🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tục Ngữ ca dao Việt Nam tuyển chọn Ebooks Nhóm Zalo Héi ®ång chØ ®¹o xuÊt b¶n Chñ tÞch Héi ®ång pgs.TS. NguyÔn ThÕ kû Phã Chñ tÞch Héi ®ång TS. HOµNG PHONG Hµ Thµnh viªn trÇn quèc d©n TS. NguyÔn §øC TµI TS. NGUYÔN AN TI£M NguyÔn Vò Thanh H¶o KV5 M· sè:CTQG - 2015 2 LỜI NHÀ XUẤT BẢN Tục ngữ, ca dao luôn gắn liền với sinh hoạt, hoạt động văn hóa, vui chơi truyền thống của người dân Việt Nam. Nó có giá trị bổ trợ kiến thức, bồi dưỡng tình cảm đạo đức và thẩm mỹ cho thanh thiếu niên, nhi đồng. Không những thế, bất kể nơi đâu, trong tình huống nào người ta cũng có thể sử dụng tục ngữ, ca dao để bày tỏ tình cảm hay giãi bày một vấn đề nào đó khi cảm thấy khó nói. Thực hiện Đề án trang bị sách cho cơ sở xã, phường, thị trấn của Ban Tuyên giáo Trung ương, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật phối hợp với Nhà xuất bản Thanh niên xuất bản cuốn sách Tục ngữ, ca dao Việt Nam - Tuyển chọn do ThS. Bùi Văn Vượng, Huy Linh (Sưu tầm, biên soạn). Kho tàng tục ngữ, ca dao ở nước ta là vô vận, nhưng trong giới hạn cuốn sách nhỏ này chúng tôi chỉ giới thiệu một cách khái quát, với số lượng rất hạn hẹp các câu tục ngữ, ca dao. Nội dung cuốn sách gồm 2 phần: 1. Tục ngữ và giải nghĩa 2. Ca dao Tục ngữ, ca dao phản ánh mọi mặt cuộc sống của người dân Việt Nam qua quá trình lịch sử. Đó là một bức tranh sinh động, phong phú, thể hiện một cách sâu sắc, 5 thế giới quan, nhân sinh quan của nhân dân Việt Nam từ thời xa xưa cho đến sau này. Ca dao, tục ngữ là sự kết tinh, lắng đọng vốn sống và những kinh nghiệm quý báu trong dân gian được truyền miệng từ đời này qua đời khác. Trải qua bao biến thiên cuộc sống, trong thời đại ngày nay, ca dao, tục ngữ vẫn còn vẹn nguyên giá trị răn dạy con người về cách đối nhân xử thế trong cuộc sống. Tục ngữ, ca dao là một phần của kho tàng di sản văn hóa quý giá của dân tộc ta, rất cần được bảo tồn, khai thác, sử dụng lâu dài, vì vậy cuốn sách nhỏ này cũng là góp phần bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Xin giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc. Tháng 11 năm 2015 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - SỰ THẬT 6 LỜI SOẠN GIẢ Trong vốn di sản văn hóa, văn học, nghệ thuật dân gian rất đồ sộ, quý giá của dân tộc ta, có một bộ phận đặc biệt quan trọng, được coi như những báu vật vô giá, đó là tục ngữ, ca dao mà xưa nay vẫn được truyền giữ như châu ngọc quý, được lưu truyền qua nhiều thế hệ trong dòng chảy dân gian truyền miệng lâu đời. Tục ngữ, ca dao là loại hình văn hóa, nghệ thuật và thơ ca dân gian Việt Nam có đặc điểm chung nhất là cách diễn đạt có vần điệu, dễ thuộc, dễ nhớ, có sức lan truyền nhanh chóng, rộng rãi. Bằng ngôn ngữ trong sáng, giản dị, ngắn gọn mà súc tích, bình dân, dễ đi vào lòng người ở nhiều độ tuổi không phân biệt trình độ cao, thấp, những câu tục ngữ, ca dao chứa đựng nội dung giáo dục đạo đức và tình yêu quê hương đất nước, truyền bá kinh nghiệm, phổ cập kiến thức, khuyến khích sáng tạo và ý chí phấn đấu vươn lên của mỗi người ngay từ tuổi thơ. Đây là loại hình văn hóa và thơ ca dân gian thuần Việt, giàu trí tuệ và cảm xúc, dễ cảm thụ, đạt tới đỉnh cao của ngôn ngữ Việt Nam, được phổ biến 7 sâu rộng trong nhân dân khắp mọi miền đất nước xưa nay và sẽ còn lưu truyền mãi sau này. Trước đây, ở Việt Nam hầu hết mọi người, dường như đều thuộc lòng những câu tục ngữ, ca dao. Trong điều kiện, hoàn cảnh lịch sử đương thời, phần lớn cư dân không biết chữ, văn hóa và thơ ca dân gian truyền miệng đã trở thành phương tiện truyền tải tri thức chủ yếu thì loại hình nghệ thuật này thực sự có sức sống mạnh mẽ trong sinh hoạt hằng ngày, bồi dưỡng kiến thức bách khoa về giáo dục - đào tạo ngoài nhà trường cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là đối với lứa tuổi thanh thiếu niên, nhi đồng. Ngày nay, nhu cầu sử dụng, học tập, tìm hiểu về tục ngữ, ca dao vẫn rất lớn trong xã hội do ý nghĩa văn hóa, giáo dục và thực hành của nó còn vẹn nguyên giá trị. Nhưng đáng tiếc là không ít người, nhất là thế hệ trẻ chưa hiểu rõ nghĩa những câu tục ngữ, không thuộc nhiều ca dao. Chúng tôi đã dành nhiều năm sưu tầm nghiên cứu vốn tài sản văn hóa, văn học dân gian truyền miệng thuộc chuyên đề này nhằm góp phần lưu giữ, truyền bá những giá trị của tục ngữ, ca dao theo chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước. Khối lượng tư liệu sưu tập của chúng tôi khá lớn, song chúng tôi cố gắng chọn lọc trong số đó những câu tiêu biểu, giá trị để biên soạn thành cuốn sách Tục ngữ, ca dao Việt Nam - Tuyển chọn. Trong quá trình biên soạn chúng tôi có giải 8 nghĩa từng câu tục ngữ. Tuy nhiên, cuốn sách có thể còn những thiếu sót, rất mong nhận được ý kiến góp ý của bạn đọc để cuốn sách được hoàn thiện hơn trong lần xuất bản sau. Hy vọng rằng cuốn sách Tục ngữ, ca dao Việt Nam - Tuyển chọn sẽ đem lại cho quý vị và các bạn yêu quý nền văn hóa, văn học nghệ thuật dân gian Việt Nam trong và ngoài nước nhiều điều bổ ích. Xin trân trọng biết ơn các cơ quan và cá nhân: Thư viện Quốc gia Việt Nam, một số thư viện tỉnh, viện nghiên cứu, trường đại học, các bậc cao niên và các tác giả tiền bối có uy tín, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Nhà xuất bản Thanh niên... đã nhiệt tình ủng hộ, giúp đỡ chúng tôi trong quá trình sưu tầm, biên