🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tuyên Ngôn Của Đảng Cộng Sản - Giá Trị Lý Luận Và Thực Tiễn Trong Thời Đại Ngày Nay Ebooks Nhóm Zalo Chịu trách nhiệm xuất bản Q. GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP PHẠM CHÍ THÀNH Chịu trách nhiệm nội dung PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP ThS. PHẠM THỊ THINH Biên tập nội dung: Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Đọc sách mẫu: ThS. PHẠM THỊ NGỌC BÍCH ThS. NGUYỄN THỊ HẢI BÌNH ThS. NGUYỄN THỊ THÚY ThS. ĐÀO QUỲNH HOA ThS. NGUYỄN VIỆT HÀ PHẠM THÚY LIỄU LÂM THỊ HƯƠNG NGUYỄN THỊ THÚY BÙI BỘI THU Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 4854-2020/CXBIPH/26-347/CTQG. Số quyết định xuất bản: 5634-QĐ/NXBCTQG, ngày 01/12/2020. Nộp lưu chiểu: tháng 12 năm 2020. Mã ISBN: 978-604-57-6286-8 4 BAN CHỈ ĐẠO NỘI DUNG Đồng chí VÕ VĂN THƯỞNG Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương - Trưởng ban GS.TS. NGUYỄN XUÂN THẮNG Bí thư Trung ương Đảng, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Phó Trưởng ban Thường trực GS.TS. PHÙNG HỮU PHÚ Phó Chủ tịch Thường trực, Hội đồng Lý luận Trung ương - Ủy viên GS.TS. NGUYỄN QUANG THUẤN Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam - Ủy viên TỔ CHỨC NỘI DUNG PGS.TS. LÊ QUỐC LÝ Phó Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Trưởng ban GS.TS. PHẠM VĂN ĐỨC Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương - Phó Trưởng ban PGS.TS. LÊ VĂN LỢI Vụ trưởng Vụ Quản lý khoa học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Ủy viên PGS.TS. BÙI THỊ NGỌC LAN Quyền Viện trưởng Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Ủy viên TS. PHẠM THỊ HOÀNG HÀ Phó Viện trưởng Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Ủy viên TS. ĐINH THỊ MAI Phó Vụ trưởng Vụ Tuyên truyền, Ban Tuyên giáo Trung ương - Ủy viên TS. VŨ TUẤN HƯNG Ban Khoa học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam - Ủy viên TS. NGUYỄN ANH TUẤN Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Ủy viên 5 LỜI NHÀ XUẤT BẢN Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản do C. Mác và Ph. Ăngghen soạn thảo lần đầu tiên được công bố trước toàn thế giới vào ngày 24/2/1848. Đây là cương lĩnh đầu tiên của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, ngọn cờ dẫn dắt giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới tiến hành cuộc đấu tranh chống lại ách áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản, đi lên chủ nghĩa xã hội và tiến tới chủ nghĩa cộng sản. Sự ra đời của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là bước ngoặt quyết định đối với sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đánh dấu sự hình thành về cơ bản lý luận chủ nghĩa Mác. Đó là kết quả sự kết hợp giữa thành quả nghiên cứu khoa học với việc tổng kết thực tiễn phong trào cách mạng trong giai cấp công nhân châu Âu giữa thế kỷ XIX của hai nhà tư tưởng vĩ đại C. Mác và Ph. Ăngghen. Đánh giá về Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, V.I. Lênin đã khẳng định: “Cuốn sách nhỏ ấy có giá trị bằng hàng bộ sách: tinh thần của nó, đến bây giờ, vẫn cổ vũ và thúc đẩy toàn thể giai cấp vô sản có tổ chức và đang chiến đấu của thế giới văn minh”1. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản tập trung trình bày những nội dung cơ bản về sự phát triển của xã hội loài người; vị trí lịch sử của giai cấp tư sản; sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản và sự ra đời của Đảng Cộng sản; tính tiên phong của Đảng Cộng sản, mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản và giai cấp, những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học, một số nguyên lý chiến lược, sách lược cách mạng; _______________ 1. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.2, tr.10. 6 TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN... phê phán các trào lưu xã hội chủ nghĩa phản động của giai cấp phong kiến, tiểu tư sản; khẳng định lập trường kiên định về những vấn đề chiến lược và sách lược của Đảng Cộng sản,... Đã 170 năm trôi qua, kể từ khi Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ra đời cho đến nay, thế giới đã có nhiều biến đổi, song lịch sử vẫn chứng minh rằng, những tư tưởng vĩ đại trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản sẽ tiếp tục soi đường cho nhân loại tiến về tương lai ngày càng tốt đẹp hơn. Nhằm một lần nữa nhìn nhận sâu sắc giá trị đích thực và sức sống bền vững của những tư tưởng cơ bản trong Tuyên ngôn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật phối hợp với Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Ban Tuyên giáo Trung ương, Hội đồng Lý luận Trung ương và Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam xuất bản cuốn sách Tuyên ngôn của Ðảng Cộng sản - Giá trị lý luận và thực tiễn trong thời đại ngày nay (Kỷ yếu Hội thảo quốc tế). Nội dung cuốn sách tập hợp bài viết của các nhà lý luận, học giả, nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế, được bố cục gồm ba phần chính: Phần I- Một số vấn đề trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản; Phần II- Những giá trị lý luận và thực tiễn trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản; Phần III- Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đối với sự phát triển của Việt Nam và một số nước. Cuốn sách khẳng định giá trị lý luận và ý nghĩa thực tiễn của tác phẩm Tuyên ngôn của Ðảng Cộng sản đối với cách mạng thế giới và cách mạng Việt Nam; đồng thời chỉ ra những vấn đề cần bổ sung, hoàn thiện và phát triển những tư tưởng cơ bản đó cho phù hợp với thời đại ngày nay, phù hợp với thành tựu của cách mạng thế giới, với công cuộc đổi mới, cải cách ở các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam; góp phần đấu tranh, phản bác các trào lưu tư tưởng phản động, xóa bỏ mọi áp bức, bất công, xây dựng xã hội ngày càng văn minh, tốt đẹp. Trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc. Tháng 5 năm 2019 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 7 SỨC SỐNG BỀN VỮNG CỦA TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN (Phát biểu khai mạc Hội thảo) VÕ VĂN THƯỞNG* Thưa các vị đại biểu, các vị khách quý, Các nhà khoa học và các đồng chí! Hôm nay, chúng ta tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản - Giá trị lý luận và thực tiễn trong thời đại ngày nay” để thiết thực kỷ niệm 170 năm ra đời Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848 - 2018). Thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, tôi nhiệt liệt chào mừng các đồng chí đại diện lãnh đạo các ban, bộ, ngành Trung ương và địa phương, các vị đại biểu, khách quý, các nhà khoa học trong nước và quốc tế về dự Hội thảo khoa học đầy ý nghĩa này. Thưa các vị đại biểu, các vị khách quý, Các nhà khoa học và các đồng chí! Cách đây 170 năm, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản do C. Mác và Ph. Ăngghen soạn thảo, được xuất bản lần đầu _______________ * Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương. 8 TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN... tại Anh. Đây là tác phẩm có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế nói riêng, đối với sự phát triển của thế giới, sự tiến bộ của nhân loại nói chung; là “tác phẩm phổ biến hơn cả, có tính chất quốc tế hơn cả, trong tất cả các văn phẩm xã hội chủ nghĩa, đó là cương lĩnh chung của hàng triệu công nhân tất cả các nước...”1. Sự ra đời Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là bước ngoặt quyết định đối với sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; đánh dấu sự hình thành về cơ bản lý luận của chủ nghĩa Mác. Đó là kết quả của sự kết hợp giữa thành quả nghiên cứu khoa học với việc tổng kết thực tiễn phong trào cách mạng của giai cấp công nhân châu Âu giữa thế kỷ XIX của hai nhà tư tưởng vĩ đại C. Mác và Ph. Ăngghen. Sau khi được công bố, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản với tư cách là Cương lĩnh của Liên đoàn những người cộng sản quốc tế, đã nhanh chóng đi vào quần chúng và trở thành một văn kiện mang tính lý luận, định hướng cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, một trong những tác phẩm kinh điển quan trọng nhất của chủ nghĩa Mác nói riêng, chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung. Thời gian đã lùi rất xa, song giá trị to lớn và sức sống lâu bền của Tuyên ngôn vẫn ngời sáng, bởi nội dung mang tính khoa học, cách mạng và nhân văn sâu sắc. Trong Tuyên ngôn, với thế giới quan duy vật và sử dụng phương pháp biện chứng để nghiên cứu lịch sử nhân loại, C. Mác và Ph. Ăngghen đã luận giải hết sức cô đọng, khoa học _______________ 1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 22, tr. 98. SỨC SỐNG BỀN VỮNG CỦA TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN 9 và thuyết phục về quy luật khách quan của sự phát triển xã hội loài người; về quá trình phát sinh, phát triển và sự tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản; về vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân; về mục đích của Đảng Cộng sản, mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản với giai cấp công nhân cũng như chiến lược, sách lược của Đảng Cộng sản trong quá trình lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa để tiến tới một xã hội không còn giai cấp, không còn nhà nước - một liên hiệp của người lao động mà ở đó “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”1. Đúng như V.I. Lênin đã đánh giá, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là tác phẩm “trình bày một cách hết sức sáng sủa và rõ ràng thế giới quan mới, chủ nghĩa duy vật triệt để - chủ nghĩa duy vật này bao quát cả lĩnh vực sinh hoạt xã hội, - phép biện chứng với tư cách là học thuyết toàn diện nhất và sâu sắc nhất về sự phát triển, lý luận đấu tranh giai cấp và vai trò cách mạng - trong lịch sử toàn thế giới - của giai cấp vô sản, tức là giai cấp sáng tạo ra một xã hội mới, xã hội cộng sản''2. Khi đọc Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, chúng ta tìm thấy ở đó những nguyên lý cơ bản nhất của cả ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác là triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học. Điều đặc biệt là, những nguyên lý ấy, như C. Mác và Ph. Ăngghen đã đánh giá, “tuyệt nhiên không dựa trên những ý niệm, những nguyên lý do một nhà cải cách thế giới nào phát minh hay phát hiện ra. Những nguyên lý ấy _______________ 1. C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.628. 2. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t.26, tr.57. 10 TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN... chỉ là biểu hiện khái quát của những quan hệ thực tại của một cuộc đấu tranh giai cấp hiện có”1. Phản ánh đúng quy luật phát triển của hiện thực, định hướng cho Đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo đấu tranh theo quy luật đó để giải phóng con người, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã trở thành ngọn cờ tư tưởng, lý luận soi đường, dẫn lối cho phong trào cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức, bóc lột trên phạm vi toàn thế giới đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Dưới ánh sáng của Tuyên ngôn, từ cuối thế kỷ XIX đến những năm 80 thế kỷ XX, các cuộc cách mạng vô sản dù phải trải qua nhiều cam go, nhưng đã giành được những thắng lợi to lớn. Đó là Công xã Paris (Pari) năm 1871 - cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới, đã dẫn tới sự ra đời chính quyền của giai cấp công nhân và đã để lại những bài học kinh nghiệm vô giá cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đó là thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917 - cuộc cách mạng đã mở ra thời đại mới trong lịch sử nhân loại - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Đó là thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô; là thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi, khu vực Mỹ Latinh và hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới ra đời; là sự phát triển không ngừng của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào đấu tranh cho dân chủ, tiến bộ và hòa bình trên thế giới. _______________ 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.615. SỨC SỐNG BỀN VỮNG CỦA TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN 11 Những thắng lợi to lớn của các cuộc cách mạng vô sản, của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã chứng tỏ rằng, thế giới đã có những biến chuyển hết sức mạnh mẽ theo hướng mà Tuyên ngôn đã dự báo. Tư tưởng Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã trở thành hiện thực sinh động trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng loài người. Tư tưởng của Tuyên ngôn, tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin đã vạch ra con đường cách mạng vô sản, đưa hàng tỷ quần chúng lao động, hàng trăm quốc gia, dân tộc thoát khỏi thân phận bị áp bức, bóc lột, bị nô dịch vươn tới địa vị làm chủ, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã khẳng định được giá trị to lớn đối với sự phát triển của thế giới, sự tiến bộ của nhân loại. Song, cũng như C. Mác và Ph. Ăngghen đã khẳng định, sự phát triển không diễn ra theo đường thẳng mà là một quá trình quanh co, phức tạp. Sự phát triển của cách mạng vô sản cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Sau nhiều thắng lợi to lớn và thành tựu vĩ đại, từ đầu thập niên 90 thế kỷ XX, mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ. Đây là một tổn thất lớn đối với phong trào cách mạng thế giới. Sự sụp đổ này do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ yếu là do các đảng cộng sản ở Liên Xô và Đông Âu khi xác lập mô hình chủ nghĩa xã hội cũng như khi cải tổ, cải cách đã xa rời những nguyên lý cơ bản và chủ đạo của Tuyên ngôn và của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực đã giáo điều, xơ cứng, chậm thay đổi trước những biến chuyển to lớn của thời cuộc. Sự sụp đổ này không dẫn đến “cái chết của chủ nghĩa cộng sản” như ảo tưởng của các lý thuyết gia tư sản, mà qua đó 12 TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN... các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay, trong đó có Việt Nam, đã rút ra được những bài học sâu sắc trong việc nhận thức những tư tưởng, những nguyên lý cơ bản, chủ đạo của Tuyên ngôn, của chủ nghĩa Mác - Lênin để vận dụng đúng đắn, phát triển sáng tạo, phù hợp với điều kiện, đặc điểm của đất nước, của dân tộc mình và xu thế thời đại như C. Mác và Ph. Ăngghen đã căn dặn: “bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào việc áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử đương thời”1. Những thành tựu to lớn trong công cuộc cải cách, đổi mới ở Trung Quốc, Việt Nam, Lào trong vài thập niên gần đây và vị thế vững vàng của Cuba trước sự bao vây, cấm vận của Mỹ cùng với sự xuất hiện các trào lưu xã hội chủ nghĩa mới ở các châu lục và ở ngay trong lòng các nước tư bản chủ nghĩa đã minh chứng giá trị lý luận, thực tiễn và sức sống bền vững của Tuyên ngôn, của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thời đại ngày nay - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, đang đổi thay với nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp và khó lường. Trên thế giới, mặc dù chủ nghĩa xã hội vẫn còn trong giai đoạn thoái trào; chủ nghĩa tư bản còn nhiều tiềm năng, nhưng lý tưởng cao đẹp, xã hội tương lai mà Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản xác định vẫn luôn là khát vọng của nhân loại; quy luật phát triển của xã hội mà Tuyên ngôn đã chỉ ra vẫn là hướng đi của lịch sử. Theo đó, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức, bóc lột trên phạm vi toàn thế giới còn nhiều khó khăn, gian khổ, nhưng khi “Vô sản tất _______________ 1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.18, tr.128. SỨC SỐNG BỀN VỮNG CỦA TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN 13 cả các nước, đoàn kết lại” thì “Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau”1. Đối với cách mạng Việt Nam, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản có ý nghĩa hết sức đặc biệt. Từ Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin năm 1920 - bản luận cương phát triển sáng tạo tư tưởng của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản trong điều kiện lịch sử mới, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc Việt Nam và đã sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1930. 