"
Tuyển tập Nguyễn Khải
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tuyển tập Nguyễn Khải
Ebooks
Nhóm Zalo
NGUYỄN KHẢI TUYỂN TẬP
Đánh máy : gio_mua_dong – TTVNOL www.sahara.com.vn
vnthuquan.net
Mục lục :
Tự Bạch
Nằm Vạ
Mùa Lạc
Bố Con
Đứa Con Nuôi
Tầm Nhìn Xa
Người Mơ Mộng
Một Trường Hợp Ly Dị
Hai ông già ở Đồng Tháp Mười
Những cô gái đòi tự sát
Nắng chiều
Một Người Hà Nội
Đời Khổ
Người ngu
Nếp nhà
Má hồng
Bảy đô một đêm
Đàn ông
Đàn bà
Chị Mai
Buổi sớm mai
Bạn viết cũ
Ước gì tôi được trẻ lại
Tự Bạch
Cũng như nhiều người viết khác, tôi vào nghề văn bằng một truyện ngắn được đăng trên tạp chí Lúa Mới của Chi hội Văn nghệ khu Ba, khoảng cuối năm 1950. Năm sau lại viết một truyện vừa, năm 1955 lại viết một truyện vừa nữa. Cả truyện ngắn lẫn truyện vừa viết trong khoảng thời gian này đều thất bại, không le lói một chút tài năng viết lách nào, như một người không có duyên với văn chương. Không ngờ cuối năm 1956 lại viết được truyện ngắn nằm vạ, năm sau viết được tiểu thuyết xung đột, được bạn bè trong nghề bắt đầu chú ý. Nên tôi coi truyện ngắn nằm vạ là truyện chính thức trình làng, truyện vào nghề của mình. Từ bấy đến nay, trong bốn mươi ba năm, tôi viết được khoảng bảy chục truyện ngắn, nay tuyển lại được non nữa, in làm một tập để bạn đọc tiện theo dõi hành trình sáng tạo của một tác giả.
Trong ba mươi năm làm biên tập tạp chí Văn nghệ Quân đội, tôi được dành hầu hết thời gian cho việc đi và viết, là người viết chuyên nghiệp, không phải làm bất cứ việc nào khác của cơ quan. Nếu phải làm cũng là do bị ép buộc, làm đâu hỏng đấy nên không được anh em tín nhiệm, rút lại vẫn chỉ có một việc làm thông thạo là đi và viết cho tới tận bây giờ. Có những năm tôi vừa viết truyện ngắn cho tạp chí vừa viết tiểu thuyết, lại có những năm chỉ viết tiểu thuyết không viết truyện ngắn và có cả chục năm chỉ viết có truyện ngắn không hề đụng bút đến truyện dài. Đó là tùy sự cảm hứng của từng thời kỳ, tôi không bao giờ tự ép nếu không thấy thích, không thấy cần.
Nhưng tiểu thuyết và truyện vừa, truyện ngắn của tôi không bao giờ bắt đầu từ sự tưởng tượng hoàn toàn, từ sự mộng mơ hoàn toàn. Tôi chỉ có thể đặt bút viết nếu tôi được chạm vào người, vào việc và những cảnh ngộ có thật trong cuộc sống. Tất nhiên không phải nhìn vào đâu, gặp bất cứ ai, nghe bất cứ chuyện gì đều có thể viết thành truyện được cả. Mà chỉ những người, những việc, những cảnh ngộ có dính líu ít nhiều tới tiểu sử của tôi, những kỷ niệm xa gần của tôi hoặc một nguyện vọng, một mơ tưởng đã
khao khát từ năm còn trai trẻ. Mỗi lần đi tôi đều ghi chép rất tỉ mỉ như một nhà báo vì tôi có trí nhớ kém. Nhưng đó chỉ là sự bắt đầu, sự gợi ý, cái nháng lửa đầu tiên, còn khi ngòi bút đã lia trên trang giấy thì mọi nhân vật đều là những hóa thân của tôi cả. Tôi chỉ mượn có cái vỏ, cái xác của người này người kia còn cái hồn phải là của chính mình. ở cô Đào (Mùa Lạc), cái Tấm (Đứa con nuôi), Hòa (Bố con) đều có một phần tôi trong đó. Trong truyện ngắn Hai ông già ở đồng tháp mười, phần nào ao ước của tôi là ông già trưởng trạm máy kéo, phần đã có những năm tháng trải qua là ông già thư ký gặp nhiều bất hạnh. Cặp vợ chồng ở chân động từ thức thì tôi chính là anh thương binh mù dẫu rằng chưa bao giờ tôi phải sống trong cảnh ngộ đó. Nhưng cái tính khẳng khái của một người có quá nhiều lòng tự trọng nên phải nhận phần thua thiệt thì chính tôi đã có lúc được nếm trải. Trong Lãng tử, hình ảnh một anh chàng lãng du, thích sống một cuộc đời phiêu lưu, tự do, nhàn tản cũng là tôi nốt, nhưng là cái tôi của ao ước, của mơ mộng bởi cuộc sống hàng ngày của mình quá buồn, quá nhạt. Còn trong ông cháu, có lúc tôi là ông già, có lúc tôi là đứa trẻ, mỗi dòng đều có tâmsự của chính mình.
Nếu một truyện ngắn hoặc một cuốn tiểu thuyết chỉ có chuyện của mình thì mạng sống của nó không thể dài hơn một bài báo. Nó chỉ có thể cho người đọc một số thông tin nào đó, là cái báo chí có thể cung cấp đầy đủ hơn, người đọc biết xong là quên liền chứ không thể tạo được một ám ảnh lâu dài. Mọi truyện ngắn và tiểu thuyết của tôi, nói cho cùng đều là tôi cả hoặc có thể là tôi, nên có những truyện được viết cách đây đã trên dưới bốn chục năm, nay đọc lại vẫn đem lại cho tôi những cảm nghĩ của bây giờ, những xúc động của bây giờ.
Những truyện ngắn in trong tập này xếp theo thứ tự thời gian sáng tác. Những sáng tác lúc trẻ thì tươi hơn nhưng những sáng tác lúc về nhà lại chứa đựng nhiều chiêm nghiệm, nó là một đời người thấm vào từng con chữ.
Người viết có thể viết hay lúc trẻ mà cũng có thể viết hay cả lúc già, miễn là thời nào ra thời ấy, khi trẻ thì văn chớ nên quá già, lúc già đừng nên viết câu văn quá trẻ, phải luôn luôn là chính mình, lúc thơ ngây lúc
từng trải, lúc vui lúc buồn, bao giờ cũng tự nhiên, thành thực. Một tác giả khi tuyển lại những tác phẩm của một đời viết thường nghĩ một cách chủ quan, một cách thơ ngây là những truyện đã chọn đều hay cả, đều xứng đáng giới thiệu với bạn đọc cả. Cho dù người ấy đã rất tỉnh táo cũng khó mà nhận ra những cái dở của văn mình. Thì các cụ đã nói: "văn mình..." Cái thói xấu ấy cũng rất "người", rất mong bạn đọc rộng lượng. Tháng 12 năm 1998
NGUYỄN KHẢI
Nằm Vạ
Hễ nói gì đến mụ Bột là người ta đã có sẵn cái thành kiến: "Bà ấy haylu loa gớm đấy. Xưa kia cũng vào hạng ăn vạ có nghề". Mụ năm nay dễ đã ngoài năm mươi, người sồ sề, tóc xén ngắn vừa che kín tai, kín gáy, mắt đột vẩy cá nên sự nhìn không được tinh tường. Nhiều người bảo mụ điếc nhưng không có gì làm bằng chứng. Có câu chuyện nói hai ba lần mụ vẫn gặng : "Nói to lên một tí, tai tôi kém", nhưng cũng có những câu chỉ nói thoảng qua mà mụ cũng đón lấy được đầy đủ và có lời lại ngay. Ngày trước người anh túng đói quá đi làm ăn xa có gửi lại mụ cái hòm gian. Đến khi ông ta chết, con về làng làm ăn có xin lại cái hòm đó nhưng mụ chần chừ không trả. Người ta cứ đến khiêng về thì mụ te tái chạy đến tận nhà chửi bới rồi nằm lăn ra cổng ăn vạ, vu cho đánh. Nằm từ sáng đến tối, đứa cháu điên tiết vác gậy ra đánh thật, không đánh cũng mang tiếng là đánh rồi, mụ không ngờ đến cơ sự ấy, bị đánh đau quá vén váy chạy mất. Trong giảm tô có người tố mụ lén bỏ thuốc độc cho gà ăn, khi đội rút mụ gây sự với người đó rồi cũng nằm lăn ra sân ăn vạ. Suốt hai đêm một ngày, con cháu mang cơm đến mụ nhất mực không ăn, kiến đen bò lên mồm cũng không động đậy. Người nhà đó cũng già gan, làm ăn như thường, tối khóa cửa lại sang hàng xóm ngủ. Sáng ngày thứ hai thì đói không chịu được mụ đành chống đòn gánh về.
Nhưng từ sau "vụ Hữu-vi" mà mụ là nhân vật chính thì tiếng tăm mụ càng lừng lẫy, không phải chỉ một thôn biết mụ mà cả năm xứ cũng biết mụ. Câu chuyện đó xảy ra sau cải cách ruộng đất bốn tháng, vào dịp gặt mùa.
Hôm ấy trời nắng ấm áp. Ngoài đồng chỉ có hai sào của anh Khái là lúa dự chưa gặt, còn toàn là nếp, tám. Những bông lúa được nắng càng vàng ra, nặng thêm, trĩu cong xuống như cái liềm nhỏ. Hai sào của anh Khái nằm trong số năm mẫu lấy ra của nhà chung chia cho nông dân trong cải cách ruộng đất. Khi chia vào tháng sáu nên anh Khái cũng được hưởng cả hoa màu kèm theo. Một vài người không ưa chế độ dân chủ cộng hòa xui giục một số con chiên đứng ra đòi lại hoa màu vụ mùa này của hai sào
ấy lấy cớ trả nhà xứ đèn nến, bù lại số hoa màu tháng sáu anh Khái lấy không. Vì lẽ đó nên lúa chín đỏ mà vẫn rập rình chưa gặt về. Sau đó ủy ban xã có lệnh lúa ai cấy người ấy gặt, ruộng được chia là của mình thì hai vợ chồng anh Khái mới yên trí ra gặt.
Quá trưa thì mụ Bột từ trong làng đi ra, theo sau bảy, tám cô cầm hái. Đến ruộng Khái mụ ngồi thụp xuống đầu bờ, nói trõ xuống : - Cái số lúa ở hai sào này bà con đã có ý kiến là anh cho lại để các thầy đèn nến ở thánh đường.
- Ruộng này đã chia cho tôi rồi, vợ chồng tôi xới ải, chăm bón mới được bông lúa thì chúng tôi phải gặt chứ. Lúa có tự nhiên mọc lên đâu. - Đã đành thế, nhưng vụ tháng sáu anh đã lấy không ngót hai chục thúng thóc còn gì. Lúa ấy anh chăm bón hay nhà chung ?
- Đã có chính sách chứ. Sao trong cải cách bà không nói bây giờ bà lại sinh chuyện với tôi.
Mụ đứng thốc dậy, chít lại khăn vuông rồi quay lại bảo mấy cô đi theo :
- Đã thế cứ xuống gặt đi, tội vạ đâu tôi chịu !
Anh Khái mặt đỏ gay, vừa tức, vừa luống cuống :
- Người cùng giai cấp bần cố cả sao bà lại làm thế! Thế nào cũng còn có ủy ban chứ...
Từ lúc này mụ bắt đầu điếc đặc, các cô kia ngần ngừ một lúc rồi cũng ùa xuống gặt nốt. Anh Khái lên bờ đứng nhìn, ngón chân ngón tay máu chạy giần giật. Vợ Khái nước mắt chạy quanh, chạy một mạch về làng hô hoán. Một lát người kéo ra vây kín hai sào. Một tiểu đội bộ đội đóng gần đấy cũng chạy ra. Những người gặt bắt đầu bó lúa đội về. Vợ chồng Khái chạytheo giằng lại, thóc rụng xuống đường rào rào. Trước còn bốn người giằng nhau, sau thành sáu người, thành mười người, thành hai đám xô xát nhau. Bó lúa từ đầu người này quẳng xuống đất lại lên đầu người khác, lại quẳng xuống đất, mỗi lúc một nhẹ đi.
Người to tiếng nhất là mụ Bột. Mụ đội một bó lúa, một tay cầm hái, vừa chạy trước vừa hò hét :
- Cứ đem về nhà xứ! Chẳng đứa nào có quyền giữ lại!
Tiểu đội trưởng bộ đội đứng chắn ngang ngăn. Mụ ta đâm sấn đến rồi lùi lại :
- Việc này là việc của giáo dân chúng tôi chứ của các anh đâu mà ra ngăn ?
- Cụ nên nghe tôi để lúa lại chờ ủy ban đến sẽ hay.
- Không ai chờ được !
Rồi mụ dun anh đó sang một bên, chạy dướn lên. Anh đó cầm tay mụ giữ lại. Mụ lập tức vứt bó lúa ra đường rồi từ từ khu ng, lăn ngay xuống mé ruộng nằm cứng đờ. Một tiếng thét thất thanh :
- Bộ đội đánh chết bà Bột rồi !
Những bó lúa vứt chỏng chơ ra đường, mọi người quây lại cái xác chết. Đầu xác chết kê trên một hòn đất hơi dốc nên lật ra sau, một tia nắng chiếu thẳng vào mặt, nhưng có lẽ chưa chết hẳn vì thấy cái xác đó khe khẽ cựa quậy rồi lật nghiêng lại, đầu gối lên một cánh tay cho cao hơn, còn tay kia co lên che lấy mặt cho khỏi nắng, cái vạt áo đằng trước hếch lên để lộ cả một mảng bụng thở phập phồng. Những cô gái gặt lúa lúc nãy lại xô về phía bộ đội nói léo xéo :
- Bộ đội đánh chết người à ? Thế mà cũng là quân đội của nhân dân ! - Lấy tay thụi hay báng súng nện mà chết được ngay như thế ? - Mắt tôi thấy rõ ràng là cái anh bộ đội đứng kia, anh ấy lấy tay thụi
vào mạng mỡ bà lão, bà ấy ngã ra rồi anh ta còn thúc mũi giầy bồi thêmmấy cái nữa.
Lời phân trần của bộ đội, của một số người thấy rõ sự thật bị tiếng chuông nhà thờ đổ hồi và làn sóng công phẫn át đi.
- Bà ấy lại ăn vạ bộ đội đấy mà, chứng nào vẫn tật ấy.
- Ăn vạ bộ đội thì được cái gì, chết cứng đờ kia kìa. Không đánh sao chết?
- Đã chết đâu, còn thở rốc như con cá mè kia!
Một vài người lấy rơm che lên mảng bụng, rắc lên mặt mụ. Có một cô khóc rống lên :
- úi mẹ ơi, sao mẹ đã vội bỏ con bỏ cháu lên thiên đàng hở mẹ ơi ! Nhiều tiếng khóc khác ùa theo. Những người khóc toàn kêu là bà, là
mẹ, là bá, là thím cả.
ủy ban xã đến, y tá xã và y tá của bộ đội cũng đến. Người ở các xứ khác cũng đến. Người đứng chật đường kéo dài mãi tới đầu xóm Một, trèo lên các trụ đá, xúm quanh cái xác vẫn còn thở thoi thóp. Người ta hỏi nhau :
- Ai đấy ?
- Bà Bột !
- À, lại bà Bột.
Có người cúi xuống nhấc cánh tay lên để xem tận mặt. Lúc đầu cái tay còn dễ nhắc, sau nó bíu chặt lấy mặt, càng giằng tay càng cứng lại. Tiếng rên to hơn, cái đầu nhúc nhích, chân sẽ cựa quậy.
- Đã chết đâu?
- Cũng sắp chết!
- Từ dạo xưa đến giờ đã chết mấy lần nhưng có thấy đưa đám lần nào? Thế là có người khóc lại có cả người cười. Sự việc càng thê thảm lại càng khôi hài. Ngay cả mụ Bột đã nằm xuống đó cũng mẩm thấy tình hình này không yên được rồi. Ai ngờ lại to chuyện đến thế. Những lần mụ giả chết trước người ta chỉ chú ý bình thường thôi, nhiều người còn chê bai nữa. Đã thế mụ càng muốn chết thật, càng nằm cho gan. Nhưng hôm nay người ta bảo mụ chết thật rồi, có người khóc mụ nữa. Câu chuyện lây ra cả bộ đội, cả ủy ban, cả năm xứ. Rồi mụ lo lắng nhỡ không chết thì sao, mà chết làm sao được, ai đánh mà chết...
Ủy viên của ủy ban hỏi mọi người :
- Nếu các bà định đem lúa về nhà chung vậy ai đứng ra ký nhận số lúa đó ?
Không ai trả lời, một số đùn lẫn nhau nhưng rút lại vẫn lặng im. Ủy viên lại hỏi :
- Không ai nhận thì số lúa đó đem về trụ sở ủy ban đợi giải quyết sau, các bà các ông nghĩ thế nào?
Cũng không ai trả lời, sau đó một số không đồng ý nhưng phần đông đều thấy nên giải quyết như thế thì ổn hơn.
Còn mụ Bột, ủy viên đề nghị :
- Nếu bộ đội có đánh thật thì xin cho y tá khám nghiệm rồi cáng bà cụ về nhà.
Tiếng khóc lại bắt đầu bật lên, ồn ào : Bà ơi, mẹ ơi, u ơi, bá ơi... Mụ Bột càng bối rối, ruột gan nóng như lửa. Việc gì phải y tá khámnữa, giá có ai dìu được mụ về thì hay quá, cho nó yên chuyện đi... Đầu mụ ngọ nguậy rồi khe khẽ nhấc lên, mấy cuống rạ rơi xuống, nắng chói vào mặt làm mụ phải mở mắt ra, nhấp nháy mấy cái. Một bàn tay đàn ông vít đầu mụ xuống, một giọng nói quen thuộc thì thào :
- Nằm xuống !
Mụ lại để đầu xuống nhưng đầu dốc quá nên càng khó chịu hơn trước, hơi thở cố nén mãi nay không giữ được nữa càng hổn hển. Võng đã đemđến, y tá lách vào, một vài người đẩy y tá ra đòi anh bộ đội đánh chết bà Bột phải ra nhận tội, xin lỗi trước nhân dân. Nhưng ai là người đã đánh chết? Tiểu đội trưởng bộ đội chăng ? Không phải. Anh chỉ cầm tay bà cụ giữ lại. Vậy ai thụi, ai đá, bắt người đó ra nhận tội và xin lỗi. Nhưng làmgì có ai ? Mà cũng không ai trông thấy sự hành hung đó nốt để làm chứng. Vậy làm thế nào ? án mạng xảy ra giữa ban ngày, trước đông người mà đã rắc rối, phức tạp không tìm ra đầu mối.
Tiếng khóc vừa lúc nãy ầm ĩ thế, giờ đã im hẳn, không có cả tiếng thút thít nữa. Kể ra tình hình này mà khóc cũng vô lý thế nào ấy. Vòng người đứng sát bờ lúa bắt đầu rẽ ra về trước. Rẽ đến đâu thì vòng người bó chặt chung quanh cũng tháo tung ra đến đó. Lúc chạy đến họ gọi nhau í ới, mặt hớt hải, lo sợ thì lúc về họ lại chòng ghẹo nhau, nhại tiếng khóc, cười đùa ầm ĩ.
Rồi về hết, cả ủy ban, cả bộ đội nữa vì mọi người đã thấy rõ sự thật rồi.
Trời bắt đầu tối, rồi tối hẳn. Sương mù xuống trắng xóa. Mụ Bột trước còn nằm nghiêng, chân duỗi, sau co dần, co mãi, hai tay thu vào lòng mà vẫn không thấy ấm hơn. Mụ khẽ mở mắt, chung quanh tối đen, chẳng có người nào. Mụ nhấc đầu lên rồi chống tay ngồi hẳn dậy, lưng mỏi rừ vì cố nằm mãi một chiều suốt buổi. Người ta định bỏ mặc mụ hay sao đây, ngần này tuổi đầu mà còn bị chúng nó xúc siểm, xui dại. Mụ lần ra mép bờ, bò
lên rồi tập tễnh về nhà. Con dâu ngồi ẵm con ở ngưỡng cửa thấy mẹ về hỏi một câu :
- Bà đã về !
Y như bà đi làm đồng hay chơi ở nhà hàng xóm về chứ không phải bà vừa sống lại. Mụ ngồi ở thềm hè, cơn tức đã lên đến cổ :
- Chúng bay có để phần cơm tao không ?
- Định nấu cháo đem ra cho bà nhưng ông Lưu ngăn lại, ông ấy bảo cứ để bà nằm nốt đêm nay thì ngày mai có đứa chết.
Mụ quay lại rít lên :
- Ngày mai đứa nào chết, chỉ có đứa này chứ còn đứa nào? Chúng mày muốn cho bà chết nhưng bà còn sống để hưởng phúc Chúa, bà chẳng phải dại !
Rồi mụ cầm đèn vào buồng xúc bát gạo đi nấu cơm.
11-1956
Mùa Lạc
Sáng, mây bốc mù chân núi, vây quanh lấy cánh đồng Điện Biên, nhưng trên đỉnh chóp lại hết sức trong trẻo trông thấy rõ những thân cây đứng trơ trụi và thấp thoáng mấy vệt trắng của mái nhà người Mèo. Đằng đông ửng dần lên những mảng sáng óng ánh vàng như vỏ trai, và hơi gió rất mát mẻ lay động những ngọn lá lăn tăn của cây me dại và cây rút đồng.
Bãi trồng lạc ở cánh đồng phía tây Hồng Cúm trải ra từ chân khu nhà ở của đội sản xuất số "6" mênh mông cho mãi tới giáp rừng. Giữa cái màu xanh lặng lẽ của lá lạc, lá cỏ nghệ và rút đồng, nổi lên một điểm vàng sẫmcủa mấy mảnh gianh và lá cót đan lẫn lên nhau. Đấy là nơi sinh động nhất của toàn bãi: tiếng chân đạp trên bàn gỗ rình rịch, tiếng vòng trục quay ù ù của ba cái máy tuốt lạc, tiếng bàn cào rê lạo sạo trên mình vỏ lạc thu gọn lại ở khoảng giữa. Mùi hăng của thân lạc tươi mới nhổ xếp lớp lớp trên các cáng và mùi ẩm ướt nồng nồng của những cây lạc đã tuốt đánh đống phơi mưa suốt đêm qua. Bụi bốc mờ mờ từ cả mấy phía, và những chấmcánh nâu của con sâu ban miêu bay sè sè vụt qua vụt lại. Mồ hôi đã thấmhết lần áo ngoài những người đạp máy, khuôn lấy hình người, hằn rõ những mảng thịt ở ngực, ở bả vai và vế đùi. Chiếc máy giữa và chiếc máy ở phía tay trái do sáu người đạp còn chiếc máy bên phải chỉ có Huân tổ viên tổ 1 và Đào tổ viên tổ 4 đứng. Đào thuộc loại người gặp một lần có thể nhớ mãi, rất dễ phân biệt với chị em khác. Hai con mắt hẹp và dài đưa đi đưa lại rất nhanh, gò má cao đầy tàn hương, và hàm răng trên hơi hô một chút. Chị bịt đầu bằng chiếc khăn vải kẻ ô vuông buông một vạt dài ra phía sau khiến những nét thiếu hòa hợp trên mặt càng trở nên thô, càng đỏng đảnh.
Đứng cạnh người đàn bà ít duyên dáng ấy là Huân, một thanh niên chưa tròn hai mươi nhăm tuổi, khỏe và đẹp trai. Anh đưa cặp mắt màu nâu nhạt ẩn dưới đôi lông mày rất đen và mịn như nét vẽ sang phía Đào. Mồ hôi đã thấm ướt vành khăn, chảy từng giọt xuống kẽ mắt, sống mũi. Cái thân người sồ sề của chị như nở to ra, hổn hển, cặp chân ngắn đạp xuống bàn gỗ đã bắt đầu uể oải, nhưng hai bàn tay vẫn thoăn thoắt quơ ra phía sau lấy từng bó lạc, và bằng cử chỉ rất nhanh chị uốn hai cổ tay xiết những rễ cây đầy củ
lạc già lên vòng trục. Huân vứt những thân cây đã tuốt hết củ sang một bên, nói khẽ:
- Xem ra mệt lắm rồi nhỉ?
Đôi mắt dài lóng lánh của Đào liếc sang Huân, phần dưới mặt hếch hẳn lên:
- Hỏi mình ấy, ý chừng muốn nghỉ chứ gì !
Huân cười rất to, hai hàm răng đều trắng lóa.
- Trông đây này!
Anh dún mạnh chân trái xuống, lập tức nhịp đạp nhanh hẳn lên, vòng trục xiết vào rễ cây xin xít, củ lạc bắn rào rào xuống đống lạc ở khoảng giữa. Cả người Đào cũng bật lên theo, thớ thịt trên bả vai khẽ rung rung, hai bàn tay xoay đi xoay lại càng vội vã. Chị đã quá mệt nhưng hai gò má đầy tàn hương vẫn nhọn hoắt bướng bỉnh và đôi mắt nhỏ tí ánh lên thách thức. Vừa lúc đến giờ nghỉ mười lăm phút, Huân đã bước ra, Đào vẫn còndún thêm mấy đạp, rồi hai tay chống vào cạnh sườn, chị nhìn mọi người lơ láo:
- Nghỉ hử, tại sao hôm nay lại nhức đầu thế, chân tay cứ bủn nhủn ra! Chị quay sang nhìn mái tóc xanh mỡ của Huân, cười mỉm: - Chịu thua thanh niên thôi!
Lâm, tổ trưởng tổ 1, nháy con mắt với Đào:
- Chị, à quên, cô cũng còn đang lứa tuổi thanh niên chứ đã già gì. Tương lai chán!