soạn và xuất bản cuốn sách này. Hà Nội, mùa Thu 2015 ThS. BÙI VĂN VƯỢNG 9 10 TỤC NGỮ VÀ GIẢI NGHĨA I. Khái niệm Tục ngữ là những câu nói dân gian ngắn gọn, ổn định, có nhịp điệu, hình ảnh, đúc kết kinh nghiệm của nhân dân về mọi mặt (Tự nhiên, lao động sản xuất, xã hội, con người...), được nhân dân ta vận dụng vào đời sống, suy nghĩ và lời ăn tiếng nói hằng ngày. Đây là một thể loại văn học dân gian. Khác với ca dao, tục ngữ có chức năng chủ yếu là đúc kết kinh nghiệm sống trên rất nhiều lĩnh vực của cuộc sống hằng ngày. Vì thế, tục ngữ được xem là kho kinh nghiệm và tri thức thực tiễn vô cùng phong phú. Phần lớn các câu tục ngữ có hình thức ngắn, có vần hoặc không vần: - Tre già măng mọc. - Quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa. - Ếch kêu uôm uôm, ao chuôm đầy nước. - Gió heo may, chuồn chuồn bay thì bão. Một số khác có hình thức câu dài, nhiều vế: Của làm ra để trên gác, của cờ bạc để ngoài sân, của phù vân để ngoài ngõ. 11 Có câu còn có hình thức của một câu ca dao, thể lục bát: Chuồn chuồn bay thấp thì mưa Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm. Hay Lúa chiêm lấp ló đầu bờ Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên. Dù dài hay ngắn, có vần hay không vần, nói chung tục ngữ đều là những câu dễ nhớ, dễ thuộc. Đặc điểm này của tục ngữ chủ yếu được tạo nên từ vần điệu. Những câu tục ngữ không có vần tác động đến người đọc, người nghe bởi kết cấu đối lập hoặc những ấn tượng đặc biệt nào đó. Ví dụ: Tre già măng mọc là quy luật kế thừa, Một mặt người bằng mười mặt của lại dựa trên những yếu tố đối lập,... II. Phân loại Tục ngữ là một thể loại văn học dân gian vì vậy nó có thể có rất nhiều dị bản và vô số đề tài, không thể kể hết, có thể chia thành hai chủ đề cơ bản như sau: 1. Tục ngữ về tự nhiên và lao động sản xuất Chủ đề chung của những câu tục ngữ này là những kinh nghiệm về thiên nhiên và lao động sản xuất. Bởi lao động sản xuất luôn gắn với thiên nhiên (thời tiết, khí hậu, đất đai...). Tuy nhiên, có thể chia chủ đề này thành 2 nhóm: 12 a) Tục ngữ về thời tiết, khí hậu Sấm động, gió tan. Khi mưa có sấm nổi lên thì gió sẽ ngừng thổi mạnh. Chớp đông nhay nháy, gà gáy thì mưa. Nếu phía đông có chớp nhiều thì đến gần sáng có thể trời sẽ mưa. Tháng ba mưa đám, tháng tám mưa cơn. Kinh nghiệm dự đoán mưa trong năm. Tháng ba thường mưa bóng mây, tháng tám mưa theo cơn, hết cơn là hết mưa. Gió heo may, chẳng mưa dầm thì bão giật. Kinh nghiệm dự báo thời tiết. Khi có gió heo may thì sẽ có mưa dầm hoặc bão to. Ếch kêu uôm uôm, ao chuôm đầy nước. Kinh nghiệm dự báo thời tiết. Ếch kêu nhiều sẽ có mưa to. Tháng bảy heo may, chuồn chuồn bay thì bão. Kinh nghiệm dự báo thời tiết. Tháng bảy có heo may và chuồn chuồn bay nhiều sẽ có bão. Rét tháng tư, nắng dư tháng tám. Năm nào tháng tư rét thì tháng tám vẫn nắng dữ dội. Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng Ngày tháng mười chưa cười đã tối. Ngày tháng năm mùa hè, trời nhanh sáng, ngày dài. Ngày tháng mười trời vào đông, mau tối, ngày ngắn. Đầu năm sương muối, cuối năm gió nồm. 13 Nói về hiện tượng trái quy luật tự nhiên, ảnh hưởng tới sức khỏe và sản xuất. Tháng giêng rét đài, tháng hai rét lộc, tháng ba rét nàng Bân. Một quy luật thời tiết: tháng giêng rét đậm, vật nuôi, cây trồng kém phát triển; tháng hai ẩm ướt thuận lợi cho cây trồng phát triển sau ngày đông giá; tháng ba rét lại cho nên ngắn ngày, với câu chuyện nàng Bân may áo cho chồng. Trăng quầng thì hạn, trăng tán thì mưa. Nếu quanh mặt trăng có một quầng sáng thì trời nắng nhiều, hạn hán; nếu có vùng sáng mờ tỏa ra như cái tán thì trời sẽ mưa. Ráng vàng thì gió, ráng đỏ thì mưa. Mây có sắc vàng phía chân trời thì chuyển gió, mây có sắc màu đỏ thì sắp mưa. Tháng bảy kiến bò chỉ lo lại lụt. Tháng bảy kiến tha trứng bò lên cao sẽ có thể lụt lội. Ráng mỡ gà ai có nhà thì chống. (Ráng mỡ gà thì gió, ráng mỡ chó thì mưa). Khi chân trời có màu vàng hoặc đỏ là sắp có mưa to hoặc bão. Mưa chẳng qua ngọ, gió chẳng qua mùi. (Sáng ướt áo, trưa ráo thóc). Một kinh nghiệm về thời tiết: Mưa không quá từ 11 giờ đến 13 giờ (giờ Ngọ); gió không quá từ 13 giờ đến 15 giờ (giờ Mùi). 14 Mau sao thì nắng, vắng sao thì mưa. Một kinh nghiệm dự báo thời tiết. Buổi tối thấy trời nhiều sao thì hôm sau sẽ nắng, trời ít sao đề phòng có mưa. Tháng mười sấm rạp, tháng chạp sấm động. Tháng mười thường không có sấm; tháng chạp bắt đầu có sấm (sấm đầu mùa). Mống cao gió táp, mống áp mưa rào. Khi cầu vồng xuất hiện ở cao thì gió lớn, cầu vồng xuất hiện thấp ở chân trời thì mưa to. b) Tục ngữ về kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp Bao giờ đom đóm bay ra Hoa gạo rụng xuống thì tra hạt vừng. Một kinh nghiệm làm nông nghiệp. Khi thấy đom đóm bay và hoa gạo rụng (tháng ba âm lịch) thì bắt đầu gieo vừng. Tháng mười có sấm, cấy trên nấm cũng được ăn. Tháng mười mà có sấm thì mùa màng thuận lợi, cấy lúa trên mô đất cao cũng cho năng suất. Lúa chiêm lấp ló đầu bờ Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên. Sấm và những trận mưa đầu mùa hè sẽ làm cho lúa chiêm có nước để nhanh tốt và trổ bông đều. Tua rua thì mặc tua rua Mạ già, ruộng ngấu không thua bạn điền. Dù có chùm sao tua rua xuất hiện, mà có mạ già, có ruộng ngấu thì năng suất vẫn cao. 15 Gió đông là chồng lúa chiêm, gió may, gió bấc là duyên lúa mùa. Đây là thời tiết thích hợp cho sự phát triển của cây lúa chiêm và lúa mùa. Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống. Những yếu tố quyết định năng suất của đồng ruộng. Công cấy là công bỏ, công làm cỏ là công ăn. Nếu chỉ cấy xuống mà không làm cỏ, chăm sóc cẩn thận thì lúa cũng không được thu hoạch. Lúa trổ Cốc vũ, no đủ mọi bề. Cốc vũ: là thời tiết ứng với ngày từ 19-21 tháng 4 âm lịch. Một kinh nghiệm cày cấy: lúa trổ vào thời gian này sẽ tránh được các đợt gió rét cuối mùa và gió nóng đầu mùa, sẽ cho năng suất cao. Trồng khoai đất lạ, gieo mạ đất quen. Một kinh nghiệm trồng trọt. Khoai trồng trên đất mới, chưa trồng khoai bao giờ sẽ nhiều củ và củ to, mạ gieo đất vụ trước đã gieo thì cây mạ sẽ cứng, mập cây. Trồng tre đất sỏi, trồng tỏi đất bồi. Trồng tre đất sỏi cằn cỗi sẽ chắc, đặc thân; trồng tỏi trên đất bồi phù sa củ sẽ to. Thiếu tháng hai mất cà, thiếu tháng ba mất đỗ. Năm nào tháng hai không đủ ngày (tháng thiếu) thì mất mùa cà, tháng ba không đủ ngày (tháng thiếu) thì mất mùa đỗ. Làm ruộng ăn cơm nằm, chăn tằm ăn cơm đứng. Sự khó nhọc vất vả của nghề chăn (nuôi) tằm. 16 Làm ruộng ba năm, không bằng chăn tằm một lứa. Nói về hiệu quả kinh tế của việc trồng dâu nuôi tằm. Tháng giêng trồng trúc, tháng lục trồng tiêu. Kinh nghiệm trồng trọt. Tháng giêng trồng tre, trúc, tháng sáu trồng tiêu sẽ rất tốt. Sấm trước cơm sấm no, sấm sau cơm sấm đói. Sấm trước cơm là sấm vào buổi sáng, sẽ mưa, đủ nước cày cấy. Sấm sau cơm là sấm về chiều, ít có mưa, thiếu nước cày bừa, lúa không tốt. Sâu muống thì đen, sâu dền thì trắng. Kinh nghiệm trồng trọt giúp bà con phân biệt từng loại sâu rau khác nhau. Mít chặt cành, chanh chặt rễ. Một kinh nghiệm trồng cây ăn quả. Cây mít chặt đỡ cành, cây chanh tỉa bớt rễ phụ, sẽ ra nhiều quả. c) Tục ngữ về các ngành nghề Ruộng bề bề không bằng nghề trong tay. Tiền của, ruộng vườn có nhiều bao nhiêu thì cũng không bằng có nghề nghiệp ổn định. Một nghề thì sống, đống nghề thì chết. Nên chuyên sâu, thành thạo, tinh tường một nghề, còn hơn biết nhiều nghề mà chẳng thông thạo nghề nào và không thể kiếm sống bằng những nghề đó. Nghề năng trau, trâu năng cày. 17 Có nghề thì phải thường xuyên làm nghề, trau dồi, nâng cao tay nghề thì mới giỏi nghề và tinh thông, cũng như có trâu phải thường xuyên cho đi cày mới không phá ách. Mộc gia, nề giảm. Thợ mộc khi cắt gỗ phải để dư ra, phòng khi đo lại thừa thì cắt được; thợ nề phải xây giảm kích thước vì còn phải trát thêm lớp vữa bên ngoài. Con nít may ra, mụ già may vào. Kinh nghiệm của nghề thợ may. Nhất dáng, nhì men, ba chàm, bốn vẽ. Kinh nghiệm làm nghề gốm. Dâu non ngon miệng tằm. Kinh nghiệm của những người làm nghề chăn tằm. Mắm mặn chết dòi. Kinh nghiệm làm mắm. Khi làm mắm phải cho già muối (nhiều muối) thì không sinh con dòi, mắm mới ngon và để được lâu. Mồm gầu dai, tai lá mít, đít lồng bàn. Kinh nghiệm chọn trâu của người lái (buôn) trâu. Những con trâu có đặc điểm này là những con trâu tốt, hay ăn, cày khỏe, dai sức. Tôm đi chạng vạng, cá đi rạng đông. Kinh nghiệm của những người làm nghề chài lưới. Câu, cất vó tôm vào buổi chiều tối sẽ được nhiều 18 cũng như đi đánh cá vào buổi sáng sớm, đón được luồng cá sẽ đánh được nhiều cá. Tốt mốc ngon tương. Kinh nghiệm của nghề làm tương. Nếu mốc gạo ủ lên men vàng đều là tốt, tương sẽ ngọt, có màu vàng sẫm, thơm ngon. Bán rẻ còn hơn đẻ lãi. Trong kinh doanh, nhiều khi cần phải bán rẻ để thu hồi vốn ngay, còn hơn đợi giá cao mới bán, để hàng tồn đọng, tiền vốn vay sẽ đẻ lãi, có khi lại lỗ. Bán rẻ về tắt, bán đắt về trưa. Kinh nghiệm của người buôn bán. Bán rẻ, lãi ít thì nhanh hết hàng, được về sớm; bán đắt ít người mua phải về muộn, có khi lại không hết hàng (ế) thì lại thành ra bị lỗ. Bán gà kiêng ngày gió, bán chó kiêng ngày mưa. Kinh nghiệm của người bán chó, gà. Bán chó, gà vào những ngày này nhìn bề ngoài của chúng không đẹp, trông xấu mã, sẽ khó bán. 2. Tục ngữ về con người và đời sống xã hội a) Tục ngữ về con người Một mặt người bằng mười mặt của. (Người là vàng của là ngãi). Con người quý giá hơn gấp bội so với của cải vật chất. Khẳng định giá trị của con người. Cái răng, cái tóc là góc con người. Hàm răng, mái tóc góp phần làm nên vẻ đẹp của con người, hãy giữ gìn hình thức bên ngoài cho gọn 19 gàng, sạch sẽ, vì hình thức bên ngoài thể hiện phần nào tính cách bên trong. Trông mặt mà bắt hình dong. (Người khôn dồn ra mặt). Vẻ mặt biểu lộ tâm tính. Nhìn bề ngoài có thể đoán được phẩm chất tốt, xấu của một người. Người năm bảy đấng, của ba bảy loài. Người cũng có người tốt người xấu, của cũng có của tốt của xấu. Mắt lá răm, lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền. Chỉ người phụ nữ rất xinh đẹp. Mắt phượng mày ngài. Chỉ vẻ đẹp của người phụ nữ. Mắt sáng như mắt chim phượng, lông mày dài cong, thanh nhỏ. Mặt hoa da phấn. Chỉ người phụ nữ có vẻ ngoài xinh đẹp, tươi tắn, nõn nà. Mắt sắc như dao cau. Ánh mắt tinh nhanh sắc sảo. Mình đồng, da sắt. Kiên cường, vững vàng trước mọi gian nan, thử thách. Mặt vuông chữ điền. Khuôn mặt vuông vắn, thường chỉ người phúc hậu. Mắt trắng, môi thâm. Theo dân gian, những người có tướng này thường bạc ác, bất nhân. 20 Mặt choắt bằng hai ngón tay chéo. Chỉ những người mặt gầy, quắt. Thường nói với ý xấu. Dài lưng tốn vải. Chỉ người lười biếng, vụng về, người vô dụng. b) Tục ngữ về đời sống xã