn ~ Càn ~ { Bát thuán Càn ) ( Trạch Thiên Q uải) ( Hoả Thiên Đạỉ HCAj) ( LôiThiên Đại Trảng ) Tổn = Càn ~ Khảm ^ Càn ~ Cẩn Càn “ Khôn = = Càn “ (Phong Thién Tiểu sú c)( Thuỷ Thiên N hu) ( Sơn Thlén Đại súc) ( Địa Thiên Thai) Hình 6 16 Tên gọi các quái: các quái kép gồm có 6 vạch gồm nội quái và ngoại quái, mỗi vạch gọi là một hào, hai hào trên cùng là Thiên, hai hào giữa là Nhân, hai hào dưới là Địa dựa theo thuyết Tam tài, mỗi tài có hai vạch vì đạo tròi có âm và dương, đạo người có nhân và nghĩa, đạo đất có cứng và mềm. Hào số 2 là hào giữa nội quái, hào số 5 nằm giữa ngoại quái nên gọi là đắc trung, nếu đúng vị trí như hào âm ở ngôi âm, hào dương ở ngôi dương thì còn gọi là hào chính. Hào trung chính thì rất tốt như hào cửu ngũ vậy. Vê cách gọi tên quẻ thì người ta đọc tên ngoại quái rồi đọc tên nội quái và cuôi cùng là tên quẻ. Nếu hai quái nội ngoại giống nhau thì thêm chữ thuần, riêng quẻ Khảm thì gọi là tập Khảm để nhấn mạnh tính hiểm và dầy đặc của quẻ ibiảm. Ví dụ: Địa Thuỷ Sư: Sư là tên quẻ, thuỷ là quẻ Khảm làm nội quái, địa là quẻ Khôn làm ngoại quái vì Khảm là thuỷ mà Khôn là địa. Bát thuần Ly: quẻ Ly bên dưới là nội quái, quẻ Ly bên trên là ngoại quái. Tên của 64 quái là; Nội quái là Càn:_____________________________________ _______ Càn = Đo^ ee Ly EZ Chẩn ^ Càn ~ Càn ~ Càn “ Càn “ ( Bàt ttiuán Càn) ( Trạch Thiên Quải) ( Hoà Thiên Dại Hũl;) ( LôiThiên Đại Trảng) Tốn = Khảm Cấn ^ Khôn =J Càn ~ Càn “ Càn ~ Càn “ (Phong Thiên Tiểu sủc)(Thuỷ Thiên Nhu) ( Sơn Thiên Đại súc) ( Địa Thiên Thai) Nội quái là Đoài: Cán = M ẹ ị Chắi Đoài ~ Đoài ~ Đoài “ Đoài “ ( Thiên Trạch Lý) ( Bất thuần Đoài) ( Hoả Trạch Khuê) (Lôi Trạch Qui muội) Tốn = K h ả m ^ cẩn ^ í t o = = Đoài “ Đoài ~ Đoài “ Đoài ~ (Phong Trạch Trung phu) ( Thuỷ Trạch Tiết) ( Sơn Trạch Tổn) ( Địa Trạch Lảm) Hình 7 17 Nội quái là Ly: Càn = Đoài = Ly EH Chấn = = Ly = Ly = Ly = Ly = ( Thiên Hcả Đổng nhân) ( Trạch Hoả Cách) ( Bát thuần Ly) ( Lôi Hoà Phong) ' Tốn = Khảm Cấn — Khôn = = Ly ^ Ly ^ Ly ^ Ly ^ (Phong Hoả Gia Nhân) ( Thuỷ Hoả Ký Té) ( Sơn Hoả Bi) ( Dịa Hoả Minh Di) Hình 8 Nội quái là Chấn: Càn = Đoài EE Ly Chấn = = Chấn — Chấn — Chấn — Chấn — ( Thiên Lôi Vô vọng) (Trạch Lôi Tuỳ) ( Hoả Lôi Phệ hạp) ( Bát thuần Chấn) Tốn = Khảm ^ Cấn =-= Khôn = = Chấn — Chấn — Chấn — Chấn — (Phong Lõi Ich) ( Thuỷ Lôi Truân) (Sơn Lôi Di) (Địa Lồi Phục) Hình 9 Nội quái là Tốn; Càn = I M = ^ Chấn = = Tốn ~ Tốn “ Tốn ~ Tốn ~ (Thiên Phong cáu) ( Trạch Phong Đại quá) ( Hoả Phong Đinh) ( Lôi Phong Hằng) Tốn = Khảm ^ Cấn ^ Khôn = = Tốn “ Tốn “ Tốn ~ Tốn " ( Bát thuắn Tốn) ( Thuỷ Phong Tính) ( Sơn Phong cổ) ( Địa Phong Thăng) Hình 10 18 Nội quái là Khảm; Càn = Doài = Ly EE Chẩn = = Khảm " Khảm" Khảm" Khảm" ( Thiên Thuỷ Tụng) ( Trạch Thuỷ Khốn) ( Hoả Thuỷ Vị t ế ) ( Lôi Thuỷ Giải) Tốn = Khảm ^ cấn ^ Khốn = = Khảm " Khảm " Khảm" Khảm" (PhongThuỷHoán) (TậpKhảm) ( SonThuỷMông) ( ĐịaThuỷSư) Hình 11 Nội quái là Cấn: Nội quái là Khôn: Càn = Đoài = Ly Khôn - - Khôn - - Khốn - - Chấn Khôn (Thiên Địa Bĩ) ( Trạch 0ịa Tuy) (HoàĐịaTán) (Lôi Địa Dự) Tổn = Khảm^ Cấn ^ Khôn ẸẸ Khôn - - Khôn - - Khôn - - Khôn -- (Phong Địa Quán) ( Thuỷ Đia Tỵ) ( Sơn Địa Bác) ( Bát thuán Khôn) Hình 13 19 VIÊN ĐỔ LỤC THẬP TỨ QUÁI Lục thập tứ quái có thể trình bày theo đồ tròn gọi là V iên đồ tượng trưng cho tròi và theo đó hình vuông tượng trưng cho đất và được đặt nội tiếp trong vòng tròn hàm ý tròi chứa đất, tròi tròn đất vuông . Trong đồ hình này chúng tôi chỉ trình bày sự tạo nên viên đồ theo thứ tự từ trong ra mà không xếp đồ hình vuông vào bên trong. Tên của từng quẻ một được sắp xếp ở phần trên theo nguyên tắc ngoại quái bên trên, nội quái bên dưới, khi đọc ta đọc tên ngoại quái trưốc, nội quái sau rồi đến tên quẻ: Ví dụ; quẻ Thiên Phong Cấu, thiên là ngoại quái Càn, phong là nội quái Tô"n, Cấu là tên quẻ. - ứ n g d ụ n g của 64 quẻ: Văn Vương nhìn vào tượng quẻ rồi nhận xét tính quẻ và sắp xếp quẻ theo quy luật như có tròi có đất đầu tiên, có tròi có đất rồi thì vạn vật mới sinh, đó là quẻ Truân tiếp nối, truân là gian khổ, là bắt đầu thì thường khó khăn, mờ tối nên tiếp đến là quẻ Mông, mông là mờ tối, là đội lên, lớn lên thì phải nuôi, nuôi bằng thức ăn thì đó là quẻ Nhu, thường ăn thì hay kiện tụng tranh giành nên tiếp theo là quẻ Tụng. * Trong 64 quẻ ấy chia ra làm 2 quyển: - Chu Dịch Thượng Kinh gồm 30 quẻ từ quẻ Càn tới quẻ Ly. - Chu Dịch Hạ Kinh gồm 34 quẻ từ quẻ Hàm tối quẻ VỊ Tế. Ý nghĩa các quẻ sẽ được trình bày ở phần sau. Trong Viên đồ có quy luật: xuất phát từ 2 quẻ Càn và tận cùng bằng 2 quẻ Khôn. Bên trái chủ dương từ quẻ Địa Lôi Phục lên quẻ Bát Thuần Càn, dương lớn dần từ một vạch dương là quẻ Địa Lôi Phục, hai vạch dương là quẻ Địa Trạch Lâm, ba vạch dương là quẻ Địa Thiên Thái, bốh vạch dương là quẻ Lôi 20 Thiên Đại Tráng, năm vạch dương là quẻ Trạch Thiên Quải, và cuối cùng sáu vạch dương là quẻ Bát Thuần Càn. Từ quẻ Thiên Phong Cấu tối quẻ Bát Thuần Khôn thuộc về bên phải chủ âm, âm lớn dần lên từ một vạch âm là quẻ Thiên Phong Cấu, hai vạch âm là quẻ Thiên Sơn Độn, ba vạch âm là quẻ Thiên Địa Bĩ, bốn vạch âm là quẻ Phong Địa Quán, năm vạch âm là quẻ Sơn Địa Bác và cuối cùng sáu vạch âm là quẻ Bát Thuần Khôn. Vì vậy mới nói dương thuộc trái, đi lên còn âm thuộc phải, đi xuốhg. Theo quy luật dương cực âm sinh, âm cực dương sinh, trong âm có dương, trong dương có âm. * Kinh Dịch gồm 64 quẻ. Kinh Dịch của Phục Hy, Văn Vương, Chu Công Đán thiên về bói toán, còn thời Tam hoàng Ngũ đê vận dụng quẻ để chê công cụ dạy dân đánh cá, cày cấy như quẻ Bát Thuần Ly có nhiều lỗ rỗng để chê ra lưối đánh cá, thấy quẻ Phong Thuỷ Hoán thì chê ra thuyền vì quẻ Tốh là gỗ đi trên nước (quẻ Khảm có tượng là nưốc) hoặc quẻ Phong Lôi ích mà chê ra cày vì bên trên là gỗ (quẻ Tốn có tượng là gỗ, là cây) bên dưới là động (là quẻ Chấn), bên trên là âm mộc (vì quẻ Tốn có tính mềm dẻo) mà đẽo ra cán cày, bên dưối là dương mộc (quẻ Chấn tính động và cứng rắn) mà đẽo lưỡi cày. Kinh Dịch của Khổng Tử chú trọng nhiều đến tu thân, xử thê và các qui luật xã hội cũng như đời sốhg con ngươi. * Ngoài ra người ta còn ứng dụng 64 quẻ trong 24 tiết khí trong một năm chẳng hạn như: tiết lập đông từ đầu tháng 10 tương ứng với quẻ Địa Sơn Khiêm, quẻ Thiên Địa Bĩ ... phục vụ cho làm lịch và nông nghiệp, cũng như trong học thuyết vận khí. - H ào âm, hào d ư ơng và vị trí của hào: - Hào dương là vạch liền ------ Gọi là hào cửu còn gọi là lão dương. - Hào âm là vạch đ ứ t --------Gọi là hào lục còn gọi là lão âm. - Các hào ngôi 1, ngôi 3, ngôi 5 là vị trí dương. - Các hào ngôi 2, ngôi 4 là vị trí âm. - Hào dương ngôi dương, hào âm ngôi âm là đắc chính. - Hào dương ngôi âm, hào âm ngôi dương là bất chính. - Hào 2 và hào 5 là hào trung, hào nào vừa trung vừa chính là hào trung chính như hào cửu ngũ là trung chính thuộc ngôi vua. - Thập dự c: Thập dực có 10 truyện nhưng chỉ chia thành 6 thứ, đó là; Thoán truyện chuyên chú thích lời quẻ của Văn Vương, tức là những câu dưối chữ: Lòi thoán nói rằng. Tượng truyện chú thích hình tượng các quẻ và các hào tức là những câu dưới chữ: Lòi tượng nói rằng, chú thích chung cho cả quẻ gọi là Đại tượng truyện, chú thích riêng cho từng hào gọi là Tiểu tượng truyện. Văn ngôn truyện chú thích riêng cho hai quẻ Càn, Khôn. Hệ từ truyện nói về công phu cũng như ý nghĩa trong việc làm Kinh Dịch của Văn Vương và Chu Công, thuyết quái nói về đức nghiệp và sự biến hóa của 8 quẻ. Tự quái truyện nói về tại sao quẻ này lại nối tiếp quẻ kia. Tạp quái truyện nói về những ý nghĩa vụn vặt của quẻ. 21 PHẦN 2 BÀN V Ề M ỘT SỐ HỌC T H U Y Ế T Y HỌC C ổ T R U Y Ề N HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG 1. BÀN VỂ ÂM DƯƠNG Khái niệm âm dương hết sức phong phú và trừu tượng mà không thể dịch sang tiếng nưóc ngoài được, chẳng hạn như dương là positive (dương tính) hoặc âm là negative (âm tính) nên khi giảng dạy cho người nưóc ngoài thường dịch nguyên bản, bởi vì âm dương là hai phạm trù nắm gọn toàn bộ thế giối vật chất quanh ta. Trong Nội kinh, kinh văn 1 của học thuyết âm dương định nghĩa rằng: âm dương là qui luật chung của vũ trụ, là cương kỷ của mọi sự vật, khởi đầu của sự biến hóa vạn vật, gốc rễ của sự sinh trưởng, hủy diệt, là chỗ phát nguyên của mọi hình tượng. Thầy thuốc chữa bệnh cần phải tìm được nguồn gốc biến hóa của bệnh tình mà đạo lý không ra ngoài hai chữ âm dương. Trong sự biến hóa của vũ trụ thì khí thanh dương tụ ở phần trên mà thành ra trời, khí trọc âm chứa ở phần dưối mà thành ra đất, âm tương đối tĩnh, dương tương đối động, dương chủ về sinh, âm chủ về thành, hàn cực sinh nhiệt, nhiệt cực sinh hàn, hàn khí thì cơ thể sinh ra trọc âm, nhiệt khí thì cơ thể sinh ra khí thanh dương, nếu khí thanh dương ở dưối mà không đi lên thì sẽ sinh ra bệnh tiết tả, khí trọc âm ở trên mà không đi xuốhg thì sẽ sinh ra bệnh đầy trướng. Kinh văn 2 nói: khí thanh dương bốíc lên thành trời, khí trọc âm đưa xuốhg thành đất, khí đất bốc lên thành mây, khí trời tụ lại rơi xuốhg thành mưa, mưa là do khí đất bốíc lên thành mây, mây là do nưốc mưa của khí tròi rơi xuông rồi bốíc hơi lên mà thành. Do vậy ta thấy trời xuất địa khí còn đất thì xuất thiên khí. 2. ĐỊNH NGHĨA Ảm dương là hai phạm trù có các thuộc tính sau; dương có tính động, nóng, sáng, trong, nhẹ nổi lên thành trời. Dương sinh ra ở phương Bắc, bên trái chủ dương và được biểu hiện bằng một vạch liền ( ------). Àm có tính: lạnh, tĩnh, đục, tối, nặng chìm xuống thành đất. Âm sinh ra ỏ phương Nam, bên phải chủ âm và được biểu hiện bằng một vạch đứt ( ------). Học thuyết âm dương nghiên cứu về bản chất và mốỉ quan hệ giữa hai phạm trù này. Từ xa xưa, cách đây hàng ngàn năm, cổ nhân đã nhận thấy các sự vật và 22 hiện tượng trong thiên nhiên luôn luôn đối lập với nhau đồng thời lại thông nhất, hỗ căn nhau, các sự vật và hiện tưỢng ấy không ngừng vận động và biến hóa, đê các sự vật và hiện tượng mới ra đòi, lớn lên và cuối cùng tiêu vong, nhường bưốc cho một chu trình mới tiếp theo. Học thuyết Âm dương được áp dụng trong tất cả mọi lĩnh vực khoa học tự nhiên và xã hội, đặc biệt trong y học, nó được quán triệt từ đầu tới C U Ố I trong biện chứng luận trị và đối pháp lập phương. Định nghĩa này là phương pháp qui nạp toàn bộ tư tưởng của âm dương; chỉ cần thuộc định nghĩa, bằng phương pháp diễn giải, ta có thể triển khai toàn bộ nội dung của học thuyết. 3. CÁC QUI LUẬT C ơ BẢN TRONG HỌC THUYẾT ÂM DUƠNG 3.1. Qui luật âm dương đối lập Qui luật này được rút ra từ những nhận xét rằng các phạm trù âm dương thường đối lập với nhau như ngày và đêm, mặt trời và mặt trăng, khí và huyết, trời và đất, sáng và tối, nam và nữ, hoạt động và yên lặng, hưng phấn và ức chế, bên ngoài và bên trong, vô hình và hữu hình, nguyên thể và công dụng trong đó: Dương Ngày Mặt trời Khí Trời Sáng Nam Hưng phấn Bên ngoài Vô hình Thể Âm Đêm Mặt trăng Huyết Đất Tối Nữ ức chê Bên trong Hữu hình Dụng Chúng ta có thể tìm thấy vô vàn thí dụ về các cặp sự vật và hiện tượng đối lập vối nhau, bất kỳ một sự vật và hiện tượng nào cũng có mặt trái của nó như mặt trái của tấm huân chương, nghèo là khổ nhưng nhiều trường hỢp rất êm đềm hạnh phúc trong khi nhiều người khi giàu có thì trở nên cô đơn và bất hạnh. 3.2. Qui luật âm dương hỗ căn Hỗ căn là sự nương tựa, giúp đỡ nhau, căn là gốc rễ, hỗ là tương trỢ. Âm dương tuy đối lập nhau nhưng nương tựa vào nhau, thống nhất với nhau để cùng tồn tại và phát triển. Cái phần thiếu của mọi sự vật và hiện tượng chính là cái phần mà các sự vật và hiện tượng ấy đối lập. Loài người sẽ ra sao khi vắng bóng nửa kia của nhân loại, bóng đêm sẽ tràn ngập mọi nơi và mặt trời sẽ thôi chiếu sáng. Cuộc sống sẽ ra sao khi chỉ có tiếng khóc mà không hề có nụ cười, tình yêu sẽ ra sao khi tất cả chỉ là tiền bạc và vật chất trong khi chêt hẳn cuộc sông tinh thần. Bạn sẽ nghĩ gì khi chỉ thành công mà không bao giờ thất bại, bởi vì thất bại là mẹ của thành công. Con người chúng ta thật kỳ diệu, sự phức tạp của con người là vậy mà bóc tách tới tận cùng cũng chỉ là hai mảnh ghép lại, là một bộ gen mà một nửa của cha còn nửa kia là của mẹ, tới mức tê bào phân tử thì chúng ta cũng chỉ là những hạt electron quay quanh các hạt nhân mang điện tích dương mà thôi. Trong tất cả thế giối bao la này là một tập hỢp các cặp 23 đối lập nhau nhưng thống nhất với nhau, nương tựa vào nhau để cùng tồn tại và phát triển, vì vậy âm dương tuy đối lập nhau nhưng không thể tách ròi và không thể nào thiếu nhau, bởi vì như quẻ Bĩ, âm dương cách biệt nghĩa là chết. Trong cơ thể con người, chức năng hoạt động là dương, cơ sở vật chất là âm, các chức năng hoạt động được là nhò có cơ sở vật chất và cơ sỏ vật chất này không ngừng được bổ xung nhò chức năng của tạng phủ, do vậy cả hai mặt đều là quá trình tích cực của sự vật, không thể đơn độc mà phát sinh, phát triển được. Trong đời sốhg xã hội cũng vậy, vật chất quyết định tinh thần, khi làm việc sáng tạo và sản xuất, sự đãi ngộ vật chất xứng đáng sẽ kích thích sáng tạo, trên cơ sở tinh thần phấn chấn, sản phẩm của sự sáng tạo sẽ tốt hơn rất nhiều về số lượng và chất lượng. Bản chất của vấn đề là kết hợp giữa tinh thần và vật chất, giữa âm và dương phải hài hòa để tạo nên thê cân bằng. C à n K h ô n Hình 15: Quẻ Thiên Địa Bĩ 3.3. Qui lu ật âm dương tiêu trưởng Tiêu là mất đi, trưởng là thêm vào, là được. Qui luật của tự nhiên và xã hội cũng vậy, không cái gì tự nhiên sinh ra và cũng không có cái gì tự nhiên mất đi mà đó chỉ chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác. Các định luật bảo toàn năng lượng và bảo toàn trọng lượng đã chứng minh điều đó. Trong cuộc sống, chúng ta được bao nhiêu thì chúng ta cũng mất đi bấy nhiêu, khi chúng ta trưỏng thành và có đủ mọi thứ người đời mơ ưốc thì chúng ta đã mất đi tuổi trẻ thơ ngây đầy khát vọng, khi trở nên giàu có và địa vị cao thì mất bạn bè, người thân và sự đối xử chân tình, mất cả lòng tin và sự trong sáng. Khi cây lớn lên, cành lá xum xuê thì không biết bao nhiêu lá cây rụng xuông, khi trở thành người tài trí khôn ngoan thì đã trải qua biết bao lần dại dột. Khi chúng ta bật máy điều hòa, trong khi luồng gió lạnh mát rượi tỏa khắp quanh ta, thì luồng khí nóng từ máy thổi sang nhà hàng xóm và lượng tiền điện C U Ố I tháng có thể làm ta xót xa dấm dứt. Mùa đông lạnh, mùa hè nóng, mùa thu mát là do dương khí mùa hè giảm đi mà âm khí tăng lên. Nóng sang lạnh là dương tiêu âm trưởng, lạnh sang nóng là âm tiêu dương trưởng. Qui luật của vạn vật là vật cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu nghĩa là khi một sự vật và hiện tượng nào phát triển đến tột cùng thì sẽ chuyển biến sang dạng khác, khi đó nó sẽ thông suốt và bền vững trong một thời gian nào đó. Qui luật tiêu trưỏng giốhg như vòng tròn của trời đất, dương cực sinh âm, âm cực sinh dương, hàn cực sinh nhiệt, nhiệt cực sinh hàn. Nắng lắm thì mưa nhiều, hết ngày là đêm, hết đêm là ngày, năm tháng cuộc đời cũng vậy, ai mà chẳng qua sinh lão bệnh tử, năm nào mà chẳng có xuân hạ thu đông. Trong quá trình sinh bệnh, dương bệnh sốt cao ảnh hưởng tối phần âm gây mất nước, điện giải. Nếu không chữa kịp thời sẽ ảnh hưởng ngược lại phần dương gây choáng, trụy mạch mà YHCT gọi là thoát dương. 24 3.4. Qui luật âm dương bình hành Ảm dương tuy đốì lập, vận động không ngừng nhưng luôn luôn lập lại thế cân bằng. Trong thiên nhiên, sự mất cân bằng có thể làm cây cối khô cằn, lũ lụt mênh mông, hỏa hoạn liên miên, nhân tâm ly tán, vũ trụ tiêu điềụ. Trong cơ thể con người, sự mất thăng bằng âm dương là cơ sở cho sự phát sinh bệnh tật, chang hạn như âm thắng thì dương bị bệnh và ngược lại dương thắng thì âm bị bệnh. Trong chữa bệnh, nguyên tắc quan trọng nhất là phải điều hòa âm dương trở lại hòa bình, khi đó bệnh sẽ tự lui. Dịch nói; vạn vật lấy cân bằng làm gốc. Bao quát toàn bộ 4 qui luật cơ bản của âm dương là sự mâu thuẫn nhưng thông nhất, vận động không ngừng, luôn luôn biến hóa, nương tựa và chê ước lẫn nhau trong quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong của thê giới vật chất. Sự đối lập ấy là khách quan, do đó các qui luật cơ bản của ậm dương cũng là các qui luật khái quát hóa của sự vận động và phát triển không ngừng của sự vật khách quan. Trong YHCT, khi vận dụng 4 qui luật trên vào y lý, người ta còn rút ra được các phạm trù sau: 3.4.1. P ham trù 1 Sự tương đối và tuyệt đối của hai mặt âm dương: Sự đối lập giữa hai mặt âm và dương là tuyệt đối và mang tính đối kháng như mặt trăng vối mặt tròi, như nóng và lạnh w .. nhưng thông thường âm dương hòa trộn vào nhau và sự phân biệt chỉ mang tính tương đối như hàn (âm) đỐl lập với nhiệt (dương) nhưng hòa ít nước nóng vào cốc nước đá thì cốc nưốc trở nên mát (lương) còn khi bỏ cục nước đá vào cốíc nước nóng thì nước trong cốc trở nên ấm (ôn), cũng vậy mùa xuân ấm áp, mùa hạ nóng nực, mùa thu mát mẻ và mùa đông lạnh lẽo. Trên thực tê lâm sàng, sốt cao thuộc lý thì dùng thuốc hàn (âm dược) còn sốt nhẹ thuộc biểu thì dùng thuốc mát (lương dược). 