88 năm qua, được soi sáng bởi tư tưởng Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, huy động được mọi nguồn lực của đất nước, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại để giành những thắng lợi vẻ vang và đang vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của mình. Mục đích cao cả của Đảng Cộng sản Việt Nam hoàn toàn phù hợp với tư tưởng cơ bản và chủ đạo của Tuyên ngôn: đó là giải phóng toàn thể xã hội khỏi ách áp bức, bóc lột, thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. _______________ 1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.613. 14 TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN... Những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam, nhất là những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước hơn 30 năm qua đã khẳng định con đường cách mạng mà Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam lựa chọn: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là hoàn toàn đúng đắn; đồng thời cũng khẳng định và thể hiện Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định, trung thành, không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước và xu thế thời đại. Ngày nay, Việt Nam đang trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội với nhiều thời cơ, thuận lợi và cũng không ít khó khăn, thách thức. Song dưới ánh sáng của Tuyên ngôn, của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, với tinh thần kiên định, sáng tạo, với truyền thống, phẩm chất và năng lực của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam tin tưởng rằng, cách mạng Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, giành thắng lợi to lớn hơn; công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ đất nước Việt Nam nhất định sẽ thắng lợi. Kỷ niệm 170 năm ra đời Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là dịp chúng ta thêm một lần nữa nhìn nhận sâu sắc giá trị đích thực và sức sống bền vững của những tư tưởng cơ bản trong Tuyên ngôn; đồng thời chỉ ra những vấn đề cần bổ sung, hoàn thiện và phát triển những tư tưởng cơ bản đó cho phù hợp với thời đại ngày nay, phù hợp với thành tựu của cách mạng thế giới, thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại, đặc biệt là những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới, cải cách ở các nước xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là dịp SỨC SỐNG BỀN VỮNG CỦA TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN 15 chúng ta nhận diện, đấu tranh, phản bác các trào lưu tư tưởng muốn phủ định giá trị, sức sống bền vững và ý nghĩa thời đại của Tuyên ngôn, góp phần đấu tranh, xóa bỏ mọi áp bức, bất công, xây dựng một xã hội ngày càng tốt đẹp. Với tinh thần khoa học và sự trân trọng Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, tôi tin tưởng rằng Hội thảo hôm nay sẽ có những đóng góp thiết thực trên cả hai phương diện: lý luận và thực tiễn. Nhân dịp đầu xuân Mậu Tuất, theo phong tục Việt Nam, xin chúc các vị đại biểu, khách quý, các nhà khoa học trong nước và quốc tế, các đồng chí luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành công! Trân trọng cảm ơn! 16 ĐỀ DẪN HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN GIÁ TRỊ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY GS. TS. NGUYỄN XUÂN THẮNG* Kính thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Thưa các vị khách quý quốc tế, Thưa các nhà khoa học và quý vị đại biểu! Tháng 2/1848, cách đây vừa đúng 170 năm, tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản do C. Mác và Ph. Ăngghen soạn thảo đã được công bố. Được sự ủy thác của “Liên đoàn những người cộng sản” - tổ chức quốc tế đầu tiên của giai cấp công nhân và các đảng cộng sản, C. Mác và Ph. Ăngghen đã thay mặt giai cấp công nhân, những người cộng sản và cả nhân loại tiến bộ trình bày toàn bộ những quy luật phát triển cơ bản của xã hội hiện đại; sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân; tính tất _______________ * Bí thư Trung ương Đảng, Phụ trách Hội đồng Lý luận Trung ương, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. ĐỀ DẪN HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ... 17 yếu bị phủ định của chủ nghĩa tư bản và tính tất thắng của chủ nghĩa cộng sản. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là tác phẩm đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa Mác. Từ khi ra đời đến nay, thực tiễn đã có nhiều đổi thay, nhưng giá trị khoa học và sức sống vững bền của Tuyên ngôn với tư cách là cương lĩnh chính trị của giai cấp công nhân trên toàn thế giới vẫn còn nguyên giá trị. Hôm nay, chúng ta tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế kỷ niệm 170 năm ngày ra đời của tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản - cương lĩnh chính trị của giai cấp công nhân hiện đại, ngọn cờ tư tưởng lý luận của các đảng cộng sản và công nhân quốc tế trong sự nghiệp đấu tranh vì lý tưởng nhân văn cao cả: giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng loài người khỏi mọi sự áp bức, bất công, hướng tới mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ và phát triển con người toàn diện. Ban Tổ chức Hội thảo xin nhiệt liệt chào mừng các nhà khoa học, quý vị đại biểu đến từ Liên bang Nga, Trung Quốc, Cuba, Lào, Ấn Độ, Nhật Bản, Liên bang Đức và Việt Nam. Thưa các quý vị đại biểu và các nhà khoa học! Theo chủ đề của Hội thảo, chúng tôi xin trao đổi mấy ý kiến đề dẫn để các nhà khoa học tập trung làm sâu sắc thêm như sau: Thứ nhất, khẳng định giá trị lý luận và ý nghĩa thực tiễn của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đối với cách mạng thế giới và cách mạng Việt Nam. Từ khía cạnh lý luận, giá trị vĩ đại của Tuyên ngôn thể hiện ở nhận thức khoa học về quy luật phát triển của xã hội loài người và định hướng tích cực với tương lai của chủ nghĩa 18 TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN... cộng sản. Điều này đã được thực tiễn lịch sử xã hội loài người khẳng định suốt 170 năm qua. Về tổng thể, Tuyên ngôn là văn phẩm chứa đựng nhiều giá trị lý luận nền tảng. Triết học mácxít tìm thấy ở đây những giá trị nền tảng của chủ nghĩa duy vật lịch sử và một hình mẫu cho việc vận dụng phương pháp luận duy vật lịch sử vào phân tích giai cấp, nhà nước, đảng phái, dân tộc và nhiều vấn đề xã hội khác. Kinh tế chính trị mácxít tìm thấy ở đây phương pháp luận khoa học cho việc khám phá bí mật ẩn giấu đằng sau các quan hệ hàng hóa cũng như bí mật của giá trị thặng dư, nguồn gốc của bóc lột sức lao động sống trong nền sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa, v.v.. Chủ nghĩa xã hội khoa học tìm thấy những nguyên lý cơ bản nhất của mình trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, như phát hiện về “sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân hiện đại”; những nguyên lý, quy luật, biện pháp của cách mạng xã hội chủ nghĩa và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, v.v.. Tuyên ngôn là lời tuyên bố về sự diệt vong không tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản, đồng thời khẳng định sự tất thắng của chủ nghĩa cộng sản trên cơ sở tất yếu kinh tế quy định. Cho dù “Giai cấp tư sản đã đóng một vai trò hết sức cách mạng trong lịch sử”1, nhưng thắng lợi của nó trước chế độ phong kiến, vũ khí đại công nghiệp mà nó dùng để đánh bại giai cấp phong kiến, cũng chính là “vũ khí để tự giết mình”. C. Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ ra, việc thủ tiêu chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và cùng với nó là xóa bỏ toàn bộ chế độ tư bản chủ nghĩa đã được chuẩn bị một cách _______________ 1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.599. ĐỀ DẪN HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ... 19 khách quan, bởi sự tác động của chính ngay các quy luật của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa mà điển hình là quy luật giá trị thặng dư. Xu thế chung là không ngừng xã hội hóa lực lượng sản xuất trong kinh tế và dân chủ hóa trong chính trị - xã hội. Những xu thế ấy sẽ tích lũy những nhân tố, tiền đề, điều kiện cho một xã hội mới ra đời ngay trong lòng chủ nghĩa tư bản. Phủ định chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là sứ mệnh mà lịch sử đã lựa chọn và trao cho giai cấp công nhân hiện đại. “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng”1 vì họ gắn liền với sự phát triển không ngừng của sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại. Biện chứng và lôgíc phát triển của lịch sử loài người đã được khẳng định rõ trong Tuyên ngôn: “... cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, chính cái nền tảng trên đó giai cấp tư sản đã sản xuất và chiếm hữu sản phẩm của nó, đã bị phá sập dưới chân giai cấp tư sản. Trước hết, giai cấp tư sản sản sinh ra những người đào huyệt chôn chính nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau”2. Giá trị thực tiễn của Tuyên ngôn đã được minh chứng sống động bằng Công xã Paris, thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917; bằng sự ra đời và phát triển của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa với những thành tựu to lớn không thể phủ nhận; bằng sự sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân ở chính trong lòng các _______________ 1, 2. C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, tr. 610, 613. 20 TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN... nước tư bản chủ nghĩa; bằng phong trào đòi độc lập dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn cầu và bằng sự thành công của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Trung Quốc, Việt Nam và Lào hiện nay. Thực tiễn đó đã chứng tỏ, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin thực sự luôn là ngọn đuốc lý luận soi đường, dẫn lối cho các phong trào cách mạng ấy. Dù ở các châu lục khác nhau, với những trình độ phát triển khác nhau, các đảng cộng sản và giai cấp công nhân ở mỗi nước đều có thể tìm thấy những căn cứ lý luận về khả năng “làm tăng thật nhanh lực lượng sản xuất lên”; về kiểu tổ chức xã hội công bằng, bình đẳng để cho “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”1; về quan hệ quốc tế giữa các dân tộc - quốc gia “trên cơ sở của hòa bình và lao động”... Những phác thảo khoa học ở tầm cao chiến lược trong Tuyên ngôn đã được thực tiễn cách mạng thế giới chứng minh là đúng đắn. Tuyên ngôn cũng đề cập những biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội cùng với lời dặn rất rõ ràng rằng, “Trong những nước khác nhau, những biện pháp ấy dĩ nhiên sẽ khác nhau rất nhiều”2 và trong thực tế thì “những biện pháp ấy sẽ vượt quá bản thân chúng”... Những chỉ dẫn này vừa chính xác vừa giàu tính phương pháp luận. Thực tiễn của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thế giới, đặc biệt là thực tiễn cải cách, mở cửa và đổi mới của các nước xã hội chủ nghĩa gần đây đã xác nhận những luận cứ khoa học mà C. Mác - Ph. Ăngghen đã nêu trong Tuyên ngôn. _______________ 1, 2. C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.628, 627. ĐỀ DẪN HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ... 