hội Một giọt máu đào hơn ao nước lã. Quan hệ cùng huyết thống, họ hàng dù rất xa nhưng cũng quý hơn so với người ngoài, xa lạ. Máu chảy ruột mềm. Tình thương yêu, chia ngọt sẻ bùi giữa những người ruột thịt, cùng giống nòi. Cá chuối đắm đuối vì con. Cha mẹ chịu đựng mọi khó khăn, gian khổ, quên mình vì con cái. Cá không ăn muối cá ươn. Con cái phải biết nghe lời cha mẹ răn dạy mới nên người. Thương người như thể thương thân. Thương mình thế nào thì thương người thế ấy. Hãy coi người khác như bản thân mình để từ đó có sự quý trọng, thương yêu thật sự. Bán anh em xa mua láng giềng gần. Anh em họ hàng ở xa không thể giúp mình, chỉ có hàng xóm bên cạnh mới là chỗ dựa, giúp đỡ thường xuyên. Nên quan hệ đối xử tốt với những người hàng xóm. 21 Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ. Một người trong cộng đồng bị tai họa, đau đớn thì cả tập thể chia sẻ, buồn đau. Sảy cha còn chú, sảy mẹ ấp vú dì. Người em trai của bố và người em gái của mẹ là những người gần gũi nhất khi không còn cha mẹ. Không thầy đố mày làm nên. Không có thầy không thể làm nên việc gì. Sự thành đạt của mỗi học trò đều có công lao to lớn của thầy. Vì vậy chúng ta phải biết tìm thầy mà học và mãi mãi yêu quý, kính trọng, biết ơn thầy. Học thầy không tày học bạn. Chủ động học hỏi ở bạn bè những điều nên học và tự học là cách học tốt nhất. Nòi nào giống ấy. (Giỏ nhà ai, quai nhà ấy). Cha mẹ thế nào thì con cái như thế ấy; Vậy nên sự giáo dục và nền nếp gia đình ảnh hưởng rất lớn đến đạo đức và phẩm chất của con cái. Con nhà tông chẳng giống lông cũng giống cánh. Con cái thừa hưởng những điều tốt đẹp của cha mẹ, ông bà. Học ăn, học nói, học gói, học mở. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta phải học nhiều thứ kỹ càng, tỉ mỉ. Ăn quả nhớ kẻ trồng cây. (Cây có cội, nước có nguồn. Chim có tổ, người có tông). 22 Khi có đời sống sung sướng, đầy đủ, thành đạt phải nhớ đến nguồn gốc, tổ tiên, người đã có công gây dựng cho mình. Giấy rách phải giữ lấy lề. (Rựa cùn còn giữ lấy tông. Trống thủng còn tang. Đói cho sạch, rách cho thơm). Dù nghèo khó, sa sút cũng phải giữ nền nếp, đạo đức. Áo năng may năng mới, người năng tới năng thân. Người có quan hệ rộng, hay tiếp xúc, đi lại thì có nhiều bạn và thành thân thiết. Cháo nóng húp quanh, công nợ trả dần. Làm việc gì cũng phải dần dần, kiên trì từng bước một, chớ nên nóng vội, cũng như ăn cháo nóng, ăn nhanh là bỏng, làm nhanh, làm ẩu là hỏng việc. Ăn trông nồi, ngồi trông hướng. Cần có cư xử tế nhị, ý tứ trong sinh hoạt hằng ngày. Lời chào cao hơn mâm cỗ. Thái độ, tình cảm đón tiếp quý hơn ăn uống, cỗ bàn. Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng. (Gần lửa rát mặt, gần sông sạch mình). Gần kẻ xấu mà không biết giữ mình thì sẽ bị ảnh hưởng, tiêm nhiễm cái xấu, trở thành người xấu; Gần người tốt mà biết học hỏi sẽ tiếp thu được cái tốt, cái hay để hoàn thiện mình. 23 Thua thầy một vạn không bằng thua bạn một li. Thua thầy bao nhiêu cũng được, nhưng kém hiểu biết, không bằng bạn bè cùng trang lứa thì một chút thôi cũng không nên. Đề cao tính tự trọng, ý chí vươn lên. Khôn đâu đến trẻ, khỏe đâu đến già. Trẻ có khôn đến mấy cũng không bằng người lớn, người già có khỏe đến mấy cũng không thể bằng thanh niên. Cả lo cả nghĩ. Chỉ người hay lo hay nghĩ quá mức bình thường. Của biếu là của lo, của cho là của nợ. Chịu ơn về vật chất không tự mình làm ra sẽ không thanh thản, mà lúc nào cũng phải lo nghĩ để đáp lại. Cả giận mất khôn. Nóng nảy quá, không bình tĩnh sẽ mất tỉnh táo, dẫn đến hỏng việc. Một người làm quan cả họ được nhờ. Quan niệm dân gian cho rằng: một người có quyền thế có thể thu xếp, bao bọc, thu vén cho những người thân. Lòng người như bể khôn dò. Khó biết được lòng dạ con người. Dâu hiền hơn con gái, rể hiền hơn con trai. Khen những người dâu thảo, rể hiền. Giặc bên Ngô không bằng bà cô bên chồng. 24 Dân gian thường quan niệm, bà cô bên chồng (em gái của chồng) thường đanh đá, ỷ thế bắt nạt chị dâu. Dâu dữ mất họ, chó dữ mất láng giềng. Chỉ nàng dâu đanh đá, ghê gớm, ăn ở không tốt, làm cho họ hàng xa lánh. Miệng hùm gan sứa. Ngoài miệng nói ra thì hùng hổ, ra vẻ bạo dạn nhưng thực chất thì hèn nhát, sợ sệt. Miệng nam mô, bụng một bồ dao găm. (Miệng Bồ Tát, dạ ớt ngâm). Kẻ giả dối, miệng thì nói từ bi, nhân nghĩa nhưng trong lòng thì độc ác, nham hiểm. Cốc mò cò xơi. Chỉ sự uổng công vô ích, làm cho người khác hưởng. Cá lớn nuốt cá bé. Kẻ mạnh hà hiếp người yếu, người trên áp bức người dưới. Cá mè đè cá chép. Cùng đồng loại họ hàng mà chèn ép lẫn nhau. Cảnh đời trớ trêu. Cá nhảy ốc cũng nhảy. Phê phán kẻ kém cỏi, học hành chẳng ra gì, cũng học đòi bắt chước người tài giỏi. Cả tiếng nhiều lời. Những người ghê gớm, chua ngoa. 25 Công ai nấy hưởng, tội ai nấy chịu. Làm điều tốt thì trước hết bản thân được hưởng, làm điều xấu thì trước hết bản thân phải gánh chịu. Tức nước vỡ bờ. (Con giun xéo lắm cũng quằn). Chèn ép quá khiến người ta phải vùng lên chống đối, phản kháng lại. 26 CA DAO I. Khái niệm Ca dao là thơ ca dân gian Việt Nam, được truyền miệng dưới dạng những câu hát không theo một giai điệu nhất định, thường phổ biến theo thể thơ lục bát cho dễ nhớ, dễ thuộc. Nội dung của ca dao thường phản ánh những chủ đề sau đây: - Lịch sử: Ca dao lịch sử không phản ánh hiện tượng lịch sử trong quá trình diễn biến của nó, mà chỉ nhắc đến