🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tuyệt Thực Đi Về Đâu? Ebooks Nhóm Zalo Thái Khắc Lễ, Phạm Thị Ngọc Trâm biên soạn TUYỆT THỰC ĐI VỀ ĐÂU? (Nhịn ăn, chữa bệnh, hồi xuân) TỦ SÁCH Y ĐẠO PHƯƠNG ĐÔNG Nguồn sách scan: huynhdoan2000 (TVE) OCR: 4DHN Soát lỗi: superlazy Đóng gói eBook: 4DHN Ngày hoàn thành: 19-8-2015 Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com MỤC LỤC NHẬP ĐỀ THAY LỜI TỰA AI KHÔNG ĐƯỢC NHỊN ĐÓI? NHỊN ĂN - QUÁ TRÌNH THANH LỌC TỰ NHIÊN CỦA CƠ THỂ ĐỂ PHÒNG VÀ CHỮA BỆNH PHẦN I THÀNH KIẾN VỀ PHƯƠNG PHÁP NHỊN ĂN I. NHỊN ĂN VÀ PHƯƠNG PHÁP OHSAWA II. NHỮNG LỜI BÀI BÁC VỀ PHÉP NHỊN ĂN III. SỰ CHẾT CHÓC TRONG LÚC NHỊN ĂN IV. NHỊN ĂN KHÔNG PHẢI LÀ CHẾT ĐÓI PHẦN II NHỊN ĂN ĐỐI VỚI THIÊN NHIÊN VÀ KHOA HỌC I. NHỊN ĂN CỦA LOÀI VẬT II. NHỊN ĂN VỚI CON NGƯỜI III. TRẠNG THÁI TỰ PHÂN IV. NHỮNG BIẾN CẢI HOÁ HỌC VÀ TỔ CHỨC NƠI CƠ THỂ TRONG LÚC NHỊN ĂN V. SỰ THAY ĐỔI NHỮNG CƠ NĂNG CĂN BẢN CỦA CƠ THỂ TRONG THỜI KỲ NHỊN ĂN VI. NỘI TIẾT VÀ BÀI TIẾT VII. HOẠT ĐỘNG CỦA RUỘT PHẦN III NHỊN ĂN VỚI SỰ CẢI TẠO THỂ CHẤT VÀ TINH THẦN CON NGƯỜI I. SỰ BÌNH PHỤC CỦA CÁC CƠ QUAN VÀ CÁC MÔ TRONG LÚC NHỊN ĂN II. ẢNH HƯỞNG CỦA SỰ NHỊN ĂN TRONG VIỆC NẢY NỞ VÀ CẢI TẠO CHUNG CHO CƠ THỂ III. SỰ CẢI THIỆN TINH THẦN VÀ GIÁC QUAN TRONG LÚC NHỊN ĂN IV. SỰ TĂNG VÀ GIẢM SỨC MẠNH TRONG LÚC NHỊN ĂN V. THÊM VÀ SỤT CÂN TRONG LÚC NHỊN ĂN VI. NHỊN ĂN VỚI VẤN ĐỀ TÌNH DỤC VÀ SẢN DỤC PHẦN IV NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT TRONG LÚC THỰC HÀNH PHÉP NHỊN ĂN I. TRIỆU CHỨNG HỌC TRONG PHÉP NHỊN ĂN II. NHỮNG BIẾN CHỨNG CÓ THỂ XẢY RA TRONG THỜI GIAN NHỊN ĂN III. NHỊN ĂN TRONG CÁC BỆNH CẤP TÍNH IV. PHÉP NHỊN ĂN TRONG CÁC BỆNH KINH NIÊN VÀ CÁC CHỨNG NGHIỆN CHẤT ĐỘC V. NHỊN ĂN ĐỐI VỚI KHÍ CHẤT VÀ TÌNH TRẠNG SỨC KHOẺ CỦA MỖI NGƯỜI VI. NHỮNG TRƯỜNG HỢP PHẢI THẬN TRỌNG TRONG LÚC ÁP DỤNG PHÉP NHỊN ĂN VII. VỆ SINH TRONG LÚC NHỊN ĂN VIII. THỜI GIAN NHỊN ĂN IX. CHẤM DỨT THỜI KỲ NHỊN ĂN X. MƯỜI ĐIỀU TÂM NIỆM CỦA NGƯỜI TUYỆT THỰC NHỊN ĂN VÀ HỒI XUÂN NHỮNG NGƯỜI NÀO DỰ ĐỊNH NHỊN ĂN LẦN ĐẦU CẦN PHẢI ĐẶC BIỆT CHÚ Ý: NHỮNG ĐIỀU KHÔNG NÊN QUÊN NHỮNG TRƯỜNG HỢP NHỊN ĂN CỤ THỂ KẾT LUẬN PHỤ LỤC I: ĂN UỐNG THEO NGUYÊN LÝ ÂM - DƯƠNG CỦA GIÁO SƯ OHSAWA 1. TÓM LƯỢC CÁCH ĂN THEO NGUYÊN LÝ ÂM DƯƠNG CỦA GIÁO SƯ OHSAWA 2. NHỮNG PHẢN ỨNG CÓ THỂ XẢY RA LÚC MỚI BẮT ĐẦU ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP OHSAWA 3. BẢY CÁCH ĂN UỐNG THEO TỶ LỆ QUÂN BÌNH ÂM/DƯƠNG = 5/1 CỦA PHƯƠNG PHÁP OHSAWA I. NHỮNG SAI LẦM THƯỜNG MẮC PHẢI TRONG PHÉP ĂN UỐNG THEO PHƯƠNG PHÁP OHSAWA II. VÀI SỰ BẮT BẺ THÔNG THƯỜNG LIÊN QUAN ĐẾN PHÉP ĂN UỐNG NÀY KẾT LUẬN PHỤ LỤC PHỤ LỤC II. PHÂN LOẠI CÁC THỨ BỆNH VÀ THỜI GIAN CHỮA LÀNH PHỤ LỤC III: QUAN HỆ CỦA NHAI KỸ THỨC ĂN PHỤ LỤC IV. NHỊN ĂN THEO YOGA NHỊN ĂN THEO CÁC TUẦN TRĂNG - EKADASHI THỨC ĂN VÀ SỰ CHỌN LỰA 1. Lực tri giác và các thức ăn tri giác: 2. Lực biến dịch và thức ăn biến dịch: NHẬP ĐỀ Lần đầu tiên tôi đọc quyển sách “Tuyệt thực đi về đâu” của Thái Khắc Lễ vào năm 1983, tôi đã bị hấp dẫn lạ kỳ bởi tên gọi của quyển sách và cái hình người dơ xương kinh khủng ngay ở trang bìa, đó chính là bức tượng “nhịn ăn mà mặc” mà bạn có thể nhận ra dễ dàng nếu bạn đã từng đi thăm quan nhiều chùa chiền. Tôi đã đọc quyển sách với nhiều tò mò và hứng thú, đồng thời tôi hoàn toàn bị chinh phục bởi lập luận khoa học và đã sáng tỏ nhiều điều trong cuộc sống. Đọc xong, tôi thích nhịn ăn ngay, nhưng cái mồm thì gì cũng muốn ăn, mới hay hoá ra muốn và khả năng thực hiện được ước muốn lại là một vấn đề khác nữa. Hai năm sau, trường tôi dạy học, giáo viên thay nhau đau mắt đỏ. Mọi người thi nhau xông lá dâu, và uống thuốc kháng sinh... Đến lượt tôi cũng bị lây bệnh, thấy không muốn ăn, tôi chớp lấy cơ hội quí báu để thực hiện tâm nguyện ngày nào, tôi quyết định nhịn một đợt 7 ngày xem sao. Thời gian đó Hà nội hầu như chưa có ai thực hiện nhịn ăn chữa bệnh bao giờ. Đây là một lối chữa bệnh theo thiên nhiên mà một số nước phương Tây đã tái khám phá lại. Đó là một cách tự chữa bệnh theo tự nhiên thoạt nhìn có vẻ kỳ lạ nhưng hợp Logic, theo cổ truyền và đặc biệt là bắt chước các con vật khi chúng bị bệnh. Đây là cách chữa mới lạ đối với người dân Hà Nội lúc bấy giờ. Thường thì dân chúng tự động tự giác áp dụng theo kinh nghiệm sách chỉ bày khi đã bí hết cách chữa, hoặc có ai đã từng nhịn thì hỏi thêm kinh nghiệm. Tôi biết có anh Hoàng Thái cũng đã từng nhịn ăn, nên nhờ bố tôi cùng anh Thái tới thăm trong thời gian nhịn ăn ngay tại trường tôi dạy, đó là trường Văn hoá của Bộ Tư lệnh Thông Tin, trường đóng bên Gia Lâm, Hà Nội. Hai người đạp xe hơn chục cây số tới thăm để động viên tinh thần, giúp tôi thêm tự tin thì đúng hơn. Tôi theo dõi mọi triệu chứng bản thân từng ngày. Vì không ăn nên càng bớt phân tán tâm trí bởi đi chợ, nấu nướng và ăn... thế là bớt được 3 khoản đó, giải phóng tâm trí để cơ thể khỏi bị tiêu hao năng lượng. Thông thường người ta chỉ thấy nhịn ăn, nghĩa là không có gì vào bụng thì chết đói, đói ai chịu được, đói thì chết mất... Không ai thấy được nếu không ăn thì cơ thể, nhất là hệ thống tiêu hoá được nghỉ ngơi một chút, cơ thể sẽ không mất đi một số năng lượng để tiêu hoá thức ăn! Đó là lý do giải thích được vì sao một số người nhịn ăn thì thấy khoẻ ra. Phần lớn chúng ta đều nhầm tưởng rằng để tiêu hoá thức ăn (mà bạn lại ăn toàn những thứ khó tiêu), thì cơ thể chỉ có được thêm năng lượng hay calo, mà không mất tí năng lượng nào để tiêu hoá chúng? Bạn chỉ có ĐƯỢC qua ăn mà không có MẤT gì qua ăn sao? Chúng ta thường nhầm lẫn ở chỗ này, nhất là khi cơ thể bị bệnh nặng, bị táo bón hay ỉa chảy, buồn đau hay tức giận... thì ăn vào chỉ có hại hơn là có lợi. Giải pháp cho những vấn đề này là gì, có nhất thiết cứ phải là nhịn ăn? Xin bạn kiên nhẫn đọc hết quyển sách này, rồi lời giải đáp là tuỳ cơ ứng biến của từng cá nhân. Sau đợt nhịn ăn thành công trên cả hai lĩnh vực thể chất và tinh thần, mắt tôi khỏi trong thời gian bằng với những người uống thuốc kháng sinh, như thế là khả năng miễn dịch tự nhiên trong cơ thể của tôi không bị suy giảm bởi sự lệ thuộc vào thuốc, là thứ tôi biết sau khi uống sẽ ít nhiều để lại hậu quả phụ, làm cho các men vi sinh tốt trong ruột bị huỷ diệt và chắc chắn nó làm suy giảm hệ thống miễn dịch tự nhiên của cơ thể. Đã thế trong khi nhịn ăn tôi còn biết tôi bị xoang và viêm họng vì tự nhiên cùng lúc nhịn ăn thì tôi khạc ra không biết bao nhiêu đờm (?), là thứ bệnh tiềm ẩn chưa xuất đầu lộ diện. Tại sao tôi khẳng định nhịn ăn thành công cả trên lĩnh vực tinh thần? Đây là một kỷ niệm khó quên, tôi xin trình bày lại: Ngày nhịn thứ năm, anh hiệu phó cùng dạy toán rất quí tôi và cũng bắt đầu lo thế nào, vì tôi sống và làm việc ngay tại trường; nhà tôi ở nội thành đi lại xa, nên tôi ở lại ngay trong phòng làm việc, trường bố trí chắn riêng cho tôi một chỗ ở. Tối hôm đó anh hiệu phó đã đến thăm tôi và chúng tôi mang ghế ra ngồi giữa sân trường tranh luận nhau. Anh hiệu phó tên là Phạm Phú Nhân, là một người thông minh, đạo đức và làm thơ có nhiều bài đăng báo khá là hay. Tôi thường chẳng bao giờ thắng anh về lý luận. Nói theo ngôn ngữ dân gian là tôi thường thua cơ anh mỗi khi anh muốn bắt nạt tôi một tẹo. Thế mà tối đó không hiểu sao bỗng dưng tôi lại sáng suốt hẳn ra trong khi tranh luận với anh, làm anh thua cơ và hơi bực bực vì cho là tôi cũng thuộc loại ương gàn khó bảo. Anh làm sao thuyết phục nổi tôi lúc đó đang trong những ngày cuối đợt nhịn ăn mà tôi thấy rất tuyệt vời, nhất là thêm một bằng chứng hùng hồn là lần đầu tôi cãi lại được anh, tôi còn đủ hơi để tranh luận với anh trong ngày nhịn ăn thứ năm, nhịn tuyệt đối chỉ uống nước nóng bằng nhiệt độ cơ thể. Mãi sau này, khi đọc kỹ những tài liệu của GS. OHSAWA nói là trong khi bạn định tranh luận với ai, mà người ta chớp mắt sau bạn thì bạn hãy êm ái rút lui là vừa, vì nếu không bạn không bao giờ thắng nổi lý lẽ của họ. Hoá ra các chức năng trong cơ thể hoàn toàn liên quan tới nhân cách và thông minh của người đó. GS còn nhắc lại kinh nghiệm cổ là trước khi đi thuyết giảng hay hùng biện về đề tài nào, các nhà hùng biện xưa thường nhịn ăn trước khi lên bục hùng hồn, vì người xưa bảo là: Cái bụng trống thì cái đầu đầy. GS OHSAWA tuyên bố: “May hay rủi, hạnh phúc hay đau khổ, thọ hay yểu, thông minh hay đần độn, xấu hay đẹp, thiện hay ác, tất cả đều do ăn uống mà ra. Khi hiểu rõ điều này, ta thấy rằng con người không hẳn là tốt hay xấu mà chỉ có cách ăn uống tốt hay xấu đã tạo ra con người họ”. Khi bắt đầu ăn lại miếng đầu tiên sau đợt nhịn ăn, húp tí nước cháo gạo lứt loãng... thì trời ơi! Như là lần đầu tiên trong đời tôi mới biết thế nào là miếng ăn ngon, mới biết thế nào là miếng ngon ở đời. Mấy hôm sau, ăn hạt lạc mà tôi thấy nó ngon ngọt như ăn kẹo, miếng cháo gạo lứt thấy ngon béo làm sao, như ăn thứ nước thịt xương tuỷ ninh nhừ mà trước đó mỗi lần mẹ tôi ninh nấu, khi ăn những thứ nước đó tôi cứ thấy hôi hôi ghê ghê cả người vì bổ béo khó tiêu. Tôi đã ăn cơm gạo lứt trước đó hai, ba năm, mà qua lần nhịn ăn cho tới khi ăn trở lại tôi mới tin sâu hơn vào giá trị dinh dưỡng của hạt gạo lứt bằng chính kinh nghiệm của bản thân, lúc này mọi sách vở để chứng minh giá trị dinh dưỡng của hạt gạo không còn cần thiết với tôi nữa. Nhờ nhịn ăn mà tôi thấy đức tin của tôi về hạt gạo lứt tăng trưởng, còn ngoài ra các cách chứng minh khác đối với tôi đều ít thuyết phục hơn. Chả thế mà nhà thơ Vương Từ đã làm bài thơ bất hủ, sau 49 ngày nhịn ăn của mình. Tôi cho rằng nếu không nhịn ăn dài ngày, không có kinh nghiệm thực chứng về nhịn ăn thì không thể nào viết những câu như thế: Hạt cơm to bằng núi Giọt nước ngọt cam lồ Lạ kỳ thay cái đói Rờ đụng cả hư vô. Vương Từ Sau đợt nhịn ăn, người tôi lấy lại dần sức khoẻ và một thời gian ngắn 1, 2 tháng sau người tôi béo khoẻ tươi tắn, mặc áo quần căng chật, nước da mỡ màng ai thấy cũng khen, nhưng chẳng ai để ý đến cách thử nghiệm nhịn ăn kỳ quái của tôi. Chỉ có một số đồng nghiệp bắt đầu xin thử miếng cơm lứt tôi nấu, để ăn thử và cũng khen à ơi chút chút vậy thôi. Vì đi qua nồi cơm lứt tôi nấu có cháy ngon bốc mùi thơm nức mũi không chịu được, xin ít ăn thử, chứ lòng dạ họ còn chung tình với thịt cá lắm, cho rằng thịt cá là ngon. Đồng nghiệp cho là tôi có tiền mà sao sống có vẻ khổ hạnh, tự đầy đọa xác thân. Họ chẳng để ý đến cái con người tôi mơn mởn thế sau đợt nhịn ăn, dám họ nghĩ tôi đang yêu hay đang được yêu và hàng ngàn nguyên nhân khác lắm. Nhưng tôi thì mặc kệ, vì tôi đã thực nghiệm nhịn ăn thành công mỹ mãn trên cơ thể mình, mà thiên hạ có đàm tiếu thì cũng thành ra gió thoảng mây bay hết. Còn niềm tin về giá trị nhịn ăn của tôi đã kiên cố, như bạn tin có mặt trời vậy. Nhiều năm sau tôi có thực hiện nhịn ăn vài đợt nữa, nhưng lần nhịn đầu tiên là ấn tượng nhất và sự chuyển hoá rõ nét nhất. So với những kinh nghiệm nhịn ăn trong sách thì trường hợp của tôi khá là khác thường: cứ sau mỗi đợt nhịn ăn, khi ăn lại ngày thứ hai, thứ ba là tôi lại đi tiểu ra thứ nước đái đục cặn, sánh lờ nhờ như một thứ bùn ở ven bờ sông Hồng, đi ra thứ nước như thế trong hai ngày, nó như vậy ở vào đoạn cuối của bãi nước tiểu. Nhờ kinh nghiệm đó mà tôi thấy sự nhịn ăn đối với tôi là cần thiết, nếu bố trí mỗi năm nhịn ăn một đợt 7 ngày thì tốt. Khi tôi đã biết nguyên nhân bệnh, dại gì mà tôi đưa thêm những thứ độc hại vào người, tôi cứ phanh từ từ chỉ ăn cơm lứt, còn các thức ăn tôi thích tôi cứ giữ nguyên, rồi bỏ dần dần. Khi tôi gặp được Đại tá Bác sĩ Lê Minh, và bác sĩ Đỗ Hoài Nam là những người đã hướng dẫn nhiều người nhịn ăn trên khắp đất nước thì tôi lại càng thêm củng cố về giá trị của nhịn ăn. Nhiều người nhịn ăn thành công, vài người thấy nhịn tốt thì hơi tí lại nhịn ăn, một số người khác nhịn không thành công... Vì những nguyên nhân này, tôi thấy chỉ có sách không thì không đủ mà còn cần cả những người có trình độ và kinh nghiệm nhiều năm theo dõi, và phải biết bệnh nào nên nhịn, bệnh nào không nên nhịn, bệnh nào nên ăn uống ra sao... Sách cung cấp kiến thức thì khá đầy đủ nhưng con số thống kê bệnh chuyển hoá và nhiều kinh nghiệm thực tế của bản thân và bạn hữu thì ít, và có một số nhận thức chưa tới nơi, nên tôi có ý định từ nhiều năm nay biên soạn lại quyển này để làm sáng tỏ thêm ra nhiều điều. Do vậy đưa vấn đề ra công khai, để tránh cho dân chúng áp dụng máy móc và kém hiệu quả khi dùng quyển “Tuyệt thực đi về đâu” là một việc làm cần thiết. Tôi đã tự mày mò tìm gặp nhiều người nhịn ăn trên khắp đất nước, thấy được cái hay dở khi áp dụng phương pháp này và có dịp phỏng vấn rất nhiều người nhịn ăn... Do vậy tôi đã mạnh dạn trình bày lại nội dung quyển sách với hàng chục trường hợp nhịn ăn làm ví dụ để bạn tiện học hỏi, chọn lọc với những người điển hình. Nhiều người nói đến nhịn ăn thì cảm thấy kinh khủng và không thể nhịn ăn được. Kinh khủng là vì nó đòi hỏi một số nghị lực, can đảm và hiểu biết nhất định, nó cần cho những người “cùng đường” và ưa phiêu lưu mạo hiểm. Tôi đã từng nhịn ăn nhiều lần, vài năm tôi nhịn ăn một lần, chỉ vì đã nếm hiệu quả kỳ diệu của sự nhịn ăn. Tôi thường chộp đúng lúc trong người có vấn đề nho nhỏ nào đó và điều đó giúp sự nhịn ăn dễ dàng hơn những lúc sung sức, ăn gì cũng thấy ngon và mau đói. Mùa xuân năm 2002 tôi nhịn được 8 ngày, 3 ngày đầu tiên thì bình thường khoẻ mạnh như không, chỉ hơi đói vào bữa ăn, tối vẫn làm mọi việc như thường và có khi còn làm nhiều hơn. Vì tôi ăn chay, nên việc nhịn ăn của tôi không có phản ứng là bao so với người ăn mặn. Sang ngày thứ 4, 5, 6 thì người mệt lả, những chỗ nào hơi đau hoặc không đau nay bỗng đau dội lên khó chịu làm sao, tôi thường nằm nhiều hơn. Trong khi tôi nhịn ăn, tôi được tin chú Phan Sỹ Thiệu (P6P2, khu tập thể Đại học Kinh tế Quốc dân, ĐT: 8692429), một người quen thân gia đình cũng đang nhịn ăn để chữa u ruột mà bệnh viện vừa phát hiện ra, biết tin tôi cũng đang nhịn, chú gọi điện thoại đến khuyên tôi hãy nhịn nhiều ngày cùng chú (sau này chú kể chú nhịn được 25 ngày và soi lại thấy u biến mất). Chiều ngày nhịn ăn thứ 6, có cô bạn gái cũng đã từng nhịn ăn, tên là Nguyễn Hương Thuỷ hiện là chủ một quán cơm chay, đến kể chuyện cười như là một sự ngẫu nhiên tình cờ, làm chúng tôi cười thôi rồi là cười. Tôi nằm nghe chuyện mà cười rũ người. Sau trận cười đó tôi thấy người khác hẳn, khoẻ hẳn ra và mọi sự đau đớn gần như tan biến. Buổi chiều còn lại, nằm dài trên giường một mình khoan khoái, nhẹ hễu... Mới hay, tôi còn phát hiện ra một cách chữa bệnh thần hiệu hơn cả nhịn ăn là “Liệu pháp Cười” và cười quan trọng đến như thế nào trong cuộc sống. Cười có thể làm cho người chết sống lại. Bạn tôi đã xuất hiện như một thiên thần, tiếng cười làm cho sinh lực như ở đâu trào lên. Thế là những ngày còn lại tôi nhịn ăn nhẹ nhàng như không. Tôi thường công phu toạ thiền, sáng tối tôi đều đọc kinh và cầu nguyện... thế mà trong thời kỳ nhịn ăn tôi thấy đầu óc trống trơn đến độ tôi không nghĩ tới một thứ gì xa xôi được. Từ chỗ tạp niệm nghĩ đủ thứ, mặc dù có thực hành tâm linh chu đáo, tới chỗ “nhất niệm”, đầu óc tôi chỉ nghĩ tới các món ăn! Nhịn ăn kỳ diệu làm sao, chẳng có cái gì chen vào giữa các món ăn mà tôi mường tượng trong đầu được nữa. Các món ăn tự dưng biến thành vị trí số 1 trong đầu óc của tôi. Còn nhớ GS. OHSAWA nói: “Hạnh phúc thay những người luôn luôn đói và khát”. Chẳng còn thứ gì hấp dẫn trên đời cho bằng các thức ăn! Từ chỗ tôi coi miếng ăn không có gì quan trọng đối với tôi, thì thức ăn trở thành số 1 - một sự đảo lộn về tất cả mọi thứ! Tôi nhớ ra những món ăn tôi đã quên bẵng. Trong đầu chỉ có ăn và ăn... 3 ngày cuối, nước lã đun sôi uống vào miệng sao mà nó ngọt, nước bọt cũng trở nên ngọt làm cho mồm tôi lúc nào cũng ngọt ngọt hơi khó chịu, vì tôi ghét của ngọt từ bé. Có cảm giác như cái bụng tôi trở thành tam giác Bermut, còn tất cả các thức ăn trên thế giới, nhất là rau củ, dù có chui tọt tất cả vào bụng tôi, cũng không làm cho tôi thoả mãn. Vì tôi ăn chay đã lâu, cho nên việc làm sạch cơ thể và truy quét nguồn bệnh tiềm ẩn chỉ sau chừng ấy ngày là cơ thể đã khá trong sạch và lành mạnh trở lại. Sau khi ăn lại ngày thứ 2 giống như những lần nhịn trước đây 3 năm, cuối bãi nước tiểu của tôi bao giờ cũng là một ít nước cặn đục làm cho việc đi tiểu hơi khó khăn. Khi ăn lại trong những ngày đầu, cơ thể vẫn trong đà đào thải chất độc mạnh, có cảm giác người như một con quay, quay tít, văng hết những chất không cần thiết ra ngoài, tiểu như vậy chừng 1, 2 lần thì nước tiểu trong lại bình thường, có lẽ cái đau lưng nhiều ở ngày thứ 4, 5 là để đào thải ra chất đục cặn nước tiểu chăng? Mới có 2 ngày ăn lại chút nước cháo loãng, người vẫn còn gầy còm mà môi tôi đã hồng bóng như đánh son, chẳng bù mấy hôm trước môi khô cong, má cũng thấy sắc hồng, và nước da rõ ràng được cải thiện, sờ lên mặt thấy da mềm mỏng như da em bé. Tôi gầy đi 6 kg, và trông vào gương thấy mình không còn ra hồn người, mắt trũng lồi ra, người tong teo thản nhiên vô tâm vô tư, đi lại nhẹ nhàng giống như cái bóng ma; nhưng có ai định trắc nghiệm về đầu óc nhận thức hay trình độ tâm linh của tôi thì thường là vui thích và ngạc nhiên, vì họ đã gặp một người bạn tự thấy lỗi mình nhiều hơn trước, và rất thích nghe nói về chủ đề ăn! Nhà thơ Vương Từ, một người đã từng nhịn ăn 49 ngày biết tin tôi nhịn ăn, email kể chuyện về nhịn ăn cho tôi: “Sự nhịn ăn sẽ đến giai đoạn trong veo, thuần khiết đến độ thân tâm bằng không, như có như không, chỉ có thể nói rất mầu nhiệm, mà cũng giản dị như nguyên tắc đòn bẩy, mà NHU ĐẠO, HIỆP KHÍ ĐẠO, THÁI CỰC QUYỀN... đã khéo léo ứng dụng như nguyên tắc một lạng chế ngàn cân.” Còn những người bạn tu Vô vi của tôi cũng email về khuyến khích tôi nhịn ăn thanh lọc bản thể, mới hay những người tu Vô vi có trình độ tâm linh cao. Một số người tu thiền và ăn chay ở Hà Nội, tu các môn phái khác có nhiều bệnh cũng không khỏi, phải nhờ đến nhịn ăn và ăn gạo lứt mới có chuyển biến tốt. Phải nói nhịn ăn có thể xếp vào bậc “vua” của mọi cách chữa bệnh thân và tâm. Bỗng nhiên tôi có khả năng cười dễ dàng về tất cả mọi thứ. Có thể nói nhịn ăn là làm cái không làm, là tin tưởng tuyệt đối ở thiên nhiên, ở cơ thể, và cơ thể nó cũng chứng minh cho ta thấy khả năng bất tận của nó về mọi chiều hướng. Bạn đã phụ bạc và đối xử bất công với cơ thể của bạn, chứ ngược lại cơ thể bạn không bao giờ phụ bạc và bất công đối với bạn. Và mặc dầu bạn có cư xử với cơ thể bạn thế nào, thì nó luôn là ân nhân của bạn, nhất là trong khi nhịn ăn. Khi bạn không cho nó ăn thì lúc đầu nó sẽ làm cho bạn lên bờ xuống ruộng vì trong giai đoạn đào thải chất độc do bạn chất lên mình nó, cuối cùng thì nó sẽ giải đáp cho bạn thấy là nó tử tế nhất! Nếu bạn kiên nhẫn với nó thì nó sẽ trả công bạn xứng đáng. Nó là thằng đầy tớ tồi, nhưng cũng lại là đứa tớ đắc lực và hữu ích nhất nếu bạn biết cách điều hành nó. Có một điều rõ ràng là nhịn ăn thì không bao giờ biết đến buồn chán. Trong khi “nhất niệm” với các món ăn ưa thích trong đầu, thì không bao giờ có thể buồn chán được, điều này thật là logic, vả lại nhịn ăn có khả năng đào thải buồn chán và đào thải đủ loại bệnh tật tiềm ẩn nay đã xuất đầu lộ diện. Còn các ý nghĩ thì lạ lùng thay: Chúng cứ biến đi đằng nào? Các ý nghĩ thi nhau chạy trốn, hình như các ý nghĩ không thích một cái cơ thể không có thức ăn? Đầu óc trống trơn nhẹ nhàng, ý nghĩ tan loãng vào hư không sâu thẳm mênh mông ngàn đời, một cảm giác đê mê vĩnh truyền... Nằm nghỉ ngơi trên giường, thấy người nhẹ tênh tếch, sung sướng làm sao, điều mà các thiền nhân mơ ước, thì nay không cần thiền cũng sẵn có một cách tự nhiên. Điều này làm tôi nhớ tới câu thơ của một người tôi không nhớ tên, mà nhà thơ Vương TỪ đọc cho tôi nghe: “Kho trời chung mà vẫn vô tận của mình riêng!” Tôi nghĩ tới cái chết thì sẽ như thế nào? Một cái xác không ăn, không thở, và không suy nghĩ! Trong khi nhịn ăn tôi đọc lại quyển “Milarepa con người siêu việt” và thầm kính phục các chư tổ - những người vượt thắng được miếng ăn trong khi thiền định. Milarepa có giai đoạn công phu miên mật còn ăn toàn loại rau hoang, rau tầm ma để công phu. Điều này làm cho tôi liên tưởng đến hai vị sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường ở chùa Đậu của ta, gọi là sư đầu rau, vì toàn ăn rau để sống và để thiền định, mà cũng đạt đạo. Nhờ nhịn ăn, tôi thấy rõ hơn những yếu hèn của bản thân, trình độ của tôi lùi tụt hẳn xuống đẳng cấp của một con vật: Chỉ nghĩ tới ăn! Kỳ nhịn ăn lần này đã làm cho vài thành kiến ẩn tàng trong tôi bị đổ vỡ, tôi trở nên thênh thang trong nhận thức và khoáng đạt trong tư duy hơn trước. Tôi phát hiện ra một số điều làm cho cuộc sống của tôi và của những người liên quan được tốt đẹp hơn, điều mà chắc chắn nếu không nhịn ăn thì tôi không thể nào phát hiện ra được. Khi ăn lại thì còn khó hơn nhịn ăn nhiều lần. Nếu không ăn lại một cách từ từ thì sự ngon ăn đến mức như thế chỉ xuất hiện sau khi nhịn ăn sẽ mất đi nhanh chóng. Nếu không, nó có thể kéo dài rất lâu, đem lại niềm vui thực sự như thế nào. Có người nói sự ngon ăn kỳ diệu lạ lùng sau mỗi kỳ nhịn ăn có thể kéo dài được 4 tháng. Tôi nghĩ chúng ta đã bước vào kỷ nguyên sinh học, chắc chắn người ta sẽ xem xét lại con người ở dạng một tổng thể và nó là một phần của thế giới tự nhiên, nên cách chữa theo tự nhiên là cách chữa của thời đại mới. Michio Kushi đã nói: “Theo đó, y học tự nhiên là y học xem con người là một dạng năng lượng và rung động, và trong nghĩa này, y học tự nhiên không cho con người là một thể chất mà chỉ là một trạng thái tinh thần. Y khoa chữa theo triệu chứng ngày nay chắc hẳn rồi sẽ thay đổi để chuyển hướng về y học tự nhiên hơn. Sự cách mạng trong y học sẽ nâng nhân loại lên cao hơn và xem trọng thực thể tinh thần mà không nghi ngờ gì là nó sẽ thiết lập một nền văn minh hoàn vũ lành mạnh.” Hà nội, tháng 5 năm 2002, Ngọc Trâm (ĐT: 04. 