3.4.2. P ham trù 2 Trong âm có dương và trong dương có âm: Trên thực tế, phạm trù này cụ thể hóa phạm trù 1, thường âm dương hòa lẫn nhau để phát huy công dụng, còn khi âm dương tách biệt không giao hòa vào nhau thì đó chính là sự bất biến, bất dịch, đó chỉ là nguyên thể, là tiềm năng. Do vậy ít khi ta tìm thấy một sự vật và hiện tượng đơn lẻ, bởi vì âm dương thường nương tựa nhau để tồn tại và phát triển, ví dụ như trong thòi gian một ngày có 24 giò thì từ 6h sáng đến 18h tối là ban ngày thuộc dương, từ 18h tối đến 6h sáng là đêm thuộc âm. Từ Ih sáng tới 12h thuộc sáng, thuộc dương. Từ 12h đến 24h thuộc chiều, thuộc âm. Do đó từ Ih đến 6h là dương trong âm, người ta gọi đó là Thiếu dương. Từ 6h đến 12h là dương trong dương, người ta gọi đó là Thái dương, tráng dương. Từ 12h đến 18h là âm xuất hiện trong dương nhưng còn nhỏ bé nên gọi đó là Thiếu âm, là âm trong dương. Từ 18h tốỉ tối 24h đêm là âm trong âm, người ta gọi đó là Thái âm, nghĩa là âm khí dầy đặc khắp nơi. 25 Trên lâm sàng, khi cho thuốc làm ra mồ hôi để hạ sốt thì chú ý tránh cho ra nhiều mồ hôi vì khi mồ hôi ra nhiều dễ gây mất nước, mất điện giải; trong khai thác triệu chứng thường hay xuất hiện các chứng hư thực lẫn lộn, hàn nhiệt không rõ ràng, lúc biểu lúc lý. Trong cấu tạo của cơ thể, tạng là âm còn phủ là dương nhưng trong tạng âm cũng có âm, dương như can âm, can dương; phủ là dương cũng có âm dương như vị âm, vị khí. 3.4.3. P hạm trù 3: bản chất và hiện tượng: Thông thường thì bản chất phù hỢp vối hiện tượng. Trên thực tế, người ta hay dựa vào các hiện tượng để suy ra bản chất như lồi ăn tiếng nói và hành động, hành động nghĩa hiệp cứu giúp những người khó khăn hoạn nạn, nhường cơm xẻ áo, chia ngọt xẻ bùi thường là của những người tốt còn ích kỷ hại nhân, thản nhiên trước nỗi đau của đồng loại thì chắc chắn là kẻ xấu. Thế nhưng cuộc sốhg lại cực kỳ phức tạp, có những kẻ ra tay nghĩa hiệp giống Lục Vân Tiên đánh cướp mà chiếm được tình cảm của người đẹp nhưng thực tế thì đó là sự dàn cảnh mà kẻ cướp chính là đồng bọn của chúng. Trong trường hợp này hiện tượng cực kỳ tốt đẹp nhưng bản chất thật sự xấu xa. Hoặc người chiến sĩ tình báo phải làm nhiều việc mang tiếng phản bội tổ quốc để hoàn thành nhiệm vụ của mình thì đây là hiện tượng chân giả, người chiến sĩ ấy mang tiếng xấu, chịu hi sinh để hoàn thành sứ mệnh cao cả của nhân dân và tô quốic giao phó. Trong trường hỢp này hiện tượng thì xấu còn bản chất thì vô cùng tốt đẹp. Trong YHCT cũng vậy, thông thường các triệu chứng lâm sàng phù hỢp vối bệnh tật như bệnh nhiệt thì người nóng, sốt cao, khi chữa ta dùng thuốc hàn lương, bệnh hàn người lạnh, sỢ lạnh, khi chữa ta dùng thuốc nhiệt, trong pháp điều trị người ta gọi đó là phương pháp chính trị hay là nghịch trị. Tuy nhiên, có những lúc bản chất không phù hỢp vối triệu chứng bên ngoài, đó chính là sự chân giả, vì vậy trên lâm sàng cần hết sức thận trọng trong chẩn đoán, phải xác định cho đúng bản chất bệnh mà cho thuốc. Ví dụ: bệnh nhiễm khuẩn gây sốt cao, bản chất là nhiệt nhưng do nhiễm độc gây trụy mạch ngoại biên làm chân tay lạnh, ra mồ hôi lạnh thì các triệu chứng đó là hiện tượng ^ỉả hàn, khi chữa ta phải dùng thuốc mát lạnh mà chữa, hoặc 26 bệnh ỉa chảy do lạnh, bản chất là hàn nhưng do mất nưốc, "mất điện giải gây nhiễm độc thần kinh gây co giật, sốt cao thì triệu chứng đó là g iả nhiệt, khi chữa ta phải dùng thuốc nóng ấm mà chữa. Trong pháp điều trị người ta gọi là phương pháp p h ản trị hay là tòng trị. Các qui luật của âm dương và các phạm trù của âm dương được biểu hiện trong thái cực đồ, dương chủ bên trái và đi lên, âm chủ bên phải và đi xuống, trong phần dương có Thiếu âm, trong phần âm có Thiếu dương. LỜI BÀN VỀ THÁI cực ĐỔ Về Thái cực đồ, hiện nay chưa có ai chủ trì thốhg nhất, mỗi người vẽ một kiểu, ngưỢc xuôi lẫn lộn, nếu có chất vấn thì họ nói rằng lúc vẽ thì đúng còn lúc in thì sai. Điều này thực sự khó cho người học, họ không biết tin vào đâu, ngay cả tác phẩm trứ danh của Ngô Tất Tố cũng bị in sai (Kinh Dịch, Ngô Tất Tố, NXB Thành phố Hồ Chí Minh 1995), ở bên trong sách, Phương vị hậu thiên bát quái của Văn Vương ( Trang 40 ) thì vạch quẻ từ trong ra theo đúng nguyên tắc vạch quẻ thì ngoài bìa lại vạch quẻ từ ngoài vào, điều này làm đảo lộn kết quả, bỏi vì vạch quẻ không thống nhất sẽ tạo ra các quẻ khác nhau, chẳng hạn như khi vạch quẻ Cấn thì phải vạch từ dưối lên như sau: Thế nhưng nếu vạch từ trên xuốhg thì không phải là quẻ Cấn nữa mà là quẻ Chấn: Ngay cả khi vẽ thái cực đồ trên các logo, trong các hội nghị vê' YHCT cũng không thống nhất. Chúng ta hãy thử phân tích vấn đề này dựa trên Dịch học. Theo hình 16 ta thấy dương chủ về trái và đi lên (Ngô Tất Tô" gọi đó là đi xuôi), Từ giờ Tý đến Ngọ tương đương từ Ih sáng tới 12h trưa thuộc về dương. Âm chủ bên phải và đi xuống (Ngô Tất Tô" gọi đó là đi ngược), là chiều và đêm, thuộc về âm. Theo Viên đồ (hình 14), các vạch dương tăng dần theo chiều kim đồng hồ tính từ Tý đến Ngọ (chiều xuôi, đi lên), đầu tiên là Địa Lôi Phục có 1 vạch 27 dương tiến lên Địa Trạch Lâm có 2 vạch dương, Địa Thiên Thái có 3 vạch dương, Lôi Thiên Đại Tráng có 4 vạch dương, Trạch Thiên Quải có 5 vạch dương và cuối cùng là Bát Thuần Càn có 6 vạch dương (hình 18). Cũng như vậy, các vạch âm tăng dần theo chiều ngược (đi xuốhg) tính từ Ngọ tối Tý, đầu tiên là Thiên Phong Cấu có 1 vạch âm, Thiên Sơn Độn có 2 vạch âm, Thiên Địa Bĩ có 3 vạch âm, Phong Địa Quán có 4 vạch âm, Sơn Địa Bác có 5 vạch âm và Bát Thuần Khôn có 6 vạch âm (hình 19). Điều rõ ràng là khi vạch thái cực đồ, chúng ta phải thể hiện rõ là thái cực đồ phải dựa vào đâu, trên cơ sở nào, bởi vì thái cực là cái khởi thủy của tiên thiên, theo phương vị tiên thiên bát quái mà Phục Hy đã vạch ra cách đây hàng ngàn năm (hình 20). Tiên thiên là thể, hậu thiên là dụng, không nên đem cái dụng làm hình tượng nguyên mẫu được, còn các tác giả khác khi vẽ thái cực theo chiều ngược lại thì nên chú thích là theo hậu thiên bát quái và chúng ta hãy tự hỏi đó có còn là thái cực nữa hay không. Nguyên thê là khuôn mẫu còn công dụng là sự vận dụng theo suy nghĩ của con người, mà theo suy nghĩ của con người thì có nhiều cách giải thích và vận dụng khác nhau, do đó khó có sự thống nhất được. Địa Lôi Phục Địa Trạch Lâm Địa Thiên Thái Khôn Chẩn Chấn Càn Khôn Đoẩi Đoài Càn Khòn Càn Căn Càn = J Lôi Thiên Đại Tráng Trạch Thiên Quải Bát Thuần Càn Hình 18 Trên hình 18, theo thứ tự từ trái sang phải, từ trên xuống dưới biểu diễn chiều tăng dần của dương khí từ 1 vạch dương, 2 vạch dương, 3 vạch dương, 4 vạch dương, 5 vạch dương, 6 vạch dương theo chiều đi lên, bên trái của Thái cực đồ từ giờ Tý đến giò Ngọ. Thiên Phong Cấu Thiên Sơn Độn Thiên Địa Bĩ Càn Tốn Càn Cấn Càn Khôn — H Tốn Cấn — — Khôn Khôn Khôn Khôn — Phong Địa Quán Sơn Địa Bác Hình 19 Bát Thuần Khôn Trên hình 19, theo thứ tự từ trái sang phải, từ trên xuống dưới biểu diễn chiều giảm dần của dương khí và chiều tăng dần của âm khí từ 1 vạch âm, 2 vạch âm, 3 28 vạch âm, 4 vạch âm, 5 vạch âm, 6 vạch âm theo chiều đi xuốhg, bên phải của Thái cực đồ từ giò Ngọ tới giò Tý. Hình 20. Tiên thiên bát quái 4. ỨNG DỤNG CỦA HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG TRONG Y HỌC Về ứng dụng của học thuyết âm dương, đây là một lĩnh vực vô cùng rộng lớn, trong muôn mặt đòi sống, trong tự nhiên, trong xã hội và đó cũng chính là ứng dụng của Dịch học. Trong tài liệu này chúng tôi chỉ nêu những ứng dụng chủ yếu trong Y học của học thuyết âm dương. 4.1. ứ n g dụng âm dương vào tron g cấu tạo cơ th ể và sinh lý Theo Dịch học, con người do tròi đất sinh ra, con người chính là một vũ trụ nhỏ, trong trời đất có gì thì con người có nấy, vô hình là dương, hữu hình là âm, ngoài là dương, trong là âm, công năng là dương còn vật chất là âm, vì vậy khi vận dụng _________ ___________ .Ll_____________ Âm Tạng Kinh Âm Huyết Bụng Vật chất d.dưỡng Dưới Lý Dương Phủ K.Dương Khí Lưng Công năng h.động Trên Biẹu Trong triệu chứng học, khi bệnh nhân có thân nhiệt thấp, mạch nhỏ chậm, tiếng nói nhỏ yếu, bệnh lâu ngày thì đó thuộc về âm chứng còn khi người nóng sốt, mạch to nhanh, tiếng nói to, hơi thỏ mạnh, bệnh mới mắc thì đó thuộc về dương chứng, dương chứng thì dễ chữa, âm chứng khó chữa hơn. Tuy tạng là âm nhưng vì trong âm có dương nên vẫn chia ra tạng ậm, tạng dương chang hạn như can khí can huyết, thận âm thận dương, tâm khí tâm huyết, tỳ khí tỳ âm, phê khí phê âm. Phủ thuộc dương nhưng vì trong dương có âm nên có vị âm vị hỏa v.v... 4.2. ứ n g dụng âm dương vào tron g quá trìn h phát sinh bệnh tậ t Bệnh tật phát sinh là do sự mất thăng bằng âm dương trong cơ thể con người, khi chính khí suy thì tà khí thừa cơ xâm nhập, tà khí có thể ở bên ngoài cơ thể, truyền bệnh theo đường kinh lạc hoặc trực trúng, tà khí cũng có thể nằm sẵn trong cơ thể, nhân khi sức đề kháng cơ thể giảm sút thì tà khí trỗi dậy mà gây bệnh. Quá trình phát sinh bệnh tật được mô tả trong các hội chứng sau: 4.2.1. D ương thắn g 29 Trong trưòng hỌp này, dưdng thịnh sinh ngoại nhiệt gây chứng sốt, người và chân tay nóng, mạch nhanh, khát nưốc, táo bón, nưốc tiểu đỏ vì phần dưdng của cd thể thuộc biểu, thuộc nhiệt, trong khi phần âm trong cd thể không thay đổi, nhiệt ở đây là cảm nhiễm ở bên ngoài mà sinh ra tà nhiệt. Khi điều trị cần thanh nhiệt nếu bệnh ở lý và tân lưdng giải biểu nếu tà nhiệt còn ở bên ngoài. 4.2.2. Ăm thắn g Ngược lại trưòng hỢp trên, khi âm thịnh sẽ sinh nội hàn gây ỉa chảy, ngưòi sỢ lạnh, chân tay lạnh, mạch trầm, nưốc tiểu trong dài vì phần âm thuộc lý, thuộc hàn trong khi phần dưdng trong cd thể không thay đổi, hàn ở đây là cd thể cảm nhiễm bên ngoài mà hàn tà được sinh ra. Khi điều trị cần ôn ấm nếu bệnh vào lý và tân ôn giải biểu nếu hàn tà còn ở bên ngoài. 4.2.3. Ảm h ư Phần âm là phần lạnh trong cd thể, do nhiều nguyên nhân làm cho phần âm trong cd thể giảm sút, thông thưòng âm dưdng quân bình, nóng lạnh trong cd thể ngang nhau, khi phần lạnh giảm sút tạo nên sự chênh lệch về độ nóng lạnh, ctí thể trở nên nóng hdn bình thưòng mà biểu hiện mất nưốc, mất điện giải, hội chứng ức chê thần kinh giảm gây chứng khát nưốc, họng khô, táo bón, nưốc tiểu đỏ, đạo hãn (ra mồ hôi trộm). Nhiệt trong trưòng hỢp này không phải bên ngoài đưa vào mà do ầm hàn giảm sút, phần dưdng nhiệt thừa ra tạo nên các triệu chứng trên, đây chính là âm hư sinh nội nhiệt. Khi điều trị cần bổ âm, bù đắp phần âm thiếu, khi phần âm hàn đầy đủ sẽ làm tiêu tan phần nội nhiệt mối được sinh ra, bài thuốc bổ âm nổi tiếng là bài Lục vỊ của ông Tiền Ât. 4.2.4. D ương h ư Phần dưdng là phần nóng trong cđ thể, dưdng ở bên ngoài bao bọc lấy âm. Dịch nói: dưdng thưòng hữu dư, âm thưòng bất túc. Dưdng thưòng bao giò cũng phải nhiều hdn âm thì mới cai quản được âm, trồi bao bọc lấy đất, chồng thưòng làm chủ gia đình, còn vỢ chỉ giữ vai trò nội trd. Trong cd thể dưdng nhiệt bên ngoài bao bọc lấy âm làm cho âm khí không thoát ra ngoài được. Khi trỏ về già, lão suy, thận dưdng giảm sút, hoặc thòi trẻ hoang dâm vô độ làm cho dưdng khí tổn thưdng giảm sút thì dưdng không cai quản nổi âm, âm tràn ra ngoài gây nên triệu chứng sỢ lạnh, ngưồi lạnh, chân tay lạnh, hội chứng hưng phấn thần kinh giảm, khả năng sinh dục giảm, tự hãn (tự ra mồ hôi). Lúc này dưdng sỢ âm, bất lực trước âm mà đi trôn tránh. Đây chính là dưdng hư tắc ngoại hàn. Khi điều trị cần bổ dưdng, tăng cưòng thuốc nóng ấm, làm tăng dưong khí để xua tan hết mây mù ỏ phần âm, bài thuốc bổ dưđng nổi tiếng là bài thận khí hoàn luôn được Hải Thượng Lãn ông sử dụng. Ngoài ra, trong quá trình phát triển bệnh, tính chất của bệnh có thể chuyển hóa lẫn nhau như bệnh ở phần dưdng ảnh hưởng tới phần âm (dưdng thắng tắc âm bệnh) như sốt cao kéo dài gây mất nưốc hoặc bệnh ở phần âm ảnh hưởng tối phần dưdng (âm thắng tắc dưdng bệnh) như ỉa lỏng do lạnh, nôn mửa kéo dài gây 30 mất nưốc, mất điện giải làm nhiễm độc thần kinh gây sốt, co giật thậm chí gây trụy mạch thoát dương. Ảm dưong bình hành Dưonq thắng Tả dương Âm thắng Tả âm Dương hư Bổ dương Ầm hư Bổ âm H ình 21: Quá trinh p h át sinh bệnh tật LÒI BÀN Trong quá trình phát sinh bệnh, chúng ta cần nắm chắc 4 trường hỢp gây bệnh nêu trên và sự ảnh hưởng qua lại giữa âm bệnh và dương bệnh, ngoài ra chúng tôi muốh lý giải về cơ chê tại sao khi âm hư lại ra mồ hôi trộm (đạo hãn) và dương hư thì tự ra mồ hôi (tự hãn). Như chúng ta đã biết, mối quan hệ giữa âm và dương là mâu thuẫn nhưng thống nhất, âm dương nương tựa vào nhau để cùng tồn tại và phát triển nhưng trên thực tế dương vẫn mạnh hơn âm, dương vẫn cai quản âm, dương thường hữu dư, âm thường bất túc, trời bao bọc lấy đất, nam vẫn mạnh hơn nữ. Trong cơ thế con người, dương bên ngoài, âm bên trong, dương bên ngoài để bảo vệ âm và chống lại ngoại tà thông qua chức năng của vệ khí, khi phần âm trong cơ thể suy yếu trở thành âm hư và sinh ra nội nhiệt, cơ thể muốn tản nhiệt qua đường mồ hôi nhưng vì dương còn mạnh, âm còn sỢ dương nên không thể tự nhiên ra mồ hôi được, đợi khi đi ngủ, lúc này dương đi vào âm, không còn vai trò canh gác nữa nên nhân đó mồ hôi thoát ra ngoài, vì vậy mới gọi là đạo hãn, đến khi bệnh nặng dần, không chỉ âm hư mà dương cũng hư, dương bất lực không còn đủ sức cai quản âm nữa, lúc này không cần dương đi vào âm, không cần đợi lúc đi ngủ nữa mà mồ hôi cứ ra thoải mái, dương có biết cũng chang làm gì nổi, lúc này bệnh đã nặng rồi. 4.3. ứ n g dụng âm dương vào chẩn đoán bệnh Để chẩn đoán bệnh, âm dương là hai tổng quan chung nhất, tất cả các phương pháp khám bệnh, cuối cùng cũng qui về hai xu thế âm bệnh hay dương bệnh. 4.3.1. D ưa vào tứ ch ẩ n là 4 p h ư ơ n g p h á p khám bênh n h ư - Vọng là nhìn, quan sát người bệnh xem về màu sắc, nét mặt, hình thể. - Văn là nghe, ngửi xem tiếng nói, hơi thở, mùi bệnh phòng, tiếng nôn nấc. - Vấn là hỏi bệnh, khai thác triệu chứng, tính chất bệnh. - Thiết là phương pháp sờ nắn, xem mạch. 31 Tổng hỢp các triệu chứng thành một hội chứng để rồi cuối cùng qui nạp lại xem bệnh thuộc xu thê nào mà đề ra pháp điều trị thích hỢp. 4.3.2. T ám cư ơ n g lĩn h (b á t cư ơng) cũng dựa trên cơ sở âm dương, sau khi tứ chẩn, người thầy thuốc tìm xem trong các triệu chứng vừa khai thác thì người bệnh thuộc về hàn hay nhiệt, đó là tính chất của bệnh, bệnh mới mắc hay bệnh lâu ngày, bệnh cấp tính hay mãn tính để xác định bệnh thuộc hư hay thực, đó là trạng thái của bệnh, bệnh ở nông hay sâu, còn ở ngoài hay đã vào trong để xác định là biểu hay lý, đó là vị trí của bệnh. Thông thường, nếu triệu chứng của người bệnh là biểu thực nhiệt thì xu thế của bệnh thuộc về dương chứng còn triệu chứng của người bệnh là lý hư hàn thì xu thế của bệnh thuộc về âm chứng. Đó là 2 xu thế tổng quát nhất, tuy nhiên trên thực tế lâm sàng, ít khi có bệnh nhân hội tụ đủ các triệu chứng điển hình mà hay có sự thác tạp, thày thuôc cần phải tỉnh táo để tránh nhầm lẫn. 4.4. ư n g dụng âm dương vào chữa bệnh - Chữa bệnh là điều hòa sự mất thăng bằng âm dương của cơ thể. Tùy theo tình trạng hư thực, hàn nhiệt, biểu lý của bệnh mà đề ra phương pháp điều trị thích hợp, có thể sử dụng thuốc, châm cứu, khí công, xoa bóp, bấm huyệt riêng lẻ hoặc phối hỢp các phương pháp này vối nhau, về nguyên tắc chung, khi dương thắng thì tả dương, khi dương hư thì bổ dương, khi âm thắng thì tả âm, khi âm hư thì bô âm, đó chính là nguyên tắc điều trị; hư thì bổ thêm vào còn thực thì tả bớt đi. - Trong sử dụng thuốc, người ta cũng chia ra hai loại: âm dược là những thuốíc mát, lạnh như Sinh địa, Huyền sâm, Cát căn, Thạch cao... để chữa các chứng nhiệt thuộc dương. Dương dược là những thuốíc ấm nóng như Phụ tử, Nhục quế, Can khương, Đại hồi dùng để chữa những chứng hàn thuộc âm. - Trong châm cứu: bệnh nhiệt dùng phương pháp châm để đẩy tà nhiệt ra ngoài, bệnh hàn dùng phương pháp cứu để tăng cường sức nóng, xua tan phần lạnh mà cứu dương, bệnh hư thì dùng phương pháp bổ, gọi chính khí đến để chống đỡ với tà khí, bệnh thực thì dùng phương pháp tả để xua đuổi tà khí, giúp cho chính khí vững vàng. Bệnh của tạng thuộc âm thì dùng các huyệt du sau lưng thuộc dương để chữa, bệnh của phủ thuộc dương thì dùng các huyệt mộ ở ngực thuộc âm để chữa theo nguyên tắc: theo dương dẫn âm, theo âm dẫn dương. Khi thế quân bình đã đạt được thì điều trị củng cô", duy trì, không nên can thiệp nhiều vì bổ dương nhiều, các thuốc ấm nóng sẽ làm tổn hại phần âm còn bổ âm nhiều thì các thuốc mát lạnh sẽ làm hao tổn phần dương. 