sự kiện lịch sử để nói lên thái độ, quan điểm nhân dân. - Phản ánh nếp sống, phong tục, tập quán truyền thống. - Phản ánh đời sống tình cảm nhân dân: tình cảm gia đình; tình yêu lứa đôi; tình yêu quê hương đất nước... - Ca dao phản ánh cuộc sống lao động của người dân Việt Nam. - Ca dao còn chứa đựng tiếng cười trào phúng vui vẻ của người dân lao động. 27 II. Phân loại Người ta thường phân loại ca dao theo một số đặc điểm và nội dung chủ yếu sau: 1. Ca dao về lao động sản xuất: Là phần lời cốt lõi của dân ca lao động. Những bài ca lao động tồn tại như là một bộ phận của quá trình lao động. 2. Ca dao ru con: Hát ru có từ lâu đời và rất phổ biến, lời hát ru phần nhiều là những câu ca dao có sẵn. 3. Ca dao phản ánh nghi lễ, phong tục của người dân: Trong nhiều bài ca tế thần, các yếu tố trữ tình cũng có mặt, cùng với yếu tố hiện thực, chúng biểu hiện sức mạnh đời sống hiện thực trong các hình thức sinh hoạt tôn giáo của nhân dân. 4. Ca dao phản ánh lịch sử. 5. Ca dao về tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước; tình yêu lứa đôi. 6. Ca dao trào phúng, bông đùa. III. Nội dung 1. Ca dao về lao động sản xuất Mài dừa dưới ánh trăng vàng Ép dầu mà chải tóc nàng tóc anh. Nghé ơi ta bảo nghé này Nghé ăn cho béo, nghé cày cho sâu Ở đời khôn khéo chi đâu Chẳng qua cũng chỉ hơn nhau chữ cần. 28 Nhờ trời mưa gió thuận hòa Nào cày, nào cấy, trẻ già đua nhau Chim, gà, cá, nhện, cảnh, cau Mùa nào thức nấy giữ màu quê hương. Nhờ trời mưa gió thuận hòa Lúa vàng dầy ruộng, lời ca vang đồng. Những người đi biển làm nghề Thấy dòng nước nóng thì về đừng đi Sóng lừng, bụng biển ầm ì Bão mưa ta tránh chớ hề ra khơi. Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu. Người ta đi cấy lấy công Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề Trông trời trông đất trông mây Trông mưa trông nắng trông ngày trông đêm Trông cho chân cứng đá mềm Trời yên biển lặng mới yên tấm lòng. Trâu ơi ta bảo trâu này Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta Cấy cày vốn nghiệp nông gia Ta đây trâu đấy, ai mà quản công Bao giờ cây lúa còn bông Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn. 29 Rủ nhau lên núi đốt than Chồng mang đòn gánh, vợ mang quang giành Củi than nhem nhuốc với tình Ghi lời vàng đá xin mình chớ quên. Gỗ kiền anh để đóng cày Gỗ lim, gỗ sến anh nay đóng bừa Răng bừa tám cái còn thưa Lưỡi cày tám tấc đã vừa luống to Muốn cho lúa mẩy bông to Cày sâu, bừa kĩ phân gio cho nhiều. Lập thu mới cấy lúa mùa Khác nào hương khói lên chùa cầu con. Tháng chạp thì mắc trồng khoai Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà Tháng ba cày bở ruộng ra Tháng tư bắc mạ, thuận hoà mọi nơi Tháng năm gặt hái vừa rồi Bước sang tháng sáu, nước trôi đầy đồng Nhà nhà vợ vợ chồng chồng Đi làm ngoài đồng, sá kể sớm trưa Tháng sáu, tháng bảy, khi vừa Vun trồng giống lúa, bỏ chừa cỏ tranh Tháng tám lúa giỗ đã đành Tháng mười cắt hái cho nhanh kịp người Khó khăn làm mấy tháng trời Lại còn mưa nắng thất thời khổ trông 30 Cắt rồi nộp thuế nhà công Từ rày mới được yên lòng ấm no. Mồng chín tháng chín có mưa Thì con sắm sửa cày bừa làm ăn Mồng chín tháng chín không mưa Thì con bán cả cày bừa đi buôn. Đêm trời tang, trăng sao không tỏ Ấy là điềm mưa gió tới nơi Đêm nào sao sáng xanh trời Ấy là nắng ráo yên vui suốt ngày Những ai chăm việc cấy cày Điềm trời trông đó, liệu xoay việc làm Nhiều chống càng tốt, nhiều cột càng bền. Cơm ăn một bữa sao no Ruộng cày một vụ sao cho đành lòng Sâu cấy lúa cạn gieo bông Chẳng ươm được đỗ thì trồng khoai ngô. 2. Ca dao hát ru Cái bống đi chợ Cầu Canh Con tôm đi trước, củ hành theo sau Con cua lạch đạch theo hầu Cái chày rơi xuống vỡ đầu con cua. Cái bống là cái bống bang Con đi lấy sàng cho mẹ đổ khoai Con ăn một, mẹ ăn hai 31 Con đi bốc muối thì khoai chẳng còn Con ngồi con khóc nỉ non Mẹ cầm cái vọt, con bon ra hè Có đánh thì đánh vọt tre Đừng đánh vọt nứa mà què chân con. Cái bống là cái bống bình Thổi cơm nấu nước một mình mà thôi Rạng ngày có khách đến chơi Cơm ăn rượu uống cho vui lòng chồng Rạng ngày ăn uống vừa xong Tay nhấc mâm đồng, tay trải chiếu hoa Nhịn miệng đãi khách đàng xa Ấy là của gởi chồng ta ăn đàng. Cháu ơi cháu ngủ cho lâu Mẹ cháu đi cấy đồng sâu chưa về Bắt được con trắm con trê Tròng cổ mang về bà cháu mình ăn. Cái bống đi chợ Cầu Cần Thấy ba ông bụt cởi trần nấu cơm Ông thì xới xới, đơm đơm Ông thì ứ hự, nồi cơm không còn. Cái bống là cái bống bang Ăn cơm bằng sàng, bốc muối bằng vung Mẹ giận mẹ vứt (đẩy) xuống sông Bơi ra cửa (Con ra đường) biển lấy chồng lái buôn 32 Khát nước thì uống nước nguồn Lạc đường thì bảo lái buôn đưa về. Ầu ơ, bồng bống bông bông Lớn lên con phải cố công học hành Học là học đạo làm người Con đừng lêu lổng kẻ cười người chê. Ầu ơ, mẹ ơi đừng đánh con đau Để con bắt cá hái rau mẹ dùng. Ầu ơ, mẹ ơi chớ đánh con hoài Để con bắt ốc, hái xoài mẹ ăn. Ầu ơ, ví dầu cá bống đánh đu Tôm càng hát bội, cá thu cầm chầu. Bồng em mà bỏ vô nôi Cho mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu Mua cau Bát Nhị, mua trầu Hội An. Cái bống mặc xống ngang chân Lấy chồng Kẻ Chợ cho gần xem voi Trèo lên trái núi mà coi Thấy ông quản tượng cỡi voi đánh cồng Túi vóc mà thêu chỉ hồng Têm trầu cánh phượng cho chồng đi thi Một mai chồng đỗ, vinh quy 33 Võng anh đi trước, em thì võng sau Tàn quạt, hương án