Đấy cũng là câu đùa cửa miệng của nhiều người đối với Đào, nhưng lần nào nghe nói câu nói ấy chị cũng buồn tủi như chợt được biết lần đầu về mình và chỉ trong chốc lát nét mặt chị đã thay đổi hẳn. Chị nhìn Lâmhờn dỗi, rồi ngồi dựa lưng vào đống thân lạc, giọng cay chua:
- Trâu quá xá, mạ qua thì, hồng nhan bỏ bị còn gì là xuân nữa hở các anh?
Lâm liếc nhìn Huân, cười tinh quái:
- Thế mà vẫn có nhiều người thương lắm đấy !
Huân vuốt tóc ra phía sau, cặp mắt rất đẹp của anh nhìn Đào trìu mến. Đôi gò má cao của chị ửng đỏ, đôi môi định mím lại nhưng không chặt,
vừa vui sướng vừa như cưỡng lại sự vui sướng ấy. Chị thở rất mạnh, với lấy một cây lạc bứt từng củ một:
- Các anh đã biết đời em rồi đấy. Mỗi năm một tuổi, cái tuổi nó đuổi xuân đi. Nồi nào vung ấy, em đã có bố cháu dưới xuôi rồi, mai nay bố cháu cũng lên đây xây dựng xã hội chủ nghĩa cùng với em đấy.
Rồi như chợt nhận ra trò chơi độc ác của mọi người bằng cách đemghép chị là người xấu nhất của đội sản xuất với Huân, người đẹp trai nhất, chị tiếc sự thành thật của mình, việc gì phải tủi, phải nhún mình, người nào mà chẳng có cái phần tốt đẹp. Chị nhổm dậy, đi vài bước tới trước mặt Huân, ngâm nga:
- "Huê thơm bán một đồng mười. Huệ tàn nhị giữa giá đôi lạng vàng". Giá đôi lạng vàng chứ chưa vị tất đã bán đâu anh Huân ạ. Chị còn định nói thêm vài câu nữa, nhưng khi Huân ngẩng mặt lên, nhe hàm răng trắng bóng ra cười thì chị lại muốn quên hết, lại ao ước mình được trẻ lại, như không bao giờ có cuộc đời đã qua, mà chỉ có lúc này, một nữ công nhân trên nông trường Điện Biên Phủ, một người có quyềnđược hưởng hạnh phúc như mọi người con gái may mắn khác. Đào lên nông trường Điện Biên vào dịp đầu năm, ngoài Tết chừng nửatháng, với tâm lý con chim bay mãi cũng mỏi cánh, con ngựa chạy mãi cũng chồn chân, muốn tìm một nơi hẻo lánh nào đó, thật xa những nơi quen thuộc để quên đi cuộc đời đã qua, còn những ngày sắp tới ra sao chị không cần rõ, đại khái là chẳng hơn gì trước mấy, có thể còn gặp nhiều đau buồn hơn. Quân tử gian nan, hồng nhan vất vả, số kiếp đã định thế, trước sau vẫn chỉ một con đường ấy, không thể nào tránh được. Chị quê ở Hưng Yên, nhà không có ruộng, vẫn làm nghề đậu phụ, thời địch tạm chiếm, lại xoay sang úp men, nấu rượu. Lấy chồng từ năm mười bẩy tuổi, nhưng chồng cờ bạc, nợ nần nhiều nên bỏ đi Nam đến đầu năm 1950 mới trở về quê. Ăn ở nhau được đứa con trai lên hai thì chồng chết. Cách mấy tháng sau đứa con lên sài bỏ đi để chị ở một mình. Từ ngày ấy chị không có gia đình nữa, đònh gánh trên vai, tối đâu là nhà, ngã đâu là giường, khi ra Hòn Gay, Cẩm Phả lấy muồng, khi ngược Lào Cai buôn gà, vịt, mùa tu hú kêu sang đất Hà Nam buôn vải, tháng sáu lại về quê bẻ nhãn. Khi thì ở chợ Cuối Chắm, ở
đò Tràng Thưa, khi lại về phố Rỗ, chợ Bì, chợ Bưởi. Mùa hè vài cái áocánh nâu vá vai, mùa đông một chiếc áo bông đã bạc, ngày mưa, ngày nắng, bàn chân đã từng đi khắp mọi nơi không dừng lại một buổi nào. Cũng có ngày đau ốm, nằm nhờ nhà người quen, bưng bát cơm nóng, nhìn ngọn đèn dầu lại sực nhớ tới trước đây mình cũng có một gia đình, có một đứa con, sớm lo việc sớm, tối lo viêc việc tối. Còn bây giờ bốn bể là nhà, chỉ lo cho bản thân mình sao được cơm ngày hai bữa, chân cứng đá mềm. Mái tóc óng mượt ngày xưa qua năm tháng đã khô lại, đỏ đi như chết, hàm răng phai không buồn nhuộm, soi gương thấy gò má càng cao, tàn hương nổi càng nhiều. Muốn về sống lại ở quê, nhưng quê hương nào còn có ai. Thôi đành cứ đi mãi, ngày khỏe đã vậy, ngày ốm chưa biết ra sao. Muốn chết nhưng đời còn dài nên phải sống. Chị sống táo bạo và liều lĩnh, ghen tị với mọi người và hờn giận cho thân mình. Chị về đội sản xuất số "6" chưa đầy một tháng đã quen khắp mặt, duy chỉ thân có mỗi Huân, vì tuy anh chưa từng trải bằng chị, nhưng lại tỏ ra rất thông cảm với cuộc dời của chị. Lần đầu tiên hai người quen nhau vào một buổi chị đi qua dãy nhà bộ đội thấy Huân đang hí hoáy pha màu vẽ cho tờ báo tường. Chị đứng khuỳnh tay, ngắm nghía rồi khen: "Anh vẽ khéo nhỉ!" Huân nhìn chị cười: "Chị có bài thơ nào đưa lên báo không?" Câu nói ấy vừa nói cho vui, vừa hơi châmbiếm. Chị gật đầu nhận lời ngay: "Được thôi, thế bao giờ đưa nộp?". Huânthầm nghĩ: "Cô này biết đùa đây", nhưng vẫn dặn thêm: "Phải là thơ hay đấy!" Chị trả lời ngang ngược: "à, chắc không đến nỗi dở lắm". Chị vốn biết chữ từ nhỏ, lại thuộc nhiều thơ cổ, các câu ca, hát ví xưa, khi nói chuyện chị cũng hay vận thành vần, ví von, nên chỉ có một buổi trưa chị đã làm xong bài thơ: "Đường lên nông trường Điện Biên". Ai ngờ bài thơ lại hay, đưa lên báo có vài buổi đã nhiều người ngâm nga đọc thuộc.Anh emthấy một đôi bạn trái ngược nhau cả về hình thức lẫn tính nết liền đem họ ra gán ghép. Song chẳng qua đặt chuyện cho vui để trêu chọc chị thôi.Vì kể về tuổi thì năm nay chị đã hai mươi tám, còn nhìn ngoài mà so sánh thì tưởng chị phải hơn Huân cả chục tuổi. Hơn nữa Huân đã có người yêu và cặp ấy rất xứng đôi, còn chị là gái góa chồng không hy vọng gì được yêu một người con trai chưa từng có vợ. Nhưng mỗi buổi đi làm, cùng nhổ lạc
ở một khoảnh, cùng đứng tuốt ở một máy, nhìn đôi cánh tay cuồn cuộn những thớ thịt cháy nắng đỏ rực của Huân thoang thoáng bên cạnh, chị lại bừng bừng nghĩ tới một cảnh gia đình hạnh phúc, lại hy vọng cuộc đời của mình chưa phải đã tắt hẳn, một cái gì đó chưa rõ nét lắm nhưng đầm ấmhơn, tươi sáng hơn những ngày đã qua cứ lấp ló ở phía trước. Có thể đấy là cuộc đời còn lại của chị chăng?
*
* *
Mặt trời đã lặn từ lâu. Trời xanh như ngọc thạch, những vệt mây màu khói, màu hồng nhạt, màu tím nhạt cứ ửng lên ở bốn phía, đan vào nhau, tô điểm cho nhau rồi nhạt dần đi, trong mãi, thành một mầu xanh mờ mờ, cao tít. Những ngọn đèn nhỏ dờn dợt vàng kéo thành một dãy dọc các khung cửa của khu nhà bộ đội thấp thoáng như một dãy phố nhỏ nào đó ở vùng quê.
Tối nay nghỉ học văn hóa, vì đồng chí giáo viên ở trung đội 1 được cử về Hà Nội thi vào trường Đại học Nông Lâm. Khu nhà nữ công nhân rộrịp người ra vào, nhộn nhạo những tiếng cười, tiếng mời chào, tiếng tay đấm lên lưng thùm thụp. Đào không đi chơi đâu. Một lá thư mới nhận làmchị bàng hoàng. Ông trung đội trưởng già phụ trách lò gạch mới gặp chị có vài bận mà đã dám ngỏ lời táo bạo. Mới đọc được mươi dòng chị giận dữ tưởng như có thẻ xé vụn từng mảnh được, người ta coi thường chị đến thế kia ư. Nhưng khi gập lá thư lại thì một cảm giác êm đềm cứ lan nhanh ra, như mạch nước ngọt rỉ thấm vào những thớ đất khô cằn vì nắng hạn, một nỗi vui sướng kì lạ rào rạt không thể nén lại nổi, khiến người chị ngây ngất, muốn cười to một tiếng, nhưng trong mi mắt lại như đã mọng đầy nước chỉ định trào ra. Từ ngày góa bụa đến nay chưa ai nói với chị một câu nào yêu thương, một lời gắn bó, chưa ai khao khát đến chị, coi chị là nguồn hạnh phúc của họ, là niềm an ủi cho họ. Những dòng, những chữ trong bức thư xa lạ cứ ngân vang mãi trong lòng chị, vang dội đến tận những kẽ ngách sâu kín nhất, thức tỉnh nỗi khao khát yêu đương, khao khát hạnh phúc mà chị cố hắt hủi, vùi nén một cách bất lực từ ngót chục năm trời nay. Cho đến lúc này chị chưa có ý định gì rõ ràng với ông trung đội trưởng mới quen
biết, nhưng trong cái dòng nghĩ miên man thế nào chị lại hình dung ra cách đối đãi với đứa con riêng của người rồi đây sẽ gọi là chồng. Nó yêu quý chị hay thù ghét chị, chị sẽ để nó ở dưới xuôi, hay đem nó lên trên này. Và khi sự tính toán trở nên quá rõ ràng chị vội nhổm dậy, thầm chê trách mình: "Rõ hay chưa, đã ra thế nào mà nghĩ vớ vẩn".
Giường nằm của Đào kê sát giường của Duệ, cách nhau có một cái bànđóng bằng tre. Duệ, một nữ thanh niên ở ngoại thành Hà Nội, cũng mới lênnông trường Điện Biên vào dịp ngoài Tết, đang ghé mặt sát vào gương cặp nốt một bên tóc, rồi đưa hai tay thoa thoa lên má, quay lại nhìn Đào cười ngượng nghịu:
- Chị không đi chơi à ?
Đào nhìn đôi mắt tròn to của Duệ có những sợi lông mi rất thưa và hai cái bím tóc nhỏ bằng ngón tay cái buộc chỉ đỏ ở hai đầu, khẽ nói: - Anh ấy sắp xuống chơi đấy.
Duệ đưa mắt nhìn xuống năm đầu ngón tay còn thon thảó nhưng đã vàng sẹm, lặng im một lát:
- Mặc người ta chị ạ, em không thích nói chuyện ấy đâu.
Hai bên mép Duệ khẽ nhếch lên, đầu lắc lư rồi Duệ quay đi nhìn phía khác. Từ cánh cửa bên, Huân đã bước vào, tay cầm ống tiêu dài, chào mọi người rồi ngồi xuống cuối giường của Đào, nhìn Duệ hỏi không tự nhiên lắm:
- Duệ tập nốt bài "Tình ca Tây Bắc" hôm này còn hát chứ! Hai cái đuôi bím buộc chỉ đỏ vẫn đưa đi đưa lại trên ngực. Huân nhắc lại:
- Thế nào?
Duệ đáp lí nhí:
- Em không tập đâu.
- Chịu khó một chút.
- Em không biết hát.
- Thì hát như hôm nọ là được, chỉ cần luyện thêm một chút nữa thôi. Duệ thở dài:
- Em không hát được đâu.
Huân đưa tay lên vuốt ngược mái tóc óng mượt, anh định cười thật tự nhiên, nhưng môi đã đờ ra và hàm răng lạnh buốt.
- Cô giận tôi đấy ư?
- Anh có gì mà em giận.
Huân thở dài rất nhỏ, nhìn Đào nói gượng một câu:
- Chị không đi chơi một lúc cho đỡ buồn.
Đôi mắt hẹp của Đào loang loáng nhìn sang Duệ, cặp môi như mímchặt lại, gò má lại càng dồ lên đanh đá:
- à, khi buồn non nước cũng buồn. Khi vui gánh đá lên nguồn vẫn vui. Lúc chị nhìn lại Huân định hỏi một câu thì anh đã chạy ra đến ngoài rồi.
Huân không về thẳng nhà, anh rẽ sang nhà kho, trèo lên cái bệ cao giát nứa, hai chân buông thõng xuống, chống tiêu lên đùi, nhìn ra cánh đồng lạc mờ mờ xanh nhạt ánh sao ở phía trước. Tình yêu giữa anh và Duệ mới nhóm lên đã nguội lạnh rồi sao? Ngay buổi đầu nói chuyện với cô gái mảnh khảnh, rụt rè, Huân đã có cảm giác rằng cô ta sống không thể thiếu anh được. Cái khỏe mạnh về tinh thần và thể chất của anh sẽ là chỗ dựa tin cậy cho cái vóc dáng mảnh dẻ của một người mới bước vào đời. Anh muốn đem lại hạnh phúc cho người yêu mà không đòi được trả lại. Nhưng chính cái trách nhiệm với người mình yêu đã đem lại cho anh sự say sưa làm việc chưa từng có, sự sung sướng được đưa tay ra nâng một người khác lên ngang tầm với mình, và lòng tự hào về cái tình yêu rất trong sáng đó.
Trăng đã bồng bềnh nổi lên qua dãy Pú Hồng. ánh trăng lọc qua lớp sương mỏng uyển chuyển như khói, khiến khung cảnh mờ nhạt một cách huyền ảo. Huân lại thổi tiêu bài ưa thích của mình "Tình ca Tây Bắc". Anhkhông thích hát, vì những bài anh thuộc đều nhạt nhẽo, vô vị, nhưng khi những chấm nhạc không có linh hồn được âm thanh của tiếng tiêu điêu luyện chắp cánh cho bay lên thì những kỷ niệm xa xưa tưởng đã quên lãng từ lâu phút chốc lung linh kéo đến... Qua dãy núi này, qua mấy cánh rừng nữa là sang đất Thượng Lào rồi. Đất Lào những ngày kháng chiến, hànhquân trong rừng hàng trăm cây số, đêm ngủ lại bên những sườn núi chon
von, phải đào huyệt để giữ người khỏi lăn xuống vực thẳm. Những ngày rét buốt xương, há hốc mồm mà không thể nói, vê điếu thuốc lào không chặt, cầm que diêm rơi lúc nào không biết, có người đặt lưng nằm xuống là cứ nằm như thế mãi mãi... Cũng chẳng ai ngờ khu pháo binh tây Hồng Cúmcủa giặc năm xưa lại là bãi trồng lạc của đội sản xuất số "6". Mới mùa xuân năm ngoái đất này còn ngập lên một rừng cây chó đẻ, dây thép gai, mìn, vỏ đạn đại bác, nhừ nát vì những hố bom, những giao thông hào. Rải rác còn có những đoạn xương người, những mảnh vải nhựa, vài lưỡi xẻng hoen rỉ, một gói tiền bọc vải đã mục nát, những khẩu súng ngắn và tiểu liên, dấu vết còn lại của những người anh hùng Điện Biên ngày trước. Mấytháng trời liền, lưỡi xẻng đi trước, vết chân người theo sau san rừng, đào cây, gỡ mìn. Có người đã hy sinh, có người mang thương tật, dây thép gai chọc nát bàn tay, mồ hôi thấm rách từng loạt quần áo, người héo lại vì nắng, vì gió Lào, mồm lở, chân phù vì thiếu rau xanh. Mùa xuân còn đầy thương tích chiến tranh, cuối hạ, đầu thu nước lũ tràn ngập, mùa đông sương giá. Một năm đã đi qua. Mùa xuân thứ hai đã đến. Màu xanh thẫmcủa đỗ, của ngô, của lạc, màu xanh non của lá mạ, màu đỏ tươi của ớt chín lấn dần lên các màu nham nhở, man rợ khác của đất hoang... Một mảnh sô trắng làm rèm che cửa, một giàn liễu leo có những chấm hoa đỏ thắm ở mé hiên phía trước, bóng lá loáng mướt của rặng chuối, màu vàng ửng của khóm đu đủ, mấy con ngỗng bì bạch ở mé nhà, tiếng guốc đi lẹp kẹp, bóng dáng nặng nề của những chị có mang ở khu gia đình, những ngọn đèn le lói, mảng khói thuốc bay qua ánh đèn trông rõ từng sợi xanh. Tiếng cười the thé, tiếng thủ thỉ, tiếng la hét, tiếng trẻ con khóc. Người ta làm việc, người ta thân thiết nhau, yêu nhau và làm cho nhau đau khổ. Những nỗi niềm, những tâm sự, những mong ước. Cuộc sống vĩ đại đã trở lại rồi. Nhìn công việc làm mỗi ngày tưởng như con người bất lực, nhìn lại cả một năm không ngờ sức vóc của mình có thể thay đổi được cuộc sống nhiều đến thế. Mỗi chiều đi làm về, ngâm mình xuống dòng sông Nậm Rốm, ngắm bộ ngực dồ cao, những thớ thịt tròn trĩnh, nhẵn nhụi, đỏ rực đầy tia máu, Huân không ngờ thân hình mình vẫn giữ mãi được vẻ đẹp ngày trước. Những mũi gai thép đâm, những vệt nứa cứa, những chấm đen ở lỗ chân lông của bệnh sốt
rét rừng, màu xanh của thiếu ăn và bệnh tật đều đã được những lớp tế bào mới, xóa mờ đi, thay thế. Soi mặt trong gương anh không thấy mình đổi khác mấy, có lẽ chỉ thêm vài vết nhăn hơi hằn ở mi dưới mắt, ở cạnh sống mũi, còn thì vẫn mái tóc dày mượt ấy, đôi mắt hơi nâu ấy, và hàm răng đều trắng. Nhưng ngồi nói chuyện với Duệ thì anh biết rằng anh đã thay đổi nhiều, chiến tranh, gian khổ, năm tháng đã luyện cho anh một nghị lực mà chỉ những lúc gặp khó khăn mới thấy được hết sức mạnh của nó, và sự hy sinh hồn nhiên, giản dị cho lý tưởng của mình, cho những người khác cùng đi với mình trên một con đường...
Chợt có tiếng chân giẫm sào sạo lên đống vỏ lạc ở phía sau, Huân giật mình ngừng thổi, quay lại. Từ mé trái của nhà kho nhô ra một bóng người thấp lùn mặc cái áo cánh trắng hớt vạt ra phía trước. Ai nhỉ? Bóng người tiến lại phía anh: Đào. Anh định nhảy xuống nhưng rồi cứ bối rối tự hỏi: "Chị này ra đây làm gì? Định gặp mình hay sao?". Đào đã đứng trước mặt anh, hỏi nhỏ:
- Anh thổi tiêu đấy ư, em thích nghe lắm đấy nhé!
Chắc vì tiếng tiêu nên chị mới biết ra đến đây, hỏi gì ỡm ờ thế, lại xưng em, cô này bắt đầu thiếu đứng đắn rồi. Đào đã đứng tựa người vào cột bương, cả thân người trên bị mái gianh che tối, tiếng nói dịu đi như một hơi thở:
- Anh Huân ạ, em muốn tâm sự với anh một câu chuyện.
Huân hầu như không nghe thấy gì, anh luống cuống vì nỗi lo: "Có người ra bắt gặp thì cả đôi tình ngay lý gian. Liệu mà về thôi !". Nhưng anh vẫn ngồi im. Tiếng của Đào lại phảng phất tới:
- Anh biết anh Dịu chứ?
- Ông thiếu úy lò gạch ấy à. Có biết. Sao?
Giọng nói của Đào càng rụt rè, khác hẳn với cách nói sống sượng thường ngày.
- Anh ấy viết thư cho em, định xây dựng gia đình với em, em khó nghĩ quá... Anh thấy anh Dịu là người thế nào?
à, ra là một câu chuyện khác. Anh là người đầu tiên được Đào thổ lộ cái tin vui ấy. Anh phải có trách nhiệm với sự tin cạy của người bạn gái.
Nhưng biết trả lời ra sao?
Đào đứng nhích thêm về phía Huân, chị vắt một tay lên sạp nứa, hơi thở dồn dập dưới cái áo cánh trắng còn thoảng mùi khét của xà phòng - Em xem ra anh ấy cũng là người thành thật, còn con anh ấy thì mình qúy nó tất nó phải qúy mình. Chẳng ai ở vậy được suốt đời, chẳng ai muốn đi vất vưởng mãi, ai cũng muốn có một quê hương. Em nghĩ mãi rồi anh ạ, em định không về dưới xuôi nữa, em ở mãi đây với các anh. Anh nghĩ xemcó được không?
Quê hương thứ nhất của chị ở đất Hưng Yên, quê hương thứ hai của chị ở nông trường Hồng Cúm, hạnh phúc mà chị đã mất đi từ bảy, tám năm nay ai ngờ chị lại tìm thấy ở một nơi mà chiến tranh đã xảy ra ác liệt nhất. ở đây trong những buổi lễ cưới, người ta tặng nhau một quả mìn nhảy đã tháo kíp làm giá bút, một quả đạn cối tiện đầu, quét lượt sơn trắng làm bình hoa, một ống thuốc mồi của quả bom tấn để đựng giấy giá thú, giấy khai sinh cho các cháu sau này, và những cái võng nhỏ của trẻ con tết bằng ruột dây dù rất óng. Sự sống nảy sinh từ cái chết, hạnh phúc hiện hình từ trong những hy sinh, gian khổ, ở đời này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ấy.
Đầu thu với những hơi gió mát dịu bay lướt lên những khóm lá xanh thẫm của cây có nghệ, những cụm ké đồng tiền, những nụ hoa trắng của cây rau tàu bay, và những bông hoa rền tía đỏ thắm hình tháp bút. Mùa thu hoạch lạc đã vào chặng cuối. Những chiếc cáng chở đầy lạc từ các ngả ngất ngưởng theo những vệt đường mờ ngổn ngang những bụi cỏ bị nhổ đã héo rễ kéo về khu máy tuốt. Đào và Huân khiêng một cáng. Cái đầu bịt chiếc khăn ô vuông nhọn hoắt của chị thấp thoáng sau những đống lạc chất cao. Hai bàn tay to và đen choàng lấy ôm từng bó lớn chuyển lên cáng. Mồ hôi chảy từng giọt dài trên gò má nham nhở vết đất, những thớ thịt như căng ra muốn xé rách manh áo nâu mỏng mặc ngoài. Lúc nào chị cũng có cái dáng vừa thoăn thoắt, vừa lừng lững. Huân chạy ra trước cáng, anh quàng đoạn dây mây bằng vải bạt qua vai, cúi rạp xuống, chiếc quần ướt đẫm mồ hôi căng theo thớ thịt, khuôn lấy cặp đùi rất tròn của anh, hai bàn tay đỏ tía
giữ chặt lấy đầu cáng và anh nhấc bổng người lên. Chiếc cáng nhẹ bẫng lao về phía trước, cặp chân của Đào loạng choạng như bị kéo đi, cái thân hình chắc nịch của chị cứ lắc lư ở phía sau. Chị kêu lên:
- Ông mãnh ơi, đi ngắn bước chứ!
Gió vẫn thổi rào rạt khắp cánh bãi. Huân vừa bước những bước dài, vừa nói to:
- Gió mát quá nhỉ. Thế là năm nay ở đất Điện Biên không có gió Lào! Cái đầu nhọn hoắt của Đào vẫn đưa sang phải, sang trái, chị đằng hắng rồi hát véo von ở phía sau:
... Tháng giêng phây phẩy gió may
Tháng hai gió bấc, tháng ba gió nồm
Tháng tư là gió dâng lên
Gió đóng cửa đền, gió động năm cung
Tháng năm cất gió đùng đùng
Bước sang tháng sáu gió rồng phun mưa
Tháng bảy thì gió vừa vừa
Bước sang tháng tám gió đưa đòng đòng...
Giờ nghỉ sáng nay có thêm một rá lạc luộc. Cả hai, ba tổ cùng kéo lại ăn chung trò chuyện cho vui. Lâm ngồi dạng chân, tay tách lạc, mắt nhìn Đào nhấm nháy:
- Thế nào cô em, có bao giờ cô em về dưới xuôi cho tôi gởi nhờ cái này.
Đào vênh hẳn một bên mặt, môi chúm lại, mắt đưa đẩy:
- Về là về cửa về nhà. Một trăm năm nữa mới đà về quê.
Lâm vỗ đùi thét lên :
- Cô em tôi thay đổi thái độ rồi ! Huân ơi, làm một tiết mục văn nghệ mừng bà chị, mày !
Huân bước ra, lật cái khăn bịt đầu khâu bằng vải trắng, cúi xuống rất thấp chào mọi người :
Đào liếc nhìn Huân cười tủm tỉm:
- Lại sắp, lại sắp...