4.5. ứ n g dụng âm dương vào phòng bệnh Phòng bệnh là đê phòng các khả năng cơ thể cảm nhiễm phải bệnh tật do nội thương hay ngoại cảm. Chúng ta không thể loại bỏ hoàn toàn các nguyên nhân gây bệnh mà phải sốhg chung với nó, chúng ta cũng không thể sốhg trong môi trường vô trùng mà chính môi trường sốhg tạo cho chúng ta sức đề kháng, đó chính là nguyên khí, là kháng thể. Sức khỏe là một tình trạng hoàn toàn thoải mái về tinh 32 thần và vật chất chứ không chỉ là không có bệnh tật hay tàn tật. Vì vậy muốn cuộc sống có chất lượng thì cần phải có sức khỏe và giữ gìn sức khỏe chứ không được tàn hại nó. Nguyên khí của con người được sinh ra từ mệnh môn, nếu mệnh môn tắt thì đời người chỉ như một đốhg tro tàn mà thôi. Đe có sức khỏe, cần phải có chế độ ăn uốhg hỢp lý, ăn uốhg dinh dưỡng đủ lượng, đáp ứng nhu cầu lao động và phát triển của cơ thể, cân bằng thức ăn hàn nhiệt, tránh các chất kích thích quá độ. Luôn cân bằng quá trình hưng phấn và ức chế, rèn luyện tâm hồn và thể xác bằng cuộc sống lành mạnh, luôn hướng thiện, thực tê đã chứng minh khi tâm hồn trong sáng, lương thiện, luôn làm việc tốt cho người khác, không có dã tâm, lùi xa mọi tội lỗi xấu xa thì người ấy luôn mạnh khỏe về tinh thần và thể xác. Dân gian đã có câu: ăn cơm mắm thì ngáy o o, ăn cơm thịt bò thì lo ngay ngáy là một minh chứng. Ngoài ra cần phải kết hỢp luyện tập khí công, dưỡng sinh, luyện tâm luyện thể, tập tĩnh xen tập động, lao động và nghỉ ngơi hợp lý, rèn luyện để thích nghi với thời tiết, khí hậu và điều kiện sống. Khi đã phòng bệnh tốt, bệnh tật khó có thời cơ xâm nhập vào cơ thể, nếu có thì cơ thể cũng dễ dàng chốhg lại, đẩy lui bệnh tật. 4.6. ứ n g dụng âm dương tron g phân đinh nhóm thuốc Nguyên tắc phân định thảo dược, động vật, kim loại hoặc khoáng sản thành từng nhóm dựa vào tính vị, ngũ hành và hướng tác động của thuốc: Dương dược\ Ầm dược: - Tính nóng ấm là thuốc ôn nhiệt. - Vị cay, ngọt, đạm (vị hơi ngọt). - Hướng thăng phù (hưống đi lên và nổi ra ngoài). - Tính mát lạnh là thuốc hàn lương. - Vị đắng, chua, mặn. - Hướng giáng, trầm (hưống đi xuống dưối và lắng đọng). 4.7. ứ n g dụng âm dương tron g bào ch ế thuốc Muôn thay đổi dược tính từ nóng sang lạnh, từ lạnh sang nóng hoặc điều thuốc theo ý muốh, ta có thể dùng phụ dược để thay đổi tính vị của nó: - Dùng lửa hoặc phụ dược có tính nóng như Gừng, Sa nhân để chuyển vị thuốc vốn mát lạnh thành thuốc ấm nóng ví dụ như bào chế Sinh địa đang từ mát lạnh thành Thục địa tính ấm, người ta dùng Rượu, Gừng, Sa nhân, Đỗ đen tẩm vào Sinh địa rồi cửu chưng (9 lần đun nấu), cửu sái (9 lần phơi khô trong bóng râm). - Làm giảm tính lạnh của Trúc lịch thì khi dùng ta phải hòa với nưốc Gừng. - Làm bốt tính lạnh, người ta dùng lửa sao khô thuốc. - Làm cho thuốc vào tỳ, vị thì sao vàng và tẩm đường rồi hạ thổ. 33 5. K Ế T LUẬN Học thuyết Âm dương là nền tảng tư duy của YHCT phương Đông, là cách suy nghĩ của người phương Đông và chính xác với phương Đông. Người thầy thuốc YHCT nhất thiết phải học tập lý luận YHCT, học tập Kinh Dịch, nếu người thầy thuốc mà không học Dịch thì đúng như Hải Thượng Lãn ông đã nói: đó chỉ là người thầy thuốc tầm thường mà thôi. Tuy nhiên, phương Đông không phải là phương Tây, người phương Tây có lối suy nghĩ khác vói người phương Đông, ở trời Tây không có 4 mùa xuân, hạ, thu, đông rõ ràng. 0 trồi Tây người ta ăn lạnh là do thói quen chứ không phải là do trong người có nhiệt, ở tròi Tây người ta dùng lịch mặt tròi chứ không dùng lịch mặt trăng. Miền Bắc chúng ta là miền Nam Trung Quốc và Sài Gòn lại là miền Nam của chúng ta, cách suy nghĩ có thể khác nhau nhưng chân lý thì chỉ có một mà thôi, dù là phương Đông hay phương Tây thì chúng ta cũng chung một mặt tròi, chung một mặt trăng, loài người cùng chung cha mẹ, đó là trời đất, đó là âm dương, lý luận phương Đông hay lý luận phương Tây đều đúng cả, một bên thì rõ ràng cụ thể, một bên thì khái quát tổng thể và trừu tượng, điều quan trọng là chúng ta phải kê thừa tinh hoa của nền YHCT và kết hợp với tri thức tiên tiến của khoa học hiện đại để chứng minh sự đúng đắn của lý luận YHCT và các phương pháp chữa bệnh YHCT, đồng thời loại bỏ các yếu tố lạc hậu, mê tín, kinh nghiệm chủ nghĩa, chủ quan duy ý chí. Nếu được như vậy thì chúng ta đã đạt tới đỉnh cao của Chân -Thiện - Mỹ. 34 H Ọ C T H U Y Ế T N G Ủ HÀNH 1. BÀN VỂ NGŨ HÀNH Người xưa nhận thấy trong thê giới xung quanh ta có 5 loại vật chất, đó là cây cỏ (mộc), lửa (hỏa), đất (thổ), kim loại (kim), nước (thủy), ngoài ra không còn tồn tại bất kỳ một dạng vật chất nào khác 5 loại vật chất nói trên. Người xưa còn quan sát thấy 5 loại vật chất ấy không đứng yên, không tồn tại mãi mãi mà luôn luôn thay đổi, vận động và biến hóa từ loại vật chất này sang loại vật chất khác. Đó chính là lý do người xưa gọi sự vận động và biến hóa của 5 loại vật chất ấy là ngũ hành. Ngũ là 5, hành là đi, là vận động, biến đổi. Ngũ hành là sự vận động và biến đổi của 5 loại vật chất (mộc, hỏa, thổ, kim, thủy) trong thê giới tự nhiên. Nếu dùng từ hành mộc, hành hỏa thì chưa nói đúng được bản chất của sự vật mà phải nói chính xác là mộc hành, hỏa hành nghĩa là mộc, hỏa nó đang đi, đang biến đổi sang dạng vật chất khác, còn khi nói hành mộc, hành hỏa là theo thói quen mà chưa nói được tính vận động, biến hóa cuả nó, có thể hiểu sai là 5 loại vật chất ấy đang ở trạng thái tĩnh. Khi học tập, nghiên cứu về lý luận YHCT, người ta thường đặt ra câu hỏi; Tại sao lại phải học về ngũ hành? Học thuyết Âm dương đã quá đầy đủ rồi thì còn học ngũ hành làm gì cho phức tạp thêm nữa? Như phần cơ sở đã trình bày, mọi sự vật và hiện tượng trong thế giối tự nhiên đều sinh ra từ hư vô và trở về nơi nó đã sinh ra, mọi thứ từ vô hình trở nên hữu hình, từ vô cực biến thành thái cực, tiên thiên bát quái là nguyên thê còn hậu thiên bát quái là công dụng, âm dương là nguyên thể, là vô hình còn ngũ hành là công dụng, là hữu hình. Trong thực tế, người ta sử dụng học thuyết Ngũ hành nhiều hơn trong mọi lĩnh vực của đòi sốhg xã hội nói chung và trong y học nói riêng. Tuy nhiên, khi gặp phải những vấn đề khó giải thích và trừu tượng thì lúc này người ta thường hay vận dụng học thuyết Âm dương. 2. ĐỊNH NGHĨA Học thuyết Ngũ hành do Trâu Diễn đòi Chiến Quốc trong quá trình nghiên cứu giải thích các vật chất đã xây dựng nên và ông cho rằng: trong thê giới vật chất ấy đều do 5 thứ tạo thành, đó là mộc, hỏa, thổ, kim, thủy. Đem các sự vật và hiện tượng trong tự nhiên và con người qui nạp thành 5 loại vật chất nói trên và tìm ra được môi quan hệ giữa chúng, đó chính là học thuyết về ngũ hành. Học thuyết Ngũ hành chính là học thuyết Âm dương được cụ thể hóa trong việc quan sát, qui nạp và tìm ra các mối liên quan của các sự vật, hiện tượng trong thê giới tự nhiên và các hoạt động sinh lý bệnh lý của tạng phủ, để chẩn đoán bệnh, tìm ra tính năng thuốc, bào chê thuốc phục vụ việc phòng và chữa bệnh cho con người. 35 3. S ự QUI NẠP CÁC S ự VẬT VÀ HIỆN TƯỢNG TRONG THIÊN NHIÊN VÀ C ơ THỂ CON NGƯỜI VÀO NGỦ HÀNH Trong thiên nhiên và trong cơ thể con người có vô vàn các sự vật và hiện tượng có thể qui nạp vào ngũ hành, đúng ra là tất cả các sự vật và hiện tượng đều qui được theo ngũ hành, nhưng để tiện cho việc học tập và nghiên cứu, ta chỉ qui loại một sô tiêu biểu, trên cơ sở đó, người học tự qui loại tất cả những sự vật và hiện tượng còn lại; Sự vật & hiện tưỢng Mộc Hỏa Thổ Kim Thủy Vật chất Cây cỏ,gỗ Lửa Đâ't Kim loại Nước Màu sắc Xanh Đỏ Vàng Trắng Đen Vị Chua Đắng Ngọt Cay Mặn Mùa Xuân Hạ 18 ngày cuối mỗi mùa Thu Đông Phương Đông Nam Trung ương Tây Bắc Âm thanh Giốc Chủy Cung Thương Vũ Thiên can Giáp- Ất Bính Đinh Mậu- Kỷ Canh- Tân Nhâm Quý Địa chi Dần, Mão Tỵ, NgọThìn,Tuất, Sửu, MùiThân, Dậu Tý, Hợi Ngủ vậnĐinh NhâmMậu QuíGiáp- Kỷ Ất-Canh Bính Tân Ngũ khí Phong Nhiệt Thấp Táo Hàn Ngủ xú Khét Hôi Thơm Tanh Thối Trong cơ thể con người: Ngủ tạng Can Tâm Tỳ Phế Thận Phủ Đởm Tiểu trường Vị Đại trường Bàng quang Ngủ thể Cân Mạch Cơ nhục Mũi Tai Ngủquan Mắt Lưỡi Môi miệng Da lông Cốt tủy Ngủ chí Giận Mừng Lo Buồn, ưu tư Kinh sỢ Bảng qui loại các sự vật và hiện tưỢng trong thiên nhiên và trong cơ thể con người vào ngũ hành 36 4. NHẬN X É T Trong bảng qui loại trên, chúng ta có thể nhận thấy ngũ hành tương sinh như gỗ có thể cháy thành than, thành đất, trong lòng đất có kim loại, kim loại có thê chuyển sang dạng lỏng và nưốc làm cho cây cối sinh sôi phát triển. Chiếc lá còn non thì có màu xanh, lúc già thì cuốhg lá màu đỏ rồi chuyển thành lá vàng rụng xuống, khô đi, bạc trắng, lâu ngày trở thành đất đen. Đó là quá trình tương sinh, là quá trình biến hóa, là sự thay đổi theo thòi gian và đó chính là Dịch, con người ta cũng thay đổi theo thời gian, có thể tốt lên, có thể xấu đi, rồi sinh, lão, bệnh, tử; trong một ngày thì sáng, trưa, chiều, tối; trong một năm thì xuân, hạ, thu, đông nốì tiếp nhau theo qui luật sinh, trưởng, thu, tàng. Theo thuyết Tam tài, trong quẻ Càn 3 vạch thì vạch trên là trời, vạch dưới là đất, vạch giữa là người. Đó chính là Thiên - Địa - Nhân, có tròi, có đất thì vạn vật mối sinh mà con người là vạn vật chí linh, đứng đầu muôn vật, con người do tròi đất sinh ra, vì vậy con người cảm thụ khí của âm dương nhật nguyệt để rồi tụ khí thành hình hài như ngày nay, con người chính là một vũ trụ nhỏ, cái gì trời đất có thì con người có, con người hít khí trời, khí đất, uô"ng nưốc sông, ăn mọi sản vật của thiên nhiên và hòa vào thiên nhiên để cùng tồn tại và phát triển. Tròi có ngũ hành vận động, con người bẩm thụ lấy mà sinh ra ngũ tạng, Theo Hà đồ, hành thủy có trước nên trong cơ thể con người, khi trai gái hòa hỢp thì âm dương thủy hỏa giao nhau hình thành nên giao khí, đó chính là mệnh môn hỏa. Mệnh môn (thận) có trưốc rồi tiếp đến tâm, can, phế, cuối cùng tỳ, vị hoàn thành và con người được sinh ra. Trong thiên nhiên, lục hỢp là 6 lần đối xung hỢp hóa của 12 địa chi tạo nên 6 thứ khí, đó là phong, hàn, thử, thấp, táo, nhiệt, con người cũng bẩm thụ lấy mà tạo ra 6 thứ khí của riêng mình, đó là khí quyết âm phong mộc của can, khí thiếu âm quân hỏa của tâm, khí thái âm thấp thổ của tỳ, khí dương minh táo kim của phế và khí thái âm hàn thủy của thận. Người xưa cũng vận dụng ngũ hành mà sáng tạo ra ngũ âm, ngũ âm dựa vào thuộc tính của ngũ hành như: - Giốc là âm dài mà hòa bình thuộc mộc. 37 - Chủy là âm êm, rõ ràng thuộc hỏa. - Cung là âm lốn, điều hòa thuộc thổ. - Thướng là âm trong, vang xa thuộc kim. - Vũ là âm nhỏ và thấp thuộc thủy. Theo hàng dọc ta nhận thấy mối liên quan của các sự vật và hiện tượng rất logic, chẳng hạn như: - Mộc là cây cỏ, là gỗ. Cây cỏ thì có màu xanh, quả xanh thường có vị chua, cây cối, hoa lá phát triển về mùa xuân mà phương Đông là miền đất cây cối, hoa lá xanh tươi suốt 4 mùa. Trong cơ thể, con người bẩm thụ mộc hành mà biến thành can, can quan hệ biểu lý với đỏm, can chủ cân, khai khiếu ra mắt, tmh tình giận giữ là do can không điều đạt được khí, gây uất kết mà sinh ra và khí của can là khí Quyết âm phong mộc. - Hỏa là lửa, lửa thì có màu đỏ, lửa thuộc phương Nam, nơi mặt trời luôn luôn soi sáng và khí của mùa hạ là mùa nóng nhất trong năm. Trong cơ thể con người bẩm thụ hỏa hành mà biến thành tâm, đó là mặt trời trong con người. Tâm thì quan hệ biểu lý vối tiểu trường, tâm chủ các mạch máu, đường kinh của tâm đi ra lưỡi, mừng vui là biểu hiện của tám và khí của tâm là khí Thiếu âm quân hỏa. - Kim là kim loại, kim loại màu trắng, ánh kim, phương Tây có nhiều kim loại và được sử dụng nhiều, phương Tây khí hậu khô ráo, tính táo kim, co lại, chủ khí của mùa thu. Trong cơ thể, con người bẩm thụ kim hành mà biến thành phế, ở thượng tiêu cùng vối tâm tạo nên mối quan hệ quân thần, trong đó tâm là quân chủ chi quan thần xuất yên còn phê giữ vai trò tướng phó, đó là tạng âm mà thuộc dương phận. Phế có quan hệ biểu lý vối đại trường. Tại sao một tạng bên trên, cao quí như vậy lại quan hệ thân thiết vối một tạng dưối thấp hèn, đó chính là mốì quan hệ về khí, phê khí túc giáng tạo sự thuận lợi cho chức năng hoạt động của đại trường. Khi khí hư nói chung và phế khí hư nói riêng thì thường gây táo bón. Sự tuyên phát của phê đem các chất tinh vi của đồ ăn nuôi dưõng da lông nên phê chủ bì mao, mũi là nơi để thở và thông với phế nên nói phê khai khiếu ra mũi và khí của phế là khí Dương minh táo kim. - Thổ là đất, đất có màu vàng, đây là nói đại thể, còn đất có đủ mầu, thổ có vị trí Trung ương nên còn gọi là Trung thổ, cứ 18 ngày cuối mỗi mùa đều thuộc thổ vì thổ ở giữa mà sinh ra 4 hành kia, 4 địa chi thin tuất sửu mùi đều thuộc thổ, thổ có vị ngọt nên nước lấy từ giếng lên được gọi là nước ngọt. Trong cơ thể, con người bẩm thụ thổ hành mà biến thành tỳ vị có chức năng nuôi nấng như đất nuôi người, nó quan hệ biểu lý vối vị. Tỳ khai khiếu ra môi miệng. Khí của tỳ chính là khí Thái âm thấp thổ. - Thủy là nưốc, nưốc có màu đen, thông thường khi học về vật lý, người ta hay nói nưốc không mầu, không mùi, đây là cách quan sát cụ thể, còn cách 38 quan sát tư duy trừu tượng thì khác, khi nưốc bốíc lên trời thành mây, mây dầy che kín bầu tròi, mây đen vần vũ là tròi sắp mưa, mây chính là nước, mây có mầu đen thì dĩ nhiên nưốc cũng có mầu đen. Mặt khác, nước là 1 trong 5 hành mà chỉ có biển là nhiều nưóc nhất, biển mối là đại diện cho hành thủy, còn nước trong hồ ao sông suối chỉ là nưốc của thổ, vì thế người ta gọi nó là nước ngọt. Biển càng xa bò thì biển càng sâu, nưốc càng sâu có mầu xanh thẳm, xanh thẳm tới vô cùng thì nó có mầu đen và dĩ nhiên không ai chối cãi rằng tại sao nước lại có vị mặn. Trong cd thể, con người bẩm thụ thủy hành mà sinh ra tạng thận, đó là hào dương trong quẻ khảm, hào dương ấy là thận dương, là mệnh môn hỏa, còn 2 quả thận là thận âm. Hai quả thận là thận âm vì hai là số chẵn, âm là hữu hình, quả thận có hai và nhìn thấy được, còn vạch dương chỉ có một, dương không nhìn thấy, dương là vô hình. Trong châm cứu, huyệt Mệnh môn nằm giữa hai huyệt Thận du, giữa đốt sốhg thắt lưng 2 và 3, do đó người ta hay gọi thận là Khảm thủy. Từ bảng qui loại trên, người học tập và nghiên cứu về ngũ hành có thể dễ dàng tìm ra các mối liên hệ giữa các tạng phủ và vận dụng được vào việc nghiên cứu các chức năng của tạng phủ trong các chương tiếp theo. 5. CÁC QUI LUẬT HOẠT ĐỘNG CỦA NGỦ HÀNH 5.1. Trong điểu kiện bình thường hoặc sinh lý 5.1.1. Qui luật n gủ h à n h tương sin h Người xưa nhận thấy ngũ hành luôn vận động và biến đổi, không có gì là bất biến, nước chảy thì đá mòn, hết xuân sang hạ, vào thu rồi đông đến, hôm nay là rừng cây thì một ngày nào đó tất cả chỉ là đồi trọc. Cây cối bị đốt cháy, lửa đốt cây, cây sinh ra lửa, lửa thiêu trụi tất cả trở nên bùn đất, trong lòng đất đã chứa sẵn kim loại, kim loại trong lòng đất tồn tại ở nhiều dạng khác nhau, kim loại nằm trong đá (Calci), trong nưốc (Natri) trong các mỏ quặng, trong các vỉa vàng. Kim loại có thể hóa lỏng thành nước, ở đây chúng ta không thể hiểu thô thiển như một dòng suối thép, vậy thì nó thành nước sao được mà chúng ta phải hiểu kim loại hòa vào trong nưốc, hóa thân vào trong nưốc như nưốc biển, như những dòng suối nước khoáng, trong đó chứa biết bao là kim loại và muối của nó. Cuối cùng những dòng nưốc ấy nuôi sống tất cả cây cốì và sự sống trên thế gian này. Như vậy quá trình mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh thủy, thủy sinh mộc diễn ra liên tục không hê dừng lại. Để cho dễ học, dễ nhố, người ta dùng vòng tròn tương sinh nhưng không thể chứng minh được tại sao thô lại có phương vị ở Trung ương. Qui luật tương sinh của ngũ hành phải dựa vào Hà đồ như sơ đồ sau; 39 Hình 23. Ngũ hành tương sinh Trong cơ thể con người thì can mộc sinh tâm hỏa, tâm hỏa sinh tỳ thổ, tỳ thổ sinh phế kim, phế kim sinh thận thủy và thận thủy sinh can mộc. 5 .1 .2 . Quỉ luật n gủ h à n h tương khắc Trong thê giới tự ngừng, nếu các hành sinh lũ lụt, nếu hỏa điều, rét đậm rét hại bằng sinh thái và sự chuyện sinh sôi tràn làm sao cho các hành nhiên, vật chất chuyển hóa lẫn nhau để phát triển không cứ tương sinh mãi thì vật chất tràn đầy, nếu thủy nhiều thì nhiều thì nắng hạn khô cằn, nếu lạnh quá thì cây cỏ tiêu thì hoa màu động vật làm sao mà sốhg nổi, thế giối mất cân rối loạn là tất yếu, hơn nữa, vật chất là hữu hạn, làm gì có lan, hành này nhiều thì hành kia phải ít, vấn đề cốt lõi là cân bằng nhau theo qui luật ầm dương bình hành. Vì vậy nên thiên nhiên tự tạo ra cơ chế bảo vệ mình bằng cách khắc chế lẫn nhau, kìm hãm lẫn nhau để mọi sự vật phát triển hài hòa. Do quan sát thấy các qui luật của thiên nhiên như vậy nên người xưa đã tìm ra qui luật thứ hai: đó là qui luật ngũ hành tương khắc. Trong ngũ hành, các hành khắc chê lẫn nhau từng đôi một: - Mộc khắc thổ như rễ cây cắm sâu vào lòng đất, chúng ta hãy tưởng tượng xem khó khăn như thê nào khi chúng ta muốh cắm cọc vào trong đất đá, vậy mà hạt vừng nhỏ xíu cũng có thể làm cho rễ của nó chui sâu vào cả đất đồi và bạt ngàn cây xanh cắm rễ trên núi đá, điều này chứng minh đá cũng là đất, là một dạng mang kim loại được sinh ra trong lòng đất. - Thổ khắc thủy được ứng dụng trong trong đắp đê ngăn nước lũ và làm thủy lợi, làm hồ chứa nưốc, làm thủy điện và điều hòa lượng nước, không gì mạnh bằng dòng nước, nó cuốh trôi đi tất cả, nhấn chìm tất cả, biết bao kho tàng và nền văn minh nhân loại đã vĩnh viễn nằm sâu dưới nước và chôn vùi tất cả những bí mật của nó. Chỉ có thổ mối có thể ngăn dòng nước lũ, bắt những con sông hung dữ trở nên những dòng chảy hiền hòa và hiểu được điều đó nên vua Hạ Vũ sau 18 năm tròi vất vả, trị thủy thành công mà trỏ thành vị vua hiền trong lịch sử. - Thủy khắc hỏa làm dịu đi khí nóng, nếu để hỏa mặc sức lộng hành thì hỏa thiêu trụi tất cả, chỉ có nước là hỏa phải kiêng sợ, chỉ có nưốc mối dập tan được các đám cháy. Khi Khổng Minh sắp thiêu cháy Tư Mã ý thì trời đổ cơn mưa, như vậy có phải là mưu sự tại nhân mà thành sự tại thiên đó sao? 40 - Hỏa khắc kim là để nấu kim loại, để chê tạo vũ khí, để sản xuất công cụ lao động, kim thì có dương kim, âm kim. Âm kim thì chẳng cần hỏa cũng đã mềm, dương kim cứng rắn như sắt thép, đao thương rìu búa thì phải có hỏa mói khắc chê được. Tuy vậy, nhiều khi kim cũng chẳng sỢ hỏa như kiếm phong kim là kim loại được tôi luyện kỹ thì càng gặp lửa lại càng cứng rắn và chói sáng, vàng cũng vậy, tuy mềm yếu nhưng vàng đâu sỢ lửa, càng gặp lửa thì vàng mối thật là vàng hoặc kim có khi cũng không sỢ hỏa khi mà kim giấu mình trong cát, trong đáy biển như sa trung kim, hải trung kim nhưng không thoát khi gặp tích lịch hỏa là hỏa sấm sét trên trời. - Kim khắc mộc để chế đồ đạc từ cây, từ gỗ như dùng rìu búa cưa đục để chế gỗ làm nhà, nhìn vào quẻ Phong Lôi ích mà vua Phục Hy đẽo gỗ mềm làm cán cày, đẽo gỗ cứng làm lưỡi cày, giúp dân làm ruộng. Nhờ có kim mà gỗ trở nên thiên hình vạn trạng, một đống gỗ ngoài đường chẳng khác gì một đống củi khô, qua những tay rìu tay búa tài hoa mà trở nên các công trình kiến trúc lưu danh thiên cổ. Đó chính là người ta đã ứng dụng qui luật kim khắc mộc và mộc hóa theo kim của ngũ hành tương khắc. Trong cơ thể con người, các tạng cũng khắc chê lẫn nhau để tạo nên mối quan hệ âm dương bình hành như: - Can mộc khắc tỳ thổ, đó là mối quan hệ về tiêu hóa, can giúp tỳ tiêu hóa tốt nhưng khi can can thiệp thô bạo thì làm ức chê khả năng kiện vận của tỳ mà gây nên rối loạn tiêu hóa, ỉa chảy, đau dạ dày. - Cũng như vậy tỳ thổ khắc thận thủy, khi thận thủy tràn lan thì tỳ thổ vận hóa thủy thấp làm cho thủy dịch đình ngưng. - Thận thủy khắc tâm hỏa để tạo nên mối quan hệ tương giao, thủy hỏa ký tế, tâm thận hài hòa. Tâm thì truyền đạt sức nóng xuống dưới, thận thì vận dụng lên trên, mệnh môn hỏa làm sôi thận thủy đưa chân âm lên bổ sung cho huyết dịch của tâm. - Tâm hỏa khắc phê kim, khi tâm hỏa đầy đủ thì phê kim hoạt động tốt, không ho, không sốt, hơi thỏ điều hòa. - Phê kim khắc can mộc để làm giảm cơn thịnh nộ của can, không tạo nên sự uất kết, ngăn chặn lôi hỏa hình thành. Các mốì quan hệ trên chính là các mốì quan hệ tương khắc trong ngũ hành, nhò các mối quan hệ này mà thê giới hài hòa, cuộc sống phồn vinh, nhò tròi mà mưa thuận gió hòa và con người khỏe mạnh, bệnh tật ít có cơ hội phát sinh. Để cho dễ học, dễ nhố, người ta sơ đồ hóa mối quan hệ tương sinh và tượng khắc trong ngũ hành bằng hình ngôi sao năm cánh nội tiếp trong một hình tròn, trong đó mối quan hệ tương sinh theo các mũi tên đi theo chiều đồng hồ, còn các mốĩ quan hệ tương khắc theo chiều các mũi tên của ngôi sao năm cánh (hình 24). 41 Hoả Hình 24: Sơ đồ mối quan hệ tương sinh, tương khắc của ngũ hành Trên thực tế, mối quan hệ tương khắc trong ngũ hành không đơn giản như vậy mà chúng ta phải tìm hiểu trong Lạc thư, đó là các số có trên lưng con rùa tìm thấy khi Hạ Vũ đi làm thủy lợi trên sông Lạc. Hình 25: Lạc Thư Đây chính là những chấm và vạch trên lưng con rùa, chấm trắng là số lẻ, là dương, chấm đen là chẵn là âm, so sánh sự thay đổi phương vị các số trong Lạc thư và các sô trong Hà đồ, người ta đã vẽ được chính xác sơ đồ ngũ hành tương khắc như sau: Đông Nam N am Tây Nam 4 - 9 2t 1 Đ ôn g 315 V 7 T â y 8 1 - ^ 6 Đông Bắc Bắc Tây Bắc Hình 26: Sự thay đổi phương vị các sô" trong Lạc thư 42 Hình 27: Ngũ hành tương khắc trong Lạc thư Nhận xét: Từ sơ đồ của Lạc thư ta nhận thấy: - Sô' 1 từ bắc sang Tây Bắc. - Sô' 7 từ tây sang Tây Nam. - Sô' 9 từ nam sang Đông Nam. - Sô' 3 từ đông xuốhg Đông Bắc. - Sô' 2 và sô' 7 của Hoả đổi chỗ cho sô 4 và sô' 9 của Kim. Do đó trên Lạc thư khởi từ Thuỷ qua Hoả vì Thuỷ khắc Hoả, tiếp tục Hoả khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ và Thổ khắc Thuỷ. 5.2. Trong điểu kiện bất thường hay tình trạn g bệnh lý Bình thường thì các hành, các tạng tương sinh, tuơng khắc hài hòa tạo được sự cân bằng làm cho thiên nhiên tươi đẹp, con người khỏe mạnh, cuộc sồng hòa bình, nhưng trong một sô' điều kiện nào đó, sự cần bằng ấy bị phá vỡ gây nên những hiện tượng bất thường như nắng hạn khô cằn, cây cối khô héo, lũ lụt triền miên, sông hồ cạn kiệt thì đó chính là hiện tượng các hành khắc nhau mạnh quá mức cần thiết hoặc là không đủ sức khắc chế nhau gây nên những rốỉ loạn tropg thiên nhiên cũng như làm rốì loạn công năng của tạng phủ trong cơ thể con người. 5.2.1. Qui luăt n gủ h à n h tương thừa Đó là hiện tượng các hành, các tạng khắc nhau quá mức cần thiết làm cho các hành, các tạng bị khắc bị ức chế, không phát huy được vai trò và chức năng của mình. Ví dụ: bình thường thủy khắc hỏa làm mưa nắng điều hòa nhưng khi thủy quá mạnh, khắc chê hỏa quá mức làm cho không gian lạnh lẽo, tô'i tăm, cây cỏ thiếu ánh mặt tròi để quang hỢp, mọi thứ trở nên ẩm mốc. Kim khắc mộc mạnh quá như nạn chặt phá rừng làm núi đồi trọc lô'c, hết rừng rồi thì lấy gì che chở cho ta, lấy gì ngăn dòng nưốc lũ. Mộc khắc thổ mạnh quá làm đất nghèo đi, hết chất dinh dưỡng thì lấy gì nuôi cây được nữa. Khi xưa đã từng có câu ca dao: cấy thưa thì thừa thóc, cấy dầy thì cóc được ăn. 43 Trong cơ thể thận thủy khắc tâm hỏa tạo nên mối quan hệ tâm thận tương giao, khi thận thủy khắc tâm hỏa mạnh quá làm cho tâm thận bất giao, người bệnh hồi hộp, mất ngủ, tinh thần hoảng hốt. Cũng như vậy can mộc khắc tỳ thổ làm cho tiêu hóa dễ dàng, khi can mộc vượng lên như giận dữ, cáu gắt làm cho tỳ thổ bị ức chế, mất khả năng kiện vận, ăn uốhg kém, không tiêu hóa được, đau vùng thượng vị, ỉa lỏng, phân sốhg, lâu ngày thành bệnh. Trên lâm sàng đây là hội chứng đau dạ dày tá tràng, khi điều trị, người ta phải hạ hưng phấn của can (bình can, sơ can) và nâng cao khả năng kiện vận của tỳ vị (kiện tỳ) lập lại thê cân bằng và khỏi bệnh. Nói tóm lại: tương thừa chính là tương khắc quá mạnh. tương thừa chính là tương khăc quá m 5.2.2. Qui luật n gũ h à n h tương vũ Ỵ>v ✓ i _____ _____ 2 _ _ ^ _ Đó là hiện tượng xảy ra khi mà hành khắc suy yếu, không đủ khả năng khắc chê hành bị khắc, lúc này hành bị khắc vượng lên, tác động trở lại và lấn áp hành khắc nó. Ví dụ; bình thường thổ khắc thủy làm cho thủy lợi, các hồ chứa nưốc điều hòa, ngăn chặn cơn hung dữ của thủy thần nhưng khi thô suy yếu, người ta chủ quan không tu sửa đê điều thì không ngăn được khi thế nưốc mạnh gây lũ lụt tàn phá mọi thứ khi nó đi qua. Thủy không đủ sức khắc hỏa làm cho hạn hán. Mộc yếu quá không khắc được thổ thì làm đất đai hoang hóa, mùa màng thất bát, lấy gì mà ăn. Trong cơ thể, lúc bình thường thì tỳ thổ khắc thận thủy, kết hỢp với phê cùng nhau giúp cho sự vận hóa thủy thấp được thuận lợi, đó là sự đại tạ trong cơ thể. Khi tỳ hư không còn khắc được thận thủy nữa thì thủy dịch ngưng đọng, nước ứ lại gây các bệnh như ỉa chảy kéo dài, cổ trưống, phù. Khi chữa phải kiện tỳ lợi thủy làm cho tỳ mạnh lên, phát huy được chức năng vận hóa thủy thấp, đồng thời khai thông nguồn nước, làm giảm gánh nặng cho tỳ. Thận thủy khắc tâm hỏa, khi thận thủy suy yếu thì hỏa bôc gây chứng đau đầu chóng mặt, đây chính là chứng âm hư hỏa vượng, tâm thận bất giao. Khi chữa phải tư âm giáng hỏa, bài thuốc lục vị nổi tiếng của ông Tiền ất là bài thuốc thánh để chữa bệnh này. Tâm hỏa khắc phê kim, khi tâm hỏa không đầy đủ thì phê kim vượng lên, gây ho hen, khó thỏ đồng thời người bệnh mất ngủ, tâm thần bất an. Khi điều trị phải bổ phế an thần, cắt cơn hen suyễn, khó thở. 5.3. Quan hệ ch ế hoá Thông thường mối quan hệ giữa các hành luôn luôn khăng khít, ít khi xảy ra đơn thuần riêng rẽ như chỉ có tương sinh hoặc chỉ có tương khắc mà chúng sinh nhau, khắc nhau một cách hài hòa và biến động không ngừng, chúng hóa sinh nhau, chúng khắc chế nhau, chúng mâu thuẫn nhưng thống nhất vối nhau theo qui luật âm dương để cùng tồn tại và phát triển. Đó chính là mối quan hệ chê hóa. Về vấn đề này, Trương cảnh Nhạc nói; lẽ tạo hóa không thể không có sinh, cũng không thể không có chế, không có sinh thì vạn vật không thể có sự phát dục, 44 không có chê thì phát dục quá độ mà có hại, cần phải trong sinh có chế, trong chê có sinh thì mới có thể vận hành liên tục, vừa chốhg đối, vừa sinh thành lẫn nhau. Trong quan hệ chê hóa của ngũ hành, hành nào cũng có sự tương quan toàn diện: Ví dụ: trong sơ đồ về quan hệ chế hóa (hình 24) ta thấy, về quan hệ tương sinh thì hành hỏa tương quan vối hành mộc và thổ (mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ), về quan hệ tương khắc thì hỏa tương quan với thủy và kim (thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim), như vậy hành hỏa tương quan với tất cả 4 hành còn lại, khi hỏa bị bệnh, các hành kia không thể không ảnh hưởng, điều này cùng chung quan điểm của y học hiện đại, đó là quan điểm cho rằng cơ thể là một khối thống nhất, khi bất kì một bộ phận nào trong cơ thể bị tổn thương đều tác động đến các bộ phận khác. Một ví dụ khác, hành thổ có mối quan hệ tương sinh vối hành hỏa và hành kim (hỏa sinh thổ, thổ sinh kim) và mối quan hệ tương khắc vối hành mộc và hành thủy (mộc khắc thổ, thổ khắc thủy), lần lượt các hành còn lại đều có mối quan hệ tương tự như vậy. Trong sự tương quan toàn diện đó, mỗi hành đều phải có sự sinh khắc bình thường thì mói giữ được sự hoạt động nhịp nhàng cân đối của toàn bộ ngũ hành; Ví dụ: - Hỏa khắc được kim nhưng con của kim là thủy lại khắc được hỏa. - Thủy khắc được hỏa nhưng con của hỏa là thổ lại khắc được thủy. Từ những nhận xét trên ta nhận thấy, nếu hỏa muôn tồn tại trong trạng thái cân bằng thì hỏa phải sinh thổ để khắc chế lại thủy là kẻ thắng hỏa, mặt khác hỏa phải khắc kim để hạn chê bốt kim sinh thủy, do vậy thủy yếu đi không đe dọa được hỏa nữa. Như vậy hỏa sinh thổ và khắc kim là 2 việc làm cần thiết để tự bảo vệ mình, các hành khác cũng vậy. Đó là trong sinh có khắc, trong khắc có sinh, có khắc mới đủ sức đề sinh, có sinh mới đủ sức để khắc. Đó chính là mối quan hệ chế hóa của ngũ hành. Hoả 45 6. ỨNG DỤNG CỦA HỌC TH U YẾT NGŨ HÀNH TRONG Y HỌC 6.1. ứng dụng trong việc tìm ra các môi quan hệ về sinh lý Căn cứ vào bảng quy nạp các sự vật và hiện tượng trong thiên nhiên và trong cơ thể con người vào ngũ hành, ta có thể tìm thấy các mối liên quan giữa các tạng phủ và trong cùng tạng phủ một như can thuộc mộc, có vị chua, có quan hệ biếu lý vói đởm, chủ về cân, khai khiếu ra mắt và giận dữ thì làm hại đến can. Người ta quy loại ngũ hành như vậy là có căn cứ như can quy vào mộc là vì sinh lý của can giống mộc thích được vươn lên tỏa ra, cây thì phát triển mạnh vào mùa xuân, lá cây thường có màu xanh, mùa xuân có nhiều gió, quả xanh có vị chua, trên lâm sàng, các chứng bệnh do can thường có co giật, mắt trực thị, liệt, mắt đỏ, hay giận dữ, la hét. Do đó người ta quy loại các triệu chứng trên vào hành mộc và cũng chính là biểu hiện của can. Tâm thì ở trên cao như mặt tròi tỏa sáng cung cấp năng lượng cho cơ thể, tỳ vận hóa thủy cốc nuôi sốhg cơ thể như đất nuôi sốhg con người. Tất cả các hành khác cũng suy luận như vậy. Sự sắp xếp và quy loại theo ngũ hành như vậy giúp cho người học và nghiên cứu về ngũ hành một sự hứng thú khi nhận ra các qui luật, trên cơ sở ấy có thể ngộ ra được nguyên lý của trời đất. 6.2. ứng dụng trong việc tìm ra các mối quan hệ vể bệnh lý Căn cứ vào quan hệ sinh khắc của ngũ hành để tìm ra vị trí phát sinh bệnh của tạng phủ và đề ra được phương pháp điều trị thích hỢp. Có 5 vị trí có thể phát sinh bệnh; - Chính tà: do bản thân tạng ấy bị bệnh như chứng mất ngủ là do chính bệnh của tạng tâm gây ra cần phải bổ tâm an thần. - Hư tà: do tạng trước tạng ấy gây ra như mất ngủ do can huyết hư là do tạng mộc đứng trước tạng tâm là mẹ tạng tâm có bệnh, đang ở tình trạng hư nhược truyền bệnh cho tạng tâm. Khi điều trị cần phải bổ huyết an thần. - Thực tà: do tạng sau tạng ấy bị bệnh gây ra như các rối loạn trong hoạt động của tỳ vị ảnh hưởng tới tâm mà gây nên mất ngủ. Khi điều trị phải kiện tỳ an thần. - Vỉ tà: do tạng khắc nó quá mạnh gây nên như thận âm hư, giai đoạn đầu dương xung hỏa bốc làm đau đầu mất ngủ, hồi hộp, hay quên. Khi điều trị phải bổ thận âm, an thần, Trường hỢp này tương ứng vói qui luật tương thừa, khi thận thủy khắc tầm hỏa quá mạnh gây nên. Trong quá trình giảng dạy và trong các tài liệu có nhiều cách giải thích không thông nhất và có khi còn lầm lẫn và trái ngược nhau. Có người sẽ nêu câu hỏi: tương thừa là khắc thái quá, cần phải tả, cố sao lại bổ?. Xin thưa rằng, tuy thận âm hư nhưng giai đoạn đầu là dương xung, cái thái quá ở đây là do âm thiếu gây nên chứ dương đâu có thừa mà phải tả, cứ bô âm, khi âm đầy đủ thì tự hỏa sẽ quy nguyên mà thôi. 46 - Tặc tà: do tạng đó không khắc được tạng khác nên bị tạng khác khinh nhờn mà khắc lại (vũ là sự khinh nhờn). Trường hợp này tương đương vối sự bất cập trong qui luật tương vũ, ví dụ như trong bệnh mất ngủ do phê kim quá mạnh mà tâm hỏa không đủ sức khắc chê nó như những cơn khó thở, ho hen làm mất ngủ. Phê tàng phách, tâm tàng thần, phách không yên thì thần làm sao yên được. 6.3. ứ n g dụng tron g chẩn đoán bệnh Căn cứ vào sự qui loại ngũ hành để tìm ra các bệnh của tạng phủ liên quan: 6.3.1. N gủ sắc - Sắc xanh là bệnh thuộc tạng can. - Sắc đỏ là bệnh thuộc tạng tâm. - Sắc vàng là bệnh thuộc tạng tỳ. - Sắc trắng là bệnh thuộc tạng phế. - Sắc đen là bệnh thuộc tạng thận. Nói như vậy không có nghĩa là cứ sắc đen là bệnh ở thận mà phải vận dụng y lý hết sức uuyển chuyển, đó là cách nói tương đối theo YHCT, nếu cứ khiên cưỡng như vậy thì cứ là người da trắng là bị bệnh phế, người da vàng thì bị bệnh tỳ, người da đen thì bị bệnh thận, người da đỏ thì bị bệnh tâm hay sao?. Cách vận dụng y lý trong YHCT rất tương đối, ta có thể hình dung như sau: một người bình thường là người không có mầu gì cả, dù da của họ là xanh đỏ vàng trắng đen chăng nữa, trên cái nền cơ bản đó, nếu ngả sang màu đen là tổn thương ở thận như bệnh đồng đen, lao thận vv.., nếu ngả sang màu vàng rơm thì có thể là ung thư dạ dày, tự nhiên trắng bợt thì xem có phải thiếu máu do ho lao hay không?. Nếu mặt đỏ mắt đỏ thì cần kiểm tra tim mạch và huyết áp, nếu da tự nhiên xanh tái thì nghĩ đến cơn đau và do can huyết hư hay không?. 6.3.2. N gũ chí Các cơn giận dữ thường do can gây nên hoặc ảnh hưởng tối can. Khi giận dữ quá mức làm cho can mất khả năng sơ tiết và điều đạt, gây uất kết, hóa phong, hóa hỏa, có thể gây đột quỵ, tai biến mạch máu não. Khi Khổng Minh chọc tức Chu Du làm cho Chu Du hộc máu tươi mà chết. Tính của mộc là điều đạt thư thái thì can cũng điều đạt thư thái, khi trời yên biển lặng thì cây đứng yên, gió rì rào, cành lá xanh tươi, điều hòa không khí, còn khi can phong nổi lên thì bão táp phong ba, hủy hoại tất cả, không có điểm dừng cho đến khi hủy hoại tan nát hết thì thôi. Đó là ví dụ hùng hồn về giận quá thì hại can trong YHCT, vì vậy khi can khí uất kết thì phải thư can, lý khí. Khi bị cảm phong hàn gây co giật, trỢn mắt thì chữa vào can còn khi can hư thì phải bổ thận vì thận thủy sinh can mộc Mừng rỡ quá mức, cười nói huyên thuyên do bệnh của tâm gây nên hoặc ảnh hưởng tới tâm. Khi người ta được nhiều thứ quá một cách đột ngột, hoặc do xổ sô" độc đắc, hoặc do thừa kê ngẫu nhiên, hoặc do ảo tưởng quá mức, hy vọng quá nhiều, tâm không đủ sức chịu đựng mà gây nên bệnh. Hỏa thịnh thì khắc kim, tâm bỏa thịnh gây nên bệnh phế. Phép chữa là phải thanh tâm nhuận phế. 47 Lo nghĩ thái quá thường là do bệnh ở tỳ hoặc ảnh hưỏng tối sự vận hóa của tỳ vỊ. Khi lo nghĩ nhiều, mối quan hệ tâm tỳ bị ảnh hưởng, sự tập trung vào việc giải quyết mối lo ấy đã choán hết tâm trí, còn lấy đâu mà thưởng thức thú vui ăn uống, nhiều khi người ta có cảm giác ăn thịt cá mà như nhai rơm vậy. Từ đó ta có thể kết luận rằng những người gầy yếu, ăn kém đang có nhiều lo nghĩ trong lòng. Ngoài ra khi cảm phải thấp tà gây chứng da thịt vàng bệu thì phải chữa vào tỳ vị. Buồn thương vô độ là do bệnh ở phế hoặc làm ảnh hưởng tới chức năng tạng phế, khi buồn người ta khóc than, âu sầu làm hại tới phế khí. Đêm khuya có tiếng thở dài là buồn thương lắm đấy. Tại sao có tiếng thở dài? Khi buồn lo suy nghĩ, có lúc người ta quên cả thở, lúc này oxy giảm và carbonic tăng cao tác dụng vào trung khu hô hấp trên vỏ não theo cơ chế íeedback làm kích thích trung khu này và quá trình hít vào được thực hiện. Thở dài là sự đào thải carbonic thừa nhiều trong cơ thể, sau đó là sự hít sâu để bù oxy. Lâu ngày làm tổn thương tới phế. Trong điều trị, nếu phê hư thì có thể bổ tỳ sinh phê vì tỳ thổ sinh phê kim. Sợ hãi quá mức làm tổn thương thận khí, làm tê liệt chức năng của thận, sỢ hãi làm tê liệt khả năng sáng tạo, sự sỢ hãi làm cho táng đởm, kinh hồn, hồn xiêu phách lạc. Lâu ngày trở nên bại thận, tinh thần hư tổn, thiên quý suy. Trên thực tế, người ta đã chứng kiến nhiều trường hỢp vì quá sỢ mà gây nên rôi loạn chức năng của nhị tiện. Để hồi phục trí nhớ, người ta dùng phục thần để chữa, khi hồn xiêu phách lạc, người ta dùng hổ phách để chữa. Theo lý luận YHCT, can tàng hồn, phế tàng phách, hồn là dương khí nằm trong âm huyết, đó là dương trong âm, hổ phách là nhựa của rễ cây thông, nhựa thông được tiết ra ngoài mà phải chui trong rễ cây thông nằm trong đất, đó là dương phải nằm trong âm. Cũng theo lý luận YHCT, đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Hổ phách trong lòng đất và hồn trong can phận cùng có hoàn cảnh như nhau nên hiểu nhau, tìm đến vối nhau và hỗ trỢ nhau. Do đó người ta dùng hổ phách để chữa chứng bệnh hoảng loạn mà làm cho an hồn định phách. 