"Tuyển Tập Các Án Lệ (Do Hội Đồng Thẩm Phán Tòa Án Nhân Dân Tối Cao Công Bố) 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tuyển Tập Các Án Lệ (Do Hội Đồng Thẩm Phán Tòa Án Nhân Dân Tối Cao Công Bố) Ebooks Nhóm Zalo A.6t A TUYEN TAP cAc AN i.E • A ;t :l ; (DO HQI 0ONG THAM PHAN '; A A Af' A Af' TOA AN NHAN DAN TOI CAO CONG BO) Chịu trách nhiệm xuất bản: Q. GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP PHẠM CHÍ THÀNH Chịu trách nhiệm nội dung: ỦY VIÊN HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP - XUẤT BẢN TS. VÕ VĂN BÉ Biên tập nội dung: ThS. VĂN THỊ THANH HƯƠNG TS. HOÀNG MẠNH THẮNG ThS. TRẦN QUỐC THẮNG TRẦN PHAN BÍCH LIỄU Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Đọc sách mẫu: LÊ HÀ LAN HOÀNG MINH TÁM TRẦN QUỐC THẮNG VIỆT HÀ Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 1360-2020/CXBIPH/21-301/CTQG. Số quyết định xuất bản: 5014-QĐ/NXBCTQG, ngày 09/6/2020. Nộp lưu chiểu: tháng 6 năm 2020. Mã số ISBN: 978-604-57-5674-4. Biên mục trên xuất bản phẩm của Thư viện Quốc gia Việt Nam Tuyển tập các án lệ (do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao công bố). - H. : Chính trị Quốc gia, 2019. - 364tr. ; 21cm 1. Pháp luật 2. Toà án 3. Thẩm phán 4. Án lệ 5. Việt Nam 347.5970140264 - dc23 CTK0216p-CIP LỜI NHÀ XUẤT BẢN Án lệ được hiểu là những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về một việc cụ thể được Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố là án lệ để các tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử. Ưu điểm của án lệ là đề cập những vụ việc đã xảy ra trên thực tế nên nó thường phong phú, đa dạng hơn pháp luật thành văn. Án lệ góp phần bổ sung thiếu sót, lấp đi những lỗ hổng của pháp luật thành văn, mặt khác, với sự trợ giúp của án lệ, các vụ việc sẽ giải quyết được nhanh chóng, tiết kiệm thời gian và chi phí. Qua đó, bảo đảm việc áp dụng pháp luật thống nhất trong hoạt động xét xử của Tòa án. Tiêu chí đặt ra để án lệ được áp dụng là bản án đó chứa đựng lập luận để làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu khác nhau; phân tích, giải thích các vấn đề, sự kiện pháp lý và chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng trong một vụ việc cụ thể; có tính chuẩn mực; và có giá trị hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử, bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý như nhau thì phải được giải quyết như nhau. 5 Nhằm cung cấp cho bạn đọc các bản án lệ đã được công bố áp dụng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Tuyển tập các án lệ (do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao công bố), bao gồm 26 án lệ ở các lĩnh vực hình sự, dân sự, hành chính, lao động, hôn nhân và gia đình... được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cho phép áp dụng trong quá trình xét xử. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc. Tháng 8 năm 2019 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT6 1. NGHỊ QUYẾT SỐ 04/2019/NQ-HĐTP NGÀY 18/6/2019 CỦA HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO Về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO Căn cứ Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 24 tháng 11 năm 2014; Căn cứ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật ngày 22 tháng 6 năm 2015; Sau khi có ý kiến thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Tư pháp, QUYẾT NGHỊ: Điều 1. Án lệ Án lệ là những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về một vụ việc cụ thể được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố là án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử. 7 Điều 2. Tiêu chí lựa chọn án lệ Án lệ được lựa chọn phải đáp ứng các tiêu chí sau đây: 1. Có giá trị làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu khác nhau, phân tích, giải thích các vấn đề, sự kiện pháp lý và chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng trong một vụ việc cụ thể hoặc thể hiện lẽ công bằng đối với những vấn đề chưa có điều luật quy định cụ thể; 2. Có tính chuẩn mực; 3. Có giá trị hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử. Điều 3. Đề xuất bản án, quyết định để phát triển thành án lệ 1. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể gửi đề xuất bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án chứa đựng lập luận, phán quyết đáp ứng các tiêu chí hướng dẫn tại Điều 2 của Nghị quyết này cho Tòa án nhân dân tối cao để xem xét, phát triển thành án lệ. 2. Các Tòa án có trách nhiệm tổ chức rà soát, phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án mình chứa đựng lập luận, phán quyết đáp ứng các tiêu chí hướng dẫn tại Điều 2 của Nghị quyết này và gửi cho Tòa án nhân dân tối cao để xem xét, phát triển thành án lệ. Điều 4. Lấy ý kiến đối với bản án, quyết định được đề xuất lựa chọn, phát triển thành án lệ 1. Bản án, quyết định được đề xuất lựa chọn, phát triển8 thành án lệ, nội dung đề xuất là án lệ, dự thảo án lệ phải được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án nhân dân tối cao để các Tòa án, chuyên gia, nhà khoa học, nhà hoạt động thực tiễn, cá nhân, cơ quan, tổ chức quan tâm tham gia ý kiến, trừ trường hợp hướng dẫn tại các điểm b, c và d khoản 2 Điều 6 của Nghị quyết này. Ý kiến góp ý được gửi về Tòa án nhân dân tối cao. Thời gian lấy ý kiến góp ý là 30 ngày kể từ ngày đăng tải. 2. Trên cơ sở kết quả lấy ý kiến rộng rãi đối với các bản án, quyết định được đề xuất lựa chọn, phát triển thành án lệ, nội dung đề xuất là án lệ, dự thảo án lệ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét, quyết định việc lấy ý kiến của Hội đồng tư vấn án lệ. Việc lấy ý kiến của Hội đồng tư vấn án lệ được thực hiện theo hướng dẫn tại khoản 2 và khoản 3 Điều 5 của Nghị quyết này. Điều 5. Hội đồng tư vấn án lệ 1. Hội đồng tư vấn án lệ do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao thành lập gồm có ít nhất 09 thành viên. Chủ tịch Hội đồng là Chủ tịch Hội đồng khoa học Tòa án nhân dân tối cao, 01 Phó Chủ tịch Hội đồng là Phó Chủ tịch Hội đồng khoa học Tòa án nhân dân tối cao, các thành viên khác là đại diện Bộ Tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Liên đoàn Luật sư Việt Nam, đại diện cơ quan, tổ chức có liên quan, các chuyên gia về pháp luật và 01 đại diện lãnh đạo Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học Tòa án nhân dân tối cao (đồng thời là Thư ký Hội đồng). 9 Trường hợp tư vấn án lệ về hình sự thì thành phần của Hội đồng tư vấn án lệ phải có đại diện Cơ quan điều tra của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng hoặc Viện kiểm sát nhân dân tối cao. 2. Hội đồng tư vấn án lệ có trách nhiệm thảo luận cho ý kiến đối với các bản án, quyết định được đề xuất lựa chọn, phát triển thành án lệ, nội dung đề xuất là án lệ, dự thảo án lệ. 3. Việc lấy ý kiến của Hội đồng tư vấn án lệ được thực hiện thông qua phiên họp thảo luận trực tiếp hoặc bằng văn bản. Chủ tịch Hội đồng tư vấn án lệ quyết định phương thức lấy ý kiến của các thành viên Hội đồng và báo cáo Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kết quả tư vấn. Điều 6. Thông qua án lệ 1. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tổ chức phiên họp toàn thể Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để thảo luận, biểu quyết thông qua án lệ. 2. Án lệ được xem xét thông qua khi thuộc một trong các trường hợp sau: a) Được phát triển từ bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án và đã được lấy ý kiến theo hướng dẫn tại Điều 4 và Điều 5 của Nghị quyết này; b) Được Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đề xuất; c) Được Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao đề xuất; d) Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn khi xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. 10 3. Phiên họp Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên tham gia; quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao phải được quá nửa tổng số thành viên Hội đồng Thẩm phán biểu quyết tán thành. 4. Kết quả biểu quyết phải được ghi vào biên bản phiên họp lựa chọn, thông qua án lệ của Hội đồng Thẩm phán và là căn cứ để Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố án lệ. Điều 7. Công bố án lệ 1. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành quyết định công bố án lệ đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua. 2. Nội dung công bố bao gồm: a) Số, tên án lệ; b) Số, tên bản án, quyết định của Tòa án có nội dung được phát triển thành án lệ; c) Tình huống pháp lý, giải pháp pháp lý của án lệ; d) Quy định của pháp luật có liên quan đến án lệ; đ) Từ khóa về những tình huống pháp lý, giải pháp pháp lý trong án lệ; e) Các tình tiết trong vụ án và phán quyết của Tòa án có liên quan đến án lệ; g) Nội dung của án lệ. 3. Án lệ được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án nhân dân tối cao; được gửi cho các Tòa án, các đơn vị 11 thuộc Tòa án nhân dân tối cao và được đưa vào Tuyển tập án lệ để xuất bản. Điều 8. Áp dụng án lệ trong xét xử 1. Án lệ được nghiên cứu, áp dụng trong xét xử sau 30 ngày kể từ ngày công bố. 2. Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ, bảo đảm những vụ việc có tình huống pháp lý tương tự thì phải được giải quyết như nhau. Trường hợp vụ việc có tình huống pháp lý tương tự nhưng Tòa án không áp dụng án lệ thì phải nêu rõ lý do trong bản án, quyết định của Tòa án. 3. Trường hợp Tòa án áp dụng án lệ để giải quyết vụ việc thì số, tên án lệ, tình huống pháp lý, giải pháp pháp lý trong án lệ và tình huống pháp lý của vụ việc đang được giải quyết phải được viện dẫn, phân tích trong phần “Nhận định của Tòa án”; tùy từng trường hợp cụ thể có thể trích dẫn toàn bộ hoặc một phần nội dung của án lệ để làm rõ quan điểm của Tòa án trong việc xét xử, giải quyết vụ việc tương tự. Điều 9. Bãi bỏ án lệ 1. Án lệ đương nhiên bị bãi bỏ trong trường hợp án lệ không còn phù hợp do có sự thay đổi của pháp luật. 2. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xem xét, quyết định việc bãi bỏ án lệ khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Án lệ không còn phù hợp do chuyển biến tình hình;12 b) Bản án, quyết định có nội dung được lựa chọn phát triển thành án lệ đã bị hủy, sửa toàn bộ hoặc phần liên quan đến án lệ. Điều 10. Thủ tục bãi bỏ án lệ 1. Cá nhân, cơ quan, tổ chức, Tòa án kiến nghị với Tòa án nhân dân tối cao xem xét việc bãi bỏ án lệ khi phát hiện án lệ thuộc trường hợp hướng dẫn tại khoản 2 Điều 9 của Nghị quyết này. 2. Tòa án đã hủy, sửa bản án, quyết định thuộc trường hợp hướng dẫn tại điểm b khoản 2 Điều 9 của Nghị quyết này phải gửi báo cáo kèm theo quyết định đã hủy, sửa về Tòa án nhân dân tối cao để xem xét việc bãi bỏ án lệ trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày ban hành quyết định. 3. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được kiến nghị, báo cáo theo hướng dẫn tại khoản 1, khoản 2 Điều này, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tổ chức phiên họp toàn thể Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xem xét việc bãi bỏ án lệ. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao họp biểu quyết thông qua việc bãi bỏ án lệ theo nguyên tắc hướng dẫn tại khoản 3 Điều 6 của Nghị quyết này. Trên cơ sở kết quả biểu quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành thông báo bãi bỏ án lệ, trong đó xác định rõ thời điểm án lệ bị bãi bỏ. Thông báo bãi bỏ án lệ được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án nhân dân tối cao; được gửi cho các Tòa án, các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao. 13 Điều 11. Các biểu mẫu Ban hành kèm theo Nghị quyết này các biểu mẫu sau đây: 1. Mẫu số 01-AL Biên bản phiên họp lựa chọn, thông qua án lệ; 2. Mẫu số 02-AL Quyết định về việc công bố án lệ; 3. Mẫu số 03-AL Thông báo về việc bãi bỏ án lệ. Điều 12. Hiệu lực thi hành 1. Nghị quyết này đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 23 tháng 5 năm 2019 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15 tháng 7 năm 2019. 