8534225, DĐ: 0953456638). Khi có trong tay quyển sách “Tuyệt thực đi về đâu” này nếu bạn muốn thực hiện nhịn ăn, xin tìm đọc tham khảo quyển “Phương pháp tự chữa bệnh” tập 2 của G.P Malakhov, một quyển sách chuyên đề về nhịn ăn để thông tin về nhịn ăn của bạn được đầy đủ và hoàn toàn. Theo kinh nghiệm của riêng tôi, nếu bạn nhịn ăn và lại kết hợp cầu nguyện để hướng tâm tới một cuộc sống mới tốt đẹp hơn cuộc sống trước đó - điều mà làm cho bạn phải nhịn ăn, thì kết quả lại tốt đẹp bội phần. Tôi gặp một số chướng ngại trên con đường tâm linh, sau nhiều mầy mò và tìm kiếm và thực hành nhiều phương pháp để cải tiến bầu không khí. Cuối cùng sau một đợt nhịn ăn 9 ngày tháng 5 -2006 tôi thực hành sám hối và cuối cùng chướng ngại mới bắt đầu được biến đổi theo chiều hướng tốt. Trong quyển “Y học Tây Tạng” có nói tới 9 nguyên nhân của bệnh trong đó bao gồm cả tham sân si và suy nghĩ sai lầm. Ngay đó nguyên nhân chính thứ hai là do thức ăn sai lầm, nếu ta đã làm “đủ cách” mà cuộc sống vẫn chưa được cải thiện, thì ta phải lần mò tới cách thức thực hiện những phương pháp tâm linh như sám hối. Sám hối là sự thanh lọc trong ý thức chúng ta. Khi sám hối về điều gì đó, con người được thanh lọc khỏi điều đó. Sức ép năng lượng rời khỏi trường năng lượng của con người. Lúc đó năng lượng trở nên nhiều hơn, có cảm giác vui sướng và nhẹ nhõm...Trong thời gian nhịn ăn bạn nên áp dụng nghe loại Nhạc dành thiền định và trị liệu, như những đĩa nhạc có âm thanh OM chẳng hạn... THAY LỜI TỰA Nhà sinh lý học nổi tiếng Claude Bernard đã quả quyết tuyên bố rằng: “Tình trạng cơ thể là chính yếu, vi trùng không có gì đáng kể”. Thật vậy, nếu mọi tế bào tạng phủ trong người đều lành mạnh thì chẳng có một loại vi trùng nào có thể quấy phá hoặc tác hại được. Và muốn cho mọi cơ năng tạng phủ đều được lành mạnh thì trước hết các chất bổ dưỡng đưa vào máu để phân phối nuôi cơ thể phải tinh khiết, đầy đủ và đúng quân bình. Đã biết qua thuyết OHSAWA chúng ta ai cũng biết rằng bệnh tật sở dĩ sinh ra là vì quân bình Âm-Dương bị chênh lệch, do đó vi trùng hoặc ngoại tà mới có dịp xâm nhập phát tác và gây tổn hại cho cơ thể. Sự khám phá ra vi trùng của Pasteur đã lái ngành y khoa hiện đại về chiều hướng giải phẫu và sưu tầm các thuốc kháng sinh ngày càng hiệu lực, quả thật đã đem lại nhiều tai hại cho loài người. Phương thức chữa bệnh của các y sĩ đáng lẽ là nghiên cứu mọi cách tiết độ để bảo tồn sinh lực cho cơ thể có khuynh hướng đạo đức và chiêm nghiệm vì đâu, do nguyên nhân nào mà cơ thể mất quân bình, nhưng vì quá chú trọng đến vi trùng, người ta cứ để con người ngụp lặn trong dục lạc truy hoan vì chỉ tìm cách giết cho được vi trùng, đổ lỗi cho chúng như là nguyên nhân chính yếu của bệnh tật, do đó nếp sống con người bị sa đọa về vật chất cũng như tâm linh. Muốn phục hồi sức khoẻ đang bị một loại vi trùng nào đó làm tổn hại thì công việc cho bệnh nhân - uống một thứ kháng sinh nào đó chưa đủ mà phải chữa trị tận nguồn gốc và phục hồi toàn diện sinh lực cho cơ thể. Và muốn hoàn thành công việc ấy, muốn loại trừ nguyên nhân sâu xa của căn bệnh, muốn lập lại quân bình Âm-Dương cho cơ thể, muốn cải tạo sức khoẻ cho thể chất và tâm linh, tưởng không có phương cách trị liệu nào hữu hiệu hơn phép nhịn ăn hợp cách. Nhịn ăn dù thời gian hoặc dài hay ngắn là một thời cơ tốt đẹp cho tạng phủ được nghỉ ngơi, giúp điều kiện cho tế bào bài tiết các chất độc, cơ thể phân phối các thức ăn dự trữ, các khoáng chất, sinh tố... để lập lại quân bình Âm-Dương tốt đẹp cho cơ thể. Điều người ta thường lo ngại hơn cả là nhịn ăn làm sụt cân quá nhiều nhưng sở dĩ người ta lo ngại như vậy vì người ta không hiểu sự ích lợi, sự mầu nhiệm của phép nhịn ăn. Mối lo ngại đó là vô căn cứ, là hoàn toàn hư ảo. Thật vậy, sau thời gian nhịn ăn phải phép và khi sự giải độc được hoàn thành cho cơ thể người nhịn ăn tuy gầy hơn trước nhưng nhờ các tế bào trở nên trong sạch và non trẻ hơn trước nên một khi ăn uống trở lại là lên cân đúng mức quân bình và sức khoẻ thêm dồi dào, miễn rằng đừng ăn uống bừa bãi để sa vào chỗ mất quân bình Âm-Dương đã gây ra bệnh tật trước kia. Người hành phép nhịn ăn chỉ cần nghỉ ngơi hoặc hoạt động vừa phải, trong đó phép đi bộ được xem là tốt hơn cả. Mọi cử động đột ngột đều nên tránh, ví dụ đang nằm mà vùng đứng dậy có thể sinh ra xây xẩm mặt mày trong chốc lát. Về thời gian nhịn ăn, lý tưởng và công hiệu hơn cả là nhịn ăn cho đến khi nào sự thèm ăn tự nhiên trở lại, nhưng trong thời buổi mà nhịp sống trở nên sôi động và cuồng loạn như ngày nay, mà thì giờ được xem là vàng bạc thì kể ra cũng ít người đủ điều kiện để có đủ thời giờ thong thả thuận tiện để đeo đuổi đến cùng một kỳ nhịn ăn dài hạn. Tuỳ khả năng, thuận tiện ta có thể nhịn ăn 7, 14, 21 hoặc 28 ngày hay hơn thế nữa... Những kỳ nhịn ăn dài hạn dĩ nhiên kết quả tốt đẹp hơn, nhanh chóng hơn những kỳ nhịn ăn ngắn hạn thường để dành cho những bệnh nhân không đủ điều kiện nghỉ dài ngày. Những cuộc nhịn ăn ngắn hạn có lợi là có thể thực hành lúc nào cũng được mà không cần ngưng công việc sinh hoạt hàng ngày. Nhịn ăn ngắn hạn có thể là mỗi tuần một ngày: mỗi tháng 2-3 kỳ, mỗi kỳ 3 ngày; hay mỗi tháng 1-2 kỳ, mỗi kỳ 5 ngày tuỳ bệnh trạng, tuỳ sở thích, tùy suy luận hay kinh nghiệm của từng người. Nhịn ăn gột rửa các chất độc ra khỏi cơ thể, cải thiện sự tuần hoàn và hô hấp. Sinh lực đáng lẽ phải dồn vào trong công việc tiêu hoá thức ăn nay được dành riêng cho sự gột rửa các độc tố trong cơ thể, sửa chữa, bù đắp các tạng phủ, cơ quan bị suy tổn. Thần kinh hệ được giải khai, bắp thịt được thoải mái nghỉ ngơi, các nội tạng làm việc ít lại, sinh lực con người được cải tạo, nhờ đó mà ảnh hưởng tốt đẹp lan rộng đến địa hạt trí tuệ và đạo đức con người. Đối với quảng đại quần chúng, người ta thường cho rằng bệnh tật chỉ là một sự cấp phát, một hiểm hoạ do vi trùng bên ngoài đưa vào chứ không phải do sự vi phạm các định luật thiên nhiên liên tiếp có khi ngay từ thuở sơ sinh. Quá tin vào thuyết vi trùng, người ta đã lẫn lộn lấy quả làm nhân, do vậy phát sinh lòng nghi ngại băn khoăn tự hỏi làm sao sự nhịn ăn có thể chữa lành được những bệnh nhiễm trùng truyền nhiễm, cho rằng nhịn ăn bất quá có chữa được thì chữa lành một số nhỏ bệnh thần kinh, mất ngủ, nhức đầu hay các bệnh do sự hỗn loạn bất điều hoà của các cơ năng hay tạng phủ mà thôi. Nhưng trên thực tế lại khác, có thể nhờ phép nhịn ăn lập lại được quân bình Âm-Dương thì tính thực bào, tức khả năng tiêu diệt vi trùng được cường thịnh và khả năng xuất tiết kháng thể để trung hoà độc tố thêm sung túc thì thử hỏi vi trùng còn đâu đất dung thân, há lại phải cầu cạnh đến các độc dược, kháng sinh mới chữa lành được bệnh hay sao? Bác sĩ Roger và Josue đã làm thí nghiệm sau đây để chứng minh lợi ích của sự nhịn ăn: Hai ông chia một bầy thỏ làm đôi, một nửa cho ăn uống như thường, còn một nửa thì bắt nhịn ăn hoàn toàn từ 5 đến 7 ngày rồi cho ăn uống bình thường trở lại từ 2 đến 11 ngày. Các ông nhận thấy rằng những con thỏ nhịn ăn đã tự tạo một sức miễn dịch phi thường, đã chịu đựng được một cách dễ dàng mà vô hại một lượng vi trùng tiêm vào mình chúng đủ sức giết một cách nhanh chóng những con thỏ khác trong nửa bầy không được nhịn ăn. Bác sĩ Dewey đã chữa cho con trai ông mới 3 tuổi bị chứng bạch hầu (diphtéie). Ông cho đứa bé nhịn đói tuyệt đối chỉ uống nước rất ít và nhận thấy rằng bệnh còn chóng lành hơn là chữa trị bằng thuốc men. Bác sĩ Dewey còn áp dụng rất hiệu quả phương pháp nhịn ăn tuyệt đối và dài hạn trong những trường hợp các bệnh nhân gây sốt như cúm, sưng phổi, đậu lào, sốt rét, các bệnh gây độc do vi trùng streptocoque, staphylocoque. Ông luôn nhận thấy rằng những người bệnh ấy bao giờ cũng được chóng bình phục và nhất là phân xuất tử vong những trường hợp trọng bệnh hết sức thấp so với cách chữa bệnh thông thường mà cứ cho người bệnh ăn của các bác sĩ đồng nghiệp. Bác sĩ Oswald nói: “Một bệnh do vi trùng gây ra lực độc như bệnh giang mai, từ xưa xem như một bệnh dai dẳng với cách chữa bằng những phương pháp hoà hoãn, tạm bợ (ví dụ với thuỷ ngân, thạch tín...) đã được trị tận gốc với phép nhịn ăn trong những bệnh xá Ả rập ở Ai cập trong thời gian Pháp chiếm đóng. Avicène đã ám chỉ đến sự công hiệu của phương pháp này mà hình như ông đã áp dụng một cách thần hiệu để chữa bệnh đậu mùa. Và bác sĩ Robert Barthlow là một y sĩ trung kiên trong việc bênh vực thuốc men cũng phải thừa nhận rằng: “Nhịn ăn chắc chắn là một phương tiện xuất sắc để bài tiết vi trùng ra khỏi cơ thể bằng một quá trình liên tục tuần tự huỷ diệt phân tử và để tái tạo các cơ cấu trong cơ thể. Đó là phương pháp nhịn ăn dùng để chữa lành bệnh giang mai, một phương pháp Đông phương dùng để chữa bệnh ấy và những kết quả rất mỹ mãn đã thu hoạch bằng phương pháp này”. Bác sĩ Von Seeland nói: “Trên nhận xét bản thân cũng như trên nghiên cứu thực nghiệm, tôi càng ngày càng đi đến tin tưởng vững chắc rằng nhịn ăn chẳng những có một giá trị về phương diện y khoa mà chắc chắn rằng còn có một giá trị lớn lao hơn nhiều đứng về phương diện dưỡng sinh và giáo dục. Xã hội của chúng ta nô lệ dưới ách thuốc lá và rượu nay lại sắp sửa sa đọa vào nạn thuốc phiện, dần dần trở thành miếng mồi ngon cho sự u sầu, cho niềm chán sống và do đó những vụ tự vẫn gia tăng... Rồi từ trong lòng xã hội ấy xuất hiện những triết gia u uất bi quan (trạng thái tinh thần biểu lộ một căn bệnh thực thụ hay một sự suy nhược tinh thần). Cho nên một xã hội như vậy muốn được cảnh tỉnh cần phải phát động một phản ứng quyết liệt là cách thực hành “tiết dục và nhịn ăn”. * Lành bệnh có tính cách nhất thời là dễ, nhưng bảo tồn sức khoẻ có tính cách trường kỳ mới là chuyện khó. Nhịn ăn đem lại sức khoẻ có tính cách giai đoạn nhưng sau đó nếu được bảo trì bằng cách ăn uống cho đúng quân bình Âm-Dương của Giáo sư OHSAWA thì phép dưỡng sinh mới có thể toàn hảo như vậy. Cách ăn uống sau thời kỳ nhịn ăn phải được chăm sóc kỹ lưỡng không kém gì sự chăm sóc trong lúc nhịn ăn. Sự tái tạo các tế bào quan trọng không kém gì sự gột rửa các tế bào và chính trong thời gian sau khi nhịn ăn mà người ta phạm những điều khinh suất. Nhiều người nghĩ rằng nhịn ăn là điều quan trọng, bệnh lành là xong chuyện còn sau đó thì chẳng có gì đáng kể. Những người bệnh nhờ áp dụng phép nhịn ăn mà lành bệnh, nhưng ngay sau đó họ lại sa vào vết xe cũ của thói quen xưa. Họ trở lại ăn uống quá độ, ăn hấp tấp không nhai kỹ, ăn uống bừa bãi không biết chọn món ăn quân bình, tưởng rằng cứ ăn uống thoả thích như vậy thì chóng phục hồi sinh lực, mau lên cân nhưng có biết đâu rằng chính vì sự cẩu thả trên chẳng những đã làm tổn hại thành quả tốt đẹp thu hoạch được trong thời gian nhịn ăn mà còn làm suy nhược các cơ quan tạng phủ, chuẩn bị cho những tai hại mới, những đau khổ mới. Nhịn ăn như vậy thì khác nào công cuộc dã tràng xe cát biển đông. Vì vậy tôi đã ghép liền phép nhịn ăn với cách ăn theo nguyên lý Âm Dương của Giáo sư OHSAWA với dụng ý giới thiệu cùng các độc giả phương pháp bảo tồn sức khoẻ và chữa bệnh thần diệu vô tiền khoáng hậu của Giáo sư OHSAWA, một ân nhân của nhân loại đã đem thân thể và cuộc sống hy sinh cho lý tưởng cao cả vị tha... “Đại đạo phế, hữu nhân nghĩa” (Đạo đức kinh), vì không hiểu Đạo để sống thuần theo dịch lý Âm-Dương của vũ trụ mới bày ra thuốc men và bệnh viện, rồi thuốc thang và sung túc thì bệnh tật ngày càng nhiều, đạo đức càng suy. Vi trùng đâu có gì đáng sợ, đáng sợ chăng là sự vô minh vì không thấu hiểu nguyên lý của vũ trụ để dưỡng sinh, để tu thân. Thân không tu thì nhân loại suy vong, vì nhân loại nào có ai khác hơn là bạn và tôi cùng bao nhiêu người khác đang sống trên cõi đời này... Tập sách nhỏ này nếu được hạnh ngộ lọt vào mắt xanh của bạn, tôi thầm ước nguyện khi bạn đọc xong gấp sách lại thì vấn đề tuyệt thực từ đây sẽ gây cho bạn đôi chút suy tư... Thái Khắc Lễ AI KHÔNG ĐƯỢC NHỊN ĐÓI? Phụ nữ có mang ở giai đoạn thứ hai và phụ nữ đang cho con bú. - Những người bị các hình thức lao nặng phải nằm liệt giường. - Những người bị các khối u ác tính nặng phải nằm liệt giường. - Những người ung thư máu thể nặng phải nằm liệt giường. - Những người bị các bệnh ăn lan mô liên kết thể nặng phải nằm liệt giường. Những bệnh nhân tâm thần thể nặng phải nằm liệt giường hoặc người điên. - Các trường hợp mưng mủ rộng ở cơ quan nội tạng (áp se, hoại thư v.v...) Tìm đọc một quyển sách chuyên đề về nhịn ăn: “Phương pháp tự chữa bệnh” tập 2 của G.P Malakhov, NXB Thuận Hoá 2002. NHỊN ĂN - QUÁ TRÌNH THANH LỌC TỰ NHIÊN CỦA CƠ THỂ ĐỂ PHÒNG VÀ CHỮA BỆNH Nhịn ăn là một trong những cách chữa bệnh cổ xưa nhất của thiên nhiên. Bất kỳ con vật nào khi đau ốm cũng cần nhịn ăn theo bản năng, nhưng con người thường đi ngược lại. Khi đau ốm, thay vì nhịn ăn để thanh lọc cơ thể thì chúng ta càng nhồi nhét vào nhiều thức ăn để “bồi dưỡng sức khoẻ”, vì thế mà bệnh lâu hết. Các nhà hiền triết và các bậc thầy dạy về tâm linh cổ xưa thường nhịn ăn không chỉ vì mục đích sức khoẻ mà còn để nâng cao tâm trí và tâm linh. Họ nói: “Dạ dày no căng thì không chịu suy nghĩ”. Các triết gia Hy Lạp vĩ đại (Socrates, Platon, Pythagore) bao giờ cũng nhịn ăn trước khi viết các tác phẩm triết học hoặc trước những nghiên cứu đặc biệt vì họ biết nhịn ăn kích thích khả năng trí tuệ. Khi triết gia kiêm toán học Hy Lạp (Pythagore) đi Ai Cập để học môn khoa học tâm linh huyền bí, ông phải nhịn ăn 40 ngày vì các vị Thầy Ai Cập có giải thích rằng 40 ngày là cần thiết để ông có thể nắm được những gì chúng tôi sẽ dạy ông. Thánh Mô- xe đã nhịn ăn 40 ngày đêm trước khi lên núi Sinai để nhận 10 điều răn. Chúa Jesus đã nhịn ăn 40 ngày trong sa mạc để tự khắc phục mọi cám dỗ và tự chuẩn bị cho Người trước hành động cao cả và chịu sự đau đớn. Đức Phật cũng đã nhịn ăn để tách rời tâm trí của mình ra khỏi thế giới vật chất và để đạt tới ý thức cao hơn. Sau đợt nhịn ăn trong vòng 49 ngày Ngài đã giác ngộ. “Sau khi nhịn ăn ánh sáng trí tuệ của con người sẽ toả sáng như buổi ban mai và sức khoẻ của con người sẽ phát ra nhanh chóng” (Lsaian 5,8:8). Rõ ràng có nhiều lợi ích lớn lao đối với cơ thể và tâm trí khi ta nhịn ăn. Nhiều người sợ nhịn ăn vì họ nghĩ bản thân họ sẽ chết đói. Điều này không đúng chút nào. Theo Tiến sĩ Patwak thì nhịn ăn đúng cách không bao giờ có hại, thực ra nó thường chỉ là thủ tục tiến hành để bảo toàn năng lượng thần kinh và để cho thiên nhiên có thể tập hợp được sức lực của mình để chiến đấu chống bệnh tật. Thực vậy, cơ thể có nhiều nguồn để tự nuôi dưỡng trong một thời gian dài. Một người nhịn ăn có kinh nghiệm có thể nhịn ăn một cách an toàn trong vòng 1 tháng hoặc hơn thế nữa. Điều trở ngại chính là tự khắc phục những mối lo sợ đã ăn sâu về mặt văn hoá - xã hội và tâm lý đối với việc nhịn ăn. Ông tổ ngành Y (Hippocrates) người Hy Lạp thọ đến 90 tuổi đã viết “Ai cũng có vị thầy thuốc ở trong mình - Ăn khi bạn đau yếu là nuôi dưỡng bệnh hoạn của bạn. Còn đại triết gia Hy Lạp Paracelsus đã viết: “Những ai nhịn ăn là có trong tay mình một thầy thuốc bên trong”. Gần đây nhiều Bác sỹ hiện đại cũng đã nhận thấy “sự an toàn tổng quát” của người nhịn ăn và khuyên mọi người nhịn ăn để huy động sự phòng ngự tự nhiên của cơ thể chống lại bệnh tật. Các bác sỹ đề cập tới: • Nhịn ăn tạo cho toàn bộ cơ thể (tim, dạ dày, ruột thận, phổi, tụy gan, v.v.) một cơ hội nghỉ ngơi và lấy lại sức mạnh để có thể hoạt động với hiệu quả lớn hơn sau khi nhịn ăn. Tim và mạch máu được một kỳ nghỉ cần thiết vì không phải bơm nhiều máu tới hệ thống tiêu hoá. • Nhịn ăn tạo ra sự phá vỡ và bài tiết các chất độc hại bám vào toàn bộ các cơ quan và mô của cơ thể, do đó làm sạch toàn bộ cơ thể, tạo điều kiện cho cơ thể làm việc với hiệu quả cao nhất. • Nhịn ăn làm trẻ lại toàn bộ hệ thống và phục hồi lại sự thanh xuân cho mọi tế bào, mô, mạch máu - làm chậm quá trình già nua và làm tăng tuổi thọ. • Nhịn ăn giúp cho việc tái lập và sự tiết xuất bình thường và cân đối của các tuyến và các cơ quan. • Nhịn ăn bảo toàn năng lượng, tiến hoá tâm linh, làm trí óc sáng suốt, giác quan bén nhạy và tăng cường trí nhớ. Chất thải độc hại làm tắc nghẽn não được rửa sạch và tẩy trừ. Trí tuệ rất tập trung và minh mẫn, nhờ não được tăng cường lượng máu nuôi. • Nhịn ăn tẩy sạch được những sản phẩm độc tố qua da, đốt những chất béo và làm giảm trọng lượng dư thừa. Nó giúp dẹp bỏ được sự thôi thúc phải hút thuốc lá và uống rượu. Nó làm thư giãn hệ thống thần kinh, làm dịu đi những lo âu và góp phần chữa bệnh mất ngủ. • Bằng cách đốt cháy và thải các chất không cần tới, nhịn ăn có thể làm chấm dứt các sự phát triển không bình thường trong cơ thể, có thể chữa khỏi các khối u, mô bệnh, các chỗ loét, chỗ sưng, các viên sỏi, v.v... Nhịn ăn thường kỳ phòng ngừa được bệnh, do giữ được cơ thể sạch sẽ và cơ thể hoạt động với sức lực và hiệu quả tối đa. Các Bác sỹ nhận thấy rằng nhịn ăn làm tăng sức đề kháng chống lại nhiễm trùng. Trích “Thức ăn và sức khoẻ” của Avadhutika Ananoamitra Acanya - Người dịch: Vĩnh Phụ). PHẦN I THÀNH KIẾN VỀ PHƯƠNG PHÁP NHỊN ĂN I. NHỊN ĂN VÀ PHƯƠNG PHÁP OHSAWA Trước khi đi sâu vào vấn đề nhịn ăn, ta nên định nghĩa rõ ràng danh từ nhịn ăn. Tuyệt thực hay nhịn ăn (Jeune) là không ăn một thức gì dưới hình thức đặc hay lỏng, mà chỉ uống nước trong thiên nhiên hay nước sôi để nguội. Nếu có dùng xen vào một lượng thức ăn gì dù rất ít như nước trái cây, nước sữa, nước sâm chẳng hạn, hay tiêm thức ăn, chất bổ vào người thì việc đó hoàn toàn không còn ý nghĩa tuyệt thực hay nhịn ăn nữa mà chỉ được gọi là tiết thực hay kiêng ăn mà thôi. Như các bạn hiểu qua thuyết OHSAWA, đã thấy nơi cơ thể con người Âm Dương trong sự tương phản vẫn luôn có sự tương tế, tương trợ vì Âm Dương bao giờ cũng có khuynh hướng bổ túc, điều hoà đắp đổi lấy nhau. Mọi bệnh tật chỉ còn là sự biểu lộ của quá trình ấy. Theo nghĩa đó, Giáo sư OHSAWA dạy rằng: “Ta không nên chữa một bệnh gì cả bởi vì nó sẽ tự điều chỉnh lấy. Bệnh tật có lý do tồn tại của nó”. Giáo sư OHSAWA bảo ta đừng chữa, nghĩa là ta để tự nhiên cho Âm Dương trong cơ thể tự điều chỉnh lập lại thế quân bình đã mất chứ không phải là làm trầm trọng thêm sự chênh lệch cho càng thêm chênh lệch. Có người ngây thơ mà hiểu ý nghĩa “không nên chữa” là không uống thuốc và trong lúc ấy cứ ăn uống bừa bãi rồi một thời gian nào đó tình cờ sức khoẻ sẽ trở lại với mình. Người ta hiểu sự quân bình âm dương của thực phẩm quan hệ mật thiết đến quân bình Âm Dương của cơ thể con người như thế nào thì tất nhiên ai cũng nhận định đúng đắn rằng “Không nên chữa” là ngoài việc không uống thuốc ra, tối thiểu là ta không nên làm trầm trọng thêm sự mất quân bình Âm-Dương bằng cách ăn uống các thực phẩm mất quân bình âm dương, còn bệnh tật hay sự mất quân bình sẵn có thì để cho Âm-Dương của linh năng cơ thể tự điều chỉnh dần dần. Làm đúng theo vô song nguyên lý, theo Dịch lý thuận với Đạo là làm cái không làm. Nói cách khác “Không nên chữa” có nghĩa là ăn uống cho đúng quân bình Âm-Dương, là ăn uống theo phương pháp OHSAWA. Đây là phương pháp vừa bổ dưỡng cơ thể bằng quân bình Âm-Dương thực phẩm vừa để cho Âm-Dương trong cơ thể tự điều chỉnh lấy lại quân bình. Phương pháp “Không nên chữa” thứ hai là phép nhịn ăn. Đây là phương pháp nghỉ ngơi cho các cơ quan dinh dưỡng và sinh lý bằng cách tự phân hoá những thức ăn dự trữ trong các tế bào ít quan trọng để nuôi dưỡng các cơ quan cần thiết cho sinh mạng hoá giải các chất độc trong tạng phủ, lập lại quân bình Âm Dương tốt đẹp cho cơ thể. Đây là phương pháp tự phân để tự dưỡng cho quân bình Âm-Dương trở lại để sau đó sẽ phục hồi sức lực bình thường bằng cách ăn uống lại cho phải phép. Ta có thể nói rằng: Ăn uống theo nguyên lý