21 Đối với cách mạng Việt Nam, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản có vị trí đặc biệt quan trọng. Lãnh tụ Hồ Chí Minh tiếp nhận tinh thần của Tuyên ngôn qua đọc và tiếp thu nội dung Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin vào năm 1920 tại Paris. Đây là một trong những tác phẩm thể hiện đúng đắn, sinh động tinh thần của Tuyên ngôn trong bối cảnh lịch sử mới của các cuộc cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc. Theo đó, Hồ Chí Minh khẳng định: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản. Độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội; từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, đó là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam theo tinh thần của Tuyên ngôn và chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại mới. Những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hơn 30 năm qua là minh chứng sống động thể hiện sự vận dụng, phát triển đúng đắn, sáng tạo tinh thần của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản trong điều kiện mới. Sự thật lịch sử đó xác nhận tính khoa học, cách mạng và sáng tạo của các nguyên lý cơ bản trong Tuyên ngôn. Thứ hai, phê phán những quan điểm sai trái, thù địch để bảo vệ tư tưởng khoa học, cách mạng của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Tuyên ngôn ra đời là kết quả nghiên cứu khoa học và hoạt động thực tiễn cách mạng trong phong trào cộng sản quốc tế của C. Mác và Ph. Ăngghen. Trong Tuyên ngôn, các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác được trình bày khái quát, cô đọng ở tầm triết học nhưng cũng rất đầy đủ, chi tiết 22 TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN... cả về mặt lý luận và về mặt thực tiễn1. Nội dung và hình thức của Tuyên ngôn hoàn chỉnh, chặt chẽ. Do vậy, việc nghiên cứu, đánh giá, vận dụng Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản phải khách quan, toàn diện, phải hiểu được thực chất tinh thần của mỗi nguyên lý, mỗi luận điểm trong tính chỉnh thể của nó. 170 năm qua, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản và chủ nghĩa Mác luôn phải đối mặt với sự xuyên tạc, thậm chí hiểu sai, hiểu chưa đúng. Luận điểm nổi bật chung nhất của các kẻ thù của chủ nghĩa Mác là cố tình xuyên tạc cho rằng Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đòi xóa bỏ tư hữu ngay lập tức và tất thảy mọi hình thức của sở hữu này. Thực tế, Tuyên ngôn đã chỉ rõ: “Đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản không phải là xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản” - “biểu hiện cuối cùng và đầy đủ nhất của phương thức sản xuất và chiếm hữu sản phẩm dựa trên những đối kháng giai cấp, trên cơ sở những người này bóc lột những người kia”2. Tuy nhiên, đó là một quá trình do lịch sử phát triển sức sản xuất quy định. Ph. Ăngghen đã từng khẳng định không thể thủ tiêu chế độ tư hữu ấy ngay lập tức, vì chúng ta “không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu”3. Hoặc có luận điểm cho rằng, tư tưởng cơ bản, chủ đạo của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản chỉ là tư tưởng về _______________ 1. Xem C. Mác và Ph. Ăngghen: Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1976, tr.7. 2, 3. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.615, 469. ĐỀ DẪN HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ... 23 đấu tranh giai cấp; Tuyên ngôn đề cao giai cấp, xem nhẹ dân tộc (!). Hiểu như vậy là phiến diện, cắt xén hoặc tầm thường hóa Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Vì Tuyên ngôn đã viết rất rõ về quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, giữa trách nhiệm dân tộc và nghĩa vụ quốc tế của giai cấp công nhân: “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc”1; “Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung, không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh dân tộc. Đương nhiên là trước hết, giai cấp vô sản mỗi nước phải thanh toán xong giai cấp tư sản nước mình đã”2. Trong Lời tựa cho bản tiếng Đức “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” xuất bản năm 1883, Ph. Ăngghen từng khẳng định lý tưởng cao cả về giải phóng xã hội, giải phóng cả nhân loại của giai cấp công nhân: “hiện nay đã đến một giai đoạn mà giai cấp bị bóc lột và bị áp bức (tức là giai cấp vô sản) không còn có thể tự giải phóng khỏi tay giai cấp bóc lột và áp bức mình (tức là giai cấp tư sản) được nữa, nếu không đồng thời và vĩnh viễn giải phóng toàn thể xã hội khỏi ách bóc lột, ách áp bức và khỏi cuộc đấu tranh giai cấp...”3. Những năm gần đây, một số người còn cho rằng, những tư tưởng trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản chỉ phù hợp với thế kỷ XIX, cùng lắm là thế kỷ XX, không còn phù hợp trong thế kỷ XXI. Rằng trong kinh tế tri thức, cách mạng _______________ 1, 2. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.623-624, 611. 3. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.21, tr11-12. 24 TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN... công nghiệp 4.0, sứ mệnh lịch sử hiện nay không còn thuộc về giai cấp công nhân mà là thuộc về một số tầng lớp, giai cấp khác... Những người này phủ nhận vị thế quyết định của sản xuất vật chất, tảng lờ thực tế là không chỉ giai cấp công nhân hiện đại mà còn rất nhiều tầng lớp lao động khác, cũng như thế kỷ XIX, “bị giai cấp tư sản biến thành những người làm thuê được trả lương của nó”1. Trách nhiệm khoa học và cũng là tình cảm của chúng ta hiện nay, những người đi theo lý tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, là đấu tranh với những tư tưởng sai trái, lệch lạc, chỉ ra những cách hiểu sai, hiểu chưa đúng để bảo vệ giá trị khoa học và cách mạng của Tuyên ngôn. Thứ ba, tiếp tục vận dụng và phát triển tinh thần Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản trong bối cảnh mới. Trong Lời tựa viết cho bản tiếng Đức “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” xuất bản năm 1872, C. Mác và Ph. Ăngghen đã nói, bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào việc áp dụng các nguyên lý trong Tuyên ngôn cũng phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử đương thời. Sau đó, việc bổ sung, phát triển nhiều tư tưởng của Tuyên ngôn được C. Mác, Ph. Ăngghen thực hiện không chỉ bằng các lời tựa viết cho các lần xuất bản Tuyên ngôn mà còn bằng rất nhiều công trình nghiên cứu đồ sộ. Đó chính là thái độ mẫu mực, cách ứng xử khoa học đối với một học thuyết khoa học của C. Mác, Ph. Ăngghen. Theo tinh thần đó, V.I. Lênin cũng từng nhận định: “Chúng ta không kỳ vọng rằng Mác hay những người theo chủ nghĩa Mác đều _______________ 1. C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.600. ĐỀ DẪN HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ... 25 hiểu biết mọi mặt cụ thể của con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Như thế sẽ là phi lý. Chúng ta chỉ biết phương hướng của con đường đó và những lực lượng giai cấp nào dẫn đến con đường đó; còn như về cụ thể và trên thực tế con đường đó ra sao, thì kinh nghiệm của hàng triệu con người sẽ chỉ rõ, khi họ bắt tay vào hành động”1. Tuyên ngôn nói riêng, chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung là lý luận mang tính mở của sự phát triển. Nó có nhu cầu và khả năng thường xuyên nạp thêm năng lượng mới từ thực tiễn phong phú của cuộc sống. Từ đòi hỏi mới của thực tiễn cách mạng, từ sự soi rọi về tinh thần và phương pháp của Tuyên ngôn, có những điểm chúng ta cần phải nhận thức lại và có những điểm chúng ta cần phải nghiên cứu bổ sung, phát triển, làm sâu sắc thêm. Thế giới ngày nay đã phát triển hơn cách đây 170 năm rất nhiều. Chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp tư sản hiện nay đã có nhiều biến đổi, phát triển. Nhiều vấn đề chính trị - xã hội mà Tuyên ngôn từng đề cập nay cũng đã thay đổi phạm vi, tốc độ và mức độ ảnh hưởng. Hiện tượng quốc tế hóa thời Mác và toàn cầu hóa hiện nay, tuy giống nhau ở bản chất là “giai cấp tư sản tạo ra một thế giới theo hình ảnh của nó”, nhưng theo đó, xã hội hóa, dân chủ hóa cũng đạt tới một tầm vóc mới và làm chín muồi hơn nhiều tiền đề, điều kiện cho sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa với giai đoạn đầu là xã hội xã hội chủ nghĩa. Những vấn đề đặt ra trong mối quan hệ _______________ 1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.34, tr.152-153. 26 TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN... giữa giai cấp và dân tộc, giữa trách nhiệm dân tộc và nghĩa vụ quốc tế, giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân mà Tuyên ngôn đề cập, đến hôm nay vẫn còn nóng hổi và ngày càng phức tạp hơn. Thưa các quý vị đại biểu và các nhà khoa học! Thực tiễn cải cách, đổi mới ở các nước xã hội chủ nghĩa; sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, mối quan hệ giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản; mối quan hệ giữa lợi ích của giai cấp công nhân và lợi ích quốc gia dân tộc; mối quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước; mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa, v.v. trong bối cảnh mới đang đặt ra cho các nhà khoa học, các chính khách, các nhà quản lý nhiều vấn đề mới mẻ. Bằng việc sử dụng phương pháp duy vật biện chứng về lịch sử của Tuyên ngôn và các phương pháp nghiên cứu hiện đại, từ những xu thế của thời đại, những dữ kiện lịch sử, từ thực tiễn của các quốc gia, các nhà khoa học tham gia Hội thảo hôm nay sẽ cung cấp cho chúng ta những kiến giải mới, cách nhìn mới góp phần khẳng định giá trị bền vững và tăng cường sức sống cho Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản trong thế kỷ XXI. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản vẫn là cương lĩnh, là ngọn cờ chiến đấu của những người cộng sản. Những giá trị và thông điệp thời đại từ Tuyên ngôn vẫn là mục tiêu cao cả của toàn thể nhân loại hôm nay: Thực hiện sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân, thực hiện lý tưởng cộng ĐỀ DẪN HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ... 27 sản chủ nghĩa là để cho “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người”; để các quốc gia - dân tộc được độc lập, tự do, hòa bình, thịnh vượng và hạnh phúc. Với tinh thần và cảm hứng đó, chúng tôi mong các nhà khoa học đến từ các nước cùng trao đổi, chia sẻ và làm sáng rõ hơn những nội dung nêu trên. Xin cảm ơn sự lắng nghe của quý vị, Xin chúc Hội thảo của chúng ta thành công tốt đẹp! 28 TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN... 29 Phần thứ nhất MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN 30 TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN... 31 NHỮNG BIỆN PHÁP XÓA BỎ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN VÀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN TRONG TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN PGS. TS. LÊ QUỐC LÝ* Kỷ niệm 170 ra đời của tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản - tác phẩm kinh điển chủ yếu của chủ nghĩa xã hội khoa học, tác phẩm lý luận bất hủ, một đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tạo của C. Mác và Ph. Ăngghen, một văn kiện mang tính cương lĩnh, có giá trị lịch sử và tràn đầy sức sống trong thực tiễn của chủ nghĩa Mác. 170 năm qua đi, cùng với thời gian, trải qua nhiều thách thức và biến cố, xã hội loài người đã có nhiều thay đổi và phát triển vượt bậc, nhưng tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản và những nguyên lý được C. Mác và Ph. Ăngghen trình bày trong tác phẩm vẫn luôn là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho toàn bộ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trước đây, hôm nay và mai sau. 170 năm qua đã chứng minh những tư tưởng, những quan điểm, những nguyên lý, những giải pháp, những nhận định, những dự báo và những luận cứ khoa học trong _______________ * Phó Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 32 TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN... Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản càng ngày càng được sáng tỏ và được thực tiễn cuộc sống khẳng định chân giá trị bất diệt, vĩnh cửu cùng với sự phát triển ngày càng đi lên của nhân loại. Nhờ vào những điều nêu trên và nhờ vào bản chất cách mạng triệt để và nội dung khoa học sâu sắc của mình, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản có ý nghĩa, giá trị và có sức sống mãnh liệt và bền vững. Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử là hai trụ cột trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã tạo thành nền tảng vững chắc của chủ nghĩa Mác và nhờ đó chủ nghĩa Mác đã luận giải một cách khoa học các quy luật phát triển khách quan của lịch sử nhân loại, lịch sử phát triển của xã hội loài người, đặc biệt luận giải về vị trí hàng đầu, vai trò quyết định của sản xuất vật chất đối với sự phát triển của xã hội nói chung, đối với sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng nói riêng. Hơn nữa, dựa trên hai trụ cột trên, chủ nghĩa Mác đã thành công trong luận giải về quá trình phát sinh, phát triển và sự tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản, sự ra đời và phát triển một cách tất yếu khách quan của chủ nghĩa xã hội, cũng như luận giải về vị trí, vai trò, sứ mệnh lịch sử và phương pháp đấu tranh của giai cấp vô sản trong công cuộc xây dựng chế độ xã hội mới, v.v.. Đây là lần đầu tiên chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử cùng các tư tưởng, quan điểm, nguyên tắc và giải pháp cách mạng được trình bày dưới dạng hoàn chỉnh, cô đọng, súc tích và có hệ thống trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, nhờ đó chủ nghĩa Mác đã vạch ra và luận chứng một cách có cơ sở lý luận, có luận cứ khoa học sâu sắc về những nguyên lý nền tảng của chủ nghĩa cộng sản khoa học. Phần thứ nhất: MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN 33 Có thể nói Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã trang bị cho giai cấp vô sản mọi mặt của hành trang cách mạng từ tinh thần, tư tưởng, nguyên lý đến giải pháp cách mạng và đã làm cho phong trào của giai cấp vô sản thu được nhiều thành quả trong suốt 170 năm qua. Đặc biệt, C. Mác và Ph. Ăngghen đã đề ra 10 biện pháp nhằm xóa bỏ chủ nghĩa tư bản và xây dựng chủ nghĩa cộng sản trong Tuyên ngôn luôn còn mãi mãi ý nghĩa và giá trị trong thực tiễn cách mạng của mỗi quốc gia, dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội. Với 10 biện pháp cách mạng được Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản vạch ra đã giúp cho giai cấp công nhân, phong trào cách mạng vô sản lớn mạnh không ngừng, đã đạt được thành công vang dội và nhiều kết quả có tính lịch sử. Những biện pháp nêu trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản có thể nói là vũ khí đấu tranh sắc bén, là công cụ vô địch của giai cấp công nhân, của phong trào cách mạng vô sản trên toàn thế giới vận dụng vào thực tiễn của mỗi nước để giành chính quyền và xây dựng nhà nước công - nông ở nhiều nước trên toàn thế giới trong suốt 170 năm qua, như: “1. Tước đoạt sở hữu ruộng đất và trao nộp địa tô vào quỹ chi tiêu của nhà nước. 2. Áp dụng thuế lũy tiến cao. 3. Xoá bỏ quyền thừa kế. 4. Tịch thu tài sản của tất cả những kẻ lưu vong và của tất cả những kẻ phiến loạn. 5. Tập trung tín dụng vào tay nhà nước thông qua một ngân hàng quốc gia với tư bản của nhà nước và ngân hàng này sẽ nắm độc quyền hoàn toàn. 6. Tập trung tất cả các phương tiện vận tải vào trong tay nhà nước. 34 TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN... 7. Tăng thêm số công xưởng nhà nước và công cụ sản xuất; khai khẩn đất đai để cày cấy và cải tạo ruộng đất theo một kế hoạch chung. 8. Thực hành nghĩa vụ lao động đối với tất cả mọi người, tổ chức các đạo quân công nghiệp, đặc biệt là cho nông nghiệp. 