Nét mặt Huân nghiêm trang hẳn lên, anh bước lên một bước, một tay
chống cạnh sườn, hệt như lối đứng của Đào, một tay uốn éo đưa ra phía trước, một đoạn kịch vui sắp bắt đầu. Duệ cùng hai cô nữa cắp giành đi mót lạc cũng vừa đến. Duệ đặt chiếc giành trắng xóa những mầm lạc tươi vào một góc, khẽ lách người đứng cạnh chiếc máy tuốt. Hai con mắt có những sợi lông mi thưa cứ chớp lia lịa. Mọi người quay lại nhìn Duệ cười rất có ý nghĩa. Lúc bình thường Huân hay có tính thẹn, nhất là trước mặt người mình yêu, nhưng khi đã bước ra khoảng trống, hàng trăm con mắt dồn vào, anh trở nên bạo dạn, hoạt bát. Tất cả những người đứng trước mặt chỉ là những khán giả ham chuộng tài nghệ của anh. Thấy Duệ nhìn mình Huân khẽ nhún đầu gối xuống, một mảng tóc đen nhánh xòa xuống trước trán. Tất cả vỗ tay coi như tiết mục mở màn.
Tôi lạy ông Cầu bà Quán
Phù hộ cho mẹ đĩ nhà tôi
Nó ăn nó chơi
Nó tươi nó cười
Như con ngựa ngáp
Làm ăn chậm chạp
Có tính nỏ mồm
Đi chợ bao nhiêu khoai lang củ từ cũng chứa
Vớt bèo thì ngứa
Xay thóc nhức đầu
Chăn trâu ngã nắng
Chồng giận chồng mắng, có tính hờn cơm
Ra chân đóng rơm
Cắn chắt trừ bữa
...
Duệ yêu Huân cũng bắt đầu từ những cuộc biểu diễn văn nghệ trong giờ nghỉ. Cô mê say anh bởi cặp mắt dịu dàng, quyến rũ, cái miệng rất có duyên, một thân hình khỏe mạnh, cân đối. Đôi khi cô cũng thích tâm sự với anh vì anh rất hiểu tâm tình của người khác, biết an ủi và khuyến khích đúng lúc. Nhưng ngoài những nét đáng yêu của Huân mà bất cứ ai mới gặp anh lần đầu đều nhận thấy ngay Duệ chẳng hiểu được thêm chút nào nữa.
Tình yêu của cô đối với Huân bồng bột và bề ngoài, dễ thay đổi. Có lúc cô thấy yêu Huân tha thiết, có lúc lại lưỡng lự vì câu hỏi: anh ấy có thể đảmbảo cho đời mình được sung sướng không, mình còn có thể gặp được một người nào hơn thế nữa? Cùng một trung đội với Huân, Duệ còn có cảm tình với Hào, trẻ hơn Huân vài tuổi, là giáo viên văn hóa của đội, lại sắp được về Hà Nội thi vào trường Đại học Nông Lâm. Hiện nay anh ấy chỉ là mộtchiến sĩ bình thường nhưng ba năm nữa anh ấy sẽ lả một cán bộ kỹ thuật, một kĩ sư biết đâu. Hai người cùng đi nhổ lạc với nhau nhiều buổi, đã trò chuyện với nhau mấy tối ở mé nhà kho. Nhưng Duệ vẫn lo lắng vì Hào tỏ ra quá khôn ngoan trong tình yêu, anh ta dè dặt ngay cả những lúc sôi nổi nhất. Anh khuyên Duệ chỉ nên coi anh như một người bạn, sau này anh tốt nghiệp rồi, có công việc rõ ràng rồi tới lúc ấy hai người bàn chuyện xây dựng cùng nhau cũng chưa muộn. Nhưng đến cái ngày xa xôi và mong manh ấy liệu anh còn nhớ đến lời hứa năm trước không?
Huân vừa đi quanh theo một đường tròn vừa nói lối, hai tay uốn éo, nhưng mặt vẫn tỉnh khô. Các cô cứ ôm lấy nhau cười rũ ra, nước mắt giàn giụa, còn những người khác thì vỗ tay làm nhịp cho câu nói. Nay lần mai lứa
Mày giống tính ai
Lâm hất đầu về phía Đào, gào to: "Giống tính cô Đào!" Phải như mọi khi Đào đã bật lên, tìm một câu thật cay chua để đáp lại, nhưng hôm nay chị sẵn sàng tha thứ cho mọi câu đùa tinh nghịch. Tất cả đều là những người đáng yêu, tất cả đều vun xới cho hạnh phúc của chị, đấy là anh em, là người làng, là họ nhà gái cả. Duệ ngồi ghé lên trên nắp máy tuốt, hai chân đu đưa, cái đuôi bím buộc chỉ đỏ vẫn ngọ nguậy trước ngực. Cô chẳng để ý đến lời hát, cứ mỗi lần Huân bắt chéo sang phía khác, cô lại đưa mắt nhìn theo anh, nhưng khi Huân quay mặt về phía cô thì cô lại cúi xuống lúng túng và có cảm giác hai tai mình đỏ chín. Cái giọng cố làm ra ẽo ợt của Huân cứ loáng thoáng bên tai:
Nhà thì có giỗ
Luộc gà hai mề
Thổi cơm thì khê
Rang vừng thì cháy
Con mắt hấp háy
Ăn vụng rất nhanh.
...
Tối thứ bảy. Gian nhà của vợ chồng Lâm ở khu gia đình chật ních người. Một ngọn đèn dầu sáng vàng ánh vào đĩa kẹo lạc, kẹo vừng, bánh khảo, nước chè mạn nóng. Người ngồi vây quanh cái bàn nhỏ và trên chiếc giường đóng bằng tre rất vuông vắn. Huân ngồi ở một góc trịnh trọng uống từng hớp rượu nhỏ. Mỗi hớp môi anh lại mím lại, đôi lông mày mịn và đen nhánh khẽ nhướn lên. Ngồi cạnh anh là Lộ, tay lái máy kéo của nông trường, vừa đến đội sản xuất số "6" sáng nay để cày bãi lạc, chuẩn bị gieo ngô vụ thu. Nét mặt mọi người mờ đi sau làn khói thuốc lá. Có người đề nghị chị chủ nhà hát tặng anh em một đoạn chèo hoặc một khẩu tuồng gì đó, vì chị trước đã ở đội tuồng của xã. Lựu, vợ Lâm ngồi ở mé sau giường, tóc vấn trần đầy những cặp tóc lớn nhỏ sáng nhoáng vội vàng kéo cánh màn che lấy mặt mình. Cô em chồng lôi tay chị dâu năn nỉ:
- Kìa, chị hát một bài cho chúng em nghe nào !
Hai con mắt Lựu sáng rực lên lóng lánh, chị co dúm người lại, cười ngặt nghẽo:
- Ôi giời ơi, các anh ơi, em không biết hát đâu !
Cái giọng miền trong ỏn ẻn, lên bổng xuống trầm, mới nói thường đã dễ nghe. Lộ gật đầu:
- Cứ hát như câu vừa rồi là được, cũng còn hay hơn giọng chúng tôi nhiều.
Lựu đằng hắng, mím chặt môi để khỏi cười, nhưng các bắp thịt trên mặt chị vẫn động đậy.
- Vâng, vậy thì em xin hát hiến dâng các anh một bài.
Chị vừa hát được hai câu cải lương cô em chồng đã chạy vào một góc nhà bưng miệng cười rúc rích. Lựu không hát nữa, gục đầu vào vai người ngồi cạnh, rồi nằm lăn ra giường, hai tay bưng lấy mặt rên rỉ. Cô em chạy lại phát vào mông chị:
- Chị Lựu, chị làm trò hề đấy ư!
Lựu vẫn nức nở trong cơn cười bị nén lại.
- Ôi giời ơi, em ơi, sao em lại nỡ bảo chị thế !
Vừa lúc ấy, Đào và Duệ đứng lấp ló ở ngoài nhìn vào. Lâm đang pha nước liếc trông thấy vội đặt ấm xuống chạy ra, mồm mời liến thoắng, hai tay kéo hai người. Lựu cũng ngồi phắt dậy, vấn lại tóc.
- Chị Đào ơi, chị vào nhà em chơi, nay mai vợ chồng em lại đến nhà chị.
Đào mặc chiếc áo cán bộ cài khuy vải màu xanh nhạt, tóc búi trễ. Duệ mặc chiếc áo màu hồng nhạt, cổ bẻ vát, hai cái bím tóc vừa mỏng vừa ngắn ve vẩy ở phía sau. Đào ngồi ghé xuống cái ghế kê sát vách, mắt nhìn mọi người lừ lừ, nhưng môi vẫn chúm chím. Duệ thoáng nhìn thấy Huân ngồi ở một góc, chị bước vội qua ngồi vào một mé giường quay lưng lại phía bàn nói chuyện với Lựu. Nhưng hai người nói với nhau những gì Duệ chỉ cònnhớ mấy câu đầu. Mọi giác quan của cô hầu như bị tê liệt ở mặt trước, nhưng lại rất thính nhạy ở mặt sau. Cô cảm thấy rất rõ một ánh mắt đang ve vuốt hai cái bím tóc của mình, mơn trớn những sợi tóc tơ ở gáy, và chạy lướt lên những thớ thịt ở lưng. Bên tai Duệ chỉ còn lại có một tiếng thì thào rất quen thuộc : "Em ơi, em phải tin vào em, em phải tin vào anh. Em hãy vui lên đi !". Và trong lòng Duệ cũng muốn thủ thỉ : "Em không thể xa anhđược, anh đừng để em sống một mình... anh nhé! Lựu nhìn nét mặt Duệ biến đổi rất lạ lùng, chị mỉm cười tinh quái :
- Cô Duệ người khó chịu có phải không ?
Tự nhiên nước mắt Duệ giàn giụa cả ra má, Duệ gục đầu vào cánh taymình :
- Em về đây, người em làm sao thế này.
Lâm giúi vào tay Duệ mấy cái kẹo :
- Cô lại sợ chúng tôi bắt cô hát chứ gì.
Huân cũng ngước đôi mắt ánh nâu nhìn Duệ, nói dịu dàng: - Hãy còn sớm Duệ ạ, ngồi chơi một lát đã.
Chỉ một cái nhìn trìu mến ấy, một lời nói thương yêu ấy Duệ đã thấy chân tay mình rã rời, và mặt cô nóng bừng. Duệ muốn kêu lên: "Em đến chơi với anh từ lúc nãy sao anh không nói với em một câu nào. Anh giận
em hay sao?". Nhưng Duệ không thể làm theo như ý mình, cô chỉ đưa mắt nhìn xuống và trả lời lạnh nhạt:
- Xin phép các anh, em phải về.
Tuy không ai nói, nhưng mọi người đều rõ câu chuyện của hai người. Trông đẹp đôi thế ai ngờ cũng có những trắc trở. Gian nhà đang ồn ào bỗng lặng hẳn đi. Lộ nhìn Đào cất tiếng hỏi trước:
- Chị Đào vẫn giữ lời thề ngày nọ đấy chứ ?
Đào đu đưa cái đầu, mắt chị lóng lánh:
- Thề gì nào ?
Tất cả cười phá lên. Lộ vẫn nói thủng thỉnh:
- Thề ở vậy suốt đời ấy mà.
Lựu hễ có dịp trêu trọc ai lại trở nên hoạt bát hẳn:
- Anh Lộ mà hỏi lần nữa thì chị ấy đã có cháu rồi.
Đào cũng mủm mỉm cười, gò má đỏ ửng. Lộ uống một hớp nước, nói tiếp:
- Chuyện ấy tôi đã rõ cả rồi. Thế mới phải. Anh ấy nói với tôi là định sau mùa lạc đấy. Chị nghĩ thế nào ?
Kể ra ở cái cảnh hàn nối cũng chẳng ai muốn kéo dài thời kỳ thư đi mối lại làm gì. Tình yêu của họ bao giờ cũng giản dị, rõ ràng và không cần nhiều thi vị. Nhưng sau mùa lạc thì vội vã quá. Hôm nay đã bắt đầu cày vỡ chuẩn bị cho đợt gieo ngô tới rồi.Chị lên đây mới được hơn nửa nămnhưng trong hửa năm qua đời chị thay đổi biết bao nhiêu, bàn tay của chị đã làm qua nhiều công việc. Mới gieo lạc ngày nào, bây giờ lạc đã được mùa lớn. Dạo đi trẩy đỗ chị mới gặp đồng chí thiếu úy lò gạch lần đầu, hai bên nói chuyện với nhau cũng dửng dưng. Thế mà hôm nay bắt tay vào vụ gieo ngô, số phận hai người đã gắn bó làm một. Chị nhìn mọi người với con mắt biết ơn vì mặc dù họ đùa bỡn, họ chế riễu nhưng tất cả đều hoan hỉ vun đắp hạnh phúc cho hai người. Chị nhìn Huân đang ngồi hút thuốc lá ở một góc, thầm nghĩ: "Anh Huân ơi, Duệ nó có hạnh phúc hơn tôi nhiều vì nó có được một người chồng như anh. Tôi hiểu lòng anh hơn nó, nhưng tôi không ghen với nó đâu. Nó có quyền được hưởng cái hạnh phúc tốt đẹp ấy. Nó yêu anh lắm, anh hãy bạo dạn lên đi".
Hồng Cúm 3/8/1959
Bố Con
Hôm ấy vào tối thứ bẩy. Mưa suốt một ngày, càng về tối mưa càng tầmtã. Nhìn ra ngoài chỉ thấy mờ trắng toàn hơi nước, và nổi lên lất phất những ngọn tre lá tỏe ra hai bên như cái chổi lông gà. Chúng tôi có ba người, pha một bình trà đặc nói chuyện với nhau. Đồng chí Nam, tổ trưởng một tổ sản xuất, và Hòa ở trong tổ máy kéo mới đến đây được một tuần để cày mấy chục mẫu đất chuẩn bị cho vụ gieo ngô mùa thu. Lần đầu tiên tôi quen Hòa vào một buổi sáng tôi xin ngồi nhờ đầu máy kéo. Anh nhìn tôi bằng con mắt rất dài và đen :
- Dầu máy giây vào quần áo khó giặt lắm đồng chí ạ.
Không hiểu vì lẽ gì tôi thấy mến anh ngay, và thầm nghĩ mình có thể trở thành bạn thân của anh được. Tôi leo phắt lên quàng tay giữ lấy cái lưng ghế bọc da, hỏi nhỏ :
- Đồng chí tên gì ?
- Hòa.
- Đã đến hai mươi tuổi chưa ?
Hòa quay nhìn tôi cười, hàm răng to và thưa, trắng bóng:
- Lính nông trường không còn trẻ lắm đâu, hai mươi ba rồi đấy. - Cũng còn trẻ chán !
Tiếng máy nổ ầm ì nhưng rất vang khiến hai chúng tôi không thể nói chuyện tiếp được. Từ hôm đó hễ có dịp gặp nhau anh chỉ nhìn tôi cười mỉm, rồi lại bận bịu vào công việc, cho mãi tới tối nay.
... Khói thuốc lá, hơi nóng của nước trà, sức nặng của mưa rơi và cái im lặng của chung quanh dễ khêu gợi những kỷ niệm mà thường ngày bị chìm đắm trong những công việc kế tiếp nhau lướt đến. Nhưng chưa ai biết nên bắt đầu câu chuyện như thế nào, tôi lại hỏi Hòa cái câu thường lệ của những người mới làm quen nhau :
- Ông cụ bà cụ sinh ra đồng chí còn cả chứ ?
Ai ngờ cái câu tưởng như nhạt nhẽo ấy lại là đầu mối của một câu chuyện.
- Bố mẹ tôi còn cả, nhưng hai bố con tôi mới gặp nhau được có vài
năm nay.
Và cũng nhân cái không khí thuận lợi của một tối mưa, anh bắt đầu kể. "Một tối thứ bảy vào cuối năm 1955 tôi nhận được thư của u tôi nhờ đứa cháu họ viết báo tin bố tôi đã về, hiện ở bộ đội và đề cả địa chỉ đơn vị của bố tôi. Chỉ một buổi tối mà tôi xem đi xem lại mấy dòng chữ đột ngột ấy có đến vài chục lượt, vừa nghi hoặc, vừa lạ lùng, mênh mang một ý nghĩ mơ hồ hình như bức thư này không phải gửi cho tôi, có lẽ của một người nào khác trùng tên họ. Trong đám sương mù của quá khứ thường hay lóe lên những tia chớp trong một lúc chiếu sáng nhiều đoạn hình ảnh thuộc về những kỷ niệm đã qua, song chưa bao giờ tôi thấy có một hình ảnh rõ rệt, đậm nét nào về người bố. Từ năm lớn lên tôi chỉ biết có một bà mẹ, một chị gái và một anh trai. Đấy là những người thân nhất, người của gia đình. Bà mẹ tôi thương các con, hy sinh vì các con, nể các con. Bóng dáng một người mẹ tần tảo, chịu đựng, hiền hậu xâm chiếm trái tim chúng tôi từ ngày còn thơ ấu, ảnh hưởng đến cả cách sống của gia đình, mẹ bảo ban các con, anh chị khuyên răn em, trìu mến lẫn nhau, thương xót nhau. Nếu đôi lúc có nghĩ tới một người bố xa lạ nào đó, thì tôi tin ngay rằng bố tôi đã chết từ lâu rồi, từ năm tôi mới đẻ. Nào ngờ bố tôi hãy còn sống, đã trở về tìm đến gia đình, và ông cụ cũng là một quân nhân (tôi vẫn không sao tin ngay được chuyện đó có thật). Sự xúc động lúc đầu thật mạnh mẽ, đến choáng váng, vừa sung sướng, vừa hãnh diện, nhưng liền sau đó một nỗi buồn mông lung, không duyên cớ cứ chập chờn quanh quất như vừa đánh mất một cái gì, nhưng cũng không thể rõ cái gì đã mất. Cái buồn ấy giống như một sự ganh ghét, một nỗi lo âu, vì tôi chưa quen nghĩ rằng mình phải có một người bố, gia đình mình phải có một người đàn ông đứng đầu. Cái tình cảm bố con hầu như chưa bao giờ nảy mầm ở trong tôi. Bao nhiêu lòng yêu thương tôi đã dồn về người mẹ cả. Hơn nữa bố tôi là người như thế nào đây, tính tình có giống như mẹ tôi hay hoàn toàn khác hẳn. Thêm sự có mặt của bố tôi liệu cái không khí đầm ấm của gia đình có bị nhạt loãng, nguội lạnh đi không.
"Đêm hôm ấy tôi trằn trọc vì những lời lẽ sẽ viết trong lá thư gửi bố ngày mai, nhưng trong lòng vẫn thấy lạnh lùng, thờ ơ thế nào ấy. Tôi sẽ
viết nhiều về công tác của tôi hiện nay, những thành tích mà tôi đã đạt được cốt để cho bố tôi hình dung ra đứa con trai của mình là một thanh niên cứng rắn, một chiến sĩ trong quân đội (bằng cách nào đó tôi phải để lộ cho bố tôi biết tôi đã là tiểu đội phó). Phải dùng những lời văn thật bóng bẩy, nếu cần sẽ có cả một bài thơ chúc mừng tình cha con sum họp. Nhận được thư hẳn ông cụ sẽ phải ngạc nhiên và tự hào vì có một đứa con giỏi giang, sẽ biết nể những ý kiến sau này của tôi, và trong quan hệ cha con ông cụ cũng sẽ đối đãi bình đẳng hơn.
"Sáng hôm sau tôi để anh em đi chơi hết, xin một tờ giấy viết thư và một phong bì thật đẹp. Mới đề được hai chữ "Thưa thầy !", mấy ngón tay cứ run bắn hầu như không phụ thuộc vào sự sai khiến của mình nữa. Bao nhiêu ý nghĩ trong đêm qua phút chốc bị xóa sạch, trước mắt cứ nổi lên mãi hai chữ "Thưa thầy !". Thời kỳ đóng quân ở Thái Bình, tôi đã nhận một ông cụ có con hy sinh trong chiến dịch Điện Biên Phủ làm bố nuôi, tôi đã gọi ông cụ bằng "thầy" rất vui vẻ, hồn nhiên, với ý định làm giảm bớt nỗi đau đớn của một người cha. Sáng nay cũng viết lại hai chữ quen thuộc ấy, dòng chữ, trang giấy trở nên thiêng liêng, nghiêm trọng. Tôi chỉ viết được hơn mười dòng, câu cú rất lộn xộn, dòng cuối cùng lại là cái câu mà tôi rất muốn tránh "con cảm động quá nên chẳng biết viết gì hơn thầy ạ".
"Lá thư được gửi đi với tấm ảnh mới chụp của tôi. Nửa tháng sau tôi nhận được thư của bố tôi từ Hà Tĩnh gửi ra, cũng kèm theo một tấm ảnh. Từ ngày nhận được tin bố, tôi vẫn tưởng tượng ra hình ảnh một ông già rất giống tôi nhưng khắc khổ hơn, từng trải hơn với hõm má sâu, cặp mắt tư lự và nửa đầu bạc trắng. Đến khi cầm bức ảnh tôi hoàn toàn thất vọng vì ông cụ hầu như chẳng giống tôi một chút nào, còn quá trẻ, đầu đội mũ, hai má rất đầy, đôi lông mày đen rậm. Nếu so ra thì bà chị cả còn già hơn bố tôi đến vài tuổi. Thế mà người này đã làm bạn với mẹ tôi trên ba chục nămnay, lại là bố của chúng tôi... Cứ mỗi lần ngắm lại người bố của mình có cặp má rất đầy, đôi lông mày rậm tôi lại thấy bứt rứt, bực dọc. Cuối cùng tôi cất tấm ảnh vào trong ví, không đưa một người nào khác xem, tự mình cứ tin rằng người bố chính là cái hình ảnh đã tưởng tượng ban đầu. Tâmtrạng của tôi ngày ấy nửa muốn gặp mặt để xem hư thực thế nào, nửa lại
muốn kéo dài thời gian xa cách vì lo rằng rồi đây bố con ngồi giáp mặt nhau biết nói với nhau những gì.
"Đầu năm 1956 bố tôi báo tin phục viên về làng. Giữa năm ấy anh tôi viết thư kể chuyện đã về phép và gặp bố, mẹ ở nhà đang có mang, anh có giục tôi nên cố gắng về vào dịp cuối năm vì bố ở nhà rất mong. Cuối nămthì tôi được về phép.
"Tôi về đến xóm trại thì trời đã xẩm tối. Mấy người gặp tôi chỉ hỏi được về phép bao nhiêu ngày, còn không nói gì đến bố tôi. Tôi cũng nén sự tò mò để khỏi hỏi lại, cố giữ cái phút đầu tiên được gặp bố không bùng ra quá sớm. Tâm trạng tôi lúc ấy giống như một đứa bé lạc vào nơi hoang vu, vừa muốn hét to lên cho tất cả đều biết sự có mặt của mình để giảm bớt nỗi lo sợ, vừa muốn nín hơi thở, dón dén đi từng bước nhỏ để dò xét những sự huyền bí sắp xảy đến. Đấy là lần về phép đầu tiên sau ba năm đi bộ đội.
"Bước vào sân ngỡ nhà bỏ hoang, không một ánh đèn, không một tiếng động nhỏ. Lên đến hè, tôi đứng lại khẽ đằng hắng, vẫn không có tiếng ai hỏi lại. Tôi lần theo hàng cột đến mép phản, đặt ba lô xuống, bật diêmchâm đèn. Nhìn quanh quẩn thấy đồ đạc vẫn kê như ngày trước, chỗ nằmcủa mẹ tôi mắc một cái màn đôi còn mới, một cái bát điếu để trên cái hòmgian, mấy cái áo đàn ông treo giáp vách buồng. Trong vầng sáng nhạt mù mờ hơi mông mốc, phảng phất có một cái gì rất xưa cũ, quen thuộc, và cũng có một cái gì khác lạ, lạc lõng.
"Hàng xóm thấy tôi về lục tục kéo sang hỏi thăm. Nhà thì hẹp chỉ có hai gian rưỡi, cái nhà cuối cùng tôi cất lên trước khi đi bộ đội (bảy lần trước đều bị địch đốt phá trong các trận càn), nên nhiều người cứ đứng lố nhố ở ngoài hè hỏi vào. Qua câu chuyện tôi mới được biết mẹ tôi đã sinh một đứa em gái, hiện nay vẫn ở nhà hộ sinh trên tỉnh. Cách hai mươi nămnay mới sinh nở nên mẹ tôi bị băng huyết và sát dau. Bố tôi ở nhà ba hôm, lại lên tỉnh một hôm, con gái lấy chồng ở tỉnh khác, hai con trai đi bộ đội, ở nhà hai vợ chồng già, một khỏe, một ốm nên rất bấn. Người hỏi, người nói, nhưng nhìn nét mặt mọi người tôi thoáng nghĩ có lẽ bà con sang chơi không cốt chỉ để thăm hỏi, mà còn như chờ đợi một cái gì khác. Ngoài thềm hè nhiều tiếng xì xào đan đi đan lại nhưng nghe không rõ.
Chợt có tiếng lanh lảnh của một đứa con gái ở mé sau nhà tôi vọng ra đồng :
- Ông ơi, cậu cháu đã về !
Một giọng rất trầm từ trên đê dội lại :
- Cậu nào ?
- Cậu Hòa ấy !
"Bố tôi đã về ! Tim tôi co hẳn lại, nặng trĩu, mỗi nhịp đập cứ vang lên nghe rõ từng tiếng một, máu dồn lên mặt nóng bừng và đầu óc quay cuồng. Cái phút vừa mong đợi, vừa ngại ngùng từ hơn một năm nay đã đến. Tôi biết xử trí như thế nào đây. Từ phút ấy tôi vẫn nói vẫn cười, nhưng hoàn toàn không hiểu được mình đã nói những gì. Một phút qua, mười phút qua, mười lăm phút trôi qua, không thấy một người nào rẽ đám đông bước vào, tôi đưa mắt nhìn khắp lượt, không thêm một khuôn mặt nào mới. Nhưng không ai hỏi chuyện tôi nữa, tất cả đều im lặng. Tôi chưa kịp hiểu tại sao lại im ắng đến thế, thì ở vòng ngoài cùng có tiếng cười khúc khích, rồi chỉ một loáng ngay cả những người ngồi trước mặt tôi cũng cười. Có lẽ tôi vừa buột nói điều gì lầm lỡ ? Như có linh cảm, tôi quay người lại nhìn vào góc tối cạnh cái hòm gian, một người không quen mặt, mặc áo bông bộ đội, đang nhìn tôi chằm chằm. Tôi đứng phắt lên, đi lại hai bước, môi run bắn nhưng cố bật ra mấy tiếng :
- Có phải thầy đấy không ?