theo hầu Vinh quy bái tổ, giết trâu ăn mừng. Con cò lặn lội bờ sông Mẹ đi tưới nước cho bông ra đài Trông trời, trông đất, trông mây Trông cho lúa chín hạt sai nặng nhành Trông cho rau muống mau xanh Để em cắt nấu bát canh mặn mà Mát lòng sau bữa rau cà Con ơi mau lớn nước nhà cậy trông. Con tôi buồn ngủ buồn nghê Buồn ăn cơm nếp, cháo kê thịt gà Nhà còn có một quả cà Làm sao đủ miếng cơm và cho con Con tôi khóc héo, khóc hon Khóc đòi quả thị méo trôn đầu mùa Con thèm phẩm oản trên chùa Thèm quả chuối ngự tiến vua của làng Con thèm gạo cốm Làng Ngang Con thèm ăn quả dưa gang Làng Quài Con thèm cá mát canh khoai Con thèm xơ mít, thèm tai quả hồng Con thèm đuôi cá vây bông Thèm râu tôm rảo, thèm lòng bí đao. 34 Mẹ bồng con lên ngồi cầu Ái Tử Vợ (Gái) trông chồng đứng núi Vọng Phu Biết răng chừ bóng xế trăng lu (Tây cù) Giả như con ve ve nó kêu mùa hạ Biết mấy thu mới gặp chàng. Ru con con ngủ cho say Để u dệt vải cho thầy nhuộm nâu Cắt quần cắt áo u khâu Để thầy con mặc cày bừa mùa chiêm. Ru em, em hãy nín đi Kẻo mà mẹ đánh em thì phải đau Em đau chị cũng buồn rầu Bé mồm bé miệng nín mau tức thì. Ru hời ru hỡi là ru Bên cạn thì chống bên su thì chèo Hai tay vừa chống vừa chèo Không ai tát nước đỡ nghèo một phen. Ví dầu cầu ván đóng đinh Cầu tre lắc lẻo ghập ghềnh khó đi Ví dầu mẹ chẳng có chi Chỉ con với mẹ chẳng khi nào rời. Ru con con ngủ cho lâu Để mẹ đi cấy ruộng sâu lâu về Ru con con ngủ cho mê 35 Mẹ còn lo chuyện lê thê kéo cày Ru con con ngủ cho say Mẹ còn vất vả chân tay ngoài đồng Ru con con ngủ cho nồng Mẹ còn nhổ mạ trả công cho người. Ru em buồn ngủ buồn nghê Con tằm chín đỏ, con dê chín muồi Con tằm chín để mà nuôi Con dê chín muồi làm thịt mà ăn. Ru em cho thét cho muồi Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu Mua cau Nam Phổ, mua trầu Chợ Dinh Chợ Dinh bán áo con trai Triều Sơn bán nón, Mậu Tài bán kim. 3. Ca dao về nghi lễ, lễ hội, phong tục tập quán Ai về Phú Thọ cùng ta Vui ngày Giỗ Tổ tháng ba mồng mười Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng mười tháng ba Khắp miền truyền mãi câu ca Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm. Trong thời gian từ ngày khai hội Đền Hùng đến ngày mãn hội, có nhiều trò chơi dân gian 36 được tổ chức như trò đu tiên, leo dây, thả diều, đánh còn: Đu tiên mới dựng năm nay Cô nào hay hát kỳ này hát lên Tháng ba nô nức hội Đền Nhớ ngày Giỗ Tổ bốn nghìn năm nay Dạo xem phong cảnh trời mây Lô Đà, Tam Đảo cũng quay đầu về Khắp nơi con cháu ba kỳ Kẻ đi cầu phúc, người đi cầu tài Sở cầu như ý ai ai Xin rằng nhớ lấy mồng mười tháng ba. Đến đây sum họp vui cười Trước là lễ Tổ viếng nơi mộ phần Sau là tài tử giai nhân Hàn huyên kể nỗi kẻ gần người xa Gần xa ta cũng một nhà Cũng dòng Hồng Lạc, cũng là viêm bang Chúc rằng: phú quý thọ khang Tổ cho phúc trạch bình an muôn nhà. Trong các lễ hội mùa Xuân của hệ thống Tứ Pháp thường mang hình thức “rước nước cầu mưa”: Ba bà trẩy hội chùa Un Mưa gió ùn ùn lại dễ làm ăn. Tục lệ rước tượng Tứ Pháp với những điệu múa dân gian đầy màu sắc vào ngày mồng tám tháng tư luôn luôn là một hình ảnh đầy sức quyến rũ: 37 Dù ai buôn bán đâu đâu Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về Dù ai buôn bán trăm nghề Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu. Nước ta có nhiều sông ngòi. Do đó, có tục đua thuyền vào các ngày lễ hội: Cầu Quan vui lắm ai ơi Trên thì chợ họp, dưới bơi thuyền rồng. Quyển Sơn vui thú nhất đời Dốc lòng trên giặm, dưới bơi ta về. Kẻ Dầu có quán Đình Thanh Kẻ Hạc ta có ba đình, ba voi Mười tám cất thuyền xuống bơi Mười chín giã bánh, hai mươi rước Thần. Ai là con cháu Rồng Tiên Tháng hai mở hội Trường Yên thì về Về thăm đất cũ Đinh Lê Non xanh, nước biếc bốn bề như xưa. (Làng Trường Yên thuộc huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình là nơi có đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng. Trong buổi diễn, họ cùng hát lại bài ca tương truyền là đã có từ thời Đinh Bộ Lĩnh còn chăn trâu và tổ chức tập trận bằng cờ lau). Cỏ cây ấy, nước non này Nước non quanh quất, cỏ cây xanh rì Rừng hoang, cỏ rậm để chi 38 Phen này ta quyết dọn đi cho rồi Này này chúng bạn ta ơi. Trong các nhân vật huyền thoại được dân ta thờ phụng như Phù Đổng Thiên Vương, Chử Đồng Tử, Tản Viên Sơn Thần, Liễu Hạnh Công Chúa thì Liễu Hạnh được phong là Thánh mẫu được sùng kính tôn thờ ở nhiều nơi. Tháng tám giỗ Cha Tháng ba giỗ Mẹ. Hay Nhất hội Hương Tích Nhì hội Phủ Giầy. Ngôi chùa nổi tiếng vì phong cảnh đẹp bậc nhất đất Bắc đó là chùa Hương: Bối Khê, Tiên Lữ, Chùa Thầy Đẹp thì tuyệt đẹp chưa tày chùa Hương. Ngày Xuân con én xôn xao Nam thanh, nữ tú ra vào chùa Hương Chim đưa lối, vượn đưa đường Nam Mô Di Phật bốn phương chùa nầy. Ai đi trẩy hội chùa Hương Làm ơn gặp khách thập phương hỏi giùm Mớ rau sắng, quả mơ non Mơ chua, sắng ngọt biết còn thương chăng? Nhớ ngày mồng bảy tháng ba Trở về hội Láng, trở ra hội Thầy 39 Gái chưa chồng nhớ hang Cắc Cớ Trai chưa vợ nhớ hội chùa Thầy. Gần xa nao nức tưng bừng Vào chùa Quan Thượng xem bằng động tiên Lầu chuông, gác tía đôi bên Trông ra chợ Mới, Tràng Tiền kinh đô Khen ai khéo họa địa đồ Trước sông Nhị Thủy, sau hồ Hoàn Gươm Phong quang cảnh trí trăm đường Trong xây chín giếng, ngoài tường lục lăng. (Ở Hà Nội có chùa Liên Trì, tục gọi là chùa Quan Thượng do Tổng đốc Hà Ninh (Hà Nội, Ninh Bình) Nguyễn Đăng Giai, thường gọi là quan Thượng Giai, cho xây vào năm 1846. Chùa xây cạnh Hồ Tây). Các làng Bắc Ninh còn lên lịch vui Xuân của từng làng để tổ chức khỏi trùng nhau và dân chúng các vùng lân cận có thể tham gia: Mồng bốn là hội Kéo Co Mồng năm hội Ó chẳng cho nhau về Mồng sáu đi hội Bồ Đề Mồng bảy trở về đi hội Đống Cao... Có một số hội Xuân lại được tổ chức vào thượng tuần tháng tư: Ai ơi, mồng chín tháng tư Không đi hội Gióng cũng hư một đời. Hay Mồng bảy hội Khám Mồng tám hội Dâu 40 Mồng chín đâu đâu Trở về hội Gióng. 