Âm-Dương của Giáo sư OHSAWA là làm cái không làm, còn nhịn ăn là giao phó cho tự nhiên. Đặc điểm của đôi đàng là làm sáng tỏ ý nghĩa “Mềm yếu là cái dụng của Đạo”, là không tranh với bệnh mà thắng bệnh, duy có phân biệt chăng là một tích cực và một tiêu cực. Ta nên suy nghiệm kỹ để tuỳ cơ ứng dụng cho thích hợp với cơ thể, khí chất, bệnh trạng và tâm lý từng người. Thông thường người ta có sẵn thành kiến cho người bệnh ăn và ép người gầy ốm ăn nhiều thực phẩm căn cứ trên lý thuyết “người bệnh phải ăn để cho đủ sức chống với bệnh”. Người ta có biết đâu rằng làm như vậy tức là làm suy nhược bớt khả năng của cơ thể vốn đang suy nhược và làm trầm trọng thêm sự mất quân bình Âm-Dương vốn đã sẵn mất quân bình. Phải chăng đây là “Đạo của người: bớt chỗ thiếu, bù chỗ dư” (Đạo đức kinh). Chẳng hạn trong trường hợp chứng sốt, do phản ứng tự nhiên dạ dày xuất tiết rất ít vị toan nên nó không thể dung nạp một thức ăn nào vì thức ăn sẽ trở thành một nguồn trở lực nguy hại cho dạ dày và cũng là cho toàn cơ thể vì thức ăn không tiêu được nó cứ nằm ỳ ra đấy có khi đến 30, 40 giờ rồi lên men nhiễm độc vào cơ thể. Người ta thường biết ích lợi của cái có mà không để ý đến sự cần thiết của cái không. Nhồi đất nặn chén bát chính nhờ chỗ không mới có cái dụng của chén bát. Thanh âm nhờ có những khoảng không lặng thinh ngắn dài mới làm thành tiết tấu. Sở dĩ người ta làm việc được lâu dài là nhờ có công dụng của sự nghỉ ngơi. Ai ai cũng thấy sự cần thiết của sự ăn, mà ít mấy ai thấy điều lợi ích của việc nhịn ăn. Ai cũng biết rằng mỗi khi có vi trùng xâm nhập, cơ thể liền phát ra các bạch huyết cầu, tiết ra các kháng thể để bao vây, huỷ diệt vi trùng, hoá giải các độc tố. Yếu tố tạo ra các kháng thể là các phần tử giữ một địa vị quan trọng trong tế bào chất ADN (acidedesoxyribonucléique) rất cần thiết cho sự sinh sản của tế bào. Tuy nhiên số lượng kháng thể tiết ra mỗi lần thường quá mức nhu cầu làm cho ADN bị mệt mỏi không chu toàn nhiệm vụ điều khiển và kích thích sự bào phản, và đó là nguyên nhân của sự già yếu. Nhịn ăn giúp toàn diện cơ thể được thực sự nghỉ ngơi, tức là phục hồi sinh lực đem lại sự trẻ trung cho con người. Giáo sư C.M Child ở Đại học đường Chicago thí nghiệm trên các sâu bọ, bắt chúng nhịn đói thì thấy rằng chúng không chết mà chỉ càng ngày càng trở thành nhỏ lại. Sau nhiều tháng cơ thể chúng thu nhỏ đến mức tối thiểu, được cho ăn lại thì chúng lớn lên lại và trở thành non trẻ hơn bao giờ hết. Theo báo Moscovosky Komsonmolest thì tại Mạc-tư-khoa, có nhà vật lý học nguyên tử trẻ tuổi tên là Vladimir Lechkovser bị nhiều tai biến từ thuở còn thơ: cánh tay phải bị cưa sau một tai nạn, kế đến vợ ông chết bất đắc kỳ tử, hơn nữa ông ta lại bị bệnh tê bại nặng, bắt buộc phải nằm liệt giường mà bệnh thì mỗi ngày một tăng. Danh y bệnh viện khắp nước Nga được mời đến dùng đủ thứ thuốc men và áp dụng nhiều phương pháp trị liệu cực tối tân nhưng đều vô hiệu quả. Đến ngày 9-1-1961, Vladimir quyết định nhịn đói và chỉ uống nước suối nhưng chỉ uống rất ít. Đến ngày thứ sáu, ông không biết đói nữa. Sau hai tuần nhịn đói, lần đầu tiên ông đi dạo mát được. Cơ thể càng gầy ốm, người ông càng cảm thấy dễ chịu, khoẻ khoắn. Đến ngày thứ 40, ông biết đói trở lại và bắt đầu ăn lại các thức ăn nhẹ vào ngày 24-2-1961. Và từ đó ông hết bệnh. Nhịn đói như vậy là 45 ngày hay đúng hơn là 1.089 giờ. Trong thời kỳ nhịn ăn, ông Vladimir có chép nhật ký ghi những cảm giác của ông ta. Chữa bằng thuốc men và huyết thanh chỉ làm tiêu diệt các triệu chứng của bệnh nhưng sự thủ tiêu các triệu chứng không phải là một sự hồi phục sức khoẻ cho cơ thể. Nhịn ăn đem lại quân bình Âm-Dương cho cơ thể tức là đào thải thực sự những nguyên nhân nội tại của bệnh tật, thanh lọc sạch sẽ cơ thể. Sự phục hồi sức khoẻ này là một sự cải tạo đến căn cội chứ không phải hời hợt ở triệu chứng. Giáo sư OHSAWA rất tán thành phép tuyệt thực nên ông đã nhịn ăn đến 60 ngày vào hồi tháng 8 và tháng 9 năm 1955. Về tuyệt thực trong tôn giáo đã được thực hiện từ thuở rất xa xưa. Sự nhịn ăn hoàn toàn hay ăn kiêng một số món ăn nào đó vào những mùa chỉ định đã được áp dụng ở Assyrie, Ba-Tư, Babylone, Scythie, Hy-Lạp, La-mã, Ấn-Độ, Ninive, Palestine, Trung Hoa, Bắc Âu và những người da đỏ các nước Mễ tây-cơ, Ba-tây,.v.v. ở Mỹ Châu, người Ai-Cập ở Phi Châu với tính cách tôn giáo. Các tôn giáo lớn như Ấn-Độ giáo, Hồi-giáo, Thiên- chúa-giáo cũng rất chú trọng đến phép nhịn ăn và sự cầu nguyện. Sau này người ta chú ý nhiều đến sự tuyệt thực khi thánh Gandhi nhịn ăn để tranh đấu bất bạo động giành độc lập cho nước Ấn Độ. Thánh Gandhi tán thưởng sự ích lợi của phép nhịn ăn trên phương diện sức khoẻ tuy rằng đa số các kỳ nhịn ăn của ông là để tẩy uế cơ thể, thanh tịnh bản tâm để sám hối, để cầu nguyện hoặc để cảm hoá chính quyền Anh nhượng bộ những đòi hỏi của ông cho quyền lợi dân tộc Ấn Độ. Ông nhịn ăn chẳng những để cho thân tâm được thanh tịnh mà còn để nguyện cầu sám hối cho nước Ấn Độ được thanh bình. Và với phép nhịn ăn, ông đã đạt mục đích cao cả đó bằng cách “bất tranh nhi thiện thắng” và biến cải một cách tốt đẹp kẻ địch thù thành bạn hữu... Kinh điển Phật-giáo nhiều lần đề cập đến tính chất trị liệu quý giá của phép nhịn ăn: “Một hôm vì một đệ tử lâm bệnh nặng nên Đại Mục Kiền-Liên phải lên cung Trời Đạo Lợi để tìm thầy thuốc Kỳ Bà xuống chữa. Đại Mục Kiền Liên hỏi Kỳ Bà rằng: - Tôi có một người đệ tử lâm bệnh nên chữa theo cách nào? Kỳ Bà đáp: - Nên nhịn ăn là tốt hơn hết”. Đại luật chép rằng: “Thầy Tỳ kheo có bệnh tức phải nghỉ ăn, lấy đau ốm làm chừng, kêu là thuốc Trời. Có bệnh, không bệnh thường phải quán xét thân này làm gốc “sinh, già, bệnh, chết” cội nguồn các khổ, rất phải trách móc ngăn tinh dục, cớ sao buông ái căn kia, lại thêm gốc khổ cho mình” (Sadi luật giải). Đứng trên quan điểm Âm-Dương, nhịn ăn đúng phép sẽ đem đến sự quân bình Âm-Dương tốt đẹp cho cơ thể mà thiên nhiên thành lập huyền diệu với sự biến dịch không ngừng, nuôi dưỡng cơ thể bằng cách điều chỉnh mọi cơ năng và tự phân hoá những thực phẩm dự trữ ở các tế bào trong cơ thể. Do Âm-Dương có một quân bình tốt đẹp, về phương diện thể chất, sinh lực và sức khoẻ được gia tăng, về phương diện tâm linh, tinh thần được an tịnh, minh mẫn, ý chí, ký ức, định lực phát triển dồi dào, tri giác lực trở thành bén nhạy tinh tế. Cho nên đức Phật trời gần 6 năm tu tập đủ mọi phương pháp cực kỳ kham khổ chỉ đưa lại những thứ khổ não cho thân tâm cuối cùng đến giai đoạn tu hạnh nhịn ăn, Ngài mới thoát nhiên, đại ngộ chân lý Trung đạo chứng quả Bồ Đề Vô Thượng (theo MAHA SACCAKA-S, MAJJHIMA 1,242). Chúa Jesus cũng đã nhịn ăn ròng rã 40 ngày đêm. “Đức chúa sau khi đã nhịn ăn 40 ngày và 40 đêm, lúc đó ngài mới đói” (MATHIEU IV, 2). Và cũng sau 40 ngày nhịn ăn Ngài mới khởi sự truyền giáo và thu nhận các môn đồ đầu tiên ở dọc mé biển Galilee. Như vậy cũng đủ thấy rằng cái dạ dày được trống trải là một điều tốt lành lớn lao cho cơ thể và một yếu tố cần thiết cho những ai muốn đi trên con đường tìm chân lý hay là những ai muốn có một đức tin đảo hải di sơn. Trong dịp chữa bệnh kinh phong cho một đứa trẻ, Chúa Jesus đã phán với các môn đồ rằng: Thầy nói thật với các con, nếu các con có đức tin bằng hạt cải mà các con khiến núi này rằng: Hãy rời khỏi đây qua bên kia, nó liền rời đi, lại chẳng có việc nào các con không làm được. Còn thứ quỉ (chỉ bệnh kinh phong) này, nếu không cầu nguyện và nhịn ăn, không trừ được nó” (MATHIEU XVII, 20-21). Trước đây bao nhiêu người đã đạt được thành quả tốt đẹp nhờ phép nhịn ăn nhưng sau khi nhịn, lại ăn uống sai lầm như ngày trước, sa vào vết xe cũ của bệnh tật phiền não. Bởi vì muốn duy trì thường xuyên quân bình Âm Dương tốt đẹp nhờ phép nhịn ăn, duy trì sức khoẻ được hồi phục, duy trì chánh kiến và chánh tín, ta phải biết lấy chính thức ăn làm căn bản vì tuyệt thực không thể kéo dài vô hạn định. Phép Chánh Thực này xây dựng trên dịch lý Âm-Dương, Giáo sư OHSAWA đã khổ công nghiên cứu trong mấy mươi năm và đã khám phá ra, ngày nay bí quyết quí giá ấy Giáo sư OHSAWA đã trao cho nhân loại mặc tình sử dụng để tìm chân hạnh phúc cho đời mình và phổ biến cho những kẻ xung quanh. II. NHỮNG LỜI BÀI BÁC VỀ PHÉP NHỊN ĂN Lắm người chống đối phép nhịn ăn biện luận nghe qua cũng có vẻ khoa học lắm, nhưng thật ra chỉ xây dựng trên một sự thiếu hiểu biết, thiếu kinh nghiệm thực tế về phép nhịn ăn. Những biến chứng, tật bệnh người ta đổ cho sự nhịn ăn thật ra là kết quả của những nguyên nhân khác hoặc đôi khi không biết nhịn ăn. Ngày trước người ta còn bảo rằng nhịn ăn làm yếu tim, dạ dày thu hẹp lại, vị toan công phá dạ dày hoặc con người chỉ nhịn ăn 5-7 ngày là chết ngủm rồi. Nhưng qua thời gian, với sự thực hành phép nhịn ăn cũng như qua khám nghiệm tử thi người ta xác nhận rằng những lập luận, ý kiến trên đều sai lạc và vô căn cứ. Người ta thường bị sai lầm vì không phân biệt được hai giai đoạn của tuyệt thực là: giai đoạn nhịn ăn có tính cách trị liệu và giai đoạn đói ăn, là giai đoạn cùng kiệt chất dự trữ trong cơ thể. Những người có quan niệm rằng giai đoạn đói ăn phát khởi từ khi nghỉ bữa ăn đầu tiên mà không biết rằng giai đoạn đói ăn chỉ bắt đầu lúc thèm ăn trở lại sau một thời gian dài nhịn ăn. Điều người ta thường viện cớ để chống báng là nhịn ăn làm yếu người bệnh, làm khó lành bệnh và dễ mắc những bệnh khác. Nhưng trên thực nghiệm, nhịn ăn không những không giảm sức kháng bệnh mà trái lại sức đề kháng gia tăng gấp bội vì sức khoẻ con người là kết quả của khí huyết trong sạch và hệ thần kinh cường kiện. Bác sĩ Geo S. Weger tuyên bố rằng: “Trong không biết bao nhiêu trường hợp nhịn ăn mà tôi săn sóc, không thấy một trường hợp nào vì nhịn ăn mà sinh ra bệnh lao. Trái lại, tôi thấy nhiều người mắc bệnh lao chữa lành nhờ nhịn ăn rồi sau đó ăn uống phải phép”. Ông Pearson nói rằng sau một thời gian nhịn ăn muỗi đốt không làm da thịt ông sung ngứa, lạnh lẽo không làm ông cảm cúm như trước kia. Có người lầm tưởng rằng nhịn ăn thì mất máu hoặc làm loãng máu, nhưng trên thực tế thì ngược lại. Bác sĩ Weger thuật lại một trường hợp bần huyết nhờ nhịn ăn 12 ngày mà máu trẻ trung lại, hồng huyết cầu tăng từ 1.500.000 lên 3.200.000, sắc tố máu lên từ 55% đến 85% và bạch huyết cầu từ 37.000 đã giảm xuống 14.000. III. SỰ CHẾT CHÓC TRONG LÚC NHỊN ĂN Trong hàng vạn cuộc nhịn ăn chẳng giống nhau từ vài ngày đến 60 ngày và có khi cả 90 ngày, không có cái chết nào có thể quy trách nhiệm cho sự nhịn ăn. Trong những cuộc giải phẫu để khám tử thi, người ta đều khám phá ra rằng những trường hợp chết trong thời gian nhịn ăn đều là hậu quả của một nội thương trầm trọng đã có sẵn, nên nạn nhân dù nhịn ăn hay không nhịn ăn thì cũng không thể sống thêm được nữa. Bác sĩ Dewey quả quyết một cách đúng đắn rằng nếu sinh lực đã gần tàn hay một cơ quan trọng yếu cho sinh mệnh đã bị tổn thương trầm trọng thì cái chết sớm tối gần kề là hậu quả tất nhiên phải đến chắc chắn dù người ta ăn hay dù người ta nhịn. Phần đông người ta cầu cứu đến phép nhịn ăn là đến lúc cùng đường chứ không phải khi vừa vướng bệnh. Họ áp dụng phương pháp nhịn ăn khi thân thể đã tiều tuỵ, sức khoẻ đã tàn tạ, suy bại sau nhiều năm sống bừa bãi, sau khi dùng hết bao loại thuốc men, chịu bao nhiêu cuộc mổ xẻ, nói tóm lại là ở trong một tình trạng tuyệt vọng. Trong những trường hợp như vậy thì ai cũng thấy rằng thỉnh thoảng thế nào cũng khó tránh một vài người chết dù là Hoa Đà hay Biển Thước có tái sinh đi nữa. Trong trường hợp ấy bảo rằng vì nhịn ăn mà chết thì thật là hàm hồ, bất công và oan ức. Bác sĩ S. Lief viết trong tạp chí Health for all như sau: “Trong hàng ngàn trường hợp mà tôi chữa bệnh bằng phép nhịn ăn trong 18 năm trời, tôi chưa hề gặp một trường hợp nào mà người ta chết vì nhịn ăn”. Tilden viết: “Người ta có thể nói một cách chắc chắn rằng khi có một người nào đó chết trong thời gian nhịn ăn thì cái chết đó nhất định phải gây ra do căn bệnh người ấy đã mắc từ trước mà thời gian nhịn ăn cần thiết chưa đủ để kịp trị liệu trước khi tử thần cướp đoạt sinh mạng”. Bác sĩ Dewey kể trường hợp một đứa bé 4 tuổi gầy yếu, dạ dày bị cháy vì uống nhầm nước bồ tạt, đến nỗi uống vào một ngụm nước cũng không giữ lại được. Nó đã chết sau 75 ngày nhịn đói, trí khôn vẫn sáng suốt đến phút cuối cùng tuy rằng thân thể chỉ trơ lại có da mỏng bọc lấy xương với gân, nhưng bộ não không mảy may hao sút. Ông Macfacden phúc trình một vụ nhịn ăn 90 ngày và 9 người nhịn ăn 94 ngày để đình công phản đối ở Cork mà không hề có người nào có triệu chứng bị bệnh thiếu chất bổ cả. Người ta chỉ chết đói khi nào mọi dự trữ trong cơ thể đều cùng kiệt vì chỉ sau lúc ấy mọi cơ quan cần thiết cho sinh mạng mới bị tổn thương mà thôi. Trong những trường hợp bị bệnh rồi nhịn ăn mà chết, thì ta có thể nói quả quyết rằng tình trạng của người bệnh ấy nếu có ăn những thức hết sức bổ béo - bổ và uống thuốc chi đi nữa, người ấy vẫn chết mà còn chết sớm hơn nhiều. IV. NHỊN ĂN KHÔNG PHẢI LÀ CHẾT ĐÓI Nhiều người không hiểu, tưởng rằng máu huyết và các mô cần thiết cho sinh mạng bị huỷ hoại liền sau khi nhịn ăn và mỗi ngày nhịn ăn thêm là mỗi ngày tàn phá thêm cơ thể, các mô cần thiết cho mạng sống. Sinclair nói: “Quả thật có nhiều người chết đói sau 3 hay 4 ngày nhịn ăn nhưng sự chết đói kia chỉ do trong óc họ: chính sự sợ hãi đã giết chết họ”. Ta nên phân biệt sự tuyệt thực làm hai giai đoạn: Giai đoạn nhịn ăn hữu ích và giai đoạn đói ăn nguy hại. Carrington tóm tắt ý nghĩa sự nhịn ăn như sau: Nhịn ăn là một phương pháp khoa học để đào thải các mô bệnh tật và những chất liệu của ốm đau nên sau đó thế nào cũng có những hậu quả tốt đẹp. Đói ăn thì không còn thức ăn dự trữ cần thiết để cung cấp cho các mô nữa và bây giờ sự tự phân đưa đến những kết quả tai hại. Tất cả bí quyết có thể tóm tắt như sau: Nhịn ăn bắt đầu với sự ngừng bữa ăn đầu tiên và kết thúc bằng sự biết đói tự nhiên, trái lại đói ăn khởi đầu bằng sự trở lại của cái đói tự nhiên và chung cuộc bằng cái chết... Chỗ mà cái nhịn ăn kết thúc lại là cái đói ăn bắt đầu. Đói ăn là tiêu thụ các mô lành mạnh làm gầy yếu cơ thể, làm suy kiệt sinh lực; nhịn ăn là quá trình tiêu hoá các chất nguy hại, các mô mỡ vô ích, tăng gia khí lực và đem lại cho cơ thể sự điều hoà mà ta gọi là sức khoẻ. Các nhà sinh lý học cũng kiếm cách quy định thời gian con người có thể sống không cần đến thực phẩm căn cứ trên các loài vật đặc biệt là loài có vú. Qua các cuộc thí nghiệm, người ta thấy rằng thời gian tới khi chết tỉ lệ với căn số bậc 3 của sức nặng cơ thể. Một con chuột nặng 180gr chết sau 5 hoặc 6 ngày không ăn. Thời gian này ở con người sẽ là 15,6 lần dài hơn tức là từ 96,5 đến 109 ngày. Một con chó cân nặng 20kg nhịn đói 60 ngày sau mới chết, so sánh thì thời gian tương đương ở con người sẽ là 89 ngày. Một con thỏ nặng 2kg422 chết sau 26 ngày, tương ứng với thời gian 79 ngày ở con người. Bác sĩ A. Putter nghiên cứu về phép nhịn ăn kết luận rằng căn cứ theo khoa sinh lý đối chiếu không có một lý do gì con người lại không thể sống từ 90 đến 100 ngày nhịn ăn miễn là họ được duy trì trong những điều kiện thích đáng về nhiệt, nghỉ ngơi, không khí trong sạch, về nước và thoải mái tinh thần. Sylveter Graham phủ nhận người mập có thể sống lâu trong việc nhịn ăn hơn người gầy. Ông ta bảo rằng: “Nếu quả thực mỡ là để giành cho việc nuôi dưỡng cơ thể trong những thời gian nhịn ăn dài ngày thì nếu một người béo mập và một người gầy cùng chung nhịn ăn một lần trong những điều kiện giống nhau thế nào người mập cũng sống lâu hơn người gầy nhiều; nhưng trên thực tế lại trái hẳn: Người gầy xuống cân rất chậm và sống hơn người mập đến mấy ngày. Trail và Garrington cũng đồng quan điểm khi bình luận ý kiến trên: “Tôi có thể nói rằng đấy là những điều chính tôi đã kinh nghiệm”. Có điều đáng để ý là tình trạng thiếu chất bổ không hề xảy ra trong thời gian nhịn ăn. Tình trạng này trái lại xảy ra rất chóng trong trường hợp chỉ cho ăn độc một món hydrat-cacbon, protein hay thực phẩm thiếu khoáng chất. Trong những thí nghiệm trên những con vật ăn uống không có khoáng chất, các con vật này trở thành yếu đuối, đờ đẫn, mệt nhọc, lên cơn và chết. Trong các cuộc thí nghiệm về loài này, người ta thấy thần kinh hệ bị tổn thương hơn cả. Bác sĩ Foster thí nghiệm nơi những con chó và bồ câu phát hiện thấy nơi chúng những triệu chứng tự đầu độc nếu cho ăn những thực phẩm không có khoáng chất và chết còn chóng hơn là không cho chúng ăn vật gì cả. Những con chó cho ăn thức ăn thiếu khoáng chất bị chết sau một thời gian từ 26 đến 30 ngày trong lúc những con chó nhịn ăn hoàn toàn chết sau thời gian từ 40 ngày đến 60 ngày. Con người cũng sẽ chết đói một cách chắc chắn và vô cùng nhanh chóng nếu người ta chỉ ăn một hoặc hai chất bổ ví dụ như bột trắng với nước hoặc đường trắng với nước mà thôi... Không ăn uống gì cả, cơ thể tự túc bằng thức ăn dự trữ trong các mô nhưng luôn luôn có sự quân bình trong cơ thể. Nhưng thiên nhiên không dự trữ những chất để cung cấp cho một cơ thể liên tục hấp thụ những thức ăn khiếm khuyết không hoàn hảo. Cơ thể không tồn trữ những chất cần thiết để bù đắp cho những sự thiếu thốn chất bổ tạo ra do thức ăn biến tính. Thực vậy, người ta đã thí nghiệm nhiều lần và nhận thấy rằng con người ta có thể chết bằng cách ăn những bữa mất quân bình còn nhanh hơn là hoàn toàn nhịn ăn. Người ta sẽ chết còn nhanh hơn nhịn đói nếu chỉ ăn cơm gạo máy thật trắng và càng ăn nhiều, người ta càng suy lụn và càng đi nhanh đến cái chết. Những thức ăn khiếm khuyết trên muốn được đồng hoá đã thu hút quá nhiều những chất dự trữ nào đó trong cơ thể làm cho những chất đó suy mòn, cạn kiệt nhanh chóng gây nên một sự mất quân bình trầm trọng về mọi phương diện sinh, lý, hoá. Tình trạng của cơ thể nhịn ăn là khác: Cơ thể kiểm soát dễ dàng sự phân phối và tiêu hao các chất dự trữ, loại nào đáng được dùng trước thì dùng trước, loại nào đáng bảo tồn, đáng dự phòng thì giữ lại, loại nào đáng chia cho cơ quan này hoặc cho cơ quan khác thì phân phối lại cho thích hợp. Nhờ vậy sự quân bình sinh hoá được thành lập, bệnh thiếu chất bổ không thể phát sinh và không một cơ quan nào bị tổn thương. Suốt thời gian nhịn ăn hoàn toàn, thức ăn dự trữ được dùng một cách quân bình, những chất thừa thãi được sử dụng trước tiên rồi tuần tự những thức ít quan hệ, phục hưng dần lại sự quân bình tốt đẹp cho châu thân. Nhịn ăn đem lại quân bình cho cơ thể còn ăn uống càng khiếm khuyết làm sự mất quân bình càng thêm trầm trọng. Người ta phúc trình những trường hợp hoại huyết, đậu lào (typhus), thương hàn, màng não, tuỷ viêm, cúm... phát sinh trong những vùng đói kém. Sau trận đói người ta bắt gặp những trường hợp còm xương, đi tả, phong ngứa, mắt sưng chảy mủ hầu như khắp các trẻ em và các bệnh ấy kéo dài mãi một thời gian sau khi trận đói chấm dứt. Số người mù tăng lên rất nhiều sau các trận đói. Vì những hiện tượng trên, người ta thường lầm tưởng nhịn ăn sẽ có những tai hại trên, nhưng nếu có chút kinh nghiệm thực tế về phép nhịn ăn người ta sẽ thấy rằng những cuộc nhịn ăn rất dài ngày cũng không bao giờ phát sinh ra những kết quả tai hại như thế. Nhịn ăn không khi nào phát sinh các chứng mù, điếc, đần độn, điên cuồng; các bệnh mắt, còm xương, hỗn loạn ruột... là những tàn tích sở dĩ phát xuất chính là do sự ăn uống thiếu quân bình. Cho nên chẳng phải riêng trong các nạn đói kém mà con người thường bị bệnh tật mà những kẻ ăn uống đầy đủ, những kẻ ăn quá nhiều đường kẹo, nước ngọt, gạo máy... cũng không tránh khỏi bệnh tật trên. Chúng ta đừng lầm lẫn kết quả tốt đẹp của phép nhịn ăn và hậu quả tai hại của những cách ăn độc một vị hoặc bột trắng hoặc mỡ hoặc patê, nước thịt, sữa nấu diệt trùng, đường hoá học, khoai tây nghiền... Ăn những thức ăn khiếm khuyết, thiếu quân bình phát sinh ra chứng bệnh về thần kinh; nhịn ăn chẳng những không bao giờ gây ra các chứng bệnh trên mà còn làm biến mất những triệu chứng thần kinh nếu người bệnh có trước khi nhịn ăn. Kết quả của sự nhịn ăn và lối ăn uống khiếm khuyết thiếu quân bình hoàn toàn trái ngược nhau trừ sự sụt cân và đôi khi giảm sức tạm thời. Như đã thấy, sức khoẻ con người hoàn toàn thành lập trên sự quân bình Âm-Dương. Và trên nguyên tắc Âm-Dương tương trợ, Giáo sư OHSAWA đã nói: “Ta không nên chữa một bệnh gì cả bởi vì tự nó sẽ tự điều chỉnh lấy”. Nhịn ăn là thời cơ thuận tiện cho tính năng cơ thể “bớt chỗ dư, bù chỗ thiếu, chỗ cao thì ép xuống, chỗ thấp thì nâng lên” cho Âm-Dương dung hoà đắp đổi lấy nhau, thuận đạo mà đem lại quân bình cho cơ thể. Nhưng ta phải rõ đâu là giới hạn khả năng của cơ thể mới mong đem lại kết quả như ý muốn, nếu nhắm mắt làm bừa ta khó tránh khỏi sa vào sự nguy hại vì Dịch kinh nói: “Vật cùng tắc biến, vật cực tắc phản”. PHẦN II NHỊN ĂN ĐỐI VỚI THIÊN