Người đó không trả lời, vẫn nhìn tôi, còn tôi không đứng nổi trên đôi chân nữa, ngồi ngay xuống mép phản, nước mắt đã trào ra giàn giụa. Bố tôi (đúng người đó là bố tôi) cầm lấy cái bát điếu, đi qua tôi ra góc phản tôi vừa ngồi. Vừa thông điếu, bố tôi hỏi, giọng miền Bắc nhưng rất nặng:
- Vừa về à ?
- Con về nhà được nửa tiếng rồi. Thầy đi đâu về ? (tôi gọi tiếng thầy vẫn ngượng ngịu)
- Tát nước mạ... Anh ăn cơm chưa ?
- Con ăn rồi.
"Bố tôi bật mảnh đóm vào cạnh bát điếu, rồi đưa đóm châm lửa, nhưng đến mấy lần đầu đóm cứ trượt ra ngoài vành bóng. Bố tôi quẳng đóm ra
cạnh, rờ rờ lên mặt phản rất nhanh, vơ vội lấy hộp thuốc lào, hai tay cứ xoay đi xoay lại cái nắp một cách không tự chủ. Bà con chào hỏi một vài câu rồi kéo về. Tôi mấy lần định nói một câu gì cho đỡ ngượng, nhưng lưỡi cứ đờ ra như nặn bằng đất sét. Thế là cả hai vẫn ngồi im. Bố tôi cũng không nhìn thẳng vào mặt tôi, cứ nhìn ngang ngang tầm ngực, và như đọng lại nhiều ở cái huy hiệu Điện Biên Phủ tôi đính phía trên nắp túi áo bông. Qua ánh đèn tôi ngắm bố tôi, và giật mình không hiểu vì lẽ gì mà trí tưởng tượng của tôi lại gần đúng với sự thật đến thế. Thật ra khuôn mặt bố tôi không giống ảnh chụp mấy. Tóc cắt ngắn sát da đầu, lấp loáng từng mảng trắng, đuôi mắt kéo xuống trông như một mí mòng mọng, lúc nhìn ngang cái màng ngoài rất đục, bắp thịt ở má cũng không tròn căng như trong ảnh mà đã nhẽo, hơi chảy, lớp da ở cổ đã bong ra khỏi thịt, nhăn lại. Mọi nét trên mặt đều mệt mỏi, duy chỉ có đôi vai rất rộng và hai bàn tay to có những ngón hầu như vuông lúc nào cũng động đậy là tỏ ra bố tôi hãy còn sức gánh vác nhiều công việc, chứ chưa cần phải nghỉ ngơi.
"Đêm ấy hai bố con ngủ với nhau. Ngọn đèn để nhỏ bằng hạt đậu trên cái hòm gian. Khi bố tôi quay mặt về phía tôi nói chuyện, khuôn mặt ấy bỗng dưng trở nên rất thân yêu quen thuộc, như vốn đã ở bên tôi từ ngày còn bé. Nhưng khi bố tôi nằm ngửa, chỉ thấy cái nét dồ lên của gò má, sống mũi, tôi lại cảm thấy khác lạ, như mình đang nằm cạnh một người chưa hề quen biết. Mùi thuốc lào, mùi rượu, mùi dầu xoa, và mùi mồ hôi lâu ngày cứ phảng phất góc này góc nọ. Chốc chốc tôi lại tự hỏi: mình đã về nhà chưa nhỉ ? Mình đã gặp bố chưa nhỉ ? Người nằm cạnh là ai vậy? Tiếng bố tôi vẫn thầm thì :
- U anh ở nhà thương đã được ba tháng rồi nhưng vẫn còn yếu lắm, mất nhiều máu quá... Mà mình tôi chạy đi chạy về thành thử việc đồng áng phải cạy tổ cả.
- Vụ mùa nhà thu được bao nhiêu thóc ?
- Nếu có công thì cũng được khá đấy. Năm nay lúa tốt. Nhưng nhà không có người, đến đập cũng phải mượn công nên còn lại chẳng được là bao, lại tiền thuốc men, tàu xe...
Rồi như sợ mình than vãn nhiều quá ảnh hưởng đến con, bố tôi hỏi lảng
sang chuyện khác :
- Anh đi bộ đội đầu năm 1954 à ?
- Trước ở nhà con đã là du kích rồi, đến đầu năm 1954 thì được bổ sung lên mặt trận Điện Biên. Từ năm ấy đến nay con vẫn ở nguyên một đơnvị.
- Hồi ngoài này đánh Điện Biên thì đại đội chúng tôi lại về hoạt độngở chiến trường Long Châu Hà.
Trong khi trò chuyện với tôi, bố tôi thường hay xưng tôi, chúng tôi, và gọi con bằng anh, từng lời đều có cân nhắc, thận trọng, đối xử với tôi bằng tình đồng đội đồng chí hơn là tình cha con. Thoạt đầu tôi rất ngượng và thầm nghĩ có lẽ ông cụ còn giữ kẽ, định dò xét thái độ của tôi ra sao đây. Nhưng càng nói bố tôi càng tỏ ra rất tin cậy ở con, nhiều lúc nghẹn ngào bố tôi lại dừng một lúc lâu rồi đưa tay lên dụi mắt, khi tôi nhìn cái gò má nhọn hoắt thấy nhấp nhoáng ướt. Cũng trong đêm ấy lần đầu tiên tôi được biết những câu chuyện trong gia đình thuộc về hơn hai mươi năm trước.
"Năm ấy bố tôi trốn con, bỏ vợ (tôi hãy còn nằm trong bụng mẹ) đi Nam chỉ vì cờ bạc nhiều, mang nợ đến vài trăm tiền mặt, sào ruộng cuối cùng đã bán, năm gian nhà gỗ xoan cũng đã dỡ gán cho chủ nợ, cũng tưởng rằng vào trong ấy kiếm ăn dễ dàng, rồi ra cũng có thể chắt chiu, dành dụmđược một món trở về quê hương. Nhưng đặt chân đến nơi mới biết ở đâu cũng khó sống liền rủ một nhóm người cùng tỉnh đang thất nghiệp lập một gánh chèo đi hát ở tỉnh nhỏ và vùng quê. Gánh chèo vỡ, hết kế sinh nhai, cùng đường bố tôi đành ký giao kèo vào làm phu cho sở cao su Nam Kỳ. Trong những ngày tủi cực nhất bố tôi được giác ngộ cách mạng, sau khởi nghĩa gia nhập quân đội ngay. Từ bấy đến ngày tập kết, đúng mười nămtrời, khi chiến đấu ở chiến trường Đồng Tháp Mười, khi lại về hoạt động ở vùng Vĩnh Trà Bến rồi Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu...".
Bố tôi kể tiếp :
"- Thầy bỏ nhà ra đi năm ba mươi ba tuổi, đến nay vừa đúng hai chục năm (từ lúc này bố tôi xưng thầy, và gọi tôi bằng con). Suốt hai mươi nămmột nỗi ân hận cứ dằn vặt trong lòng : thầy đã đang tay giết một vợ với ba con. Một mình ra đi lưu lạc nay đây mai đó, hai bàn tay làm đổi lấy miếng
cơm, kể ra cũng không sung sướng nỗi gì nhưng thầy nghĩ u con ở nhà còn khổ sở gấp trăm lần : món nợ của thầy còn đó, hai con còn thơ, bụng mang dạ chửa, bố mẹ không còn, họ mạc hai bề xem ra cũng không ai giúp đỡ được, làm sao sống nổi qua những năm đói kém trước cách mạng. Hoặc giả nếu u con có còn sống, thì chắc đã đi bước nữa, các con có lẽ đứa sống, đứa chết hoặc đem cho những nơi có bát ăn làm con nuôi, đứa ở, gia đình tan nát chứ không thể toàn vẹn được. Ngày ở trong ấy, các bà má thấy thầy đã có tuổi mà lại chưa vợ con, có lòng thương cứ mai mối giúp. Nhưng thầy đều từ chối, vì nghĩ rằng mình không xứng đáng nhận cái hạnh phúc mới, mình phải chịu lấy hình phạt ở vậy suốt đời để chuộc lại cái tội ngày xưa. Tháng tám năm ngoái thầy được về Hà Nội dự lễ tuyên dươngAnh hùng quân đội vì năm ấy thầy được bầu là chiến sĩ thi đua của sư đoàn. Sau đó tranh thủ về phép mấy ngày thăm quê. Trước sau thầy vẫn đinh ninh rằng gia đình chắc chẳng còn ai, nhưng càng tin thế mối hy vọng được sống lại cảnh đoàn tụ ngày trước càng nung nấu và càng lo sợ nếu sự thực đúng như mình đã phỏng đoán. Ngày xưa đây gọi là xã Kiên Trung thuộc tổng Nhữ Xá, nhưng nay lại đổi là thôn Hữu Trung, thuộc xã HồngQuảng, nên khi đến cống Quải lạc đường hỏi thăm không ai biết. Về đếnquán Búc thì gặp chị Duật đi chợ về đang ngồi nghỉ. Sau vài ba câu chuyệnbiết chị người cùng làng, thầy hỏi dò chi cánh bà Tư Bần có còn ai, rồi lại hỏi thêm bà Hoán có còn sống không.Hỏi xong cái câu ghê rợn nhất ấy thầy tưởng như mặt mình mất hết máu. Chị ấy đáp : "Bà thím tôi vẫn khỏe, chú tôi đi Nam Kỳ hơn hai mươi năm nay chẳng có tin tức gì, các con bây giờ đã lớn, cô gái cả lấy chồng bên Hưng Yên, còn hai cậu nó đi bộ đội cả". Thầy định kêu lên : "Chúng nó vẫn còn sống cả ư, tôi là bố chúng nó đây !" nhưng cố kìm lại khoác ba lô đi một mạch. Thầy không ngờ nhà ta vẫn ở khu đất cũ. Bước vào sân, thầy nhận ra u con đang ngồi dạm lại cái rá ở đầu hè. Thấy thầy vào u con nhìn lên nhưng không nhận ra. Sau thầy bước gần lại, bỏ mũ, nói khẽ : "Nhà còn nhớ tôi không?". U con nhìn thầy một lúc rồi mếu máo gọi tên thầy lúc còn ở nhà : "Anh Chẩn hãy còn sống về với vợ với con đấy ư anh!" Cả hai đều đã trên dưới năm chục tuổi, tóc bạc gần nửa, răng rụng vài ba chiếc, những ngày sống còn lại có thể tính năm
được mới lại gặp nhau, mới hiểu hết lòng nhau... Thầy cảm ơn u con đã vì thầy chịu đựng mọi tủi cực, thiếu thốn nuôi nấng các con, gây dựng cho các con nên người. Đời thầy vất vả đã nhiều, nhưng u con còn vất vả gấp trămlần, ơn ấy sống để dạ, chết mang đi...
"Bố tôi quay vào trong vách hỉ mũi, mãi một lúc lâu mới quay sang phía tôi.
"... Thầy cũng cảm ơn chế độ ta, cảm ơn cách mạng đã đào tạo các con khác hẳn với thầy ngày xưa... Thầy cứ nghĩ ngày thầy bỏ đi đến nhà cũng phải dỡ gán cho chủ nợ, thước đất cuối cùng cũng phải bán, trong nhà không còn đến một hào bạc. Còn con mới mười bảy, mười tám tuổi đầu, một tay dựng lại tám lần nhà ở. Ngày đi bộ đội còn để lại cho u con hơn trăm thùng thóc ăn dần. Thầy biết uống rượu, biết đánh bạc từ năm mười chín tuổi, còn con mới mười tám tuổi đã thành chiến sĩ Điện Biên Phủ. Mỗi đời một khác là thế đấy con ạ. Đời thầy khôngthể sánh với đời các con được. Thầy cống hiến cho cách mạng chẳng được bao nhiêu nhưng cách mạng đã đem lại cho thầy cái hạnh phúc lớn nhất mà thầy không bao giờ dám ao ước. Cứ mỗi lần nhận được thư của con, của anh con thầy vừa sung sướng, vừa tủi hổ, tự nghĩ mình không xứng đáng là bố những người con như thế... Thầy yêu thương các con, thầy kính trọng các con, con cũng hiểu cho lòng thầy...
"Tôi nằm sát lại bố tôi, một tay tôi quàng qua ngực nắm lấy vai bố. Bố tôi cũng đưa bàn tay ram ráp những chai sạn nắm lấy tay tôi, khẽ nói : - Thôi, con ngủ đi không mệt, khuya lắm rồi!"
"Hôm sau tôi theo bố tôi lên tỉnh thăm mẹ và em gái. Nhân lúc bố tôi rẽ vào nhà người quen chơi, tôi lẻn ra phố bán chiếc đồng hồ mới mua nămtrước. Còn một hôm nữa thì phải trả phép, tôi tính lại số tiền dành dụmđược cả thảy mười lăm vạn đưa cho bố tôi chi dùng thuốc men cho mẹ và lấy lương ăn cho đến chiêm. Bố tôi cầm gói tiền nhìn tôi rồi òa khóc. Tôi cầm lấy tay bố an ủi : "Con đi bộ đội không cần đến tiền. Thầy đừng nên nghĩ ngợi nhỡ ốm nằm đấy thì lấy ai săn sóc, chúng con đi vắng cả".
"Sáng hôm tôi đi, bố tôi dậy rất sớm, nấu niêu cơm nếp, kho ít tôm gói
vào cái mo, cẩn thận như một bà mẹ và dặn tôi :
- Đi đường lúc nào đói thì ăn, thỉnh thoảng viết thư cho thầy u. "Tôi đã bước sang bên kia chiếc cầu tre đi vòng lên mé đê, vẫn thấy bố tôi đứng vịn vào thân cây vối nhìn theo, một dáng người cao lớn, hơi cúi về phía trước, cái áo bông bộ đội màu xanh nhạt và chiếc quần nâu...
"Từ ngày ấy bóng dáng người bố, đêm tâm sự đầu tiên đã trở thành những hình ảnh khắc sâu nét trong tâm hồn tôi. Bố tôi bảo đời sau bao giờ cũng hơn đời trước, nhưng tôi nghĩ những người già đều có sự khôn ngoan của mình, cái hạnh phúc lớn nhất mà cách mạng đem đến cho gia đình tôi phải qua câu chuyện của bố tôi, tôi mới hiểu hết được. Cách mạng đã thay đổi những con người và những con người ấy đã đem lại hạnh phúc cho nhau".
Hồng Cúm 16-9-59
Đứa Con Nuôi
- Thế nào, cháu đã mỏi chân chưa ?
Cừ, chủ nhiệm chính trị nông trường dừng lại hỏi rất âu yếm đứa con gái chừng mười ba, mười bốn tuổi đi sau anh vài bước. Đứa bé hai tay xắn lấy quần, chăm chú tránh mấy vũng nước, rồi ngẩng lên, ngước đôi lòng đen rất sáng nhìn người hỏi :
- Mới đi được có mấy bước bác đã sợ cháu mỏi chân... Có bác mỏi chân thì có.
Cừ để cho đứa bé đi trước mình, nhìn cái dáng nhỏ nhắn của nó cứ chao đi chao lại trên mặt đường nhầy nhụa bùn vì cơn mưa đêm trước. Lượt vải chiếc áo sơ mi nâu may quá rộng trườn qua trườn lại trên cái lưng rất ngắn, một mái tóc cắt đến gáy cũn cỡn, hai cái bụng chân rất gầy, tất cả cái vẻ đằng sau của đứa bé sao mà tội nghiệp và trái tim Cừ như bị thắt lại vì những ý nghĩ thương xót. Quê nó ở Hà Đông, bốmẹ đã hy sinh trong kháng chiến, từ đó nó đi ở cho hết nhà này đến nhà khác, cuối cùng theo vợ một đồng chí cán sự ở châu lên Điện Biên, giúp đỡ chị ấy khi sinh nở. Nó đã ở với gia đình nọ được nửa năm, sau không hiểu vì lẽ gì lại bị đuổi, bơ vơ mất mấy ngày ở ngoài phố. Chuyện ấy đến tai Cừ, anh nảy ra ý định nhận đứa bé ấy làm con nuôi. Anh đón nó về ban chính trị trưa hôm qua, và sáng nay nhân ngày chủ nhật anh đưa về chỗ vợ ở đội sản xuất số 6. Đồ đạc của nó vỏn vẹn chỉ có một cái ba lô đã sờn hết mép (không hiểu ai đã cho nó), chăn màn không có. Ngay chiếc ba lô anh đeo trên vai đây cũng rất nhẹ, tuy các cạnh rất vuông vắn. Anh lại hỏi :
- Cháu có áo rét không ?
- Cháu chẳng thấy rét bao giờ bác ạ, có một cái áo trấn thủ nhưng cũng không mấy khi cháu mặc đến.
- Rét Điện Biên không như ở dưới xuôi đâu, mặc phong phanh là dễ ốm lắm đấy.
Hai người đến bờ sông Nậm Rốm thì đã gần trưa.Đứng bên này chiếc
cầu bắc bằng những miếng sắt lát sân bay ngày trước, nhìn sang bên kia bờ Cừ ngạc nhiên vì mới có nửa tháng không qua đây mà khung cảnh đã như đổi mới hẳn. Tre măng mọc vút lên, vượt hẳn những lớp lá lăn phăn của bụi tre già. Mo nang ở các đốt tre ôm chặt lấy từng gióng, vàng nượm như bụng rắn, ở các đốt đã chìa ra những nhánh rất nhỏ, mấy chiếc lá non bám vào mỏng mảnh như những nét phảy. Những cụm cỏ nghệ mới đây còn xanh tốt như rừng, bây giờ đã bắt đầu vàng sẹm, chùm hoa ở giữa gốc màu tím điều cũng héo hon, sắp hết mùa cỏ dại rồi.
Bước qua cầu, Cừ đi sát cạnh đứa con nuôi, và bỗng nhiên anh thèmmuốn được gọi nó là con, nhưng con bé vẫn coi anh như người xa lạ, nó gọi anh bằng bác với cái vẻ tự nhiên, vốn đã là một cách xưng hô quen thuộc của nó đối với nhiều người. Anh mỉm cười gượng gạo, nói khẽ :
- ở đây hơi xa phố cháu đừng buồn nhé.
Con bé lặng im một lát, mãi nó mới nói, giọng rất đanh như người lớn tuổi :
- Cháu ở đâu cũng được bác ạ.
Trò chuyện với một đứa con gái mới mười bốn tuổi trong một buổi tối và suốt dọc đường từ nông trường bộ về đến đây, Cừ luôn luôn ngạc nhiên vì những câu trả lời bất ngờ của nó. Anh vừa thương hại, vừa khó chịu vì nó đã khôn ngoan quá sớm, nó già hơn tuổi vì những lời lẽ đối đáp rất tinh khôn, và tính toán chi li đến từng câu trả lời. Nhìn những mái nhà nổi lên thành một dải vàng nhạt trên những ngọn me dại, xoan và những cây chó đẻ, con bé khẽ kêu lên :
- Đến rồi hở bác, chóng quá nhỉ, cháu tưởng còn đi xa nữa. - Ta rẽ ra đồng thăm lúa một chút. Chỉ vài hôm nữa ở đây vào gặt rồi. Bận lắm đấy.
Trèo qua một cái giá tre có bực thang dựng lên trên hàng dây thép gai ngăn trâu bò là khu vực trồng lúa nương của nông trường. Những cây lúa cao ngợp đầu người, ngả ra che kín cả con đường mòn chạy ở giữa. Bông lúa đã sạm vàng, nhiều bông đã gục mặt, đôi bông mới uốn câu. Mép trấu hé mở để lộ ra những bao phấn mỏng mảnh nắng đã se dần màu
trắng, ở những chẽ trên mép trấu đã ngậm lại còn lòi ra một chút đầu bao phấn hoe hoe vàng nhạt. Trong gió hanh tiếng lúa cọ vào nhau nghe rất nặng, vừa khô vừa sắc. Cừ lách mình vào giữa rừng lúa, vừa đi vừa cúi xuống nâng những cây ngả gạt sang hai bên. Hai cánh mũi anh co giãn rất nhanh, một thứ hương vị nồng nhạt, thoảng thơmphảng phất khắp mọi chỗ. Đi theo mãi cái vách thành kết bằng những hạt lúa dày kín ấy, hai người chợt bước ra một khoảng đất trồng lạc rộng mênh mông. Lạc ba tháng đã ra hoa, hoa lạc ẩn dưới gốc vàng chói, chập chờn như những cánh bướm, màu lá lạc được mưa xanh mỡ, trông non và ngọt như cốm. Và khu nhà trống để máy kéo cũng đã kề sát ngay phía đầu bãi bên kia.
Ngày chủ nhật, bộ đội và anh chị em công nhân ra chơi phố và đi thămcác đội bạn gần hết. ở mỗi nhà còn chừng mươi người đánh cờ tướng, tu lơ-khơ, hoặc đẽo cán liềm, gắn lưỡi hái, chuẩn bị cho vụ gặt. Cừ vừa đi ngang sau khu nhà trung đội I, có tiếng gọi giật lại :
- Anh Cừ về chơi đấy ư ?
Cừ ngoảnh lại, Quang tổ trưởng một tổ sản xuất đang nhìn anh cười, trước mặt ngổn ngang đến chục cây giang và một bó lạt đã chẻ. - Lâu lắm mới lại gặp nhau. Lấy gỗ xong hôm nào thế ? Không đi chơi đâu à ?
- Lại về đội được nửa tháng rồi anh ạ... Cũng định ra phố một tí nhưng các cô tiểu thư lại nhờ chẻ hộ lạt. Mai vào gặt rồi... Cháu nào thế ? Cừ chưa kịp trả lời thì con bé đã nghiêng đầu nhìn Quang, cười rất tự nhiên :
- Cháu về đây để gặt giúp các chú mấy buổi.
Quang cười to :
- Ra thế, vậy chú xin xung phong cõng cháu ra ruộng nhé... Tối anh có rỗi tôi lại chơi.
- Thì về chơi chứ có về họp đâu mà không rỗi. Tối đến nhé, mình mới mua được gói chè hương.
Chị Lụa mấy hôm nay bị đau bụng nên nghỉ ở nhà. Chị ngồi một mìnhđang hí hoáy bóc lạc. Cừ đứng sững ngay ở ngưỡng cửa nói to :
- Đến nhà rồi đây !
Chị giật mình quay ra thấy chồng đang nghiêng mặt nhìn về phía sau. - Ai đến chơi thế !
Vừa lúc ấy một cái đầu nhỏ bé, tóc cúp ngắn ló vào :
- Chào bác ạ.
Cừ đặt ba lô lên giường, giới thiệu :
- Đây là bác gái cháu, còn đây là cháu Tấm.
Chị Lụa ngắm một lượt đứa bé xa lạ mới đến :
- Con ai mà nhớn nhỉ ?... Cháu mới ở quê lên hôm nào đấy? Cừ gõ gõ điếu thuốc lá xuống bàn, cười :
- Con tôi chứ còn con ai, bố con tôi ngủ nhờ bà chủ đêm nay nhé... Tấm liếc nhìn cả hai người, rồi nó bưng miệng cười, hai con mắt sáng lên rất ranh mãnh. Bằng một cử chỉ rất nhanh, nó chạy lại đầu giường xách chiếc ba lô để lên một góc cái hòm gỗ, thành thạo như đã từng đến đây vài ba lần. Chị Lụa vẫn còn đang theo dõi nó bằng con mắt dò xét thì nó đã cúi xuống gậm giường, hỏi :
- Nhà còn đôi guốc nào cho cháu mượn rửa chân với. Và không đợi người chủ nhà trả lời, nó đã lôi ra một đôi guốc mộc, quai dù từ góc một chân niễng :
- Đây rồi, quai này là bền lắm nhé. ở trên kia có chú tích trữ đến hai đôi, cháu hỏi xin một đôi chú ấy nhất định không cho... Sao có người độc bụng đến thế.
Mới phút đầu con bé đã ăn nói quá lém lỉnh, chị Lụa đặt giá lạc lên bàn, nét mặt lạnh nhạt hẳn, hỏi chồng :
- Có ăn cơm nếp không để tôi lấy thêm gạo ?
Cừ cởi áo mắc vào chiếc đinh đóng trên tường, anh thấy vợ không vồ vập, ân cần đối với con bé nên lựa lời giới thiệu thêm:
- Con bé thông minh, nhanh nhẹn lắm, tôi nhận nó làm con nuôi đấy. Quê nó ở Hà Đông, bố mẹ chết cả, đi ăn đi ở từ bé. Mình hiếm hoi cónó cũng vui...
Anh định nói thêm thì tiếng Tấm đã léo xéo ở đầu chái :
- Cháu là người nhà bác Cừ đấy ạ. Chốc nữa mời chú sang chơi.
Nó định bước vào trong nhà thì chị Lụa gắt lên rất đột ngột: - Lại tha đất vào đầy nhà bây giờ...
Nó đứng sững ngay lại, nét mặt đờ ra, nhưng rồi khẽ cúi đầu xuống đập đập đôi guốc vào thềm hè. Từ lúc ấy nó không nói một câu nào, ngồi imlặng trên cái ghế dài kê sát tường, lặng lẽ ngắm bà chủ nhà tính tình không lấy gì làm vui vẻ lắm...