4. Ca dao về lịch sử Hiểm nhất lũy Thầy Thứ nhì đồng lầy Võ Xá. Ba quân có mắt như mờ Ðể cho Huy Quận vào sờ chính cung. Sự này chỉ tại Bà Chè Cho Chúa mất nước cho Nghè làng xiêu. Cha nhỏ đầu con nhỏ chân Ðến năm Nhâm Tuất (1802) thì thân chẳng còn. Ai lên Phố Cát Ðại Ðồng Hỏi thăm cô Tú có chồng hay chưa? Có chồng năm ngoái năm xưa Năm nay chồng bỏ như chưa có chồng. Nhớ em anh cũng muốn vô Sợ truông nhà Hồ sợ phá Tam Giang Phá Tam Giang ngày rày đã cạn Truông nhà Hồ, Nội Tán cấm nghiêm. Tháng sáu có chiếu vua ra Cấm quần không đáy người ta hãi hùng Không đi thì chợ không đông Ði thì phải lột quần chồng sao đang? 41 Vạn niên là Vạn niên nào Thành xây xương lính, hào đào máu dân. Cổ Loa là đất đế kinh Trông ra lại thấy tòa thành tiên xây. Ai về qua huyện Đông Anh Ghé xem phong cảnh Loa Thành Thục Vương Cổ Loa thành ốc khác thường Trải bao mưa nắng dãi dầu còn đây. Ru con con ngủ cho lành Để mẹ múc nước rửa bành con voi Muốn coi lên núi mà coi Coi bà Triệu tướng cưỡi voi, đánh cồng. Ai qua Nông Cống tỉnh Thanh Dừng chân nhớ Triệu Thị Trinh anh hùng. Ai về Hậu Lộc, Phú Điền Nơi đây Bà Triệu trận tiền xung phong. Nhớ khi nội thuộc Đường triều Giang sơn cố quốc nhiều điều ghê gai Sâu quả vải vì ai vạch lá Ngựa hồng trần kể đã héo hon. ... Đường đi cống vải từ đây dứt Dân nước đời đời hưởng lộc chung. 42 Sa Nam trên chợ dưới đò Nơi đây Hắc Đế kéo cờ dựng binh. Con ơi nhớ lấy lời cha Gió to, sóng cả chớ qua sông Rừng Đánh giặc thì đánh giữa sông Đừng đánh chỗ cạn mắc chông mà chìm. Đời Lê Thái Tổ, Thái Tông Thóc lúa đầy đồng gà chẳng thèm ăn Bò đen húc lẫn bò vàng Hai con húc chắc đâm quàng xuống sông. Rủ nhau chơi khắp Long Thành Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai Hàng Bồ, Hàng Bạc, Hàng Gai Hàng Buồm, Hàng Thiếc, Hàng Hài, Hàng Khay Mã Vĩ, Hàng Điếu, Hàng Giày Hàng Lờ, Hàng Cót, Hàng Mây, Hàng Đàn. … Phồn hoa thứ nhất Long Thành Phố giăng mắc cửi, đường quanh bàn cờ Người về nhớ cảnh ngẩn ngơ Bút hoa xin chép vần thơ lưu truyền. Cái cò lặn lội bờ sông Gánh gạo, đưa chồng tiếng khóc nỉ non Nàng về nuôi cái cùng con Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng. 43 Hỡi cô thắt lưng bao xanh Có về Vạn Phúc quê anh thì về Vạn Phúc có một cây đề Có ao tắm mát có nghề quay tơ. Lụa là nhất ở Phương La Kinh kì xưa vẫn thường qua nơi này Quảng Nam có lụa Phú Bông Có khoai Trà Đảo, có sông Thu Bồn Phú Bông dệt lụa, dệt sa Kim Bồng thợ mộc, Ô Gia thợ rừng. ... Hỡi cô thắt lưng bao xanh Có về làng Mái quê anh thì về Làng Mái có lịch có lề Có ao tắm mát, có nghề in tranh. Xuân xưa vang tiếng Hà Hồi Oai danh Nguyễn Huệ muôn đời còn ghi Một trời khí phách uy nghi Đón xuân không thẹn tu mi Lạc Hồng. Con ơi nhớ lấy câu này Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan Bộ Binh, bộ Hộ, bộ Hình Ba bộ đồng tình cướp gạo con tôi. Từ ngày Tự Đức lên ngôi Cơm chẳng đầy nồi trẻ khóc như ri 44 Bao giờ Tự Đức chết đi Thiên hạ thái bình mới dễ làm ăn. 5. Ca dao về tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước, tình yêu lứa đôi Ca dao về tình cảm gia đình Ai về tôi gửi buồng cau Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy. Ai về tôi gửi đôi giày Phòng khi mưa gió để thầy mẹ đi. Anh em nào phải người xa Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân. Anh em cốt nhục một nhà Kẻ sau người trước thuận hòa cho vui. Anh em ăn ở thuận hòa Chớ điều chếch lệch người ta chê cười. Anh em hiền thậm là hiền Đừng một đồng tiền mà đấm đá nhau. Ân cha lành cao như núi Thái Đức mẹ hiền sâu tựa biển khơi Dù cho dâng trọn một đời Cũng không trả hết ân người sanh ta. Anh đi vắng cửa vắng nhà Giường loan gối quế mẹ già ai nuôi? 45 Ba đồng một khía cá buôi Cũng mua cho được để nuôi mẹ già. Bao giờ cá lý hóa long Đền ơn cha mẹ bỏ công sinh thành. Bồng bồng con nín con ơi Dưới sông cá lội, trên trời chim bay Ước gì mẹ có mười tay Tay kia bắt cá, tay này bắn chim Một tay chuốt chỉ luồn kim Một tay làm ruộng, một tìm hái rau Một tay ôm ấp con đau Một tay vay gạo, một cầu cúng ma Một tay khung cửi, guồng xa Một tay lo bếp, lo nhà nắng mưa Một tay đi củi, muối dưa Còn tay van lạy, bẩm thưa, đỡ đòn. Đắng cay cũng thể ruột rà Ngọt ngào cho lắm cũng là người dưng. Ca dao về quê hương đất nước Ðường vô xứ Nghệ quanh quanh Non xanh nước biếc như tranh họa đồ. Sông Tô nước chảy quanh co Cầu Đông sương sớm, quán Giò trăng khuya. 46 Gió đưa cành trúc la đà Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương Mịt mù khói tỏa ngàn sương Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ. Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn Hỏi ai gây dựng nên non nước này. Sông Đồng Nai nước trong lại mát Đường Hiệp Hòa lắm cát dễ đi Gái Hiệp Hòa xinh như hoa thiên lý Trai Hiệp Hòa chí khí hiên ngang. Ca dao về tình yêu đôi lứa Ai đem cô gái sang sông Để cho cô gái chạy theo chồng giàu. Ai làm cho bướm lìa hoa Cho chim xanh nỡ bay qua vườn hồng. Ai xin anh lấy được mình Để anh vun xới ruộng tình cho xanh Ai xin mình lấy được anh Bõ công bác mẹ sinh thành ra em. 47 Anh đi đường ấy xa xa Để em ôm bóng trăng tà năm canh Nước non một gánh chung tình Nhớ ai ai có nhớ mình hay chăng. Ấy ai dắt mối tơ mành Cho thuyền quen bến cho anh quen nàng Tơ tằm đã vấn thì vương Đã trót dan díu thì thương nhau cùng. Anh về em nắm cổ tay Em dặn câu này anh chớ có quên Đôi ta đã trót lời nguyền Chớ xa xôi mặt mà quên mảng lòng. Bắc thang lên hỏi trăng già Phải chăng phận gái mưa sa giữa trời May ra gặp được giếng khơi Vừa trong vừa mát lại nơi thanh nhàn Chẳng may số phận gian nan Lầm than phải chịu phàn nàn cùng ai. Bây giờ mận mới hỏi đào Vườn hồng đã có ai vào hay chưa Mận hỏi thì đào xin thưa Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào. Trên trời có đám mây xanh Ở giữa mây trắng, chung quanh mây vàng Ước gì anh lấy được nàng Để anh mua gạch Bát Tràng về xây 48 Xây dọc rồi lại xây ngang Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân. Cái cò lặn lội bờ ao Phất phơ đôi dải yếm đào gió bay Em về giục mẹ cùng thầy Cắm sào đợi nước biết ngày nào trong Cổ yếm em thõng thòng thòng Tay em đeo vòng như bắp chuối non Em khoe em đẹp em giòn Anh trông nhan sắc em còn kém xuân. Cái cò bay bổng bay lơ Lại đây anh gởi xôi ngô cho nàng Đem về nàng nấu nàng rang Nàng ăn có dẻo thì nàng lấy anh. Đêm đêm khêu ngọn đèn loan Nhớ chàng quân tử thở than mấy lời Mong chàng chẳng thấy chàng ôi Thiếp tôi trằn trọc vội rời chân ra Nhác trông lên đã xế tà Đêm khuya khoắt con gà gáy sang canh Mong anh mà chẳng thấy anh Thiếp tôi buồn bã khêu quanh ngọn đèn. 6. Ca dao hài hước, bông đùa Bà già đã tám mươi tư Ngồi trông cửa sổ gửi thư kén chồng. 49 Bà già đi chợ Cầu Đông Hỏi thăm thầy bói lấy chồng lợi chăng? Bước sang tháng sáu giá chân Tháng chạp nằm trần bức đổ mồ hôi Con chuột kéo cầy lồi lồi Con trâu bốc gạo vào ngồi trong cong Vườn rộng thì thả rau rong Ao sâu vãi cải lấy ngồng làm dưa Đàn bò đi tắm đến trưa Một đàn con vịt đi bừa ruộng nương Voi kia nằm ở gậm giường Cóc đi đánh giặc bốn phương nhọc nhằn Chuồn chuồn thấy cám liền ăn Lợn kia thấy cám nhọc nhằn bay qua Bao giờ cho đến tháng ba Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng Hùm nằm cho lợn liếm lông Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi Nắm xôi nuốt trẻ lên mười Con gà nậm rượu nuốt người lao đao Lươn nằm cho trúm bò vào Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô Thóc giống cắn chuột trong bồ Một trăm lá mạ đuổi vồ con trâu Chim chích cắn cổ diều hâu Gà con tha quạ biết đâu mà tìm. 50 Trời mưa cho mối bắt gà Thòng đong cân cấn đuổi cò lao xao. Bong bóng thì chìm, gỗ lim thì nổi Đào ao bằng chổi, quét nhà bằng mai Hòn đá dẻo dai, hòn xôi rắn chắc Gan lợn thì đắng, bồ hòn thì bùi Hương hoa thì hôi, nhất thơm thì cú Đàn ông to vú, đàn bà rậm râu Hay cắn thì trâu, hay cày thì chó. Cau già dao bén thì ngon Người già trang điểm phấn son vẫn già. Cậu kia cắp sách đi đâu Cậu học chữ Tàu hay học chữ Tây Học chữ Tây không tiền không việc Học chữ Tàu ai biết ai nghe Chi bằng về chốn thôn quê Cấy cày còn được no nê có ngày. Cây cao bóng mát không ngồi Ra ngồi chỗ nắng trách trời không mây. Chèo ghe xuống biển bắt cua Bắt cua cua kẹp, bắt rùa rùa bơi. Chì khoe chì nặng hơn đồng Sao chì chẳng đúc nên cồng nên chuông. 51 Chó đâu chó sủa lỗ không Không thằng ăn trộm cũng ông ăn mày. Con cò chết tối hôm qua Có hai hột gạo với ba đồng tiền Một đồng mua trống, mua kèn Một đồng mua mỡ đốt đèn thờ vong Một đồng mua mớ rau răm Đem về thái nhỏ thờ vong con cò. Còn duyên kén cá chọn canh Hết duyên ếch đực, cua kềnh cũng vơ Còn duyên kén những trai tơ Hết duyên ông lão cũng vơ làm chồng. Con mèo mà trèo cây cau Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà Chú chuột đi chợ đằng xa Mua mắm mua muối giỗ cha con mèo. Cái cò lặn lội bờ ao Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng Chú tôi hay tửu hay tăm Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa Ngày thì ước những ngày mưa Đêm thì ước những đêm thừa trống canh. Chồng người đánh Bắc, dẹp Đông Chồng em ngồi bếp giương cung bắn gà. 52 Chồng người đi ngược về xuôi Chồng em ngồi bếp sờ đuôi con mèo. Học hành ba chữ lem nhem Thấy gái thì thèm như chửa thèm chua. Hai tay cầm hai quả hồng Quả chát phần chồng, quả ngọt phần trai Đêm nằm vuốt bụng thở dài Thương chồng thì ít, nhớ trai thì nhiều. Lỗ mũi mười tám gánh lông Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho Đêm nằm thì gáy o o Chồng yêu chồng bảo gáy cho vui nhà Đi chợ thì hay ăn quà Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm Trên đầu những rác cùng rơm Chồng yêu chồng bảo hoa thơm rắc đầu. 53 MỤC LỤC Trang Lời Nhà xuất bản 5 Lời soạn giả 7 Tục ngữ và giải nghĩa 11 Ca dao 27 54 Chịu trách nhiệm xuất bản Q. GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - SỰ THẬT TS. HOÀNG PHONG HÀ Chịu trách nhiệm nội dung GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP NHÀ XUẤT BẢN THANH NIÊN NGUYỄN TRƯỜNG Biên tập nội dung: NGUYỄN VŨ THANH HẢO NGUYỄN HẢI ANH ĐÀO BÌNH MINH Trình bày bìa: ĐƯỜNG HỒNG MAI Chế bản vi tính: NGUYỄN THỊ HẰNG Sửa bản in: NGUYỄN THỊ LƯƠNG Đọc sách mẫu: NGUYỄN HẢI ANH 55