NHIÊN VÀ KHOA HỌC I. NHỊN ĂN CỦA LOÀI VẬT Trước khi đi sâu vào phương pháp nhịn ăn áp dụng cho con người, ta thử đi vào thiên nhiên khảo sát một ít về tập quán nhịn ăn của một số thú vật. Thú vật không phải chỉ nhịn ăn trong lúc đau mà cả trong lúc lành mạnh. Chúng ta cần chú ý điểm này để bỏ ý niệm sợ nhịn ăn và có một nhận định chính xác hơn về vấn đề này. Trong thời kỳ giao tình, chim cánh cụt (pingouin) và ngỗng đực nhịn ăn. Sau thời kỳ này, ngỗng đực sụt mất 1/4 sức nặng. Con hải cẩu thì ai cũng biết là nó nhịn đói trong suốt mùa giao tình. Đằng đẵng 3 tháng liền của thời kỳ giao tình hàng năm, con hải cẩu không ăn mà cũng chẳng uống (trong thời gian này thực phẩm nó có thể kiếm dễ dàng) từ tháng 5 hay trung tuần tháng 6 đến cuối tháng 7 hoặc thượng tuần tháng 8. Sau khi quyết chiến để thủ thắng với 5-6 tình địch ngõ hầu chiếm một địa điểm mà lập một hậu cung với 5-6 cô hải cẩu, chàng hải cẩu đực suốt mùa hè phải phần thì liên miên chiến đấu để bảo vệ hậu cung của mình, phần thì phải làm thỏa mãn sinh lý cho các cô thê thiếp. Ray Champan Andrews nói: “Trong suốt mùa hè, chàng hải cẩu không ăn không ngủ. Đây là chuỗi ngày trác táng về tình dục và chiến đấu để chống những kẻ đến nhòm ngó và xâm lăng hậu cung của mình”. Súc vật nhịn ăn khi bị kích động hoặc uể oải, buồn rầu. Người ta thường kể chuyện nhiều con chó buồn đến bỏ ăn khi chủ nó chết hoặc đi vắng lâu ngày. Có nhiều trường hợp chó và các giống vật khác nhịn ăn đến 10, 20 ngày hay hơn thế nữa khi chúng bị nội thương hay gãy xương. Voi bị thương nó cũng nhịn ăn. Mèo, chó, bò, ngựa, heo đều nhịn ăn khi chúng nó đau. Đôi khi để thích nghi với hoàn cảnh, với sự khan hiếm thức ăn, thiếu nước, con vật muốn bảo tồn sinh mệnh đã tạo thói quen nhịn ăn trong giấc Đông miên hay Hạ miên. Về mùa lạnh ở các miền cực Bắc, ngày ngắn đêm dài, khí hậu lạnh lẽo phần mưa tuyết, phần thiếu thốn thức ăn, thú vật phải giải quyết đời sống của chúng cho thích nghi trong các trường hợp rất khó khăn bất lợi. Nhiều giống thú tích trữ thức ăn ở ngoài, nhiều loài để dành trong mình. Dơi, chuột, chồn, sóc, nhím, cóc, nhái, tắc kè, rắn, ốc sên, gấu, cá sấu, cá gáy đều là những con vật có giấc đông miên ở xứ lạnh. Đông miên là một trạng thái yên ngủ trong lúc đó sự hô hấp, tuần hoàn và biến dưỡng giảm bớt rất nhiều, trạng thái nhờ đó thú vật ôn đới sống qua mùa rét. Trong thời gian này, sự hoạt động các cơ quan trong nội thể gần như ngừng nghỉ, nhiệt độ trong mình sụt xuống xuýt soát với khí hậu bên ngoài, tim đập rất chậm và con vật mất từ 30% đến 40% sức nặng, đôi khi 50% hay hơn thế nữa. Trong giấc đông miên, con thú có thể sống nhờ vào số thức ăn tích trữ trong cơ thể hoặc thỉnh thoảng thức dậy ăn số đồ để dành trong hang ổ. Trong thời kỳ đông miên của con dơi, tim nó đập chậm đến mức ta không nhận thấy, hơi thở hầu như dứt hẳn, máu chảy rất chậm, nhiệt độ trong mình xuýt soát khí hậu bên ngoài, ví dụ khí hậu ở ngoài là 1 độ thì trong mình nó chỉ 1 độ rưỡi mà thôi. Còn ở các vùng nhiệt đới, trong thời gian khô hạn lúc thức ăn thiếu cây cỏ khô héo, cũng có nhiều loài thú ở vùng ôn đới, đặc biệt các miền sa mạc các giống sâu bọ, ốc sên, cá, cá sấu và vài loài có vú đã vượt qua những nỗi khó khăn đó với giấc hạ miên. Mùa nắng sông hồ khô cạn, không có thức ăn, cá sấu nằm yên không ăn trong suốt những ngày nắng hạn. Nhiều giống cá như cá dét đục sâu trong lòng đất không ăn chờ mùa mưa tới. Rùa ngủ trong bùn, rùa biển ngủ trong hốc đá, đỉa, nhái ngủ trong bùn khô. Nắng, hạn, thiếu thức ăn là yếu tố quyết định giấc hạ miên cũng như lạnh và đói thúc đẩy giấc đông miên nơi các động vật. Thời gian nhịn ăn của loài có xương sống có thể kéo dài từ vài ngày nơi những giống chim nhỏ, vài tháng nơi loài có vú, đến nhiều năm nơi loài rắn. Loài máu lạnh thường có thể sống nhịn ăn lâu dài hơn loài máu nóng nhiều. Sự nhịn ăn trong những điều kiện khác nhau là tình trạng rất thông thường trong thiên nhiên dùng để đương đầu với những nhu cầu của đời sống. Cái khả năng nhịn ăn trong giấc đông miên và hạ miên là yếu tố quan trọng để sống còn; nếu không có khả năng trên con vật sẽ chết trong mùa đông hay hạn hán do thiếu thực phẩm hay thiếu nước. Trong trường hợp đau ốm, bị thương nặng, khi không một thức ăn nào có thể tiêu hoá được thì cơ thể dùng những thức ăn dự trữ trong tế bào để nuôi dưỡng những cơ quan trọng yếu và điều hành các hoạt động cần thiết cho sinh mạng. Sốt, đau, buồn, khổ, viêm chặn đứng sự xuất tiết các dịch của bộ tiêu hoá, ngăn ngừa mọi sự co bóp của dạ dày và vì vậy không còn cảm giác thích ăn nữa. Trong những trường hợp như vậy chỉ còn một nguồn thực phẩm: Thức ăn dự trữ trong người. Nhịn ăn trong lúc bệnh tật cũng như trong thời kỳ động đực giao tình hoạt động cơ thể vẫn tiếp tục nhưng sự hao tổn thì nhanh hơn trường hợp nhịn ăn của giấc đông miên và hạ miên nhiều. II. NHỊN ĂN VỚI CON NGƯỜI Nơi con người, người ta nhịn ăn với nhiều mục đích, vì nhiều trường hợp: nhịn ăn về tôn giáo, nhịn ăn để cầu nguyện, nhịn ăn vì giới luật, nhịn ăn để biểu diễn lấy tiền, nhịn ăn để thí nghiệm, nhịn ăn vì không ăn được, vì tàu chìm, vì hầm mỏ sụt.v.v... Theo Giáo sư Agostino Levannzin, con người có thể mất 60% sức nặng trung bình cơ thể mà không có nguy hiểm đến tính mạng hay suy giảm sức khoẻ. Theo ông thì một phần lớn sức nặng của cơ thể bình thường cũng là những thức ăn dự trữ. Nhịn ăn trong trường hợp không ăn được, ví dụ bị ung thư dạ dày, dạ dày bị huỷ hoại vì axít, v.v... Ngày nay nhiều người cho rằng ốm đau thì phải ăn để bảo vệ sức khoẻ và nếu không ăn thì sức đề kháng sẽ giảm đi và người ta sẽ bị mất sức, như thế có nghĩa là nếu như người bệnh không ăn thì có thể chết được. Trên thực tế thì trái lại hễ càng ăn thì càng dễ chết. Khi thú vật đau thì chúng nhịn ăn và chỉ khi nào đã bình phục nó mới chịu ăn lại. Người ta phải nhịn ăn, vì chiến tranh, vì hạn hán, vì sâu bọ phá hoại mùa màng, vì bão lụt, vì động đất, vì giá băng, v.v... đã gây sự đói kém cho dân chúng cả một vùng, một xứ. Có trường hợp họ còn thực phẩm, nhưng cũng có trường hợp họ không có mảy may. Trong những trường hợp này chính khả năng nhịn ăn là phương tiện hữu hiệu để bảo tồn sinh mạng. Sự buồn rầu, lo lắng, hờn giận, xáo trộn tinh thần và những giao động tình cảm khác cũng có tác dụng tai hại trên sự tiêu hoá không kém sự đau đớn, cơn sốt hoặc các viêm chứng trầm trọng. Những người điên cũng thường ghét các món ăn, thế mà người ta lại thường cố ép bắt họ ăn, đôi khi với những cách rất tàn nhẫn. Sự ghét món ăn là một hành động của bản năng rất thích hợp. Bác sĩ Page kể chuyện một người bị bệnh tinh thần phục hồi tình trạng bình thường sau 41 ngày nhịn ăn sau khi đã đủ cách chữa chạy với các phương pháp khác. Nhịn ăn theo bản năng là chuyện rất thường: Người bệnh có thể vẫn làm lụng công việc nhưng vẫn thấy không thèm ăn vì bản năng cơ thể biết rằng ăn như thường ngày sẽ tăng bệnh. Nhưng người ta thường nghĩ rằng ăn không biết ngon là một tai biến và tìm mọi cách ăn cho nhiều, tưởng rằng làm như vậy thì chóng bình phục: người ta thay đổi món ăn, uống rượu khai vị, uống thuốc kích thích dạ dày, v.v... Người ta có thành kiến lầm lạc sợ chết đói vì nhịn ăn, có biết đâu rằng một đứa bé có thể nhịn ăn đến 70 ngày, nhiều người chẳng những có thể nhịn ăn được 76 ngày mà còn có thu được nhiều lợi ích cho sinh lực. Muni Shrri Misriji, một tín đồ đạo Jain đã nhịn ăn 132 ngày để thuyết phục kêu gọi các đồng môn đoàn kết thống nhất. Năm 1928, các báo y học ở Balê đăng tin một thiếu nữ mắc bệnh thương hàn đã nhịn ăn 110 ngày. Bác sĩ Dewey thuật chuyện hai đứa bé vì uống nước bồ tạt hư hoại dạ dày, một đứa vẫn sống 75 ngày và một đứa sống hơn 3 tháng không ăn uống gì cả nhưng tinh thần vẫn sáng suốt đến giờ phút lâm chung. Bác sĩ Hazzard kể chuyện một thiếu phụ mắc bệnh phì mập và sưng thận kinh niên đã nhịn ăn trong 60 ngày. Bà này nhờ vậy lành mạnh trở lại và sinh đứa con đầu tiên sau 20 năm hôn lễ. Bác sĩ còn kể câu chuyện một người bệnh kinh niên trong khoảng 140 ngày đã nhịn ăn 118 ngày và nhờ vậy sau đó sức khoẻ được phục hồi. Bác sĩ Shelton nói rằng vụ nhịn ăn lâu nhất dưới sự săn sóc đích thân của ông là 68 ngày. Tháng 1-1931, bà A.G.Walker, một nữ ca sĩ danh tiếng xứ Rhodésie đã nhịn ăn 101 ngày, mỗi ngày chỉ uống vài lít nước nóng và lạnh để cho người gầy bớt. Một kỹ nghệ gia người Anh 53 tuổi ở tại Leeds (Luân Đôn) nhịn ăn dưới sự chăm sóc của John W. Armstrong, ông ta cân nặng 86kg 500 lúc khởi sự nhịn ăn, còn lại 59kg 800 sau 50 ngày nhịn ăn và rốt cuộc cân nặng 46kg 200 sau 101 ngày nhịn ăn, như vậy là hao mất 40kg 300. Trước ngày nhịn ăn, ông ta bị mù (hai mắt bị nội trướng thong manh), mũi không biết mùi, động mạch cứng, tim rối loạn. Trước kia ông đã từng chữa với i-ôt, aspirine, atropine và nhiều thuốc khác. Trước ngày nhịn ăn, ông ta không phân biệt được cả ngày và đêm. Sau 56 ngày nhịn ăn, thuỷ tinh thể trong mắt bớt đục và ông đã thấy mờ mờ. Sau đó thị giác phục hồi dần dần đến khi sáng hẳn như trước. Khứu giác cũng trở lại bình thường, tình trạng của tim và động mạch khả quan. Các phóng viên báo chí phỏng vấn, ông trả lời: “Tôi đã tuyệt vọng. Chữa đủ cách mà chẳng ăn thua gì, cuối cùng tôi đành liều theo phép nhịn ăn. Tôi làm bất cứ cách nào với hy vọng lấy lại sức khoẻ. Tôi bắt đầu phải nhịn ăn thử 10 ngày, thấy hơi đỡ, thế là tôi cứ tiếp tục mãi. Đến 101 ngày thì tôi dừng lại, nhưng có lẽ tôi có thể tiếp tục thêm mười ngày nữa nếu tôi muốn”. Ông ta nói: “Nhịn ăn dễ ợt sau 15 ngày đầu, nhưng trong giai đoạn đầu ấy phải có một ý chí để chống lại sức cám dỗ của thức ăn”. Ông ta vẫn có thể dạo chơi thong thả hàng ngày trong thời kỳ nhịn ăn và trả lời lưu loát các phóng viên trong 2 giờ đồng hồ liên tiếp vào ngày thứ 101. Ông A.J Carison, giáo sư sinh lý học Đại học đường Chicago chủ trương rằng một người khỏe mạnh ăn uống đầy đủ có thể sống từ 50 đến 75 ngày không cần thực phẩm với điều kiện đừng bắt người ấy chịu lạnh quá đáng, tránh việc lao lực và giữ tinh thần cho bình tĩnh. Thời hạn 75 ngày cũng chỉ là thời hạn trung bình mà lắm người vượt khỏi. Trong tác phẩm The Natural Cure, bác sĩ Page viết: “Người ta thường cho những người nhịn ăn là những kẻ phi thường nhưng thật ra họ chỉ phi thường nơi điểm họ biết khả năng có thể chịu đựng được sự nhịn ăn và họ có gan thực hành sự hiểu biết ấy”. Người ta thường phản đối sự nhịn ăn nơi con người lấy cớ rằng con người không phải là giống vật đông miên. Tuy rằng con người không có những dự trữ thức ăn đặc biệt như giống gấu ở Nga, giống hải cẩu ở Bắc cực nhưng con người lại có thức ăn dự trữ trong khắp các tế bào giống như mọi thú vật như chó, mèo, heo, ngựa, trâu, voi cũng chẳng phải là những thú vật đông miên nhưng chúng vẫn theo bản năng nhịn ăn mỗi khi đau ốm hoặc bị thương. Nếu không có những thức ăn dự trữ trong tế bào cơ thể trong những trường hợp như vậy hoặc đói kém thì chúng làm sao có thể sống còn được. Mỗi tế bào, mỗi cơ quan đều có thức ăn dự trữ của nó, hơn thế nữa, còn có một số lớn glycogene tích tụ trong gan, một số prôtêin và nhiều chất bổ dưỡng luân lưu trong máu, trong nước lâm ba, nhiều ký lô mỡ (dù người rất mảnh khảnh cũng có rất nhiều mỡ) và rất nhiều thức ăn dự trữ trong tuỷ xương. Trong các nội hạch dự trữ rất nhiều các loại vitamin. Đông miên khác sự nhịn ăn ở loài vật đông miên có những nguồn dự trữ riêng trong thời kỳ đó hơn nữa xuất biến dưỡng thấp thua nhiều trong trường hợp đông miên vì vậy sự hao tổn thức ăn rất ít. Nhịn ăn là một sự hấp dưỡng vật thực đặc biệt dưới hình thức rất đơn giản của cơ thể nếu ta có thể nói. Chẳng những các thực phẩm dự trữ có thể nuôi những tế bào cần thiết cho sinh mạng trong một thời gian nào đó mà không một tế bào nào cần thiết cho sinh mạng lại bị thương tổn một khi các thức dự trữ đó đang còn. Sợ hãi sự nhịn ăn thiếu căn cứ vì nó được thành lập trên vô minh, trên một quan niệm sai lầm. Nhịn ăn là không ăn mà chỉ uống nước cho đến lúc thức ăn dự trữ không còn nữa. Còn đói ăn là cứ nhịn ăn đến lúc mà các thức ăn dự trữ đã tiêu thụ hết rồi. Có thể tận dụng tối đa thức ăn dự trữ: nó cố dùng những tài nguyên lâu chừng nào tốt chừng ấy. Thật vậy, những chất tuyệt đối cần thiết cho sinh mạng và cho sự vận chuyển các cơ quan cần thiết như tim, thần kinh hệ chỉ được đem dùng khi nào những cơ quan khác không thể cung cấp được. Thứ được dùng trước hết là mỡ và glycogene, thứ đến là các chất protêin. Nhịn ăn càng lâu, cơ thể càng tiết kiệm thức ăn bằng cách giảm mọi hoạt động vật chất, sinh lý đến mức tối thiểu. Nếu người nhịn ăn nghỉ ngơi thì số dự trữ ít tiêu hao hơn. Sự hoạt động của cơ thể, cơn sốt, sự lạnh lẽo bên ngoài, nỗi buồn rầu, niềm xúc động mạnh làm gia tăng sự tiêu hao các thức ăn dự trữ. Trong sách The Natural Cure, bác sĩ Page nói: “thức ăn dự trữ trong tế bào để tự dưỡng trong lúc nhịn ăn là thực phẩm tốt nhất, quý báu nhất đối với người lâm bệnh, đặc biệt là trong các bệnh cấp tính trầm trọng”. Các mô của cơ thể có thể xem như một bể chứa thức ăn có thể vận chuyển đến bất cứ nơi nào theo sự cần dùng. Khả năng của cơ thể về việc nuôi các mô quan hệ đến sinh mạng do các thức ăn dự trữ và các mô ít cần thiết cho sự sống là một sự quan trọng đối với người bệnh không thể ăn uống và tiêu hoá thức ăn. Không có khả năng này, người bệnh trong cơn cấp phát sẽ chết đói ngay. Người ta thấy rằng những mô cần thiết cho sinh mạng được nuôi dưỡng trước hết do những thức ăn dự trữ và khi những thức ăn này đã cạn thì cơ thể tự dùng những mô ít quan trọng cho sự sống để nuôi dưỡng các mô cần thiết cho sinh mạng. Cho nên một khi thức ăn dự trữ đang còn thì nhất định không có sự thiệt hại mảy may đến các mô cần thiết cho sinh mạng. Người bệnh theo bản năng mà nhịn ăn nhưng thường các y sĩ, các người nuôi bệnh hay cha mẹ, anh, em bệnh nhân lại ép uổng người bệnh cố ăn để giữ sức. Thực là một điều lầm lẫn lớn mà người ta không ngờ đến. III. TRẠNG THÁI TỰ PHÂN Tự phân là trạng thái tiêu hoá hay phân hoá các tế bào nhờ các enzym ở ngay trong tế bào. Đó là một quá trình tự tiêu hoá, nội bào tiêu hoá. Trạng thái tự phân này chẳng phải riêng cho động vật mà cả nơi thực vật. Các trường hợp hạt nảy mầm, cành nứt rễ, củ nứt nhánh, nứt lá đều là hiện tượng tự phân để tu dưỡng hoặc sinh trưởng cả. Trong trường hợp trứng được ấp để nở ra con cũng là một quá trình tự phân để tự dưỡng: trứng phải tự phân các chất bổ dưỡng tạo ra cơ thể và nuôi dưỡng phôi thai cho đến lúc trưởng thành khảy vỏ thoát ra ngoài. Muốn tạo ra các tế bào của cơ thể thì thức ăn kia phải được tiêu hoá và sự tiêu hoá này phải được thực hiện nhờ các phân hoá tố của phôi thai xuất tiết. Ta bẻ gẫy cái đuôi của con thằn lằn, rồi bắt nó nhịn ăn, chỉ một thời gian sau là cái đuôi mới lại mọc ra. Con nòng nọc lúc sắp biến thành cóc hoặc ếch, nhái thì cái đuôi nó trở thành vô dụng; người ta thường tưởng rằng cái đuôi ấy rụng đi, nhưng trên thực tế cái đuôi ấy gồm thịt, mỡ, da, thần kinh tự phân hóa dần để đưa vào trong máu bồi dưỡng cho con vật nhịn đói lúc hai chân trước bắt đầu mọc. Thức ăn do sự tự phân trên thay thế thực phẩm bên ngoài giúp con vật hoàn thành kiến tạo các bộ phận trong cơ thể một cách mỹ mãn để bước từ giai đoạn nòng nọc sang giai đoạn ếch, nhái. Trường hợp con thằn lằn thì thức ăn tự phân trong cơ thể để tái tạo đuôi. Còn trường hợp con nòng nọc thì cái đuôi tự phân để cải tạo nội tạng của con nhái. Con tằm sau 30 ngày ăn dâu, kéo kén nằm nghỉ nhịn ăn, có thể tự phân biến đổi thành bướm ngài xé kén bay ra. Các cơ cấu cũ đều bị phá huỷ, các vật liệu cải tổ, các bộ phận được kiến tạo ra và thiết lập lại đến nỗi khi ra khỏi kén so sánh con bướm ngài với con tằm ngày trước ai cũng phải cho rằng đó là hai giống khác nhau. Trạng thái tự phân trong lúc nhịn ăn đã làm ra phép lạ đó. Đây là một phép lạ hiển nhiên để cho ta thấy khả năng của cơ thể đã làm gì trong lúc nhịn ăn. Con thú bị trọng thương nhịn ăn thế mà vết thương đóng sẹo. Những lượng máu vĩ đại được vận chuyển đến phần thương tích toả ra một số thực phẩm lớn được đem lại nơi này. Máu làm động tác phân phối trên mọi hình thức của đời sống. Con vật nhịn ăn phải nhờ đến thức ăn dự trữ để hàn gắn lại các mô bị rách nát, bị cắt đứt hay gãy vỡ. Các thức ăn dự trữ trước hết được tự phân hoá rồi chuyển vận đến chỗ nào mà cơ thể cần dùng. Cơ thể chẳng những có thể phân phối các thức ăn dự trữ mà còn có thể phân phối lại cho thích hợp với tình trạng cơ thể nhờ phương pháp tự phân. Trạng thái tự phân là một quá trình được kiểm tra chặt chẽ chứ không phải một quá trình mù quáng như thả voi trong hàng đồ gốm. Trong lúc con nhái ở tình trạng nòng nọc nhịn ăn thì cái đuôi tự nó phân hoá thành thức ăn và tiêu mất chứ không bao giờ có một cái chân hay một cơ quan nào khác bị tự phân. Một con đỉa bị chặt thành nhiều mảnh, mỗi mảnh tự phát triển thành và biến dần thành một con đỉa mới. Mỗi mảnh như vậy không thể hấp thụ thức ăn ở ngoài để trưởng thành. Vì vậy, mỗi mảnh phải phân phối lại các thức ăn dự trữ nhờ tự phân để tạo thành một con đỉa mới nhỏ xíu. Sau đây là những trường hợp tự phân phát hiện trong nhiều giai đoạn trong đời sống của con người: sự thu nhỏ nhũ tuyến sau thời kỳ cho con bú, sự thu bóp tử cung sau khi sinh đẻ, thu bé toàn thể của cơ thể người già, sự tan các nước vàng trong phổi lúc bị bệnh sưng phổi, sự thu nhỏ hạch thymus lúc dậy thì. Trong thời kỳ nhịn ăn, các cơ quan trọng yếu như tim, não không thể ngừng nghỉ được nên phải cần cung cấp các thực vật như prôtêin, glucit, lipit, khoáng chất, vitamin, vì vậy phải rút các thức ăn trong bắp thịt của bộ xương được xem như những cơ quan để cử động nhưng đồng thời cũng là kho dự trữ prôtêin. Các prôtêin của bắp thịt và cơ quan khác được tự phân hoá nhờ các enzym nội bào tiến thành prôtêin tan loãng, thành acit amin để chuyên chở tới các cơ quan trọng yếu cho sinh mạng. Ta cũng nên để ý rằng sự kiểm tra của trạng thái tự phân bào gồm cả các mô đau ốm như mụn nhọt, vết ung mủ, các chứng rỉ nước... Trạng thái tự phân là một quá trình được kiểm tra chặt chẽ chứ không phải phó thác cho rủi may, là một sự đảm bảo để chúng ta khỏi thắc mắc về vấn đề các mô cần thiết cho sinh mạng có bị hy sinh một cách bừa bãi trong thời gian nhịn ăn hay không? Và chúng ta đã biết một cách chắc chắn rằng chỉ những mô không quan hệ mới bị phân hoá để vận chuyển đến nuôi các cơ cấu cần thiết cho sinh mạng. Qua các nhận xét trên, ta có thể rút ra kết luận sau: 1) Nhờ các diệu tố nội bào, cơ thể có thể tiêu hoá các chất đạm, mỡ, đường của cơ thể mình nhờ sự phân hoá. 2) Cơ thể có thể kiểm tra quá trình tự phân, giới hạn sự phân hoá ở các mô không quan trọng hoặc ít quan trọng. Và dù đến tình trạng đói ăn khi đã phạm đến giới hạn các mô cần thiết cho sinh mạng vẫn có một sự kiểm tra chặt chẽ và các mô tự phân để cung dưỡng vẫn là các mô tương đối kém quan trọng. Sự phân hoá các mụn nhọt Các nhà sinh vật học đều công nhận rằng các cơ cấu sinh trưởng bất thường như bướu, ung nhọt, sưng... tất nhiên không cần thiết cho sinh mạng bằng các mô bình thường, vì vậy chúng dễ bị huỷ hoại hơn nhiều. Trên phương diện sinh lý ta cũng thấy rằng chúng dễ bị phân hóa vì nó không có một liên hệ mật thiết gì với cơ thể, không đầy đủ thần kinh và khí huyết... Sự thiếu sót này là yếu tố làm cho chúng dễ bị phân hoá. Những người nhiều kinh nghiệm về bản thân hoặc quan sát về phép nhịn ăn đều đồng ý rằng các mô bất thường dễ bị phân hoá và bài tiết nhanh hơn các mô bình thường. Các nhà sinh lý học tuy có nghiên cứu quá trình tự phân nhưng họ không biết áp dụng vào đâu mà chỉ dùng độc một cách là để làm cho gầy người mà thôi. Đáng lẽ ra họ phải biết lợi dụng trong trường hợp hiện tượng tự phân để tiêu hoá các mụn nhọt và dùng các chất đạm cùng các chất bổ dưỡng khác của nó để nuôi các mô cần thiết cho sinh mạng. Quá trình tự phân có thể có một công dụng thực tế vì nó có thể dùng để phân hoá các mụn nhọt, các cục bướu. Ai cũng biết rằng trong các mụn, các bướu gồm có thịt, có máu, có xương, tuỳ đó mà có các danh từ bướu xương để gọi các mô xương, bướu cơ để gọi các mô thịt, bướu thần kinh để gọi các mô thần kinh, bướu mỡ để gọi các mô mỡ, bướu xơ để gọi các mô xơ, bướu nhâm thượng bì để gọi các mô thuộc thượng bì.v.v... * Các bướu trên gọi chung với danh từ chuyên môn là tổ chức mới (néoplasme). Một bướu lớn cứng trên vú có thể chỉ là chỗ sưng của một hạch lâm ba hay một hạch vú. Một cái hạch bị sưng như vậy có thể rất đau đớn nhưng không phải là một tổ chức mới. Độc giả đã thấy rõ sự nhịn ăn có thể phân hoá mỡ và các thớ thịt thì hẳn chẳng còn thắc mắc về sự tự phân làm tiêu hoá mất các mụn sưng bướu.v.v... Trong lúc nhịn ăn, các mô thừa thãi tích luỹ đều được chú ý và phân tích; các thức