2. Nghị quyết này thay thế Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP ngày 28 tháng 10 năm 2015 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ. 3. Giao Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học là đơn vị thường trực tham mưu, giúp Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao trong công tác rà soát, lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ. 4. Trong quá trình thực hiện nếu có vướng mắc cần phải giải thích hoặc hướng dẫn bổ sung thì đề nghị phản ánh cho Tòa án nhân dân tối cao để có sự giải thích hoặc hướng dẫn bổ sung kịp thời. TM. HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN CHÁNH ÁN Nguyễn Hòa Bình 14 Mẫu số 01-AL (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP ngày 18 tháng 6 năm 2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao) HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Hà Nội, ngày... tháng... năm 20...... BIÊN BẢN PHIÊN HỌP Lựa chọn, thông qua án lệ - Căn cứ Điều 22 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 24 tháng 11 năm 2014; - Căn cứ Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP ngày 18 tháng 6 năm 2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ. Ngày... tháng... năm...1, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tiến hành phiên họp để lựa chọn, thông qua án lệ. I. Thành phần tham gia phiên họp: - Tham gia phiên họp có...2 thành viên Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. ______________ 1. Ghi ngày, tháng, năm Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tiến hành phiên họp. 2. Ghi số thành viên Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao tham gia phiên họp. 15 - Chủ trì:........................................................................... - Người ghi biên bản:........................................................ II. Nội dung phiên họp:1 ........................................................................................... ........................................................................................... ........................................................................................... III. Kết quả biểu quyết thông qua án lệ:2 Sau khi thảo luận, Hội đồng Thẩm phán đã tiến hành biểu quyết; kết quả như sau: - Số thành viên đồng ý thông qua án lệ:......................... - Số thành viên không đồng ý thông qua án lệ:.............. - Ý kiến khác:.................................................................... Phiên họp kết thúc lúc... giờ... ngày... tháng... năm... CHỦ TRÌ NGƯỜI GHI BIÊN BẢN ______________ 1. Ghi nội dung phát biểu, thảo luận tại phiên họp. 2. Ghi kết quả biểu quyết thông qua đối với từng án lệ. 16 Mẫu số 02-AL (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP ngày 18 tháng 6 năm 2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao) TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Số: /QĐ-CA Hà Nội, ngày ... tháng ... năm 20...... QUYẾT ĐỊNH Về việc công bố án lệ CHÁNH ÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO - Căn cứ Điều 27 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 24 tháng 11 năm 2014; - Căn cứ Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP ngày 18 tháng 6 năm 2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ; - Căn cứ kết quả lựa chọn, biểu quyết thông qua án lệ của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày... tháng... năm..., QUYẾT ĐỊNH: Điều 1. Công bố...1 án lệ đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua (có án lệ kèm theo). ______________ 1. Ghi số lượng án lệ được thông qua. 17 Điều 2. Các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự có trách nhiệm nghiên cứu, áp dụng các án lệ trong xét xử kể từ ngày....................1 Điều 3. Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký. Nơi nhận: - Ủy ban Thường vụ Quốc hội; - Ủy ban Pháp luật của Quốc hội; - Ủy ban Tư pháp của Quốc hội; - Ban Nội chính Trung ương; - Văn phòng Chủ tịch nước; - Văn phòng Chính phủ (02 bản); - Viện kiểm sát nhân dân tối cao; - Bộ Tư pháp; - Bộ Công an; - Liên đoàn Luật sư Việt Nam; - Trung ương Hội luật gia Việt Nam; - Các TAND và TAQS; - Các Thẩm phán TANDTC; - Các đơn vị thuộc TANDTC; - Cổng thông tin điện tử TANDTC; - Lưu: VT, Vụ PC&QLKH (TANDTC). ______________ CHÁNH ÁN 1. Được xác định theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều 8 của Nghị quyết. 18 Mẫu số 03-AL (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP ngày 18 tháng 6 năm 2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao) TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Số: /TB-CA Hà Nội, ngày ... tháng ... năm 20...... THÔNG BÁO Về việc bãi bỏ án lệ CHÁNH ÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO - Căn cứ Điều 27 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 24 tháng 11 năm 2014; - Căn cứ Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP ngày 18 tháng 6 năm 2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ; - Căn cứ kết quả thảo luận, biểu quyết thông qua việc bãi bỏ án lệ của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày... tháng... năm..., THÔNG BÁO: I. Bãi bỏ án lệ sau đây:1 ........................................................................................... ______________ 1. Ghi số, tên án lệ bị bãi bỏ. 19 ........................................................................................... ........................................................................................... II. Án lệ bị bãi bỏ kể từ ngày... tháng... năm..... Nơi nhận: - Ủy ban Thường vụ Quốc hội; - Ủy ban Pháp luật của Quốc hội; - Ủy ban Tư pháp của Quốc hội; - Ban Nội chính Trung ương; - Văn phòng Chủ tịch nước; - Văn phòng Chính phủ (02 bản); - Viện kiểm sát nhân dân tối cao; - Bộ Tư pháp; - Bộ Công an; - Liên đoàn Luật sư Việt Nam; - Trung ương Hội luật gia Việt Nam; - Các TAND và TAQS; - Các Thẩm phán TANDTC; - Các đơn vị thuộc TANDTC; - Cổng thông tin điện tử TANDTC; - Lưu: VT, Vụ PC&QLKH (TANDTC). 20 CHÁNH ÁN ÁN LỆ SỐ 01/2016/AL Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 04/2014/HS-GĐT ngày 16/4/2014 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Giết người” đối với bị cáo: Đồng Xuân P, sinh năm 1975; trú tại nhà số 11/73 phố ĐTH, phường HVT, quận HB, thành phố HP; là công nhân xây dựng; con ông Đồng Xuân C và bà Dương Thị T; bị bắt giam ngày 22/6/2007; Người bị hại: Nguyễn Văn S, sinh năm 1971 (đã chết). Khái quát nội dung của án lệ: Trong vụ án có đồng phạm, nếu chứng minh được ý thức chủ quan của người chủ mưu là chỉ thuê người khác gây thương tích cho người bị hại mà không có ý định tước đoạt tính mạng của họ (người chủ mưu chỉ yêu cầu gây thương tích ở chân, tay của người bị hại mà không yêu cầu tấn công vào các phần trọng yếu của cơ thể có khả năng 21 dẫn đến chết người); người thực hành cũng đã thực hiện theo đúng yêu cầu của người chủ mưu; việc nạn nhân bị chết nằm ngoài ý thức chủ quan của người chủ mưu thì người chủ mưu phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Cố ý gây thương tích” với tình tiết định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người”. Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ: - Điểm m, n khoản 1 Điều 93 của Bộ luật Hình sự năm 1999; - Khoản 3 Điều 104 của Bộ luật Hình sự năm 1999. Từ khóa của án lệ: “Giết người”; “Cố ý gây thương tích”; “Gây tổn hại cho sức khỏe của người khác”; “Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe”; “Thuê người khác gây thương tích”. NỘI DUNG VỤ ÁN Khoảng 15 giờ ngày 21/6/2007, Công an quận LB, thành phố HN nhận được tin báo đã xảy ra vụ án, nạn nhân bị chết tại khu vực đúc dầm bê tông thi công cầu TT thuộc địa phận tổ 12, phường TB, quận LB; nạn nhân là anh Nguyễn Văn S (kỹ sư xây dựng thuộc Công ty cổ phần xây dựng 204 thuộc Tổng công ty xây dựng BĐ). Qua điều tra, xác minh, Công an quận LB đã bắt khẩn cấp Đồng Xuân P. Quá trình Điều tra xác định: anh Nguyễn Văn S và Đồng Xuân P cùng làm việc tại Công ty cổ phần xây dựng 204 22 thuộc Tổng công ty xây dựng BĐ (được giao nhiệm vụ thi công, xây dựng cầu TT). Khoảng tháng 02/2007, P uống rượu say trong giờ làm việc, bị anh S dùng điện thoại di động chụp ảnh, báo cáo lãnh đạo nên P có ý định trả thù anh S. Ngày 14/6/2007, Đồng Xuân P gọi điện thoại cho bạn là Đoàn Đức L sinh năm 1975 (trú tại nhà số 11 C98 khu TC, quận HB, thành phố HP) nói việc mâu thuẫn nêu trên và thuê L đánh trả thù. L nói sẽ giới thiệu người khác thực hiện. Tối ngày 17/6/2007, P từ Hà Nội về Hải Phòng gặp L và bạn của L là Hoàng Ngọc M sinh năm 1982 (còn gọi là Th; trú tại phường SD, quận HB, thành phố HP) kể lại việc mâu thuẫn và thuê L, M đánh anh S, bằng cách dùng dao đâm vào chân, tay nạn nhân để gây thương tích. Đồng Xuân P hỏi giá bao nhiêu, M và L nói tùy nên P đã đưa cho M 1.500.000 đồng. L và M đồng ý. Khoảng 20 giờ ngày 20/6/2007, Hoàng Ngọc M đi cùng N (là bạn Hoàng Ngọc M; không xác định được địa chỉ) lên Hà Nội gặp Đồng Xuân P thống nhất là sẽ đánh anh S vào ngày 21/6/2007; sau đó, P đưa thêm 500.000 đồng để M thuê chỗ ngủ. Đến khoảng 9 giờ ngày 21/6/2007, P dẫn M và N đến đoạn đường anh S sẽ qua để đi họp vào đầu giờ buổi chiều hôm đó; rồi quay về Công ty. Khoảng 11 giờ, Hoàng Ngọc M đến quán nước tại ngã ba quốc lộ 5 - 1B (quán của chị Phạm Thị M) thuê điện thoại di động của chị M gọi điện thoại cho Đồng Xuân P yêu cầu mô tả đặc điểm nhận dạng và thông báo số điện thoại di động của anh S; P đã thực hiện theo yêu cầu của M. Đến khoảng hơn 13 giờ chiều, 23 M lại thuê điện thoại di động của chị M gọi cho P thông báo là đã nhận dạng được anh S và M sẽ thực hiện một mình vì hiện N đã bỏ đi đâu không thông báo lại, Đồng Xuân P đồng ý. Khoảng 14 giờ 16 phút cùng ngày, M đã thuê máy điện thoại di động của chị M gọi điện thoại hẹn gặp anh S tại khu vực đúc dầm bê tông. Khi anh S đến, M đã dùng dao nhọn chuẩn bị từ trước đâm 02 nhát vào mặt sau đùi phải, làm anh S chết. Tại Bản giám định pháp y số 146/PC21-PY ngày 17/7/2007, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố HN kết luận: nạn nhân bị 02 vết thương tại mặt sau đùi phải, vết phía trên xuyên vào cơ đùi 3cm. Vết phía dưới cắt đứt động mạch, tĩnh mạch đùi sau gây chảy mất nhiều máu. Nguyên nhân chết: sốc mất máu cấp không hồi phục do vết thương động mạch. Ngoài ra, trong quá trình điều tra Đồng Xuân P còn khai: ngoài lý do mâu thuẫn giữa bị cáo và anh S, việc thuê đâm anh S còn có nguyên nhân do bị anh Ngô Văn T (là Phó Ban Điều hành dự án cầu TT) kích động, vì trước đó anh T cũng có mâu thuẫn với anh S. Cơ quan điều tra đã lấy lời khai của anh T, nhưng anh T không thừa nhận việc này. Kết quả điều tra không có cơ sở kết luận anh Ngô Văn T có liên quan đến vụ án. Đoàn Đức L và Hoàng Ngọc M bỏ trốn, Cơ quan điều tra đã có quyết định truy nã và quyết định tạm đình chỉ điều tra bị can đối với Đoàn Đức L và Hoàng Ngọc M, khi nào bắt được sẽ xử lý sau. 24 Trong quá trình điều tra, cán bộ và Công ty cổ phần xây dựng 204 đã tự nguyện quyên góp, trợ cấp cho gia đình người bị hại tổng cộng 123.000.000 đồng, trong đó có chi phí mai táng 63.000.000 đồng và 03 sổ Tiết kiệm cho gia đình anh S, với tổng số tiền gửi là 60.000.000 đồng. Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 164/2008/HSST ngày 17/11/2008, Tòa án nhân dân thành phố HN áp dụng điểm n khoản 1 Điều 93; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự; xử phạt Đồng Xuân P 17 năm tù về tội “Giết người”. Buộc Đồng Xuân P bồi thường cho gia đình người bị hại tiền tổn thất tinh thần là 32.400.000 đồng và cấp dưỡng hằng tháng cho 02 con và mẹ người bị hại. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Đồng Xuân P kháng cáo đề nghị xem xét lại vụ án. Đại diện hợp pháp của người bị hại là chị Nguyễn Thị T kháng cáo đề nghị tăng hình phạt, tăng mức bồi thường đối với bị cáo. Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 262/2009/HSPT ngày 05/5/2009, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội căn cứ khoản 1 Điều 250 Bộ luật Tố tụng hình sự, hủy Bản án hình sự sơ thẩm nêu trên để điều tra lại theo thủ tục chung. Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 167/2010/HSST ngày 31/3/2010, Tòa án nhân dân thành phố HN áp dụng điểm n khoản 1 Điều 93; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự; xử phạt Đồng Xuân P 17 năm tù về tội “Giết người”. Buộc Đồng Xuân P bồi thường các khoản gồm: chi phí mai táng 34.583.000 đồng, tiền tổn thất tinh thần cho vợ 25 con người bị hại tổng số là 39.000.000 đồng và cấp dưỡng hằng tháng cho mẹ và con người bị hại. Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 02/4/2010, Đồng Xuân P kháng cáo xin giảm hình phạt và đề nghị xem xét lại vụ án vì chưa bắt được M nên không có đủ căn cứ khẳng định việc M đâm chết anh S. Ngày 13/4/2010, vợ người bị hại là chị Nguyễn Thị T kháng cáo đề nghị tăng hình phạt, tăng mức bồi thường đối với bị cáo. Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 475/2010/HSPT ngày 15/9/2010, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại HN áp dụng các điểm m, n khoản 1 Điều 93; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự; xử phạt Đồng Xuân P tù chung thân về tội “Giết người”; buộc Đồng Xuân P bồi thường tiền bù đắp tổn thất tinh thần là 43.800.000 đồng và giữ nguyên các quyết định khác về bồi thường thiệt hại. Tại Kháng nghị số 13/KN-HS ngày 22/7/2013, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hủy Bản án hình sự phúc thẩm nêu trên về các phần: tội danh, hình phạt và án phí hình sự phúc thẩm đối với Đồng Xuân P; chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại HN để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. 26 Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nhận định: Căn cứ vào các lời khai nhận tội của bị cáo Đồng Xuân P trong quá trình điều tra và tại các phiên tòa sơ thẩm, phiên tòa phúc thẩm; lời khai và kết quả nhận dạng của những người làm chứng về các đối tượng liên quan đến vụ án; Biên bản khám nghiệm hiện trường; Bản giám định pháp y cùng các tài liệu, chứng cứ khác của vụ án; có đủ căn cứ kết luận do mâu thuẫn trong sinh hoạt, Đồng Xuân P đã thuê Hoàng Ngọc M và Đoàn Đức L dùng dao đâm anh Nguyễn Văn S, với mục đích gây thương tích cho nạn nhân để trả thù. Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án; có căn cứ xác định về mặt chủ quan, P chỉ muốn gây thương tích cho anh S mà không muốn tước đoạt tính mạng, cũng không muốn thuê M đâm bừa, đâm ẩu vào anh S để mặc mọi hậu quả xảy ra. Vì thế, bị cáo chỉ yêu cầu tấn công vào chân, tay mà không yêu cầu tấn công vào các phần trọng yếu của cơ thể, là những vị trí nếu bị tấn công thì sẽ có nhiều khả năng xâm hại đến tính mạng nạn nhân. Khi thực hiện tội phạm, M đã đâm 02 nhát đều vào đùi nạn nhân theo đúng yêu cầu của P. Hành vi phạm tội của Hoàng Ngọc M khó thấy trước được hậu quả chết người có thể xảy ra. Việc nạn nhân bị chết do sốc mất máu cấp không hồi phục là ngoài ý muốn của Đồng Xuân P và đồng phạm. Hành vi của Đồng Xuân P thuộc trường hợp phạm tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người, quy định tại khoản 3 Điều 104 Bộ luật Hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm và 27 Tòa án cấp phúc thẩm đã kết án Đồng Xuân P về tội “Giết người” là không đúng pháp luật. Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 285 và Điều 287 Bộ luật Tố tụng hình sự, QUYẾT ĐỊNH 1. Hủy Bản án hình sự phúc thẩm số 475/2010/HSPT ngày 15/9/2010 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội về các phần: tội danh, hình phạt và án phí hình sự phúc thẩm đối với Đồng Xuân P; chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. 2. Tiếp tục tạm giam Đồng Xuân P cho đến khi Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội thụ lý lại vụ án. 3. Các quyết định khác của Bản án hình sự phúc thẩm nêu trên đã có hiệu lực pháp luật. NỘI DUNG ÁN LỆ “Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án; có căn cứ xác định về mặt chủ quan, P chỉ muốn gây thương tích cho anh S mà không muốn tước đoạt tính mạng, cũng không muốn thuê M đâm bừa, đâm ẩu vào anh S để mặc mọi hậu quả xảy ra. Vì thế, bị cáo chỉ yêu cầu tấn công vào chân, tay mà không yêu cầu tấn công vào các phần trọng yếu của cơ thể, là những vị trí nếu bị tấn công thì sẽ có nhiều khả năng xâm hại đến tính mạng nạn nhân. Khi thực hiện tội phạm, M đã đâm 02 nhát đều vào đùi nạn nhân theo đúng 28 yêu cầu của P. Hành vi phạm tội của Hoàng Ngọc M khó thấy trước được hậu quả chết người có thể xảy ra. Việc nạn nhân bị chết do sốc mất máu cấp không hồi phục là ngoài ý muốn của Đồng Xuân P và đồng phạm. Hành vi của Đồng Xuân P thuộc trường hợp phạm tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người, quy định tại khoản 3 Điều 104 Bộ luật Hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã kết án Đồng Xuân P về tội “Giết người “ là không đúng pháp luật”. 29 ÁN LỆ SỐ 02/2016/AL Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 27/2010/DS-GĐT ngày 08/7/2010 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Tranh chấp đòi lại tài sản” tại tỉnh ST giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị T với bị đơn là ông Nguyễn Văn T; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Y. Khái quát nội dung của án lệ: Trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã bỏ tiền ra để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và nhờ người ở trong nước đứng tên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hộ mình, khi giải quyết tranh chấp thì Tòa án phải xem xét và tính công sức bảo quản, giữ gìn, tôn tạo làm tăng giá trị quyền sử dụng đất cho người đứng tên hộ; trường hợp không xác định được chính xác công sức30 của người đó thì cần xác định người thực chất trả tiền để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và người đứng tên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hộ có công sức ngang nhau để chia phần giá trị chênh lệch tăng thêm so với tiền gốc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất ban đầu. Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ: Điều 137 và Điều 235 của Bộ luật Dân sự năm 2005. Từ khóa của án lệ: “Giao dịch dân sự vô hiệu”; “Đòi lại tài sản”; “Căn cứ xác lập quyền sở hữu”; “Xác lập quyền sở hữu đối với lợi tức”; “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài”. NỘI DUNG VỤ ÁN Tại đơn khởi kiện đề ngày 24/01/2005, tờ khai ngày 07/02/2005 và quá trình giải quyết vụ án bà Nguyễn Thị T là nguyên đơn trình bày: Bà T là Việt kiều ở Hà Lan về thăm thân nhân tại Việt Nam và có ý định chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nên ngày 10/8/1993, bà có nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông HT, bà Lý Thị Sà Q diện tích 7.595,7m2 đất ruộng tại phường 7, thị xã ST với giá 21,99 chỉ vàng. Bà là người trực tiếp giao dịch, thỏa thuận việc chuyển nhượng và trả tiền, vàng cho vợ chồng ông HT. Mục đích của bà T là chuyển nhượng đất để giao cho em ruột của bà là ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị Chính E canh tác nuôi cha mẹ của bà và ông T. Do bà là người Việt Nam định cư 31 ở nước ngoài nên bà để cho ông T đứng tên trong giấy tờ sang nhượng. Đồng thời, bà T xuất trình “Tờ sang nhượng đất ruộng” lập ngày 10/8/1993 có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã H. Sau khi nhận chuyển nhượng, bà để cho vợ chồng ông T canh tác, nhưng năm 2004, không được bà đồng ý, ông T đã chuyển nhượng toàn bộ diện tích 7.595,7m2 đất trên cho Công ty trách nhiệm hữu hạn MC với giá trị quyền sử dụng đất là 1.260.000.000 đồng. Vì vậy, bà yêu cầu ông T trả lại số tiền thu được từ việc chuyển nhượng đất của bà. Ông Nguyễn Văn T là bị đơn trình bày: Diện tích 7.595,7m2 đất mà bà T tranh chấp là đất do vợ chồng ông là người bỏ tiền, vàng ra sang nhượng lại của vợ chồng ông HT, ông là người đứng tên trong “Tờ sang nhượng đất ruộng” lập ngày 10/8/1993. Tờ sang nhượng này không có xác nhận của chính quyền địa phương. Nhưng sau đó, ông và vợ chồng ông HT còn ký bản hợp đồng và đơn xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất cùng ngày 11/8/1993, các văn bản này có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã H và của Ủy ban nhân dân huyện MT đồng ý cho chuyển nhượng. Sau khi chuyển nhượng, ông đã đăng ký, kê khai được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 28/5/1994. Do đó, năm 2004, ông chuyển nhượng toàn bộ đất trên cho Công ty trách nhiệm hữu hạn MC với giá trị là 1.260.000.000 đồng. Ông cho rằng “Tờ sang nhượng đất ruộng” lập ngày 10/8/1993, có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã H do bà T xuất trình là giả vì theo Bản kết luận giám định số 2784/C21 (P7) ngày 25/10/2005 của 32 Viện Khoa học Hình sự Tổng cục Cảnh sát thì không phải chữ ký của ông trong tờ sang nhượng đất ruộng do bà T xuất trình. Vì vậy, ông không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của bà T. Bà Nguyễn Thị Y (vợ của ông T) là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày: Năm 1993, vợ chồng bà có chuyển nhượng đất của ông HT. Khi làm thủ tục chuyển nhượng bà không tham gia nhưng bà có đưa tiền, vàng cho ông T trả cho vợ chồng ông HT nên bà cũng không chấp nhận theo yêu cầu của bà Nguyễn Thị T. Vợ chồng ông HT, bà Lý Thị Sà Q (tên gọi khác là Lý Thị Sà V) là người chuyển nhượng đất đều khẳng định bà Nguyễn Thị T trực tiếp thỏa thuận chuyển nhượng, trực tiếp trả 21,99 chỉ vàng cho ông, bà và bà T để cho ông T đứng tên giùm trong tờ sang nhượng đất ruộng lập ngày 10/8/1993; chữ ký trong tờ sang nhượng đất ruộng do bà T xuất trình đúng là chữ ký của ông, bà. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2006/DS-ST ngày 28/4/2006, Tòa án nhân dân tỉnh ST quyết định: Chấp nhận một phần yêu cầu của bà Nguyễn Thị T về việc đòi lại tiền chuyển nhượng đất. Buộc vợ chồng ông Nguyễn Văn T, bà Nguyễn Thị Y phải có trách nhiệm hoàn trả cho bà Nguyễn Thị T 630.000.000 đồng. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, chi phí giám định và tuyên quyền kháng cáo cho các đương sự theo quy định của pháp luật. 33 Ngày 10/5/2006, ông Nguyễn Văn T kháng cáo cho rằng bà T không phải là người có quyền sử dụng phần đất mà ông đã chuyển nhượng cho Công ty trách nhiệm hữu hạn MC nhưng Tòa án cấp sơ thẩm buộc ông thanh toán cho bà T 630.000.000 đồng là không đúng. Ngày 12/5/2006, ông Nguyễn Hữu P (đại diện cho bà Nguyễn Thị T) kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử buộc ông T trả lại toàn bộ số tiền mà ông T đã chuyển nhượng đất là 1.260.000.000 đồng cho bà T. Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 334/2006/DS-PT ngày 25/8/2006, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh quyết định: bác yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn và bị đơn, sửa Bản án sơ thẩm như sau: Chấp nhận một phần yêu cầu của bà Nguyễn Thị T về việc đòi lại tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Buộc ông Nguyễn Văn T, bà Nguyễn Thị Y có trách nhiệm hoàn trả cho bà Nguyễn Thị Thảnh số tiền 27.047.700 đồng tương đương 21,99 chỉ vàng 24k. Buộc vợ chồng ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị Y phải nộp lại số tiền 1.232.266.860 đồng để sung công quỹ Nhà nước. Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí. Sau xét xử phúc thẩm, ông Nguyễn Văn T khiếu nại Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên. Tại Quyết định số 449/2009/KN-DS ngày 21/8/2009, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Bản án dân sự phúc thẩm số 334/2006/DS-PT ngày 25/8/2006 của 34 Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, hủy Bản án phúc thẩm nêu trên và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2006/DS-ST ngày 28/4/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh ST; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh ST xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật, với nhận định: “Bà Nguyễn Thị T khởi kiện đòi lại tài sản đối với ông Nguyễn Văn T và cho rằng do bà là người Việt Nam định cư ở nước ngoài nên bà có nhờ ông T (em của bà) đứng tên nhận chuyển nhượng đất của vợ chồng ông HT giùm cho bà nhưng sau đó ông T đã chuyển nhượng đất của bà cho người khác. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định ông T chỉ đứng tên nhận chuyển nhượng đất của vợ chồng ông HT giùm cho bà T là có căn cứ. Do bà T là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, nên bà T không được giao đất mà chỉ được trả lại phần giá trị đầu tư tiền chuyển nhượng đất. Đối với chênh lệch giá trị đất, thời điểm xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm là thời điểm thi hành Bộ luật Dân sự năm 2005, không có quy định buộc phải tịch thu sung công quỹ nên khoản chênh lệch này bà T và ông T cùng được hưởng. Tòa án cấp sơ thẩm không buộc ông T nộp số tiền chênh lệch giá trị đất để sung công là có căn cứ nhưng không buộc ông T trả cho bà T giá trị đầu tư ban đầu là không đúng. Tòa án cấp phúc thẩm không đưa ra được căn cứ pháp luật nhưng đã buộc ông T nộp toàn bộ số tiền 35 chênh lệch (1.232.226.860 đồng) để sung công quỹ Nhà nước là không đúng quy định, của pháp luật”. Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao hủy Bản án phúc thẩm nêu trên và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2006/DS-ST ngày 28/4/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh ST; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh ST xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nhận định: Bà Nguyễn Thị T khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Văn T trả lại cho bà 1.260.000.000 đồng vì cho rằng bà là người trực tiếp giao dịch, trả tiền nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông HT 7.595,7m2 đất, nhưng vì bà là người Việt Nam định cư ở nước ngoài nên nhờ ông T (em của bà) đứng tên, nhưng không được bà đồng ý ông T đã chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất cho Công ty trách nhiệm hữu hạn MC để nhận 1.260.000.000 đồng. Ông T cho rằng ông là người thỏa thuận chuyển nhượng đất và trả tiền cho ông HT, nên giấy tờ chuyển nhượng đất ông đứng tên. Sau khi nhận chuyển nhượng ông trực tiếp quản lý sử dụng, đăng ký kê khai, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và khi ông chuyển nhượng cho Công ty trách nhiệm hữu hạn MC được chính quyền cho phép, nên ông không chấp nhận yêu cầu của bà T. 36 Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án vợ chồng ông T có nhiều lời khai mâu thuẫn về số tiền, vàng đã trả cho ông HT và ông cũng không chứng minh được nguồn gốc nguồn tiền vàng mà ông cho rằng đã trả cho ông HT. Trong khi đó vợ chồng ông T, bà Q khẳng định chỉ thỏa thuận chuyển nhượng đất và nhận vàng của bà T còn việc viết giấy chuyển nhượng đất đứng tên ông T là theo yêu cầu của bà T, vì bà T đang định cư ở nước ngoài. Theo lời khai của cụ Thái Thị B, ông Nguyễn Phước H, bà Nguyễn Thị Chính E (là mẹ và anh chị em ruột của bà T, ông T) thì bà T giao dịch, trả tiền chuyển nhượng đất cho vợ chồng ông HT, còn ông T chỉ là người đứng tên giùm. Tổng hợp các chứng cứ nêu trên có cơ sở khẳng định Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định bà T là người bỏ toàn bộ số tiền là 21,99 chỉ vàng để nhận chuyển nhượng diện tích trên, còn ông T chỉ là người đứng tên giùm. Do ông T đã chuyển nhượng đất trên cho Công ty trách nhiệm hữu hạn MC và bà T chỉ yêu cầu ông T trả lại số tiền đã chuyển nhượng là 1.260.000.000 đồng nên Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm thụ lý giải quyết là đúng quy định của pháp luật. Tuy bà T là người bỏ 21,99 chỉ vàng để chuyển nhượng đất (tương đương khoảng 27.047.700 đồng). Nhưng giấy tờ chuyển nhượng đứng tên ông T và sau khi nhận chuyển nhượng, ông T quản lý đất, sau đó chuyển nhượng cho người khác. Như vậy, lẽ ra phải xác định ông T có công sức trong việc bảo quản, giữ gìn, tôn tạo làm tăng giá trị đất nên phải xác định số tiền trên (sau khi trừ tiền gốc tương 37 đương 21,99 chỉ vàng của bà T) là lợi nhuận chung của bà T và ông T. Đồng thời xác định công sức của ông T để chia cho ông T một phần tương ứng với công sức của ông mới đúng và đảm bảo quyền lợi của các đương sự (trường hợp không xác định được chính xác công sức của ông T thì phải xác định bà T, ông T có công sức ngang nhau để chia). Tòa án cấp sơ thẩm công nhận bà T, ông T mỗi người có quyền sở hữu 1/2 số tiền trên nhưng không trích trả cho bà T số tiền tương ứng với 21,99 chỉ vàng là không đúng. Tòa án cấp phúc thẩm chỉ công nhận bà T có quyền sở hữu số tiền tương ứng với 21,99 chỉ vàng, còn lợi nhuận là số tiền còn lại tịch thu sung công quỹ nhà nước là không đúng với quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, không đảm bảo quyền lợi của các đương sự. Ngoài ra, bà T khởi kiện yêu cầu ông T trả cho bà 1.260.000.000 đồng là số tiền ông T chuyển nhượng giá trị quyền sử dụng 7.595,7m2 đất, mà không tranh chấp quyền sử dụng đất, còn ông T cho rằng số tiền trên là của ông. Như vậy, các đương sự tranh chấp quyền sở hữu tài sản là số tiền nêu trên. Nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm lại xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp đòi lại tài sản” là không chính xác. Bởi các lẽ trên, căn cứ khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật Tố tụng dân sự; QUYẾT ĐỊNH 1- Hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 334/2006/DSPT ngày 25/8/2006 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao 38 tại Thành phố Hồ Chí Minh và Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2006/DS-ST ngày 28/4/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh ST về vụ án tranh chấp đòi lại tài sản giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị T với bị đơn là ông Nguyễn Văn T; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Y. 2- Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh ST để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. NỘI DUNG ÁN LỆ “Tuy bà T là người bỏ 21,99 chỉ vàng để chuyển nhượng đất (tương đương khoảng 27.047.700 đồng). Nhưng giấy tờ chuyển nhượng đứng tên ông T và sau khi nhận chuyển nhượng ông T quản lý đất, sau đó chuyển nhượng cho người khác. Như vậy, lẽ ra phải xác định ông T có công sức trong việc bảo quản, giữ gìn, tôn tạo làm tăng giá trị đất nên phải xác định số tiền trên (sau khi trừ tiền gốc tương đương 21,99 chỉ vàng của bà T) là lợi nhuận chung của bà T và ông T. Đồng thời, xác định công sức của ông T để chia cho ông T một phần tương ứng với công sức của ông mới đúng và đảm bảo quyền lợi của các đương sự (trường hợp không xác định được chính xác công sức của ông T thì phải xác định bà T, ông T có công sức ngang nhau để chia)”. 39 ÁN LỆ SỐ 03/2016/AL Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 208/2013/DS-GĐT ngày 03/5/2013 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Ly hôn” tại Hà Nội giữa nguyên đơn là chị Đỗ Thị H với bị đơn là anh Phạm Gia N; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Phạm Gia P, bà Phùng Thị T, anh Phạm Gia Ơ, chị Phạm Thị L, anh Bùi Văn Đ, chị Đỗ Thị Ngọc H. Khái quát nội dung của án lệ: Trường hợp cha mẹ đã cho vợ chồng người con một diện tích đất và vợ chồng người con đã xây dựng, nhà kiên cố trên diện tích đất đó để làm nơi ở, khi vợ chồng người con xây dựng nhà thì cha mẹ và những người khác trong gia đình không có ý kiến phản đối gì; vợ chồng người con đã sử dụng nhà, đất liên tục, công khai, ổn định và đã tiến hành việc kê khai đất, được cấp giấy chứng nhận quyền sử 40 dụng đất thì phải xác định vợ chồng người con đã được tặng cho quyền sử dụng đất. Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ: - Điều 14 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986; - Điều 242 của Bộ luật Dân sự năm 1995; - Khoản 2 Điều 176 của Bộ luật Dân sự năm 1995. Từ khóa của án lệ: “Ly hôn”; “Tài sản chung của vợ chồng”; “Tặng cho tài sản”; “Căn cứ xác lập quyền sở hữu”; “Xác lập quyền sở hữu theo thỏa thuận”. NỘI DUNG VỤ ÁN Chị Đỗ Thị H và anh Phạm Gia N kết hôn năm 1992, có đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, thành phố HN. Sau chung sống một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, hai vợ chồng sống ly thân từ tháng 9 năm 2008 đến nay. Ngày 18/4/2009, chị H khởi kiện xin ly hôn anh N, anh N cũng đồng ý. Về con chung: Vợ chồng có hai con là Phạm Gia K, sinh năm 1992 và Phạm Hương G, sinh năm 2000. Chị H và anh N đều có nguyện vọng nuôi cả hai con và không yêu cầu người còn lại đóng góp nuôi con. Nguyện vọng của cháu K là muốn ở với anh N, nguyện vọng của cháu G là muốn ở với chị H. Về tài sản: Trong quá trình chung sống thì vợ chồng có xây nhà hai tầng vào năm 2002 (năm 2005 xây thêm một 41 tum để chống nóng), nhà được xây trên thửa đất 80m2 tại xóm H, xã T, huyện T. Về nhà, vợ chồng thống nhất là tài sản chung hai vợ chồng. Riêng về đất thì các bên không thống nhất được với nhau. Theo chị H: Đất là của gia đình ông Phạm Gia P (bố đẻ anh N) được cấp đất giãn dân năm 1992, sau đó gia đình ông P đã họp và tuyên bố cho vợ chồng chị diện tích đất, không làm giấy tờ. Năm 2001, ông P sang báo và anh N đi làm thủ tục cấp sổ đỏ nên đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên hộ anh Phạm Gia N nên đất này là tài sản chung của vợ chồng. Chị yêu cầu được sử dụng nhà và đất nêu trên và thanh toán 1/2 giá trị đất và tài sản trên đất cho anh N như giá mà Hội đồng định giá đã đưa ra. Theo anh N: Thửa đất này bố mẹ anh được cấp giãn dân năm 1992, bố mẹ chỉ cho vợ chồng ở nhờ chứ chưa cho vì gia đình anh còn đông anh em. Năm 2001, anh tự kê khai làm giấy tờ đất, gia đình anh không biết. Quan Điểm của anh là trả lại đất cho ông P. Theo ông P và bà T (bố mẹ anh N): Nguồn gốc đất là của ông được Ủy ban nhân dân xã T cấp đất giãn dân năm 1992, ông có xây một căn nhà cấp 4 trên đó. Năm 1993, gia đình ông cho vợ chồng anh N, chị H ra đó làm ăn sinh sống chứ không cho đất vì vợ ông bị liệt 15 năm nay, ông và anh Ơ (em trai anh N) phải chăm sóc, nguyện vọng của gia đình là để mảnh đất này cho anh Ơ vì anh Ơ chưa có chỗ ở. Khi gia đình được cấp đất giãn dân thì gia đình chỉ có 4 người là ông, bà T, chị L, anh Ơ (còn anh N đã thoát ly 42 khỏi địa phương). Khi chị H xin ly hôn anh N thì gia đình mới biết anh N đã tự động sang tên đất từ năm 2001. Nay ông, bà yêu cầu anh N, chị H trả lại đất cho ông, bà. Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ án, chị H còn khai anh N được trường Cán bộ Sỹ quan Lục quân I cấp một thửa đất có diện tích 125m2 ở huyện T, ban đầu chị yêu cầu chia thửa đất này nhưng sau đó chị không yêu cầu giải quyết nữa. Về nợ: Theo chị H, vợ chồng vay của bà Hoàng Thị C (mẹ chị) 7,5 chỉ vàng 9999, vay của chị Đỗ Thị Ngọc H (chị gái chị) 1 cây vàng 9999, vay của anh Bùi Văn Đ 150.000.000 đồng, lãi suất 1,25%/tháng, tất cả các khoản vay này đều không có giấy tờ. Chị yêu cầu anh N phải cùng chị thanh toán các Khoản nợ trên. Theo anh N, vợ chồng chỉ nợ bà C 7,5 chỉ vàng, anh đã trả được 13.875.000 đồng (tương đương 3,75 chỉ vàng). Còn các khoản vay khác anh không biết, anh không đồng ý trả theo yêu cầu của chị H. Ngày 03/11/2010, Hội đồng định giá đã định giá tài sản như sau: Đất: 80m2 x 22.000.000 đồng/m2 = 1.760.000.000 đồng. Nhà: 475.865.000 đồng. Tổng giá trị tài sản là: 2.235.865.000 đồng. Tại Bản án sơ thẩm số 03/2011/HNGĐ-ST ngày 17/5/2011, Tòa án nhân dân huyện T, thành phố HN đã quyết định: 1. Về quan hệ vợ chồng: Chị Đỗ Thị H được ly hôn anh Phạm Gia N. 43 2. Về con chung: Giao cháu Phạm Hương G, sinh ngày 14/8/2000 cho chị H nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành. Tạm hoãn việc đóng góp phí tổn nuôi con chung cho anh N đến khi chị H có yêu cầu. Anh N có quyền đi lại thăm hỏi con chung, không ai được ngăn cản. 3. Tài sản chung, công sức đóng góp: Xác nhận ngôi nhà hai tầng 1 tum và toàn bộ công trình trên thửa đất số 63 tờ bản đồ số 5 ở xóm H, xã T, huyện T, thành phố HN là tài sản chung của chị Đỗ Thị H và anh Phạm Gia N có giá trị 475.865.000 đồng. 4. Xác nhận quyền sử dụng đất 80m2 đất thửa số 63 tờ bản đồ số 5 ở xóm H, xã T, huyện T, thành phố HN thuộc hộ gia đình ông Phạm Gia P. Buộc chị Đỗ Thị H và anh Phạm Gia N phải trả lại cho hộ gia đình ông Phạm Gia P quyền sử dụng 80m2 đất thửa số 63 tờ bản đồ số 5 ở xóm H, xã T, huyện T, thành phố HN. Giao hộ gia đình ông Phạm Gia P được quyền sở hữu toàn bộ tài sản trên thửa đất này gồm nhà hai tầng và công trình trên đất. Buộc ông Phạm Gia P phải thanh toán trả chị Đỗ Thị H và anh Phạm Gia N mỗi người 237.932.500 đồng. 5. Kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện T thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U060645 cấp ngày 21/12/2001, mang tên hộ ông Phạm Gia N để làm thủ tục cấp lại cho ông Phạm Gia P khi ông P có yêu cầu. 6. Ghi nhận sự tự nguyện của anh Phạm Gia N hỗ trợ chị Đỗ Thị H số tiền là 800.000.000 đồng. 7. Buộc chị Đỗ Thị H phải thanh toán trả cho anh Bùi Văn Đ số tiền là 179.820.000 đồng. 44 8. Bác các yêu cầu khác của chị Đỗ Thị H. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo. Ngày 19/5/2011, chị H có đơn kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm. Ngày 24/5/2011, anh N kháng cáo không đồng ý hỗ trợ chị H 800.000.000 đồng tạo dựng chỗ ở mới. Nhưng tại phiên tòa phúc thẩm anh N rút yêu cầu kháng cáo này. Tại Bản án phúc thẩm số 105/2011/LHPT ngày 30/8/2011 và ngày 06/9/2011 Tòa án nhân dân thành phố HN đã quyết định: Giữ nguyên Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 03/2011/HNGĐ-ST ngày 17/5/2011 của Tòa án nhân dân huyện T, thành phố HN (như đã nêu ở trên). Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn tuyên về án phí. Sau khi xét xử phúc thẩm, chị H và bà Hoàng Thị C có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án phúc thẩm nêu trên. Tại Quyết định kháng nghị số 05/2013/KN-HNGĐ-LĐ ngày 03/01/2013, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị đối với Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 105/2011/LHPT ngày 30/8/2011 và 06/9/2011 của Tòa án nhân dân thành phố HN. Đề nghị Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng: hủy Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm nêu trên và Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 03/2011/HNGĐ-ST ngày 17/5/2011 của Tòa án nhân dân huyện T, thành phố HN về phần quan hệ tài sản; giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân 45 huyện T, thành phố HN xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng đối với đất tranh chấp, khi cấp đất giãn dân cho gia đình ông P thì không có anh N, không có căn cứ cho rằng bố mẹ đã cho vợ chồng anh N nên đất vẫn là của gia đình ông P. Tòa án hai cấp xác định đất là của bố mẹ anh N là có căn cứ. Có sai phần nợ của bà C. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Hội đồng giám đốc thẩm Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao nhận định: Về quan hệ hôn nhân và con chung, Tòa án các cấp đã giải quyết, các đương sự không có khiếu nại. Về quan hệ tài sản: Tài sản mà các đương sự tranh chấp là diện tích đất 80m2 tại xóm H, xã T, huyện T, thành phố HN mang tên hộ anh Phạm Gia N. Hồ sơ thể hiện nguồn gốc diện tích đất nêu trên là của ông Phạm Gia P được Ủy ban nhân dân xã T, huyện T cấp đất giãn dân vào năm 1992. Căn cứ Biên bản bàn giao đất của Ủy ban nhân dân xã cho ông P thì thời Điểm có biên bản giao đất này chị H đã kết hôn với anh N. Tuy nhiên, theo xác minh của Tòa án cấp sơ thẩm tại xã T, huyện T về thủ tục cấp đất thì xã T đã có chủ trương cấp đất giãn dân từ năm 1991. Dù khi làm thủ tục cấp đất, gia đình ông P chỉ có 4 người là ông P, bà T, chị L, anh Ơ (vì thời điểm này anh N đi bộ đội chưa về địa phương), nhưng việc cấp 46 đất giãn dân là cấp đất cho hộ đông người, cấp cho vợ chồng ông P và các con, nên anh N cũng là đối tượng được cấp đất. Sau khi nhận đất, gia đình ông P đã xây dựng một căn nhà cấp 4. Năm 1993, gia đình ông P cho vợ chồng anh N chị H ra ở riêng trên diện tích đất này và anh chị là người quản lý, sử dụng đất liên tục từ đó cho đến nay. Chị H cho rằng gia đình ông P đã tuyên bố cho vợ chồng chị diện tích đất nêu trên, ông P và anh N khẳng định gia đình chưa cho vợ chồng chị. Xét thấy: Theo xác minh tại Ủy ban nhân dân xã T thì năm 2001, xã tổ chức cho các hộ dân trong xã T đăng ký kê khai để xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng và các hộ kê khai tại trụ sở thôn xóm (bút lục 103). Tất cả các hộ dân trong xã đều được biết về chủ trương kê khai đất này. Ông P là chủ đất nhưng không đi kê khai. Anh N đang ở trên đất và là người đi kê khai làm thủ tục cấp giấy chứng nhận. Ngày 21/12/2001, anh N được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U060645 đứng tên hộ ông Phạm Gia N. Vợ chồng anh chị đã xây nhà 2 tầng kiên cố vào năm 2002 và đến năm 2005 thì xây thêm tum tầng 3. Ông P và các anh chị em trong gia đình anh N đều biết việc xây dựng trên của vợ chồng anh N chị H, nhưng cũng không ai có ý kiến gì. Như vậy, từ khi được cấp giấy chứng nhận (2001) cho đến khi có việc ly hôn của anh N, chị H (2009), gia đình ông P cũng không ai có khiếu nại gì về việc cấp đất, xây nhà này. Điều đó thể hiện ý chí của gia đình ông P là đã cho anh N và chị H diện tích đất nêu trên. Do đó, việc ông P và anh N khai rằng anh N tự ý kê khai giấy tờ đất, ông P 47 không biết là không có cơ sở chấp nhận. Như vậy, có căn cứ xác định lời khai của chị H về việc gia đình ông P đã cho anh chị diện tích đất trên, là có cơ sở. Do đó, việc Tòa án các cấp nhận định rằng anh N đi làm giấy tờ đất ông P không biết và việc chị H khai gia đình chồng đã cho vợ chồng nhưng không có chứng cứ chứng minh, để xác định diện tích đất 80m2 tại thôn H, xã T, huyện T, thành phố HN là tài sản thuộc hộ gia đình ông Phạm Gia P; đồng thời, buộc anh N, chị H trả lại đất cho gia đình ông P, là không đúng. Cần phải xác định diện tích đất tranh chấp trên là tài sản chung của vợ chồng anh N, chị H và khi chia phải coi anh N có công sức đóng góp nhiều hơn để chia theo công sức của mỗi bên và cần phải căn cứ vào nhu cầu về chỗ ở để chia hiện vật cho các bên nhằm đảm bảo quyền lợi cho các đương sự. Đối với nội dung khiếu nại của bà Hoàng Thị C (mẹ đẻ chị H), thấy rằng: Ngày 07/5/2011 (trước ngày xét xử sơ thẩm), bà C đã có đơn gửi Tòa án nhân dân huyện T, nội dung: “Hôm nay là ngày 07/5/2011, tôi đã nhận được số tiền các cháu trả tôi. Tôi không đề nghị Tòa án giải quyết nữa”. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên sung công quỹ đối với số tiền tạm ứng án phí của bà C (200.000 đồng), nhưng không tuyên đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu đòi nợ của bà C, là trái với quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tuy nhiên, sau khi xét xử sơ thẩm, bà C không kháng cáo và Viện kiểm sát không kháng nghị, do đó Hội đồng xét xử phúc thẩm đã căn cứ Điều 263 Bộ luật Tố tụng dân sự chỉ xem xét lại phần của bản án, quyết 48 định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị, nên kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đối với nội dung trên là không cần thiết. Do đó, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét thấy kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đối với phần tài sản tranh chấp của anh N, chị H (là 80m2 đất tại xóm H, xã T, huyện T, thành phố HN), là có căn cứ chấp nhận. Vì các lẽ trên, căn cứ khoản 2 Điều 291; Khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật Tố tụng dân sự; QUYẾT ĐỊNH Hủy Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 105/2011/LH-PT ngày 30/8/2011 và ngày 06/9/2011 của Tòa án nhân dân thành phố HN và Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 03/2011/HNGĐST ngày 17/5/2011 của Tòa án nhân dân huyện T, thành phố HN về phần quan hệ tài sản, đã giải quyết vụ án “Ly hôn” giữa nguyên đơn là chị Đỗ Thị H và bị đơn là anh Phạm Gia N; Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện T, thành phố HN xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật. NỘI DUNG ÁN LỆ “Theo xác minh tại Ủy ban nhân dân xã T thì năm 2001 xã tổ chức cho các hộ dân trong xã T đăng ký kê khai để xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng và các hộ kê khai 49 tại trụ sở thôn xóm (bút lục 103). Tất cả các hộ dân trong xã đều được biết về chủ trương kê khai đất này. Ông P là chủ đất nhưng không đi kê khai. Anh N đang ở trên đất và là người đi kê khai làm thủ tục cấp giấy chứng nhận. Ngày 21/12/2001, anh N được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U060645 đứng tên hộ ông Phạm Gia N. Vợ chồng anh chị đã xây nhà 2 tầng kiên cố vào năm 2002 và đến năm 2005 thì xây thêm tum tầng 3. Ông P và các anh chị em trong gia đình anh N đều biết việc xây dựng trên của vợ chồng anh N chị H, nhưng cũng không ai có ý kiến gì. Như vậy, từ khi được cấp giấy chứng nhận (2001) cho đến khi có việc ly hôn của anh N, chị H (2009), gia đình ông P cũng không ai có khiếu nại gì về việc cấp đất, xây nhà này. Điều đó thể hiện ý chí của gia đình ông P là đã cho anh N và chị H diện tích đất nêu trên. Do đó, việc ông P và anh N khai rằng anh N tự ý kê khai giấy tờ đất, ông P không biết là không có cơ sở chấp nhận. Như vậy, có căn cứ xác định lời khai của chị H về việc gia đình ông P đã cho anh chị diện tích đất trên, là có cơ sở. Do đó, việc Tòa án các cấp nhận định rằng anh N đi làm giấy tờ đất ông P không biết và việc chị H khai gia đình chồng đã cho vợ chồng nhưng không có chứng cứ chứng minh, để xác định diện tích đất 80m2 tại thôn H, xã T, huyện T, thành phố HN là tài sản thuộc hộ gia đình ông Phạm Gia P; đồng thời buộc anh N, chị H trả lại đất cho gia đình ông P, là không đúng, cần phải xác định diện tích đất tranh chấp trên là tài sản chung của vợ chồng anh N, 50 chị H và khi chia phải coi anh N có công sức đóng góp nhiều hơn để chia theo công sức của mỗi bên và cần phải căn cứ vào nhu cầu về chỗ ở để chia hiện vật cho các bên nhằm đảm bảo quyền lợi cho các đương sự”. 51 ÁN LỆ SỐ 04/2016/AL Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 04/2010/QĐ-HĐTP ngày 03/3/2010 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” tại thành phố HN giữa nguyên đơn là bà Kiều Thị T, ông Chu Văn T với bị đơn là ông Lê Văn N; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Lê Thị Q, bà Trần Thị P, anh Lê Văn T, chị Lê Thị T, anh Lê Đức L, chị Lê Thị Đ, anh Lê Mạnh H, chị Lê Thị N. Khái quát nội dung của án lệ: Trường hợp nhà đất là tài sản chung của vợ chồng mà chỉ có một người đứng tên ký hợp đồng chuyển nhượng nhà đất đó cho người khác, người còn lại không ký tên trong hợp đồng; nếu có đủ căn cứ xác định bên chuyển nhượng đã nhận đủ số tiền theo thỏa thuận, người không ký tên 52 trong hợp đồng biết và cùng sử dụng tiền chuyển nhượng nhà đất; bên nhận chuyển nhượng nhà đất đã nhận và quản lý, sử dụng nhà đất đó công khai; người không ký tên trong hợp đồng biết mà không có ý kiến phản đối gì thì phải xác định là người đó đồng ý với việc chuyển nhượng nhà đất. Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ: - Khoản 2 Điều 176 của Bộ luật Dân sự năm 1995; - Điều 15 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Từ khóa của án lệ: “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”; “Định đoạt tài sản chung của vợ chồng”; “Xác lập quyền sở hữu theo thỏa thuận”. NỘI DUNG VỤ ÁN Tại đơn khởi kiện đề ngày 05/11/2007 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là bà Kiều Thị T trình bày: Năm 1996, vợ chồng bà có mua 02 căn nhà cấp 4 trên diện tích đất thổ cư khoảng 160m2 của gia đình ông Lê Văn N tại xã L, huyện L, thành phố HN (nay là Tổ 11, Cụm 2, phường L, quận H, thành phố HN). Việc mua bán hai bên có lập hợp đồng, có ghi rõ những tài sản, nhà trên đất và các mặt tiếp giáp của thửa đất. Do vợ chồng bà chưa có hộ khẩu thường trú tại HN, nên chính quyền địa phương không xác nhận việc mua bán giữa gia đình bà và gia đình ông N. Giá mua là 110 cây vàng, bà đã trả đủ cho vợ chồng ông N và gia đình ông N đã giao nhà, đất cho bà quản lý, sử dụng. 53 Sau khi mua bán nhà đất, gia đình ông N xây nhà mới có mượn vợ chồng bà ngôi nhà (phía trong) để sử dụng và chứa nguyên vật liệu, còn diện tích nhà giáp mặt đường XL bà đã cho cháu họ của bà ở nhờ để đi học. Khi gia đình ông N làm nhà xong đã trả lại nhà, đất cho bà. Bà đã phá dỡ nhà cũ, tôn nền và xây nhà mới như hiện nay để các cháu ở nhờ; năm 2001, bà cho thuê làm xưởng mộc, sau đó bà không cho thuê nữa, đóng cửa không sử dụng. Năm 2006 (sau khi bà nhập khẩu về thành phố HN), khi bà làm thủ tục xin cấp giấy tờ về quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở thì vợ chồng ông N đã gây khó khăn, vì cho rằng bà còn thiếu hơn 03 cây vàng và vợ chồng ông chỉ bán nhà, đất phía trong, còn nhà, đất giáp mặt đường XL vẫn là nhà, đất của gia đình ông. Cuối năm 2006, ông N đã tự ý phá cửa vào ở và xây một bức tường ngăn giữa phần mái hiên của căn nhà cấp 4 giáp mặt đường XL (hiện nay đang cho người khác thuê làm cửa hàng cắt tóc). Bà đề nghị Tòa án buộc gia đình ông N phải thực hiện đúng như hợp đồng đã ký kết và buộc gia đình ông N trả nhà đất (phần diện tích mặt đường XL). Bị đơn là ông Lê Văn N trình bày: Năm 1996, gia đình ông có nhượng bán một phần nhà, đất cho vợ chồng ông T, bà T. Hai bên thỏa thuận, gia đình ông bán cho vợ chồng ông T, bà T phần nhà, đất có vị trí giáp đường XL, chiều ngang 07m, chiều dài hết khổ đất của gia đình ông. Hai bên thống nhất trừ 21m2 mặt đường do Nhà nước đã cắm mốc chỉ giới mở đường, nên chỉ bán nhà cấp 4 trên phần diện tích đất là 140m2. 54 Giá mua nhà, đất là 6 chỉ vàng/m2 đối với 42m2 đất mặt đường là 25 cây 02 chỉ; 9 chỉ/m2 đối với 98m2 đất phía trong là 88,2 cây vàng. Tổng cộng là 113,4 cây vàng, phía ông T, bà T mới trả cho gia đình ông 110 cây vàng, còn nợ lại 3,4 cây vàng. Gia đình ông đã giao nhà, đất cho bà T nhưng còn 21m2 giáp mặt đường, trong chỉ giới mở đường, gia đình ông vẫn quản lý, sử dụng. Hiện nay, Nhà nước đã thay đổi quy hoạch, không mở đường về phía nhà, đất của gia đình ông, nên phần diện tích này thuộc quyền quản lý, sử dụng của gia đình ông, diện tích nhà, đất của ông T, bà T mua không có lối đi vào. Nay bà T kiện đòi 21m2 mặt đường XL, ông không chấp nhận. Nếu ông T, bà T muốn quản lý, sử dụng phần diện tích mặt đường và có lối đi vào nhà, đất bên trong thì phải cắt trả cho gia đình ông 2m chiều ngang mặt đường và chiều dài hết khổ đất, đồng thời phải thanh toán trả cho gia đình ông 160 triệu đồng nữa. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Trần Thị P thống nhất với lời khai của ông N. Anh Lê Đức L, anh Lê Văn T, anh Lê Mạnh H, chị Lê Thị Đ, chị Lê Thị T và chị Lê Thị N có lời khai thống nhất với lời khai của ông Lê Văn N. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 27/2008/DS-ST ngày 25/4/2008, Tòa án nhân dân thành phố HN đã quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện đòi lại nhà đất 23,4m2 tại 39 đường XL của vợ chồng bà Kiều Thị T, ông Chu Văn T đối với gia đình ông Lê Văn N, bà Trần Thị P. 55 Buộc gia đình ông Lê Văn N, bà Trần Thị P, bà Lê Thị Q (người thuê nhà) và các con ông Lê Văn N phải trả lại toàn bộ diện tích nhà đất 23,4m2 tại số 39, đường XL, phường L, quận H cho gia đình bà T, ông T (do bà T đại diện). Buộc bà T phải thanh toán cho gia đình ông N số tiền là 13.759.000 đồng giá trị xây dựng, cải tạo tại diện tích 23,4m2; bà T được sở hữu vật liệu công sức ở diện tích này. Bà T được chủ động mở lối ra vào diện tích nhà đất phía trong và được xây bịt lối đi phía sau sang đất nhà ông N, bà P. Ông N, bà P cùng với bà T có trách nhiệm đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để hoàn tất thủ tục sang tên phần nhà đất đã nhượng bán. Nếu phía gia đình ông N gây khó khăn thì bà T được chủ động đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền kê khai để làm thủ tục để sang tên, đăng ký quyền sở hữu nhà và sử dụng đất. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và tuyên quyền kháng cáo của các đương sự. Ngày 08/5/2008, ông Lê Văn N, bà Trần Thị P có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy hợp đồng chuyển nhượng nhà, đất ký với vợ chồng bà Kiều Thị T và ông Chu Văn T với lý do việc ký hợp đồng, nhận tiền mua bán nhà, đất chỉ do ông N thực hiện, bà P là vợ không biết. Tại Quyết định số 02/QĐ-VKSNDTC-VPT1 ngày 28/5/2008, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị đề nghị Hội đồng xét xử Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại HN xét xử phúc thẩm buộc ông N phải tháo dỡ phần xây dựng trái phép trên diện tích nhà 56 đất của bà T trả lại nguyên trạng ban đầu. Bà T không phải bồi thường cho ông N số tiền 13.759.000 đồng; đồng thời đề nghị xem xét lại án phí dân sự sơ thẩm cho ông N, bà T. Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 162/2008/DS-PT ngày 04/9/2008, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại HN đã quyết định không chấp nhận kháng cáo của ông Lê Văn N và bà Trần Thị P, chấp nhận Quyết định kháng nghị số 02/QĐ-VKSNDTC-VPT1 ngày 28/5/2008 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, sửa một phần Bản án sơ thẩm như sau: Chấp nhận yêu cầu đòi lại nhà, đất có diện tích 23,4m2 tại số 39 đường XL của vợ chồng bà Kiều Thị T và ông Chu Văn T đối với vợ chồng ông Lê Văn N, bà Trần Thị P. Buộc ông N, bà P cùng các con của ông N và bà P gồm các anh: Lê Đức L, Lê Văn T, Lê Mạnh H và các chị: Lê Thị Đ, Lê Thị T, Lê Thị N và bà Lê Thị Q (người thuê nhà của ông N) phải trả lại toàn bộ diện tích nhà, đất là 23,4m2 tại số 39 đường XL, phường L, quận H, thành phố HN cho vợ chồng bà Kiều Thị T, ông Chu Văn T (do bà T làm đại diện). Về giá trị xây dựng, cải tạo tại diện tích 23,4m2 là 13.759.000 đồng, vợ chồng ông Lê Văn N, bà Trần Thị P phải tự chịu. Vợ chồng ông N, bà P phải phá dỡ phần xây dựng, cải tạo tại diện tích trên để trả lại nguyên trạng cho vợ chồng bà T, ông T. Chi phí phá dỡ do vợ chồng ông N, bà P phải chịu. 57 Bà T được quyền chủ động mở lối ra vào diện tích nhà, đất phía trong và được xây bịt lối đi phía sau sang nhà, đất của vợ chồng ông N, bà P. Ông N, bà P cùng với bà T có trách nhiệm đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để hoàn tất thủ tục sang tên phần diện tích nhà, đất đã nhượng bán cho vợ chồng bà T, ông T. Nếu gia đình ông N gây khó khăn thì bà T được chủ động đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để kê khai, làm các thủ tục sang tên đăng ký quyền sử dụng đất ở và quyền sở hữu nhà ở. Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí. Sau khi xét xử phúc thẩm tại các đơn khiếu nại đề ngày 21/10/2008 và ngày 22/10/2008 của ông N, bà P đều cho rằng nhà, đất tại số 39 đường XL là tài sản chung của gia đình ông, bà; ông N đã tự ý đứng ra bán cho vợ chồng bà T, ông T mà không được sự đồng ý của bà P là không đúng; đề nghị tuyên bố hợp đồng này là vô hiệu. Tại Quyết định số 63/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 14/5/2009, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị Bản án phúc thẩm nêu trên và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hủy Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 27/2008/DS-ST ngày 25/4/2008 của Tòa án nhân dân thành phố HN; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố HN xét xử sơ thẩm lại. Với nhận định: Năm 1996, vợ chồng ông Chu Văn T và bà Kiều Thị T có mua 02 căn nhà cấp 4 trên diện tích đất thổ cư giáp mặt 58 đường XL có chiều ngang 7m, chiều dài hết khổ đất của gia đình ông Lê Văn N tại xã L, huyện L (nay là phường L, quận H). Hai bên có làm giấy viết tay mua bán chuyển nhượng nhà đất, nhưng sau đó không thực hiện các thủ tục theo quy định của pháp luật. Sau khi mua, bà T đã phá cả hai căn nhà trên để làm lại, tôn nền, xây lại móng, tường lợp ngói như hiện nay. Cuối năm 2005, khi bà T đề nghị làm thủ tục xin cấp giấy tờ về quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở thì gia đình ông N tranh chấp cho rằng bà T còn nợ 3,4 cây vàng và chỉ bán diện tích nhà đất phía trong, còn diện tích nhà đất giáp mặt đường XL vẫn là nhà đất của gia đình ông. Cuối năm 2006, hai bên có xảy ra xô sát tranh chấp diện tích nhà đất 21m2 phía mặt đường XL, quận H, thành phố HN. Ngày 29/10/2007, bà Kiều Thị T và ông Chu Văn T khởi kiện đòi quyền sở hữu nhà đất thông qua hợp đồng mua bán nhà đất được xác lập ngày 26/4/1996 giữa vợ chồng ông Lê Văn N, bà Trần Thị P với vợ chồng bà Kiều Thị T, ông Chu Văn T. Hợp đồng mua bán nhà đất giữa bà T, ông T với vợ chồng ông N, bà P chưa tuân thủ theo quy định của pháp luật cả về hình thức và nội dung của hợp đồng; trong khi gia đình ông N cho rằng vợ chồng ông T, bà T còn nợ 3,4 cây vàng và không bán diện tích nhà đất giáp mặt đường XL; cho nên vợ chồng ông N, bà P không đồng ý cho vợ chồng ông T, bà T làm thủ tục sang tên đăng ký quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Hiện nay, toàn bộ diện tích nhà đất theo 59 hợp đồng mua bán chuyển nhượng trên vẫn đứng tên vợ chồng ông N, bà P. Tòa án hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án này là “Tranh chấp quyền sở hữu nhà đất” và áp dụng các Điều 255 và Điều 256 của Bộ luật Dân sự để chấp nhận yêu cầu đòi lại nhà đất của vợ chồng bà Kiều Thị T, ông Chu Văn T đối với vợ chồng ông Lê Văn N, bà Trần Thị P là không đúng, như vậy là đương nhiên công nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đối với toàn bộ diện tích nhà đất chuyển nhượng trên cho vợ chồng bà T, ông T; trong khi hợp đồng chuyển nhượng nhà đất trên vẫn còn tranh chấp chưa thể làm thủ tục sang tên, đăng ký quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở cho vợ chồng bà T, ông T được. Do vậy, cần phải hủy cả hai bản án dân sự sơ thẩm, phúc thẩm nêu trên; giao về xét xử sơ thẩm lại để xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, đảm bảo quyền lợi của các bên đương sự và lợi ích của Nhà nước. Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nhận định: Căn cứ vào đơn khởi kiện đề ngày 05/11/2007 và các lời khai của bà T, ông T trong quá trình giải quyết vụ án thì 60 bà T, ông T yêu cầu ông N, bà P trả lại toàn bộ nhà, đất mà ông bà đã nhận chuyển nhượng của ông N, bà P đang do vợ chồng ông N chiếm giữ đồng thời yêu cầu ông N, bà P dỡ bỏ phần xây dựng trái phép trên diện tích đất trên. Như vậy, nguyên đơn có yêu cầu đòi quyền sở hữu nhà, đất mà ông N, bà P đã sang nhượng theo hợp đồng chuyển nhượng nhà, đất lập ngày 26/4/1996. Trong khi đó, ông N, bà P cho rằng phần đất có tranh chấp vẫn là của ông bà, vì ông bà chưa chuyển nhượng cho bà T, ông T. Do đó, có cơ sở xác định các đương sự tranh chấp về quyền sở hữu tài sản và tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng nhà, đất, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chỉ xác định quan hệ pháp luật cần giải quyết là vụ án tranh chấp quyền sở hữu nhà, đất là chưa đầy đủ. Tuy nhiên, trong thực tế, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã xem xét giải quyết về hai quan hệ tranh chấp này. Do vậy, Kháng nghị số 63/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 14/5/2009 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định sai quan hệ pháp luật có tranh chấp và cần phải hủy cả hai bản án nêu trên để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm là chưa chính xác và không cần thiết. Về hợp đồng mua bán nhà, đất ngày 26/4/1996: Việc chuyển nhượng nhà, đất diễn ra từ năm 1996, sau khi mua nhà, đất, ông T, bà T đã trả đủ tiền, nhận nhà đất, tôn nền đất, sửa lại nhà và cho các cháu đến ở. Trong khi đó gia đình ông N, bà P vẫn ở trên diện tích đất còn lại, liền kề 61 với nhà ông T, bà T. Theo lời khai của các người con ông N, bà P thì sau khi bán nhà, đất cho vợ chồng bà T, ông N, bà P đã phân chia vàng cho các người con. Mặt khác, sau khi chuyển nhượng và giao nhà đất cho ông T, bà T thì ngày 26/4/1996, ông N còn viết “giấy cam kết” có nội dung mượn lại phần nhà đất đã sang nhượng để ở khi xây dựng lại nhà trên phần đất còn lại và trong thực tế, vợ chồng bà P, ông N đã sử dụng phần nhà đất của bà T, ông T khi xây dựng nhà. Như vậy, có cơ sở xác định bà P biết có việc chuyển nhượng nhà, đất giữa ông N với vợ chồng ông T và bà T, bà P đã đồng ý, cùng thực hiện nên việc bà P khiếu nại cho rằng ông N chuyển nhượng nhà đất cho vợ chồng bà T bà không biết là không có căn cứ. Trong quá trình giải quyết vụ án, ông N, bà P còn cho rằng giá mua bán nhà, đất là 113,4 cây vàng. Tuy nhiên, ông bà không đưa ra được tài liệu chứng cứ chứng minh cho vấn đề này. Theo nội dung bản hợp đồng mua bán nhà, đất ngày 26/4/1996 thì số tiền hai bên thỏa thuận là 110 cây vàng và trong giấy thanh toán ngày 09/5/2000, ông N ký xác nhận “tôi đã nhận đủ số tiền còn lại do bán nhà, đất cho anh T và chị T...”. Phần ghi chú có ghi thêm, tổng số vàng tôi đã nhận trước và hiện nay là 110 cây. Như vậy, có đủ cơ sở để khẳng định giá mua bán nhà đất là 110 cây vàng và vợ chồng ông N, bà P đã nhận đủ số tiền. Tuy tại hợp đồng mua bán nhà đất nêu trên hai bên không thể hiện cụ thể diện tích đất chuyển nhượng, nhưng hai bên thỏa thuận rõ ranh giới tứ cận “chiều ngang mảnh đất là 07m kể từ mép tường phân cách với nhà ông Lê Văn A; 62 phía Đông Bắc giáp đường XL - phường Đ; Đông Nam giáp đất của ông Lê Văn A; Tây Nam giáp đất của bà Lê Thị S, ông V; Tây Bắc giáp phần đất còn lại của gia đình ông N. Chiều dài mảnh đất giáp đường XL, phường Đ đến hết khổ đất...”. Ngoài ra, các bên còn thỏa thuận, phần đất phía trước khi nào Nhà nước sử dụng làm đường, thì ông T được hưởng toàn bộ chế độ đền bù của Nhà nước. Như vậy, thửa đất mà hai bên thỏa thuận chuyển nhượng là từ mép đường XL, phường Đ vào hết khổ đất bao gồm cả diện tích đất có tranh chấp. Do vậy, Tòa án các cấp xác định, diện tích 23,4m2 giáp đường XL, phường Đ nằm trong diện tích đất mà ông N đã thỏa thuận chuyển nhượng cho vợ chồng bà T, đồng thời xác định vợ chồng bà T đã thanh toán đủ 110 cây vàng theo hợp đồng và đã nhận nhà đất, từ đó, buộc gia đình ông N phải trả lại toàn bộ diện tích nhà, đất 23,4m2 tại số 39 đường XL, phường L, quận H, thành phố HN cho vợ chồng bà Kiều Thị T và ông Chu Văn T là có căn cứ. Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291, khoản 1 Điều 297 Bộ luật Tố tụng dân sự, QUYẾT ĐỊNH Không chấp nhận Kháng nghị số 63/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 14/5/2009 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữ nguyên Bản án phúc thẩm số 162/2008/DS-PT ngày 04/9/2008 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội. 63 NỘI DUNG ÁN LỆ “Về hợp đồng mua bán nhà, đất ngày 26/4/1996: Việc chuyển nhượng nhà, đất diễn ra từ năm 1996, sau khi mua nhà, đất, ông T, bà T đã trả đủ tiền, nhận nhà đất, tôn nền đất, sửa lại nhà và cho các cháu đến ở. Trong khi đó gia đình ông N, bà P vẫn ở trên diện tích đất còn lại, liền kề với nhà ông T, bà T. Theo lời khai của các người con ông N, bà P thì sau khi bán nhà, đất cho vợ chồng bà T, ông N, bà P đã phân chia vàng cho các người con. Mặt khác, sau khi chuyển nhượng và giao nhà đất cho ông T, bà T thì ngày 26/4/1996, ông N còn viết “giấy cam kết” có nội dung mượn lại phần nhà đất đã sang nhượng để ở khi xây dựng lại nhà trên phần đất còn lại và trong thực tế, vợ chồng bà P, ông N đã sử dụng phần nhà đất của bà T, ông T khi xây dựng nhà. Như vậy, có cơ sở xác định bà P biết có việc chuyển nhượng nhà, đất giữa ông N với vợ chồng ông T và bà T, bà P đã đồng ý, cùng thực hiện nên việc bà P khiếu nại cho rằng ông N chuyển nhượng nhà đất cho vợ chồng bà T bà không biết là không có căn cứ”. 64 ÁN LỆ SỐ 05/2016/AL Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 39/2014/DS-GĐT ngày 09/10/2014 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Tranh chấp di sản thừa kế” tại thành phố H giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị T, bà Nguyễn Thị X với bị đơn là ông Nguyễn Chí Tr (Cesar Tr Nguyen), chị Nguyễn Thị Thúy P, bà Nguyễn Thị Bích Đ; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Nguyễn Thị G, Nguyễn Chí Đ (Danforth Chi Nguyen), Nguyễn Thuần L, Nguyễn Thị T, Nguyễn Chí A, Nguyễn Thị Thúy L, Phạm Thị L, Phạm Thị V, Trần Đức T, Trần Thành K. Khái quát nội dung của án lệ: Trong vụ án tranh chấp di sản thừa kế, có đương sự thuộc diện được hưởng một phần di sản thừa kế và có công sức đóng góp vào việc quản lý, tôn tạo di sản thừa kế 65 nhưng không đồng ý việc chia thừa kế (vì cho rằng đã hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế), không có yêu cầu cụ thể về việc xem xét công sức đóng góp của họ vào việc quản lý, tôn tạo di sản thừa kế; nếu Tòa án quyết định việc chia thừa kế cho các thừa kế thì phải xem xét về công sức đóng góp của họ vì yêu cầu không chia thừa kế đối với di sản thừa kế lớn hơn yêu cầu xem xét về công sức. Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ: Khoản 1 Điều 5 và Điều 218 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004; Từ khóa của án lệ: “Yêu cầu khởi kiện”; “Yêu cầu phản tố”; “Công sức đóng góp vào việc quản lý, tôn tạo di sản thừa kế”. NỘI DUNG VỤ ÁN Tại đơn khởi kiện ngày 18/7/2008 và trong quá trình giải quyết vụ án, bà Nguyễn Thị Th, bà Nguyễn Thị X trình bày: Cha mẹ các bà là cụ Nguyễn Văn H (chết năm 1978), cụ Lê Thị Ng (chết năm 1992) có 06 người con là bà Nguyễn Thị G, ông Nguyễn Chí Tr, bà Nguyễn Thị X, bà Nguyễn Thị Th, bà Nguyễn Thị T và ông Nguyễn Chí T. Ông T có vợ là bà Ông Thị M và có 05 người con là anh Nguyễn Thuần L, anh Nguyễn Thuần H, chị Nguyễn Thị Quới Đ, anh Nguyễn Chí Đ (sinh năm 1966) và anh Nguyễn Chí Đ (sinh năm 1968). Tại Quyết định số 413/2008 ngày 31/3/2008, Tòa án nhân dân thành phố H 66 đã tuyên bố ông T, bà M, anh Nguyễn Thuần H, chị Nguyễn Thị Quới Đ, anh Nguyễn Chí Đ (sinh năm 1968) là đã chết. Căn nhà số 263 đường Trần Bình Trọng, Phường 4, Quận X, thành phố H do cụ H, cụ Ng nhận chuyển nhượng đất của ông Đào Thành P năm 1953, đến năm 1966 thì hai cụ xây dựng nhà ở như hiện nay. Nhà đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất, chỉ mới kê khai năm 1999. Cụ H, cụ Ng chết đều không để lại di chúc, căn nhà hiện nay do chị Nguyễn Thị Thúy P là con ông Nguyễn Chí Tr đang quản lý. Quá trình quản lý, chị P cho bà Nguyễn Thị Bích Đ thuê một phần căn nhà để làm lò bánh mì. Khi chị P ở đây có sửa chữa nhà nhưng không đáng kể. Vợ chồng ông Tr không có đóng góp gì vào việc xây dựng và sửa chữa vì ông Tr đi cải tạo, còn bà T vợ ông Tr không có nghề nghiệp, con còn bé không có thu nhập để có tiền đóng góp. Nếu chị P có chứng cứ chứng minh chi phí sửa chữa và yêu cầu thì các bà sẽ trả. Các nguyên đơn yêu cầu chia thừa kế căn nhà này theo quy định của pháp luật và xin được nhận nhà, hoàn lại bằng tiền cho các thừa kế khác. Chị P không thuộc diện thừa kế nên phải trả lại nhà, không đồng ý hỗ trợ chị P đi nơi khác. Bị đơn là chị Nguyễn Thị Thúy P trình bày: Chị thống nhất về quan hệ gia đình. Cha chị là ông Nguyễn Chí Tr, mẹ chị là bà Nguyễn Thị T có 03 người con gồm chị, anh Nguyễn Chí A, chị Nguyễn Thị Thúy L (anh A, chị L hiện sống ở Canađa). Căn nhà số 263 đường Trần Bình Trọng là 67 của ông bà nội chị mua từ năm 1953, khi đó là nhà ngói, vách ván. Năm 1955, cha chị kết hôn với mẹ chị và cha mẹ chị ở tại căn nhà này. Năm 1978 cha chị xuất cảnh sang Mỹ, mẹ chị chết năm 1980. Chị sống tại căn nhà này từ nhỏ đến nay, đã sửa chữa nhà nhiều lần như làm cửa nhôm, xây tường phần gác lửng, lát gạch men sân thượng, xây tường phía sau nhà. Chị có phần thừa kế của cha chị vì năm 2006 cha chị đã lập tờ cho đứt chị tài sản thừa kế ở Việt Nam nên chị được phần thừa kế mà cha chị được hưởng của cụ H, cụ Ng. Chị không đồng ý yêu cầu của các nguyên đơn, vì thời hiệu chia thừa kế đã hết, hiện tại chị và 02 con của chị đang sống tại căn nhà này. Chị có cho bà Nguyễn Thị Bích Đ thuê một phần nhà làm lò bánh mì, chị và bà Đ sẽ tự giải quyết với nhau về việc thuê nhà. Bị đơn là ông Nguyễn Chí Tr trình bày: Tại văn bản ngày 14/10/2009, ông Tr có đơn đề nghị có nội dung ngày 25/4/2006 ông có giấy cho đứt tài sản thừa kế của ông cho chị P được hưởng phần tài sản thừa kế mà ông được hưởng của cha mẹ tại Việt Nam, nay ông xin hủy bỏ văn bản trên và bằng văn bản này ông xin ủy quyền cho bà Th, bà X thay mặt ông tại Tòa án, khi Tòa xét xử xong phần tài sản thừa kế của ông xin được trao hết cho con trai ông là anh Nguyễn Chí A hiện cư trú tại Canađa. Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 22/4/2010, ông Tr có đơn tường trình nội dung ông không đồng ý chia thừa kế nhà 263 đường Trần Bình Trọng mà giao cho chị P tiếp tục trông nom để ở, ông và vợ ông đã có công sức đóng góp tiền của vào căn nhà này. Nhưng đến ngày 14/7/2010, ông Tr 68 lại có văn bản có nội dung ông cho con trai là anh Nguyễn Chí A phần tài sản ông được nhận thừa kế của cha mẹ. Ngày 11/3/2011, ông Tr có Tờ tường trình nội dung ông đồng ý với quyết định của Bản án sơ thẩm, ông không kháng cáo. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: - Bà Nguyễn Thị T (là con cụ H, cụ Ng) trình bày: Bà thống nhất như trình bày của các nguyên đơn về quan hệ gia đình và nguồn gốc tài sản. Năm 1966 nhà bị hư dột, cha mẹ bà có sửa lại nhà có sự đóng góp của các con trong đó có bà nhưng bà không yêu cầu phần bà đã đóng góp. Việc chị P cho rằng cha mẹ chị và chị có đóng góp trong việc sửa chữa nhà là không đúng. Bà đề nghị kỷ phần thừa kế của bà giao cho bà X, bà Th quản lý; đề nghị bà Đ, chị P trả lại nhà. - Anh Nguyễn Chí Đ (sinh năm 1966), anh Nguyễn Thuần L trình bày: Cha mẹ các anh là ông Nguyễn Chí T, bà Ông Thị M cùng 03 người em của các anh đều đã chết trên biển khi vượt biên vào năm 1982. Các anh đồng ý với ý kiến của nguyên đơn về việc chia thừa kế, xin được hưởng thừa kế tài sản của cụ H, cụ Ng và giao cho bà Th, bà X quản lý. - Bà Nguyễn Thị X (là con của cụ H, cụ Ng) thống nhất với trình bày của các nguyên đơn về quan hệ gia đình và yêu cầu của các nguyên đơn, kỷ phần thừa kế bà được hưởng cho 02 con của bà là Phạm Thị V và Phạm Thị L. - Lời khai của chị Nguyễn Thị Thúy L, anh Nguyễn Chí A theo giấy ủy quyền lập ngày 21/5/2007 (đã được hợp 69 pháp hóa lãnh sự) thì chị L, anh A ủy quyền cho chị P quyết định mọi sự việc liên quan đến những tranh chấp hay phân chia tài sản và nhà đất bên Việt Nam (Giấy ủy quyền này do chị P xuất trình theo đơn của chị P đề ngày 25/3/2011, sau khi xét xử sơ thẩm). Chị L có đơn (kèm theo văn bản ủy quyền) có nội dung xin vắng mặt phiên tòa ngày 13/8/2009. Về tài sản tranh chấp, cha mẹ chị có tiền đóng góp, còn các cô chú khác không đóng góp gì. Sau năm 1975, mọi người đi hết, chỉ còn mình chị P ở với ông bà, đề nghị Tòa cho chị P ở lại nhà đất tranh chấp. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 3363/2009/DSST ngày 18/11/2009, Tòa án nhân dân thành phố H quyết định: - Xác định nhà đất tại 263 đường Trần Bình Trọng là di sản thừa kế của cụ Nguyễn Văn H, cụ Lê Thị Ng; mỗi kỷ phần thừa kế được hưởng là 10.655.687.000: 6 = 1.775.947.800 đồng. - Buộc mẹ con chị P và bà Đ giao lại nhà đất tranh chấp cho bà Th, bà X. Bà Th, bà X có trách nhiệm trả cho các thừa kế khác bằng tiền mà họ được hưởng. - Ghi nhận việc ông Nguyễn Chí Tr cho con là anh Nguyễn Chí A được nhận kỷ phần thừa kế của ông. Ngày 30/11/2009, chị Nguyễn Thị Thúy P có đơn kháng cáo có nội dung cho rằng cụ H, cụ Ng chết đã quá 10 năm nên thời hiệu khởi kiện về thừa kế không còn. Ngày 15/3/2011, chị P có đơn kháng cáo bổ sung nội dung: - Cha chị là ông Tr không đồng ý chia và đồng ý cho chị quản lý căn nhà này. Các đồng thừa kế không có văn 70 bản xác nhận nhà tranh chấp là tài sản chung chưa chia. Cha mẹ chị và các con trong đó có chị đã sống ổn định hơn 50 năm tại căn nhà này, đã bảo quản, giữ gìn căn nhà nhưng nay lại buộc mẹ con chị phải ra khỏi nhà là không thấu tình đạt lý. Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 116/2011/DS-PT ngày 10/5/2011, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh quyết định: Giữ nguyên Bản án sơ thẩm. Ngày 16/6/2011, chị Nguyễn Thị Thúy P có đơn đề nghị giám đốc thẩm Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên. Tại Quyết định số 158/2014/KN-DS ngày 06/5/2014, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và Bản án dân sự sơ thẩm số 3363/2009/DSST ngày 18/11/2009 của Tòa án nhân dân thành phố H; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố H xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nhận định: Vợ chồng cụ Nguyễn Văn H (chết năm 1978), cụ Lê Thị Ng (chết năm 1992) có 06 người con gồm bà Nguyễn Thị G, ông Nguyễn Chí Tr, bà Nguyễn Thị X, bà Nguyễn Thị Th, 71 bà Nguyễn Thị T và ông Nguyễn Chí Tr. Vợ chồng ông Nguyễn Chí Tr, bà Ông Thị M có 05 người con là anh Nguyễn Thuần L, anh Nguyễn Thuần H, chị Nguyễn Thị Quới Đ, anh Nguyễn Chí Đ (sinh năm 1966), anh Nguyễn Chí Đ (sinh năm 1968). Ông Tr, bà M, anh H, chị Quới Đ, anh Nguyễn Chí Đ (sinh năm 1968) bị tuyên bố chết ngày 31/3/2008 theo Quyết định số 413/2008 ngày 31/3/2008 của Tòa án nhân dân thành phố H. Cụ H, cụ Ng chết đều không để lại di chúc. Các con của hai cụ và chị P (con ông Tr) đều thừa nhận căn nhà số 263 đường Trần Bình Trọng, Phường 4, Quận 5, thành phố H do cụ H, cụ Ng nhận chuyển nhượng của ông Đào Thành P năm 1953 là tài sản của hai cụ tạo lập, hiện tại đang do chị P quản lý, sử dụng. Năm 2008, bà X, bà Th khởi kiện yêu cầu chia thừa kế di sản của cụ H, cụ Ng để lại. Các đương sự đều xác định ông Tr định cư tại Mỹ trước ngày 01/7/1991. Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm căn cứ Nghị quyết 1037/2006/NQ-UBTVQH11 ngày 27/7/2006 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội xác định thời hiệu khởi kiện thừa kế đối với di sản của cụ H vẫn còn là có cơ sở. Đối với di sản của cụ Ng thì đã hết thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế, nhưng ông Tr và các đồng thừa kế của hai cụ đều thừa nhận di sản của cụ Ng là tài sản chung của các thừa kế chưa chia và đều nhất trí chia đều cho các thừa kế. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm căn cứ tiểu Mục a Điểm 2.4 Mục 2 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân 72 tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình để chia phần di sản của cụ Ng cho các thừa kế là có căn cứ. Cụ H chết năm 1978, theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 thì ông Tr được hưởng 1/7 kỷ phần thừa kế của cụ H. Phần tài sản ông Tr được hưởng của cụ H là tài sản chung của vợ chồng ông Tr, bà Tư. Bà T chết năm 1980, các thừa kế của bà T gồm ông Tr và 03 người con của ông Tr, bà Tư trong đó có chị P. Như vậy, chị P được hưởng một phần tài sản của mẹ là bà T, nhưng ông Tr đã định đoạt toàn bộ kỷ phần thừa kế mà ông được hưởng của cụ H cho anh A là chưa đúng. Chị P sinh năm 1953 và các đương sự xác định chị P ở tại nhà của ông, bà từ nhỏ đến nay. Từ năm 1982, chị P đã là chủ hộ khẩu tại nhà đất này, cụ Ng còn sống nhưng ở nơi khác, bà Th chuyển hộ khẩu về tại đây từ năm 1979 nhưng không ở đây, nên chị P đã trực tiếp quản lý, sử dụng nhà đất tranh chấp từ sau khi cụ Ng chết đến nay. Các đương sự khác đều có nơi ở ổn định nơi khác. Khi chia thừa kế và tài sản chung, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm không xem xét tạo điều kiện cho chị P có chỗ ở mà buộc chị P phải giao lại nhà cho các nguyên đơn trong đó có phần quyền tài sản chị P được hưởng thừa kế của mẹ là bà T là chưa phù hợp. Tuy chị P không phải thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ H, cụ Ng, nhưng là cháu nội của hai cụ và có nhiều công sức quản lý, đã chi tiền sửa chữa nhà nhưng trong quá trình giải quyết vụ án, chị P không yêu cầu xem 73 xét công sức vì chị P cho rằng vụ án đã hết thời hiệu chia thừa kế, không đồng ý trả nhà đất cho các thừa kế. Như vậy, yêu cầu của chị P đề nghị xác định quyền lợi là lớn hơn yêu cầu xem xét về công sức, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm chưa xem xét công sức cho chị P là giải quyết chưa triệt để yêu cầu của đương sự. Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 297, khoản 1, 2 Điều 299 Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011; QUYẾT ĐỊNH Hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 116/2011/DS-PT ngày 10/5/2011 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố H và hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 3363/2009/DSST ngày 18/11/2009 của Tòa án nhân dân thành phố H về vụ án tranh chấp thừa kế tài sản giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Th, bà Nguyễn Thị X với bị đơn là chị Nguyễn Thị Thúy P và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố H xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật. NỘI DUNG ÁN LỆ “Cụ H chết năm 1978, theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 thì ông Tr được hưởng 1/7 kỷ phần thừa kế của cụ H. Phần tài sản ông Tr được hưởng của cụ H là tài sản chung của vợ chồng ông Tr, bà T. Bà T chết năm 1980, các thừa kế của bà T gồm ông Tr và 03 người con của ông Tr, bà Tư trong đó có chị P. 74 Tuy chị P không phải thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ H, cụ Ng, nhưng là cháu nội của hai cụ và có nhiều công sức quản lý, đã chi tiền sửa chữa nhà nhưng trong quá trình giải quyết vụ án, chị P không yêu cầu xem xét công sức vì chị P cho rằng vụ án đã hết thời hiệu chia thừa kế, không đồng ý trả nhà đất cho các thừa kế. Như vậy, yêu cầu của chị P đề nghị xác định quyền lợi là lớn hơn yêu cầu xem xét về công sức, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm chưa xem xét công sức cho chị P là giải quyết chưa triệt để yêu cầu của đương sự”. 75 ÁN LỆ SỐ 06/2016/AL Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 100/2013/GĐT-DS ngày 12/8/2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Tranh chấp thừa kế” tại HN, giữa nguyên đơn là ông Vũ Đình H với bị đơn là bà Vũ Thị Th (tức H), bà Vũ Thị H; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm các ông, bà Vũ Đình Đ, Vũ Thị C, Vũ Thị Th, Nguyễn Thị Kim O, Hà Thùy L. Khái quát nội dung của án lệ: Trong vụ án tranh chấp thừa kế có người thuộc diện thừa kế ở nước ngoài, nếu Tòa án đã thực hiện ủy thác tư pháp, thu thập chứng cứ theo đúng quy định của pháp luật nhưng vẫn không xác định được địa chỉ của những người đó thì Tòa án vẫn giải quyết yêu cầu của nguyên đơn; nếu xác định được di sản thừa kế, diện hàng thừa kế 76 và người để lại di sản thừa kế không có di chúc thì giải quyết việc chia thừa kế cho nguyên đơn theo quy định của pháp luật; phần tài sản thừa kế của những người vắng mặt, không xác định được địa chỉ sẽ tạm giao cho những người sống trong nước quản lý để sau này giao lại cho những thừa kế vắng mặt. Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ: - Điều 93; điểm đ khoản 1 Điều 168 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004; - Điều 676 và 685 của Bộ luật Dân sự năm 2005. Từ khóa của án lệ: “Tranh chấp di sản thừa kế”; “Người thừa kế ở nước ngoài chưa rõ địa chỉ”; “Ủy thác tư pháp”; “Phân chia di sản”; “Quản lý di sản”. NỘI DUNG VỤ ÁN Theo đơn khởi kiện tháng 7 năm 1993, nguyên đơn là ông Vũ Đình H trình bày: Cha mẹ ông là cụ Vũ Đình Q và cụ Nguyễn Thị Th sinh được 6 người con là ông Vũ Đình Đ, bà Vũ Thị C, bà Vũ Thị Th, ông Vũ Đình H, bà Vũ Thị T (tức H) và bà Vũ Thị A. Cụ Q và cụ Th tạo lập được căn nhà số 66 phố ĐX, quận HK, thành phố HN, diện tích 123m2. Năm 1979, cụ Q chết không để lại di chúc, căn nhà do cụ Th và 3 con là ông H, bà A, bà T ở; ông Đ, bà Th và bà C đều xuất cảnh đi nước ngoài. Tại biên bản họp gia đình ngày 28/10/1982, 77 cụ Th và ông, bà T, bà A thỏa thuận tạm thời phân chia nhà thành 3 phần cho ông, bà A và bà T sử dụng. Năm 1987, cụ Th chết. Sau đó năm 1989, bà T đã lén lút bán phần nhà được tạm chia cho bà Nguyễn Thị Kim O. Khi ông đã có đơn khởi kiện chia thừa kế ra Tòa án rồi nhưng ngày 31/10/1993, bà A đã bán tiếp phần nhà bà A được tạm chia cho bà Hà Thùy L. Việc mua bán nhà này là sai. Ông xác định được 3 anh chị em đang ở nước ngoài (là ông Đ, bà C và bà Th) có văn bản cho ông hưởng phần thừa kế nên ông yêu cầu chia thừa kế di sản của cha mẹ ông theo pháp luật. Ông H xuất trình bản photocopy các giấy ủy quyền lập ngày 03/3/1992 của ông Vũ Đình Đ, ngày 01/5/1993 của bà Vũ Thị C, ngày 28/10/1991 của bà Vũ Thị Th đều có nội dung ủy quyền cho ông H quản lý trông nom phần tài sản của mình trong nhà 66 phố ĐX là 1/6 nhà. Sau khi nộp đơn khởi kiện, ông H xuất trình thêm các “Giấy chuyển hẳn cho quyền thừa kế” đề ngày 25/4/1995 của ông Vũ Đình Đ; “Giấy chuyển hẳn cho quyền thừa kế” đề ngày 10/5/1995 của bà Vũ Thị C; “Giấy cho hẳn quyền thừa kế” của bà Vũ Thị Th; các văn bản này đều ghi là lập tại nước ngoài, đều có nội dung xác nhận: cha mẹ để lại ngôi nhà 66 phố ĐX cho 6 người con nhưng bà T (tức H) và bà A đã bán phần nhà của cha mẹ để lại là vi phạm lời dặn của mẹ (không được bán, cho người ngoài vào ở)... Ông Đ và bà Th, bà C làm giấy này cho hẳn ông H 1/6 ngôi nhà 66 phố ĐX phần mỗi người được hưởng thừa kế để ông H duy trì thờ cúng tổ tiên và cũng để ba gia đình con cháu người ở nước ngoài có 78 """