9. Kết hợp nông nghiệp với công nghiệp, thi hành những biện pháp nhằm làm mất dần sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn. 10. Giáo dục công cộng và không mất tiền cho tất cả các trẻ em. Xoá bỏ việc sử dụng trẻ em làm trong các công xưởng như hiện nay. Kết hợp giáo dục với sản xuất vật chất, v.v.”1. Thực tế, cho thấy các cuộc cách mạng vô sản sau khi giành chính quyền đã áp dụng khá tốt các biện pháp do Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đề ra. Hầu hết các nhà nước vô sản sau khi giành được chính quyền đều đã “tước đoạt sở hữu ruộng đất” và chia ruộng đất cho dân cày, sau đó, bước tiếp theo là tiến hành hợp tác hóa nông nghiệp đưa ruộng đất vào của chung, ruộng đất thuộc sở hữu toàn dân. Những nguồn thu từ địa tô, thuế đất đều tập trung “vào quỹ chi tiêu của nhà nước”. Tuy nhiên, do hoàn cảnh mỗi quốc gia có khác nhau, lịch sử phát triển của mỗi quốc gia cũng không giống nhau nên biện pháp này mới cho thành công bước đầu, sau đó nhiều quốc gia phải thay đổi vì nếu không sẽ khó đưa cánh mạng đến thắng lợi như mong đợi. Biện pháp “xóa bỏ quyền thừa kế” là một biện pháp triệt để cách mạng để xóa bỏ tận gốc mọi tàn tích của giai cấp tư _______________ 1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.627-628. Phần thứ nhất: MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN 35 sản, mọi tàn tích của tình trạng người bóc lột người. Tuy nhiên, do hoàn cảnh lịch sử khác nhau của các quốc gia nên những cuộc cách mạng vô sản thực hiện triệt để biện pháp này đã chưa cho phép đi đến thắng lợi cuối cùng. Bên cạnh hai biện pháp nêu trên, các biện pháp còn lại cũng nằm trong tình trạng đó, ví dụ như biện pháp “Tập trung tín dụng vào tay nhà nước thông qua một ngân hàng quốc gia với tư bản của nhà nước và ngân hàng này sẽ nắm độc quyền hoàn toàn” nếu thực hiện một cách nóng vội thì sẽ triệt tiêu hệ thống ngân hàng thương mại và dẫn đến nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu. Biện pháp “Tập trung tất cả các phương tiện vận tải vào trong tay nhà nước” nếu vận dụng một cách máy móc và cực tả cũng rất dễ đưa đến nhà nước tập quyền, triệt tiêu sự tham gia một cách chủ động, sáng tạo của các thành phần kinh tế khác và nếu nguồn lực nhà nước chưa đủ mạnh, còn nhiều yếu kém thì sẽ dẫn đến tình trạng vận tải nghèo nàn và lạc hậu, năng suất lao động thấp. Từ đó, cũng kéo theo sự kém phát triển của cả nền kinh tế. Ngay như biện pháp “Giáo dục công cộng và không mất tiền cho tất cả các trẻ em. Xoá bỏ việc sử dụng trẻ em làm trong các công xưởng như hiện nay. Kết hợp giáo dục với sản xuất vật chất” thể hiện tính rất ưu việt của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản và là đích của chúng ta hướng tới, nhưng cũng sẽ rất khó thực hiện ngay từ ngày đầu khi cuộc cách mạng vô sản nổ ra và thành công ở các nước kém phát triển, các nước nửa phong kiến, các nước còn quá nghèo nàn, lạc hậu. Do đó có thể nói, nếu thực hiện một cách máy móc, giáo điều các biện pháp nêu trên thì các nhà nước vô sản khó có 36 TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN... thể giành được thắng lợi đầy đủ theo đúng nghĩa đen của nó, bởi lẽ sự phát triển của các nước trước khi cuộc cách mạng vô sản nổ ra là khác nhau, điều kiện kinh tế, xã hội của các quốc gia này cũng hoàn toàn không giống nhau, điều kiện lịch sử của các nước, các dân tộc lại càng khác nhau. C. Mác và Ph. Ăngghen chỉ rõ các biện pháp này được áp dụng trong những hoàn cảnh lịch sử nhất định, đó là trong điều kiện cách mạng vô sản thành công ở các nước có giai cấp tư sản phát triển mạnh, những nước tư bản phát triển cao và giàu mạnh. Còn đối với các nước nghèo, các nước nửa phong kiến, các quốc gia mà giai cấp tư sản chưa phát triển thì C. Mác và Ph. Ăngghen chưa nêu biện pháp cụ thể cho các phong trào cách mạng vô sản cần phải làm gì và làm như thế nào, nên khi phong trào cách mạng vô sản thành công ở các quốc gia này, cần có các giải pháp linh hoạt và phù hợp hơn theo hướng cải tạo dần xã hội cũ để đi đến xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Khi đề ra 10 biện pháp mà nhà nước vô sản cần phải thực hiện, có thể khẳng định C. Mác và Ph. Ăngghen không bao giờ coi các biện pháp này là duy nhất, tuyệt đối, đầy đủ, không thể thay thế, mà cho rằng, trong thực tiễn xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản, lực lượng vô sản, nhà nước vô sản phải căn cứ vào những điều kiện lịch sử nhất định, cụ thể để sửa đổi tương ứng, thích hợp theo từng biện pháp. Những điều trên, có thể khẳng định qua Lời tựa viết cho bản tiếng Đức “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” xuất bản năm 1872, sau 25 năm xuất bản lần đầu Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C. Mác và Ph. Ăngghen chỉ rõ: “Mặc dầu Phần thứ nhất: MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN 37 hoàn cảnh đã thay đổi nhiều trong hai mươi lăm năm qua, nhưng cho đến nay, xét về đại thể, những nguyên lý tổng quát trình bày trong “Tuyên ngôn” này vẫn còn hoàn toàn đúng. Ở đôi chỗ, có một vài chi tiết cần phải xem lại. Chính ngay “Tuyên ngôn” cũng đã giải thích rõ rằng bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử đương thời, và do đấy, không nên quá câu nệ vào những biện pháp cách mạng nêu ra ở cuối chương II. Đoạn này, ngày nay mà viết lại thì về nhiều mặt, cũng phải viết khác đi. Vì đại công nghiệp đã có những bước tiến hết sức lớn trong hai mươi lăm năm qua và giai cấp công nhân cũng đạt được những tiến bộ song song trong việc tự tổ chức thành chính đảng, do có những kinh nghiệm thực tiễn... Tuy nhiên, “Tuyên ngôn” là một tài liệu lịch sử mà chúng tôi không có quyền sửa lại. Có lẽ là trong một lần xuất bản, sẽ có một lời tựa để bổ sung vào khoảng trống từ năm 1847 đến nay”1. Hơn nữa, chủ nghĩa Mác đã luôn luôn khẳng định những người cộng sản muốn thành công khi vận dụng các tư tưởng, quan điểm, nguyên lý, biện pháp cách mạng trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản vào thực tiễn, cần phải không ngừng bổ sung và phát triển một cách sáng tạo phù hợp với những điều kiện lịch sử, những đặc thù đất nước và đặc điểm dân tộc cụ thể. Ph. Ăngghen năm 1880, đã một lần nữa khẳng định: “Muốn làm cho chủ nghĩa xã hội thành một khoa học thì trước hết phải đặt chủ nghĩa xã hội trên một cơ _______________ 1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.18, tr.128. 38 TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN... sở hiện thực”1 và “ngày nay, vấn đề trước hết là phải nghiên cứu thêm, trong mọi chi tiết và mọi mối liên hệ của nó”2. Thực tế 170 năm qua đã khẳng định, dựa trên tinh thần, tư tưởng và nguyên lý, biện pháp cách mạng của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, nhiều cuộc cách mạng vô sản đã được tiến hành, đã nổ ra ở nhiều quốc gia và nhờ đó nhiều nước xã hội chủ nghĩa được hình thành và đã có nhiều thành công rực rỡ. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy giai cấp vô sản ở một số nước sau khi giành được chính quyền do áp dụng một cách máy móc, giáo điều các nguyên lý, các biện pháp trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản và chủ nghĩa Mác - Lênin nên đã gặp phải nhiều sai lầm, yếu kém và cuối cùng sụp đổ. Một số chính đảng cộng sản khác đã kịp thời đổi mới tư duy, sáng tạo, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp tư tưởng, nguyên lý trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước nên đã tồn tại và phát triển, đạt được nhiều thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Bên cạnh đó, từ khi Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ra đời, các phong trào công nhân quốc tế, phong trào cách mạng vô sản đã nổ ra ở nhiều nước trên thế giới, phong trào giải phóng dân tộc đã lan rộng khắp năm châu, tất cả những điều đó là nhờ tư tưởng và tinh thần cách mạng bất diệt của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Tuy nhiên, cũng chính do sự giáo điều, bảo thủ, lạc hậu đã đưa nhiều phong trào cách mạng vô sản, phong trào công nhân và phong trào giải phóng _______________ 1, 2. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.19, tr.293, 305. Phần thứ nhất: MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN 39 dân tộc không đi đến được thắng lợi cuối cùng, một số phong trào này bị tha hóa và giảm sút tính chiến đấu nên không đưa đến kết quả như mong đợi, mà đứng trước nguy cơ thoái trào. Đảng Cộng sản Việt Nam từ ngày thành lập đến nay đã không ngừng vận dụng một cách sáng tạo tinh thần, tư tưởng, quan điểm, nguyên lý và các biện pháp cách mạng trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản vào hoàn cảnh, điều kiện phát triển của Việt Nam nên đã đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Với thực tiễn sinh động của Việt Nam, cuộc cách mạng của giai cấp vô sản giành được chính quyền khi đất nước đang trong tình trạng nửa phong kiến, nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển, giai cấp vô sản chưa đủ đông..., nền kinh tế chưa phát triển, do vậy Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo các biện pháp trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản một cách linh hoạt và uyển chuyển nhất. Đặc biệt, sau đổi mới năm 1986, Việt Nam đã vận dụng các biện pháp trên vô cùng sáng tạo, đã khẳng định phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan, các quy luật thị trường được tôn trọng, cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp dần dần được xóa bỏ, các hoạt động ngân hàng được phát triển như hiện nay là một sự đúng đắn. Hơn nữa, thực hiện sự nghiệp đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đúng đắn hơn khi công nhận sự phát triển bình đẳng của các thành phần kinh tế, coi kinh tế tư nhân là động lực phát triển của nền kinh tế, đặc biệt, quyền sở hữu chính đáng của người dân, của các cá nhân được trân trọng và bảo vệ. 40 TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN... Thực tế, trong những năm qua, tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được đổi mới mạnh mẽ, nhiều biện pháp đã được đổi mới liên tục, sáng tạo phù hợp với điều kiện Việt Nam bảo đảm cho đất nước không ngừng phát triển và giàu mạnh. Với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, những tư tưởng, quan điểm, nguyên tắc và biện pháp nêu trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản lại một lần nữa soi rọi con đường đi lên của cách mạng Việt Nam và với sự sáng tạo và đổi mới không ngừng từ tư duy đến hành động, nước ta sẽ chắc chắn đi đến thắng lợi cuối cùng, tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản một cách vững chắc. 41 CHỦ NGHĨA QUỐC TẾ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN: TỪ TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN ĐẾN HIỆN THỰC CÁCH MẠNG PGS. TS. NGUYỄN VIẾT THẢO* 1. Cách đây 170 năm, C. Mác và Ph. Ăngghen đã kết thúc bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản bằng khẩu hiệu mang tính cương lĩnh phản ánh chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân: “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!”1. Thực tiễn cách mạng vô sản từ đó đến nay đã khẳng định chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân đã được thực tiễn kiểm nghiệm là nguyên tắc hoạt động đặc trưng nhất của những lực lượng cộng sản chân chính; là nguyên lý xuyên suốt lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa xã hội khoa học. Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, hay còn gọi là chủ nghĩa quốc tế vô sản, là tình đoàn kết quốc tế; sự thống nhất về nhận thức, lập trường và hành động của giai cấp công nhân toàn thế giới trong cuộc đấu tranh cách mạng vì những mục tiêu cao cả của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; sự tôn trọng cương lĩnh, _______________ * Phó Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.646. 42 TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN... đường lối, chiến lược của mỗi đảng cộng sản và công nhân; trách nhiệm của mỗi đảng đó đối với công nhân, nhân dân lao động nước mình và công nhân, lao động các nước khác trên thế giới. Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân là ý thức về sự thống nhất lợi ích giai cấp của những người vô sản trên toàn thế giới. Nó xuất phát trước hết từ địa vị kinh tế - xã hội của họ. C. Mác chỉ ra rằng: “công nghiệp lớn tạo ra ở khắp nơi những quan hệ như nhau giữa các giai cấp xã hội và do đó xoá bỏ tính chất riêng biệt của những dân tộc khác nhau. Và sau hết, trong khi giai cấp tư sản của mỗi dân tộc còn duy trì những lợi ích dân tộc riêng biệt thì công nghiệp lớn lại tạo ra một giai cấp cùng có những lợi ích như nhau trong tất cả các dân tộc, một giai cấp không còn tính riêng biệt dân tộc nữa”1. Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân là sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong giai cấp công nhân. Điều này là một hệ quả từ chính sự phát triển của chủ nghĩa tư bản: “Sự thống trị của tư bản là có tính chất quốc tế. Chính vì thế, cuộc đấu tranh của công nhân ở tất cả các nước để tự giải phóng, chỉ có thể thành công được, nếu công nhân cùng nhau đấu tranh chống lại tư bản quốc tế”2; đồng thời, “giai cấp vô sản chỉ có thể tồn tại trên quy mô của lịch sử thế giới, cũng như chủ nghĩa cộng sản, tức là hoạt động của giai cấp vô sản, hoàn toàn chỉ có thể tồn tại được với tư cách là một tồn tại “có tính lịch sử thế giới”3. _______________ 1, 3. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.87-88, 51. 2. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.115. Phần thứ nhất: MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN 43 Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân là sự thống nhất về mục tiêu đấu tranh để giai cấp công nhân trở thành đại biểu cho lợi ích toàn dân tộc và nhân loại. Ph. Ăngghen đã nhiều lần vạch rõ, “Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung, không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh dân tộc. Đương nhiên là trước hết, giai cấp vô sản mỗi nước phải thanh toán xong giai cấp tư sản nước mình đã”1. Người còn cảnh báo trong Lời tựa viết cho bản tiếng Italia “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” năm 1893: “Không khôi phục lại độc lập và thống nhất cho từng dân tộc thì về phương diện quốc tế, không thể thực hiện được sự đoàn kết của giai cấp vô sản và sự hợp tác hòa bình và tự giác giữa các dân tộc đó để đạt tới những mục đích chung”2. Hơn nữa, C. Mác và Ph. Ăngghen còn nêu bật sự thống nhất giữa các mục tiêu giải phóng giai cấp và mục tiêu giải phóng xã hội: “lịch sử của cuộc đấu tranh giai cấp ... hiện nay đã đến một giai đoạn mà giai cấp bị bóc lột và bị áp bức (tức là giai cấp vô sản) không còn có thể tự giải phóng khỏi tay giai cấp bóc lột và áp bức mình (tức là giai cấp tư sản) được nữa, nếu không đồng thời và vĩnh viễn giải phóng toàn thể xã hội khỏi ách bóc lột, ách áp bức và khỏi cuộc đấu tranh giai cấp”3. Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, V.I. Lênin đã phát hiện ra sự gắn bó về lợi ích sống còn giữa giai cấp công nhân và các dân tộc, từ đó Người đã phát triển khẩu hiệu hành động _______________ 1, 2, 3. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.611; t.22, tr.544; t.21, tr.11-12. 44 TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN... thành: “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!”. “Đối lập với thế giới cũ, cái thế giới của áp bức dân tộc, của sự phân tranh dân tộc hoặc của sự tách biệt giữa các dân tộc, công nhân đưa ra một thế giới mới, một thế giới trong đó những người lao động thuộc mọi dân tộc đoàn kết với nhau, trong đó không có chỗ cho bất cứ một đặc quyền đặc lợi nào, cũng như không có chỗ cho bất cứ một sự áp bức nhỏ nào giữa người với người”1. 2. Từ giữa thế kỷ XIX, dưới sự lãnh đạo của các lãnh tụ vô sản, giai cấp công nhân và các lực lượng cách mạng đã áp dụng nhiều hình thức phong phú để thực hiện chủ nghĩa quốc tế phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể. Nổi bật nhất, đó là sự ra đời và hoạt động của các tổ chức quốc tế của giai cấp công nhân: Hội Liên hiệp công nhân quốc tế (Quốc tế I, 1864 - 1872); Quốc tế II (1889 - 1914) và Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III, 1919 - 1943). Hội Liên hiệp công nhân quốc tế (Quốc tế I) được thành lập ngày 28/9/1864 tại London (Luân Đôn, Anh). Là một tổ chức bao gồm những đại biểu công nhân thuộc nhiều trào lưu tư tưởng khác nhau, có mục đích rõ rệt là “đoàn kết tất cả các lực lượng chiến đấu của giai cấp vô sản châu Âu và châu Mỹ... Cương lĩnh của Quốc tế phải khá rộng rãi để cho cả những hội công liên ở Anh, những môn đồ của Pruđông ở Pháp, Bỉ, Italia và Tây Ban Nha, cũng như phái Látxan ở Đức đều có thể chấp nhận được”2. Chính C. Mác là người đã soạn ra một cương lĩnh như vậy và ông đã thành công trong _______________ 1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.23, tr.194. 2. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.21, tr.518. Phần thứ nhất: MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN 45 sách lược kiểu mẫu, đoàn kết thống nhất các đội ngũ vô sản cách mạng, đấu tranh thắng lợi chống lại các khuynh hướng bè phái. Điều lệ của Hội nêu rõ: “Hội này được thành lập là để làm một trung tâm liên lạc và hợp tác giữa các đoàn thể công nhân hiện đang tồn tại ở các nước khác nhau và theo đuổi cùng một mục đích, - tức là bảo vệ, phát triển và giải phóng hoàn toàn giai cấp công nhân”1. Với hơn 10 năm hoạt động, Hội Liên hiệp công nhân quốc tế đã tiến hành thắng lợi việc truyền bá chủ nghĩa cộng sản khoa học vào phong trào công nhân, đấu tranh cho sự thống nhất trong giai cấp công nhân về tư tưởng và tổ chức trên phạm vi quốc tế. Sau này, lãnh tụ V.I. Lênin đánh giá: Quốc tế I “sống mãi trong lịch sử đấu tranh của giai cấp công nhân nhằm tự giải phóng. Nó đã xây nền đắp móng cho lâu đài cộng hòa xã hội chủ nghĩa thế giới mà ngày nay chúng ta đang được vinh hạnh xây dựng”2. Quốc tế II được thành lập trong Đại hội quốc tế của công nhân, tổ chức tại Paris (Pháp) ngày 14/7/1889 với sự tham dự của gần 400 đại biểu đến từ hơn 20 quốc gia châu Âu, châu Mỹ. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ph. Ăngghen, Đại hội khẳng định: chủ nghĩa cộng sản khoa học là nền tảng tư tưởng của phong trào công nhân xã hội chủ nghĩa; sự nghiệp giải phóng lao động chỉ có thể do giai cấp vô sản toàn thế giới lãnh đạo; giai cấp vô sản phải giành lấy chính quyền để thực hiện tước đoạt tư bản và biến tư liệu sản xuất thành tài sản xã hội... Trong những năm tiếp theo, Quốc tế II tổ chức thêm 3 kỳ đại hội: năm 1891 tại Bruxelles (Brúcxen, Bỉ); năm 1893 _______________ 1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.16, tr.25. 2. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.38, tr.278. 46 TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN... tại Zurich (Duyrích) và năm 1896 tại London. Do sự chống phá của các lực lượng cơ hội, đặc biệt là từ khi Ph. Ăngghen mất (1895), Quốc tế II bị phân hóa, phân rã, phân liệt nặng nề và cuối cùng bị phá sản trước ngưỡng cửa Chiến tranh thế giới thứ nhất. Tuy nhiên, Quốc tế II có đóng góp rất quan trọng vào cuộc đấu tranh tư tưởng, bảo vệ, bổ sung, phát triển và truyền bá chủ nghĩa Mác, đánh dấu thời kỳ chuẩn bị cơ sở để phong trào công nhân xã hội chủ nghĩa lan rộng trong quần chúng ở nhiều nước, như V.I. Lênin nhận định1. Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) ra đời tại Đại hội thành lập Quốc tế Cộng sản, tổ chức từ ngày 2 đến ngày 6/3/1919 tại Thủ đô Mátxcơva (Nga) dưới sự chủ trì của lãnh tụ V.I. Lênin với sự tham dự của 51 đại biểu đến từ 30 nước châu Âu, châu Mỹ, châu Á. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh trình bày những nguyên lý quan trọng nhất của chủ nghĩa Lênin về chủ nghĩa đế quốc và lý luận cách mạng xã hội chủ nghĩa; đã bầu ra Ban Chấp hành gồm đại biểu của nhiều Đảng Cộng sản; thật sự trở thành trung tâm lãnh đạo phong trào cộng sản và phong trào cách mạng trên thế giới. Bám sát thực tiễn sôi động của phong trào cách mạng thế giới, các kỳ đại hội của Quốc tế Cộng sản đã xác định chiến lược, sách lược đấu tranh quan trọng, trong đó có đề cương về Mặt trận thống nhất công nhân, Mặt trận thống nhất chống đế quốc và phong kiến; Báo cáo 5 năm cách mạng Nga và triển vọng của cách mạng thế giới; chú trọng vấn đề dân tộc thuộc địa; nêu ra ba loại hình cách mạng xã hội chủ nghĩa tương ứng với ba loại nước; Cương lĩnh mặt trận chống nguy _______________ 1. Xem V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.38, tr.363. Phần thứ nhất: MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN 47 cơ của chủ nghĩa phát xít; nghị quyết thống nhất phong trào công đoàn thế giới... Trước bối cảnh ngặt nghèo của chiến tranh, ngày 15/5/1943, Ban Chấp hành đã ra nghị quyết giải tán Quốc tế Cộng sản, chấm dứt 24 năm hoạt động. Công lao to lớn của Quốc tế Cộng sản là nhằm thực hiện chuyên chính vô sản. Nếu như Quốc tế I đã đặt nền tảng cho cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản có tính chất quốc tế để thực hiện chủ nghĩa xã hội; Quốc tế II đã đánh dấu thời kỳ chuẩn bị cơ sở làm cho phong trào vô sản phát triển rộng rãi ở nhiều nước, thì Quốc tế Cộng sản đã kế thừa tất cả những thành quả đó, gạt bỏ mọi biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội, bắt đầu thực hiện chuyên chính vô sản với tính cách nhà nước của công - nông và nhân dân lao động. Từ giữa thế kỷ XX, xuất hiện hàng loạt vấn đề mới, phức tạp đặt ra cho cuộc đấu tranh vì những mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới. Cũng vào thời kỳ đó, nảy sinh nhiều rạn nứt, khủng hoảng về tư tưởng, lý luận và chính trị trong nội bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa. Lợi dụng bối cảnh ấy, chủ nghĩa đế quốc tăng cường công kích, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội. Các lực lượng cơ hội, xét lại cổ xúy cho cùng tồn tại hòa bình, tuyệt đối hóa con đường cách mạng phi bạo lực, thủ tiêu đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai hệ thống. Tháng 11/1957, đại diện của 12 đảng cộng sản, công nhân tổ chức Hội nghị đại biểu các đảng cộng sản và công nhân quốc tế tại Mátxcơva. Hội nghị ra Tuyên bố chung phân tích nội dung cơ bản của thời đại hiện nay là sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội; nêu lên những nguyên tắc quan hệ giữa các nước trong hệ thống xã hội chủ 48 TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN... nghĩa - đó là chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa; vạch ra một số quy luật chung bắt buộc đối với các nước tiến lên chủ nghĩa xã hội; nhấn mạnh nhiệm vụ giáo dục chủ nghĩa quốc tế vô sản, ngăn chặn chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa sô vanh nước lớn... Bản tuyên bố này được đông đảo các đảng cộng sản, công nhân xem là văn bản chỉ đạo có tính chất cương lĩnh chung. Theo nghị quyết của Hội nghị, tháng 9/1958, Tạp chí Những vấn đề của hòa bình và chủ nghĩa xã hội đã ra số đầu tiên, xuất bản bằng 34 ngôn ngữ, phát hành ở 145 nước trên thế giới. Tạp chí là diễn đàn thông tin, trao đổi kinh nghiệm; công cụ giáo dục lý luận cách mạng; vũ khí đấu tranh tư tưởng; không gian tập hợp lực lượng, phối hợp hành động, củng cố sự đoàn kết, thống nhất của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Những bước phát triển mạnh mẽ của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới từ cuối thập niên 1950 chứng minh tính đúng đắn của những luận điểm được nêu trong Tuyên bố của Hội nghị năm 1957; đồng thời, đặt ra nhu cầu phát triển kịp thời nội dung của những luận điểm đó nhằm thống nhất lãnh đạo, chỉ đạo cuộc đấu tranh cách mạng trên phạm vi thế giới. Sau khi dự Lễ kỷ niệm 43 năm Cách mạng Tháng Mười Nga (1917 - 1960), tại thủ đô Mátxcơva, các đại biểu đã tổ chức Hội nghị 81 đảng cộng sản, công nhân. Đây là hội nghị quốc tế lớn nhất của các lực lượng cộng sản, công nhân quốc tế; đã thông qua Tuyên bố chung và Lời kêu gọi nhân dân toàn thế giới. Các văn kiện này nêu lên một cách toàn diện nội dung và tính chất của thời đại ngày nay; trình bày quan điểm về các vấn đề nóng hổi nhất như: chiến tranh, hòa bình, Phần thứ nhất: MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN 49 cùng tồn tại hòa bình; tổng kết những kinh nghiệm cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó nhấn mạnh phải kết hợp đúng đắn những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội với những đặc điểm dân tộc; phải kết hợp chặt chẽ lợi ích của dân tộc mình với lợi ích của toàn hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới... Để tăng cường sự đoàn kết nhất trí trong phong trào cộng sản quốc tế, bản tuyên bố nhấn mạnh phải tiếp tục đấu tranh trên cả hai mặt trận: chống chủ nghĩa xét lại hiện đại là nguy cơ chủ yếu; đồng thời chống chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa bè phái. Ngoài ra, cần giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa các đảng anh em. Tất cả các đảng đều độc lập, bình đẳng, đồng thời có nghĩa vụ ủng hộ và giúp đỡ lẫn nhau, tự nguyện tuân theo những kết luận đã nhất trí thông qua sau khi thảo luận dân chủ trong các hội nghị quốc tế, các đảng anh em phải bảo vệ hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Sau Hội nghị năm 1960, hoạt động lý luận và thực tiễn của các đảng cộng sản, công nhân được tăng cường triển khai: vừa tổng kết phong trào cách mạng, vạch ra những vấn đề lý luận cơ bản, cấp bách và xây dựng đường lối, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, các trào lưu tư tưởng cơ hội, hữu khuynh, xét lại hiện đại cũng lan rộng trong nội bộ đội ngũ cộng sản thế giới, đe dọa khối đoàn kết thống nhất của toàn bộ phong trào. Nghiêm trọng hơn, đó là mối bất đồng giữa một số nước xã hội chủ nghĩa, nhất là giữa Liên Xô và Trung Quốc trên các phương diện tư tưởng, lý luận, đường 50 TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN... lối, chiến lược cách mạng. Lãnh đạo Trung Quốc công bố thư ngỏ, công khai thể hiện quan điểm cho rằng: cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở châu Á, Phi, khu vực Mỹ Latinh mới là nhân tố quyết định xu thế phát triển của thế giới; chiến tranh thế giới tất yếu phải nổ ra và đó là con đường để tiêu diệt chủ nghĩa đế quốc; trung tâm cách mạng thế giới đã chuyển từ châu Âu sang châu Á và Trung Quốc mới xứng đáng là đội tiền phong lãnh đạo phong trào cách mạng thế giới... Từ ngày 5 đến ngày 17/6/1969, Hội nghị quốc tế 75 đảng cộng sản và công nhân đã được tổ chức tại Mátxcơva. Hội nghị đã thông qua văn kiện “Nhiệm vụ đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc trong giai đoạn hiện nay và sự thống nhất hành động của các đảng cộng sản và công nhân, của tất cả các lực lượng chống đế quốc”. Văn kiện xác định cuộc đấu tranh giữa hai hệ thống xã hội đối lập tùy thuộc vào những thành tựu và sự đoàn kết của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Phương hướng chính trong đoàn kết hệ thống xã hội chủ nghĩa là thực hiện trong cuộc sống những nguyên tắc của chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa. Do vậy, việc bảo vệ chủ nghĩa xã hội là nghĩa vụ của tất cả các đội ngũ cộng sản trên thế giới. Hội nghị cho rằng khối đoàn kết của các đảng cộng sản, công nhân là nhân tố quan trọng nhất để thống nhất tất cả các lực lượng chống đế quốc. Xuất phát từ điều kiện lịch sử và nhiệm vụ cụ thể khác nhau, mỗi đảng phải tự định ra chính sách, phương hướng, hình thức và phương pháp đấu tranh cụ thể. Cơ sở của mối quan hệ giữa các đảng anh em là những nguyên tắc của chủ nghĩa quốc tế vô sản, đoàn kết và Phần thứ nhất: MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN 51 ủng hộ lẫn nhau, tôn trọng độc lập, chủ quyền và bình đẳng, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Việc kết hợp đúng đắn lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế có ý nghĩa hàng đầu để mỗi đảng có thể làm tròn trách nhiệm của mình trước giai cấp công nhân nước mình và giai cấp công nhân quốc tế. Văn kiện Hội nghị nhấn mạnh: “Trách nhiệm dân tộc và trách nhiệm quốc tế của mỗi đảng cộng sản, công nhân là không thể chia rẽ. Những người mácxít - lêninnít vừa là những người yêu nước, vừa là những người quốc tế chủ nghĩa, họ bác bỏ tính hẹp hòi dân tộc và cũng phản đối việc phủ nhận hay đánh giá thấp lợi ích dân tộc và bác bỏ cả khuynh hướng bá quyền”. Sau Hội nghị năm 1969, các lực lượng cộng sản trên thế giới đã tăng cường gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm, phối hợp hành động. Các hội nghị đại biểu các đảng cộng sản, công nhân các nước Arập, các nước châu Phi, các nước Mỹ Latinh, các nước Bắc Âu, các nước châu Âu... liên tiếp được tổ chức, góp phần củng cố phong trào cộng sản quốc tế như một thực thể hoạt động thống nhất. 3. Cuộc khủng hoảng của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, sự sụp đổ của các chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu từ cuối thập niên 80 thế kỷ XX và sự tan rã của Liên Xô tháng 12/1991 là tổn thất nặng nề nhất của phong trào cộng sản quốc tế kể từ khi ra đời vào giữa thế kỷ XIX. Nguyên nhân gây ra thảm họa này rất đa dạng, trong đó có tình trạng vi phạm nghiêm trọng đối với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân - cả trong tư tưởng, nhận thức, lý luận và cương lĩnh, đường lối cũng như hoạt động thực tiễn của các đảng cộng sản cầm quyền. 