ăn phân hoá được sung dụng để nuôi dưỡng các mô quan trọng, các cặn bã đều được đào thải một cách thường xuyên và trọn vẹn. Các mụn bướu được tiêu hoá lúc nhịn ăn được thực hiện mau hay chậm còn tuỳ thuộc vào tình trạng chung của người bệnh, lượng bổ dưỡng chứa trong người, loại bướu, sưng, sự cứng hay mềm của cục bướu, vị trí của cục bướu và tuổi tác của người bệnh. Đây là hai ví dụ cực đoan chứng minh sự khác nhau về mau, chậm. Một người đàn bà dưới 40 tuổi có một bướu xơ (fibroma) ở tử cung to bằng quả trứng trung bình. Sau 20 ngày nhịn ăn, bướu này tiêu hoàn toàn. Một người đàn bà khác trạc tuổi có một cục bướu bằng quả trứng ngỗng. Nhịn ăn 38 ngày thì bướu mới chịu tan. Đó là trường hợp một nhanh một châm. Những khối cứng nơi vú nhỏ từ bằng một hạt đậu đến lớn bằng quả trứng ngỗng đều có thể tiêu mất từ khoảng 3 ngày đến 3 tuần. Đây là một trường hợp đặc biệt vừa lý thú vừa bổ ích: Một thiếu phụ 21 tuổi có một cục sưng lớn bên vú phải làm đau nhức 4 tháng. Đến khám nhiều bác sĩ đều cho là ung thư và khuyên nên cắt vú gấp. Nhưng cuối cùng bà ta theo lời một người bạn và nhịn ăn chứ không chịu mổ xẻ. Sau 3 ngày nhịn ăn, cục cứng tiêu mất và đau đớn cũng không còn, sau đó mấy chục năm bệnh đó cũng không bao giờ tái lại. Hàng vạn trường hợp như trên bị người ta gán là ung thư, là sang nhọt, âm độc.v.v... đã bị mổ xẻ một cách oan uổng trong lúc có thể chữa lành một cách dễ dàng nhờ phép nhịn ăn. Những trường hợp như trên làm cho ta nghi ngờ lời tuyên bố các bác sĩ bảo rằng bệnh ung thư sớm biết mà mổ xẻ có thể ngăn ngừa và chữa lành tuyệt nọc. Vợ một kỹ nghệ gia bị mụn cứng bằng quả hồ đào ở vú đến khám nhiều bác sĩ, ông nào cũng khuyên một cách nồng nhiệt là nên cắt vú đi cho rồi. Nhưng bà ta không nghe và nhịn ăn trong 1 tháng thì cục cứng kia thu nhỏ lại bằng hạt đậu. Sau đó ăn chay 1 tháng thì mụn kia mất luôn. Một thời gian bà ta sinh 2 đứa con cũng đều cho con bú và đứa nào cũng mạnh khoẻ. Sự phân hoá các bướu sưng do nhịn ăn có nhiều ưu điểm hơn sự giải phẫu như sau: 1. Sự giải phẫu bao giờ cũng nguy hiểm, tự phân là một quá trình sinh lý không nguy hại. 2. Sự giải phẫu giảm sinh lực và giúp thêm sự suy bại về biến dưỡng là nguyên nhân của mụn bướu; trái lại nhịn ăn thúc đẩy sự tự phân các bướu nhọt và bình thường hoá sự dinh dưỡng, đào thải các độc tố tích tụ, giúp sự tiêu tan các bướu nhọt. 3. Sau khi mổ xẻ, bướu mụn đó có khuynh hướng phát sinh lại; trái lại nhịn ăn thì trường hợp tái sinh hết sức hiếm khi xảy ra. 4. Các bướu mụn thường tái phát dưới một hình thức độc hại sau lúc giải phẫu. Trái lại nếu có một bướu ung nào có khuynh hướng làm độc thì sự nhịn ăn ngăn trở việc thành hình. Nữ bác sĩ Hazzaro kể một trường hợp được nhiều bác sĩ cho là ung thư dạ dày đã lành hẳn sau 55 ngày nhịn ăn. Bác sĩ Shelton kể nhiều trường hợp bướu tử cung đã tiêu mất sau 30 ngày nhịn ăn. Có nhiều trường hợp để bướu to quá thì phải nhịn ăn làm nhiều kỳ trong 2-3 năm và giữa các thời kỳ nhịn ăn phải tiết thực các món ăn huyết nhục (thịt, cá, trứng). Trong nhiều trường hợp ung thư đáng lẽ phải dùng thuốc chỉ thống để làm dịu sự đau đớn, người ta chỉ nhịn đói 3- 4 hôm là dịu hẳn cơn đau liền. Trên phương diện âm dương như chúng ta đã thấy, sự tự phân là một trạng thái âm nhưng chính nhờ sự tự phân đó mà các cơ quan chính yếu được nuôi dưỡng để bảo tồn sinh mạng. Sự bồi dưỡng để bảo tồn sinh mạng phục vụ ý sống đó là một trạng thái dương. Âm dương quấn quýt lấy nhau, bổ trợ cho nhau, cùng nhau đắp đổi để đồng sinh hoá. Nhịn ăn tạo thời cơ thuận lợi cho cơ thể có đủ điều kiện thi triển quá trình sinh lý tự phân. Chính trong lúc nhịn ăn mà phát sinh các sự biến dịch nhiệm màu đổi trứng thành con chim, con tằm, con ngài, con sâu thành con bướm, con quăng thành con muỗi, con ấu trùng thành con ong, con ruồi, con muỗi mắt.v.v... Thì trong lúc con người nhịn ăn, sự bớt chỗ thừa bù chỗ thiếu, lập lại quân bình âm dương cho cơ thể, sự phục hồi sinh lực, sự hàn gắn trùng tu, bồi bổ các cơ cấu hư hỏng đâu phải là những điều ngoài ước vọng, những chuyện viển vông... Trên quan điểm dịch lý, trạng thái tự phân là một quá trình biến cái khiếm khuyết thành cái hoàn hảo, biến hoá bướu nhọt độc hại phá hoại sức khoẻ thành thức ăn tinh khiết nuôi dưỡng cơ thể, biến đổi oan tặc thành bạn hữu, cải tạo hận thù thành tình thương. IV. NHỮNG BIẾN CẢI HOÁ HỌC VÀ TỔ CHỨC NƠI CƠ THỂ TRONG LÚC NHỊN ĂN Người ta nhận thấy rằng trong thời gian nhịn ăn, các mô trong cơ thể không phải mô nào cũng suy tổn theo một tốc độ giống nhau: những mô nào không quan trọng cũng được dùng nhanh chóng hơn, những mô ít quan hệ chậm thua còn những mô quan trọng thì không bao giờ mang ra dùng lúc ban đầu mà chỉ dùng hết sức tằn tiện vào phút cuối cùng. Thiên nhiên luôn luôn ưu đãi các cơ quan cần thiết cho sinh mạng. Ban đầu là các chất mỡ tiêu dần, sau đó là các mô ít cần thiết. Các mô cần thiết cho sinh mạng được nuôi dưỡng bằng các thức ăn dự trữ trong các mô ít quan trọng do tác dụng các enzym, đó là quá trình tự phân như ta đã thấy trước kia. Theo sự phân tích trên nhiều trường hợp chết vì đói, người ta nhận thấy sự suy tổn đại để theo tỷ lệ như sau: Mỡ 91% Máu 17% Lá lách 63% Gan 56% Bắp thịt 30% Thần kinh 0 Như vậy chứng tỏ rằng não và thần kinh hệ không hề suy suyển đến cùng để giữ sự toàn vẹn về cơ cấu và tác dụng trên cơ sở cho khỏi phạm đến năng lực dinh dưỡng trong lúc các mô khác đều bị suy tổn nặng nề. Tùy tình trạng suy kiệt trầm trọng như vậy mà máu huyết vẫn không có sự hao giảm lớn lao như người ta thường tưởng. Do sự linh mẫn của bản năng, cơ thể ta luôn luôn để bảo vệ đến cuối cùng những cơ quan chủ yếu cần thiết cho sinh mạng chúng ta như tim, phổi, não, thần kinh và các cơ quan trọng yếu khác. Ngay đến các bắp thịt liên hệ đến sự hô hấp cũng được bảo vệ chu đáo hơn những bắp thịt khác trong người. Ta thử đi vào một ít chi tiết về sự suy tổn các cơ quan và các mô quan trọng ngõ hầu có một sự nhận định chính xác hơn về vấn đề nhịn ăn. Những sự thay đổi về máu Dung lượng máu giảm dần theo tỷ lệ sự suy giảm bớt thể tích của thân hình nên lượng và phẩm của máu hầu như tương đương với cơ thể và không có sự thay đổi nào trong lúc nhịn ăn mà máu còn trẻ trung đổi mới lại là khác. Bác sĩ Rabagliati chứng minh rằng cái tác dụng đầu tiên của phép nhịn ăn là tăng thêm số hồng huyết cầu chỉ trừ khi nào nhịn ăn đến giai đoạn đói ăn số hồng huyết cầu mới bị sụt giảm xuống. Pahustin thuật lại trường hợp chết sau 4 tháng 12 ngày (132 ngày) không ăn, thế mà 2 ngày trước khi chết máu vẫn chứa 4.849 lẻ 400 hồng huyết cầu và 7.852 bạch huyết cầu mỗi ly khối. Giáo sư Stengel viết: “Trong lúc nhịn ăn, máu vẫn giữ sự sung túc huyết cầu một cách không ngờ dù sau một thời gian dài”. Jackson viết: “Trong thời gian nhịn ăn, số hồng huyết cầu thường thị vẫn giữ mức trung bình nhưng đôi khi tăng lên trong thời kỳ nhịn ăn và giảm sút bớt trong thời kỳ đói ăn. Nơi thú vật cũng vậy trừ phi trường hợp đông miên thì số hồng huyết cầu có nhiều thay đổi”. Trong buổi nói chuyện ở Chicago, bác sĩ Tilden tuyên bố: “Nhiều trường hợp bần huyết kinh niên sau khi nhịn ăn trong một tuần lễ mà số hồng huyết cầu đã tăng gấp đôi”. Bác sĩ Weger kể một trường hợp bần huyết sau đó nhờ nhịn ăn 12 ngày mà hồng huyết cầu tăng lên từ 1.500.000 lên 3.000.000, sắc tố máu tăng lên 50% và bạch huyết cầu giảm từ 37.000 xuống 14.000. Máu bình thường chứa từ 4.500.000 đến 5.000.000 và có khi lên đến 6.000.000 hồng huyết cầu trong mỗi ly khối ở những người trẻ tuổi khoẻ mạnh và 3.000 đến 10.500 bạch huyết cầu với một mật độ trung bình là từ 5.000 đến 7.000 mỗi ly khối. Bác sĩ Win H. hay thuật lại rằng 101 trường hợp bần huyết kinh niên do ông ta chữa trong 21 năm chữa bệnh bằng phép nhịn ăn, chỉ có 8 trường hợp là không có hiệu quả. Có vài trường hợp bệnh tái phát nhưng nhịn ăn lại lần khác là bệnh lành hẳn. Có người bảo rằng nhịn ăn làm giảm kiềm chất trong người và sinh ra sự nhiễm axit phát hiện bằng những triệu chứng như là rã rượi mệt mỏi, đau đầu, nhức chân, đau lưng, dễ nóng nảy, lưỡi đỏ, da trong mồm đỏ, đôi khi hay buồn ngủ và hơi thở có mùi trái cây. Các triệu chứng này phát hiện lúc mới nhịn ăn nhưng dần dà sẽ dứt hẳn sau một thời gian tiếp tục nhịn ăn và nếu để ý ta sẽ thấy rằng triệu chứng này hễ càng trầm trọng thì người bệnh nhịn ăn càng được nhiều lợi ích và kết quả càng mau chóng hơn. Da Trong lúc nhịn ăn, nước da trở nên mịn màng và hồng nhuận chứng tỏ rằng da đã non trẻ lại. Các ti, bớt, các vết nhăn đều biến mất đủ chứng tỏ ý nghĩa của sự tốt lành mà da đã thu hoạch được trong thời gian nghỉ ngơi của thể chế sinh lý. Hiện tượng này có thể nhận thấy sau thời kì nhịn ăn, phản ánh cho một tình trạng sức khoẻ khả quan. Xương Xương không hề bị tiêu hao trong thời kỳ nhịn ăn, chẳng những thế nó còn tiếp tục tăng trưởng nữa là khác. Còn tuỷ là một thức ăn tích trữ, tuỷ có thể loãng hơn. Nhưng điều đó cũng chưa xảy ra trong giai đoạn nhịn ăn. Răng Nhiều người nghĩ rằng nhịn ăn thì hỏng răng hết thảy. Thành kiến này không đúng tí nào cả và những người kinh nghiệm trong phép nhịn ăn đều phủ nhận ý kiến trên. Jackson nói: “Cũng như bộ xương, răng tỏ ra rất bền bỉ trong thời gian nhịn ăn. Trong thời gian nhịn ăn, uống hoặc chỉ uống nước trong mà thôi, răng những người đã trưởng thành không có sự biến đổi gì về trọng lượng hoặc về cơ cấu đáng kể”. Điều nói trên đã được chứng nghiệm nhiều lần trong phòng thí nghiệm. Bác sĩ Shelton đã săn sóc hàng ngàn người bệnh bằng phép nhịn ăn xác nhận rằng chưa bao giờ thấy có sự hư hại nơi răng do những cuộc nhịn ăn dài hạn. Ông Pearson kể lại rằng: “Sau thời kỳ nhịn ăn, những cái răng có lỗ đen đều biến thành trắng, mọi chỗ sâu hầu như dừng lại nhờ nhịn ăn và tôi không còn đau răng nữa”. Răng lung lay cũng trở nên chắc lại nơi nướu răng trong thời gian nhịn ăn. Não, tuỷ, xương sống và thần kinh Não và thần kinh đều được cấp dưỡng đầy đủ và duy trì trong thời gian nhịn ăn mất rất ít hay không hề mất trọng lượng trong lúc các mô kém quan trọng phải hy sinh để bảo tồn các bộ phận trên. Nó vẫn giữ nguyên năng lực kiểm soát các tác dụng, các hoạt động của cơ thể một khi vẫn còn được nuôi dưỡng bằng các thức ăn dự trữ tự phân. Tuỷ xương sống mất không đầy 10%, còn não thì không suy suyển chút nào trong các trường hợp chết đói. Hầu như chẳng có sự thay đổi nào về cơ cấu trong não và trong tuỷ sống ở những người chết đói. Thận Các sự suy tổn của thận không đáng kể so với sự suy tổn chung của cơ thể. Gan Trong lúc nhịn ăn gan mất rất nhiều về nước, glycogene và mỡ, vì vậy so với các cơ quan khác, gan mất rất nhiều trọng lượng trong lúc nhịn ăn. Phổi Phổi thu được nhiều lợi ích trong phép nhịn ăn, điều này được chứng minh trong việc chữa lành bệnh lao sau một thời gian nhịn ăn. Thời gian nhịn ăn để chữa bệnh về phổi thường là phải ngắn hơn thời gian nhịn ăn để chữa bệnh ở các cơ quan khác. Carrington nghĩ rằng điều này có lẽ do các mô của phổi “có khả năng cố hữu tự chữa lành trong một thời gian ngắn hơn và trọn vẹn hơn bất cứ ở một cơ quan nào khác”. Các bắp thịt, tim Các bắp thịt của bộ xương có thể mất 40% trọng lượng trong lúc các bắp thịt tim chỉ mất độ 3% trước khi chết đói. Đại để các thức ăn dự trữ trong các bắp thịt được đem ra dùng trước và dùng nhiều hơn các cơ trơn. Các tế bào tuy bé nhưng vẫn được hoàn toàn vô hại. Theo những kết quả thu hoạch được trong những bệnh thuộc về tim trong giai đoạn nhịn ăn thì thấy rằng tim hưởng được nhiều lợi ích do 3 duyên cớ chính sau đây: 1. Nhịn ăn huỷ bỏ sự kích thích thường xuyên của tim. 2. Cất một gánh nặng cho tim và cho phép nó được nghỉ ngơi. 3. Lọc máu trở thành trong sạch, cấp dưỡng cho tim những thức ăn tinh tuý, bổ dưỡng hơn. Tim đập 80 lần mỗi phút tức là 115.200 lần suốt trong 24 giờ, sau một thời gian nhịn ăn tim giảm bớt xuống 60 lần suốt thời gian nhịn ăn, như vậy là chỉ đập 86.400 lần mỗi ngày, đập ít lại 28.800 nhịp so với trước khi nhịn ăn, như vậy là giảm được 25% công việc của tim. Trong lúc nghỉ ngơi đó tim hàn gắn, bồi bổ những cơ cấu hư hỏng. Carrington nói rằng: “Quả tim bao giờ cũng được tăng sức và trở nên cường tráng nhờ phép nhịn ăn là điều chắc thật vượt trên mọi sự hoài nghi. Tôi chủ trương rằng nhịn ăn là phương thuốc thần hiệu nhất để chữa bệnh tim yếu, là phép trị liệu hợp lý về phương diện sinh lý”. Chỉ khi nào tiềm thức có những ý tưởng lo sợ, ngại ngùng thì cơ thể hoặc cơ quan mới bị suy yếu trong lúc nhịn ăn. Tỳ tạng Trong thời gian nhịn ăn, tỳ tạng con người thường bé lại và cũng chắc lại. Tuy nhiên có nhiều trường hợp giải phẫu người chết đói, người ta thấy tỳ tạng vẫn bình thường. Tuỵ tạng Trong thời gian nhịn ăn, phần lớn tổn thất của tuỵ tạng là nước. Nơi những người chết đói, trọng lượng của tuỵ tạng có thể mất đến 67%. Dạ dày Một cái dạ dày yếu và mắc chứng khó tiêu sẽ trở lại hoạt động bình thường sau giai đoạn nhịn ăn. Các bắp thịt và các hạch được cải tạo lại sau một thời gian nghỉ ngơi. Đa số các dạ dày bị suy kiệt vì lao lực do thói quen ăn uống quá độ nên nhịn ăn là sự nghỉ ngơi cần thiết mà dạ dày đòi hỏi để phục hồi sinh lực. Những sự nhạy cảm bệnh hoạn mất đi, sự tiêu hoá được cải thiện, dạ dày bị căng dãn và sa xuống được co trở lại về thể tích bình thường, các ung sang tự lành, các chỗ sưng lắng dịu, chứng viêm nước dạ dày được bài tiết và lần hồi sự ngon miệng thèm ăn trở lại. Những sự biến đổi hoá học Dĩ nhiên là trong lúc nhịn ăn, cơ thể phải mất một số chất liệu nhưng không phải là loại nào cũng mất một lượng ngang nhau và điều đáng để ý là có một sự phân phối lại cho thích hợp với nhu cầu khẩn cấp để bảo toàn khí lực cho các cơ quan cần thiết đến sinh mạng. Một chất cần thiết cho cơ thể bao nhiêu lại càng chậm tiêu hao bấy nhiêu. Bắp thịt và máu tương đối mất nhiều khoáng chất, ví dụ như chất sodium, trái lại trong số lớn khoáng chất lại được tăng trữ ở não, ở tuỵ tạng và ở gan. Trong lúc chất diêm sinh và chất lân giảm ở bắp thịt trong lúc nhịn ăn thì trái lại chất vôi lại tăng lên ở đó. Phân suất potassium tăng lên nơi những phần mềm ở trong người, chất sắt không hề bị bài tiết trong lúc nhịn ăn. V. SỰ THAY ĐỔI NHỮNG CƠ NĂNG CĂN BẢN CỦA CƠ THỂ TRONG THỜI KỲ NHỊN ĂN Sự an nghỉ sinh lý Một điều quan hệ mà nhịn ăn mang lại cho cơ thể là sự an nghỉ các cơ quan. Sự kích thích quá độ các hoạt động sinh lý do sự ăn uống quá độ làm cho suy yếu và lao lực quá nhiều các cơ quan này. Sự nhịn ăn thay đổi hoàn toàn các hoạt động trên và giúp cho cơ thể được bình phục. Trong thời gian nghỉ ngơi đó, các cơ quan có thể bồi đắp hàn gắn lại các cơ cấu thiệt hại thương tổn và phục hồi sinh lực trước đó bị suy kiệt để sẵn sàng hoạt động lại. Nhịn ăn đối với các cơ quan không khác gì một đêm ngủ ngon giấc đối với người làm lụng mệt nhọc suốt ngày. Sự tiêu hoá và đồng hoá thực phẩm là một gánh nặng cho cơ thể đã suy yếu vì phải tăng gia công việc của dạ dày, của gan, ruột, tim, phổi, thận, hạch, v.v... Hễ người ta càng ăn thì cơ quan đó càng làm việc lao lực. Làm sao ta có thể giúp đỡ người bệnh bằng cách tăng sự làm việc các cơ quan này? Nếu thực phẩm không ngăn chặn được bệnh tật thì làm sao sự bội thực có thể phục hồi sức khoẻ? Jenning, Graham, Trail, v.v... đều nhấn mạnh rằng nhịn ăn là một thời kỳ nghỉ ngơi về sinh lý. Thomas Low Nichols nói: “Trong những cơn sốt v những bệnh về viêm chứng, nhịn ăn là một điều tất yếu. Thường thường đó là một phương thuốc của thiên nhiên. Khi nào thú vật mắc một bệnh gì thì nó nghỉ ăn liền. Ăn mất ngon là triệu chứng của bệnh tật mà cũng là một phương thức để tự chữa bệnh. Dạ dày được nghỉ ngơi thì các cơ quan dinh dưỡng cùng các thần kinh liên hệ cũng được tĩnh dưỡng. Nhịn ăn trong lúc sốt hoặc trong lúc mắc các viêm chứng, chúng ta giảm lượng máu và làm nhẹ công việc cho tim và cơ thể nhờ bớt được công việc tiêu hoá cùng đồng hoá nên sức mạnh của thần kinh được đem dùng trong việc hồi phục sinh lực. Bệnh cảm là một loại sốt và trong trường hợp ấy không thứ thuốc nào thần hiệu hơn phép nhịn ăn”. Nhịn ăn là tĩnh dưỡng, liệu pháp thần hiệu hơn cả. Tĩnh dưỡng tự nó không chữa lành bệnh, không nối liền đoạn xương gãy hoặc hàn gắn miệng vết thương nhưng nó tạo những điều kiện cần thiết, cung cấp những nguyên liệu tinh khiết để giúp cho bệnh nhân chóng lành. Ngoài các bệnh về cơ quan tiêu hoá còn có biết bao nhiêu bệnh tim ‘nan y’ được chữa lành nhờ nhịn ăn một thời hạn khá dài. Các nội hạch, bộ máy tiêu hoá, bộ máy hô hấp, bộ máy tuần hoàn, các dây thần kinh đều được nghỉ ngơi trong lúc nhịn ăn. Chỉ có bộ máy bài tiết là tăng gia hoạt động trong việc trục xuất khỏi cơ thể mọi độc tố tích luỹ thâm niên từ trước đến nay. Tĩnh dưỡng, nghỉ ngơi, người ta thường hiểu nghĩa đó bằng cách đi đổi gió, đổi thực phẩm, đổi cách hoạt động, đi cắm trại, đi nghỉ mát v.v... nhưng như vậy chưa đủ gọi là nghỉ ngơi thân xác nếu ta không áp dụng đến phép nhịn ăn. Không có gì để trả lại sinh lực cho một bộ máy tiêu hoá kiệt quệ, không có gì trả lại sự thoải mái cho bộ thần kinh căng thẳng, cho bộ ruột mệt mỏi, không có gì có thể đem lại sinh khí cho một quả tim hay một hệ thống nội hạch suy kém vì quá lao lực nếu đó không phải là phép nhịn ăn là liệu pháp tĩnh dưỡng vô song cho thân xác. Sự biến dưỡng Sự biến dưỡng hạ xuống 1/4 hay 2/5 trong lúc nhịn ăn Sự hô hấp Theo Morgullds, hô hấp là một cơ quan trọng yếu được cải thiện hiệu quả nhờ phép nhịn ăn. Những kết quả đặc biệt của phép nhịn ăn về bộ máy hô hấp của những người bị bệnh suyễn không ai có thể chối cãi được nếu người ta chịu để ý nhận xét trong nhiều trường hợp nhịn ăn của người mắc bệnh suyễn. Trong lúc nhịn ăn, sự bài tiết thán khí giảm xuống. Trạng thái này là do sự hoạt động giảm bớt và sự biến dưỡng giảm sút chứ không phải năng lực bài tiết của phổi kém như có người lầm tưởng. Trong lúc nhịn ăn thì hơi thở trở nên hôi hám nhưng dần dần sau đó cơ thể được gột sạch thì hơi thở không còn bị nặng mùi nữa. Sự bài tiết Nhịn ăn là phương pháp phù hợp với thiên nhiên để đào thải khỏi cơ thể thức ăn thừa thãi trong các mô bệnh tật, các cặn bã tích luỹ và các độc tố. Không có sự bài tiết nào trọn vẹn hơn sự nhịn ăn. Lúc ban đầu nhịn ăn thì tương đối sự bài tiết gia tăng hơn thường lệ nhưng sau đó thì sự bài tiết giảm dần đến mức thấp hơn vì ta không ăn thực phẩm ở ngoài nữa. Máu, nước, lâm ba, thần kinh hệ các tạng phủ đều được tẩy lọc nghỉ ngơi. Nhịn ăn độ 1 tuần là ống tiêu hoá từ dạ dày đến ruột non không còn loại vi trùng nào ở lại bên trong nữa. Biết bao nhiêu người mắc bệnh thương hàn nhờ nhịn ăn mà lành bệnh và không còn nguy hiểm như một kẻ mang trong mình hạt giống vi trùng thương hàn để sẵn sàng truyền nhiễm cho những người khác. Cơ thể người nhịn ăn gầy dần là để giữ toàn vẹn các cơ quan cần thiết cho sinh mạng, nó chỉ dùng những vật liệu thừa thãi vô bổ hay có hại trước hết như mụn nhọt, chất ứa ra ngoài mạch máu, sưng thủng, mỡ, v.v... đều được phân phối biến dạng làm thức ăn nuôi các cơ quan trọng yếu, còn cặn bã thì bài tiết ra ngoài. Sự sụt cân là một phương pháp thiên nhiên để tự vệ, một cách giảm bớt mức tiêu thụ thức ăn để đừng phạm đến các tạng phủ trong người. Người ta chưa tìm thấy một phương pháp bài tiết nào, một cách thanh lọc cơ thể nào linh nghiệm qua phép nhịn ăn. Sức khoẻ con người bị suy giảm phần lớn không phải là vì thiếu ăn mà vì tích luỹ quá nhiều chất độc trong người. Sự tiều tuỵ, gầy còm không phải do thiếu chất bổ mà do bị đầu độc bởi thức ăn quá độ hoặc thiếu quân bình âm dương. VI. NỘI TIẾT VÀ BÀI TIẾT Trong lúc nhịn ăn, các sự nội tiết của cơ thể đều ngừng nghỉ hoặc giảm đến mức tối thiểu tỷ lệ với nhu cầu tối thiểu. Nước bọt tiết rất ít dù có uống nước bình thường khi nào khát. Nước bọt thường thì có tính chất kiềm nhưng lúc nhịn ăn lại trung hoà hoặc hơi chua, nhưng lại trở thành kiềm lúc thèm ăn trở lại hoặc sau lúc ăn uống lại. Cũng có khi nước bọt trở nên hôi hám làm ta có cảm giác buồn nôn, cũng có khi nước bọt keo đặc lại. Dịch vị Vị dịch vẫn xuất tiết trong thời gian nhịn ăn nhưng với một lượng rất ít và chỉ hơi chua. Trong những trường hợp đa vị toan thì chứng đau dạ dày vẫn tiếp tục, đôi khi còn thấy đau hơn trước trong 3-4 ngày, nhưng sau đó lại giảm dần và cuối cùng thì mất hẳn. Không có phương thuốc nào chữa lành bệnh nhiều axit trong dạ dày linh nghiệm và mau chóng bằng phép nhịn ăn. Mật Mật thường tiết nhiều hơn trong những ngày đầu mới nhịn. Cơ thể nếu nhiều cặn bã, độc tố thì mật tiết càng nhiều đôi khi làm người bệnh phát nôn, mửa ra rất thối tha nhưng sau đó sức khoẻ lại được cải thiện tốt đẹp và sau đó mật không còn xuất tiết nhiều nữa. Số lượng và tính chất của mật xuất tiết hình như tuỳ thuộc vào tình trạng thu độc và phản ứng của cơ thể. Theo sự nhận xét