Trong khi Tấm tính toán thầm với riêng nó thì Cừ cũng để ý xem xét thái độ của đứa bé khôn ngoan ấy đối với vợ mình ra sao. Càng nhìn anh càng ngạc nhiên vì cái khuôn mặt kỳ lạ của đứa con nuôi, phía trán hóp lại gần như nhọn, dưới cằm lại bành rộng ra theo hình vuông khiến nét mặt mất hết mọi vẻ thơ ngây, cái miệng rộng, hàm răng to và đều như hàm răng của người con gái dậy thì, hai con mắt đắn đo, dò xét, lấp lánh một vẻ tinh khôn, lanh lẹn đặc biệt.
Đột nhiên chị Lụa hỏi nó :
- Cháu năm nay mười mấy tuổi ?
- Tính cả tuổi mụ là mười bốn, cháu tuổi Sửu đấy. Tuổi Sửu là vất vả lắm.
Cừ mỉm cười :
- Cháu còn bé mà đã tin ở tướng số rồi à ?
Bữa cơm chiều Tấm tranh làm gần hết mọi việc. Mới đầu chị Lụa cũnggiữ kẽ với chồng không cho làm. Nhưng sau thấy nó cứ nằn nì, quanh quẩn không chịu đi đâu, hơn nữa cơn đau bụng lại bắt đầu âm ỉ nên chị dặn dò một chút rồi đi nằm. Mâm cơm dọn lên rất ngon lành, rau sào, đậu phụ rán, lại thêm một đĩa rau thơm, hành sống. Vào bàn ăn Tấmcũng dành ngồi ngoài xới cơm. Vừa ăn nó vừa hỏi chị Lụa ở đây có vại muối dưa không, có lọ to để ngâm dấm đu đủ không, có biết cách làmđậu phụ nhự của miền Nam không ?
Cừ nghe nó hỏi cặn kẽ mọi việc như một người nội trợ đảm đang, anh bật cười :
-Có làm được không mà hỏi lắm thế ?
- Cháu vẫn làm mà lại.
- Vậy bác đề nghị bổ sung cháu vào tổ nuôi quân nhé.
- Nhưng lò bếp của các chú ấy đắp cao quá bác ạ.
Trong bữa cơm chị Lụa đã nhìn Tấm bằng con mắt dịu dàng hơn, con bé tuy ít tuổi nhưng làm ăn đâu vào đấy. Dù có phải nuôi mỗi tháng mất vài chục bạc nhưng khi ốm đau đã có người săn sóc, đỡ đần... Chỉ phải tội mặt mũi nó trông láu lỉnh, xảo trá quá. Rồi chị cứ miên man suy tính thiệt hơn, có lúc thấy nó cần thiết cho mình, có lúc lại thấy nó là gánh nặng cho mình, cho nên chị cũng không hẳn tỏ ra cởi mở, dễ dãi, nhưng cũng không đến nỗi lạnh nhạt, cau có như lúc đầu. Còn Tấmkhông phải chỉ hỏi một cách vô tư, nó cũng nghĩ về nó, về thái độ của hai người chủ nhà, và tự bảo thầm : "Mình ăn mấy vực cơm nhưng đã làm cho bà ấy cả buổi chiều, mình không ăn xin, nay mai bà ấy không thể kể ơn với mình được..."
Lên đèn được một lúc, chị Lụa đã đun sôi ấm nước thì Quang cầm một cây mía bước vào.
- Mía tăng gia của tổ đây, trồng được mấy bụi ăn phí ăn hoài gần hết cả, còn được vài cây phần anh.
- Có ngọt không ?
- Mía Điện Biên còn phải nói... Cháu có ăn mía không hay sợ sún răng?
- Chú làm cháu như là trẻ con không bằng.
- Aỏi chà, thì người nhớn được với ai.
Cừ liếc nhìn Tấm ngồi thu lu ở một góc giường, định nói : "Nó bé nhưng có khi còn khôn hơn chú đấy", nhưng lại thôi. Chị Lụa đã đắpchăn đi nằm. Cừ lấy một lọ trà đưa ra trước đèn khoe với Quang : - Cậu thử nhìn xem là nhãn hiệu gì ?
Quang nhìn chăm chú rồi cười ầm :
- Sao lại đựng trà vào lọ thuốc điều kinh của bà ấy ?
- Đấy ông xem, vợ thì thuốc điều kinh, chồng thì trà hương hảo hạng, cái này đựng vào cái nọ, hết lọ nhớn đến lọ bé làm gì mà không tiêu ma cơ nghiệp.
Quang nhìn đồng chí chủ nhiệm, người anh và cũng là người bạn tâmphúc từ ngày anh vào bộ đội đến nay. Sáu, bảy năm rồi, con người ấy
hầu như không thay đổi mấy. Vẫn hàm râu quai nón không mấy khi được nhẵn nhụi, cái cười sảng khoái, rộng rãi, chan chứa thương yêu. Vẫn lối nói thẳng thắn, không e nể một ai, không giấu giếm một cái gì. Vẫn cách sống ồn ào, sôi nổi, thích đùa cợt.
Cừ dốc một ít trà vào lòng bàn tay, khẽ nghiêng nghiêng mé tay soi vào ánh đèn, rồi hỏi Quang:
- Uống đặc được chứ ! Hôm nay nói chuyện lâu một tí, cần gì ngủ sớm. - Anh còn nhớ hồi đi chiến dịch nấu nước trà bằng ống cát cút không ? - ừ, ừ... thế mà lúc uống vẫn say sưa, thú vị nhỉ. Mình cứ nhớ một cái
ống cát cút bọc giấy báo đút vào túi áo ca-pốt, đến chặng nghỉ múc ít nước suối, móc hai quai vào cành cây, ông "con rể" đốt một bó đuốc hơ, chỉ nămphút nước đã sôi ùng ục, cho vào một dúm trà búp, cái thứ trà chiến lợi phẩm ấy mà. Thế là bố con, bạn bè quây lại xuýt xuýt, xoa xoa, đến hay... Nhân nói chuyện xưa lại nhớ đến thằng "con rể", nó hy sinh ở Mường Khoa nhỉ. Thằng ấy còn sống thì không chừng cũng trở thànhcán bộ kỹ thuật hạng cừ. Uống đi không nguội... Cháu Tấm có uống được nước trà không... không dám uống à... Cũng phải. Chè chén nênnhường cho bọn già... Thế nào, kỳ về phép vừa rồi có được vui vẻ không ? Kết quả tốt đẹp chứ?... Không khéo cậu lại vượt vợ chồng mình cũng nên... Căn bản là phải trẻ mới ăn thua, chứ má đã răn, gối đã mỏi thì thuốc giời cũng đừng hòng.
Quang hớp một ngụm nước, nét mặt hơi buồn buồn :
- Anh cũng rõ hoàn cảnh gia đình của tôi rồi đấy. Từ ngày con bé cháu mất nhà tôi cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn, mấy năm nay lại mắc chứng đau bụng, đi khám họ bảo bị viêm tử cung, nhà nghèo bệnh trọng là thế. Thành thử một tháng nằm nhà đến hai chục buổi. Một mình đã vậy, nhưng còn hai đứa em, một đứa lên mười, một lên bảy. Chúng nó là con ông chú ruột tôi, cả bố lẫn mẹ đều hy sinh trong kháng chiến, họ hàng chỉ còn mỗi vợ chồng tôi là gần. Dù rau cháo nhưng anh em đùm bọc lấy nhau vẫn hơn đi ăn đi ở cho người khác... Mỗi lần về trông thấy chúng nó tôi không sao cầm được nước mắt. Thằng nhớn đi học về rời quyển sách là đâm đầu vào bếp đun nấu, thằng em thì đi tha thẩn khắp xóm, mặt mũi lem luốc như thằng quỉ.
Tội nghiệp, chúng nó biết là anh chị nghèo nên ăn thế nào cũng được, mặc thế nào cũng xong, được cái cả hai anh em nó đều có sức nên ít đau ốm. Tôi nghiệm ra những đứa bé đã từng nếm mùi cơ cực, lớn lên đều có chí cả, quẳng vào chỗ nào cũng sống nổi... Không hiểu các cậu khác về phép có nhàn nhã không chứ tôi thì vất vả gấp mười lần ở đơn vị. Vợ ốm, em thì bé, không xoay trần ra tranh thủ mấy chục điểm rồi đến mùa thì ăn gì. Kể ra nếu ngày ngày thắng bộ quần áo mới, đi đôi giày vải lấp ló hai cái cổ bít tất trắng, một bao Hoàn Kiếm hoặc Bông Lúa đút túi quần, la cà nhà nàynhà khác, thăm hỏi trò chuyện, giảng giải chính sách thì trông ra vẻ anh bộ đội về phép hơn. Đằng này mới từ mờ đất trên giường đã lăn xuống đất rồi, chẳng kịp đánh răng rửa mặt gì, ăn vội vài bát cơm nguội, ngậm điếu thuốc lá là ra đồng ngay. Buổi đầu thì dỡ khoai, buổi thứ hai thì tát nước, từ buổi thứ ba trở đi là cày liệt vị, vì đang dịp cày mùa. Lại nói cái tối tâm sự trước ngày lên đường. Vợ tôi cũng thuộc vào loại cứng rắn, đảm đang, nhưng có điều cô ta chỉ cứng rắn được khi vắng mặt chồng, còn tối hôm ấy thì cứ khóc sướt mướt như trẻ con. Cô ta kể lể ra nhiều nỗi lo lắng lắm, nào vợ chồng ăn ở với nhau đã tám chín năm trời bây giờ một mụn con không có; nào là ốm đau luôn, cảnh nhà lại túng thiếu, anh em kiến giả nhất phận, các em thì bé, gượng được thì khá, rồi ra không gượng được nữa sẽ biết nhờ cậy vào ai. Tôi lại phải kiên nhẫn gỡ ra từng mối một, nhưng cũng là giải quyết quanh thôi, động viên tinh thần là chính, vợ vì thương chồng nên cũng dịu dần... Về nhà được mười lăm hôm tính ra những giờ được ngồi trò chuyện với vợ, với em chẳng được bao nhiêu. Suốt ngày phơi mặt ở ngoài đồng, tối họp hành xong về thì cũng đã khuya, đặt lưng nằm xuống là ngáy bằng sấm... Vợ nó thấy cái cảnh ấy chắc nó cũng chán.
- Nếu đem so với hoàn cảnh của cậu thì vợ chồng mình còn là dễ chịu hơn. Bây giờ định giải quyết ra sao... Mình có thể đóng góp được gì trong cái việc này không ?
- Bây giờ đưa vợ và em lên đây thì cũng dở dang, vợ ốm, hai em dại, có miệng ăn mà không có tay làm, phụ cấp của tôi thì cáng sao nổi. Còn có nên nhờ anh em, nhờ tổ chức hay không thì tôi nghĩ chưa nên, mới bị cái gai đã kêu ầm lên là xổ ruột, người khác không cười thì tự mình cũng khinh
mình là thằng nhát gan. Rồi ra đâu vào đấy cả... ở thời buổi này không nên quá lo xa...Nếu tôi có nghĩ ngợi là chỉ lo cho hai đứa em thôi. Nhưng tôi đã dặn dù thế nào chăng nữa nhất định phải cho thằng lớn đi học, và cả hai đều phải được ăn đủ, mặc ấm. Thiếu thốn đâu tôi sẽ trợ cấp thêm.
Câu chuyện về phép của Quang hấp dẫn con bé đặc biệt, mắt nó nhìn người nói không chớp và hình như nó cũng bị xúc động. Khi Quang nói xong nó khẽ thở dài, ngồi dựa vào vách liếp :
- Thế các em không phải làm gì để giúp thím à ?
- Chúng nó còn bé thì đã cất nhắc được gì.
- Bé !... Cháu bằng tuổi chúng nó đã phải làm đủ mọi việc rồi đấy. Quả nhiên con bé là một tay làm ăn khá, không thua kém người lớn là mấy. Khi đưa Tấm về tổ thanh nữ, đồng chí đội trưởng đã căn dặn Quang, người phụ trách tổ đó, không nên để Tấm làm việc nặng, có thể chỉ nên cho làm nửa ngày còn nửa ngày học văn hóa. Một tháng qua đi, khi phân công hàng ngày, chính Quang cũng đã quên rằng Tấm mới mười bốn tuổi, bất cứ việc nào con bé cũng làm được thành thạo, gọn ghẽ. Nó cũng bắt chước các chị lớn tuổi, lấy một mảnh vải bịt tóc, quấn mùi xoa vào cổ tay lau mồ hôi, sau giờ làm nó kỳ cọ tay chân rất tỉ mỉ, lấy kim băng nạy từng hạt đất nhét vào vết nẻ ở gót, chải chuốt, ngắm nghía, hầu như không có một chút mệt mỏi nào, không cần một sự cố gắng nào, bình thường, tự nhiên như vốn đã là một nếp sống từ ngày bé. Tấm dành một tình cảm rất đặc biệt đối với Quang, vì anh ấy là anh của hai đứa em mồ côi, anh ấy lại là người tốt nhất nó chưa bao giờ được gặp, gia đình neo bấn mà vẫn nuôi nấng hai đứa emđược đầy đủ, không bắt chúng nó phải làm lụng vất vả, không hành hạ, đánh mắng. Nó tin anh, thích được tâm sự với anh, và ao ước có được một người anh trai như thế.
Một buổi đứng đạp máy tuốt lúa cùng với Quang, Tấm chợt hỏi : - Cháu làm như thế này đã được coi là công nhân chính thức chưa hả chú ?
Quang thầm nghĩ chắc con bé này muốn tỏ cho mọi người biết mình đã là người lớn rồi đây, muốn thành nữ công nhân để đi lấy chồng chăng. Anh mỉm cười :
- Nào có ai bảo cháu là bé đâu.
Nét mặt nó vẫn nghiêm trang, nó ngập ngừng một lát rồi hỏi tiếp : - Như thế thì cháu có được chính phủ cấp lương cho không? Quang đờ mặt ra không trả lời được, khi phân công anh coi nó như một
người lớn, nhưng lúc trò chuyện anh vẫn nghĩ nó còn là một đứa trẻ con, làm được chút nào hay chút ấy, còn ăn uống, may mặc đã có vợ chồng anh Cừ rồi.
- Cháu cần tiền tiêu vặt à, ăn uống đã có nơi rồi còn gì.
- Không, cháu muốn tự kiếm lấy, cháu không thích ăn nhờ vào bác Cừ. Chắc lại có chuyện gì xích mích giữa chị Lụa và con bé đây. Anh gợi chuyện :
- Bác Lụa là người tốt lắm đấy, chú xem bác ấy cũng rất quý cháu... Nó lặng im, nhưng rồi khẽ "xì" một tiếng nhỏ :
- Tốt, cháu chẳng tin ai tốt cả. Các cô ấy làm được tiền còn may sắmcái này cái nọ, cháu muốn mua thước vải cũng chẳng biết xin ai. - Cháu không nên giữ kẽ thế, thiếu gì phải nói các bác ấy mới biết. - Cháu nói riêng với chú nhé, chú đừng nói lại với ai đấy... ở đây cháu thấy chỉ có chú là tốt thôi. Bác Cừ đưa cháu về cũng là muốn cháu hầu hạ vợ bác ấy. Nói là nhận làm con nuôi nhưng lại làm quá người ở. Cháu đi ở nhiều nơi rồi cháu biết. Bây giờ, cháu còn làm được thì nhận làm bố con, bác cháu, nay mai cháu thử ốm xem là người ta sẽ tìm cách đuổi đi ngay đấy... Chú ơi, chú thử hỏi cấp trên xem như cháu thì có được hưởng tiền lương không. Nếu có tiền cháu sẽ thổi cơm lấy, ăn uống thật tằn tiện, dành dụm được ít nhiều thì đỡ lo những ngày ốm đau...
Vừa nghe Tấm kể lể, Quang vừa nhìn hai cổ tay gầy guộc rám đen của nó xoay đi xoay lại lượm lúa, hai cái bả vai hơi co lên, nhìn qua những kẽ ô thưa của thứ vải mặc đã lâu ngày thấy lờ mờ những chấm trắng của da thịt, tự nhiên mắt anh cay xè, phía trong hai cánh mũi nóng ran xộc lên đến đỉnh óc. Anh định nói thêm một câu gì nhưng không thể nói được nên cứ cắn môi im lặng. Con bé vẫn nói miên man về những lo lắng của nó :
- Ví thử như cháu ốm thì có phải mua thuốc không hả chú, hay là được chú y tá phát? Cháu sợ ốm lắm chú ạ, ốm vừa buồn, lại hay tủi thân, nhưng
cháu chẳng khóc bao giờ... Mấy cô ở đây mới đau bụng một tí đã khóc ầmlên để bao nhiêu chú phải đến dỗ, rồi nào thuốc uống, nào thuốc tiêm. Như cháu ấy à... cháu cắn răng lại mà chịu, không phải là cháu không muốn khóc đâu, không muốn rên đâu, nhưng nếu rên khóc người ta sẽ cho là ốmnặng, sẽ đưa cháu đi nhà thương, ở đấy chết không ai biết, cháu cứ nghĩ như thế là lại chịu đựng được, và rồi cháu vẫn không ốm...
Một buổi sáng chủ nhật, hai chú cháu Quang rủ nhau vào rừng đào măng. Đằng đông mặt trời vẫn nằm trong cái túi mây, nền trời trắng nhạt như cái bong bóng lợn. Bỗng nhiên giữa cái màu xám xịt ấy xuất hiện một vệt nắng vàng óng chạy dài suốt các bản dọc chân núi phía tây, và những cái mái nhà hình thang sáng rực lên như tách khỏi nền đất đen sẫm, bay lơ lửng. Quang vừa đi vừa giảng giải những vẻ đẹp mà anh rất mê say ở thung lũng Điện Biên này, buổi sáng như thế nào, vào lúc trưa như thế nào, tối đến khung cảnh lại biến đổi ra sao. Rồi anh hỏi Tấm :
- ở quê cháu có đẹp được bằng đây không ?
Nó ngập ngừng một tí :
- Cháu cũng chẳng biết nữa.
- Thế cháu lên đây có nhớ nhà không ?
- Nhớ mấy cái bà mà cháu ở ấy à. Cháu ghét cay ghét đắng. Đi được là thoát. Toàn những người bóc lột.
- Họ là địa chủ à ?
- Không, không phải là địa chủ đâu chú ạ. Một bà làm bún, một bà gói bánh chưng đem bán các chợ... Nhưng họ ác lắm. Cháu vẫn tức cái bà làmbánh kiếm được nhiều lãi thế nhưng cho cháu ăn uống thật khổ, cơm một phần, sắn trộn vào đến bốn phần. Vậy mà cũng không được ăn no đâu. Thức ăn toàn cà ủng, dưa khú, không sao ăn được. Tính nết bà ta lại quắt quéo, ăn cắp như ranh. Có hôm bà ấy ra ruộng cà chua giả vờ đi ngoài, rồi vừa ngồi vừa vặt cà chua đùm vào váy. Một hôm cháu ốm bà ấy phải đi đưa bánh cho các hàng đặt. Đợi bà ta đi được một lúc, cháu lấy cặp tóc nậy khóa chiếc hòm gian mở ra xem. Chú có biết trong hòm bà ấy cất giấu những gì không? Một thúng gạo dự nhé, một niêu cá kho với thịt nhé, cà chua đi lấy cắp cũng còn rất nhiều xếp đầy một góc hòm. Thì ra bà ấy vẫn
ăn giấu cháu, hễ cháu đi chợ là ở nhà bà ấy thổi cơm gạo dự ăn với thịt. Thảo nào lúc ăn với cháu bà ấy và nhỏ nhẹ, chỉ hai lưng xới đã đứng dậy. Cháu thì xanh rớt, còn bà ấy thì béo đỏ... Hôm ấy cháu tức quá, đã định đổ hết niêu cá đi, hay bỏ đất trộn vào cho bõ ghét. Sau lại sợ bà ấy biết sẽ đuổi cháu, nên cháu thôi... Bây giờ cháu chỉ ao ước làm được nhiều tiền, may mấy bộ quần áo thật đẹp như các cô ở đây, rồi cháu sẽ về quê chơi cho các bà ấy biết mặt. Nhất định là cháu không chết đói nhé, cháu lại làmđược ra tiền. Lúc ấy rồi lại xun xoe, cháu cháu, thím thím ngay đấy, để xin xỏ, vay mượn mà. Đừng có hòng cháu cho vay, họ vay được là họ nuốt trôi ngay, mình bé cãi lại làm sao được...
- Bây giờ ở quê cháu chắc cũng vào hợp tác xã cả rồi. Đời sống các bà ấy khấm khá lên thì rồi tính nết cũng thay đổi, chứ không đến nỗi như cháu nghĩ đâu.
- úi giời, tính họ ác thì đến chết cũng vẫn ác. Cháu hỏi chú nhé, nhà chú cũng nghèo tại sao chú vẫn nuôi được hai em cháu, chú vẫn cho các em được đi học.
- à, à...
Anh định trả lời vì đó là hai đứa con của những cán bộ đã hy sinh trong kháng chiến, anh phải có trách nhiệm với chúng nó. Là vì anh là một quân nhân không thể giống một bà bán hàng rong, nhưng lại sợ sẽ làm nó tủi thân, nghĩ ngợi thêm... Quang vừa đi vừa chăm chú ngắm nghía những bụi tre rất dày, mo nang rơi đầy ở gốc óng ánh màu trắng ngà. Tấm xách cái túi vải người Xá đi tung tăng phía trước, chốc chốc lại ngoảnh lại hỏi :
- Bụi này có măng không chú !
- Đi sâu vào tí nữa, ở đây họ lấy hết cả rồi.
Đến một bụi rất rậm, anh dừng lại cắm lưỡi thuổng xuống đất, bẻ những cành gai sang hai bên, nghiêng nghiêng ngó ngó một lúc rồi nói to : - Đưa cái thuổng cho chú !
- Chú cho cháu xem chú lấy như thế nào... Cháu chẳng trông thấy gì cả...
Những mầm măng nhú lên trên mặt đất màu xanh thẫm sát những gốc tre mốc trắng, Quang lách lưỡi thuổng qua những thân tre, luồn vào đúng chỗ
có mầm, ướm ướm mấy cái rồi lao mạnh mũi thuổng xuống đất, chiếc măng khẽ nẩy lên, rung rung một chút rồi lại đứng ngay ngắn, anh khẽ lắc lắc tay cán, chiếc măng lùi dần vào phía trong rồi nằm dài dọc theo chiều lưỡi, và rất nhẽ nhàng anh rút thuổng ra qua những kẽ hở, cầm lấy cái măng đưa cho Tấm.
- Đây, măng đây... nhưng phải bóc lượt vỏ ngoài ra, lấy cái nõn trắng ở trong thôi. Để chú bóc thử cháu xem.
Anh rút lưỡi dao ngắn đeo ở sau lưng chặt phía đầu vỏ ngoài bọc kín nhọn như búp sen, rồi lại rạch một đường thẳng nữa, bóc lượt vỏ ngoài. Nõn măng thật đẹp, những sợi lông xếp lại, mịn màng, nhóng nhánh trắng như bọc bằng xa tanh. Cái Tấm không bỏ qua một cử chỉ nào của Quang, nó trầm trồ:
- Đẹp quá chú nhỉ, mà cũng dễ lấy thôi.
Quang vừa luồn lưỡi thuổng đào những chiếc măng khác, vừa giảng giải :
- Cháu có trông thấy những cái vai trâu bằng tre không. Không phải do mình uốn đâu nhé, tự nó uốn nó đấy thôi. Cháu xem, bụi tre dày thế kia, chen chúc nhau thế kia, mầm măng muốn lớn lên là phải lách theo những kẽ hở, cho nên sau này gốc nó mới bị cong queo. Âởy vậy mà đi tìm vai trâu phải mất hàng mấy buổi chưa chắc đã chọn được cái vừa ý. Dùng vai trâu bằng tre thì bền hơn vai gỗ nhiều... Được mấy chiếc rồi?... Thôi, sang bụi bên kia... Chiều nay hai chú cháu ta sẽ ngồi thái mỏng ra xâu dây phơi độ vài nắng là cẩm như măng bán ở Hà Nội ngay.
Con bé vẫn chăm chú theo dõi Quang, còn Quang thì vừa làm vừa kể những câu chuyện thuộc về những kỷ niệm đã qua :
- Ngày cháu lên trên này, cháu có để ý đến những rừng bương ở quãng giữa Mộc Châu với Yên Châu không ?
- Có lẽ có nhưng cháu không để ý. Đến hôm nọ vào bản Cộng cháu mới được trông thấy cây bương đấy, ở quê cháu không có bương. - ở Yên Châu thì nhiều rừng bương lắm. Ngày mở chiến dịch Tây Bắccuối năm 1952, đơn vị chú toàn trú quân ở rừng bương. Những cây bương to bằng cái cột cái ấy, cứ đẵn một khúc băm ra làm giát vừa một người
nằm, lợp lán cũng lấy mo nang của nó, chứ làm gì có thì giờ đi cắt gianh. Các chú đặt tên cho khu ấy là "khu mo nang". Mùa đông có sương muối thì lá rụng hết, còn trơ lại những chùm quả lủng lẳng bằng cái nón một... Cháu đưa túi chú xách cho, được ngày đi chơi chú bộ đội lại bóc lột sức lao động.
Tấm hơi nghiêng nghiêng đầu, một mảng tóc xòe ra che gần kín nửa mặt, chỉ thấy đuôi mắt nó sáng lên óng ánh :
- Chú Quang này, chú đi bộ đội từ bé à ?...