6.3.3. N gủ thề Trong bảng qui loại ngũ hành: + Can chủ cân nên khi chân tay co quắp, người ta nói đó là bệnh của can. + Tỳ chủ cơ nhục nên khi cơ nhục teo nhẽo, người ta nói đó là bệnh của tỳ. + Thận chủ cốt nhục nên khi đau xương nhức tủy nhiều, nhất là lúc về già thì đó là bệnh của thận. + Phê chủ bì mao nên khi da lông khô héo, người ta nói đó là bệnh của phế. + Tâm chủ huyết mạch nên khi huyết hư, huyết kém, da xanh, mạch đập rối loạn thì đó là bệnh của tâm. 6.3.4. ử n g d ụ n g trong diều trị hoc - Nguyên tắc chữa bệnh: điều quan trọng trong điều trị YHCT là lập lại cân bằng âm dương, theo học thuyết âm dương, có 4 trạng thái bệnh, đó là âm 48 thắng, dương thắng, âm hư, dương hư, nếu âm thắng thì tả âm, nếu dương thắng thì tả dương, nếu âm hư thì thêm âm vào cho đủ, nếu dương hư thì thêm dương vào cho quân bình. Vì vậy nguyên tắc cơ bản trong điều trị YHCT là hư thì bổ (thêm vào), thực thì tả (lấy bớt đi) và theo ngũ hành tương sinh là: hư thì bổ mẹ và thực thì tả con. Ví dụ: bệnh phê khí hư cần bổ tỳ, vị vì tỳ thổ sinh phê kim (bổ tỳ sẽ sinh kim, kim đủ thì hêt hư chứng), bệnh tăng huyết áp do can dương thịnh phải tả vào tâm vì tâm hỏa là con của can mộc, khi tả tâm bằng an thần, tâm yên và yếu đi thì can bót thịnh mà khỏi bệnh. - Trong châm cứu: người ta đã tìm ra được các huyệt theo ngũ du, mỗi đường kinh đều mang tên một trong 12 tạng phủ, mỗi đường kinh lại có lại có các huyệt tương ứng với các hành như mộc, hỏa, thổ, kim, thủy. Trong một đường kinh thì quan hệ giữa các huyệt là quan hệ tương sinh, giữa hai kinh âm và dương là quan hệ tương khắc. Tên các huyệt được đặt theo ý nghĩa của kinh khí đi qua trong đường kinh như một dòng nưốc chảy: + Huyệt hỢp là nơi kinh khí đi vào. + Huyệt kinh là nơi kinh khí đi qua. + Huyệt du là nơi kinh khí dồn lại. + Huyệt huỳnh là nơi kinh khí chảy xiết. + Huyệt tỉnh là nơi kinh khí đi ra. Kinh-Huyệt Tỉnh Huỳnh Du Kinh Hợp Dương Kim ^ Thủy ^ Mộc -> Hỏa Thổ ị ị ị ' ị ị Âm Mộc Hỏa Thổ ^ Kim Thủy tương khắc. 6.3.5. ứ n g d ụ n g trong dược hoc Con người do tròi đất sinh ra, mà con người lại là vạn vật chí linh (đứng đầu muôn vật), vì vậy con người bẩm thụ đầy đủ khí thiêng của trời đất, đó là khí âm và khí dương, các loài thực vật, khoáng vật, đa số chỉ bẩm thụ một khí của trời đất, đó là khí âm hoặc khí dương. Vì vậy con người khi mất cân bằng âm dương mà sinh ra bệnh tật thường lấy các dược vật có khí âm hoặc dương mà mình thiếu để bổ xung cho sự mất cân bằng đó. Trên cơ sở sự qui loại ngũ hành và nguyên lý đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu, người ta nhận thấy: 49 + Những dược vật có màu xanh, vị chua thường đi vào tạng can. + Những dược vật có màu đỏ, vỊ đắng thường đi vào tạng tâm. + Những dược vật có màu vàng, vỊ ngọt thường đi vào tạng tỳ. + Những dược vật có màu trắng, vị cay thường đi vào tạng phế. + Những dược vật có màu đen, vị mặn thưồng đi vào tạng thận. Người ta còn vận dụng ngũ vị vào việc bào chế làm thay đổi tính năng và tác dụng của thuốc theo yêu cầu chữa bệnh như sao với giấm để cho thuốic vào can, sao với muối để cho thuốic vào thận, sao vàng hạ thô tẩm đường hoặc mật ong để cho thuốc vào tỳ vị, sao vối gừng để cho thuốíc vào phế. 7. K ẾT LUẬN Học thuyết Ngũ hành là một học thuyết có tính ứng dụng rất cao trong thực tiễn đòi sống con ngưòi. Trong lịch sử, người ta đã vận dụng trong chiến tranh bằng các trận đồ ngũ hành, âm dương, bát quái để vây hãm kẻ thù. Tần Thủy Hoàng đã lấy tên hiệu của mình là mệnh thủy bởi vì ông cho rằng ông đã tiêu diệt nhà Chu thuộc mệnh hỏa. Nhà Tần mệnh thủy, nước sông Hoàng Hà rất sâu nên có có màu đen vì thê cò Tần màu đen, quần áo quân Tần màu đen, người ta còn vận dụng ngũ hành trong bói toán, trong nông nghiệp, làm lịch, địa lý v.v... Đặc biệt, học thuyết Ngũ hành được ứng dụng trong y học, đó là cơ sở cho người thầy thuốc vận dụng trong phòng bệnh, trong chẩn đoán, trong điều trị và bào chê thuốc và đề ra được các phương pháp chữa bệnh theo y lý phương Đông. Khi cần khái quát hóa, trừu tượng hóa vấn đề thì người ta vận dụng học thuyết âm dương còn trong thực tiễn lâm sàng, học thuyết ngũ hành có tính ứng dụng cao, cụ thể, rõ ràng, là công cụ lý luận sắc bén giúp người thầy thuốc YHCT thực hiện tốt nhiệm vụ cao cả là chữa bệnh cứu người. Vì vậy người thầy thuốc giỏi là phải hiểu biết sâu và kết hỢp hài hòa hai học thuyết này. Đó chính là bí quyết thành công trong y học phương Đông. HỌC TH U YẾT TH IÊN NHÂN HỢP NHẤT 1. ĐỊNH NGHĨA Học thuyết Thiên nhân hỢp nhất là một học thuyết nghiên cứu về mối quan hệ giữa thiên nhiên và con người, nó chỉ ra sự gắn bó mật thiết không thể tách ròi giữa tròi đất là vũ trụ lốn và con người là vũ trụ nhỏ, mọi biến động của vũ trụ lớn đều ảnh hưởng tới vũ trụ nhỏ, con người phải thích nghi, chế ngự, cải tạo hoàn cảnh thiên nhiên, hoàn cảnh xã hội để sinh tồn và phát triển. Người xưa đã ứng dụng học thuyết này để chỉ đạo công việc phòng bệnh giữ gìn sức khỏe, các phương pháp luyện tập dưỡng sinh, khí công nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống ngày càng tốt hơn. 50 2. NỘI DUNG C ơ BẢN CỦA HỌC THUYẾT Học thuyết Thiên nhân hỢp nhất hay còn gọi là học thuyết Tam tài, dựa trên quẻ Càn tam liên gồm có 3 vạch dương, vạch trên thuộc tròi, vạch dưới thuộc đất, vạch giữa thuộc con người, đó là thuyết Thiên Địa Nhân hay còn gọi đó là quan niệm chỉnh thể. 2.1. Hoàn cảnh tự nhiên và con người Vê quan hệ giữa hoàn cảnh tự nhiên và con người, sách Linh khu nói: con người tương ứng với trời đất. Trời và đất là đại biểu cho tự nhiên, tương ứng với tròi đất là khi sự biến hóa của tự nhiên ảnh hưởng tới thân thể người ta, lúc đó sẽ xuất hiện phản ứng tự vệ đáp trả lại. Chúng ta hãy phân tích xem các sự vật và hiện tượng trong tự nhiên vận động và biến hóa như thê nào. Nội kinh cho rằng tất cả trong tròi đất không lúc nào là không vận động và biến hóa. Đã có biến hóa thì khí tròi luôn luôn giáng xuốhg, khí đất luôn luôn đưa lên. Một khí ỏ trên, một khí ở dưới, hấp dẫn lẫn nhau. Chính vì khí âm dương của đất tròi không yên tĩnh mà vận động không ngừng nên mối sinh ra biến hóa và có biến hóa mới sinh ra vạn vật. Trong khoảng không giữa trời đất, khi mà khí tròi khí đất giao nhau, sự phối hỢp đó gọi là khí giao và con người ta sông ở trong khoảng khí giao đó, nói cách khác là con người sốhg trong sự vận động và biến hóa của khí âm dương trong tròi đất. Chính vì vậy con người chịu ảnh hưởng của tất cả các yếu tô" về khí hậu, thời tiết, địa lý cũng như tập quán sinh hoạt. Khí hậu, thời tiết bốh mùa xuân hạ thu đông thay đổi luôn tác động đến sức khỏe con người, mùa hạ thì hay mắc bệnh ỉa chảy, mùa đông xuân hay mắc bệnh ho, viêm phổi, mùa trưởng hạ hay có bệnh phong tê thấp v.v... Do 12 cung địa chi giao nhau tạo nên lục hỢp mà tạo ra 6 thứ khí phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa. 6 thứ khí này hết sức cần thiết cho sức khỏe con người. Phong khí làm nên chuyển động. Hàn khí làm nên ngưng đọng. Nhiệt khí làm nên ấm nóng. Thấp khí làm nên nhu nhuận mềm mại. Táo khí làm nên khô ráo thu liễm. Hỏa khí làm cho hun bôc, quang minh. Thê nhưng trong một sô hoàn cảnh cụ thế, các khí kia trở nên thái quá hoặc do cơ thể suy yếu mà lục khí trở thành tác nhân gây bệnh, lúc đó nó được gọi là tà khí. - Hoàn cảnh về địa lý cũng có nhiều ảnh hưởng tối sức khỏe con người, miền núi thiếu iod nên hay có bệnh bướu cổ, tròi rét uống rượu nhiều nên dễ xơ gan, tuổi thọ giảm. Miền biển ăn cá nhiều, iod nhiều nên khỏe mạnh thông minh, vùng mỏ nhiều giun móc, bụi phổi. Khu công nghiệp thì tiếng ồn cao, trẻ con giảm thính lực, thành phô thì ô nhiễm do bụi ô tô, khói thải các chất độc từ nhà máy. Người miền Nam hay mắc các bệnh thấp nhiệt v.v... 2.2. Hoàn cảnh xâ hội tá c động đến con người Con người sốhg trong xã hội thì không thể nào không chịu tác động của môi trường xung quanh, những thay đổi về chê độ chính trị sẽ kéo theo các hệ lụy của nó, một xã hội văn minh với những chăm sóc ưu việt về y tế, với nền giáo 51 dục tiên tiến, với đòi sốhg kinh tê cao góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và đẩy lùi các tệ nạn xã hội và ngược lại, nếu con ngưòi sông trong một xã hội phong kiến lạc lậu với nhiều định kiến sẽ bóp chết sức sáng tạo. Tuy nhiên, mỗi hoàn cảnh cũng có những hạn chê của nó như người nghèo thì hay mắc các bệnh nhiễm trùng, suy dinh dưỡng, người giàu thì hay mắc các bệnh béo phì, tim mạch. Văn hóa không lành mạnh, thị hiếu thấp kém cũng làm giảm đi cuộc sống tinh thần. Đó là những tác động tâm lý không tốt, là 7 tình chí dẫn tối các bệnh nội thương trong YHCT. 2.3. Thái độ của con người trư ớc thiên nhiên và xã hội Con người sống giữa tròi đất, không thể không chịu tác động của tròi đất, không thể chống lại tròi đất, không thể trôn chạy khỏi tròi đất. Cách duy nhất để tồn tại là phải thuận theo tròi đất, thích ứng vối từng hoàn cảnh cụ thể, làm nhà để che mưa nắng và tránh thú dữ, nóng thì có quạt, lạnh thì có chăn, nưốc nổi thì bèo nổi, sự tìm ra lửa đã đem lại một cuộc sống tốt đẹp, chính vì vậy VănVương mới gọi quẻ Ly là văn minh, là lửa. Ngoài ra con người phải luôn rèn luyện sức khỏe về tinh thần cũng như vật chất để bảo vệ cho bản thân và xã hội xung quanh mình. 3. ỨNG DỤNG TRONG Y HỌC 3.1. Phòng bệnh tích cực - Cải tạo thiên nhiên để phục vụ cho con người, ví dụ như lợi dụng các dòng chảy của sông suối để giã gạo, để lấy nước tưới cho đồng ruộng, ngăn sông làm thủy điện, điều hòa dòng chảy, cải tạo khí hậu, tránh lũ lụt, xây dựng các trạm phát điện chạy bằng sức gió, tận thu năng lượng thủy triều và năng lượng mặt tròi. Tất cả đều là năng lượng sạch và thân thiện với môi trường. Con người sẽ khỏe hơn và bệnh tật sẽ ít hơn. - Cần phải chủ động rèn luyện thân thể, con người ta, ai cũng hiểu rèn luyện thân thể là tốt nhưng thường bị động, khi bệnh nặng rồi mối biết lo thì đã muộn, một sô" người bệnh bị ung thư phổi, x ơ gan, đến giai đoạn C U Ố I mới nhắn nhủ bạn bè và người thân rằng: chớ có như tôi, hãy từ bỏ rượu và thuốc lá. - Phương pháp rèn luyện có nhiều, có thể chơi thể thao như bóng bàn, cầu lông, bóng chuyền, bóng đá nhưng phải có liều lượng, tùy theo tình trạng sức khỏe của mình, thái quá thì bất cập. Trong võ học, người ta gọi đó là tẩu hỏa nhập ma nghĩa là các tai biến mạch'não mà gây nên tàn phế. Rèn luyện phải kết hợp với nghỉ ngơi, đang đi cày thì ngồi nghỉ, uốhg nưốc đọc báo, đang đọc sách, viết bài thì nghỉ ra ngoài rửa xe, cọ sân cũng là một hình thức nghỉ ngơi. Ngoài ra còn có thể tập thể dục dưỡng sinh, khí công, thái cực quyền vv - Rèn luyện tinh thần, vững vàng trưốc mọi thử thách, lạc quan trong cuộc sống, tránh tình trạng khi gặp khó khăn thì bi quan chán nản mà phải biết yêu cuộc sống, tin vào thế giối ngày mai tốt đẹp. Không được phép hủy hoại cuộc sống bởi vì con sâu cái kiến còn muốn sông. Cuộc sống của ta đâu chỉ có cho ta mà ta còn phải sốhg cho mọi người, sốhg cho cha mẹ, vợ con, bạn bè và xã hội. Hãy sốhg sao cho ra 52 sống để đến khi nhắm mắt xuôi tay, ta không phải ân hận vì những năm tháng đã sống hoài sốhg phí. Chúng ta còn nhớ Babinsky, người thày thuốc thần kinh vĩ đại, khi hấp hối cảm thấy chưa an lòng vì chưa làm gì được nhiều cho nhân loại, lúc đó có một người học trò đã quì xuốhg bên giường bệnh thưa rằng: thưa thầy, thê thầy chẳng để lại cho đòi dấu hiệu Babinsky là gì. Người thầy vĩ đại mỉm cười mãn nguyện và lặng lẽ ra đi. 3.2. Phòng bệnh thụ động - Ăn uống đủ chất, vừa phải, vệ sinh thân thể, cải tạo môi trường sôhg xung quanh. - Điều độ trong sinh hoạt tình dục. 3.3. T ìm ra được nguyên n hân gây bệnh Đó là lục dầm gây nên bệnh ngoại cảm và 7 tình chí gây nên các bệnh nội thương. 3.4. Sức khỏe con người quyết định đến sự phát sinh bệnh Bệnh tật chỉ xảy ra do sự giảm sút công năng nội tạng trong cơ thể con người, con người mất sức đề kháng, chính khí giảm nên tà khí thừa cơ xâm nhập. 3.5. Học th u y ết th iên n hân chỉ đạo tư tưởng trong phương pháp điều trị toàn diện của YHCT. Phải rèn luyện để nâng cao chính khí của cơ thể bằng các phương pháp: khí công, dưỡng sinh, tâm lý liệu pháp, thái cực quyền, chế độ ăn uống theo cân bằng âm dương kết hỢp với xoa bóp, châm cứu, dùng thuốc, trong dùng thuốc phải chú ý phù chính khu tà. 4. K Ế T LUẬN Chúng ta đã lần lượt nghiên cứu qua ba học thuyết âm dương, ngũ hành và thiên nhân hỢp nhất. Đó là toàn bộ quan niệm và tư tưởng của YHCT về thế giối khách quan, cách nhìn thế giối một cách toàn diện, thống nhất chỉnh thể trong phòng bệnh, chữa bệnh. Đại danh y, thiền sư Tuệ Tĩnh đã có một có tổng kết nổi tiếng trong câu thơ sau: Bê tinh, dưỡng khí, tồn thần. Thanh tâm, quả dục, thủ chân, luyện hình. Tinh của con người ta là do tròi cho, là do bố mẹ cho, không được lãng phí, không nên hiểu bê là bít lại mà phải hiểu là nó rất quí, cần phải giữ gìn và điều tiết, chố nên hoang phí. Chúng ta còn nhố khi Hạ Hầu Đôn bị trúng tên vào mắt, ông đã nhổ con ngươi ra và hét lốn: “Tinh cha, huyết mẹ không thể bỏ” và nuốt cả con ngươi. Khí là thành phần cơ bản của sự sống, con người khỏe mạnh là do chính khí tốt, phải bảo vệ chính khí bằng luyện tập và nuôi dưỡng nó. Trong luyện võ, bao giờ cũng luyện khí trưốc luyện công. Thần là tinh thần và tư duy của con người, thần là hoạt động bên ngoài của tinh, khí huyết, tân dịch. Khi làm việc mệt nhọc quá sức, đôi khi chỉ nhắm mắt thiếp đi đôi phút thì thần cũng trở nên tỉnh táo, người ta gọi đó là phép dưỡng thần. Thanh tâm là làm cho tâm hồn trong sáng, đây chính là một cách vệ sinh tâm hồn, là khí sạch, là rau sạch, thực phẩm sạch của đời sống 53 tinh thần. Dục vọng là cần thiết, nó làm cho con người phấn đấu để cuộc sốhg ngày càng tốt hơn, nếu biết hạn chế nó cho đúng hướng thì đó là hoài bão, còn thực hiện bằng mọi thủ đoạn thì đó là tham vọng. Tham vọng quá đáng làm cho người ta mù quáng và thường dẫn tối bê tắc. Dịch nói: “Bĩ chi phỉ nhân” nghĩa là vào cảnh Bĩ thì không phải là người. Bảo vệ chân lý là lẽ sống của con người, bênh kẻ yếu, chống lại kẻ mạnh, cưốp kho thóc cứu dân nghèo thì tạo nên ích lợi. Thoán từ quẻ ích nói: tổn thượng, ích hạ, dân nguyệt vô cương, tự thượng há hạ, kỳ đạo đại quang nghĩa là: lấy bớt của bên trên cho người bên dưới thì người dân đẹp lòng vô bò, từ trên xuốhg dưối đạo nghĩa sáng ngòi. Cuối cùng luyện hình chính là phương pháp rèn luyện thân thể cho đúng cách. Thực hiện được những điều này là cực kỳ khó khăn, là đạt tối đỉnh cao của sức khỏe và trí tuệ con người. Muốn vậy ta phải gạt hết những ham muốh tầm thường, phải giữ cho lòng yên tĩnh như quẻ Cấn. Có TĨNH được như vậy thì mới có thể TUÊ đươc. HỌC T H U Y ẾT KINH LẠC 1. ÂM DƯƠNG GIAO CẢM VÀ s ự HÌNH THÀNH KINH LẠC Trời đất có ngũ hành vận hành liên tục, con người bẩm thụ lấy mà sinh ra ngũ tạng, 12 địa chi đối xung hợp hóa mà sinh ra lục khí, con người bẩm thụ lấy mà sinh ra lục kinh. Đó là các kinh Thiếu dương, Dương minh, Thái dương, Thiếu âm, Thái âm và Quyết âm. Con người có ngũ tạng, lục phủ, cộng thêm tâm bào lạc là 12, mỗi tạng có một kinh âm, mỗi phủ có một kinh dương, tổng cộng là có 12 chính kinh nhưng vẫn là chỉ có lục kinh để ứng vối lục khí của tròi. Lục kinh xuất phát từ tạng phủ. Linh khu 41 viết: Thân người ta từ eo lưng trở lên gọi là thiên thuộc dương, từ eo lưng trỏ xuốhg gọi là địa thuộc âm, sách Tô vấn (Tố vấn 68) viết: Hàn, thử, thấp, táo, phong, hỏa là 6 thứ khí của tròi trong đó: - Thiếu dương chi thượng, hỏa khí tự chi, trung kiến Quyết âm. - Dương minh chi thượng, táo khí tự chi, trung kiến Thái âm. - Thái dương chi thượng, hàn khí tự chi, trung kiến Thiếu âm. - Quyết âm chi thượng, phong khí tự chi, trung kiến Thiếu dương. - Thiếu âm chi thượng, nhiệt khí tự chi, trung kiến Thái dương. - Thái âm chi thượng, thấp khí tự chi, trung kiến Dương minh. 2. BẢN KHÍ, TRUNG KHÍ VÀ TIÊU KHÍ CỦA KINH MẠCH Bản khí là khí của tạng phủ mà đường kinh ấy mang tên, tiêu khí là khí lưu chuyển trên đường kinh ấy còn trung khí là khí của tạng phủ mà nó quan hệ biểu lý, ví dụ như: 54 - Kinh Quyết âm thì bản khí là khí phong (vì can thuộc phong mộc, tâm bào thuộc tướng hỏa, mộc sinh hỏa, đây là con hóa theo mẹ), tiêu khí là khí Quyết âm, trung khí là khí Thiếu dương (khí tại huyệt lạc với 2 kinh biểu lý). - Kinh Thiếu âm thì bản khí là nhiệt khí (vì tâm là quân hỏa, mệnh môn hỏa tại thận là tướng hỏa, tưống hỏa phải theo quân hỏa), tiêu khí là khí Thiếu âm, trung khí là khí Thái dương (khí của 2 kinh biểu lý tại huyệt lạc). - Kinh Thái âm thì bản khí là thấp khí (Thái âm Phế thuộc thanh kim, Thái âm Tỳ thuộc thấp thổ, thổ sinh kim nên con phải theo mẹ, do đó lấy thấp khí làm khí gốíc), tiêu khí là khí Thái âm, trung khí là khí Dương minh (là khí của 2 kinh biểu lý tại huyệt lạc). - Kinh Thiếu dương thì bản khí là tướng hỏa (vì Thủ, Túc Thiếu dương đều chủ về tướng hỏa và gốíc là ở mệnh môn hỏa), tiêu khí là khí Thiếu dương (là khí ngọn, chủ về khí mới phát), trung khí là khí Quyết âm, (đó là khí của kinh Quyết âm Can và Tâm bào). - Kinh Dương minh thì bản khí là khí táo (vị thuộc táo thổ, đại trường thuộc táo kim), tiêu khí là khí Dương minh, trung khí là khí Thái âm (tại huyệt lạc có khí của Thái âm Tỳ, Phê). - Kinh Thái dương thì bản khí là hàn khí,( tiểu trường thuộc quân hỏa, bàng quang thuộc hàn thủy, kinh tiểu trường là kinh sô" 6 nối với kinh sô" 7 là kinh Bàng quang có nghĩa là thủ hóa theo túc, hỏa khí hóa theo hàn khí) tiêu khí là khí Thái dương, trung khí là khí Thiếu âm (tại huyệt lạc của 2 kinh này đều có khí của kinh biểu lý, đó là khí Thiếu âm). 