của bác sĩ Shelton trên hàng ngàn trường hợp nhịn ăn do ông săn sóc thì lượng mật xuất tiết càng nhiều và xảy ra càng sớm sau khi nhịn ăn thì người bệnh càng mau bình phục. Thứ mật này thường có mùi khó chịu, ta có thể xem như một sự bài tiết của gan. Tỳ tạng và ruột Các dịch của tuỳ tạng và ruột tiết ra rất ít và có lẽ là không có điều tố. Sữa Người đàn bà đẻ nhịn ăn thì cạn sữa nên chỉ áp dụng phép nhịn ăn trong trường hợp tối khẩn thiết. Tốt hơn hết là ăn uống theo phương pháp OHSAWA vừa trị được bệnh, vừa tốt sữa cho con bú. Mồ hôi Mồ hôi người nhịn ăn thì hôi hám, có khi rất nhiều trong trường hợp rất hiếm. Chất nhớt, dãi Trong thời gian nhịn ăn, nhiều người bệnh khác nhổ ra rất nhiều đàm nhớt đặc sệt và rất nhẽo màu vàng, xanh như mủ hoặc đôi khi xám. Nước mũi ban đầu chảy ra nhiều nhưng sau đó bớt lại dần dần. Trong trường hợp những chứng ruột và viêm màng mủ chỉ trong một thời gian các chất nhớt mủ được tẩy sạch và bệnh khỏi. Các toan chất phân tiết của âm hộ, các loại bạch đới, khí hư,.v.v... đều được ngừng lại và sự nhân tiết được bình thường trong lúc nhịn ăn. Các mùi hôi thối từ cửa mình hoặc trong tử cung do bệnh tật gây nên cũng không còn nữa. Nước tiểu Trong những ngày đầu nhịn ăn, nước tiểu luôn luôn nâu sẫm, mật độ cao, chứa nhiều urê, phốt phát sắc tố cao, mùi khai nhưng sau đó trong dần và ít hôi. Sự tăng gia các chất độc trong nước tiểu là do khả năng bài tiết được cải thiện cường kiện hơn chứ không phải là vì nhịn ăn mà chất đó trong người thêm ra như lắm người lầm tưởng. VII. HOẠT ĐỘNG CỦA RUỘT Nhịn ăn đem lại sự nghỉ ngơi cho dạ dày, ruột non, ruột già và giúp cho cơ quan này đủ điều kiện để trùng tu, kiến tạo lại những cơ cấu hư hỏng. Các bệnh trĩ, bệnh sưng hậu môn, sưng ruột già, sưng ruột non, sưng ruột thừa, sưng dạ dày, mắc bệnh thương hàn,.v.v... được hồi phục dễ dàng trong lúc nhịn ăn. Vi trùng không còn trong ruột nữa nhưng ít ra cũng sau một tuần nhịn ăn dạ dày mới thật không còn mầm mống của vi trùng. Trong lúc nhịn, ruột vẫn còn hoạt động chút ít để đưa phân ra ngoài. Cũng có trường hợp người nhịn ăn không đi ra phân lần nào trong suốt thời gian nhịn ăn. Phân của người nhịn ăn thường thì mềm hoặc lỏng chứ ít khi cứng và to. Ta nên để tự nhiên cho ruột làm việc của nó chứ đừng nên súc ruột thường gây cho người nhịn ăn sự đau đớn, mệt nhọc hoặc có cảm tưởng bị suy nhược. Nếu màng bong bóng không hấp thụ nước tiểu thì màng ruột già cũng không bao giờ lại hấp thụ các độc tố và thực tế đã chứng minh là không bao giờ có xảy ra hiện tượng tự đầu độc trong thời gian nhịn ăn. Thường súc ruột trong thời gian nhịn ăn làm yếu và giảm sinh lực của ruột nên sau khi ăn uống trở lại, sức hoạt động của ruột không cường kiện bằng ruột những người chỉ để theo tự nhiên. Dùng thuốc xổ và nước khoáng chất trong thời gian nhịn ăn lại còn tai hại hơn cả việc súc ruột vì một khi uống vào nó kích thích xuất tiết các chất nhầy suốt dọc ống tiêu hoá còn súc ruột thì chỉ gây tác dụng trên ruột già mà thôi. Bao nhiêu loài thú đã nhịn ăn vì thiếu thực phẩm, vì đau ốm, vì đông miên hay hạ miên, trong mùa giao tình, v.v... với một thời gian còn dài hơn thời gian con người nhịn ăn mà đâu có con vật bị tự trúng độc do phân trong ruột già của nó. Các nhà sinh vật học nhận thấy rằng loài gấu ở Canada sau thời gian đông miên 4-5 tháng, trong ruột chỉ còn chút ít phân hoàn toàn không có dấu vết của một loại vi trùng nào. PHẦN III NHỊN ĂN VỚI SỰ CẢI TẠO THỂ CHẤT VÀ TINH THẦN CON NGƯỜI I. SỰ BÌNH PHỤC CỦA CÁC CƠ QUAN VÀ CÁC MÔ TRONG LÚC NHỊN ĂN Cơ thể có một số lớn lương thực dự trữ để dành dùng khi cần thiết một cách hiệu quả, dễ dàng và nhanh chóng lại không làm nhọc bộ máy tiêu hoá phải tốn sức, tốn công biến các thực phẩm thành các chất bổ dưỡng để nuôi cơ thể. Vì vậy cho nên sự hàn gắn sửa chữa thành tựu dễ dàng và nhanh chóng hơn lúc ta ăn uống bình thường. Có những vết thương, những ung nhọt kinh niên chữa mãi không lành thế mà qua một thời gian nhịn ăn lại hàn kín miệng và ra da non đóng sẹo rất mau. Nhịn ăn thanh lọc máu huyết, cải tạo các mô nên hiện tượng chóng lành các thương tích, hư hỏng trong người không phải là chuyện lạ. Thực phẩm ở ngoài mặc dầu chẳng tiếp tế vào nhưng công việc kiến thiết xây dựng vẫn luôn luôn tiếp tục trên mọi chiều hướng tốt đẹp, có lợi cho sức khoẻ chúng ta. Bác sĩ Oswald kể chuyện một con chó rơi từ vực xuống đường bị gẫy 2 chân, 3 rẻ xương sườn, bị nội thương ở phổi. Suốt 20 ngày nó nhất định không ăn uống gì mà chỉ uống chút ít nước. Đến ngày thứ 26, đưa thịt nó mới chịu ăn và lúc đó thì xương nó đã liền lại, phổi đã lành, con chó chạy và sủa mạnh mẽ như trước. Aaron thấy rằng xương và não vẫn tiếp tục sinh trưởng trong lúc nhịn ăn. Tóc và râu thì mọc chậm hơn nhiều. Cơ thể hy sinh lông và tóc để kiến tạo những cơ cấu nhu yếu hơn tuy rằng trong lúc nhịn ăn tóc thường rất ít rụng. Chỉ trong giai đoạn đói ăn, bắp thịt tiêu hao quá đỗi nên không cử động được và các hạch suy kiệt quá mức không xuất tiết được các kích thích tố để rồi kết cuộc bằng cái chết. Như trước kia ta đã thấy những sự thay đổi đặc biệt của các côn trùng trong thời kỳ biến đổi hình dạng được hoàn thành trong một thời gian nhịn ăn. Các cơ cấu cũ được phân hoá để kiến tạo các cơ cấu mới đến nỗi hình thể hoàn toàn khác hẳn với hình thể trước mà lại còn phức tạp và tinh tế hơn. Nhìn đó ta thấy rõ cái khả năng tái tạo nhờ sự tự phân trong lúc nhịn ăn huyền diệu như thế nào. II. ẢNH HƯỞNG CỦA SỰ NHỊN ĂN TRONG VIỆC NẢY NỞ VÀ CẢI TẠO CHUNG CHO CƠ THỂ Thompson và Mendel nhận thấy rằng tiếp theo một giai đoạn ngừng phát lớn do sự thiếu ăn là một sự tăng phát lớn khi được ăn uống đầy đủ trở lại. Morgulis nói: “người ta đã thử nghiệm nhiều lần và thấy rằng sau một thời kỳ bắt con vật nhịn ăn ta lại cho nó ăn uống phải phép thì nó bắt đầu lớn lại một cách nhanh chóng trông thấy và trong một thời gian tương đối ngắn thu hoạch lại số cân bị sụt xuống trước kia hay lên cân hơn cả hồi trước”. Sự trồi cân kia là biểu hiện một quá trình cường thịnh của sự nảy nở. Đó không phải chỉ là một sự tích trữ những chất dự trữ mà cả một sự vươn dậy của sinh lực. Có cả một sự lớn mạnh của các tế bào, một sự tích luỹ các chất để dành dưới hình thức dự trữ nội bào và gian bào. Các đạm chất được hấp thụ với khát vọng một cơ thể non trẻ đang kỳ nảy nở. Thường thường chỉ trong một thời gian ngắn mà cơ thể tăng trưởng bằng cả mấy năm. Nhịn ăn đã cách tân cơ thể. Nghiên cứu các hiện tượng về tổ chức học sau một thời gian nhịn ăn người ta thấy rằng không có một sự hư biến nào nơi các mô trừ phi cơ thể lâm vào tình trạng đói ăn. Tuy các tế bào mất một số lớn các chất dự trữ mà sinh khí nó vẫn không suy giảm tý nào. Trong sự tranh chấp cam go xảy ra trong cơ thể lúc nhịn ăn, những chất ít quan hệ của tế bào được hy sinh trước hết cũng như phần trọng yếu trong cơ thể. Những cơ cấu cần thiết cho sinh mạng được bảo tồn và sinh lực các tế bào được cải thiện. Các tế bào trẻ lại và rất giống các tế bào thuở phôi thai. Điều ấy chính là nguyên nhân của những hiệu quả cường tráng và non trẻ lại của phép nhịn ăn. Sau thời gian nhịn ăn, người trẻ cũng như người già cơ thể đều được cách tân, tạng phủ được tu bổ, hoạt động các cơ năng được cải thiện. Một khi chúng ta hiểu rằng cơ thể có thể phân hoá những chất dự trữ trong tế bào và phân phối lại để kiến tạo và điều hoà các cơ quan trong thời gian nhịn ăn thì hiện tượng cơ thể non trẻ lại một cách nhanh chóng, sức khỏe cải tạo lại một cách tốt đẹp hơn là một điều tất nhiên. Cấu tạo, sự cường tráng, sự nhạy cảm và sự điều hành các cơ quan đều được cải tạo, tăng cường sinh khí. Da dẻ non trẻ trông thấy, những vết nhăn, những cái bớt, những mụn nhọt đều biến mất để phô bày một làn da mịn màng tươi tắn. Mặt trong sáng hơn. Mọi người nhịn ăn đều công nhận rằng cơ thể và nghị lực họ đều được đổi mới nhờ phép nhịn ăn. Bác sĩ Kunde nói: “Lẽ tất nhiên là khi cơ thể bớt sụt xuống 45% số cân trước khi nhịn ăn và sau đó thu hồi lại khi tiếp tục ăn uống, như vậy là gần một nửa cơ thể hồi phục gồm toàn nguyên nhân sinh chất mới. Trong trường hợp này ta thấy có sự trẻ trung lại rõ ràng”. Nếu thỉnh thoảng cứ thi hành đều đều sự nhịn ăn như vậy, con người có thể mỗi năm mỗi trẻ mà không có phương pháp cải lão hoàn đồng nào sánh kịp. Giáo sư Child nhận thấy rằng với chức năng sung mãn nhiều loại động vật đã kết liễu đời chúng trong 3-4 tuần nhưng khi sự phát lớn bị trở ngại vì thiếu ăn thì chúng lại tiếp tục sinh hoạt và trẻ trung ít ra là trong 3 năm. Những sự nhận xét của Weismann và những kết quả của các cuộc thí nghiệm nuôi các mô chứng tỏ rằng không có một giới hạn nào về sinh khí. Những độc tố và những độc dược tự sinh của sự hư thối và lên men ở trong dạ dày và ruột là những ảnh hưởng chính làm giới hạn tuổi thọ lại. Độc tố được bài tiết, cơ thể thanh lọc, khí huyết non trẻ lại, cơ quan đổi mới, giác quan cải thiện, sự tiêu hoá và đồng hoá được tăng gia, các tế bào, các mô trở lại điều kiện của tuổi trẻ, các thứ thừa thãi, bệnh hoạn, hư hỏng trong người được loại trừ rồi thay thế là sự chuẩn bị cho một sinh lực mới. Sự cải tạo cơ thể được mang lại do sự đổi mới hàng ngày các tế bào và các mô mà nhịn ăn chính là phương pháp thúc đẩy sự thay cũ đổi mới nhiệm mầu đó. Những thí nghiệm ở nơi người và nơi giống chó thi hành tại phòng thí nghiệm sinh vật của trường Đại học đường Chicago chứng minh rằng một cuộc nhịn ăn từ 30 ngày đến 40 ngày gây ra một sự tăng gia thường xuyên từ 5% đến 6% về biến dưỡng. Sự suy giảm về biến dưỡng là một trong những hiện tượng của sự già cỗi. Nhịn ăn tăng năng suất biến dưỡng do đó đã cải lão hoàn đồng. Ngày 18-5-1933, một trong các bác sĩ săn sóc thánh Gandhi trong khi ông tuyệt thực kể lại rằng trong hôm nhịn ăn thứ 10, về phương diện sinh lý, nhà lãnh tụ Ấn Độ mạnh khỏe như người 40 tuổi mặc dầu năm ấy tuổi ông đã ngoại lục tuần. III. SỰ CẢI THIỆN TINH THẦN VÀ GIÁC QUAN TRONG LÚC NHỊN ĂN Tác dụng tinh thần của sự nhịn ăn được người ta biết đến từ lâu và được các nhà nghiên cứu về phép nhịn ăn bàn luận rất nhiều. Trước đây có lần có một nhóm sinh viên Đại học đường Chicago nhịn ăn thử trong một tuần mà vẫn học hành và chơi thể thao như thường lệ, nhận thấy rằng sự tiến hộ trong sự học hành rất đáng chú ý. Thử đi, thử lại nhiều lần thấy kết quả đều tốt đẹp tỏ ra rằng đây không phải là trường hợp đặc biệt. Mọi năng lực tinh thần con người đều được cải thiện trong thời gian nhịn ăn. Khả năng suy luận phát triển, trí nhớ tăng thêm, sự chú ý và hội ý được kích thích, các yếu tố tinh thần như trực giác, cảm tình, tình thương, v.v... đều tăng gia. Mọi đức tính về trí tuệ, tình cảm đều được cải thiện, sắc bén không lúc nào bằng. Những lượng máu và năng lực tinh thần đáng lẽ phải dùng trong việc tiêu hoá này được sung dụng đến bộ não để suy tư. Những người có thói quen nghiện thịt, rượu, cà phê, thuốc lá, á phiện, đường... sau khi nhịn ăn phải trải qua một giai đoạn suy nhược và chứng đau đầu, nhức mỏi, bần thần và nhiều chứng khác nhưng sau vài hôm khi cơ thể đủ thì giờ để gột rửa, bài tiết mọi độc tố thì trí tuệ phát triển dần dần sáng tỏ ra, giác quan trở nên minh mẫn. Levanzin nói: “Trong thời kỳ nhịn ăn, sức mạnh về thể chất đã không mất mà năng lực tinh thần lại gia tăng một cách hết sức phi thường. Trí nhớ phát triển một cách lạ lùng, trí tưởng tượng đạt đến mức phong phú cực đa”. Những sự cải thiện này phải nói rằng phần lớn là nhờ sự tẩy sạch các độc tố của não. Sự nhịn ăn còn tăng thêm khả năng kiểm soát, kiềm chế các dục vọng say mê. Những trường hợp điên và bị thần kinh được chữa lành nhờ nhịn ăn làm người ta phải nghĩ rằng chứng bi quan phải do một căn bản sinh lý gây ra. Bác sĩ Shenton đã chữa lành không biết bao nhiêu trường hợp các bệnh thần kinh. Carrington kể nhiều trường hợp về bệnh thần kinh được chữa lành bằng phép nhịn ăn, thuật lại tình trạng biến chuyển của một con bệnh như sau: “Người bệnh trở thành như điên cuồng từ ngày thứ 2 đến ngày thứ 5. Một khi cơn biến bệnh đã qua rồi không có một dấu hiệu gì tỏ ra trạng thái ấy lại tái hiện: tâm trí trở nên vô cùng sáng suốt cho ta thấy rằng cơn biến của bệnh trên chỉ là tạm bợ mà lại có tính cách trị liệu vì có cuộc cách mạng đột ngột bên trong cơ thể nên đã làm kích động mạnh người bệnh như trên. Trong trường hợp này đôi khi hoạt động của gan có sự xáo trộn lớn, mật tiết quá nhiều gây nên sự rối loạn trong sự tuần hoàn nên người bệnh hầu như da xanh lục đến mấy ngày nhưng sau đó trở lại bình thường nếu cứ tiếp tục nhịn ăn”. Trong thời gian nhịn ăn, các giác quan đều trở nên tinh nhạy hơn. Mắt trở nên trong sáng, có nhiều người có thể bỏ kính mà vẫn thấy rõ, nhìn xa. Xúc giác cũng nhạy hơn, vi tế hơn. Vị giác sau một thời gian nhịn ăn trở nên tinh tế, sắc bén hơn. Thính giác thường thường là kết quả rõ ràng hơn cả, có lẽ một phần do tình trạng thần kinh, một phần nhờ các bộ phận trong tai được tẩy sạch. Nói tất cả thì quá đáng nhưng có thể nói rằng rất nhiều người điếc hoặc hơi nặng tai nhờ nhịn ăn một thời gian mà thính giác được khôi phục lại. Khứu giác trở nên rất sắc bén, nhạy cảm, mũi có thể đánh hơi thấy những mùi mà trước kia không thể ngửi thấy được. Nhịn ăn tống khứ các chất thừa thãi và cặn bã ra khỏi cơ thể, tăng gia sinh khí cho thần kinh hệ nên đã cải tạo một cách hữu hiệu các giác quan đã suy yếu vì bệnh tật, tuổi tác, vì bệnh đầu độc bởi các thức ăn của kỹ nghệ văn minh, các thức ăn thiếu quân bình Âm Dương phù hợp với cơ thể con người. IV. SỰ TĂNG VÀ GIẢM SỨC MẠNH TRONG LÚC NHỊN ĂN Bác sĩ Tilden nói: “Phần đông người ta thường nghĩ rằng ăn mới đem lại sức mạnh và không mấy ai hiểu rằng ngừng ăn mới có sức mạnh”. Mới xem qua thì dường như trái ngược đối với những người chưa hề kinh nghiệm trong phép nhịn ăn nhưng thật ra luôn luôn người ta được thêm sức trong lúc nhịn ăn. Trong một cuộc trắc nghiệm bằng lực kế (dynamo-mètre), ông Succi sau 21 ngày nhịn ăn đã tỏ ra tăng thêm sức mạnh với sức kéo của 2 cánh tay. Đến ngày thứ 30 ông ta vẫn cưỡi ngựa, leo nhanh các bực thang lên tận đỉnh tháp Eiffel, công việc mà một người sức khoẻ trung bình cũng vất vả lắm mới làm được. Macfadden nói: “Trong nhiều trường hợp mà tôi săn sóc cũng như trong nhiều trường hợp thuật lại do Dewey và Carrington, sức mạnh của người bệnh nhịn ăn mỗi ngày mỗi tăng lên mãi cho đến lúc người bệnh có thể đi nhiều cây số trong mỗi ngày trong lúc ban đầu họ không thể đi đứng gì được cả. Một hôm người ta khiêng đến cho tôi một người đàn bà quá ư liệt nhược đến nỗi chẳng đi được nữa vì trước đó ăn uống bừa bãi. Trước đó có một bác sĩ cho bà ta ăn uống đủ thức béo bổ, đủ thứ thuốc men, săn sóc nhưng bà ta lại ngày càng yếu thêm. Đến khi áp dụng phép nhịn ăn, bà ta quá đỗi ngạc nhiên khi thấy sức khoẻ mỗi ngày mỗi tăng tiến”. Những trường hợp như vậy xảy ra không kể xiết. Có nhiều võ sĩ, lực sĩ, nhà thể thao khởi đầu sự tập dượt của họ bằng một tuần nhịn ăn để dự các trận đấu hoặc thi tài và thu hoạch kết quả rất khả quan. Trước sự ngạc nhiên của 16.000 khán giả ở Madison Square Gadren, ông Low sau 8 ngày nhịn ăn đã biểu diễn lập 9 kỷ lục thế giới về sức lực và dẻo dai mà ông ta đã giữ trong nhiều năm. Những kỷ lục này được thi đua với những người được ăn uống điều hoà. Ông lại còn chiếm thêm được nhiều thế nữa sau nhiều lần nhịn ăn khác. Đây là câu trả lời hùng biện cho các y sĩ thường bảo rằng nếu cứ nhịn ăn độ một tuần thì đi không nổi, còn nếu nhịn ăn gắng thêm ít hôm nữa là nguy rồi đấy. Bác sĩ Levanzin nói: “Những kẻ cảm thấy đuối sức trong lúc nhịn ăn đều là những người nóng nảy và rất dễ xúc động nên sự liệt nhược đó chỉ là những hiệu quả của sự độc hại của sự tưởng tượng quá phong phú. Nếu bạn cứ nghĩ rằng bạn vẫn khoẻ mạnh và bạn có thể đi được 2 cây số sau khi nhịn ăn 30 ngày, thế là bạn sẽ đi một cách hết sức khoẻ khoắn; trái lại nếu bạn có thành kiến rằng nhịn ăn làm suy nhược con người và bứt rứt về ý nghĩ đó thì nhịn đói chẳng mấy hôm bạn thấy mệt lả do bạn trở thành nạn nhân của tự kỷ ám thị của mình”. Bác sĩ Shelton kể lại chuyện một người bệnh ông ta chữa lúc mới đến phải bò để leo lên các bực thang lầu, sau khi nhịn ăn thì sức khoẻ hồi phục từng ngày một, đến ngày thứ 18 thì có thể chạy lên chạy xuống cầu thang một cách dễ dàng. Sức mạnh là sự hợp tác của bắp thịt, của thần kinh và sự tinh sạch của máu. Ta nên phân biệt sức mạnh thực sự và cảm tưởng nghĩ rằng mình mạnh. Con người có thói quen mỗi ngày 3 bữa ăn sung túc rồi uống trà, cà phê, hút thuốc đến khi thiếu đi là người ta cảm thấy yếu đuối, uể oải, tiều tuỵ dở tay không nổi. Thật sự yếu đuối đó chỉ là sự thu hồi năng lực của bắp thịt. Hiện tượng này nếu có xảy ra thì chỉ ở 3- 4 hôm đầu mà thôi, và người nhịn ăn nếu làm cử động ít phút thì sau đó sức mạnh sẽ trở lại với bắp thịt và cảm thấy khoẻ mạnh ngay. Hiện tượng yếu đuối thường xảy ra ở những người ăn thịt cá nhiều, ăn nhiều đồ gia vị, các thứ kích thích, rượu, trà, v.v... hơn là những người ăn chay. Trạng thái này tương tự tình trạng những người nghiền thiếu thuốc hoặc thiếu rượu lúc cơn nghiền đến. Ta nên để ý đến sự khác nhau giữa cảm giác yếu đuối và sự suy nhược thật sự về sinh lực. Carrington nói rằng: “Trong những trường hợp quá ư suy nhược vì bệnh tật tức là sinh khí đến mức kiệt quệ thì hiệu quả về sự tăng gia sinh lực nhờ nhịn ăn càng được rõ rệt hiển nhiên. Trên lý thuyết, nhịn ăn trong những lúc như thế tức là đem đến cái chết nhanh cho người bệnh; nhưng trên thực tế thì trái hẳn: sức khoẻ và sinh lực trở lại với người bệnh và tăng gia trong thời kỳ nhịn ăn”. V. THÊM VÀ SỤT CÂN TRONG LÚC NHỊN ĂN Những người mập sụt cân nhanh hơn những người gầy và hễ càng hoạt động nhiều thì sự tụt cân càng chóng. Nhưng hễ thời gian nhịn ăn càng dài thì sự tụt cân càng ngày càng chậm bớt lại. Trong 2-3 ngày đầu nhịn ăn có người sụt cân đến 2-3 kilô trong 1 ngày, nhưng sự sụt cân này không phải vì tiêu hao thịt mà phần lớn là do thực phẩm và phân trong dạ dày và ruột được tống thải ra mà không được thay thế. Sự sụt cân chóng trong lúc nhịn ăn biểu thị một tình trạng suy nhược các mô. Những người mập nước thịt mềm, nhão sụt cân nhanh hơn những người thịt chắc cứng. Nhiều yếu tố chi phối sự sụt cân của người nhịn ăn: Những người bệnh mập, thường mất nhiều mỡ hơn những người gầy, những người nóng nảy đa cảm mất cân nhanh hơn những người bình tĩnh, có tinh thần điều hoà; những người thoải mái, nghỉ ngơi chậm sụt cân hơn những người thần kinh căng thẳng hoặc hoạt động nhiều. Có sự tương quan giữa tình trạng các mô và sụt cân. Những người uống nước nhiều trong lúc nhịn ăn thì thấy sức nặng không xuống mấy vì các mô chứa giữ một số nước. Một người nhịn ăn những ngày đầu có thể sụt 1-2 kg, nhưng những ngày sau có khi chỉ mất độ 125gr vào ngày thứ 25 hoặc 30. Thường thường đàn bà tương đối chậm sụt cân hơn đàn ông vì sự biến dưỡng thấp hơn. Người ta nói rằng một người có thể mất 40% số cân trung bình, mà không nguy hại gì cho sinh mạng và sức khoẻ; trên thực tế, nhiều người bệnh còn mất nhiều hơn thế nữa mà vẫn không hề hấn gì. Bác sĩ Dewey nhấn mạnh về điểm “nếu cái chết đến trước khi tình trạng chỉ còn xương bọc da thì cái chết đó là do sự già cỗi hay một hình thức khác của bệnh tật hay nội thương chứ không phải vì nhịn ăn”. Bác sĩ Hazzard và Carrington cũng hết lòng bênh vực ý kiến trên. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp trẻ con mất trên 20% sức nặng trung bình đã nguy đến sinh mạng. Có người vì uống nhiều nước quá lại lên cân trong lúc nhịn đói. Có nhiều người sợ nhịn ăn thì sinh ra ho lao, họ nghĩ rằng nhịn ăn gầy đi thì dễ sinh bệnh lao. Lập luận trên là vô căn cứ và giải thích sai lầm vì sự gầy gò nơi bệnh lao không phải là nguyên nhân của bệnh mà là hậu quả của bệnh ấy. Sự mất cân hầu như là điều cần thiết cho sự hồi phục của các căn bệnh cấp tính và thiên nhiên giúp vào sự làm gầy người trong những bệnh cấp tính mặc dù người bệnh có ăn uống nhiều bao nhiêu đi nữa. Thật vậy, một người mắc bệnh thương hàn mà ăn uống như thường còn sụt cân và mất sức nhanh chóng hơn là mắc bệnh thương hàn mà nhịn ăn. Gầy ốm trong sự nhịn ăn là dấu hiệu tốt đẹp của sự mềm mại dẻo dai của các tế bào, do đó có thể thấy rõ khả năng cải tạo của tế bào. Những bệnh nhân trong lúc nhịn ăn mà gầy ít, gầy một cách khó khăn là những người rất dễ mắc chứng ngạnh hoá các tổ chức trong cơ thể; đó là dấu hiệu đặc thù một sự già cỗi tai hại của các cơ quan không còn khả năng làm non trẻ lại được nữa. VI. NHỊN ĂN VỚI VẤN ĐỀ TÌNH DỤC VÀ SẢN DỤC Phỏng vấn những người nhịn ăn, Carrington đều được trả lời là sự hoạt động tình dục chỉ tạm ngừng trong mấy hôm đầu, dương lực bị đình trệ chỉ là sự ngừng nghỉ tạm thời của cơ quan sinh dục vì sau đó cùng thời gian tiếp tục nhịn ăn, sự hưng vượng của tình dục liền trở lại với phong độ cường tráng và lành mạnh của nó. Ông ta còn dẫn chứng nhiều trường hợp bất lực kinh niên và đàn bà không sinh đẻ đã được chữa lành nhờ phép nhịn ăn. Bác sĩ Shelton cũng có thuật lại rất nhiều trường hợp do chính ông săn sóc, xin trích vài thí dụ điển hình như sau: - Một người đàn ông trung niên đã bị bất lực nhiều năm, sau 31 ngày nhịn ăn đã hồi phục dương lực một cách nhanh chóng ngoài ước vọng. - Một người đàn bà lấy chồng đã lâu năm mà không sinh đẻ, đã thụ thai sau khi nhịn ăn 40 ngày liền. Đứa con sinh ra bụ bẫm, khoẻ mạnh và chóng lớn. - Một người đàn bà khác lấy chồng đã 10 năm mà không có con, chỉ sau một kỳ nhịn ăn có 10 ngày liền thụ thai vô bệnh. Nhịn ăn còn giúp con người đủ tự chủ để kiểm soát vấn đề tình dục của mình, giúp cơ thể chữa lành những quái trạng bất thường của tình dục chứ không phải là phương thức khổ hạnh tuyệt dục như người ta lầm tưởng. Nhịn ăn là phương pháp thuận thiên nhiên để giúp mọi sinh hoạt cơ thể trở lại quân bình thiên nhiên vốn sẵn có. PHẦN IV NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT TRONG LÚC THỰC HÀNH PHÉP NHỊN ĂN I. TRIỆU CHỨNG HỌC TRONG PHÉP NHỊN ĂN Triệu chứng chủ quan Người ta thường nghĩ rằng nhịn ăn đôi ba bữa là sinh ra chóng mặt, yếu đuối và đôi khi đau đớn ở bụng trên... Mạch Mạch thay đổi rất nhiều trong thời gian nhịn ăn, có thể thình lình mỗi phút đập 120 nhịp hoặc có khi lại xuống còn 40 nhịp. Thông thường mạch tăng lúc bắt đầu nhịn ăn rồi một hai ngày sau thì hạ xuống. Trong những trường hợp kỳ nhịn ăn nhịp mạch sau khi tạm thời tăng lên lại sụt xuống độ 48 hay 40 nhịp như vậy độ một hai hôm rồi trở lên 60 nhịp cho đến khi ăn uống trở lại. Nhận xét nhiều trường hợp tim yếu qua một thời gian nhịn ăn để trở nên mạnh mẽ, hồi phục nên có thể kết luận một cách chính xác rằng những trạng thái tim đập mạnh, nhanh hay chậm là một quá trình sửa chữa bồi dưỡng có ích lợi cho cơ thể chứ không phải là một sự loạn động của tim do tình trạng suy nhược gây nên do lắm người thường nghĩ lầm. Nhịp tim cực thấp có thể nhận thấy trong những trường hợp mà người bệnh có tình trạng sức khoẻ quá suy nhược đặc biệt nơi những người trước đó thường dùng chất kích thích hoặc hưng phấn. Các chất này một khi thiếu thốn hẳn thường gây ra tình trạng trì trệ các hoạt động của cơ thể mà trước đó hàng ngày vẫn được kích thích. Nhịp tim đập quá nhanh hay quá chậm đều là tình trạng bất thường chứ không phải định luật thông thường trong thời kỳ nhịn ăn của tất cả mọi người. Nói chung thì nhịp tim đập đều, mạnh và tương quan với hoạt động của cơ thể. Sự thèm ăn Trong hôm đầu nhịn ăn thì chưa có gì khó chịu lắm, đến ngày thứ 2 thì sự thèm ăn trở nên khẩn thiết hơn nhưng đến ngày thứ 3 thì sự thèm ăn lại giảm xuống rất nhiều hoặc không còn thèm ăn nữa. Từ đó cơ thể không còn đòi hỏi thức ăn như trước mà đôi khi còn chán ghét thức ăn cho đến khi sự thèm ăn tự nhiên trở lại. Smith viết: “Thực phẩm càng kích thích bao nhiêu thì cơ thể càng đòi hỏi bấy nhiêu”. Có nhiều người bệnh than vãn mình cảm thấy đói bụng suốt thời kỳ nhịn ăn. Thật ra cảm giác đó chỉ là những ảo tưởng thuộc về tâm lý hoặc những cảm giác do sự kích thích gây nên. Theo bác sĩ Guelpa, thức ăn trong dạ dày có công dụng hấp thụ và trung hoà các chất độc trong dạ dày, trong ruột và nó xoa dịu những cảm giác trống trải, rổn rang, bỏng rát, v.v... gây ra do một sự tự đầu độc hữu hiệu mà người ta lầm tưởng là đói bụng. Người ta có thể làm lắng dịu “cảm giác đói bụng” đó bằng nhiều cách: rửa ruột, uống nước, đắp bụng trên, chà xát trên bụng, v.v... hoặc sẽ tự hết đi không cần phải làm gì cả. Người ta nghĩ rằng cảm giác đói có thể gây ra do sự co bóp của dạ dày nhưng điểm này không lấy gì làm đúng vì để ý nhận xét rằng người ăn chay nhịn đói giỏi hơn người ăn thịt rất nhiều mặc dầu sự co bóp dạ dày của đôi bên cũng không khác nhau là mấy. Có nhiều người “xấu máu đói” than vãn xót xa trong dạ dày, bủn rủn trong người, đau bụng, sôi bụng buồn nôn, nhức đầu, choáng váng mặt mày, chân tay rời rã và nhiều cảm giác bệnh hoạn khác mỗi khi đến cơn đói bụng mà không kịp ăn. Những triệu chứng này y hệt những cảm giác của người nghiền á phiện lên cơn mỗi khi thiếu thuốc. Những cảm giác này được tạm thời xoa dịu nếu được ăn uống vào cũng như trường hợp một tách cà phê và do đó người ta suy luận rằng ăn là luôn luôn cần thiết cho sinh lực. Nhưng đó là một sự lầm lớn, nếu người bệnh kiên nhẫn nhịn ăn trong ít hôm thì sự đau khổ kia sẽ biến mất. Bác sĩ Claunch nói rằng: “Khi người ta đói và người ta cảm thấy thoải mái, khoan khoái, đó là sự đói bụng thật. Còn khi người ta đói mà người ta cảm thấy khó chịu, bị dày vò thì đó chỉ là một sự thèm ăn giả trá. Khi một người bệnh hoạn bỏ một bữa ăn thường nhật thì họ cảm thấy suy nhược đi trước khi thấy đói. Còn một người khoẻ mạnh bỏ đi một bữa ăn hàng ngày thì cảm thấy đói trước khi cảm thấy bị suy nhược. Sự đó chân thật không có phụ theo một triệu chứng gì khác cả. Lưỡi và hơi Trong suốt thời gian nhịn ăn thì phần nhiều lưỡi có bợn nhỏ rồi dần dần giảm bớt, ban đầu ở chung quanh và ở chót lưỡi và rồi chỉ thật sạch sau khi sự thèm ăn tự nhiên trở lại. Trong thời gian nhịn ăn, hơi thở cũng trở nên nặng mùi và bớt dần khi cơ thể được thanh lọc sạch sẽ hơn và cũng chỉ trở thành sạch sẽ dịu mùi khi sự thèm ăn trở lại. Cơ thể càng nhiều cặn bã, độc tố thì hơi càng nặng mùi và lưỡi càng đóng bợn nhỏ nhiều. Nhiệt độ Để ý nhận xét nhiệt độ con người trong thời kỳ nhịn ăn, chúng ta khám phá một loạt hiện tượng nghịch thường vừa lý thú mà cũng vừa bổ ích. Đa số những người mắc bệnh kinh niên nhịn ăn nhiệt độ hầu như giữ mức trung bình thì nói các bệnh cấp tính nhiệt độ lại sụt xuống nhưng lại tăng lên ở những người thường ngày có một nhiệt độ ở dưới mức trung bình. Khi một người lên cơn sốt nhịn ăn thì nhiệt độ họ không bao giờ lên cao như lúc họ có ăn uống. Điều chắc chắn là nhiệt độ trở lại mức trung bình nếu ta chịu tiếp tục nhịn ăn. Trên thực tế, trong các bệnh cấp tính mà nhiệt độ lên cao, cơn sốt sẽ hạ xuống một ít nếu ta đừng cho người bệnh ăn và cơn sốt rất ít khi tăng lên lại. Trong các bệnh kinh niên, người nhịn ăn rất ít khi có nhiệt độ dưới mức trung bình. Đó là một chứng cớ hiển nhiên minh xác giá trị của phép nhịn ăn đối với những người bệnh này. Trong trường hợp dù các bệnh nhân kinh niên mà nhiệt độ dưới mức trung bình đi nữa nhưng một khi đã áp dụng phép nhịn ăn thì nhiệt độ cũng sẽ dần dần trở lại mức bình thường một khi sự thèm ăn tự nhiên trở lại. Ban đầu dù cho bệnh nhân nhiệt độ chỉ ở 34o3 nhưng dần dần nhiệt độ sẽ lên đến 36o8 dù thời gian nhịn có kéo dài đến 40 ngày hay lâu hơn thế nữa. Thật ra thì ban đầu nhiệt độ có chiều hạ xuống nhưng lâu dần nếu người ta cứ tiếp tục nhịn ăn thì nhiệt độ lại tăng lên và đạt đến mức nhiệt độ trung bình. Carrington thuật lại nhiều trường hợp mà nhiệt độ người bệnh hạ xuống dưới mức trung bình nếu người ta ăn uống nhưng lại lên được mức trung bình trong lúc nhịn ăn. Cho nên có nhiều trường hợp vì dứt ngang quá sớm sự nhịn ăn mà nhiệt độ bị hạ một cách đột ngột. Vì vậy cũng chớ lấy làm lạ rằng nhiệt độ thấp đôi khi chính là do ăn uống quá độ gây ra một sự suy giảm sinh lực vì thói quen ăn uống quá nhiều. Thỉnh thoảng có trường hợp sau một thời gian dài giữ mức nhiệt độ trung bình bỗng thình lình nhiệt độ sụt xuống, ta nên để ý xem để đề phòng trường hợp cơ thể đi từ giai đoạn nhịn ăn qua giai đoạn đói ăn do sự suy kiệt các chất dự trữ trong người. Trong trường hợp đó ta cho dừng sự nhịn ăn và sưởi ấm cho người bệnh bằng hơi ấm hoặc bình nước nóng thì chẳng hề có hậu quả tai hại gì cho người bệnh cả. Có người đưa ý kiến rằng hiện tượng nhiệt độ người bệnh từ chỗ sốt trở lại mức trung bình cũng như từ chỗ lạnh tăng lên mức trung bình là giới hạn ta nên ngưng lại sự nhịn ăn vì đó là một minh chứng rằng nhịn ăn là một quá trình thiên nhiên đưa con người từ chỗ mất quân bình đến chỗ quân bình cho sức khoẻ. Cảm giác lạnh rét run Mặc dù nhiệt độ của người nhịn ăn giữ mức trung bình trong thời gian nhịn ăn hay là có tăng lên đi nữa, người nhịn ăn thông thường vẫn cảm thấy lạnh lẽo dưới một khí hậu mà thường ngày họ cho là dễ chịu. Cảm giác lạnh đó vẫn có thể cảm thấy mặc dù nhiệt độ trong người cao hơn mức trung bình, có nghĩa là sốt nhẹ. Cảm giác lạnh này có lẽ do sự tuần hoàn của máu ở ngoài da giảm bớt, nói một cách khác là một sự thiếu máu ở ngoài da. Sốt vì đói Trong rất nhiều trường hợp, đặc biệt là nơi những người ăn uống nhiều thường xảy ra cơn sốt vì đói lúc mới bắt đầu nhịn ăn. Đó là một sự tăng nhiệt độ chút ít có thể kéo dài từ một ngày hoặc nhiều ngày. Đây là một triệu chứng có tính cách chữa bệnh, cải tạo sức khỏe con người. Giấc ngủ Thông thường thì người nhịn ăn không mấy khi ngủ quá 3-4 giờ trong 24 giờ và điều này thường gây cho người ta sự lo ngại. Sau đây là 3 nguyên nhân chính của sự mất ngủ đó: 1. Sự căng thẳng thần kinh. 2. Máu tuần hoàn không được điều hoà nên đôi bàn chân thường bị lạnh nên khó ngủ. Dùng một bình nước nóng áp vào chân là có thể bổ khuyết được điểm này. 3. Người nhịn ăn không cần phải ngủ nhiều. Một khi cơ thể được khoẻ khoắn và tinh thần thoải mái người ta có thể ngủ bất luận nhiều hay ít tuỳ theo nhu cầu của cơ thể. Horace Fletcher có nhận xét rằng mỗi khi ông ta ăn lại thì ông không cần phải ngủ nhiều. Người ăn ít là người rất tỉnh ngủ. Người nhịn ăn ít ngủ thường cảm thấy trằn trọc và đêm dài nhưng lại không mảy may mệt nhọc hay bất an do sự thiếu ngủ. Tuy họ than vãn không hề chợp mắt nhưng thật ra họ ngủ rất nhiều mà không ngờ tới. Nhịn ăn cũng là phương thuốc hay để chữa lành bệnh mất ngủ. II. NHỮNG BIẾN CHỨNG CÓ THỂ XẢY RA TRONG THỜI GIAN NHỊN ĂN Với những ai chưa hề nhịn ăn hoặc có dịp nhận xét những người nhịn ăn đều đinh ninh rằng nhịn ăn là một chuyện gian nan khổ ải mà người nhịn ăn phải gánh chịu bao nhiêu đau đớn thống khổ để rồi cuối cùng có thể chết trong sự đau khổ vô cùng bi thiết. Nhịn ăn không phải bao giờ cũng là một sự thí nghiệm thú vị nhưng đau ốm thì dĩ nhiên luôn luôn chẳng bao giờ có thú vị được. Người nhịn ăn, bị dày vò chăng là vì họ thiếu những thứ kích thích mà trước đó họ thường dùng hàng ngày: cà phê, thuốc lá, rượu, á phiện, gia vị, v.v... Nhưng chỉ sau một thời gian nhịn ăn là sự dày vò trên biến mất. Điều này chứng tỏ rằng các biến chứng kia chẳng phải gây ra do sự nhịn ăn, do sự thiếu thực phẩm. Những ngày đầu trong cuộc nhịn ăn Hai ngày đầu tiên nhịn ăn thường là những ngày cam go, vất vả hơn cả, thứ nhất là vì thói quen đòi hỏi thức ăn của cơ thể, thứ hai vì có sự thiếu thốn đột ngột các chất kích thích thường dùng hàng ngày. Nhức đầu, xây xẩm chóng mặt, mắt nổ đom đóm, buồn nôn oẹ mửa, xót xa, trống trải trong dạ dày là những khó chịu trong thân thể vào những ngày đầu nhịn ăn. Các triệu chứng đó đều phát sinh do thiếu trà, thiếu thuốc, thiếu cà phê, thiếu đồ gia vị, thiếu thức ăn kích thích. Cho nên những kẻ háu ăn, bợm nhậu, bợm hút là những người bị đày đọa, bị hành hạ, bị dày vò khổ sở nhất, rất khó chịu đựng được sự nhịn ăn. Nhưng phản ứng những ngày đầu càng mạnh thì kết quả của sự nhịn ăn càng sớm thu hoạch. Lưỡi bợn, hơi hôi, miệng đắng là dấu hiệu của một quá trình thanh lọc, gột rửa, bài tiết hữu hiệu. Còn người thường ăn uống thanh đạm thì hầu như chẳng có phản ứng gì đáng kể. Sự biến mất triệu chứng Cuộc nhịn ăn tiến hành thì các triệu chứng giảm bớt dần cho đến khi biến hẳn. Sự kịch phát các triệu chứng Tuy vậy đôi trường hợp các triệu chứng lại gia tăng tạm thời trong những ngày đầu. Các chứng nhức đầu có thể tăng lên lúc ban đầu rồi thuyên giảm. Các sự đau đớn ở dạ dày trong bệnh thừa chất chua vì bệnh ung sang dạ dày hầu như luôn luôn tăng lên trong 3 ngày đầu nhịn ăn. Có triệu chứng thần kinh cũng đôi khi trầm trọng lúc ban đầu. Các mụn đỏ ngoài da, các chứng viêm nước dường như nâng lên trong những ngày đầu. Các chất nhày, mũi, dãi tiết ra nhiều ở mũi, ở tị xoang, ở họng, ở tử cung, ở âm hộ và ruột già. Đàn bà khí hư, bạch trọc trong thời gian này ở thành tử cung và âm hộ xuất tiết rất nhiều chất nhầy nhớt. Trong tất cả mọi trường hợp các triệu chứng kịch phát chỉ là tạm thời và sau đó mọi cơ năng dần dần được cải thiện tốt đẹp để đi đến sự lành bệnh. Bác sĩ Dewey nói: “Sự trầm trọng của các triệu chứng ấy trong lúc nhịn ăn tỷ lệ chặt chẽ với sự cần thiết phải kiên trì trong việc nhịn ăn bởi vì các triệu chứng đó hàm ẩn ý nghĩa là căn bệnh đang chiều hướng tiến triển tốt đẹp”. Các cơn biến bệnh trong lúc nhịn ăn Đa số các triệu chứng mà người nhịn ăn cảm thấy đều do một sự điều chỉnh của thần kinh. Hãy lấy ví dụ một người bị bệnh tê một đám ngoài da ở cuối xương sống, sau vài ngày nhịn ăn bỗng cảm thấy rất đau đớn ở chỗ đó trong vài giờ rồi sau đấy xúc giác chỗ bị tê trở lại bình thường. Sự đau đớn trên là một hiện tượng điều chỉnh thần kinh. Khi người ta ngưng uống cà phê hay nhịn ăn - ăn mà thấy nhức đầu thì sự nhức đầu đó là ở trong quá trình điều chỉnh thần kinh. Tình trạng bải hoải và sự nóng nảy phát bệnh sau khi nhịn ăn cũng chẳng khác nào tình trạng bải hoải và gắt gỏng của một người bỏ hút thuốc đều là thải lọc trong quá trình chỉnh đốn của thần kinh, luôn luôn đem lại sự cải thiện cho sức khoẻ sự ích lợi cho cơ thể. Tất cả các trường hợp nhịn ăn đều chẳng gây ra những bệnh biến đáng kể và trong đại đa số trường hợp đều vô hại, chóng hết và cải thiện tình trạng sức khoẻ cho bệnh nhân. Trong các bệnh kinh niên thì phần nhiều các bệnh biến không phát lộ mà có tính cách tiềm ẩn. Điều đáng để ý và đáng nhớ là mọi triệu chứng phát hiện trong thời gian nhịn ăn không phải là sự trầm trọng căn bệnh, sự phá hoại cơ thể của người nhịn ăn mà là những triệu chứng của các sự cải tạo sinh lực nào đó bên trong luôn luôn với mục đích cải thiện sức khoẻ cho bệnh nhân. Khạc nhổ Đôi khi có người nhịn ăn thì đờm nhớt sinh ra vô kể, bắt khạc nhổ luôn mồm trong nhiều hôm, có khi vì đó làm cho người bệnh mất ngủ. Đó chính là một quá trình bài tiết mà ta chớ để tâm lo ngại vì sau đó thế nào cũng đưa đến một tình trạng sức khỏe tốt đẹp. Viêm nước Có khi trong mấy ngày đầu nhịn ăn là người ta mắc chứng sổ mũi nước hoặc đau nơi họng tuy trường hợp này cũng ít khi xảy ra. Trong các bệnh kinh niên, sự bài tiết các chất nhớt thường được tăng gia trong mấy ngày nhịn ăn đầu tiên. Biến chứng ngoài da Cũng có trường hợp ngoài da sinh các nốt đỏ hoặc sinh ngứa, sinh phong mề đay trong đôi ba ngày đầu nhịn ăn. Đó là những quá trình bài tiết. Nhức đầu Thường sau một cơn mê mệt người ta cảm thấy nhức đầu và đau lưng liên tiếp 3-4 ngày. Thấy vậy đừng có lo ngại, đừng có chấm dứt sự nhịn ăn vì không có gì nguy hại cả, đó chỉ là sự điều chỉnh thần kinh. Triệu chứng này không phát hiện nơi mọi bệnh nhân mà thường xảy ra ở những người nghiền thuốc, rượu, cà phê, trà, v.v... và các thức ăn, các dược liệu kích thích, hưng phấn... Tay chân nhức mỏi Trong những ngày nhịn ăn đầu tiên, có người cảm thấy đau ở lưng, ở hông mà cũng có người cảm thấy tay chân nhức mỏi, đặc biệt là ở các khớp xương rất khó chịu nhưng không mấy khi kéo dài quá một đôi ngày và thường thì có về đêm. Buồn nôn Có người vì thói quen dạ dày thình lình không nhận thức ăn nữa nên gây ra hạ áp lực trong dạ dày và tạo ra cảm giác buồn nôn. Mật chảy vào dạ dày cũng là duyên cớ gây ra sự buồn nôn hoặc đôi khi sự oẹ mửa. Đây là một quá trình của sự thanh lọc cơ thể bằng cách bài tiết chất mật xanh mật vàng và nhầy nhớt trong dạ dày. Có trường hợp người bệnh buồn nôn và oẹ mửa liên miên 5-7 ngày và sau đó lại nấc cụt, nhưng qua những bệnh biến đó thì trở nên tươi tỉnh, khoẻ khoắn hơn trước nhiều. Những trường hợp có phản ứng dữ dội hoặc vài ngày thường xảy ra ở những bệnh kinh niên. Chấm dứt sự nhịn ăn trong lúc đang bị mửa không phải là điều hay mà còn tai hại là khác, ta nên nhẫn nại và tin tưởng vào sự linh mân của bản năng tự tồn của con người sẵn có. Ăn uống trở lại trong những trường hợp như vậy là đi tìm cái chết. Gặp trường hợp trên ta chỉ cần bình tĩnh cho cơ thể và tinh thần thoải mái để cho cơ thể tự hoàn thành công việc cải tạo sinh lực của nó. Sự nôn mửa có thể xảy ra lúc mới bắt đầu nhịn ăn mà cũng có khi sau khi nhịn ăn 20, 30 ngày. Đôi khi sự nôn mửa cùng phát xuất một lần với chứng nhức đầu và những mẩn đỏ ngoài da. Trường hợp này thường gặp ở những người bị bệnh kinh niên có các chứng hỗn loạn ở bộ máy tiêu hoá và thần kinh. Chứng chuột rút Chứng này có thể phát sinh trong ruột mọi người phái nam hay phái nữ hoặc trong tử cung đàn bà. Trong ruột, chứng này có thể gây ra là do hơi, do sự di chuyển của phân ở trong ruột hay bởi những nguyên nhân về tâm linh với sự kiểm soát nhu đọng do thần kinh dinh dưỡng. Chuột rút ở tử cung thì rất hiếm và thường chỉ xảy ra ở nơi những bệnh nhân bị băng huyết tử cung. Cũng có một vài trường hợp rất hiếm là sự chuột rút ở tử cung là hậu quả của sự cố gắng để trục ra khỏi tử cung những chất nhầy nhớt tích luỹ ở trong ấy. Hơi Nhiều người bệnh về bộ tiêu hoá nhịn ăn thường than phiền mắc chứng đầy hơi, nhưng trên thực tế thì chẳng mấy khi trong ruột người nhịn đói thật có một số hơi quan trọng. Do sự phản xạ của thần kinh dinh dưỡng mà có sự gia tăng áp lực trong ống tiêu hoá làm người ta có cảm giác có sự đau đớn trong bụng. Do sự bực bội, sự khích động, những cảm xúc mạnh cũng gây ra những cảm giác bứt rứt và những nỗi lo sợ ngấm ngầm trong tiềm thức cũng gây ra những cảm giác khó chịu về sự đầy hơi rồi do đó mà thao thức không ngủ ngay được. Khi người bệnh đã hiểu lý do như vậy nên tự chủ để cho tâm trí được nghỉ ngơi thoải mái thì mọi chứng gọi là “đầy hơi” gây ra do sự căng thẳng của thần kinh đó tự nhiên biến mất. Đi tả Chắc ít ai nghĩ nhịn ăn lại đi tả nhưng thỉnh thoảng vẫn có xảy ra trường hợp đi tả trong lúc nhịn ăn vì tuỳ trường hợp đó là một đòi hỏi cần thiết của cơ thể để thanh lọc bộ máy tiêu hoá. Chóng mặt Đây là một triệu chứng thường gặp lúc mới bắt đầu nhịn ăn hoặc lúc đang nằm mà người ta vùng dậy đột ngột. Thường thì nó chỉ choáng váng trong vài giây và nếu muốn tránh thì ta nên ngồi dậy từ từ. Sự chóng mặt, choáng váng thường là do máu huyết ở não dồn xuống quá cấp bách. Người nhịn ăn trong lúc hoạt động cử chỉ nên điềm đạm, khoan thai thì không mấy khi mắc phải chứng này. Ngất xỉu Trường hợp này rất hiếm và có thể xảy ra trong một hai ngày nhịn ăn đầu tiên. Đó là một điều tầm thường không có gì phải cuống quýt kinh hãi hay lo sợ. Chỉ việc cho người bệnh nằm ngay thẳng ở chỗ thoáng khí và mở áo quần cho rộng rãi thư thái cho người bệnh dễ thở là đủ lắm rồi. Không cần phải đắp nước lạnh vào mắt, cứ để yên như vậy trong chốc lát sẽ tỉnh ngay; người bị ngất cần sự nghỉ ngơi chứ không cần đến sự khích động. Đau họng Thường xảy ra liền sau khi ngưng cuộc nhịn ăn mà cũng có khi trong thời gian nhịn ăn. Đại để đó là vô hại và chỉ có trong một vài hôm là nhiều và chẳng có gì đáng ngại. Hồi hộp Hồi hộp có khi là do hơi trong ống tiêu hoá, có khi là do sự nóng nảy bực bội, lo sợ hay làm việc mệt nhọc. Đôi khi tưởng đâu là đau trong tim nhưng thật ra thì cái đau ấy là ở trong lồng ngực. Cũng có thể do hơi, có thể là do chất độc mà cũng có thể là do nguyên nhân tâm lý. Đừng quan tâm làm gì cho mệt, không có gì trầm trọng đâu vì triệu chứng này rất chóng hết. Mất ngủ Trong vài trường hợp, mất ngủ là do sự thần kinh hoặc là do thiếu tiện nghi, phần lớn người nhịn ăn ngủ ít là vì cơ thể họ không cần thiết đến giấc ngủ quá dài. Có khi họ ngủ rất ngon mà họ không ngờ đến. Người ngủ giờ tỉnh dậy cũng chẳng khác nào mới ngủ 15 phút vì thời gian ta ngủ, ta hoàn toàn vô thức về số lượng thời gian trôi qua mà một giờ thao thức không ngủ ta lại có cảm tưởng như suốt một đêm trường vì thời gian trôi qua chậm chạp khi người ta chờ giấc ngủ. Hỗn loạn về thị giác Trong những cuộc nhịn đói quá dài đôi khi xảy ra trường hợp hỗn loạn về thị giác như thấy có hơi loà loà nhưng chắc chắn là không bao giờ có sự thương tổn trong nhãn cầu hoặc nơi thần kinh thị giác. Ăn uống lại là sự hỗn loạn biến mất và thị lực người bệnh còn được tăng gia, có thể bỏ kính đeo mắt không cần dùng như trước nữa. Có trường hợp một người đàn bà mang kính nhưng hễ cất kính thì thấy một ra hai, sau một thời gian nhịn ăn thì mắt trở lại bình thường, nhịn ăn đến ngày thứ 16 thì không cần dùng kính nữa mà có thể đọc sách, may vá, xâu kim, v.v... Biến chứng trầm trọng Thật ra rất ít khi có dấu hiệu báo nguy xảy ra trong thời kỳ nhịn ăn. Nếu có chăng chắc chắn là do một nguyên nhân khác chứ không phải vì nhịn ăn. Chiều theo các thành kiến thông thường chống báng phương pháp nhịn ăn và sự xung đột kịch liệt của ngành y khoa về sự áp dụng phương pháp