- Thôi, ta về đi, lấy thế đủ rồi... Đi thong thả chứ, vừa đi vừa nói chuyện cho vui... Chú đi bộ đội từ năm mười tám tuổi, năm nay chú đã hai mươi bảy. Có chắc sống được hai mươi bảy năm nữa không nhỉ ? Tuổi thì mười tám nhưng chú chỉ nhỉnh hơn cháu một tí thôi, thế mà đã vợ con đàng hoàng rồi... cũng tại các cụ cả. Chú nhập ngũ được một tháng thì được đi chiến dịch Tây Bắc lần thứ nhất ngay. Ngày cháu mới lên đây cháu có nhớ đồng bằng không ?... Lại không à ... Cháu thì chẳng nhớ đến ai, chẳng vương vấn một cái gì. Bây giờ tiếng là cháu lên Tây Bắc nhưng lại ở cái đất Điện Biên này thì có khác gì đồng bằng. Còn như ngày ấy sao chú nhớ dưới xuôi đến thế. Bốn mươi lăm ngày toàn hành quân trong rừng, trời mưa tầm tã, chỗ nào hơi có ánh sáng rọi vào trong bụng đã mừng khấp khởi, chắc mẩm sắp được giải phóng con mắt đây, sắp ra đến đồng bằng rồi đây. Chẳng ngờ lại quặt vào những chỗ bóng tối còn dày đặc hơn, núi vây quanh còn cao hơn. Có đêm đồng chí đại đội trưởng đơn vị chú tuyên bố đêm nay chỉ đi mười hai cây thôi, chú đã nghĩ ngay đến giấc ngủ ngon lành khi đến chỗ trú quân mới, vì mười hai cây, chứ ngay đến hai mươi cây nào đã mùi gì, cùng lắm chỉ một hai giờ đêm là đến nơi. Ai ngờ đêm ấy vẫn đi suốt cho đến sáng, chú vừa đi vừa tấm tức, bụng bảo dạ : đã làm đến cấp chỉ huy mà còn nói dối chiến sĩ. Cháu có biết đêm ấy bộ đội đi được bao nhiêu đường đất không, chắc nhiều lắm hả, không đâu, chỉ đi được có sáu cây số thôi. Đường rừng mà. Anh em thì họ biết cả, chỉ riêng chú vì là tân binh, lần đầu sống đất rừng núi nên mới nghĩ khờ khạo như vậy...
Đã thế lại phải cái tội hay ngủ, đang sức ngủ mà không được ngủ người nó cứ mụ mẫm đi, chân vẫn bước theo anh em, nhưng tâm trí đã mê man
chẳng còn hay biết chuyện gì xảy ra chung quanh nữa. Chú tuy là tân binh nhưng đã láu, hễ bộ đội dừng lại năm mười phút qua cầu, qua suối là chú tranh thủ ngủ ngay, ngủ đứng thôi, nhưng tay vẫn đặt lên ba lô người đi trước, bên trên họ chuyển động là mình thức tỉnh ngay. Một đêm chú cũng làm theo cái mẹo ấy, và cứ yên trí ngủ, ngủ mãi, rồi do linh tính con nhà binh hay sao, tự nhiên mở mắt ra, thấy tay mình hình như vẫn còn bíu lấy một vật gì, nắn lại kỹ... ai ngờ lại hóa ra mấu cây ổi cạnh đường, ngơ ngác nhìn trước nhìn sau cũng chỉ còn lại một cây ổi với một chú... còn anh emthì họ đã đi đâu từ lâu rồi...
- Ngày cháu ở cho nhà bà bún cháu cũng thèm ngủ lắm chú ạ. Làm bún dùng đến là tốn nước. Nhà có hai cái ang rất to, mỗi ang đổ bốn gánh nước chưa đầy. Cháu phải gánh từ tờ mờ sáng cho đến quá trưa mới tạm đủ nước dùng, hai xương vai cứ tê đi. Đến chiều lại vắt bún, đi đưa hàng, tối về nấu cám lợn chẳng được nghỉ một phút nào gọi là có. Lắm tối ngồi băm rau cháu chặt cả vào ngón tay, máu chảy lênh láng. Có buổi cháu đang nấu cámthế mà ngủ thiếp ngay lúc nào không biết, rơm cháy lém cả ra ngoài, đến lúc bà chủ đi qua lấy que cời nện vào giữa đỉnh đầu cháu, cháu mới sực tỉnh, nhưng đau quá không sao há mồm nói được. Đánh lúc đang ngủ là dễ chết lắm đấy chú ạ. Thế mà từ ngày cháu lên đây lại không thấy buồn ngủ nữa, trưa cháu cũng chỉ thích đi chơi, bữa nào ngủ được một tiếng lúc dậy mắt cứ sưng húp như người khóc ấy.
Nó kể cái câu chuyện không lấy gì làm vui ấy với vẻ mặt rất bình thản. Đối với nó những hành động tàn nhẫn của người khác không có gì là lạ lùng, họ vốn là như thế, còn nó, nó sinh ra để mà chịu đựng và chỉ ước ao sao mau lớn lên, khỏe mạnh ra để chịu đựng được bền bỉ hơn. ở đời này làm gì có được mấy người tốt, còn đời nó thì chắc là không thể sung sướng như người khác được.
Không hiểu vào cái hôm nào đó thì Tấm bắt đầu thấy yêu chỗ ở của nó. Hồi nó mới về đây chỉ độc có mỗi cái ba lô đã bạc, dăn dúm, còn ngoài ra không còn đồ đạc nào khác. Nó có thể đặt vào bất cứ cái giường trống nào, hoặc ở nhà bác Cừ nó, hoặc ở văn phòng của đội sản xuất, hoặc ở tổ thanh nữ. Điều đó chẳng có quan hệ gì, và cũng chẳng làm cho nó nghĩ ngợi gì,
đâu nằm được là nó có thể yên tâm rồi. Nhưng dần dần đồ đạc của nó cứ nhiều thêm ra. Trước tiên chú Quang đẽo cho nó một đôi guốc bằng gỗ lồng mực, đóng quai dù, đôi guốc trắng mịn, nét đẽo đều đặn, cân đối, thật đẹp. Chú Khôi đội phó đổi cho nó một cái ba lô còn mới, màu xanh biếc, vải rất dày. Chú Tý quản lý cho mượn một cái màn và một mền chăn. Rồi đến chú Khang ở tổ mộc ghép mấy mảnh ván lại đóng cho một chiếc hòmnhỏ, bào nhẵn nhụi, có cả ổ khóa làm bằng vỏ đạn hẳn hoi. Lần đầu tiên trong đời nó có một cái đựng quá rộng và chắc chắn. Cách ít lâu bác Lụa may cho nó một đôi quần láng đen Trung Quốc, hai cái áo sơ mi trắng, một chiếc khăn sợi quàng cổ. Các cô ở tổ thanh nữ cũng tặng nó những chiếc kẹp ba lá không dỉ, vài cái vòng bằng hạt cườm. Tất cả những thứ ấy nó đều cất vào trong hòm, và không quên bỏ vào mấy hạt băng phiến. Bây giờ thì chỗ nằm của nó đã đẹp mắt và giàu có rồi. Một cái chiếu dệt hoa cạp vải, đầu giường chăn, màn, gối thơm tho, sạch sẽ, trên nắp hòm một lọ hoa bằng quả mìn nhảy quét lượt sơn xanh và vẽ chim hòa bình. Hễ lúc nào rỗi nó lại sửa sang chỗ nằm cho đẹp mắt hơn, quét quáy khắp gian buồng cho sáng sủa hơn và mở nắp hòm lôi ra tất cả những đồ vật nhỏ bé nhưng thật đáng quý, xem xét, ngắm nghía. Và cái công việc trẻ con ấy đã gây cho nó sự thích thú rất mới lạ. Nó bắt đầu yêu chỗ ở của nó, yêu cái gian nhà nhỏ bé mà nó chiếm một khoảng giường.
Cho nên buổi trưa hôm ấy khi nó đi gánh cát về thấy ngay trên giường mình để ngổn ngang một cái tay nải rất to bằng vải xanh, một bọc chăn chằng dây ngoài rất kỹ thì không thể không bực mình. Nó treo cái nón lên vách rồi nói to :
- Đồ đạc của ai mà để mất trật tự thế này ? Nó ghé đầu vào gian buồng phía trong thấy một người đàn bà rất lạ mặt đang thì thào nói chuyện với bác gái nó. Nó chào lí nhí rồi quay vội ra. Chị Lụa nói với người đàn bà kia :
- Cháu Tấm đấy, cháu nó ở với vợ chồng tôi được hơn hai tháng rồi. Có nó cũng vui cửa vui nhà.
Người đàn bà kia nhìn theo Tấm bằng đôi mắt buồn rầu, không nói gì cả. Người mới đến chơi là chị Lộc, vợ đồng chí Tề, trung đội trưởng ở
tiểu đoàn 3, đơn vị cũ của Cừ. Cả hai vợ chồng đều là người Thổ LạngSơn, lấy nhau từ năm khởi nghĩa, nhưng ăn ở với nhau thì chưa đầy vài tháng. Chị lên Điện Biên với chồng đã được nửa năm, nhưng nửa năm ấychồng lại đi tuyển tân binh ở Hải Dương mất ba tháng, về đơn vị được vài hôm lại đi học văn hóa. Rồi bị phù vì bệnh xưng thận phải về quân y viện ở Hà Nội điều trị. Cách đây vài hôm Hà Nội đánh điện lên báo tin bệnhtình anh ấy trở nên trầm trọng và mong vợ về thăm. Tiền riêng của hai người chỉ có hơn chục bạc, anh em trong đơn vị giúp thêm được hai chục nữa. Đi ô tô thì chậm, đi máy bay thì không đủ tiền. Trong lúc nguy ngập, bối rối chị tìm đến vợ chồng Cừ nhờ sự giúp đỡ. Suốt bữa cơm, Tấm hết sức chú ý đến người khách buồn rầu này. Cô ấy cũng phải trên ba mươi tuổi, răng bịt vàng ba, bốn chiếc, mặc cái áo cánh màu xanh trứng sáo, quần vải thô ruộm bùn, một tay đeo chiếc vòng nhựa màu đỏ. Cô ấy chỉ ăn được có hơn bát đã buông đũa đứng dậy, mắt cứ hoe đỏ, mòng mọng như sắp khóc. Gần tối thì Cừ đạp xe về. Vừa trông thấy Cừ, chị Lộc đã nức nở:
- Anh ơi, nhà em nguy mất anh ạ... Hà Nội họ đánh điện lên. Rồi chị móc túi lấy ra một mảnh giấy màu xanh đưa cho Cừ. Anh cầmlấy xem rất kỹ, rồi khẽ hỏi :
- Chú ấy về nằm Hà Nội được gần tháng chưa nhỉ ?
- Mới có mười tám ngày.
Chính Cừ cũng ngờ rằng người bạn chiến đấu cũ của mình khó mà qua khỏi, nhưng biết làm thế nào. Chị ấy đang cần những lời khuyến khích, những câu nói tràn đầy hy vọng để lấy thêm sức chịu đựng cho những ngày tới. Anh làm ra vẻ vô tư :
- Họ đánh điện như vậy là thường chứ có phải trường hợp đặc biệt lắmđâu. Tôi cho là chú ấy muốn cô về phục vụ cho tiện đấy thôi. - Không biết có phải thế không... Chắc anh ấy cũng biết đi về tốn kémnhư thế nào, làm gì có tiền. Ai lại muốn cho vợ về phục vụ mà lại đánh điện bao giờ. Em khóc suốt mấy ngày hôm nay... Em chỉ lo bơ vơ một thân một mình.
- Đừng có nghĩ vớ vẩn, vậy cô định bao giờ về dưới ấy.
- Nếu chỉ là về phục vụ cho anh ấy thôi thì em sẽ đi ô tô. Chậm vài hôm nhưng đỡ tốn.
Cừ vẫn đi đi lại lại, anh nghĩ ngợi một cách đau đớn nhưng lại phải giấu dưới vẻ mặt bình thản : "Đi máy bay ngày mai thì may ra kịp. Từ hômnhận được điện đến hôm nay cũng đã ba bốn hôm rồi. Liệu vợ chồng có được nhìn nhau lần cuối không. Tề ơi, nếu cậu mất đi thì cô ấy sẽ sống ra sao đây. Con cái không có..."
- Em đi ô tô vậy anh nhé ?
- Đi ô tô xóc lắm không được đâu, thôi đi máy bay vậy. Ngày mai có chuyến đấy.
Thấy chị ngần ngừ, Cừ hiểu ngay:
- Thiếu tiền phải không, cô không lo, tôi sẽ biếu cô một cái vé máy bay. Còn lượt lên thì hai vợ chồng đi ô tô cũng được rồi. Mặt người đàn bà tuyệt vọng kia sáng hẳn lên, không phải vì được một cái vé máy bay, mà vì chị nghĩ đến lượt lên của hai vợ chồng. - Cứ miễn là nhà em còn sống là may - và chị buột nói một câu đầy tin tưởng - nhưng có khi cũng phải hơn nửa tháng nữa chúng em mới lên được. Khi chị đi ra ngoài rửa chân, Cừ gọi vợ vào gian trong khẽ hỏi (nhưng Tấm vẫn nghe rất rõ):
- Nhà còn tiền không ?
- Còn, cần lấy bao nhiêu ?
- Đủ mua một cái vé máy bay, sáu chục.
- Thế thì thiếu mất hai chục, thôi được... giật tạm chị Vần đến tháng trả, cũng chỉ vài hôm nữa là lĩnh lương rồi.
- à, nếu chị ấy còn tiền thì cứ giật thêm ba chục, còn một chục để cô ấy ăn đường. Chốc nữa sang hỏi ngay đi thôi. Mai cô ấy đi sớm... Sáng mai có gì ăn chưa ?
- Còn cá kho.
Rồi chị Lụa gọi Tấm :
- Tấm ơi, tối nay cô ấy ngủ với cháu nhé... có chật không? Trời rét nằmhà tiện một tí càng ấm.
Tấm mắc màn thì Cừ đẩy cửa bước vào :
- Cô Lộc này... cứ yên trí mà ngủ đi. Tôi đã gọi điện ra sân bay nhờ xếp chỗ rồi. Sáng mai ăn cơm xong, thủng thỉnh lên là vừa. Một giờ máy bay mới cất cánh kia.
- Vâng, em xin cảm ơn anh.
Suốt đêm ấy, hễ lúc nào Tấm thức giấc nó cũng nghe thấy tiếng xụt xịt rất kín đáo của người đàn bà nằm cạnh. Riêng nó cũng thao thức, trằn trọc vì những ý nghĩ lạ lùng. Cuộc sống của nó tuy còn ngắn ngủi, nhưng nó đã được chứng kiến nhiều nỗi thương đau, chỉ duy tình thương yêu, sự chămsóc thành thực của những người chung quanh đối với kẻ không may mắn là chưa từng được thấy. Nó thường nghĩ đến cách đối xử của những bà chủ mà nó ở, của những người trong cái làng nhỏ bé mà nó đã quen biết. Sao những người ở đây chẳng giống chút nào với những người nó đã từng gặp. Bảy chục bạc đâu có phải ít! Chưa bao giờ nó dám ao ước được có một số tiền lớn như thế. ừ, nếu nó có thật nó sẽ biết dùng làm gì nhỉ ? Nó có thoáng nghĩ đến một số vốn riêng và những chuyện phòng xa. Ô hay, tại sao những tính toán vốn đã rất cụ thể, rất chi li qua nhiều lần tưởng tượng của nó, đã thành một nếp nghĩ rất quen thuộc ở trong nó, trong đêm nay lại hóa ra mờ nhạt đến thế, hầu như không còn gây được sự thích thú như những lần trước nữa... Vậy nó sẽ dùng làm gì nếu có số tiền ấy ? Hay là nó sẽ may mấy bộ quần áo thật đẹp... Thì cũng đến một cặp quần thâm, vài chiếc áo sơ mi trắng. Những thứ ấy bác Lụa nó đã may cả rồi, nó đã mặc rồi và như vậy cũng đã đủ. Rồi những băn khoăn của nó cứ lẫn lộn, vừa như thật vừa như giả, cho đến lúc nó ngủ thiếp đi lúc nào không biết.
Sáng hôm sau ăn cơm xong, chị Lụa cầm bảy chục đưa cho bạn dặn : - Về Hà Nội tiêu dè dặt một chút, không thì tốn lắm đấy.
Chị Lộc hai tay đỡ lấy tiền, đầu ngón tay cứ run bắn :
- Em xin anh chị.
Cừ hơi cười, nói một câu cốt để chị yên tâm thêm :
- Hai vợ chồng có lên thì nhớ lại qua đây nhé, tôi có mấy việc muốn nhờ chú ấy.
Nhưng qua một đêm suy nghĩ chị càng thấy hy vọng của mình rất mỏng manh, chị chỉ còn ao ước được gặp mặt chồng lần cuối.
- Em cũng mong thế nhưng chắc chẳng được đâu anh ạ. Lần này em xin chào anh chị thôi. Về Hà Nội chôn cất cho nhà em xong em cũng về LạngSơn ngay. Không biết đến ngày nào lại được gặp anh chị. Cừ ngồi lặng đi, anh khẽ lắc lắc đầu rồi nói nhỏ :
- Cho vợ chồng tôi hỏi thăm chú ấy...
Chị Lộc đứng dậy lấy đòn gánh xóc một đầu vào bọc chăn, và đầu kia tay nải, với lấy cái nón, nước mắt ròng ròng chảy xuống hai bên má : - Em xin chào anh chị. Anh chị giúp đỡ em lúc này em chẳng bao giờ quên. Cháu Tấm ở nhà nhé...
Thấm thoắt cái Tấm đã ở với vợ chồng Cừ gần bốn tháng. Những ngàyđầu tiên chị Lụa không mến con bé lắm. Nó đi làm suốt ngày, tối đến lại học văn hóa, hoặc dự các buổi sinh hoạt chung, về mắc màn một lúc đã ngủ. Nó ít trò chuyện với chị, và nhìn chị bằng con mắt né tránh. Nhưng dần dần cách sống của nó đối với chị cũng trở thành quen thuộc. Một ngày hai bữa nó đi lấy cơm về, hai bác cháu cùng ăn với nhau, nó muối dưa cà, thái đu đủ ngâm dấm, quét quáy nhà cửa, ngày nghỉ lại giặt giũ chiếu chăn, có khi cả quần áo của chị. Có hôm nó xin trên văn phòng được một chồng báo cũ, quấy hồ dán kín những chỗ vách lở, cắt những tranh ảnh ở các tờ họa báo trang trí ở đầu giường. Nhìn chỗ nào cũng thấy có dấu vết của nó, rồi dần dần một cái bóng nhỏ bé ra vào, một mái tóc ngắn đen nhánh thấp thoáng đã trở thành hơi ấm của căn nhà, là hình ảnh không thể thiếu được trong sinh hoạt hàng ngày. Buổi nào nó đi làm về muộn phải chờ cơm, tối nào nó không về sớm, chủ nhật nào nó đi chơi cả ngày, chị bắt đầu thấy nhớ, và khi bóng nó xuất hiện ở khung cửa, chị thấy trong lòng mình rộn rã hẳn lên, muốn bật ra một câu âu yếm : "Con đã về đấy ư ?". Chị ao ước được là mẹ, nhưng chưa bao giờ chị là mẹ, bóng dáng nó đã đánh thức trong lòng chị tình mẫu tử. Chị vá quần áo cho nó, để phần cơm nó, mua cho nó một cái cặp tóc, một cái khăn len với sự cần thiết rất tự nhiên, không gượng gạo, tính toán, và những lúc ấy trong lòng chị trở nên ấm áp, vui sướng lạ lùng.
Cừ thì ít có dịp được gần gũi đứa con nuôi, mỗi tuần anh chỉ về nhà được một hoặc hai lần. Nhưng mỗi lần về anh đều chú ý đến cách sống của
con bé. Anh thích được nghe nó nói chuyện, xem xét rất tỉ mỉ quan hệ của nó đối với chung quanh. Ngoài tình bố con mà anh ấp ủ, anh còn thấy mình có trách nhiệm đối với một thế hệ đang lớn lên. Phải gây cho nó có lòng tin yêu, có cách sống thẳng thắn, cởi mở thì sau này nó mới trở nên một công dân tốt của cái xã hội hết sức mới mẻ. Anh là một cán bộ chính trị, lại là người từng trải, nên anh rất am hiểu những nguyên nhân của mọi hành động tội lỗi mà anh đã từng phải giải quyết. Hầu hết những con người đáng thương ấy đã bị những thành kiến xấu xa của cái xã hội đang chết đi đục khoét từ ngày còn thơ ấu. Họ sống và hành động theo những thói quen tai hại mà tự họ đôi lúc cũng nhận thấy nhưng lại không có nghị lực cưỡng nổi. Mỗi lần gặp những trường hợp đau đớn như thế trong lòng anh lại sôi nổi một ý nghĩ : phải chú ý đến trẻ con, phải giáo dục và cải tạo chúng nó, phải làm cho chúng nó được sống trong cái không khí hoàn toàn mới mẻ của thời đại xã hội chủ nghĩa. Đấy là phương pháp tích cực nhất có thể ngăn ngừa những tội lỗi sau này. Đấy là mối lo âu duy nhất hợp lý về hạnh phúc của con cái, giúp chúng nó thoát khỏi những tấn bi kịch thương tâmmà tự chúng sẽ gây ra...
Hôm ấy anh về đến nhà vào khoảng năm giờ chiều. Nhà đi vắng vì đang vụ gieo hạt. Khi anh mắc áo lên chiếc đinh đóng ở đầu giường Tấm, chợt thấy một cái làn mây nhỏ đan rất cầu kỳ chung quanh lại dán những bông hoa cắt bằng giấy xanh đỏ. Anh mở nắp làn giơ ra ngoài ánh sáng thấy ở trong có hai cái kén vàng và một cái kén trắng gài vào búi rơm nếp. Cái trò trẻ con này chắc chỉ là của Tấm. Bỗng dưng trong lòng anh lóe lênmột niềm vui sướng lớn lao. Dẫu sao nó vẫn còn là một đứa bé, và cái phần trong trắng, thơ ngây ở trong nó chưa phải đã mất hẳn . Ăn xong bữa cơm chiều, Cừ pha một bình trà đặc, lấy ra một cái bánh nướng, và ít kẹo để trên bàn. Và khi gian buồng nhỏ bé lên đèn anh càng thấy nỗi vui sướng ngấm ngầm trong lòng mình lớn lên mãi.
Cái ước ao thầm kín đã từ lâu trong anh là có một đứa con, hạnh phúc tuy bé nhỏ, nhưng lại gần như hoang đường. Khi nói chuyện với vợ, anh có thói quen tránh những chuyện gì dính líu đến hạnh phúc của hai người, nhưng những cặp vợ chồng đã lấy nhau gần hai chục năm nay mà không
nói với nhau về chuyện con cái thì cũng chẳng có gì để nói với nhau nhiều. Những buổi tối bên ngoài gió rét, một ngọn đèn để giữa, vợ ngồi khâu vá, và anh vừa xem sách vừa suy nghĩ mung lung. Đúng cái lúc ấy, lúc hai người im lặng theo đuổi công việc và ý nghĩ của mình, anh thường bắt gặp đôi mắt buồn rầu của vợ, đôi mắt ảo não như người có lỗi, và chính anh, anh cũng phải cố kìm mình lại để khỏi buột ra cái câu : "Nếu chúng ta có một đứa con". Tuy anh không dám nói, và vợ anh cũng không nói, nhưng cả hai lại như đều than thở với nhau rất nhiều. Từ ngày Tấm về ở với vợ chồng anh, thêm sự có mặt của nó ở gianbuồng này, mỗi lần anh về cũng thêm những câu chuyện mới. Xen vào những giọng nói trầm lặng, quen thuộc, nổi bật lên giọng nói thanh thanh, ríu rít, tiếng nói của đứa trẻ. Cho nên mặc dầu nó vẫn sống rụt rè, giữ gìn, nó vẫn gọi vợ chồng anh là bác trai, bác gái, nhưng anh vẫn thấy sung sướng mỗi lần nghĩ tới nó, và càng ngày càng thấy gắn bó với đứa con nuôi. Qua mỗi lần về, anh lại thấy mắt con bé nhìn anh như thắm thiết hơn, quyến luyến hơn, và tiếng reo của nó "Bác đã về" cũng hồn nhiên hơn, thành thật hơn. Hình như nó đã bắt đầu yêu anh, tin anh, và hai tháng gần đây sự thay đổi ở nó càng rõ rệt. Nó nói nhiều hơn trước, kể cho anh nghe các thứ chuyện, toàn những chuyện vớ vẩn, những chuyện của trẻ con.
Tối nay sau khi Tấm kể lại rất nhiều chuyện bỗng nhiên nó hỏi Cừ : - Bác có thích ăn bún không ?
- Cái con bé này, cháu làm như bác là người ăn uống khó khăn lắm đấy hử!
- Nhưng bún ở trên này họ làm xấu lắm, sợi vừa to, vừa cứng lại đen xì. Để hôm nào cháu làm thì phải biết. Hồi ở nhà cháu vẫn làm bún mà... Thế bác đã được tắm nước vắt bún bao giờ chưa? Nó hơi chua chua, thơmthơm, rất bở ghét bác nhá!
Thế rồi nó tính toán ở đây nhà nào có nồi to có thể mượn ngâm gạo được. Nếu không có nồi thì ngâm vào chậu vậy. Nhưng lại không có cối xay bột. Chẳng nhẽ lại vốc từng nắm gạo cho vào cái mũ nhựa giã thì lách cách quá. Có công giã bột thà làm bánh trôi ăn lại thích, trên này đường
bánh có rất nhiều. Nếu hai bác nó không thích bánh trôi thì nó quấy bánh đúc. Bánh đúc chan riêu cua thì còn phải nói. Nhưng bây giờ lại chưa phải là mùa có cua... Và cuối cùng nó bắt sang chuyện khác :
- Bác ơi, tháng này cháu được lĩnh lương rồi. Đấy, có bác gái cháu biết, cháu làm có kém các cô ấy đâu, các cô ấy còn đau bụng, nhức đầu nghỉ luôn, chứ cháu thì chỉ nghỉ có mỗi buổi. Hôm ấy cháu bị dây thép gai đâm vào chân sâu đến đốt ngón tay, chảy bao nhiêu là máu. Cháu cứ lo nó sưng tấy lên rồi thì què. Thế mà chỉ đến chiều cháu lại đi làmđược. Da cháu lành lắm kia.