3. HỆ THỐNG KINH LẠC 3.1. Chính kinh Gồm 12 kinh theo thứ tự: Kinh sô" 1 là kinh Thủ Thái âm Phê khởi vào giờ dần (3-5h) -> Kinh sô" 2 là kinh Thủ Dương minh Đại trường khởi vào giờ mão (5-7h) Kinh sô" 3 là kinh Túc Dương minh Vị khởi vào giò thin (7-9h) Kinh sô" 4 là kinh Túc Thái âm Tỳ khởi vào giờ tỵ (9-llh) -> Kinh sô 5 là kinh Thủ Thiếu âm Tâm khởi vào giò ngọ (ll-13h ) -> Kinh sô" 6 là kinh Thủ Thái dương Tiểu trường khởi vào giò mùi (13-15h) Kinh sô" 7 là kinh Túc Thái dương Bàng quang khởi vào giò thân (15-17h) Kinh sô" 8 là kinh Thủ Thiếu âm Thận khởi vào giờ dậu (17-19h) -> Kinh sô" 9 là kinh Thủ Quyết âm Tâm bào khỏi vào giờ tuất (19-2 Ih) Kinh sô" 10 là kinh Thủ Thiếu dương Tam tiêu khởi vào giờ hợi (21-23h) -> Kinh sô" 11 là kinh Túc Thiếu dương Đởm khởi vào giò tý (23-Ih) 55 Kinh sô" 12 là kinh Túc Quyết âm Can khởi vào giò sửu (l-3h) và sau đó nối tiếp vối kinh Thủ Thái âm Phế để tiếp tục một vòng tuần hoàn mới. Nhận xét: - Kinh Thủ Thái âm Phê là kinh xuất phát đầu tiên và đến kinh Túc Quyết âm Can là kinh cuối cùng của một vòng tuần hoàn kinh mạch, ban ngày đi 25 vòng, ban đêm đi 25 vòng, tổng cộng một ngày đêm đi 50 vòng. - Cứ 2 kinh thủ lại tiếp 2 kinh túc và lần lượt theo qui luật như vậy. - Các kinh có quan hệ biểu lý thành từng cặp một nối tiếp nhau. - Các kinh có cùng tiêu khí hay nối tiếp nhau (Thái dương nôi Thái dương, Dương minh nối Dương minh, Thiếu dương nôl Thiếu dương v.v...). - Các kinh thuộc tạng ở bên trong, các kinh thuộc phủ thì ở bên ngoài, dương ỏ bên ngoài để bao bọc lấy âm. - Vị trí đường đi của các kinh thì kinh dương đi ỏ phần da đen hơn, các kinh âm đi ở phần da trắng hơn, ranh giới giữa kinh âm và kinh dương là nơi thay đổi của 2 màu da hay là nơi có lông và nơi không lông. - Lý do kinh dương giáng xuống dưối và kinh âm thăng lên là vì xu thế âm là đi xuốhg, là tĩnh, dương là đi lên, là động, là năng lượng, dương phải xuông để thúc đẩy âm đi lên tạo nên sự tuần hoàn giữa âm và dương trong cơ thể, nếu không như vậy cứ nửa trên là dương, nửa dưới là âm thì âm dương cách biệt có nghĩa là chết. 3.2 . Kinh biệt 12 chính kinh đều có nhánh rẽ ra gọi là kinh biệt, hệ thống này sâu và dài đi tói những vùng chính kinh không đi tới được, nó bắt đầu từ tay chân đi vào nội tạng rồi đi ra đầu cổ, kinh biệt mang bản khí của chính kinh để đi nuôi khắp nơi. 3.3. L ạc m ạch Là đường rẽ ra từ chính kinh và phân bô" ở dưới da, ngoài lạc mạch còn có đại lạc, tiểu lạc và tôn lạc. Đại lạc từ chính kinh rẽ ra, tiểu lạc, tôn lạc từ đại lạc rẽ ra. Kinh đi ở sâu, lạc đi ở nông, lạc mạch có tác dụng giằng buộc các kinh âm dương có quan hệ biểu lý vối nhau tạo nên một hệ thông kinh lạc hoàn chỉnh. Nạn 26 viết: kinh có 12, lạc có 15, vậy còn 3 lạc đi đâu, đó là đại lạc của Tỳ (huyệt Đại bao), dương lạc của mạch Đôc (huyệt Trường cường), âm lạc của mạch Nhâm (huyệt Bình ế). 12 lạc của 12 kinh gồm: - Liệt khuyết là lạc huyệt của kinh Thủ Thái âm Phê". - Thông lý là lạc huyệt của kinh Thủ Thiếu âm Tâm. - Nội quan là lạc huyệt của kinh Thủ Quyết âm Tâm bào. - Chi chính là lạc huyệt của kinh Thủ Thái dương Tiểu trường. 56 - Thiên lịch là lạc huyệt của kinh Thủ Dương minh Đại trường. - Ngoại quan là lạc huyệt của kinh Thủ Thiếu dương tam tiêu. - Phi dương là lạc huyệt của kinh Túc Thái dương Bàng quang. - Quang minh là lạc huyệt của kinh Túc Thiếu dương Đởm.' - Phong long là lạc huyệt của kinh Túc Dương minh Vị. - Công tôn là lạc huyệt của kinh Túc Thái âm Tỳ. - Đại chung là lạc huyệt của kinh Túc Thiếu âm Thận. - Lãi câu là lạc huyệt của kinh Túc Quyết âm Can. Tất cả 15 huyệt trên là nơi khí của kũửi thông vối khí của lạc nên gọi là huyệt lạc. 3.4. B át m ạch kỳ kinh Nạn 27 viết: sự phân bô" của bát mạch kỳ kinh khác với kinh mạch thường, mỗi mạch đều đi lẻ loi theo đường riêng và trên mạch cũng không có huyệt riêng (trừ Nhâm, Đốc) mà mượn huyệt của chính kinh. Các mạch này không có quan hệ biểu lý nên mối gọi là kỳ kinh. 3.4.1. M ach Đốc - Khởi từ tầng sinh môn qua cột sống lên huyệt Phong phủ qua đỉnh đầu, trán, chân răng hàm trên tại huyệt Ngân giao. - Mạch Đốc phối hỢp với kinh Thủ Thái dương Tiểu trường tại huyệt Hậu khê. - Mạch Đốc phụ trách kinh dương và đưa dương khí lên não. 3.4.2. M ach N hâm - Khởi từ tầng sinh môn theo đường giữa bụng lên mặt và mắt. - Mạch Nhâm phối vối kinh Thủ Thái âm Phê qua huyệt Liệt khuyết. - Mạch Nhâm chủ bào cung. 3.4.3. M ach X un g - Từ tử cung đi vào cột sông qua rốh đến ngực và tỏa ra. - Mạch Xung phối hỢp kinh Túc Thái âm Tỳ qua huyệt Công tôn. - Mạch Xung vào bể huyết, phụ trách điều hòa huyết. 3.4.4. M ach Đới - Vòng qua lưng như cái đai, giữ cho kinh âm dương không rối loạn. Mạch Đới phối với kinh Túc Thiếu dương Đỏm qua huyệt Túc lâm khấp. 3.4.5. M ach D ương kiều - Khởi từ mắt cá ngoài (huyệt Thân mạch), dọc theo mặt ngoài đùi đi lên. 57 - Mạch Dương kiều phối với kinh Túc Thái dương Bàng quang qua huyệt Thân mạch. - Mạch Dương kiều có tác dụng quản lý chức năng vận động. 3.4.6. M ạch Ảm kiều - Khởi từ Chiếu hải đi lên mặt trong của đùi. - Mạch Âm kiểu thông với kinh Túc Thiếu âm Thận qua huyệt Chiếu hải. - Mạch Âm kiểu có tác dụng quản lý chức năng vận động. Hai mạch Âm kiểu, Dương kiểu chuyên trách về âm dương tả hữu có nhiệm vụ đóng mở mắt. 3.4.7. M ạch D ương duy - Từ mắt cá ngoài dọc theo mé đùi ngoài, gần vối Dương kiều - Mạch Dương duy thông với kinh Thủ Thiếu dương Tam tiêu qua huyệt Ngoại quan. - Mạch Dương duy quản lý chức năng thăng bằng, điều hòa các kinh dương. 3.4.8. M ach Ảm duy - Từ mặt trong cẳng chân dọc theo mặt trong đùi, bám theo mạch Âm kiều. - Mạch Âm duy thông với kinh Thủ Quyết âm Tâm bào qua huyệt Nội quan. - Mạch Âm duy quản lý chức năng thăng bằng, điều hòa các kinh âm. 3.5. Kinh cân Đó là hệ thống 12 kinh cân ở phần nông chỗ nối liền giữa gân và thịt, nó giữ các xương làm cho liền lại vối nhau, chỗ kinh kết lại thì dày lên, thường ỏ khốp tay chân, móng chân, móng tay, kinh dương thường gân cứng, kinh âm thường gân mềm, gân hoạt động được là nhò can huyết nuôi dưỡng. Kinh Túc Quyết âm Can nốĩ tất cả các gân thành một hệ thống vận động, vì vậy mới nói can chủ cân, khi có triệu chứng chân tay co quắp, điều trị vào can đều thu được kết quả tốt. 3.6. T ác dụng củ a hệ thông kinh lạc 3.6.1. Vê sin h lý: Hệ thống kinh lạc lưu thông khí huyết trong cơ thể để chống lại bệnh tật. Nó không phải thần kinh cũng chẳng phải mạch máu, nó có thể là đường dẫn truyền năng lượng?. 3.6.2. V ề bệnh lý Khi công năng hoạt động của kinh lạc bị trở ngại thì dễ bị ngoại tà xâm nhập và gây bệnh, thường thì bệnh truyền từ ngoài vào trong theo kinh lạc vào tạng phủ, trong một số trường hỢp, bệnh có thể vượt qua kinh lạc mà trực trúng vào tạng phủ, bệnh ở tạng phủ thường có biểu hiện bệnh lý ở đường kinh mạch đi qua (tiêu khí) như vị nhiệt thì loét miệng, bệnh can thì hay đau mạng sưòn và đỉnh đầu. 58 3.6.3. Vê ch ẩ n đoán Dựa vào vị trí đau có thể thấy kinh nào hay tạng phủ nào bị bệnh như đau đầu vùng đỉnh hay liên quan tới kinh Can, đau đầu sau gáy liên quan tới kinh Thái dương, đau mạng sườn hay liên quan tới kinh Đởm. Căn cứ vào thay đổi cảm giác điện sinh học trên đường đi của kinh mạch, người ta có thể chẩn đoán bệnh ở tạng phủ nào như trong bệnh của tỳ thì thông điện ở huyệt Tam âm giao giảm đi từ 3-> 5 lần bình thường. 3.6.4. Vê điêu tri Học thuyết kinh lạc được ứng dụng nhiều trong châm cứu, xoa bóp, bấm huyệt và dùng thuốc v.v... 4. VAI TRÒ CỦA LỤC KINH 4.1. Ý nghĩa của tên đường kinh Dựa vào tứ tượng và lục khí người ta đặt tên cho lục kinh, 3 kinh âm ở tay, 3 kinh âm ở chân, 3 kinh dương ở tay, 3 kinh dương ỏ chân. Thiếu dương là khí dương còn non, là khí nhất dương, Dương minh là khí nhị dương, là ánh dương bừng lên như mặt tròi mọc lên buổi sáng, Thái dương là tam dương là khí dương chan hòa phủ khắp mọi nơi. Trong cơ thể con người, sự biến đổi các khí cũng lần lượt thay đổi theo thòi gian từ yếu đến mạnh, từ âm sang dương và ngược lại. Đó là sự truyền kinh như phần 3.1 đã mô tả cứ một giò là thay một khí khác. 4.2. Linh khu 5 viết Thái dương vi khai, Dương minh vi hạp. Thiếu dương vi khu nghĩa là Thái dương đóng vai trò mở ra, Dương minh đóng vai trò thu nạp còn Thiếu dương đóng vai trò chốt cửa. Đường Dung Xuyên nói: Khí của Thái dương Bàng quang được hóa lên trên, ra ngoài gọi là vệ khí, nó chủ về khai. Kinh Dương minh Vị chủ về nạp thủy cốc, khí của nó đưa đi khắp nơi trong cơ thể và đi xuốhg, nó chủ về hạp (đóng lại). Thiếu dương bên trong chủ về huyết mạch, bên ngoài chủ về tấu lý, tất cả khí nội ngoại xuất nhập đều qua con đường này, vì vậy Thiếu dương như người chốt cửa, ngăn lại tà khí vào trong cơ thể. Linh khu 5 viết tiếp: - Thái âm vi khai, Quyết âm vi hạp, Thiếu âm vi khu đó là vì: Thái âm Phê chủ về tuyên phát, Thái âm Tỳ chủ về vận hóa nên chủ về khai (đưa ra). - Quyết âm Can chủ về tàng ẩn, Quyết âm Tâm bào chủ về tàng giữ âm khí của thượng tiêu nên chủ về đóng lại. - Thiếu âm Tâm bên trong chốt cửa cho kinh Tâm bào, sinh tỳ thổ. Thiếu âm Thận thủy chặn phế kim, sinh can mộc cũng đóng vai trò chốt cửa cho 2 kinh này. Đây là những điểm mấu chốt để biện chứng luận trị trong Lục kinh của Thương hàn luận. 59 4.3. Sự phôi hỢp lục kin h và các th án g - Tháng 1, 2 chủ về kinh Thiếu dương -> Khí nhất dương. - Tháng 3, 4 chủ về kinh Dương minh -> Khí nhị dương. - Tháng 5, 6 chủ về kinh Thái dương -> Khí tam dương. - Tháng 7, 8 chủ về kinh Thiếu âm Khí nhất âm. - Tháng 9, 10 chủ về kinh Quyết âm Khí nhị ám. - Tháng 11, 12 chủ về kinh Thái âm -> Elhí tam âm. Sự truyền bệnh trong thương hàn luận theo thứ tự: - Ngày 1; Thái dương bị bệnh, ngày thứ 7 thì đỡ. - Ngày 2: Dương minh bị bệnh, ngày thứ 8 thì đỡ. - Ngày 3: Thiếu dương bị bệnh, ngày thứ 9 thì đỡ.. - Ngày 4: Thái âm bị bệnh, ngày thứ 10 thì đõ. - Ngày 5: Thiếu âm bị bệnh, ngày thứ 11 thì đỡ. - Ngày 6: Quyết âm bị bệnh, ngày thứ 12 thì đỡ và khỏi dần. 5. MỘT VÀI ỨNG DỤNG 5.1. Linh qui b át pháp (Xem Kinh dịch diễn giảng, Kiều Xuân Dũng, NXB Y Học -2006). 5.2. Ngũ du huyệt 5.2.1. C ác huyệt: Tỉnh, Huỳnh, Du, Kinh, Hợp (Ngũ hành trang 36). 5.2.2. P hép vận d ụ n g - Lấy huyệt theo mùa: mùa xuân hè dương khí ở trên thì lấy các huyệt tỉnh huỳnh, mùa thu đông dương khí ở dưới thì lấy huyệt kinh hỢp. - Theo tác dụng của từng loại huyệt: + Huyệt tỉnh điều trị bệnh thuộc can mộc. + Huyệt huỳnh điều trị các bệnh thuộc tâm hỏa như sốt. + Huyệt du điều trị các bệnh thuộc về tỳ thổ như đau mình mẩy. -I- Huyệt kinh điều trị các bệnh thuộc về phế kim. -I- Huyệt hợp điều trị các bệnh thuộc về thận thủy như khí nghịch, ỉa chảy. 60 - Điều trị bằng sử dụng các huyệt theo bảng sau vối nguyên tắc hư thì bổ mẹ, thực thì tả con: Ngũ hành Tỉnh(Mộc) Huỳnh(Hỏa) Du (Thổ) Kinh (Kìm) HỢp (Thủy) Can mộc Đại đôn Hành gian Thái xung Trung phong Khúc tuyền Tâm hỏa Thiếu xung Thiếu phủ Thần môn Linh đạo Thiếu hải Thận thủy Dũng tuyền Nhiên cốc Thái khê Phục lưu Âm cốc Cách 1: trên một đường kinh như can dương thịnh thì tả hành gian (thực tả con), can huyết hư thì bổ khúc tuyền (hư thì bổ mẹ). Cách 2: trên 2 đường kinh. Can dương thịnh thì lấy tâm kinh (thực thì tả con, tâm là con của can), trên Tâm kinh tả Thiếu phủ (Thiếu phủ thuộc hỏa là con của Thiếu xung thuộc mộc). Can huyết hư thì bổ Thận kinh (bổ mẹ vì thận thủy sinh can mộc). Trên Thận kinh bổ Âm côc (Âm cốc thuộc thận thủy là mẹ của Dũng tuyền thuộc can mộc). 6. KẾT LUẬN Người xưa đã vận dụng âm dương, ngũ vận, lục khí để xây dựng nên học thuyết Kinh lạc. Đây là một học thuyết dựa trên lý luận hết sức chặt chẽ và lô gíc của phương Đông. Học thuyết này chỉ đạo toàn bộ nguyên tắc chữa bệnh của YHCT trong biện chứng luận trị, trong châm cứu, xoa bóp, dưỡng sinh, khí công và sự qui kinh của thuốc như Sài hồ qui vào kinh Thiếu dương Đởm nên được coi là quân dược trong bài Sài hồ thang để điều trị chứng Thiếu dương. Do vậy nên việc nghiên cứu về kinh lạc là cực kỳ quan trọng, cần phải thuộc toàn bộ tên kinh, đường đi, các huyệt và tác dụng của chúng chứ không chỉ đơn giản bằng cách chỉ thuộc mỗi tên tạng phủ của đường kinh cho dễ học và xếp vị trí các đường kinh lộn xộn không theo thứ tự theo kiểu nhớ cho đủ là được. 61 HỌC T H U Y ẾT VẬN KHÍ 1. ĐẠI CƯƠNG Học thuyết Vận khí là học thuyết nghiên cứu về sự vận động của ngũ hành phối hỢp với sự biến hóa của 6 thứ khí. Đem kết hỢp ngũ hành vối thiên can để tính tuế vận của từng năm để xem năm ấy thuộc vận nào. Đem kết hỢp lục khí vối địa chi để tính tuế khí của từng năm xem năm ấy thuộc khí nào. Phối hỢp ngũ vận và lục khí thành học thuyết Vận khí để nghiên cứu vê các qui luật biến hóa của khí hậu, thời tiết nhằm phục vụ cho các ngành khoa học nói chung và đặc biệt trong chẩn đoán và điều trị trong y học nói riêng. Có 3 cách phối hợp như sau: Cách 1: đem thiên can phôi hỢp với ngũ hành để tính tuế vận (Đại vận). Giáp (D), Ky(Ầ) Ất (Â), Canh (D) Bính (D), Tân (Â) Đinh (Â) Nhâm (D) Mậu (D), Quí (Â) Thổ Kim Thủy Mộc Hỏa Cách 2: Đem địa chi phối hỢp với ngũ hành; Dần Mão Tỵ, Ngọ Thân, Dâu, Hợi, Tý Thìn, Tuất, Sửu, Mùi Mộc Hỏa Kim Thủy Thổ Cách 3: Đem địa chi phối hỢp với lục khí: (tuế khí, khách khí): Tý, Ngọ Sửu, Mùi Dần, Thân Mão,Dậu Thìn, Tuất Tỵ, Hợi Quyết âm phong mộc 62 Thiếu âm quân hỏa Thái âm thấp thổ Thiếu dương tưống hỏa Dương minh táo kim Thái dương hàn thủy 2. NỘI DUNG CỦA HỌC THUYẾT VẬN KHÍ 2.1. Các k h ái niệm Sóc là ngày mồng 1 đầu tháng, huyền là tuần trăng lưỡi liềm, vọng là trăng rằm, hối là tuần trăng cuôi tháng. 