này, những người thực hành phép nhịn ăn không dám tiếp tục nhịn ăn khi thấy phát sinh ra những triệu chứng mà họ cho là nguy hiểm. Nếu có người bệnh nào nhịn ăn mà chết đi thế là người ta đổ cho là vì đói mà chết. Một vạn người bệnh có thể chết sau khi uống, tiêm vào người những dược phẩm độc địa hoặc sau khi mổ xẻ hay cưa cắt một vài cơ quan, bộ phận mà chẳng một ai thấy có trách nhiệm gì mà chỉ đổ cho là bệnh đó không thể cứu chữa được. Nhưng nếu rủi thời có một người trọng bệnh chữa theo phương pháp nhịn ăn, vì căn bệnh quá nặng mà chết thì lại lên án phương pháp nhịn ăn là nguy hại. Chúng ta cứ sáng suốt nhận định mà xem sẽ thấy đâu là lẽ phải. Sức mạnh của bắp thịt trong lúc nhịn ăn Levinson nói: “Nhiều người tưởng rằng trong thời gian nhịn ăn, ta phải ngồi trong ghế bành để đọc báo, hay ngủ gà ngủ gật bởi vì người ta không còn hơi sức đâu mà làm việc này, việc khác. Nếu bạn nặng 91 kg trong lúc đáng ra số cân trung bình của bạn chỉ là 60 kg, bạn có thể nhịn ăn 60 ngày và mỗi ngày bạn sẽ tăng thêm sức mạnh bởi vì bạn sẽ trở lại trọng lượng trung bình. Tôi bắt đầu nhịn ăn với số cân trung bình; tôi trải qua 32 ngày thử thách với không biết bao trắc nghiệm khoa học liên tiếp, nhưng tôi không bao giờ cảm thấy mất sức và những thí nghiệm ghi bằng lực kế đã chứng tỏ điều này”. Có điều xem như mâu thuẫn là có bệnh nhân lúc mới đầu nhịn ăn thì trở thành liệt nhược nhưng nếu cứ kiên nhẫn tiếp tục nhịn ăn thì sự yếu đuối biến mất và trở thành khoẻ mạnh hơn xưa. Một sự yếu đuối rất gần sự suy nhược cực điểm có thể biểu lộ dưới nhiều hình thức cơn biến của bệnh, đặc biệt là chứng oẹ mửa: còn mửa là còn mệt, nhưng cơn mửa qua rồi là sức khoẻ trở lại rất dồi dào. III. NHỊN ĂN TRONG CÁC BỆNH CẤP TÍNH Những người khôn ngoan khi có sự bất an trong người thì nằm nghỉ ngơi và nhịn ăn để cho cơ thể tự hồi phục lại. Một trong những dấu hiệu của bệnh tật là sự biếng ăn dẫn đầu cho sự khởi phát các triệu chứng khác. Nếu bệnh phát sinh thình lình trong lúc dạ dày đang chứa đầy thực phẩm thì các thức ăn này thường được giải toả bằng động tác mửa. Như vậy là theo bản năng sinh tồn, trong bệnh cấp tính cơ thể chỉ cần nước mà thôi, còn trong các bệnh kinh niên thì nên ăn ít lại. Nếu làm theo những bản năng thiên nhiên có lẽ người ta đã tránh được nhiều sự đau đớn, bệnh hoạn và nhiều người tránh được những sự chết yểu. Những lý thuyết phù phiếm thường mệnh danh là khoa học đã gây bao nhiêu tai họa khốc liệt mà người ta không bao giờ ngờ tới. Khi con vật đau ốm hay bị trọng thương thì không bao giờ chúng chịu ăn. Một sự kích ngất, một vết thương nặng, một cơn sốt, một sự đau đớn, một viêm chứng, một sự thụ độc làm ngừng hay giảm sự hoạt động của bộ tiêu hoá và làm giảm những hoạt động dinh dưỡng của toàn cơ thể. Con người ta cũng vậy, nhưng con người lại làm ngược lại bản năng vì họ cứ nghĩ rằng không thì chết, đâu có biết rằng trong lúc ốm đau, cơ thể thiếu khả năng tiêu hoá, các cặn bã đồ ăn không tiêu hoá hay tiêu hoá không trọn vẹn sẽ làm nguy hại cho người mắc bệnh cấp tính không ít. Trong cơn sốt, dịch vị xuất tiết rất ít hoặc không xuất tiết là khác. Vì vậy điều quan trọng nên nhớ kỹ là đừng cho ăn trong lúc sốt. Nên để dành năng lực dùng vào việc tiêu hoá, hấp thụ, đồng hoá thường ngày để dùng vào trong quá trình phục hồi sức khoẻ. Thử hỏi ta được lợi lộc gì mà ăn trong lúc không tiêu hoá được thức ăn? Bác sĩ Emmett Densmore khuyên người ta nên làm như sau khi thấy khó chịu trong người: “Không nên ăn gì cả trong 48 giờ và sau đó tiếp tục nhịn ăn cho đến khi nào người bệnh thấy đói. Trong những trường hợp có chứng viêm hay sốt thì phải nhịn ăn một hoặc nhiều ngày cho đến khi nào mọi triệu chứng về sốt đều tiêu tan và thấy thèm ăn trở lại”. Trong mọi bệnh cấp tính toàn cơ thể đều tập trung vào trong việc bài tiết các độc tố chứ không phải chú trọng vào việc hấp thụ các thức ăn. Biếng ăn, hơi hôi, lưỡi bợn, buồn nôn, oẹ mửa, bài tiết các chất tanh hôi, các chất nhầy nhớt, bón xen với đi tả, v.v... mọi trạng thái ấy chứng tỏ rằng các cơ quan đều chú trọng vào việc bài tiết chứ không phải vào việc tiêu hoá. Lấy lương tri mà xét, ai cũng thấy rằng nếu ăn vào mà không tiêu thì tất nhiên là đồ ăn ấy không nuôi cơ thể được mà còn hư thối ra trong ống tiêu hoá tạo thành chất đầu độc người bệnh làm cho căn bệnh càng thêm trầm trọng và làm nhọc công bài tiết cho cơ thể. Cơ thể vốn có khả năng miễn dịch và trong giới hạn nào đó làm cho vô hại những chất hư thối tan ra trong chất tiêu hoá, nhưng nếu ăn uống không phải phép, trái quân bình Âm Dương thì sức đề kháng của cơ thể sẽ suy giảm đi, sự tiêu hoá bị xáo trộn, các độc tố vượt trên khả năng hoá giải của sức miễn dịch rồi các sự khó chịu khởi sinh. Cơ thể tất nhiên phải kháng cự lại các độc tố và sự kháng cự đó chúng ta gọi là bệnh tật. Chất độc một khi phát sinh quá nhiều trong ống tiêu hoá do sự thối rữa thì dạ dày và ruột chẳng những không hấp thụ vào máu mà còn xuất tiết ra một lượng lớn chất nước (huyết thanh của máu) để làm loãng và trung hoà những chất bị hư thối để đem đi. Sự oẹ mửa và đi tả bổ túc công việc rửa ráy cho sạch sẽ toàn thể ống tiêu hoá và tống thải các chất độc ra ngoài. Buồn nôn và oẹ mửa là triệu chứng thông thường trong những bệnh cấp tính dưới tất cả mọi hình thức của nó. Nếu ăn vào thì thức ăn cũng bị mửa ra; nếu không mửa ra thì thức ăn cũng bị tống khứ bằng cách đi tả. Thực phẩm ăn vào trong những trường hợp như vậy chỉ làm tăng nhiệt độ, thêm sự đau đớn và khó chịu cho người bệnh. Sự bồn chồn và những sự khó chịu thường nhận thấy nơi những người lên cơn sốt trong mọi trường hợp đều do thức ăn và thuốc men. Người bệnh nhịn ăn tương đối cảm thấy dễ chịu và thoải mái, sự bình phục nhanh chóng và mỹ mãn hơn. Bác sĩ Jennings nói: “Đừng làm trầm trọng sự đau đớn của người bệnh bằng cách ép buộc họ ăn mà bất chấp đến sự phản đối của họ”. Chúng ta hãy xem những gì xảy ra khi chúng ta cho những người bệnh cấp tính ăn. Điều thứ nhất mà bệnh nhân cũng như y sĩ đều để ý là sự kích phát các triệu chứng: sốt tăng lên, mạch tăng lên, sự đau đớn và những triệu chứng khác đều trở nên mãnh liệt, người bệnh trở nên dễ kích thích. Tất cả mọi hình thức của bệnh cấp tính đều được chặn đứng và trở nên dễ chịu nhờ phép nhịn ăn, sốt hạ nhanh chóng và các chứng viêm cũng đều lắng dịu rất mau. Sự ngưng nghỉ toàn thể hoạt động của cơ quan tiêu hoá là phương sách bù trừ với mục đích bảo tồn năng lực để dành vào hoạt động chống đối bởi bệnh tật bài tiết các độc tố. Trong chứng cảm sổ mũi và khả năng tiêu hoá còn tồn tại chứ trong bệnh sưng phổi thì khả năng này tuyệt nhiên không còn nữa. Như vậy có nghĩa là bệnh càng nặng càng không nên ăn. Ở nơi nào có bệnh truyền nhiễm nếu dân cư ở đây nhịn ăn đôi ba ngày và sau đó ăn uống cho đúng quân bình Âm Dương là chắc chắn không bao giờ bị lây bệnh. Nếu người ta biết nhịn ăn khi mới thấy những triệu chứng đầu tiên thì nhất định ít khi có những bệnh cấp tính lại có thể biến trở thành trầm trọng. Nếu chịu nhịn ăn thì không bao giờ bị bệnh thương hàn vì mọi cơn sốt đều biến mất sau năm ba ngày cho ống tiêu hoá nghỉ ngơi và không bao giờ có sự chết chóc hoặc có sự kéo dài trong những trường hợp bệnh ho gà chỉ là một loại ho của dạ dày gây ra do chứng viêm nhiệt của cơ quan này. Bác sĩ Chas E. Page nói: “Trong 40 năm thực nghiệm chữa bệnh bằng phép nhịn ăn của tôi, tôi chưa từng thấy một trường hợp nào sốt mà chuyển qua thương hàn, còn bệnh thương hàn thì không bao giờ kéo dài quá đôi ba ngày và gây ra sự chết chóc”. Người ta thường lầm lạc mà so sánh cơ thể con người cũng giống như cái máy, hễ hết nhiên liệu thì máy ngừng nên cứ nghĩ rằng bất kể lành hay đau, con người ta phải luôn luôn ăn uống mới sống được. Thật ra con người phải biết tuân theo sự minh mẫn của bản năng, khi đáng ăn mới ăn, khi cần nhịn thì phải nhịn. Ăn hay nhịn lắm khi là đôi đường của sống chết. Có những đau đớn tưởng rằng không chịu nổi nếu không dùng thuốc chỉ thống, an thần, thật ra được lắng dịu rất nhanh chóng nếu người ta nhịn ăn trong một thời gian không lâu hoặc vài hôm là người bệnh thấy dễ chịu ngay. Có nhiều chứng phong thấp khớp xương đau nhức không tả được đã lắng dịu và người bệnh cảm thấy khoan khoái trong 3-4 hôm nhịn ăn. Trong những giai đoạn cuối cùng của bệnh ung thư lúc mà người ta không còn có thể làm gì được hơn là chích nha phiến cho người bệnh, nhưng sự đau đớn gây ra do nha phiến cũng chẳng kém gì do bệnh ung thư, thì nhịn ăn trong trường hợp này hồi phục sự khoan khoái cho người bệnh và giúp cho người bệnh chết trong sự minh mẫn và an lạc. Đôi khi trong một bệnh có nhiều tuyệt vọng người y sĩ bảo thân nhân bệnh nhân rằng: “Người bệnh muốn ăn thứ gì thì cứ cho ăn, bệnh này thì chỉ còn nước lo liệu. Đây là sự tàn nhẫn đáng thẹn, đẩy người bệnh vào cửa tử thần, trong khi đó nhiều trường hợp mà đáng lẽ nhờ phép nhịn ăn mà người ta có thể bình phục được. Tại sao làm cho kẻ hấp hối phải đau đớn hơn nữa? Tại sao làm tăng gia sự đau khổ của họ mà chi? Trong lúc cơn đau người mẹ thường dỗ dành: “con gắng ăn cho hết bát cháo cho mau mạnh kẻo mẹ buồn”. Vợ cũng thường bảo chồng như vậy, anh khuyên em cũng thế mà cô nữ y tá xinh xinh dỗ ngọt người bệnh uống thêm hộp sữa, húp thêm chén súp thịt cũng vô tình có biết đâu rằng các thức ăn kia đâu có được tiêu hoá mà sẽ thối rữa ra trong ống tiêu hoá của họ. Nơi một người đau, mọi sinh lực đều hướng về nơi sự cố gắng bình phục sức khoẻ nên chẳng còn có thể hoặc tiêu hoá hoặc đồng hoá thức ăn để biến thành máu huyết nuôi cơ thể. Người nào mắc bệnh thương hàn sẽ cảm thấy dễ chịu sau 3-4 hôm nhịn đói nếu biết áp dụng phương pháp này lúc bệnh mới phát sinh và vào thời kỳ lại sức sau đó 1 tuần hay mười ngày. Bệnh lành dễ dàng đến nỗi thân quyến, bạn bè không cho đó là bệnh thương hàn nữa. Nhịn ăn trong những bệnh cấp tính không phải là sự thử thách mà ăn vào mới chính là sự thử thách với hiểm nguy. Trong bệnh sưng phổi cũng vậy, nếu áp dụng ngay từ lúc sơ khởi thì trường hợp đó không bao giờ trở thành trầm trọng, nước ứ sưng trong phổi cũng không có nhiều và sự lành bệnh sẽ mau chóng. Những trường hợp tử vong hết sức hiếm. Y khoa cũng phải công nhận giá trị lớn lao của phép nhịn ăn trong mọi trường hợp sưng ruột thừa và khuyên người bệnh nên áp dụng nếu họ không chịu mổ hoặc vì một lý do nào đó không thuận tiện cho sự giải phẫu. Trên thực tế sự đau đớn ngưng chỉ sau chừng 3 hôm nhịn ăn. Đối với bệnh phong thấp, sự nhịn ăn cũng đem lại những kết quả rất mỹ mãn đến nỗi bác sĩ Wood đã thốt ra rằng: “Qua các kết quả nhanh chóng và tốt đẹp chắc chắn như vậy của phép nhịn ăn đã làm cho tôi tin rằng nói cho cùng phong thấp chỉ là một định kỳ của chứng khó tiêu”. Phần nhiều các chứng ho có thể chữa khỏi bằng cách nhịn ăn từ 24 giờ đến 72 giờ và sau đó thay đổi các thức ăn cho đúng quân bình thì chứng ho không còn trở lại nữa. Tả, lị, oẹ, mửa, mất ngủ, phì mập đều là triệu chứng của bệnh khó tiêu có thể chữa dễ dàng bằng phép nhịn ăn. Các bạn hãy tưởng tượng và sẽ nghĩ thế nào khi thấy người ta cố ép cho ăn một người đi tả 20 đến 30 lần trong 24 giờ hoặc một người chốc chốc lại mửa. Nếu áp dụng phương pháp nhịn ăn các bạn khỏi bận tâm và tốn kém gì về thuốc men hết cả. Cứ để ý trong các bệnh cấp tính, bệnh nhân càng ăn cơ thể càng suy nhược đủ thấy rằng không có sự hấp thụ, sự thu dụng các thức ăn trong một bệnh cấp tính. Thức ăn không thể tiêu hoá thì làm sao mà hấp thụ được; không hấp thụ được thì lấy đâu mà đồng hoá thì thử hỏi có gì là bổ béo, ích lợi cho thân thể người bệnh mà ăn vào cho thêm khổ. Ta đừng cho rằng sự suy nhược trong bệnh cấp tính là do nhịn ăn mà ra, trên thực tế người bệnh nhịn ăn bao giờ cũng khoẻ mạnh hơn người bệnh được ăn uống vì người bệnh càng suy nhược thì sự cần thiết về nghỉ ngơi càng nhiều. IV. PHÉP NHỊN ĂN TRONG CÁC BỆNH KINH NIÊN VÀ CÁC CHỨNG NGHIỆN CHẤT ĐỘC Các điều mà người mắc bệnh kinh niên thường than thở là ăn không biết ngon, bụng đầy hơi. Có người lại thích ăn suốt ngày và cả ban đêm nữa, mà không biết no. Họ giống như những người say bị chứng thần kinh hỗn loạn dày vò nhưng lại bào chữa bằng lập luận rằng đấy là sự thèm ăn tự nhiên thì sự ăn uống phè phỡn là hợp lý. Những luận cứ như vậy chẳng khác nào sự biện hộ cho sự thoả mãn thèm khát những người nghiền nha phiến, rượu, trà, cà phê, thuốc lá, v.v... Các bệnh kinh niên thường gây ra do một cơ quan nào đó hoạt động bất điều, vì bị đầu độc, vì bạo lực, vì bị kích thích quá độ thì còn có phương thuốc nào thần diệu bằng phương pháp của nghỉ ngơi, của tẩy độc, của bài tiết hữu hiệu hơn cả trong việc bồi bổ, hồi phục và cải tạo sinh lực con người. Các săn sóc cơ thể của nhiều người lúc lành cũng như lúc đau chẳng khác nào một bi kịch. Họ ăn suốt ngày không hở mồm rồi lại dùng các món kích thích để ép buộc các cơ quan mệt nhọc trong các cuộc truy hoan để phung phí sức khỏe, tiêu hao sinh lực để đến lúc sinh mạng bị đe doạ, có tỉnh ngộ chăng thì đôi khi đã quá muộn lắm rồi. Nhịn ăn là con đường đưa con người bệnh hoạn đau khổ đến chỗ sức khoẻ, hạnh phúc. Bác sĩ Shew nói: “Rất hiếm có một trường hợp nhức răng mà có thể kéo dài sau 24 giờ nhịn ăn tuyệt đối”. Một y sĩ Nga bác sĩ Von Seeland nói rằng: “Sau nhiều thí nghiệm, tôi đã đi đến kết luận rằng nhịn ăn chẳng những là một phương pháp trị liệu tới thương phẩm mà còn xứng đáng sự trọng vọng về phương diện giáo dục”. Bác sĩ Adolph Mayer, một y sĩ xuất chúng người Đức, viết trong quyển sách “Trị bệnh trong phép nhịn ăn, trị bệnh của nhiệm mầu” như sau: “Tôi xác nhận rằng nhịn ăn là phương pháp thần hiệu nhất để chữa lành bất cứ bệnh tật gì”. Bác sĩ Ed. Bertholet thuật trường hợp một cụ già 73 tuổi mắc chứng nhiếp hộ tuyến phình lớn. Từ lâu ông cứ mỗi ngày phải thông khoan 2 lần để đi tiểu, do đó sinh bệnh sưng bọng đái trầm trọng và đi ra máu. Sau 6 tháng chữa trị, vị bác sĩ săn sóc thất vọng không muốn dùng thuốc men nữa đề nghị ra mổ xẻ. Ông cụ không thuận và đến nhờ bác sĩ Ed. Bertholet chữa theo phép nhịn ăn làm nhiều đợt ngắn hạn. Đợt đầu nhịn ăn 3 ngày liền có sự cải thiện rõ rệt, người bệnh không bị bí tiểu tiện nữa và không còn dùng ống thông nữa, nước tiểu ngày càng trong và không còn máu mủ nữa. Sau 5 đợt nhịn ăn đều đều, mỗi đợt 4 ngày, người bệnh hoàn toàn bình phục và có thể sống bình thường. Lúc chưa nhịn ăn ông cụ cân nặng 87 kg 400. Sau 5 đợt nhịn ăn sụt xuống 79 kg 400. Tim khỏi bệnh sung huyết, hoạt động điều hoà và thoải mái, từ đó sức khỏe trở lại, ông cụ đi bộ rất xa mà không thấy mệt; đến mùa rét, ông cụ chịu lạnh một cách dễ dàng và không hề đau đớn gì cả. Đúng một năm sau, thấy đi tiểu hơi khó khăn, ông cụ liền nhịn ăn 8 ngày liền, tiếp sau đó là 2 đợt, mỗi đợt 4 ngày. Từ đó ông cụ dứt bệnh hoàn toàn và cảm thấy hoạt động hăng hái hơn bao giờ hết. Một người đàn ông 40 tuổi, sức khoẻ kiệt quệ không làm lụng gì được hơn 1 năm: hơi rán sức một tý hay đi mươi bước là tim đập liên hồi và ngực đau nhói. Tiêm, uống đủ thứ thuốc, áp dụng nhiều lối chữa khác nhau nhưng chẳng đem lại kết quả nào, y sĩ đành bó tay tuyệt vọng. Thế mà sau 28 ngày nhịn ăn, người bệnh thấy sinh lực phục hồi, có thể làm vài cử động thể dục mà không mệt nhọc và sau 2 tháng tĩnh dưỡng, con người mà y khoa kết án mắc bệnh nan y đã lành mạnh hoàn toàn để sống một cuộc đời tươi sáng hoạt động. Một người đàn bà suy nhược đến cùng cực, trong khoảng 10 năm trời mà 2 lần bị mổ bụng vì bệnh lao ruột nên sự tiêu hoá rất khó khăn và đến bữa ăn là đau không chịu nổi. Sự suy nhược đến nỗi chỉ cần đi trăm bước trên đường phẳng cũng đủ gây một cơn mệt lử đến mấy giờ. Người ta tìm đủ mọi cách để trị chứng gầy còm đến rùng rợn kia vì đây quả thật là bộ xương lưu động với 1,80 m bề cao mà chỉ nặng 42 kg 600. Không một lối trị liệu hoá học nào tỏ ra hữu hiệu. Cho ăn nhiều, ăn bổ bằng mọi cách cũng chẳng đem lại kết quả nào, đã vậy người bệnh càng thêm liệt nhược và đến cuối cùng thì người bệnh chẳng buồn ăn nữa. Cuối cùng thì bà ta cầu cứu đến phép nhịn ăn: sau 3 đợt nhịn ăn 3-4 ngày rồi 5 ngày mỗi đợt cách nhau độ nửa tháng tình trạng sức khỏe cải tiến tốt đẹp trông thấy và người bệnh có thể hàng ngày đi dạo chơi chút ít mà không thấy mệt và sau một thời gian thì bà ta có thể làm lụng vặt vãnh trong vườn. Sau 4 tháng, người bệnh cân nặng 48kg và bà ta bảo rằng từ lâu bà ta chưa có khi nào cảm thấy khoẻ mạnh và vui sống như vậy. Các chứng đi tả, nhiều đờm vì ho kinh niên, thũng nước, các chứng nước trong màng phổi, màng tim, màng bụng hay nước trong não, bất cứ các chứng chảy mủ xuất phát từ sự thành mủ kinh niên, bệnh nhiều nước tiểu và nhiều bệnh khác do sự mất quân bình Âm Dương trong người đều được cải thiện nhờ phép nhịn ăn và ít uống. Khi lượng nước thừa trong người Âm tính được thanh toán và sau đó biết sửa chữa cách ăn uống lại cho đúng quân bình Âm Dương, tinh thần quân bình với thể chất, thế là bệnh tật không bao giờ đến với bạn. Mỗi khi bạn bị chứng viêm nước với máu cam (mũi) đổ ra hay bị bệnh lao mà thổ huyết hoặc lao ruột mà đi tả, v.v... bạn hãy ngưng việc uống nước và nhịn ăn thử trong vòng 24 giờ sự xuất huyết chắc chắn sẽ cầm ngay. Sau đó ăn theo cách số 7, 6 hay 5 thì thế nào bạn cũng sẽ lành bệnh. Một cuộc nhịn ăn dài hạn được chính thức kiểm soát mà Ulrich Von Hutten thực hành đã chữa lành bệnh giang mai. Câu chuyện này hẳn mọi sinh viên y khoa đều biết rõ. Sau vụ thí nghiệm tiếng tăm này, nhiều người khác đã áp dụng và thu hoạch kết quả rất mỹ mãn. Giá trị của phép nhịn ăn trong bệnh giang mai không thể chối cãi được. Không có thứ thuốc nào hiệu nghiệm bằng nhất là lúc bệnh đang ở trong thời kỳ thứ nhất và thứ nhì. Bác sĩ Luys và Klotz đã chữa bệnh lậu bằng phép nhịn ăn, kết quả thật nhanh chóng và bệnh không thấy tái đi tái lại. Nhớ lần có một người bị bệnh nhức đầu kinh niên đến nhờ ông Shelton chữa bằng phép nhịn ăn. Ông ta đã khám nhiều bác sĩ và mọi người đều xác nhận rằng trong não ông ta có một cái nhọt cần phải mổ mới lành được. Đã mấy tháng trời ngày đêm đầu đau như búa bổ mà các bác sĩ không cách gì làm lắng dịu được dù là tạm thời trong chốc lát. Thế mà lạ thay sau 24 giờ nhịn ăn, cơn nhức đầu đã tiêu tan như một phép mầu. Nhiều phép nhịn ăn mắt được tinh anh sáng suốt hơn, có nhiều trường hợp mù được sáng trở lại là khác. Tai cũng nghe rõ hơn, đã có nhiều trường hợp người bị bệnh điếc phục hồi thính giác nghe lại hoàn toàn. Có người mù đã lâu sau khi nhịn ăn mắt trông thấy trở lại sáng suốt. Bác sĩ Guepla nhờ phương pháp nhịn ăn đã chữa lành nhiều bệnh về mắt trầm trọng như sưng giác mạc và mống mắt, xuất huyết trong mắt, thanh quản nhãn, võng mạc viêm, tê liệt các bắp thịt của mắt, thuỷ tinh thể của mắt bị mờ đục. Có người điếc đã 25 năm, sau khi nhịn đói 30 ngày để chữa một bệnh khác tình cờ nhờ đó mà nghe lại được như thường. Những trường hợp này có lẽ nhờ sự cải tạo và các thần kinh thính giác và thị giác trong lúc nhịn ăn. Nhịn ăn hình như đặc biệt có công hiệu với các bệnh thuộc về phổi nên kết quả tương đối nhanh chóng hơn đối với các tạng phủ khác, hơn thế nữa hình như những người mắc bệnh phổi thường nhịn đói dễ dàng hơn những người mắc các bệnh khác. Trong trường hợp bệnh lao người ta thường áp dụng những kỳ nhịn ăn ngắn hạn. Nhịn ăn trong những trường hợp đau tim là một phương pháp chắc chắn để cho tim được nghỉ ngơi và hồi phục sức mạnh. Theo bác sĩ Riedlin, khả năng trị liệu của phép nhịn ăn bao quát tất cả mọi chứng kinh niên, nhất là nó chữa lành tất cả mọi bệnh tật gây ra do các cặn bã của sự đốt cháy các thức ăn chưa trọn vẹn còn sót lại. Ông đã chữa lành một cách chắc chắn và nhanh chóng những bệnh phong thấp, bệnh thống phong, bệnh đau thần kinh hông, bệnh viêm nước vị trường, bệnh gan sung huyết, bệnh trĩ, các bệnh sần đỏ ngoài da, mà còn cả các bệnh về phụ khoa, các bệnh về sinh dục, các chứng thận sưng kinh niên, các bệnh thần kinh, các bệnh về tai, về mắt... Tóc rụng, mồ hôi thối tha ở chân, các bệnh tĩnh mạch trương đều chữa lành với phép nhịn ăn. Vì vậy người ta có thể gọi một cách hợp lý: Nhịn ăn là sự giải phẫu không cần đến dao mổ. Ăn thực phẩm vào là đặt một gánh nặng trên quả tim; bội thực là tăng gia một cách vô ích cái gánh nặng ấy. Lắm người đau tim đã chết gục sau một bữa ăn thịnh soạn hoặc ngay giữa bàn tiệc đầy cao lương mỹ vị. Các chứng thấp phát về tim từ sự tim đập dồn dập đến sự hồi hộp và cuối cùng là bệnh nhói tim trầm trọng, đa số đều dai dẳng do gây ra bởi sự ăn uống quá độ, sự lên men, sự căng dãn dạ dày và sự không tiêu hoá kịp. Nhịn ăn chữa được bệnh về thần kinh và trí não, giúp người ta thêm trí nhớ, thêm sức chú ý, thêm sự minh mẫn trong ý tứ suy luận cũng như tư tưởng. Nhịn ăn còn là một phép trị liệu thượng phẩm để chữa lành các tình trạng