- Lương cháu thì được mấy chục ?
- Chú Tý bảo cháu là được ba mươi đồng.
- ừ, bác mừng cho cháu. Cháu đã định dùng số lương tháng làm gì chưa ? Những tia vui sướng trong mắt con bé bỗng tắt phụt ngay, cái nhìn trở lại dò xét, nghi hoặc. Nó ngắc ngứ một chút rồi đáp : - Cháu sẽ đưa cả hai bác.
Cừ nhìn vợ, mỉm cười :
- Cháu không để tiêu riêng à ?
Nó nói một cách tiếc rẻ :
- Cháu cũng chả cần tiêu đến cái gì.
- Các bác không lấy tiền của cháu đâu, mua sắm cái gì đã có bác cho, số tiền ấy cứ dành lại mà làm vốn. Cháu bằng lòng không ?... Nhưng bây giờ bác muốn nói với cháu một câu chuyện.
Nó thu người lại, vẻ mặt lo lắng. Chuyện gì thế, bác ấy không muốn mình ở đây nữa ư?
- Cháu làm được ra tiền là rất đáng khen. Cháu hãy còn ít tuổi mà đã có thể sống tự lập được, không cần ăn bám vào ai. Nhưng theo bác thì bác không muốn cháu đi làm, vì ăn mặc của cháu đã có hai bác lo, lớn lên cháu cần gì thì tùy theo khả năng của bác, bác sẽ chu cấp đầy đủ. Bác chỉ muốn cháu được đi học, bây giờ cháu không học thì rồi lớn lên cháu vẫn phải học. Thà rằng học bây giờ có phải chữ nó dễ vào đầu hơn không. Cháu đã nghe ra chưa? Năm nay cháu mới mười bốn tuổi, bác sẽ cho cháu học đến năm hai mươi, nếu cháu còn có sức học nữa thì cứ
học cho đến năm hai lăm, hai sáu rồi ra phục vụ xã hội cũng vẫn vừa. Sau này các bác không cung cấp được đủ cho cháu thì đã có chính phủ cung cấp. Cứ lo mà học cho tấn tới, còn ăn đã có người khác lo, có xã hội lo... Thế nào, ý cháu ra sao ?
Thấy con bé cứ cúi gằm mặt xuống, Cừ biết ngay nó đang xúc động, anh nói rất nhẹ nhàng :
- Thế thì chiều mai bác cháu ta lại lên đường về nông trường bộ nhé. Trường ở ngoài châu đến thứ hai thì mở. Giấy bút bác đã sắm cho cháu đủ cả rồi.
Chị Lụa đã hơi ngân ngấn nước mắt vì không ngăn nổi sự nhớ thương của mình đối với đứa con nuôi. Nó ở với chị thấm thoát đã được gần bốn tháng. Nó đã đem lại cho cuộc sống cô quạnh của chị những niềm vui chưa từng có. Bây giờ nó lại đi, và một mình chị ở lại cái gian buồng nhỏ bé này, cái gian buồng mà bất cứ chỗ nào cũng thấy dấu vết của con bé để lại.
Chiều hôm sau, trên con đường cái rộng nằm giữa thung lũng Điện Biên, Cừ đạp xe rất thong thả đi trước, sau yên xe buộc chiếc ba lô của Tấm và một cái mền bông. Tấm đi sau cùng với chú Quang nó. Nó mặc chiếc áo sơ mi trắng, cổ bẻ tròn, một bên mái tóc là chiếc cặp có giát những miếng đá xanh, đỏ, tay cầm cái làn mây dán giấy hoa.
- Đêm nay chú ngủ lại trên ấy chứ ?
- Chú ở chơi với cháu một lúc rồi chú về ngay.
- Đêm mới về đến nhà à ?
- Chân chú có ngắn như chân cháu đâu.
- Cháu với chú bước thi nào.
Rồi nó bước dài chân ra, sau nó bước ngắn lại nhưng đi rất nhanh gần như chạy, và nó đã thấy thích thú ngay cái trò chơi mới mẻ vừa nghĩ ra. Quang chạy vượt lên một quãng rồi dừng lại, cười :
- Đi chậm thôi cháu ạ, có chuyện gì kể cho vui đi.
Những bụi ké đồng tiền ở dọc đường đã rụng hết lá, chỉ còn để lại trên nhành cây mảnh dẻ những nụ hoa vàng nhỏ như cúc áo. Một cây vông vang mọc xen vào giữa bụi tre dại, hoa nở ra mướt vàng, nhị đỏ màu mận
chín. Bày sẻ bay từng đàn vụt qua đầu hai người rồi đậu trên những ngọn xoan thẳng tắp và kêu ríu rít trong đám lá xoan non đỏ ửng vì ráng chiều. Xa xa những cánh cò trắng lóa, cánh cong như vòng cung bay rập rờn lướt trên màu tím thẫm của dãy núi. Khung cảnh lặng lẽ và thơ mộng. Và lần đầu tiên, bộ mặt mỹ miều đầy sức quyến rũ của thiên nhiên đã rung động được tâm hồn con bé Tấm. Nó quay lại nhìnQuang bằng đôi mắt đen nhanh nhánh:
- Chú Quang ơi, ở Điện Biên đẹp quá chú nhỉ ?
30-3-1960
Tầm Nhìn Xa
I
Giữa năm 1959, một công trường đến lấy một trăm sáu mươi mẫu đất thuộc xã Đồng Tiến để xây dựng nhà máy. Khu đất tạm mượn để dựng lán ở cho công nhân và khu đất làm nhà máy đều được trả hoa lợi cho các chủ ruộng trong ba năm. Khi chủ tịch xã nói lại tin đó ở cuộc họp xóm Đông Chấnthì một bà bỗng nằm ra ở thềm đình rũ tóc, đập tay lên mặt gạch, kêu to lên: "Nông dân sống vì đất chứ không sống vì tiền. Không có đất thì lấy gì mà nuôi nhau, hở trời!". Một tháng sau nhũng đội công nhân xây dựng đầu tiên đã kéo đến về ở các xóm đo đạc đất đai, chuyên chở vật liệu. Ngày ấy ở xóm Đông Chấn chỉ có hai giếng. Tuy Kiền, chủ nhiệmhợp tác xã xóm đó ra lệnh cho các xã viên lấy nứa rào lại, treo lên một cái biển đề: "Cấm người lạ mặt vào gánh nước, tắm rửa". Dọc đường đến công trường có một khu trồng mía rộng khoảng một mẫu, một số công nhân hay rẽ vào đấy để đi đại tiện, đôi khi còn bẻ cả mía ăn. Tuy Kiền làm ra vẻ không chú ý đến những chuyện vặt đó, nhưng một buổi sáng chính ông chủ nhiệm đầy mưu mẹo ấy đã nấp vào một bụi mía, chờ cho kẻ thù của mình ngồi xuống liền xô lại hết sức nhanh nhẹn. Không may người bị bắt quả tang lại là nữ sinh viên về công trường thực tập. Tha hồ cho người con gái non nớt và đáng thương lạy van khóc lóc, ông chủ nhiệm vẫn hét ầm lên: "Công nông đoàn kết là thế đấy hả! Đồ phá hoại! Tao phải lôi mày lên tận ban giám đốc!". Rồi Tuy Kiền bắt phải lập biên bản, có cả hai xã viên đến làm chứng, và gửi một bản khiếu nại hết sức dài dòng kèm theo đưa lên công trường.
Nhưng mới được nửa năm mối quan hệ giữa đôi bên đã thay đổi khác hẳn, thân thiết với nhau còn hơn ruột thịt. Là vì anh nông dân đã nhận ra cái mối lợi to lớn mà "các đồng chí công nhân xây dựng" hết sức rộng rãi kia đưa đến tận tay mình. Người đầu tiên biết lợi dụng triệt để cái tình hình thuận lợi đó lại chính là chủ nhiệm hợp tác xã Đông Chấn. Hằng ngày ông ta đưa hàng trăm xã viên ra làm việc cho công trường: khuân
chuyển gỗ và những khung sắt dựng nhà, san nền, đào móng, mỗi ngày công có thể được tới bốn, năm đồng. Những cô gái của hai xóm Đông Chấn, Bình Chánh bắt đầu may áo chật khoét cổ vuông, mặc quần lụa sợi "phíp", buộc tóc bằng mảnh khăn màu, chép bài hát trong cuốn sổ tay bé tí và viết thư cho người quen bằng những tờ giấy mỏng. Số người làm cho công trường ngày một tăng, họ rủ nhau đi mỗi buổi hàng mấy trăm người ùn ùn kéo qua chiếc cổng gỗ như một đám rước: các bà quẩy một đôi sọt đi gánh đất, các ông mang con dao ra dựng lán, đan liếp che cửa và làm giường nằm. Mỗi toán đều có công nhân kỹ thuật do công trường cử đến để chỉ dẫn, giám sát. Nhưng những anh chàng công nhân đẹp trai và hết sức đáng yêu kia đã bị những cô gái rất mực duyên dáng vây chặt lấy rồi. Họ bắt chuyện với nhau dễ dàng, nói bóng gió một cách thi vị, đùa bỡn nhau, trêu chọc nhau đầy thân ái cho tới lúc kẻng báo giờ nghỉ. Chủ nhiệm Tuy Kiền bèn bàn giao công việc đồng áng cho phó chủ nhiệm, còn chính mình thì biến hóa thành một sợi dây bền chắc để thắt chặt tình hữu nghị nghìn năm có một giữa công trường với hợp tác xã.
Đầu năm 1962 khi các hợp tác xã của sáu xóm liên hợp lại thành hợp tác xã Đồng Tiến, Tuy Kiền được bầu làm phó chủ nhiệm, phụ trách các ngành nghề. Không thể có sự phân công nào hợp lý hơn. Cả ngày Tuy Kiềnchỉ có mặt ở nhà vào hai bữa cơm, còn ông ta đạp xe lang thang từ chỗ nuôi cá giống ra đến lò gạch, tạt qua trạm bơm, và dành số lớn thì giờ lượn quanh con mồi béo bở. Anh em công nhân cán bộ công trường thoạt đầu cũng ghét Tuy Kiền, vì lão ta có vẻ bên ngoài đặc biệt ranh ma và hám lợi, nhưng một năm sau họ rất tin yêu ông phó chủ nhiệm, một con người tuy tinh khôn nhưng cũng rất đỗi thơ ngây, tính toán chi ly, nhưng trong quan hệ bạn bè lại hồ hởi, rộng rãi và ông ta có thể làm được tất cả mọi việc miễn sao hoàn thành trách nhiệm của mình.
Chính Tuy Kiền đã nói chuyện với họ một cách thẳng thắn: "Tôi biết các anh chẳng ưa gì tôi, cho tôi là một thằng trục lợi, nhưng tôi không làm giàu cho tôi, mà tôi chỉ biết làm giàu cho hợp tác xã. Tôi không xin xỏ các anh, thuận mua vừa bán, chẳng hạn đối với các anh
thì các thứ ấy chỉ là của vứt đi, nhưng đối với chúng tôi có khi nó... lại là vàng".
"Những của vứt đi" ấy là lá cọ lợp lán nay dỡ ra, vôi, sơn dùng còn lại, cống dẫn nước, xi măng, sắt vụn. Xã viên cứ việc khuân vác mặt hàng đã quy định lên xe bò, còn Tuy Kiền thì tự cho phép mình được tha khẩn khắp mọi xó xỉnh, nhòm ngó, xem xét, xin xỏ từ đôi ủng đã rách mũi, vẹt gót, những chiếc mũ nan đã tuột cạp, cho đến những đoạn dây thép dùng dở, những đầu mẫu gỗ, và ông giải thích cái hành động thiếu đường bệ của mình với mọi người: "Không thừa, không thừa, rồi của nào việc ấy hết!" Để tỏ lòng biết ơn sự rộng rãi của những người phụ trách công trường, thì Tuy Kiền lại mua giúp họ các loại nông sản khan hiếm. Cả đôi bên đều gọi mối quan hệ mua bán ấy bằng một danh từ hết sức đẹp đẽ là: "Liên minh công nông".
Tuy Kiền rất có ý thức về vai trò của mình trong số các ủy viên quản trị khác đến nỗi ông ta đã nghĩ một cách thành thật rằng: "Nếu như không có bàn tay của mình thì bọn họ sẽ xoay xở ra sao nhỉ?"
Bất cứ một cuộc họp nào Tuy Kiền chỉ dự một lúc đầu sau đó ông ta lại biến mất với cái lý do: "Còn phải xoay, ngồi nói suông mà ra tiền được hử?" Bất cứ một dự kiến nào ộng cũng đòi mọi người phải lập tức chấp nhận: "Một đống tiền đấy, còn trù trừ nỗi gì, nếu thua thiệt thằng này xin chịu". Còn như đứa nào tỏ ý phàn nàn, chê trách cách làm ăn của ông phó chủ nhiệm, thì ông ta sẽ dõng dạc tuyên bố: "Tôi xin từ chức, thử xem cái người thay tôi họ sẽ tính toán như thế nào!".
Nhưng một con người đã có bao nhiêu công lao làm giàu cho tập thể, lại được mọi người tín nhiệm, thì cũng có quyền được ghé gẩm chút ít cho riêng mình. Đó là chuyện mua gỗ đầu năm 1963. Có biết bao nhiêu thứ gỗ mà công trường cần bán lại cho hợp tác xã trong thời kỳ bàn giao lại toàn bộ công trình đã xây dựng cho bộ phận sản xuất. Những cột mắc dây điện bằng gỗ hồng sắc (nay được thay thế bằng cột đúc xi măng). Những hòm gỗ thông đựng máy và gạch chịu lửa, những ván cốp pha, những loại gỗ lim, sến không đúng quy cách phải để lại, những cây gỗ bị mối mọt ở bên trong, những bắp gỗ, đầu mẩu đã loại ra làm củi. Đối với nhà máy thì những đống
gỗ lớn, gỗ nhỏ ấy hoàn toàn vô dụng, những đối với anh nông dân thì tất cả lại đều có ích, vì không thể vào cột được thì dùng làm xà, không thể làmmè rui được thì xẻ ra làm kẻ, làm khuôn cửa. Tất nhiên ông phó chủ nhiệmphụ trách ngành nghề phải biết trước mọi người cái nguồn lợi đặc biệt đó, và ông ta đã nhân danh ban quản trị hợp tác xã đến điều đình mua số gỗ nọ làm vật liệu xây dựng trụ sở ban quản trị. Đó cũng là thời kỳ bí thư Đảng ủy xã và hai ông phó chủ nhiệm phụ trách tài vụ và ngành nghề đều đang chuẩn bị gỗ để dựng nhà mới. Hơn ba chục xe bò chở gỗ mua của công trường kéo theo con đường mới mở rộng từ đường cái vào đến trụ sở, và số gỗ được chia làm bốn phần: hai mươi xe để lại ở sân trụ sở là của chung, còn mười xe khác thì chia về ba nhà đã đặt tiền mua trước.
Nhà của Tuy Kiền ở đầu xóm Đông Chấn, cách trụ sở chưa đầy trămthước. Những cán bộ của huyện, của tỉnh, và các cơ quan trên trung ương có việc về xã đều đến nhà Tuy Kiền vì chỗ ở vừa rộng, lại tiện lối đi về. Còn những nhà báo, nhà văn về tìm hiểu phong trào thì không thể rời Tuy Kiền đến nửa bước, vì ở con người ấy có bao nhiêu là cá tính đặc sắc.
Hai tháng trở lại đây, nhà của ông phó chủ nhiệm đã trở thành một công trường nhỏ. Những cây gỗ xoan lẫn với lim, sến để ngổn ngang dọc con đường từ trạm xá đến nhà ở, một giá xẻ gỗ dựng lên ngay cạnh lối đi, và mấy ông thợ đang tíu tít bào đục, đóng các cánh cửa dưới chiếc bóng điện mắc ngay lối ra vào. Trong một ngày Tuy Kiền chỉ có được một khoảng nghỉ ngơi rất ngắn ngủi sau bữa cơm chiều trước giờ họp buổi tối. Ông ta ngồi thu lu trên chiếc ghế dựa đóng rất kiểu cách, nhưng lại mặc chiếc quần vải xanh quá bẩn thỉu, cái áo cánh nâu đã bở rách một bên vai, so với những đồ đạc choáng lộn bày biện trong nhà thì ông chủ chỉ đáng mặt là khách trọ. Nhưng ai mà biết được cái kiêu hãnh thơ ngây trong ý nghĩ của ông ta khi co đôi chân đen nhẻm đầy bụi đất lên mặt ghế quang dầu bóng loáng: "Dù tao có mặc rách rưới như thằng ăn mày thì ra đường tao vẫn là ông phó chủ nhiệm hợp tác xã, về nhà tao vẫn là bố chúng mày". Đó là sự sung sướng, thoải mái của một người cảm thấy mình đang có đầy đủ quyền hành, không bị lệ thuộc vào bất cứ một ai, có thể làm gì cũng được. Ngồi tiếp chuyện với Tuy Kiền là một anh cán bộ của Ty Kiến Trúc, còn rất trẻ
nhưng cố giữ một vẻ mặt nghiêm trang, hơi sầu muộn của người từng trải. Anh ta khoanh hai tay lên trên bàn hết sức trịnh trọng, cái đầu rất đẹp với mớ tóc đen ướt hơi cúi về phía cây đèn, nói nhỏ nhẻ:
- ...Ngay như bà con ở nông thôn ta thích xây sân gạch trước nhà cũng là điều bất lợi. Nắng chiếu vào sân gạch, mặt sân sẽ hắt nóng vào trong nhà. Nếu trước nhà lại là một vườn cây ăn quả chẳng hạn có phải mát mẻ biết bao nhiêu không.
Tuy Kiền đưa một bàn tay lên chống má, thoáng nhìn người nói chuyện qua kẽ ngón, trả lời thủng thẳng:
- Cái khó bó cái khôn đấy thôi, miếng đất ở bằng bàn tay chẳng xây sân trước nhà còn xây chỗ nào.
Anh cán bộ vẫn giảng giải một cách kiên nhẫn cái ý định tốt dẹp của mình:
- Trong thời gian còn công tác ở xã ta, tôi sẽ xin vẽ biếu bác một kiểu nhà thật đẹp. Chỉ cần một gian tiếp khách là đủ, còn sẽ dành hẳn bốn gian làm buồng riêng cho các anh các chị ấy sau này. ở nông thôn ta bố mẹ con cái ăn ở lẫn lộn cùng một chỗ cũng không được tiện lắm.
- Hai vợ chồng già với mấy đứa bé thì không cần phải có buồng riêng rồi - Tuy Kiền quay lại nhìn thẳng vào mặt anh cán bộ, cặp mắt ánh lên cái vẻ riễu cợt - Mới lại chúng tôi có hay ngồi trong nhà như dân tỉnh đâu, lang thang suốt ngày ở ngòai đồng, có về nhà thì cũng tha thẩn làm việc này việc nọ. Này, một cái nhà mà lắm buồng thế thì... như nhà chứa trọ còn gì?
Vừa lúc ấy thì Biền, chủ nhiệm hợp tác xã bước vào, nom anh càng trẻ ra trong chiếc áo sơ mi màu xanh nhạt cụt tay:
- Lại bàn về kiểu nhà phải không. Ông này vớ được anh là tốt duyên lắm đấy!
Biền ngồi xuống bên cạng anh cán bộ của Ty Kiến trúc, anh này hơi xoay người lại, gò má bỗng nhiên đỏ lên.
Tuy mở ngăn kéo ra lấy một nửa gói chè hương, rồi nói vọng sang buồng bên:
- Anh Kiền đặt hộ thầy ấm nước nhé!
Biền hỏi:
- Tối nay ông ở nhà hử?
- Có tối nào được ở nhà. Chốc nữa lại phải xuống họp với anh em lò ngói... Mấy hôm nay tôi đến chết dở về chạy cái khoản dầu cho khuôn máy. Nhưng mà ổn rồi.
Bao giờ nói chuyện với những đồng chí trong ban thường vụ đảng ủy xã, Tuy Kiền cũng phàn nàn về những khó khăn trong công việc của mình, nhưng nhờ tài tháo vát của người phụ trách (tuy ông ta không nói hẳn là thế) nên mọi việc đều đã được giải quyết tốt đẹp. Nhưng cách nghe của ba người trong thường vụ cũng có khác nhau: Mão, chủ tịch xã, đưa cặp mắt đục lờ nhìn ông phó chủ nhiệm phụ trách ngành nghề trong một thoáng, vẻ mặt khinh khỉnh: "Trò hề, nếu không có anh thì sẽ có người khác ra gánh vác công việc đó". Sĩ, bí thư đảng ủy thì chỉ mủm mỉm cười (Tuy thường bảo đó là cái cười nham hiểm), im lặng một lúc lâu, rồi mới nói nhỏ nhẻ: "à, việc gì mà chẳng gặp khó khăn". Chỉ có Biền là biết ve vuốt lòng tự hào của người nói chuyện bằng cái nhìn hết sức thân thiết: "Cảm ơn ông, ông là cánh tay đắc lực của chúng tôi đấy nhé!".
Mỗi lần đến nhà Tuy Kiền, Biền đều cảm thấy ở đây có cái không khí đặc biệt mà các gia đình cán bộ xã khác không thể có: Đó là sự dư dật, thừa thãi, cái không khí làm ăn phát đạt, thịnh vượng. Một hình ảnh vừa khó chịu, vừa hài hước đã in sâu vào ấn tượng của Biền trong một lần anh đến nhà Tuy. Lần đó vào buổi sáng. Vừa len qua những chồng gỗ đang bào dở để ngổn ngang ở ngay lối ra vào, Biền nhìn vào ngách nhà ngang đã thấy các anh thợ mộc và thợ xẻ ngồi quây quanh một cái rá lớn khói bốc nghi ngút. Anh hỏi đùa Tuy:
- Nhà này ăn cơm ba bữa hử?
Tuy chạy vội ra vẻ hốt hoảng:
- Cơm đâu, còn ít ngô chia hôm nọ mỗi sáng đem đồ lên một ít cho anh em lót dạ đấy thôi.
Tuy sới một bát mời Biền, ngô trồng ở bãi mới bẻ, lại pha thêm ít nếp nên vừa dẻo vừa thơm. Đứa con trai út của Tuy Kiền đã lên bảy, nằm tồng ngồng giữa giường lúc ấy vừa ngủ dậy. Nó vẫn nằm, đưa hai chân dài nghêu ngao đập chan chát xuống thang giường, hét ầm ĩ: "Bầm! Bầm đâu
rồi!" lập tức bà mẹ từ dưới bếp tất tả chạy lên, đôi khuyên vàng đeo ở tai lúc la lúc lắc: "Thằng chó con đã dậy đấy hử? Bầm lấy nước con súc miệng nhé!". Trong khi thằng bé ưỡn ẹo, quát tháo, thì cả nhà đã xúmquanh nó, người đưa chén nước, người cầm một bát xôi trắng đầy, van nài, mời mọc: "Em súc miệng đi!", "Súc miệng ăn xôi rồi bầm cõng con đi chơi nhé!" Biền đưa mắt nhìn toàn thể cái cảnh tượng đặc biệt đó, mủmmỉm cười với chính mình: "Phú quý sinh lễ nghĩa, bây giờ lại học đòi cách sống của những nhà đại gia đây!".
Người vợ của Tuy Kiền xách ấm nước đun sôi lên pha vào tích, những chấm lửa còn cháy đỏ ở đít ấm nhấp nháy, trong hơi khói đã phảng phất mùi thơm của hoa nhài. Biền thầm nghĩ một cách thèm muốn: "Nếu mình có được một gói chè ngon thì cũng chẳng thể pha uống một cách nhàn rỗi như ở đây được". Rồi anh hỏi Tuy:
- Nhà này bao giờ thì ông cho dựng?
Tuy Kiền lấy khăn lau thong thả từng cái chén một liếc nhìn Biền, trong bụng đã phân vân: "Thằng này tuy mới ở bộ đội về nhưng cũng tinh khôn chẳng kém gì mình đâu. Nó hỏi vậy chắc là đã có ý gì!".
Ông ta rót một lượt nước, và đã tìm được câu trả lời thích hợp: - à, được mùa thì làm rấn lên, mất mùa thì lại thong thả, việc gì mà vội.
Biền hớp một ngụm nước, nói với anh cán bộ Ty Kiến trúc: - Anh có nhận thấy ông phó chủ nhiệm của chúng tôi làm nhà khác đời không. Nhà dưới làm trước, nhà trên làm sau, cánh cửa đóng trước, khung nhà dựng sau. Đến là ma quái. Tôi thì biết tỏng cái mẹo của ông rồi. Mồm Tuy Kiền hơi há ra như cười, ông ta nhìn Biền hết sức thơ ngây: - Mẹo gì, thế là anh có thành kiến với thằng này rồi nhé - Tuy quay sang phía anh cán bộ phân trần - Sở dĩ phải làm cái bé trước, cái lớn sau cũng là do rút kinh nghiệm làm nhà của ông bí thư đấy thôi. Chẳng là lực mình có hạn, có khi nhà xây gạch, lợp ngói hẳn hoi mà lại chịu không làmđược bộ cửa, vì hết gỗ, hết tiền rồi. Chi bằng làm theo cái cách của tôi tuy có dềnh dàng, nhưng nhà đã dựng lên là lập tức kín ngay.
Rồi Tuy nói tránh sang chuyện khác.