5 ngày là 1 hậu (dựa vào số 5 trong ngũ hành), 3 hậu là 1 khí (15 ngày, như tiết Hàn lộ), 6 khí là 1 mùa (90 ngày), 4 mùa là một năm. Người xưa, vào ngày đông chí hay xem khí tượng và nhận thấy tính qui luật như: ở phương Nam thấy khí tròi mầu đỏ thì lập Quí Mậu làm Hỏa vận. ở phương Đông thấy khí trời màu xanh thì lập Đinh Nhâm làm Mộc vận. 0 Trung ương thấy khí tròi màu vàng thì lập Giáp Kỷ làm Thổ vận. ở phương Tây thấy khí trời màu trắng thì lập Ất Canh làm Kim vận. ở phương Bắc thấy khí tròi màu đen thì lập Bính Tân làm Thủy vận. 2.2. Đ ại vận, chủ vận, k h ách vận, chủ khí, k h ách khí 2.2.1. Đ ai vận (tu ếv ậ n ) Nói rõ sự biến hóa của khí hậu trong toàn năm ấy, trong đó dương can là thái quá, âm can là bất cập. Ví dụ: năm Giáp Kỷ là năm Thổ vận thì năm Giáp là năm Thổ vận thái quá còn năm Kỷ là năm Thổ vận bất cập. Năm Mậu Quí thuộc Hỏa vận thì năm Mậu thì Hỏa vận thái quá nên nhiệt khí lưu hành còn năm Quí Hỏa vận bất cập nên hàn khí lưu hành. 2.2.2. Chủ vận Là khí hậu trong năm cơ bản không thay đổi theo 24 tiết khí định sẵn. Cách tính chủ vận như sau: - Sơ vận từ tiết Đại hàn tới Xuân phân tương ứng với Quyết âm phong mộc. - Nhị vận từ tiết Thanh minh đến 3 ngày trưốc tiết Tiểu mãn thuộc Thiếu âm quân hỏa. - Tam vận từ sau tiết Mang chủng 3 ngày đến tiết Đại thử thuộc Thái âm thấp thổ. - Tứ vận từ sau tiết Lập thu 6 ngày đến tiết Hàn lộ thuộc Dương minh táo kim. - Chung vận từ sau tiết Lập đông 9 ngày đến tiết Tiểu hàn thuộc Thái dương hàn thủy. 2.2.3. K h á ch vân Là sự biến hóa khác thường của khí hậu trong năm, bình thường tính theo chủ vận nhưng nếu có sự biến đổi bất thường thì tính theo khách vận. Cách tính 63 khách vận như sau; năm Giáp Kỷ là Thổ vận thì sơ vận là Thổ, nhị vận là Kim, tam vận là Thủy, tứ vận là Mộc và chung vận là Hỏa theo nguyên tắc ngũ hành tương sinh. Sự thái quá và bất cập của khách vận cũng giốhg như đại vận. Niên can Ngũ hành Giáp (1) Thổ D Ất (2) Kim  Bính (3) Thủy D Đinh (4) Mộc  Mậu (5) Hỏa D Kỷ (6) Thổ  Canh (7) Kim D Tân (8) Thủy  Nhâm (9) Mộc D Quí (10) Hỏa  Chủ vận Sơ vận Đai hàn Nhi Than vận 1 minh Tam vận Mang chủng Tứ vận Lập thu Chung vận Lập đông Đại vân Khách Thổ Thấp Kim Táo Thủy Hàn Phong Hỏa Thử Thổ Mộc Thấp Kim Thủy Táo Hàn Mộc Phong Hỏa Thử vận Gồm có 5 vận sau . Sơ vận Thổ Kim Thủy Mộc Hỏa Thổ Kim Thủy Mộc Hỏa Nhị vận Kim Thủy Mộc Hỏa Thổ Kim Thủy Mộc Hỏa Thổ Tam vận Thủy Mộc Hỏa Thổ Kim Thủy Mộc Hỏa Thổ Kim Tứ vận Mộc Hỏa Thổ Kim Thủy Mộc Hỏa Thổ Kim Thủy Chung vận Hỏa Thổ Kim Thủy Mộc Hỏa Thổ Kim Thủy Mộc Chủ vận - Khách vận - Thiên can - Địa chi theo ngũ hành 2.3 Lục khí Lục khí làm nên công dụng hóa sinh của trồi đất, Phong khí làm nên chuyển động, Hàn khí làm nên ngưng đọng, Nhiệt khí làm nên ấm nóng, Thấp khí làm nên nhu nhuận mềm mại, Táo khí làm nên khô ráo thu liễm còn Hỏa khí làm cho hun bốc, quang minh ví dụ như: Mùa hạ nhiệt khí trội lên làm cây cỏ xanh tươi, côn trùng phát triển, nưốc sông cuồn cuộn, lỗ chân lông mở ra và mồ hôi ra nhiều. Trong 12 địa chi thì đối xung từng đôi một, các đôi này hỢp hóa vối nhau mà tạo nên 6 khí đó là 6 lần hỢp thì 6 lần hóa. Quá trình tạo ra lục khí như sau: 2.3.1. Tý N go đối xung hỢp hóa tạo thành Thiếu âm nhiệt khí vì Tý thuộc tháng 11, vào tiết Đông chí, phương Bắc thuộc Thủy. Ngọ vào tháng 5, hạ chí, phương Nam thuộc Hỏa. Ngọ Hỏa giao với Tý Thủy làm cho nước ấm lên và sinh ra nhiệt khí. Thiếu âm là do Tý Thủy bớt lạnh đi. Do đó Nhiệt khí là khí gôc còn Thiếu âm là khí ngọn. 64 2.3.2. M ão D âu đối xung hỢp hóa thành dướng minh táo kim là vì Mão thuộc tháng 2, hành Mộc, phường Đông, là nđi mặt tròi mọc sáng rõ nên gọi là Dương minh. Dậu thuộc tháng 8, mùa thu, phương Tây, hành Kim. Mộc bị Kim khắc nên hóa theo Kim. Vì vậy Mão Dậu đối xung hỢp hóa thành Dương minh táo Kim. Do đó Táo khí là gốc còn khí Dương minh là ngọn. 2.3.3. D ần T h â n đối xung hợp hóa thành Thiếu dương hỏa khí vì: Dần thuộc mùa xuân, tháng 1, dương khí phát sinh nên gọi là Thiếu dương, Thân ở phương Tây, thuộc Kim. Dần Thân hỢp hóa thì dương khí từ Thân đi xuống và đến Dần thì đi lên, nhờ Mộc mà biến thành Hỏa. Do đó Hỏa khí là khí gốc còn Thiếu dương là khí ngọn. 2.3.4. Tỵ H ợi đối xung hợp hóa thành Quyết âm phong khí vì Hợi là nơi âm cực dương sinh nên gọi là Quyết âm, âm của Hợi Thủy đi theo dương của Tỵ Hỏa tạo thành Phong khí. Do đó Phong khí là gốc, còn khí Quyết âm là ngọn. 2.3.5. T h ìn T u ất đối xung hỢp hóa thành Thái dương hàn khí vì Thìn là lúc 9h sáng, khi mặt tròi sáng rực nên gọi là thái dương. Tuất là lúc đêm lạnh (20h đêm), nên Thìn hóa theo Tuất mà thành Hàn khí. Do đó Hàn khí là gốic còn Thái dương là khí ngọn 2.3.6. Sử u M ùi đốì xung thành Thái âm thấp khí vì Sửu Mùi thuộc Thổ mà Thổ là vạn vật chi nguyên nên gọi là Thái âm. Mùi gần Ngọ nên kiêm hỏa khí, Sửu gần Tý nên kiêm thủy khí, lấy hỏa chưng thủy thì thành Thấp khí. Do đó Thấp khí là gốc còn Thái âm là ngọn. 65 6 cặp địa chi đối xung là; 1- T ýxN gọ, M ãoxD ậu , T h ìn x T u ấ t, Sử u x M ù i, D ầ n x T h â n , T ỵ x H ợ i. 2- Sáu cặp địa chi hỢp nhau là Tý hỢp Sửu thuộc Thổ, Dần hợp Hợi thuộc Mộc, Mão hỢp Tuất thuộc Hỏa, Dậu hỢp Thìn thuộc Kim, Tỵ hỢp Thân thuộc Thủy, Ngọ hỢp Mùi thuộc Thái dương. 3- Bốn cụm tam hợp (cứ cách nhau 3 vị trí là hỢp nhau) như Hợi Mão Mùi, Tỵ Dậu Sửu, Thân Tý Thìn, Dần Ngọ Tuất. 4- Sáu cặp địa chi phá nhau như Tý phá Mùi, Sửu phá Ngọ, Dần phá Tỵ, Mão phá Thìn, Hợi phá Thân, Dậu phá Tuất. 5- Ba cụm địa chi tứ xung (theo vuông góc) như T ý x N g ọ x M ã o x D ậ u , T h ìn x T u ấ tx S ử u x M ù i, D ầ n x T h â n x T ỵ x H ợ i. 2.4. Chủ khí: là khí làm chủ từng mùa, cố định không thay đổi gồm. 2.4.1. S ơ k h í: là khí Quyết âm phong mộc (theo thứ tự xuân, hạ, thu, đông) gồm; Đại hàn, Lập xuân, Vũ thủy (mưa nhiều), Kinh trập (sâu bọ nỏ) cộng thêm 16 ngày. 2.4.2. N h ị k h í: là khí Thiếu âm quân hỏa gồm Xuân phân, Thanh minh, Cốc vũ (mưa rào), Lập hạ cộng thêm 16 ngày. 2.4.3. T am k h í: là khí Thiếu dương tưống hỏa gồm Tiểu mãn (lúa kết hạt còn non), Mang chủng (lúa chín, sao tua rua), Hạ chí và Tiểu thử (nắng oi) cộng thêm 16 ngày. 2.4.4. Tứ k h í: là khí Thái âm thấp thổ gồm Đại thử (nóng nực), Lập thu, xử thử (mát mẻ, mưa ngâu), Bạch lộ (sương giáng) cộng thêm 16 ngày. 2.4.5. N gũ k h í: là khí Dương minh táo kim gồm Thu phân, Hàn lộ (trở lạnh, có sương), Sương giáng, Lập đông cộng thêm 16 ngày. 2.4.6. C h u n g k h í: là khí Thái dương hàn thủy gồm Tiểu tuyết, Đại tuyết, Đông chí, tiểu hàn cộng thêm 16 ngày. 2.5. K hách khí Là khí biến hóa khác thường của khí hậu hàng năm. Ta biết khách khí di chuyển ít hay nhiều theo thứ tự: Thiếu âm (nhất âm), Quyết âm (nhị âm), Thái âm (tam âm), Thiếu dương (nhất dương), Dương minh (nhị dương), Thái dương (tam dương). 66 Năm Tý, Ngọ Thiếu âm quân hỏa tư thiên Dương minh táo kim tại tuyền Sửu, Mùi Thái âm thấp thổ tư thiên Thái dương hàn thủy tại tuyền Mão, Dậu Dương minh táo kim tư thiên Quyết âm phong mộc tại tuyền Dần, Thân Thiếu dương tướng hỏa tư thiên Thiếu âm quân hỏa tại tuyền Thìn, Tuất Thái dương hàn thủy tư thiên Thái âm thấp thổ tại tuyền Ty, Hợi Quyết âm phong mộc tư thiên Thiếu dương tướng hỏa tại tuyển Khách khí làm chủ từng năm: Tư thiên là khách khí làm chủ khí hậu nửa năm đầu, Tại tuyền là khách khí làm chủ khí hậu nửa năm cuối. Khí tư thiên cách khí tại tuyền theo thứ tự 1-4, 2-5, 3-6 theo nguyên tắc âm dưong ngược nhau. 2.6. V ận và kh í k ết hỢp: có 5 loại hình - Thuận hòa là khí sinh vận. - Thiên hình là khí khắc vận. - Tiểu nghịch là vận sinh khí. - Bất hòa là vận khắc khí. - Thiên phù là vận khí đồng nhau. Ví dụ như năm Mậu Thìn, Mậu thì Hỏa vận thái quá, Thìn thì Thái dương hàn thủy tư thiên. Mậu hỏa thái quá bị tư thiên hàn thủy ức chê mà trở nên bình khí. 3. ỨNG DỤNG HỌC THUYẾT VẬN KHÍ VÀO TRONG Y HỌC Học thuyết Vận khí là sự tổng hỢp các kết quả quan sát thiên văn, địa lý và cuộc sống con người. Từ đó người ta xây dựng mô hình cấu trúc thòi gian như phối hỢp tạng phủ, kinh lạc theo can chi như nhịp thòi gian 10 tháng, 10 ngày, hay cấu trúc theo chi là nhịp 12 năm, 12 tháng, 12h vv.. đó là cơ sở để xây dựng phương pháp châm cứu theo Tý ngọ lưu chú, Ngũ du hoặc Linh qui bát pháp. Ngoài ra học thuyết Vận khí còn được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác chẳng hạn như: - Năm Nhâm Mộc vận thái quá thì Phong khí (can) thịnh vượng lưu hành khắc tỳ gây nên các bệnh về tiêu hóa như ỉa chảy, ăn kém, suy nhược, đầy bụng hoặc các bệnh vê can như cáu giận, đau tức ngực sườn, nôn mửa, đầu choáng mắt hoa. - Năm Đinh Mộc vận bất cập, can mộc kém bị táo kim khắc nên táo kim thịnh vượng lưu hành, nhân dân dễ bị các bệnh ỏ phê như ho, nghẹt mũi hoặc bệnh can như đau bụng dưới hay đau mạng sườn. - Năm Tý năm Ngọ là năm Thiếu âm quân hỏa tư thiên, dương minh táo kim tại tuyền: Thiếu âm quân hỏa tư thiên thì nhiệt tà thịnh vượng, người phiền nóng, cổ khô, mạng sườn đầy tức, nóng rét qua lại, ho suyễn, nôn ra máu, chảy máu cam đó là chứng của tâm, phế, can. Dương minh tại tuyền thì táo khí thịnh 67 vượng, hay bị nôn khan, nặng thì khô héo. Trong điều trị khi Phong khí thái quá xâm phạm vào cơ thể thì dùng thuốc cay mát có tác dụng khu phong, nếu là nhiệt thì tả hỏa thanh nhiệt, nếu là thấp thì táo thấp lợi tiểu, nếu là táo thì thì thông hạ nhuận táo, nếu là hàn thì dùng thuốc ôn nhiệt. 3.1 Môl liên hệ giữa ngũ hành, lục kinh và can chi - Can làm chủ về mùa xuân thuộc địa phận kinh Túc Quyết âm, Thiếu dương đó là ngày Giáp Ât. - Tâm làm chủ mùa hạ thuộc địa phận kinh Thủ Thiếu âm, Thái dương, đó là ngày Bính Đinh. - Tỳ làm chủ mùa cuối hạ thuộc điạ phận kinh Túc Thái âm, Dương minh. Đó là ngày Mậu Kỷ. - Phê làm chủ mùa thu thuộc địa phận kinh Thủ Thái âm, Dương minh. Đó là ngày Canh Tân. - Thận làm chủ mùa đông, thuộc địa phận kinh Túc Thiếu âm, Thái dương. Đó là các ngày Nhâm Quí. 3.2. Dự đoán bệnh theo m ùa - Bệnh thận sẽ đỡ vê mùa xuân, bệnh can sẽ đỡ về mùa hạ, bệnh tỳ sẽ đỡ vê mùa thu, bệnh tâm sẽ đỡ về mùa trưởng hạ, bệnh phế sẽ đỡ về mùa đông. - Mùa xuân hay có bệnh về hô hấp, mùa hạ hay có bệnh về ỉa chảy, mùa trưởng hạ hay có bệnh đau tức sườn ngực, mùa thu hay có bệnh sốt rét, mùa đông hay có bệnh đau nhức tê mỏi. 3.3. Dự đoán bệnh theo ngày - Bệnh can sáng đỡ, chiều nặng, nửa đêm yên tĩnh. - Bệnh tâm sáng yên, chiều đõ, nửa đêm nặng. - Bệnh tỳ sáng nặng, chiều đỡ, nửa đêm yên tĩnh. - Bệnh phế sáng nặng, chiều đỡ, nửa đêm yên tĩnh. - Bệnh thận sáng nặng, chiều yên, nửa đêm đõ. 3.4. Dự đoán bệnh theo năm - Các năm Giáp, Thổ vận thái quá thì có nhiều mUa, khí hậu ẩm ướt, các bệnh do thấp khí sinh ra làm ảnh hưởng tới thận (Thô khắc Thủy) thì phương pháp điều trị là tư bổ thận trừ thấp (lợi tiểu). - Các năm Ât, Kim vận bất cập, khí của Hỏa vượng lên làm nhiều bệnh nhiệt. Phương pháp điều trị là thanh phê giáng hỏa (Hỏa khắc Kim). 68 XiiAiì Đtng Ntam-Qiiý Đíng NMtm-Quý Binh-Đinh Tiuàigh; M»i-ICỳ 69 HỌC THUYẾT TẠNG TƯỢNG (SINH LÝ HỌC Y HỌC c ổ TRUYỀN) Học thuyết Tạng tượng và học thuyết Kinh lạc là những phần rất quan trọng trong lý luận y học cổ truyền nhằm nghiên cứu sự hoạt động của tạng phủ, kinh lạc và các mốĩ quan hệ của chúng với nhau trong quá trình sinh lý và bệnh lý của cớ thể con người. Biết được chức năng của chúng, ta có thể dựa vào đó mà đê ra các phương pháp phòng bệnh và chữa bệnh có hiệu quả cao nhất. Khi Hoàng Đê hỏi về công năng của tạng phủ thì Kỳ Bá trả lời như sau: Trong các tạng phủ thì Tâm giữ chức lãnh đạo tôi cao, tất cả hoạt động tinh thần, trí tuệ thông minh đều do đó mà ra. Phế như chức năng thừa tướng, điều tiết phần khí của toàn thân. Can giữ chức tướng quân, có trí dũng phát huy mọi mưu kế và suy tính xét đoán. Tính của Đởm là trung trực cương nghị, có đủ năng lực phán đoán chính xác. Đản trung giống như chức nội thần, phụ trách truyền đạt ý chí vui mừng của quân chủ. Tỳ vỊ như kho vựa, chứa đựng và tiêu hóa, vận chuyển và phân bố chất dinh dưỡng của đồ ăn uốhg. Đại trường quản lý việc truyền tống chất cặn bã ra ngoài. Tiểu trường tiếp thu đồ ăn uống ở tỳ vị, hóa thành chất tinh hoa đi nuôi cơ thể. Năng lực của thận đầy đủ thì chân tay mạnh mẽ, tăng thêm trí tuệ, biểu hiện ra động tác kỹ xảo. Tam tiêu chủ khơi thông nguồn nước toàn thân. Bàng quang là nơi hội tụ thủy dịch của tam tiêu nên gọi là châu đô chi quan. Hạ tiêu nơi đan điền hoạt động khí hóa thì đường nưốc thông lợi mà chảy ra ngoài. Giữa 12 khí quan này cần phải hoạt động nhịp nhàng và vai trò quyết định cho sự nhịp nhàng đó là tạng Tâm. Như vậy câu trả lời của Kỳ Bá đã rõ, chúng ta chỉ cần đi sâu và diễn giải rõ hơn chức năng của tạng phủ trong cơ thể con người. 1. TẠNG TƯỢNG LÀ GÌ? Tạng là ngũ tạng gồm tâm, can, tỳ, phế, thận. Phủ có 6, đó là đởm, vỊ, đại trường, tiểu trường, bàng quang và tam tiêu. TưỢng là các hiện tượng xảy ra khi các tạng phủ hoạt động, qua quan sát nhiều năm và các thực tê lâm sàng, người ta nhận thấy các hiện tượng xảy ra có liên quan mật thiết tói các tạng phủ. Trong điều kiện bình thường hay sinh lý, các hiện tượng xảy ra là bình thường, khi các hiện tượng xảy ra bất thường, thái quá hay bất cập làm tổn thương cho sức khỏe thì đó là tình trạng bệnh lý, cần phải điều trị cho trở lại hòa bình. 2. TINH, KHÍ, HUYẾT, THẦN, t â n d ịc h 2.1. Tinh Tinh là cơ sỏ vật chất cấu tạo nên cơ thể và là nguồn dinh dưỡng cho của sự sốhg con người. Có 2 loại tinh: tinh tiên thiên và tinh hậu thiên. 70 Tinh tiên thiên là do bô mẹ đem lại. Linh Khu nói: cái đến với sự sống gọi là tinh, tinh là vật chất cơ bản cấu tạo nên ngũ tạng, lục phủ. Tinh hậu thiên là do tỳ, vị vậti hóa đồ ăn thành các chất dinh dưỡng đi nuôi cơ thể và phân bố ỏ các tạng phủ nên còn gọi là tinh tạng phủ. Hai nguồn tinh này bổ sung cho nhau để tham gia vào việc sinh dục và phát dục của cơ thể. Khi nguồn tinh phát triển dồi dào thì qui vào thận mà hóa ra thứ tinh sinh dục. Tinh có sức sốhg dồi dào, là vật chất cấu tạo nên tất cả các tổ chức trong cơ thể nên được gọi là chân âm, nó còn là cơ sở vật chất của nguyên khí nên còn gọi là nguyên âm. Nguyên âm chống lại tà khí, tránh được bệnh tật, giúp cho sự sinh trưởng phát dục của cơ thể. 2.2. Khí Khí là một thành phần cấu tạo nên cơ thể, là chất cơ bản duy trì sự sống con người, có tác dụng thúc đẩy huyết và công năng tạng phủ, kinh lạc hoạt động. Khí ở khắp nơi trong cơ thể, đặc biệt khi nó trú ngụ trong tạng phủ nào thì nó mang tên của tạng phủ đó như thận khí, can khí, tỳ khí, tầm khí v.v... Khí có hai hàm ý; một là chỉ vào chất li ti khó thấy, trôi chảy như tinh khí của thức ăn uốhg và là chất dinh dưỡng vận hành trong cơ thể. Hai là chỉ vào sức hoạt động nội tạng như khí của ngũ tạng, khí của lục phủ, khí của kinh mạch. Khí bẩm thụ từ tiên thiên thì gọi là khí tiên thiên, còn gọi là nguyên khí, khí được hóa sinh trong đồ ăn uốhg và thứ khí tròi thở hít vào đều gọi là khí hậu thiên. Khí là tên gọi chung, người ta phân loại ra có 4 thứ khí. 2.2.1. N guyên khi Nguyên khí còn gọi là sinh khí, chân khí, khí của chân nguyên do tinh tiên thiên sinh ra, được tàng trữ ở thận, sau này được bổ xung không ngừng bằng khí của hậu thiên. Thông qua tam tiêu, nguyên khí đến để thúc đẩy công năng hoạt động của các tạng phủ và thúc đẩy quá trình sinh dục và phát dục của cơ thể. Nguyên khí đầy đủ thì thân thể khỏe mạnh, chống lại được tà khí, không cho tà khí xâm nhập vào cơ thể. 2.2.2. Tôn khí Khí hải (ở giữa ngực) là chỗ khí qui tụ, xuất phát, vận động của khí toàn thân. Khí xuất phát từ khí hải gọi là Tôn khí. Nguồn gốc của tôn khí là do khí trời và chất tinh vi của đồ ăn do tỳ vận hóa kết hợp tạo thành. Sự vận hành của khí huyết, hô hấp, tiếng nói, hoạt động tay chân đều có quan hệ mật thiết vối tôn khí. Tôn khí chạy qua đường hô hấp để coi việc hô hấp, qua tâm mạch để vận hành khí huyết vì vậy khi tôn khí giảm sút có thể gây ra ứ huyết. Nguyên khí là khí tiên thiên được chứa ở thận và tôn khí là khí hậu thiên được chứa ở khí hải nhưng trong quá trình sinh lý thì hai thứ khí này không tách ròi nhau, chúng kết hợp với nhau làm nên công dụng nuôi dưỡng toàn thân. 2.2.3. Vinh khí Vinh khí là do chất tinh vi của đồ ăn được tỳ vận hóa tạo thành, nó đi vào mạch, thành một bộ phận của huyết dịch, biến thành huyết dịch đi toàn thân để nuôi cơ 71 thể. Vinh khí từ trung tiêu dồn lên phê mạch biến thành huyết sắc đỏ, chảy vào trong thì nuôi tạng phủ, tản ra ngoài thì tưối nhuận cho gân xương, da lông. Đường vận hành của vinh khí từ trung tiêu dồn vào thủ thái âm phê rồi tuần hoàn qua 14 đường kinh mạch, một ngày đêm đi 50 vòng như vậy để nuôi cơ thể. 2.2.4. Vệ khí Vệ khí bắt nguồn từ tiên thiên, do dương khí của thận sinh ra, được bổ xung không ngừng bằng các chất tinh vi của đồ ăn do tỳ vị vận hóa ra, hoạt động được nhò sự tuyên phát của phế. Vì vậy vệ khí được sinh ra ở thận, được nuôi dưỡng ở tỳ và hoạt động được nhò sự tuyên phát ở phế. Vệ khí đi ngoài mạch, phân bố toàn thân, bên trong làm ấm nội tạng, bên ngoài làm ấm cơ nhục, da lông, làm đóng mở tuyến mồ hôi. Vệ khí có nhiệm vụ bảo vệ cơ thể chống ngoại tà xâm nhập. Vệ khí tuy vận hành ngoài mạch nhưng vẫn dựa vào đường mạch để lưu hành, ban ngày nó đi ỏ phần dương tại 3 kinh dương ở chân tay, bắt đầu từ mắt lên đầu rồi xuống đến chân, qua lòng bàn chân vào Túc Thiếu âm Thận rồi chuyển qua mạch Kiểu và quay trở lại mắt, cứ thế tuần hoàn không ngừng, đến các kinh ở tay thì phần nhiều tản ra không quay trở lại nữa, ban đêm đi ở phần âm qua Túc Thiếu âm Thận rồi qua tâm, phế, can, tỳ sau đó lại quay về thận. Ban ngày vệ khí đi ở phần dương qua Thủ, Túc Dương kinh được 25 vòng; ban đêm đi ở Thủ, Túc Âm kinh thuộc về ngũ tạng được 25 vòng. Tổng cộng một ngày đêm đi được 50 vòng. Vệ khí và vinh khí đều là khí của hậu thiên. Vinh là tinh khí của đồ ăn uống, thuộc âm, tính nhu nhuận cho nên vinh khí đi trong mạch, vệ khí là khí mạnh trong đồ ăn uốhg, thuộc dương, tính cương trực nên đi ở ngoài mạch nhưng vì dương âm chế ưóc lẫn nhau cho nên vệ khí đi vào trong mạch tức là vinh, vinh khí đi ra ngoài tức là vệ. Thường thì vinh vệ chuyển hóa lẫn nhau, nếu sự chuyển hóa bị trỏ ngại thì có hình thái bệnh lý vinh vệ bất hòa. 2.3. Huyết Huyết là thứ thể dịch sắc đỏ, theo đường mạch vận hành không ngừng trong cơ thể. Nguồn sinh ra huyết từ tỳ vị ở trung tiêu, thức ăn được tỳ vỊ vận hóa thành chất tinh vi, vinh khí dồn vào mạch mà thành huyết, ngoài ra tinh còn do tinh tàng trữ từ thận sinh ra. Vì vậy huyết có quan hệ mật thiết với 3 tạng tỳ, phế, thận. Được khí thúc đẩy, huyết theo mạch đi nuôi dưõng toàn thân, huyết đầy đủ thì cơ thể khỏe mạnh. Khi huyết không đầy đủ thì chân tay không ấm, nặng thì tê bại. 2.4. Tân dịch Tân dịch là chất nước trong cơ thể. Chất trong là tân, chất đục là dịch. Tân dịch cũng do chất dinh dưỡng trong đồ ăn uốhg hóa ra, nhò sự khí hóa của tam tiêu mà đi vào tạng phủ, khóp xương, nưốc bọt v.v... Tân đi toàn thân, tưới và nuôi dưỡng tạng phủ, cơ nhục, kinh mạch, da và bổ sung nưốc cho huyết dịch, Mồ hôi và nưốc tiểu là chất thải của tân, thứ ra tấu lý là mồ hôi, thứ xuống 72 bàng quang là nước tiểu. Khi mất tân dịch nghĩa là cơ thể mất nưốc, mất mồ hôi, nưốc tiểu bài tiết quá nhiều thì máu khô lại, hematocrit tăng làm rối loạn điện giải, nếu không điều trị, truyền dịch kịp thòi có thể nguy hiểm đến tính mạng. Khi bệnh nhân có triệu chứng ra mồ hôi nhiều, đi lỏng, nôn mửa thì kiêng uống thuốic phát hãn cũng là vì lý do ấy. Dịch là chất đục, cũng từ đồ ăn uốhg hóa sinh, theo huyết đi khắp nơi nhưng thường được chứa trong não tủy, khớp xương, bôi trơn các khớp, nhu nhuận tai mắt miệng mũi. Tuy tân dịch có nguồn gốc giống nhau nhưng tân trong dịch đục. Tân lỏng dịch đặc. Tân ra ngoài biểu, dịch vào gân xương, các khốp, các màng bao bọc tạng phủ. Tuy vậy chúng chuyển hóa lẫn nhau mà làm nên công dụng, do đó trên lâm sàng vẫn gọi chung là tân dịch. 2.5. Thần Thần là sự hoạt động về tinh thần, tư duy và ý thức của con người, là biểu hiện bên ngoài của tinh, khí, huyết và tân dịch. Thần do tinh tiên thiên sinh ra và được bổ xung không ngừng bởi tinh hậu thiên, vì vậy thần có quan hệ chặt chẽ vối tinh, khí huyết, tán dịch, vinh vệ. Thần là sự biểu hiện bên ngoài tình trạng sinh lý, bệnh lý của tạng phủ trong cơ thể. Thần còn thì sống, thần kém thì bệnh tật, thần mất thì chết. Tinh và khí là cơ sở vật chất của thần. Khi khí huyết thịnh vượng, lục phủ ngũ tạng điều hòa thì tinh thần sung túc. Quan hệ giữa tinh, khí, thần rất chặt chẽ để duy trì sự sống: Sinh mệnh con người bắt nguồn từ tinh, duy trì sinh mệnh là nhờ khí còn làm chủ sinh mệnh là nhò thần trong khi đó tinh lại là cơ sở vật chất của thần và thần là biểu hiện của khí. Sự thịnh suy của tinh khí thần quan hệ tối sự mạnh yếu, mất còn của đời sống con người. 