52 TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN... Như hậu quả không tránh khỏi, toàn bộ phong trào cộng sản quốc tế sau năm 1991 bị lún sâu vào khủng hoảng, tan vỡ và phải đối mặt với nhiều thách thức nghiệt ngã nhất của lịch sử. Từ giữa thập niên 1990, diễn ra quá trình phục hồi của các đảng cộng sản, công nhân ở không gian của Liên Xô (trước đây), khu vực Đông Âu và trên thế giới. Điểm sáng nhất trong toàn cảnh phong trào cộng sản quốc tế sau năm 1991 đó là quá trình cải cách, mở cửa, đổi mới, cập nhật mô hình xã hội chủ nghĩa về phát triển kinh tế xã hội ở Trung Quốc, Việt Nam, Cuba, Lào. Chế độ xã hội chủ nghĩa đã trụ vững trước các đảo lộn địa - chính trị toàn cầu, phá tan huyền thoại về sự cáo chung của chủ nghĩa cộng sản; đồng thời, đã năng động vượt qua các hạn chế, sai lầm của bản thân, thích ứng với các xu thế phát triển của thế giới hiện đại, đem lại sinh lực mới cho cho tư duy lý luận và hiện thực xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, với tính cách là thực thể trong thế giới đương đại, phong trào cộng sản quốc tế còn phải khắc phục những hạn chế và vượt qua các thách thức lớn. Một là, mặc dù số lượng khá đông đảo, nhưng các lực lượng cộng sản, các quốc gia xã hội chủ nghĩa chưa tạo thành một đội ngũ thống nhất, đoàn kết, chưa thể hiện được ý chí và năng lực phối hợp hành động chung; bởi vậy, chưa trở thành một lực lượng vật chất toàn thế giới đủ sức đối trọng với chủ nghĩa tư bản đế quốc. Hai là, những thắng lợi của một số đảng cộng sản trong bầu cử, tuy là to lớn, nhưng chưa thể làm thay đổi chế độ kinh tế - xã hội và chính trị ở những nước đó, càng chưa thể nghĩ tới việc giành chính quyền về tay quần chúng cách mạng, về tay nhân dân lao động. Ba là, sự nghiệp cải cách, đổi mới chủ Phần thứ nhất: MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN 53 nghĩa xã hội vẫn còn rất nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến mô hình, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội cần được làm sáng tỏ; nguy cơ chệch hướng, tự diễn biến, tự chuyển hóa vẫn nghiêm trọng. Bốn là, cuộc khủng hoảng về lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới, sự thoái trào của phong trào cộng sản quốc tế vẫn chưa được khắc phục, thậm chí có mặt đáng lo ngại hơn. Năm là, các thế lực đế quốc, phản động chống phá ngày càng tinh vi, ngày càng lợi hại, gây ra cho phong trào cộng sản quốc tế nguy cơ, thách thức chưa hề có tiền lệ. Trong bối cảnh của thế giới ngày nay và đứng trước nhiệm vụ mới của sự nghiệp cách mạng, những mối quan hệ vì lợi ích giai cấp giữa các lực lượng cộng sản cần phải được cấu trúc lại một cách phù hợp, khả thi cả về nội dung và hình thức thực hiện: Trước hết, phải tăng cường giáo dục chủ nghĩa quốc tế vô sản, chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân cho đảng viên và quần chúng cách mạng ở mỗi nước, nhất là cán bộ đảng viên đang giữ trọng trách lãnh đạo, quản lý. Mỗi cán bộ, đảng viên cần nhận thức rằng, tuy sức mạnh tự thân là yếu tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp cách mạng ở từng quốc gia, nhưng không đội ngũ cộng sản nào, không quốc gia xã hội chủ nghĩa nào có thể một mình đi lên chủ nghĩa xã hội được. Sự nghiệp ấy nhất định phải là một sự nghiệp mang bản chất quốc tế sâu rộng. Kể cả Đảng và nhân dân Việt Nam, Trung Quốc..., tuy có thể trụ vững, đổi mới, cải cách chủ nghĩa xã hội với nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, nhưng nếu cách mạng thế giới còn khó khăn, thoái trào, thì cũng không thể giành được thắng lợi cuối cùng; ngược lại, 54 TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN... sẽ thường xuyên bị các lực lượng phản động, chống cộng toàn thế giới chống phá một cách bài bản, không thể xem thường. Hai là, phải tăng cường thông tin, tuyên truyền tình hình đội ngũ cộng sản ở các nước và trên toàn thế giới để các lực lượng cộng sản hiểu biết lẫn nhau kịp thời, đầy đủ, đúng đắn trước các chiến dịch thông tin xuyên tạc của các thế lực thù địch. Lịch sử phong trào cộng sản quốc tế chứng minh rất rõ, mỗi khi thiếu thông tin về nhau, các lực lượng cộng sản trên thế giới thường bị rơi vào nhiều căn bệnh, từ ấu trĩ “tả” khuynh đến cơ hội hữu khuynh, xét lại, bá quyền đảng lớn, bè phái cục bộ... Mặt khác, chưa bao giờ các phương tiện truyền thông có sức mạnh và tác động vô cùng lợi hại như trong thế giới ngày nay. Bởi vậy, mỗi tổ chức cộng sản cần chủ động, sáng tạo chia sẻ thông tin về mình cho lực lượng cộng sản toàn thế giới thông qua các phương tiện truyền thống (báo, tạp chí, đài phát thanh, truyền hình, xuất bản...) và các phương tiện hiện đại (hộp thư điện tử, trang thông tin điện tử, mạng xã hội, báo chí điện tử, sách điện tử, truyền thông đa phương tiện - đa nền tảng công nghệ...). Ba là, trong quá trình xây dựng cương lĩnh, đường lối, chính sách và trong hoạt động thực tiễn của mình, mỗi lực lượng cộng sản phải đảm bảo tôn trọng lợi ích của toàn bộ giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới, phòng tránh các xu hướng cục bộ hẹp hòi, tuyệt đối hóa lợi ích riêng của giai cấp công nhân nước mình. Đã có thời, lực lượng công nhân, cộng sản ở các nước khác nhau đều nhân danh lòng ái quốc bỏ phiếu tán thành ngân sách chiến tranh cho chính phủ tư sản ở nước mình, vô tình đã trở thành đồng lõa với các thế lực đế quốc châm lên ngọn lửa Chiến tranh thế giới thứ Phần thứ nhất: MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN 55 nhất. Bài học đắt giá này còn nguyên giá trị cảnh báo trong thế giới toàn cầu hóa hiện nay, khi mỗi chính sách mời gọi đầu tư nước ngoài, chính sách lao động - tiền lương, chính sách thuế, chiến lược xuất nhập khẩu, chính sách đối ngoại... do chính phủ ở mỗi nước ban hành đều tác động trực tiếp đến người lao động ở các nước khác, trước hết là những nước đối tác. Bốn là, ủng hộ và bảo vệ chủ nghĩa xã hội cần trở thành nhiệm vụ chung quy tụ, tập hợp, gắn kết và đoàn kết, thống nhất của các lực lượng cộng sản toàn thế giới. Các quốc gia xã hội chủ nghĩa đã vượt qua chồng chất khó khăn, thách thức từ sau năm 1991, không chỉ thành công trong bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc, Việt Nam, Cuba, Lào... mà còn đem lại sức mạnh, vị thế mới cho chủ nghĩa xã hội. Đây là thắng lợi và niềm hy vọng chung của công nhân, cộng sản và cách mạng toàn thế giới. Chính vì vậy, các lực lượng cộng sản, giai cấp công nhân và quần chúng cách mạng thế giới, trước hết là các đảng cộng sản cầm quyền, cần gác lại mọi mâu thuẫn, bất đồng, khác biệt để ưu tiên nhiệm vụ và lợi ích chung là ủng hộ, bảo vệ chủ nghĩa xã hội như một thực thể quyền lực ngày càng hùng mạnh trong thế giới đầy nghịch lý hiện nay. Cũng cần trân trọng, tôn trọng và thực sự cầu thị nghiên cứu từng sáng tạo cộng sản trong nỗ lực chung xây dựng những mô hình xã hội chủ nghĩa phù hợp và làm sáng tỏ con đường của từng quốc gia đi lên chủ nghĩa xã hội. Năm là, cần xây dựng cơ chế, thiết chế và diễn đàn, tổ chức quốc tế phù hợp của các lực lượng cộng sản trên thế giới hiện nay. Tuy có đội ngũ đảng viên đông đảo nhất so với các 56 TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN... đảng chính trị khác, nhưng cái yếu nhất của các đảng cộng sản và công nhân hiện nay là chưa biết tập hợp nhau lại thành một đội ngũ thông qua hình thức tổ chức quốc tế phù hợp. Trong khi đó, các thế lực tư bản độc quyền, tư bản đế quốc tỏ ra khôn ngoan xiết chặt đội hình thông qua các thiết chế chung như NATO, G7, Diễn đàn Kinh tế thế giới Davos..., cùng nhau chi phối các tổ chức quốc tế toàn cầu như WTO, IMF, WB... Có thể kết luận rằng, chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân là một quy luật của cách mạng xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Từ chỗ là ước mơ không tưởng, một “bóng ma” ám ảnh châu Âu, chủ nghĩa cộng sản đã trở thành lý luận khoa học và cách mạng soi đường cho công nhân, lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới lật đổ ách thống trị của tư bản, thực dân, đế quốc và xây dựng chế độ xã hội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Thế giới từ năm 1917 đến nay không còn là thế giới độc tôn của chủ nghĩa tư bản. Hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa, với biểu hiện ban đầu là chủ nghĩa xã hội, đã trở thành hiện thực sống động trên một phần đáng kể của trái đất và đã, đang là cuộc sống thực tại của hàng tỷ con người. Những thành tựu vĩ đại này có được, trên ý nghĩa rất lớn, là nhờ đội ngũ công nhân toàn thế giới dưới sự lãnh đạo của các chính đảng tiền phong đã nhận thức đúng đắn và hành động tự giác theo các quy luật của cách mạng vô sản, trong đó có chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Ngược lại, những đổ vỡ, mất mát và những trang sử xót xa nhất của phong trào cộng sản quốc tế đều là hậu quả của việc xem nhẹ, xa rời, phản bội lại các quy luật ấy. Phần thứ nhất: MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN 57 Trong thế giới toàn cầu hóa hiện nay, chủ nghĩa tư bản ngày càng trở thành một lực lượng toàn cầu trên mọi phương diện: cả phương thức sản xuất, chế độ xã hội và chủ thể quốc tế. Điều này đặt ra đòi hỏi tự nhiên rằng, cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân cũng nhất thiết phải được nhận thức và tổ chức triển khai với tư duy toàn thế giới, cho dù trong chiến lược và sách lược của mình, đội ngũ công nhân ở mỗi nước đều phải “tự mình biến thành dân tộc”, “giành lấy dân tộc”. Mỗi bước tiến vào xã hội tương lai lại đòi hỏi những người cộng sản phải thực hiện một cách hiệu quả chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân trên cơ sở ý thức sâu sắc rằng, chỉ có toàn bộ giai cấp công nhân trên thế giới mới có khả năng hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang, đó là lật đổ chủ nghĩa tư bản, tiến hành giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng lao động và giải phóng con người. 58 TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN TÁC PHẨM ĐÁNH DẤU SỰ TRƯỞNG THÀNH CỦA CHỦ NGHĨA MÁC PGS. TSKH. TRẦN NGUYỄN TUYÊN* 1. Mặc dù ra đời cách đây 170 năm, tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản được C. Mác và Ph. Ăngghen viết và xuất bản tháng 2/1848 vẫn giữ nguyên giá trị và có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của thế giới ngày nay, đặc biệt trong việc nhận thức đặc điểm, bản chất của thời đại ngày nay dưới tác động của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Cùng với thời gian, Tuyên ngôn càng tỏ rõ sức sống trong đời sống hiện thực, khẳng định bản chất khoa học và cách mạng trước các trào lưu tư tưởng phản động muốn phủ nhận, xuyên tạc, bóp méo học thuyết vĩ đại này. Có thể khẳng định tác phẩm là một di sản lý luận chủ yếu về chủ nghĩa xã hội khoa học, đồng thời đây là bản cương lĩnh chính trị đầu tiên của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Trong di sản lý luận của chủ nghĩa Mác, Tuyên ngôn _______________ * Hội đồng Lý luận Trung ương, Nguyên Viện trưởng Viện Kinh điển Mác - Lênin. Phần thứ nhất: MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN 59 của Đảng Cộng sản giữ một ví trí đặc biệt quan trọng. Lần đầu tiên trong tác phẩm này, hai ông đã hệ thống hóa những nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác dưới dạng cô đọng nhất, thể hiện rõ ràng và đầy đủ nhất thế giới quan duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đưa ra các luận thuyết cơ bản như phân tích và khẳng định sự tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản và sự thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi thế giới, về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, lý luận về đảng... Những nội dung cơ bản của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản có sức sống và giá trị to lớn bởi đó là sản phẩm của tư duy khoa học trên cơ sở tổng kết thực tiễn mà C. Mác và Ph. Ăngghen đã tiến hành. Trong Tuyên ngôn cũng thể hiện rõ mối quan hữu cơ giữa ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác là triết học mácxít, kinh tế chính trị học mácxít và chủ nghĩa xã hội khoa học. Tác phẩm này ra đời trong bối cảnh sự phát triển nhanh chóng của chủ nghĩa tư bản và sự lớn mạnh của giai cấp công nhân trong những thập niên đầu thế kỷ XIX, mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày càng trở nên sâu sắc, giai cấp vô sản với tư cách là một lực lượng chính trị độc lập cần phải có một chính đảng với một cương lĩnh khoa học làm cơ sở lý luận và thực tiễn soi đường. Điều này đòi hỏi phải có lý luận mới trang bị cho phong trào công nhân, đưa phong trào này phát triển lên một giai đoạn mới. Tại Hội nghị lần thứ hai của Liên đoàn những người cộng sản ở London tháng 11/1847, C. Mác và Ph. Ăngghen được giao nhiệm vụ khởi thảo một bản cương lĩnh toàn diện về mặt lý luận và thực tiễn của Đảng Cộng sản. Tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản được C. Mác và Ph. Ăngghen hoàn thành vào 60 TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN... tháng 1/1848 đã đáp ứng được yêu cầu đó và sau đó được tuyên truyền rộng rãi trong phong trào công nhân. Khác với quan điểm của các nhà kinh tế tư sản cho rằng chủ nghĩa tư bản tồn tại vĩnh viễn, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, xuất phát từ kết cấu kinh tế - xã hội của chủ nghĩa tư bản, trên cơ sở phân tích các mâu thuẫn nội tại trong phương thứ sản xuất tư bản chủ nghĩa, C. Mác và Ph. Ăngghen đã khẳng định rằng chủ nghĩa tư bản mang tính lịch sử; phù hợp với lý luận và hình thái kinh tế - xã hội, coi sự phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử tự nhiên, chủ nghĩa tư bản tất yếu sẽ bị thay thế bằng một chế độ xã hội cao hơn đó là chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Trong lịch sử của mình, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất: “Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”1. Chủ nghĩa tư bản đã phát triển lực lượng sản xuất một cách không tự giác do quá trình chạy theo giá trị thặng dư, nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình, giai cấp tư sản đã tạo ra thị trường thế giới. C. Mác và Ph. Ăngghen nhận xét rằng: “Vì luôn luôn bị thúc đẩy bởi nhu cầu về những nơi tiêu thụ sản phẩm, giai cấp tư sản xâm lấn khắp hoàn cầu”2. C. Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ ra rằng trong mối quan hệ hữu cơ giữa kinh tế và chính trị, mỗi bước phát triển về mặt _______________ 1, 2. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.603, 601. Phần thứ nhất: MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN 61 kinh tế tạo ra một sự thích ứng về chính trị và giai cấp tư sản, thông qua việc tạo dựng nền đại công nghiệp cơ khí, phát triển thị trường thế giới, giai cấp tư sản đã khẳng định, xác lập được quyền thống trị chính trị của mình đối với xã hội. Thông qua bộ máy nhà nước, giai cấp tư sản duy trì củng cố quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, tranh thủ những điều kiện tốt nhất cho giai cấp mình. Với ưu thế về hàng hóa cạnh tranh, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã phá hủy cơ cấu truyền thống phong kiến của các nước lạc hậu, lôi cuốn nhiều dân tộc vào con đường phát triển tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản “tạo ra cho nó một thế giới theo hình dạng của nó”1. Vai trò lịch sử của chủ nghĩa tư bản còn thể hiện ở chỗ tạo lập cơ cấu xã hội, giai cấp theo hướng hình thành các giai cấp đối địch nhau: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản khẳng định rằng sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã làm cho mâu thuẫn cơ bản của nó trở nên sâu sắc, trầm trọng hơn, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển mâu thuẫn với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa chật hẹp, đòi hỏi phải xóa bỏ quan hệ sản xuất này, thiết lập chế độ xã hội mới. Các nhà kinh điển đã khẳng định rằng, một trong những nhiệm vụ cấp bách nhất của Đảng Cộng sản với tư cách là lực lượng duy nhất có khả năng tổ chức lãnh đạo cuộc đấu tranh chính trị là “tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền”2. Quan điểm này của các nhà kinh điển đã có _______________ 1, 2. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.602, 615. 62 TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN... sự kế thừa và phát triển, nếu trong lời nói đầu tác phẩm Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, C. Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản bắt nguồn từ những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, tuy nhiên vẫn còn là vấn đề trừu tượng, thì đến tác phẩm Sự khốn cùng của triết học (1847), Các Mác đã trình bày về sự cần thiết của việc xóa bỏ sự thống trị về kinh tế của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản phải giành lấy chính quyền, muốn vậy giai cấp vô sản phải chuyển biến từ giai cấp “tự nó” thành giai cấp “cho nó”. Điều này phản ánh sự trưởng thành chín muồi về trình độ chính trị và tư tưởng của giai cấp vô sản thông qua việc thiết lập một chính đảng của giai cấp công nhân với tư cách lực lượng chính trị độc lập để lãnh đạo của giai cấp công nhân. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C. Mác và Ph. Ăngghen đã phát triển và đề ra luận điểm chứng minh các điều kiện khách quan về sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản và sự hình thành các tiền đề chủ quan của cách mạng xã hội chủ nghĩa. C. Mác và Ph. Ăngghen khẳng định giai cấp công nhân là giai cấp thực sự cách mạng, có khả năng thực hiện cách mạng vô sản, thủ tiêu chế độ cũ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ mới - cộng sản chủ nghĩa. “... giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình; nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy chống lại nó, đó là những công nhân hiện đại, những người vô sản”1. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân đã đi từ đơn lẻ, tự phát đến tự giác, có tổ chức với sự hình thành chính đảng của giai cấp _______________ 1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.605. Phần thứ nhất: MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN 63 công nhân, chuyển từ đấu tranh kinh tế sang đấu tranh chính trị. C. Mác và Ph. Ăngghen đã vạch rõ bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội chỉ có thể hoàn thành thông qua những cải tạo căn bản trong quan hệ sở hữu và trong toàn bộ hệ thống các quan hệ sản xuất. Nhưng để làm được điều đó, phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và giai cấp vô sản phải nắm được chính quyền. Tư tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa là nội dung cốt yếu của toàn bộ tác phẩm, C. Mác và Ph. Ăngghen đã khẳng định: “Họ công khai tuyên bố rằng mục đích của họ chỉ có thể đạt được bằng cách dùng bạo lực lật đổ toàn bộ trật tự xã hội hiện hành”1. Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C. Mác và Ph. Ăngghen chưa dùng thuật ngữ “chuyên chính vô sản”, song đã khẳng định thực chất của chuyên chính vô sản là việc giai cấp vô sản được tổ chức thành giai cấp thống trị, khẳng định tính tất yếu khách quan của việc giai cấp vô sản lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản và thiết lập quyền thống trị về kinh tế và xã hội của mình. Nhiệm vụ của chuyên chính vô sản được xác định là: - Thủ tiêu bằng bạo lực chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa và thiết lập chế độ sở hữu toàn dân. - Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, “tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản xuất”2. Các nhà kinh điển cũng khẳng định tùy theo điều kiện lịch sử cụ thể của các nước khác nhau mà những biện pháp áp dụng sẽ phải khác nhau, không có một khuôn mẫu chung _______________ 1, 2. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.646, 626. 64 TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN... cho mọi quốc gia. Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, chế độ sở hữu được xem xét trong quá trình phát triển của lịch sử theo quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Trong sự phát triển của mình, thời kỳ đầu chủ nghĩa tư bản đã thúc đẩy nhanh chóng sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập cơ sở vật chất - kỹ thuật cho sự hình thành và phát triển của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên đến một giai đoạn nhất định, những quan hệ sản xuất này trở nên chật hẹp, trở thành sức cản đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất mới, chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và quan hệ người bóc lột người dựa trên cơ sở đó đã kìm hãm sự phát triển của xã hội. Các ông đã khẳng định “chế độ tư hữu tư sản hiện thời, lại là biểu hiện cuối cùng và đầy đủ nhất của phương thức sản xuất và chiếm hữu sản phẩm dựa trên những đối kháng giai cấp, trên cơ sở những người này bóc lột những người kia”1. Với việc xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất đã làm thay đổi căn bản mục đích của nền sản xuất xã hội, “Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”2. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C. Mác và Ph. Ăngghen chưa đặt vấn đề thời kỳ quá độ và các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa xã hội, mặc dù vậy hai ông cũng cho thấy sự cần thiết của việc thiết lập tổ chức quyền lực, bộ máy nhà nước của giai cấp công nhân trong quá trình cải tạo và xây dựng chế độ xã hội mới. _______________ 1, 2. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.615, 628. Phần thứ nhất: MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN 65 Với bản chất cách mạng và khoa học trong học thuyết của mình, C. Mác và Ph. Ăngghen đã đưa ra những dự báo thiên tài vượt thời đại và mang ý nghĩa hiện thực sâu sắc như về vấn đề cách mạng công nghiệp, sự phát triển của đại công nghiệp, thị trường thế giới. Các ông viết: “các thị trường cứ lớn lên không ngừng, nhu cầu luôn luôn tăng lên. Ngay cả công trường thủ công cũng không thỏa mãn được nhu cầu đó nữa. Lúc ấy, hơi nước và máy móc dẫn đến một cuộc cách mạng trong công nghiệp... Đại công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới”1. Lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng minh tính đúng đắn của nhận định trên, thế giới đã trải qua và phát triển từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và hiện nay chuyển sang cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (cách mạng công nghiệp 4.0). Đặc trưng chủ yếu của cách mạng công nghiệp đầu tiên là sử dụng năng lượng nước và hơi nước để cơ giới hóa sản xuất, cuộc cách mạng lần thứ hai diễn ra với ứng dụng điện năng để sản xuất hàng loạt, cuộc cách mạng lần thứ ba sử dụng điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất. Đến nay, cuộc cách mạng công nghiệp thứ tư đang nảy nở từ cuộc cách mạng lần thứ ba, nó kết hợp các công nghệ lại với nhau, làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật và sinh học. Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ diễn ra trên ba lĩnh vực chính gồm: kỹ thuật số, vật lý và công nghệ sinh học. Đồng thời với quá trình này, toàn cầu hóa đã phát triển mạnh mẽ, không những là xu thế khách quan mà còn là quá _______________ 1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr. 624 66 TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN... trình lôi cuốn các nước, các dân tộc tham gia, tác động đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, hiện nay có nhiều vấn đề mang tính toàn cầu mà để giải quyết nó cần có sự hợp tác của tất cả các nước. Ngoài những nội dung quan trọng trên, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản của C. Mác và Ph. Ăngghen là một tác phẩm mẫu mực mang tính chiến đấu, phê phán cao đối với các lý luận phản khoa học, phản động chống chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa xã hội khoa học. Các ông đã phê phán chủ nghĩa xã hội kiểu tư sản mà đại biểu điển hình là Sismondi (Xixmônđi và Prudon (Pruđông), vạch rõ tính chất không tưởng và phản động của lý luận này. Điều này cũng phù hợp với việc phê phán chủ nghĩa cải lương xã hội hiện đại mà hệ tư tưởng tiểu tư sản đại diện cho lợi ích của tầng lớp trên trong giai cấp công nhân, “tầng lớp công nhân quý tộc”, đã bị tư sản hóa, mục đích là làm cho phong trào công nhân xa rời đấu tranh cách mạng, chịu ảnh hưởng của giai cấp tư sản, phong trào mang tính cải lương hữu khuynh. Các ông cũng phê phán gay gắt quan điểm của “chủ nghĩa xã hội tư sản”, tuy hình thức có khác nhau nhưng bản chất nhằm bảo vệ chế độ tư bản chủ nghĩa, phủ nhận đấu tranh giai cấp, mang tính lừa bịp quần chúng lao động, không muốn cải biến căn bản chế độ tư bản chủ nghĩa. Điều này trong điều kiện hiện nay có ý nghĩa quan trọng trong việc đấu tranh chống các trào lưu tư sản, phản động phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và học thuyết giá trị thặng dư - là những phát minh quan trọng của chủ nghĩa Mác đối với lịch sử phát triển của xã hội loài người, làm cho chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học. Phần thứ nhất: MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN 67 C. Mác và Ph. Ăngghen cũng tỏ thái độ đối với chủ nghĩa xã hội không tưởng của Saint Simon (Xanh Ximông), Fourier (Phuriê), Owen (Ôoen) là những bậc tiền bối của chủ nghĩa Mác. Các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng đã không thấy được vai trò lịch sử của giai cấp công nhân cũng như con đường giải phóng của họ. Bản thân các nhà kinh điển cũng không coi học thuyết của mình như một cái gì đó hoàn thiện, bất biến, mà luôn đòi hỏi phải có sự bổ sung, vận dụng phát triển sáng tạo trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Bởi lẽ chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo, do vậy phải căn cứ vào những điều kiện lịch sử cụ thể mới có những định hướng giải pháp phù hợp. Các nhà kinh điển cũng không bao giờ coi học thuyết của mình như là những câu trả lời vạn năng cho mọi tình huống của cuộc sống mà khẳng định phải luôn được xem xét gắn với sự phát triển của thực tiễn, với tư cách là động lực của nhận thức, là tiêu chuẩn khách quan của mọi chân lý. Không đầy 25 năm sau khi Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ra đời năm 1848, trong Lời tựa viết cho bản tiếng Đức “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” xuất bản năm 1872, C. Mác và Ph. Ăngghen đã khẳng định: “Chính ngay “Tuyên ngôn” cũng đã giải thích rõ rằng bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử đương thời, và do đấy, không nên quá câu nệ vào những biện pháp cách mạng nêu ra ở cuối chương II. Đoạn này, ngày nay mà viết lại thì về nhiều mặt, cũng phải viết khác đi. Vì đại công nghiệp đã có những bước tiến hết 68 TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN... sức lớn trong hai mươi lăm năm qua”1. Các ông lý giải lý do không sửa lại là vì: ““Tuyên ngôn” là một tài liệu lịch sử mà chúng tôi không có quyền sửa lại”2. 2. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác,V.I. Lênin đã xuất phát từ điều kiện cụ thể của nước Nga, với tư cách là mắt xích yếu nhất của hệ thống đế quốc chủ nghĩa sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Người cho rằng nước Nga đã hội tụ đầy đủ các điều kiện khách quan và chủ quan để cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể nổ ra (điều này trái với dự báo của C. Mác và Ph. Ăngghen là cách mạng vô sản có khả năng nổ ra đồng loạt ở các nước tư bản phát triển, nơi mà mâu thuẫn giữa vô sản và tư sản đã đẩy lên đến mức độ cùng cực). Cũng do nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác, V.I. Lênin đã vạch ra Chính sách kinh tế mới (NEP) mùa xuân 1921 thay cho Chính sách cộng sản thời chiến được áp dụng trong điều kiện nước Nga bị bao vây bởi các nước đế quốc và nội chiến trong nước. Chính nhờ Chính sách kinh tế mới mà nước Nga đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tăng cường tiềm lực kinh tế, quốc phòng, tạo tiền đề quan trọng để thực hiện công nghiệp hóa đất nước. Thực chất của Chính sách kinh tế mới là đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội với việc thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần, phát triển quan hệ hàng hoá - tiền tệ, kinh tế thị trường, thực hiện sự trao đổi giữa thành thị và nông thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp, thay thế chính sách trưng thu lương thực bằng chính sách thuế lương thực, chú trọng khuyến lợi ích vật chất và coi đó là động lực _______________ 1, 2. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.18, tr.128. Phần thứ nhất: MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN 69 quan trọng để phát triển kinh tế, sử dụng các hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước. Ở đây dường như có mâu thuẫn với quan niệm của C. Mác và Ph. Ăngghen khi cho rằng chủ nghĩa cộng sản xóa bỏ buôn bán, cùng với việc xã hội nắm lấy những tư liệu sản xuất thì sản xuất hàng hoá cũng bị loại trừ. Thực ra phải hiểu điều kiện lịch sử cụ thể của những quan điểm của các nhà kinh điển, điều khẳng định ở trên của Mác và Ăngghen là những dự đoán về giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản chứ không phải nói về giai đoạn thấp của nó, tức là chủ nghĩa xã hội. Điều này C. Mác đã khẳng định: Đó là một xã hội vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó là một xã hội về mọi phương diện - kinh tế, đạo đức, tinh thần - còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra... Như vậy làm sao xóa ngay được cái dấu vết đặc trưng của chủ nghĩa tư bản là kinh tế hàng hóa. Các nhà kinh điển đã chỉ ra một cách đúng đắn về mặt phương pháp luận khi cho rằng, cơ sở để xóa bỏ chế độ tư hữu là lực lượng sản xuất phải được phát triển đến một trình độ nhất định với trình độ xã hội hóa cao, chứ không phải chỉ bằng quyết định mệnh lệnh hành chính hay mong muốn chủ quan. Những nội dung của tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản có ý nghĩa quan trọng trong thời đại ngày nay. Mặc dù đã ra đời cách đây 170 năm nhưng những nội dung và tư tưởng của tác phẩm vẫn nguyên vẹn giá trị tinh thần to lớn trong việc cung cấp thế giới quan và phương pháp luận giải quyết các vấn đề nảy sinh của thực tiễn hiện nay. Đặc biệt vào những năm 90 thế kỷ XX, sau khi Liên Xô và Đông Âu tan rã, một số người cho rằng lịch sử phải chăng kết thúc ở 70 TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN... chủ nghĩa tư bản, tột đỉnh của văn minh loài người. Một số lập luận khác cho rằng chủ nghĩa tư bản đã thay đổi về chất với các hình thức mới như: “Chủ nghĩa tư bản nhân dân”, “Chủ nghĩa tư bản tự điều chỉnh”, “Xã hội hậu công nghiệp”, “Chủ nghĩa tư bản của người lao động”. Song trên thực tế, chủ nghĩa tư bản vẫn không thay đổi bản chất và mâu thuẫn cơ bản của nó gắn với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất - điều này đã được khẳng định trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Các trào lưu phê phán chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa xã hội mới xuất hiện gần đây như thuyết “Xung đột các nền văn minh”, “Sự tận cùng của lịch sử”, “Thuyết chính đáng”, “Thuyết chủ nghĩa xã hội mới”, chung quy đều tập trung phủ nhận nội dung của những học thuyết mang tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin về hình thái kinh tế - xã hội, học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, học thuyết giá trị thặng dư và phủ nhận tính chất thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội đang diễn ra hiện nay. Mặc dù còn có những ý kiến khác nhau, song ý nghĩa, vai trò, tầm vóc lịch sử của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 là không thể phai mờ, vì nó định hướng phát triển của cả xã hội loài người, mở ra một thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Bên cạnh những thành tựu to lớn của chủ nghĩa xã hội hiện thực, thực tế cho thấy nếu chủ nghĩa xã hội không bị khủng hoảng, suy yếu và tan rã từ bên trong bởi những sai lầm, khuyết tật của chính mình, nếu chế độ không bị biến dạng nghiêm trọng, được nhân dân tín nhiệm và ủng hộ thì mọi âm mưu phá hoại thâm độc của chủ nghĩa đế quốc không Phần thứ nhất: MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN 71 thể trở thành yếu tố gây khủng hoảng và sụp đổ của một loạt các quốc gia độc lập có chủ quyền như Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu những năm cuối thế kỷ XX, như V.I. Lênin đã khẳng định chúng ta không thể bị đánh bại từ kẻ thù bên ngoài nếu chúng ta không bị suy yếu, tan vỡ từ bên trong. Sau sự sụp đổ của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu vào những năm đầu thập niên 90 thế kỷ XX, các thế lực thù địch, chủ nghĩa đế quốc cho rằng, chủ nghĩa xã hội đã lâm vào thoái trào và chủ nghĩa tư bản mới là “sự tận cùng của lịch sử”. Tuy nhiên, gần 30 năm đã trôi qua, chủ nghĩa xã hội và phong trào cánh tả vẫn tiếp tục phát triển ở nhiều nước trên thế giới, ngày càng khẳng định vị thế quan trọng trên trường quốc tế. Điều đó chứng tỏ, biến cố chính trị năm 1991 chỉ là sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội, không thể phủ nhận bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, những giá trị xuyên thời đại của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại và của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. 170 năm đã trôi qua sau khi tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ra đời, tình hình thế giới đã có thay đổi lớn lao, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế mặc dù có lúc thăng trầm, vận động trong bối cảnh phức tạp khó khăn, song tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Cuộc gặp quốc tế các đảng cộng sản và công nhân lần thứ 18 được tổ chức cuối tháng 10/2016 tại Hà Nội, với sự tham gia của hơn 100 đại biểu, đại diện cho các đảng cộng sản và công nhân các nước từ tất cả các châu lục trên thế giới đều thống nhất cho rằng trong bối cảnh hiện nay, việc tăng cường trao đổi thông tin, chia sẻ 72 TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN... kinh nghiệm và củng cố sự đoàn kết, thống nhất, đẩy mạnh phối hợp hành động một cách thiết thực giữa các đảng cộng sản và công nhân trong cuộc đấu tranh vì mục tiêu chung là rất cần thiết. 3. Vận dụng những tư tưởng trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc phải đi theo con đường cách mạng vô sản mà “không có con đường nào khác”. Cách mạng Việt Nam đã liên tiếp giành được nhiều thắng lợi có tầm vóc lịch sử, đó là thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với việc thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà; đó là thắng lợi cuộc kháng chiến chống xâm lược để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân mới và cũ, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc năm 1975, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Những thành tựu qua hơn 30 năm đổi mới càng khẳng định những giá trị thời đại của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng ta khẳng định mặc dù chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ khiến chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào, nhưng điều đó không làm thay đổi tính chất thời đại: Loài người vẫn đang trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Toàn cầu hóa là xu thế khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều các nước tham gia, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh, tạo ra thời cơ và thách thức cho các Phần thứ nhất: MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN 73 quốc gia, nhất là các nước đang phát triển. Đảng đã đánh giá toàn diện hơn về chủ nghĩa tư bản, chỉ ra mặt mạnh và mặt yếu, những mâu thuẫn nội tại, khó khăn, khuyết tật của nó. Nhờ áp dụng những thành tựu của cách mạng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đổi mới phương pháp quản lý và tổ chức lại nền kinh tế, chủ nghĩa tư bản đã kích thích kinh tế phát triển, thích nghi với điều kiện mới, tuy nhiên nó không khắc phục được những mâu thuẫn vốn có của nó và đang tích tụ để làm trầm trọng hơn mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Mặc dù Liên Xô và chế xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu sụp đổ, song không thể làm thay đổi tính chất của thời đại chúng ta là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Kỷ niệm 170 năm ngày ra đời của tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, chúng ta càng nhận thức sâu sắc những nội dung quan trọng của tác phẩm này, vận dụng sáng tạo tư tưởng của các nhà kinh điển Mác - Lênin trong việc đề ra chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nhìn lại hơn 30 năm đổi mới với những thành tựu, hạn chế và khuyết điểm, Đảng ta đã rút ra một số bài học có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong đó bài học đầu tiên là “trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, 74 TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN... vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam”1. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc đổi mới hiện nay của nước ta, trong việc nhận thức và làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa với nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân; tất cả vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. _______________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.69. 75 TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VỚI VIỆC ĐỊNH HÌNH CHỦ NGHĨA MÁC PGS. TS. NGUYỄN THANH TUẤN* Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản được xuất bản lần đầu vào ngày 21/2/1848 tại London. Tuyên ngôn, một mặt, là tác phẩm khoa học xuất sắc, đánh dấu một bước chín muồi về học thuyết, phương pháp pháp luận của C. Mác (1818 - 1883) và Ph. Ăngghen (1820 - 1895); mặt khác, nó là kết quả kết hợp tư tưởng của Mác, Ăngghen với phong trào công nhân. Tổng hợp cả hai ý nghĩa đó, với Tuyên ngôn, chủ nghĩa Mác đã được định hình, xác lập trên thực tế, nhằm góp phần giải thích và cải biến thế giới. 1. Tuyên ngôn đánh dấu một bước chín muồi về học thuyết, phương pháp luận trong tư tưởng của Mác và Ăngghen Thứ nhất, góp phần hình thành lý luận về bóc lột tư bản chủ nghĩa và tham gia giải thích, cải biến chủ nghĩa tư bản. Trong Tuyên ngôn, Mác và Ăngghen đã tiếp tục xây dựng quan điểm cơ bản về bóc lột tư bản chủ nghĩa, như một công _______________ * Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 76 TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN... cụ phương pháp luận để chỉ rõ quá trình phát sinh, phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa; làm rõ những mặt tiến bộ, đồng thời cũng vạch ra những khuyết tật, mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản. Cụ thể, trên cơ sở học thuyết giá trị thặng dư, các ông đã vận dụng lý luận mới về kinh tế để phân tích một cách khoa học chế độ làm thuê, vạch rõ sức lao động của công nhân trở thành phương tiện nhằm làm tăng thêm giá trị cho tư bản; và tư bản mà nhà tư bản chiếm hữu được đã trở thành quyền lực chi phối lao động của người khác. Trên cơ sở đó, “Giai cấp tư sản ngày càng xóa bỏ tình trạng phân tán về tư liệu sản xuất, về tài sản và về dân cư. Nó tụ tập dân cư, tập trung các tư liệu sản xuất, và tích tụ tài sản vào trong tay một số ít người. Kết quả tất nhiên của những thay đổi ấy là sự tập trung về chính trị”1. Giai cấp tư sản dùng chính quyền nhà nước phục vụ cho lợi ích của nó, từ hệ thống pháp luật đến chính sách thuế khóa, tất thảy đều là phương tiện để tước đoạt lợi ích kinh tế. Từ đó, Mác và Ăngghen chỉ ra rằng, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tất yếu sẽ bị thay thế bởi phương thức sản xuất mới, cao hơn, đó là phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Thứ hai, vận dụng và phát triển chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong Lời tựa cho bản tiếng Anh xuất bản năm 1888 “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, Ăngghen viết: “trong mỗi thời đại lịch sử, phương thức chủ yếu của sản xuất kinh tế và trao đổi, cùng với cơ cấu xã hội do phương thức đó _______________ 1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.602-603. Phần thứ nhất: MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN 77 quyết định, đã cấu thành cơ sở cho lịch sử chính trị của thời đại”1. Tư tưởng duy vật lịch sử đó được thể hiện xuyên suốt trong Tuyên ngôn. Có thể nói, với Tuyên ngôn, chủ nghĩa duy vật lịch sử đã được phát triển cả về nội dung và phương pháp luận. Trong Tuyên ngôn, Mác và Ăngghen đã vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng để làm rõ các quy luật phát triển của xã hội loài người, bao gồm: quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; quy luật cơ sở kinh tế của xã hội quyết định kiến trúc thượng tầng của xã hội; tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, chứ không phải ngược lại; kinh tế xét đến cùng quyết định chính trị; quy luật về sự thay thế lẫn nhau như một quá trình lịch sử tự nhiên của các hình thái xã hội; đặc biệt, quy luật phát sinh, phát triển của toàn bộ xã hội loài người, trực tiếp là xã hội tư bản chủ nghĩa. Căn cứ vào các mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản chủ nghĩa và các quy luật chung (như nêu ở trên), các ông vạch rõ các hình thái xã hội vừa có tính tất yếu vừa có tính nhất thời về mặt lịch sử. Chúng vừa có những cơ sở lịch sử đầy đủ để phát sinh, tồn tại, phát triển, đồng thời cũng không tránh khỏi bị các hình thái xã hội mới, cao hơn thay thế. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thay thế chế độ phong kiến là do nhu cầu của xã hội về phát triển lực lượng sản xuất của mình. Mác và Ăngghen khẳng định rằng, giai cấp tư sản đã đóng vai trò có tính cách mạng trong lịch sử bằng việc lật đổ chế độ phong kiến lỗi thời và hơn thế, đã “tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực _______________ 1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.21, tr.523. 78 TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN... lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”1. Nhưng do những hạn chế lịch sử trong khung khổ chật hẹp của sở hữu tư bản tư nhân đối với tư liệu sản xuất, nên “Những lực lượng sản xuất mà xã hội sẵn có, không thúc đẩy qua hệ sở hữu tư sản phát triển nữa; trái lại, chúng đã trở thành quá mạnh đối với quan hệ sở hữu ấy, cái quan hệ sở hữu lúc đó đang cản trở sự phát triển của chúng”2. Sự phát triển của công nghiệp lớn không ngừng làm mất đi cái cơ sở mà chế độ sở hữu tư bản tư nhân dựa vào đó để tồn tại. Nó làm cho chế độ tư bản chủ nghĩa sẽ tất yếu lại bị thay thế bằng một chế độ xã hội mới cao hơn, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đó là quy luật phát triển khách quan của lịch sử nhân loại, mà không tùy thuộc vào ý chí của bất kỳ cá nhân nào. Thứ ba, phát hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân đóng vai trò chủ yếu trong việc tạo ra những điều kiện vật chất để chủ nghĩa tư bản có thể tồn tại, phát triển được. Thế nhưng khủng hoảng kinh tế và các tệ nạn xã hội đã làm cho đời sống công nhân ngày càng bị bần cùng hóa, không được đảm bảo tương xứng với sự phát triển của xã hội. Địa vị xã hội của giai cấp vô sản thúc đẩy họ phải lật đổ chế độ lao động làm thuê của chủ nghĩa tư bản. Hai ông rút ra kết luận: “Giai cấp vô sản, tầng lớp ở bên dưới nhất của xã hội hiện tai, không thể vùng dậy, vươn mình lên nếu không làm nổ tung toàn bộ cái thượng tầng kiến trúc bao gồm những tầng lớp cấu thành xã hội quan phương”3. _______________ 1, 2, 3. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.603, 604, 611.