- Ngày anh Sĩ mua gỗ chuẩn bị làm nhà tôi đã đến xem xét một lượt, rồi tôi bảo: "Dựng nhà năm gian mới có từng này gỗ là thiếu đấy!". Anh chàng còn nói kháy tôi: "Tớ hãy còn thừa mấy cây xoan, bên cậu có thiếu tớ để lại". Khốn khổ, dân bộ đội mới về đã biết tính toán chuyện làm ăn là thế nào. Nửa tháng sau tôi mới nhắc: "Định để cho tôi mấy cây đấy!". Lúc ấy mặt ông bí thư mới nhăn lại: "Cánh thợ mộc làm ăn thế nào hóa ra thiếu bét cả". Đấy, làm nhà mà tính toán không chặt chẽ thì có khi phải trả nợ hết đời... Tôi mà là thằng xỏ lá, tôi khuân mẹ nó mấy cây xoan về thì đã làm gì được tôi tốt.
Tuy nghiêng mặt về phía anh cán bộ, nét mặt rạng rỡ hẳn lên vì sự khôn ngoan của mình:
- Anh được cấp trên cử về giúp đỡ anh em chúng tôi, chúng tôi cảm ơn các anh lắm. (Biền nghĩ: lão này đang vui vẻ đến tột bực đây). Cho nên tôi cũng chẳng dám giấu giếm anh điều này. Tôi thì văn hóa rất kém anh ạ, nếu anh bảo tôi đặt lên giấy một con tính cộng chẳng hạn chưa chắc tôi đã làmnổi. Nhưng tính nhẩm thì phải biết - Tuy cười rất to - dù có phải tính toán một lúc hàng trăm khoản, tôi cũng không nhầm bao giờ. - Ông ta lại quay sang Biền- Hôm nọ thằng Bài ra cho tôi một bài tính đố, cái loại tính trẻ con ấy mà, nó đọc vừa xong thì mình đã nghĩ ngay ra đáp số, nhưng đặt con tính rành mạch, thứ tự lên trên giấy thì chịu, cái thằng mất dạy, nó bắt tôi ngồi cắn bút cả một buổi. Trời ơi, tôi chỉ cần ngồi một tiếng, hợp tác xã cũng đã thiệt bao nhiêu là tiền rồi.
Biền khẽ bấu vào tay anh cán bộ Ty Kiến trúc:
- Ông ấy vẫn chưa hở cái ngón chính ra với anh đâu.
Anh kia chỉ mỉm cười e thẹn. Chuyến đi xuống xã đầu tiên của anh đã có những kết quả tốt đẹp, người ta đã yêu mến anh, đối đãi với anh hết sức bình đẳng, coi anh như một cán bộ của xã, lại còn mời anh tham dự vào một câu chuyện thầm kín của bọn họ.
Tuy vừa có vẻ giận dữ, vừa cười cợt:
- Còn ngón nào nữa. Anh đa nghi như Tào Tháo ấy.
Biền cuộn một điếu thuốc rời, cười mủm mỉm:
- Chỉ có lão Sĩ là dại thôi. Bây giờ cả xã này họ đồn nhau là nhà ông Sĩ
to nhất xã, nhưng theo tôi thì nhà ông Tuy Kiền mới to nhất xã. Tuy xoay người trên ghế rồi duỗi một chân ra:
- Bậy! Bậy!
- Lại chẳng phải ư. Nhà ông Tuy chỉ cọc cạch đóng mấy cái cánh cửa, lên ngói cho hai gian nhà dưới, thật là khiêm tốn nhé. Nhưng một lúc nào đó, trong dư luận bớt xôn xao cái chuyện làm nhà của cán bộ chẳng hạn, thì chỉ trong vòng mươi hôm thôi, ông sẽ cho dựng toàn bộ năm gian nhà lên nhanh chóng, gọn ghẽ như có phép tiên vậy. Đến lúc ấy hàng xã mới ngã ngửa ra, nhưng... nhưng "tao đã làm xong tất cả rồi, chúng mày làm gì nổi được tao".
Tuy vụt đứng dậy, kéo cái điếu lại phía mình, lấy mảnh bẹ dừa quét tàn thuốc bám lên bát điếu, nói bằng thứ giọng rất trầm:
- Vậy ông chủ nhiệm bảo tôi là một thằng gian chứ gì. Vì gian nên mới phải dùng mưu mẹo để lừa người chứ sao nữa. Hỏng, hỏng thật đấy! Cũng vì hợp tác xã mà tôi chót mang tiếng là thằng xảo quyệt mất rồi.
Biền lơ đãng nhìn vào điếu thuốc đưa lên ngang mặt, một mẩu tàn trắng xốp rụng xuống mặt bàn. Tuy cầm mảnh giẻ lau với sang, nói làu bàu: - Cơm nhà việc nước đến vợ cũng không thể nhờ giã được cối gạo. Nói có hai anh, nếu tôi chỉ là anh xã viên thường thì còn có thể làm được nhà gạch mười gian kia.
Biền vẫn giữ được nụ cười rất trẻ của anh:
- Cán bộ xã này kể cũng hay thật. Từ ông bí thư trở xuống hễ bị chạmmột tí là đã có thể nổi giận lên, xin thôi công tác được rồi. Như người đi làm mướn cho Nhà nước hay sao ấy...
Tuy cướp lời:
- Làm mướn thật đấy, lại chẳng được đồng công nào, còn biết bao nhiêu những chuyện bực mình khác. Theo tôi cứ đem cột cổ những thằng nói láo lại là êm hết...
- Nhỡ những chuyện họ nói lại có thật thì sao?
- Thì ra đến chính ông chủ nhiệm chũng tin là có tham ô tập thể ư? Nếu vậy thì tội ông còn nặng hơn chúng tôi nhiều.
- Tham ô thì không có nhưng lợi dụng chút ít thì cũng có.
Tuy đã gần như phát cuồng lên:
- Đừng có giở thứ giọng lấp lửng ấy ra nữa. Anh thử vạch mặt những thằng lợi dụng hợp tác xã cho tôi xem nào.
- Cái việc mua gỗ của công trường thì rõ ràng là lợi dụng rồi. Giọng nói của Tuy hơi dịu đi:
- Xã ta mua, các xã khác họ cũng mua, bàn dân thiên hạ đều mua. Còn tôi với anh Sĩ, anh Khuyến mua được mười xe là vì lúc ấy công trường họ cũng bán cho cá nhân, còn sau này họ lại không bán nữa thì đó là quyền của họ. Sao lại đổ lên đầu chúng tôi. Mới lại đổ thế nào được, mua gỗ thì trả tiền, còn hóa đơn đây, công vận chuyển cũng thanh toán với tài vụ hợp tác xã không thiếu một xu... Ai dám thắc mắc nào...
Biền không cười nữa, hai gò má của anh đã hơi ửng đỏ:
- Ông cũng biết đấy, xã viên họ không thiếu tiền, họ chỉ thiếu gỗ thôi. Có đủ gỗ bán thì xóm này lên ít nhất mươi cái nhà mới nữa. Tôi nói thực: nếu ông là xã viên thường, tôi thách ông mua nổi một lúc ba bốn xe gỗ tốt như thế đấy. Những người đứng đắn thì họ phàn nàn rằng chúng mình làmviệc thiếu rành mạch, còn những đứa xấu thì phao tin cán bộ xã lấy tiền công mua gỗ tư, chọn gỗ tốt cho mình, loại gỗ xấu cho hợp tác xã. Ai mà thanh minh cho hết được. Một sự đã không tin thì trăm sự khác cũng không thể hoàn toàn tin. Khi đã mất lòng tin thì có bảo gì nhau cũng khó. Người ta sẽ chán nản, sẽ phân tâm, sẽ tính toán đến chuyện ra, chuyện ở. Người lãnh đạo có muốn nói chuyện với họ cũng ngượng mồm, có đấu tranh với những đứa xấu cũng thiếu kiên quyết. Mối nguy là ở chỗ đó.
Tuy Kiền im lặng một lúc lâu, rồi ông ta thở dài sườn sượt, mắt nhìn đi phía khác, nói lủng bủng:
- Lắm chuyện! Thật lắm chuyện!
Biền đã trở lại bình tĩnh hơn, anh nói bằng cái giọng thì thầm tâm sự: - Hôm nọ tôi ra lò gạch thấy hai bố con ông bủ Sắc đang chọn gạch vỡ, mỗi người cầm một cái dùi sắt gõ cành cạch vào mặt gạch, viên nào chắc thì lấy, viên nào non quẳng ra. Họ xếp lên xe bò từng viên một, đẩy xe đi không lúc lắc một chút nào. Có ba đồng một xe gạch vỡ, thật rẻ, vừa bán vừa cho còn gì. Nhưng xã viên họ mua thì được, còn nếu một anh cán bộ
xã nào đó mà lại vớ được một xe gạch tốt như thế thì hôm nay người ta đã đồn ầm lên rằng chúng ta lợi dụng quyền hành cướp lấy món hời. Ngay đến một việc rất nhỏ nếu không giữ ý thì cũng có thể trở thành tiếng đồn lớn. Như trưa hôm nay tôi đi họp trên tỉnh về, vừa đạp xe đến đầu xóm đã thấy một đám người xúm quanh lấy nong thịt trâu vừa mổ, vòng trong, vòng ngoài, có dễ đến hàng chục bàn tay cùng đặt vào một miếng thịt. Tôi đã xuống xe, định bụng vào mua một miếng, thức ăn đang khem, có ít thịt kho lên cho trẻ ăn cũng được vài bữa. Nhưng nghĩ đi rồi nghĩ lại, lại thôi, vì chỉ cần tôi nói với vào một câu: "Ông Lụng để cho tôi một cân nhé" là lập tức ông lão sẽ chọn một miếng ngon nhất đưa ra. Nhưng nhìn theo miếng thịt ấy sẽ có hàng trăm con mắt, và sau đó sẽ là hàng trăm lời bàn tán xì xào. Miếng thịt không đáng là bao, cũng không cướp giật từ tay người nào, nhưng có thể từ sau lúc tôi cầm cân thịt người ta sẽ nhìn tôi bằng con mắt khác, nghe tôi nói với cái tai khác, nghĩ về tôi với những ý nghĩ khác. Đấy, vị trí của chúng ta khó khăn là thế đấy, cho nên phải có tầm mắt nhìn xa hơn mọi người, đừng để những mối lợi vặt vãnh nó ràng buộc mình.
Có thể Tuy Kiền đã nghe ra, nhưng chẳng nhẽ lại chịu một cách dễ dàng cái thằng kém mình những hơn chục tuổi, mới chân ướt, chân ráo trở về xã lên mặt dạy dỗ mình, bày cách lãnh đạo cho mình, nên ông ta vẫn giữ vẻ mặt khó khăn và trả lời hết sức gay gắt:
- Chẳng phải đến hôm nay tôi mới được biết những chuyện này. Người ta vẫn chửi cạnh tai tôi đấy. Họ còn viết cả gạch non lên tường chuồng tiêu ở trụ sở rằng: "Đ. mẹ thằng Tuy Kiền, mày chết đi để chúng ông được sống". Song tôi lại nghĩ: "Dân không biết công cho mình thì Đảng sẽ biết công của mình" nên tôi vẫn làm việc, làm hết sức mình. Nhưng đến bây giờ thì Đảng cũng nghi ngờ tôi nốt, mọi tội đều đổ lên đầu tôi. Còn các người thì trong sạch. Vậy xin nhường các người cáng đáng lấy việc dân, việc nước, tôi xin rút về - Tuy quay lại, cố giữ một vẻ mặt hoàn toàn lãnh đạm - Ngày mai xin đồng chí chủ nhiệm cắt cử người khác ra phụ trách lò ngói, lò gạch, ban cá, từ rày tôi còn có nhận việc gì tôi chỉ là giống con chó.
Biền nhìn Tuy rồi nhe răng cười, chỉ một chút nữa thì Tuy cũng cười nốt, nhưng ông ta vội vàng cau mặt lại và càng hét to hơn lên:
- Lần này thì dứt khoát, chịu đựng với hợp tác xã như thế là đủ rồi. Tôi không dọa dẫm các anh đâu.
Anh cán bộ nhìn Biền hơi kinh ngạc: "Lại to chuyện đến thế ư?". Nhưng cái nhìn của Biền vẫn hết sức bình thản: "Tính ông ấy vốn thế, kệ ông ta!".
Tối hôm ấy đáng lẽ Tuy Kiền phải ra họp ngoài lò ngói, nhưng sau khi Biền và anh cán bộ của Ty Kiến trúc về rồi, ông sai con nấu một nồi chè đỗ, rồi vừa ăn ông vừa tự khen mình: "Chẳng mấy lúc được rảnh rỗi ngồi ăn bát chè. Kể cũng sướng!". Ăn xong, Tuy Kiền buông màn, vừa dặn contrai, vừa như giao hẹn với tất cả mọi người: "Mai, chúng mày để tao ngủ muộn nghe không!".
Đó là cái tâm trạng đặc biệt của một người đang được khiêu khích kẻ khác (mặc dù họ không có mặt) vì những công lao to lớn của mình, nhưng cũng pha lẫn cả sự hờn dỗi, bực dọc, nghi ngờ, nếu như: "Chúng nó cũng không cần mình nữa thì sao, bao nhiêu đóng góp của mình vậy là bị giũ sạch ư?". Chính vào cái lúc đó, những ngày hoạt động đầy rẫy những khó khăn và bực dọc vừa qua đã trở thành những kỷ niệm xa xôi, nhưng vô cùng đẹp đẽ, gắn bó ruột thịt với cuộc đời của mình, tưởng như rời bỏ nó, không có nó thì người ta không thể sống nổi vì cuộc sống đã mất hết màu sắc, ý vị. "Biền nó nói cũng phải, việc gì mình phải nổi giận với nó. Nhưng thằng ấy nó biết tính mình nó không để ý những chuyện vặt đó đâu". Nhưng giấc ngủ sau một ngày làm việc mệt nhọc đã kéo đến, nên Tuy Kiền không kịp nghĩ ngợi gì nhiều hơn, và chỉ một lúc sau ông ta đã ngáy rất vui vẻ như một người vô tư lự.
Cũng trong đêm ấy Biền chỉ chợp mắt được rất ít mặc dù khi đặt lưng nằm xuống anh cảm thấy mệt mỏi, đau nhức đến từng đốt xương. Từ ngày ở bộ đội về, rất ít đêm Biền được ngủ một giấc đầy đủ, vì vợ chồng anh có những bốn đứa con, suýt soát hơn nhau một tuổi, mà đứa bé nhất mới được có bốn tháng. Ngày nào cũng thế, sau khi đã nạt nộ, quát tháo, dỗ dành bốn đứa con từ lúc ăn cơm chiều cho đến khi lừa được chúng ngủ là vừa vặn đến giờ họp buổi tối. Và gần như đêm nào đi họp về, Biền cũng được nghe tiếng nói đầy lo âu của vợ vọng ra từ bên trong lá màn: "Người cái Hiền
nóng quá bố ạ..." hoặc "Thằng Cầu lại đau bụng đi ỉa đấy!" hoặc "ThằngMinh nó kêu đau tai, thử xem tai nó có sưng không?". Thế là lại tiếp tục cuộc vật lộn âm thầm từ nửa đêm cho tới mờ sáng hôm sau.
Buổi sáng hôm ấy Biền vẫn dậy rất sớm như mọi khi, vì còn có bao nhiêu việc phải làm trước giờ ra trụ sở: giã cối gạo đã xay, sàng từ tối hôm trước, đặt những bó hành mới dỡ lên giàn bếp, nấu nồi cám lợn và luộc ít khoai ăn sáng cho mấy đứa con. Sau khi đã làm xong mọi việc, ăn vội mấy củ khoai, uống hớp nước nóng chuẩn bị đi thì vợ Biền hỏi chồng:
- Có đèo thằng Cầu lên trạm xá hỏi xem cái tay nó có phải chữa thuốc gì không?
- ừ, ừ, nhưng chắc không phải là sai khớp đâu.
- Không sai khớp mà lại sưng to như cái bắp chuối ấy. Rõ khốn khổ. Ra đưa tay cho bố mày xem nào!
- Thôi, để đến chiều vậy, sáng nay còn bao nhiêu là việc. - Lúc nào cũng việc, việc trọng hơn người hử, con mình đẻ ra chứ có là hòn đất nặn lên được đâu.
- ừ, đã bảo đến chiều tôi sẽ đưa nó đi. Sáng nay chót hẹn người ta đến làm việc với mình rồi.
Người vợ không nói thêm gì nữa, Biền nhìn vào trong buồng thấy vợ ngồi quay lưng lại, đầu cúi xuống đứa bé đang cho bú, cái gáy vỏng cao lên mảnh khảnh, cạnh đó là ba đứa nằm chụm đầu lại nhau, đứa kêu đau bụng, đứa kêu nhức tay, còn một đứa thì đang đòi mẹ nó lấy cơm nguội.
Ngày thứ hai và ngày thứ sáu, tại văn phòng của ban quản trị bao giờ cũng chật người. Các đội trưởng đến báo cáo tình hình phân giống của vụ lúa hạ thu và dụng cụ chuẩn bị cho vụ gặt chiêm sắp tới; những người trong ban cá đến thanh toán tiền chuyển cá giống đến các hợp tác xã bạn; xã viên đến mua gạch xin phiếu xuất và trả tiền; và biết bao nhiêu thứ việc linh tinh khác đòi hỏi phải giải quyết.
Biền vừa đạp xe đến cổng trụ sở thì mấy người đang đứng nói chuyện trước cửa văn phòng của ban quản trị nhìn ra, và một người nói to lên: - Ông chủ nhiệm đã đến kia rồi!
Đó là lời chào mở đầu của một ngày làm việc. Một người khoảng ba
chục tuổi rất gầy, nước da xanh tái, mớ tóc trên đầu bù lên, nói với Biền bằng cái giọng não nuột:
- Cái số em lại không gặp may ông ạ. Phen này không khéo phải bù tiền nhà mất.
Biền mời con người bị thua thiệt đó vào ngồi một góc nhà, ba bốn người khác lập tức vây quanh lại. Người kia nhìn Biền thở dài sườn sượt, rồi bắt đầu kể:
- Mọi khi anh em chuyển cá giống lên Yên Bái vẫn trót lọt cả, cước phí tính phân minh không thiếu một xu. Dù có nộp lại ban quản trị nửa số tiền kiếm được thì trong tay cũng vẫn còn năm, sáu chục bạc. Nhưng lần này thì...
Một người giục:
- Thôi vào vấn đề đi. Nó cứ than vãn từ nãy nhưng có ai biết đầu đuôi ra sao đâu.
- ừ, thì cũng phải nói từ gốc đến ngọn chứ. Em với thằng Bài, mỗi thằng gánh sáu nghìn con, toàn cá bốn năm phân cả, cầm cái vợt múc lên ai trông cũng thích. Ông trưởng ty Nông nghiệp Yên Bái đã bảo chúng em đổ cá ra lò rồi, chỉ còn đợi lấy séc chuyển khoản là anh em có thể xuôi tàu ngay chiều hôm ấy. Chẳng ngờ... đúng là tại cái số mình nó không ra sao, bốn, năm năm nay có gặp được điều gì gọi là may mắn, hết vợ chết, đến con chết, lại cháy nhà...
Biền mỉm cười:
- Từ sáng đã hớp ngụm rượu nào chưa đấy?
Anh chàng kia ngoẹo đầu về một bên, cặp mắt đục lờ của anh nhìn mọi người càng thê thảm:
- Tiền đong gạo còn chạy chưa ra, lấy tiền đâu mua rượu. Nhà em hết gạo từ nửa tháng rồi, bác chủ nhiệm ạ. Em có báo cáo với đội, đội lại bảo vẫn thấy bà em xay gạo làm bún, thực tình là xay thuê cho người bà con ở ngoài chợ đấy thôi... Vâng, em xin kể tiếp... Vậy là chúng em vấp phải một ông cán bộ ở trên về, sau mới biết ông ta cấp bộ cũng cao, ở cục... cục gì nhỉ... cục Thủy sản. Em thấy đi cùng với ông ta có dễ đến năm, sáu cậu bảo vệ. Đúng vậy... Vì chỉ có mỗi ông ấy nói chuyện với chúng em, còn những
cậu kia ngồi im cả. Ông ta hỏi giá cá gáy bán tại bờ là bao nhiêu. Em đáp: "Một nghìn cá là mười sáu đồng". Ông ta gật. Vậy là chịu một điểm. Saulại hỏi: "Vậy cá chuyển lên đây giá bán một nghìn là bao nhiêu?" Em trả lời: "Vẫn là mười sáu đồng, nhưng phải chịu thêm tiền cước vận chuyển". Ông ta mời em ngồi cạnh, giọng nói cứ ngọt lịm đi: "Thế tiền cước các anh tính như thế nào?". Trong bụng em đã bực: quan hệ gì đến ông mà ông hỏi vặn vẹo tôi nhiều thế. Nhưng em vẫn giữ được bình tĩnh nhé, vì họ đã ngọt với mình thì mình không thể nói xẵng được: "Tiền cước thì cứ tính đúng như đã qui định trong hợp đồng, chín xu một trăm con một cây số, vậy một vạn con là chín đồng, một cây số". Ông ta xem lại tờ hợp đồng tính toán một lúc rồi nói với ông trưởng ty Nông nghiệp: "Như vậy là những hămnhăm đồng một nghìn cá phải không?" Rồi ông ấy quay lại nói với em: "Tiền cước tính như thế là đúng, nhưng là đối với những người phải chuyển cá bằng đường bộ kia, còn xã Đồng Tiến các anh đi có năm cây số là ra đến ga Tiên Kiên rồi, có phải không, leo lên tàu thì chỉ còn việc móc thúng lên mà ngồi lắc chứ mệt nhọc gì. Vậy mà các anh lại còn tính tiền cước theo giá chín xu một cây số ư, như vậy sao gọi là công bằng được". Rồi ông ta lắc vai em, cười cười: "Không được đâu anh bạn ạ, buôn bán như thế là theo lối cũ đấy! - Người nói chuyện quay sang phía mấy người đứng chung quanh, đôi mắt anh ta lóng lánh hẳn lên - Nhưng mình đâu có chịu, mình cứ cãi: "Ông là ai tôi không biết, tôi cứ biết theo ý ban quản trị chúng tôi thôi. Mới lại hai bên đã có hợp đồng với nhau rồi". Chúng emnói với ông ta đến hết lời, đang cơn tức mà, nhưng họ vẫn ngọt ngào như không. Đến bữa cơm ông ta mời cả hai anh em cùng ngồi ăn, mình từ chối thế nào cũng không được, vừa ăn ông ấy vừa giảng giải: "Của cải của hợp tác xã với của cải Nhà nước xét cho cùng cũng chỉ là một, để hợp tác xã bị thiệt tức là Nhà nước cũng thiệt, mà để Nhà nước bị thiệt thì hợp tác xã cũng thiệt, làm sao cho cả hai bên đều có thể làm giàu được, nhưng đừng có bên nào bớt xén bên nào, như vậy mới gọi là quan hệ hợp tác, tương trợ, có đúng thế không?". Họ đã nói đến mình còn biết trẻ lời ra sao... Ngồi tàu xuôi hai thằng bảo nhau: "Ăn được bữa cơm thì lại bị thiệt mẹ nó hai trăm đồng, bát cơm quá bát yến!".
Biền vừa lắng nghe vừa tự phân tích những ý nghĩ của mình. Chính Biền cũng biết, biết từ đã lâu kia, rằng tiền cước phí vận chuyển cá giống như vậy là không hợp lý. Nhưng chính sự không hợp lý đó đã đem lại bao nhiêu mối lợi cho ngành kinh doanh cá giống. Cán bộ xã cũng thay phiên nhau đi chuyển cá giống bằng đường tàu trong một hai ngày, lấy một số tiền mua công điểm của hợp tác xã và chi tiêu trong gia đình. Lương tâm của một đảng viên đòi hỏi phải thủ tiêu cái lối làm ăn mờ ám đó, nhưng cách tính toán khôn ngoan của một anh nông dân lại muốn trì hoãn, lại muốn kiếm lợi bằng cách đục khoét những sơ hở của các cơ quan Nhà nước. Vả lại đó còn là sự sinh sống của hàng ngàn con người, của chính bản thân mình, nguồn lợi khổng lồ của một hợp tác xã. Ngay đến Mão, chủ tịch xã, một con người có tiếng là thẳng thắn, cương trực cũng đã phải bảo Biền: "Đừng có đưa vấn đề đó ra , xã viên họ sẽ phản đối đấy!" Tất nhiên khi nói câu đó cả hai người đều không dám nhìn thẳng vào mặt nhau, vì chính họ cũng hổ thẹn vì những ý nghĩ không chính đáng của mình.
"Con người gặp những chuyện không may" vừa ra về, những ý nghĩ bực dọc của Biền còn chưa kịp xóa mờ đi thì đồng chí cán bộ cửa hàng Nông thổ sản của huyện đã hiện ra ở khung cửa. Anh ta tiến thẳng đến chỗ Biền, vẻ mặt mừng rỡ, đưa mắt nhìn mọi người:
- Quen cả, xin cứ bắt tay cho vui vẻ. Chào anh, chào bác, chào bủ ạ... Anh ta ngồi ở chiếc ghế đối diện với Biền, cặp mắt tròn xoe đưa đi đưa lại nhanh nhẹn, nói năng rất lưu loát, tự nhiên:
- Quả thật tìm ông chủ nhiệm còn khó hơn tìm đồng chí bí thư huyện ủy. Hôm nọ trên hỏi tôi đã tổng hợp xong số hợp đồng trong huyện chưa, tôi trả lời: chỉ còn chờ có xã Đồng Tiến, vì đồng chí chủ nhiệm đi họp chưa về (nói đến đấy mắt anh ta hơi nhướn lên, một bên cánh mũi nhay nháy như có vẻ: tôi nói dối như thế để giữ uy tín cho xã này đấy nhé!)
Biền trả lời lạnh nhạt:
- Thì đi họp thật đấy thôi, mới về trưa hôm qua.
- Thật à - Anh cán bộ của cửa hàng cười rất hồn nhiên với lấy cái điếu đặt trên đùi mình, mở sáp thuốc, hỏi Biền lơ đãng - Dự kiến đỗ tương ở đây mỗi sào là bao nhiêu?
"""