3. NGỦ TẠNG:Tạng là đặc, tàng chứa và chuyển hóa tinh, khí, thần, huyết,tândịch. 3.1. T ạng tâm Tạng tâm đứng đầu các tạng, có tâm bào lạc bảo vệ bên ngoài. 3.1.1. Tâm tàng thần, có ch ứ c n ă n g ch ủ vê thần chí Kinh văn 8 trong Nội kinh nói rằng: ngũ tạng sở tàng, tâm tàng thần, phế tàng phách, can tàng hồn, tỳ tàng ý và thận tàng chí. Thần chí là các hoạt động về tinh thần, tư duy. Tinh và huyết là cơ sở hoạt động của tinh thần, tinh sinh huyết, tâm chủ huyết nên tâm chủ về thần chí, mặt khác tâm là nơi thần cư trú, vì vậy nói tâm tàng thần. Đường Dung Xuyên nói: Thần được sinh ra từ tinh khí của thận, nó lên trên qui vào tâm, hỢp thành quẻ Ly, giữa quẻ Ly chứa một hào âm thuộc khảm thủy, nhờ âm tinh ỏ trong và hào dương bảo vệ bên ngoài mà hỏa khí do tâm tàng ẩn mối chiếu sáng rực rỡ để con người mới có thể tiếp xúc với vạn vật, nói khác đi, thần chính là tâm hỏa 73 đắc được thận thủy, đó là thủy hỏa ký tê làm cho tâm xuất ra được thần minh, vì thê gọi là tâm tàng thần. Khảm Quẻ Ly Quẻ Khảm Quẻ Thủy Hỏa Ký Tế Khi tâm khí và tâm huyết đầy đủ thì tinh thần sáng suốt, tỉnh táo, tâm huyết không đầy đủ thì xuất hiện chứng hồi hộp, mất ngủ, hay quên. Tâm huyết có nhiệt thì mê sảng, vv... 3.1.2. Tâm ch ủ về huyết m ach, biểu hiên ra mặt Tâm khí thúc đẩy huyết dịch trong mạch đi nuôi dưỡng toàn thân, nếu tâm khí đầy đủ thì huyết dịch vận hành không ngừng, cơ thể được nuôi dưỡng tôt, biểu hiện nét mặt hồng hào tươi nhuận, trái lại khi tâm khí giảm sút, sự cung cấp huyết kém thì sắc mặt xanh xao, nếu huyết trệ gây chứng ứ huyết, mạch sáp, kết w .. 3.1.3. Tăm khai khiếu ra lưỡi Biệt lạc của tâm thông ra lưổi mang khí huyết ra lưỡi để duy trì hoạt động của chất lưỡi. Khi xem lưỡi mà thấy chất lưỡi đỏ là tám nhiệt, chất lưỡi nhạt là tâm huyết hư, chất lưỡi xanh có điểm ứ huyết là tâm huyết ứ trệ v.v... 3.1.4. Tăm bào lac Là tổ chức bên ngoài của tâm để bảo vệ tâm khí, không cho tà khí xâm nhập vào tâm. Trên lâm sàng, các triệu chứng bệnh của tâm và tâm bào giốhg nhau như trong bệnh truyền nhiễm có sốt thuộc ôn bệnh có chứng hôn mê được gọi là nhiệt nhập tâm bào giống như chứng hôn mê của tâm nhiệt. 3.1.5. Tâm hỏa sinh tỳ thổ, khắc p h ế kim và quan hê biểu lý vôi tiểu trường 3.2. Tạng can: Tạng can đóng vai trò như thừa tướng trong cơ thể: Can là tướng phó chi quan. 3.2.1. Can tàng hồn, ch ủ vê tàng huyết Tàng huyết là tàng trữ và điều tiết lượng máu trong cơ thể, lúc nghỉ ngơi hoặc ngủ thì nhu cầu về máu ít, máu được tàng trữ tại can, trái lại lúc hoạt động, nhu cầu về năng lượng của cơ thể cao can lại bài xuất một khối lượng lốn máu dự trữ để đáp ứng kịp thời. Chức năng tàng huyết của can bị rối loạn sẽ ảnh hưởng tới các tạng phủ và sinh ra các triệu chứng như: - Can huyết không đầy đủ gây ra hoa mắt, chóng mặt, chân tay co quắp, kinh nguyệt ít, có thể thấy bế kinh. 74 - Can khí súc động làm huyết đi lạc đường có thể thấy các hiện tượng xuất huyêt như nôn ra máu, chảy máu cam, băng huyết, rong huyết v.v... Hồn là tinh khí của dương, là phần linh của khí. Trong con người khí thuộc dương, huyết thuộc âm. Dương mà không có âm thì không có chỗ dựa, khí mà không có huyết thì không giữ lại được. Can chủ huyết mà bêh trong hàm chứa dương khí, đó gọi là hồn. Ban ngày hoặc lúc thức hồn từ can ra mắt nên chúng ta nhìn thấy sự vật, ban đêm hoặc lúc ngủ hồn quay về can, con người đi vào giấc ngủ yên. Khi hồn không an thì nhiều mộng, hồn không mạnh thì con người nhút nhát, khi quá hoảng sỢ thì hồn xiêu phách lạc. Trong sử dụng dược vật để điều trị, người ta chú ý tới nguyên lý đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu như hổ phách là nhựa của rễ cây thông, nhựa là dương mà nằm trong rễ cây trong đất, đó là dương trong âm, hồn là dương nằm trong can huyết, đó cũng là dương trong âm, hai thứ này cùng hoàn cảnh như nhau nên tìm đến vói nhau, vì vậy cổ nhân đã dùng hổ phách để chữa những bệnh hồn xiêu phách lạc nhằm an hồn định phách. 3.2.2. Can ch ủ về sơ tiết Sơ tiêt là làm tản ra, không cho khí dồn nén lại vào một chỗ, người ta còn gọi đó là sự điều đạt, sự sơ tiết của can giúp cho các khí của tạng phủ được vận hành dễ dàng, thông suốt, thăng giáng điều hòa. Khi sơ tiêt kém sẽ có những biểu hiện về tình chí như gây uất kết hay hưng phấn quá độ, Khi can khí uất kết có biểu hiện ngực sườn đầy tức, u uất, suy nghĩ, thỏ dài, kinh nguyệt không đều, thống kinh, can khí xung thịnh gây cáu gắt, hoa mắt, chóng mặt, ù tai v.v... Biểu hiện về tiêu hóa như sự sơ tiết kém của can ảnh hưởng tới sự thăng giáng của tỳ vị, nếu can khí uất kết hay can khí hoành nghịch có thể xuất hiện triệu chứng đau mạng sườn, đau thượng vỊ, ăn kém, ợ hơi, ợ chua, ỉa chảy gọi là chứng can tỳ bất hòa hay can khí phạm vị. 3.2.3. Can ch ủ cân, vinh n h u â n ra m óng chân, m óng tay Cân là gân, là màng, mạc, thường ở nơi các khớp, đầu và cúốl các cơ phụ trách việc vận động. Can huyết nuôi dưỡng cân nên khi can huyết đậy đủ thì vận động tốt, trái lại khi can huyết hư thì gầy chứng tê bại, chân tay run, co quắp, teo cơ, cứng khốp V . V ... Móng tay, móng chân là chỗ thừa của cân mạch, nó phản ảnh tình trạng của can huyết, nếu can huyết tốt thì móng tay móng chân hồng nhuận còn khi can huyết hư thì móng tay móng chân nhợt tái, giòn, dễ gẫy hoặc bị uốn khum. 3.2.4. Can kh ai k h iếu ra mắt Tinh khí của ngũ tạng thông qua huyết dịch đều đi lên mắt nhưng chủ yếu do tạng can vì can tàng huyết và kinh can có đường đi trực tiếp lên mắt. Xem mắt có thể biết tình tạng hư thực của can: - Khi can khí thực do phong nhiệt gây chứng mắt đỏ, sưng, đau. 75 - Can huyết hư gây quáng gà, giảm thị lực. - Can phong nội động gây mắt lác, miệng méo. 3.2.5. Can môc sin h tăm hỏa, khắc tỳ th ổ và q u a n hê biểu lý với Đởm. 3.3. Tạng tỳ 3.3.1. T a n g tỳ nằm ở tru n g tiêu, ch ủ về vận hóa a. Tỳ chủ vận hóa đ ồ ăn Tỳ có chức năng tiêu hóa, hấp thu và vận chuyển chất dinh dưỡng của đồ ăn. Chất dinh dưỡng được tỳ hấp thu đưa lên phế, phế đưa vào tâm mạch để huyết đem đi nuôi dưỡng toàn thân. Quá trình này được gọi là sự kiện vận cũng tương tự như sinh lý tiêu hóa trong y học hiện đại. Tỳ kiện vận tốt thì cơ thể đủ chất dinh dưỡng, khỏe mạnh, trái lại khi tỳ mất kiện vận sẽ gây chứng rối loạn tiêu hóa, ăn kém, ỉa chảy, mỏi mệt, gày sút b. Tỳ chủ vận hóa thủy thấp Tỳ đưa nước đến nuôi dưỡng các tổ chức, sau đó chuyển xuốhg thận, ra bềmg quang rồi bài tiết ra ngoài. Quá trình này nhò sự vận hóa thủy thấp của tỳ, sự thông điều thủy đạo, tuyên phát và túc giáng của phế và sự khí hóa bàng quang của thận Người ta gọi quá trình này là sự đại tạ nước trong cơ thể con người. Khi sự đại tạ kém sẽ gây chứng đàm ẩm làm nước tràn ra tứ chi gây phù thũng, xuống đại trường gây ỉa chảy, đến khoang bụng gây cổ chướng V . V .. Chính vì chức năng của tỳ là vận hóa thủy thấp nên khi thấp nhiều quá khiến tỳ làm việc quá sức, lúc này người ta gọi là thấp khôn tỳ, cũng chính vì thế tỳ ưa táo ghét thấp còn vị thì ưa thấp ghét táo, cứ khi nào dạ dày trống rỗng là vị kêu gọi đưa thức ăn vào. Tính của tỳ đưa lên, tính của vỊ đưa xuông nên cổ nhân nói; Tỳ lấy thăng làm thuận, vị lấy giáng làm hòa. Nếu tỳ không thăng lên được sẽ sinh chứng tỳ hư hạ hãm như sa sinh dục, sa trực tràng, trĩ, nếu vị không giáng được sẽ sinh chứng nôn nấc. 3.3.2. Tỳ tàng ý Tâm hỏa sinh tỳ thổ, vì thê ý tàng chứa nơi tỳ, ý là ý tưỏng của con người ta, nó là sản phẩm của tinh thần và tư duy. Tâm tàng thần nên khi tâm hỏa hóa vào tỳ thổ thì tinh thần cũng đi theo và được cất giữ tại tỳ. Theo Hà đồ, Tỳ thổ nằm giữa coi sóc 4 phương cho nên có ký ức (còn gọi là nhố), biết vận hành nên hay tư lự, vận hành thì có lúc nhanh lúc chậm, lúc tiến lúc thoái nên cần xét đoán, tư lự là không quyết đoán nên mối cần đến chức năng quyết đoán của phủ đởm mà sau này chúng ta sẽ nghiên cứu sau. Khi tỳ dương bất túc thì tư lự bị hạn chế, khi tỳ âm bất túc thì ký ức kém. 3.3.3. Tỳ ch ủ về thống huyết Thống huyết nghĩa là nhiếp huyết, quản lý huyết, khốhg chế huyết. Sự kiện vận đồ ăn là nguồn gốc sinh ra khí huyết. Tỳ không những sinh ra huyết mà 76 còn tham gia quản lý huyết, tỳ khí mạnh thì huyết sẽ đi trong mạch mà nuôi cơ thể, khi tỳ khí hư không thống được huyết, huyết sẽ ra ngoài mà gây chứng xuất huyết như rong huyết, đại tiện ra máu V . V ... 3.3.4. Tỳ ch ủ vê cơ nh ục, ch ủ về tay ch â n Tỳ đem các chất dinh dưỡng đi nuôi cơ nhục, nếu tỳ khí mạrih thì cơ nhục rắn chắc, tứ chi nhẹ nhàng linh hoạt, trái lại tỳ khí yếu sẽ làm cơ nhục teo nhẽo, trương lực cơ giảm, tứ chi mệt mỏi, gây các chứng sa như sa sinh dục, trì, v.v... 3.3.5. Tỳ khai khiếu ra m iêng, vinh n h u ậ n ra môi Khai khiếu ra miệng là nói về khẩu vị, tỳ khỏe thì ăn ngon, tỳ hư thì chán ăn, miệng nhạt. Tỳ và vị có quan hệ biểu lý vâi nhau, kinh mạch của vị đi vòng quanh môi, vì vậy xem môi miệng có thể đoán biết được tình trạng bệnh lý của tỳ vị. Tỳ tốt thì môi hồng tươi nhuận, tỳ hư thì môi khô, nứt nẻ, vàng úa không tươi. 3.3.6. Tỳ thổ sinh phê kim, khắc thận thủy và quan hệ biểu lý với vị. 3.4 Tạng phế Phế là tưống phó chi quan nghĩa là phế giữ vai trò như thừa tưống, quan trọng sau tâm. 3.4.1. P hê chủ khí, ch ủ hô hấp Phê có nhiệm vụ hít oxy vào để cung cấp dưỡng khí cho cơ thể và thải ra carbonic là sản phẩm thừa sau quá trình oxy hóa bằng cách thở ra. Quá trình hít vào gọi là hấp, quá trình thở ra gọi là hô, quá trình này do phê thực hiện nên gọi là phế chủ hô hấp. Tông khí là khí tròi do phê hít vào kết hỢp với khí của đồ ăn, được đưa vào tâm mạch đi nuôi cơ thể, do vậy phê có vai trò làm chủ khí. Nếu phê khí tốt thì hơi thở điều hòa, còn phê khí hư thì xuất hiện khó thỏ, thở nhanh, mệt mỏi, tiếng nói nhỏ. Tông khí là nguồn gốc của khí toàn thân nên phê không những chủ vê hô hấp mà toàn bộ khí của cơ thể đều do phê làm chủ 3.4.2. P h ế trơ tàm, ch ủ viềc tri tiết Trị tiết là việc quản lý rõ ràng, rành mạch việc điều tiết mọi công việc, sở dĩ các hoạt động của tạng phủ được theo các qui luật nhất định là vì có vai trò trị tiêt của phế, tuy tâm là vua, có là chủ thần minh chăng nữa thì phê giữ vai trò như thủ tướng chính phủ, như giám đôc điều hành. Tâm chủ huyết, phê chủ khí. Khí đẩy huyết đi, huyết đi kéo khí đi theo làm cho sự tuần hoàn được thông suốt. 3.4.3. P hê ch ủ tuyên p h á t và túc g iá n g Tuyên là đưa ra, phát là chuyển đi khắp nơi. Sự tuyên phát của phê là thúc đẩy khí huyết, tân dịch thông qua rãnh ngòi của tam tiêu đi khắp cơ thể, bên trong thì vào tạng phủ, kinh lạc, bên ngoài ra bì mao, cơ nhục. Sự tuyên phát của phê còn gọi là tuyên phế, nếu phê khí không tuyên sẽ gây các triệu chứng như tức ngực, khó thở. 77 Túc là chân, giáng là đưa xuông, phê chủ túc giáng là phế chủ về việc đưa phế khí đi xuông, nếu phê khí đi xuống là thuận, nếu phê khí nghịch lên sẽ uất tại phế gây các triệu chứng khó thở, hen suyễn. 3.4.4. P h ế tàng p h á ch Can tàng hồn, phế tàng phách. Hồn là dương, phách là âm, phách là nơi trú ngụ của hồn, khi hồn lìa khỏi phách cũng là lúc mệnh môn tắt. Đây là quan niệm theo YHCT mà chưa thể kiểm chứng theo YHHĐ, nhưng trong những trường hỢp ghép tạng hay ghép các chi, một số cũng có cảm giác như là một người khác, điều này có thể là sự tiếp nhận một bộ gen của người khác giốhg như hồn Trương Ba mà da hàng thịt hay không? Trương Chí Thông cho rằng cái gì xuất ra một lúc với tinh thì gọi là phách, phách chính là âm tinh sinh ra mà phế là tạng âm nên phế tàng phách. 3.4.5. P h ế chủ bì mao, thông điều thủy dạo Bì mao là da, lông, tuyến mồ hôi, nhờ tác dụng tuyên phát thông qua vệ khí nên phế đem các chất dinh dưỡng đến nuôi bì mao, vì vậy khi phế có bệnh, vệ khí kém thì có bệnh ở biểu hoặc khi ở biểu bị tổn thương thì đều ảnh hưởng tối phê khí và vệ khí, xuất hiện các chứng bệnh của vệ khí và phê như ngoại cảm phong hàn, sỢ gió, sỢ lạnh. Phế khí hư kém sẽ không tuyên phát được ra bì mao nên da lông khô sáp làm cho chức năng bảo vệ của da lông sút kém. Nhò tác dụng tuyên phát và túc giáng nên phê có chức năng thông điều thủy đạo có nghĩa là khơi thông đường nước. Trong cơ thể, nưốc được bài tiết theo nhiều con đường như, mồ hôi, phân, thở nhưng nhiều nhất vẫn là đi tiểu. Quá trình đại tạ nước trong cơ thể, phê khí có túc giáng thì nước mối xuốhg bàng quang được, vì vậy tiểu tiện có lợi hay không là có quan hệ vối công năng túc giáng của phế. Trên lâm sàng, bệnh phù thũng do phong thủy hay còn gọi là viêm cầu thận cấp do lạnh được chữa bằng phương pháp tuyên phế lợi niệu. 3.4.6. P h ế khai khiếu ra m ủi, thông với hong, ch ủ về tiếng nói Những nhận xét này như một tất nhiên, mũi là nơi hít thỏ. Ngạt mũi thì khó thở, không ngửi thấy mùi, khó thở thì cánh mũi phập phồng, chảy nước mũi. Mũi thông với phê nên mọi thay đổi tốt xấu nơi phê đều biểu hiện ra ở mũi, vì vây khi có bệnh thì phải tuyên thông phê khí. Phê còn thông với họng và mũi. Tiếng nói là do không khí dao động qua dây âm thanh trong họng, khi phê có bệnh như viêm họng, viêm phổi, viêm phế quản có thể làm viêm, phù nề dây thanh âm làm cho đau họng, nói khàn và mất tiếng. 3.4.7. P h ê kìm sinh thận thủy, khắc can mộc và có quan hệ biểu lý với đại trường. 3.5. T ạng th ận Tạng thận là một tạng quan trọng không kém gì tạng tâm. Tâm là quân chủ, là thượng tầng kiến trúc. Thận là gổc của sinh mệnh, là khởi thủy của con người, là hạ tầng cơ sỏ. Sự thịnh suy của thận quyết định tối vai trò quân chủ 78 của tâm. Cái lý của ngũ hành là tương sinh, tương chế. Chê thì sinh hóa: Tâm thuộc hỏa tạng mà bị chê bởi thận thủy. Đây chính là thận đóng vai trò chủ đạo cho sự sinh hóa của tâm. Tâm thuộc ly hỏa, hào âm trong quẻ ly hàm chứa thủy của quẻ khảm. Quẻ Ly Tâm sở dĩ sinh huyết là nhò thủy đến giao vối hỏa, chỉ khi nào thủy tê được hỏa thì công dụng của hỏa mối thành. Thận là tạng thuộc thủy, chủ về tiên thiên. Trong thận thủy có một hào dương của quẻ khảm, đó chính là mệnh môn hỏa, mệnh môn hỏa làm cho nưốc không đóng băng. Thủy ở đây không hiểu là nước đơn thuần, nó là thứ nước đặc biệt, là một vật chất đặc biệt, thủy là vạn vật chi nguyên, là cái mở đầu cho tất cả. Thận thủy chứa âm tinh, tinh tụ lại thành hình, thành chất, hỏa là dương động mà tạo thành khí, con người chia làm 2 phần; Hình chất thuộc âm sinh ra hình thể, phần khí thuộc dương sinh ra công dụng. Mệnh môn hỏa là hào dương trong quẻ khảm và nó cũng chính là thận dương, vì vậy khi thận dương hư thì mệnh môn hỏa suy. Quẻ Khảm Mệnh môn hỏa trong thận là một thứ khí vô hình, nó gần giống như nguồn năng lượng trong cơ thể, ăn uốhg cung cấp chất dinh dưỡng như chất đường, chất đạm, chất béo, các chất này cung cấp năng lượng cho sự hoạt động của cơ thể. Tim đưa máu đi khắp nơi, hỏa trong tim lại được mệnh môn hỏa trong thận thủy cung cấp. Đó là mối quan hệ tâm truyền đạt xuốhg dưối còn thận thì vận dụng lên trên. Vì vậy sức nóng 37 độ c chính là mệnh môn hỏa và khi mệnh môn hỏa tắt thì đời người chỉ như một đống tro tàn mà thôi. — — Thận vặn dụng Ị\ Tâm truyền đạt lên trên J xuống đưỡi Sơ đồ mối quan hệ thủy hỏa ký tê hay là tâm thận tương giao 3.5.1. T hận tàng tinh, ch ủ vê sin h du c và p h á t du c của cơ thê Thận thì có thận âm thận dương, thận tinh thận khí. Thận tinh gồm có tinh tiên thiên và tinh hậu thiên được tàng trữ tại thận. Tinh biến thành khí nên có thận khí. Thận tinh còn gọi là thận âm, nguyên âm, chân âm. 79