🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tư Tưởng Hồ Chí Minh Về Văn Hoá
Ebooks
Nhóm Zalo
HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN
Chủ tịch Hội đồng
Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương TRẦN THANH LÂM
Phó Chủ tịch Hội đồng
Giám đốc - Tổng Biên tập
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật PHẠM MINH TUẤN
Thành viên
NGUYỄN HOÀI ANH
PHẠM THỊ THINH
NGUYỄN ĐỨC TÀI
TỐNG VĂN THANH
2
Tập thể tác giả
PGS.TS. VŨ THỊ PHƯƠNG HẬU (Chủ biên) PGS.TS. NGUYỄN DUY BẮC
TS. LƯƠNG HUYỀN THANH
TS. NGUYỄN HUY PHÒNG
TS. NGHIÊM THỊ THU NGA
ThS. NGUYỄN DUY THÁI
ThS. LÊ THỊ TRANG
ThS. NGUYỄN THỊ THANH THÚY
4
C
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
hủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một lãnh tụ thiên tài, Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà hoạt
động chính trị lỗi lạc, mà còn là một danh nhân văn hóa kiệt xuất. Người là hiện thân của nền văn hóa mới Việt Nam, là mẫu mực của con người mới Việt Nam.
Trong di sản tinh thần đồ sộ Người để lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa mang ý nghĩa thời đại, là ngọn đuốc soi đường cho văn hóa Việt Nam ngày càng phát triển, hòa nhập vào dòng chảy văn hóa nhân loại.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao việc xây dựng, bồi đắp nền văn hóa dân tộc, coi văn hóa là một trong bốn trụ cột phát triển của đất nước, bên cạnh kinh tế, chính trị, xã hội. Đi sâu vào những lĩnh vực văn hóa cụ thể: văn học, nghệ thuật, giáo dục, báo chí..., Người nêu bật những đặc trưng, nhiệm vụ của từng ngành, cũng như yêu cầu về đạo đức, lối sống, năng lực, nghiệp vụ của cán bộ đáp ứng sự nghiệp phát triển văn hóa. Đội ngũ văn nghệ sĩ, các nhà giáo, nhà báo, cán bộ văn hóa... là nguồn nhân lực chủ chốt trong xây dựng đời sống mới, phát triển văn hóa nước nhà, góp phần định hướng những giá trị chân, thiện, mỹ, bồi dưỡng phẩm chất con người Việt Nam. Những lời chỉ dạy
5
của Chủ tịch Hồ Chí Minh và cả cuộc đời hiến dâng cho tự do, độc lập dân tộc, hạnh phúc nhân dân của Người là tấm gương ngời sáng, có sức cảm hóa, lay động lớp lớp thế hệ người dân đất Việt.
Bảo tồn, gìn giữ, phát huy những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể trong di sản văn hóa dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa hết sức quan trọng, để giữ vững bản lĩnh, cốt cách dân tộc đi đôi với tiếp biến, giao lưu, học hỏi những giá trị tiến bộ của nhân loại, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa do PGS.TS. Vũ Thị Phương Hậu làm chủ biên đã đi sâu phân tích, làm rõ những quan điểm lý luận và thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa nói chung và các lĩnh vực văn hóa nói riêng trên nhiều bình diện. Những quan điểm, định hướng phát triển nền văn hóa dân tộc do Người đề ra mang đậm tính nhân văn, đến nay vẫn vẹn nguyên giá trị và được Đảng ta kế thừa, vận dụng vào lãnh đạo toàn dân thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ cách mạng thời kỳ mới.
Xin giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 11 năm 2022
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT6
N
LỜI GIỚI THIỆU
ăm 1923, trong cuộc gặp gỡ, trò chuyện với Chủ tịch Hồ Chí Minh (lúc đó Người mang
tên Nguyễn Ái Quốc), nhà thơ, nhà báo trẻ người Nga Ôxíp Manđenxtam đã nhận thấy “từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa Âu châu, mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai”. “Nền văn hóa tương lai” mà Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam đã và đang xây dựng, kiến tạo có ánh sáng soi đường từ những tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là tư tưởng về xây dựng một nền văn hóa thấm đẫm tinh thần dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học. Ghi nhận những đóng góp của Người với dân tộc và nhân loại, UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc) đã ra Nghị quyết về kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tôn vinh Người là “Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”.
Tư tưởng của Người qua các trước tác, qua chính cuộc đời hoạt động cách mạng tận hiến, tận trung với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân là tài sản vô giá của dân tộc Việt Nam.
Nhằm thiết thực triển khai có hiệu quả Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị
7
về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh"; đưa Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng vào cuộc sống cũng như cụ thể hóa tinh thần chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị văn hóa toàn quốc (ngày 24/11/2021), nhóm tác giả đã tiến hành tổ chức biên soạn cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa.
Nội dung cuốn sách đề cập một cách cơ bản nhất, ngắn gọn, dễ nhớ, dễ hiểu các quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa, được triển khai theo các luận điểm, vấn đề: Ý nghĩa, vai trò của văn hóa trong phát triển đất nước; Những điểm lớn trong xây dựng nền văn hóa dân tộc; Về xây dựng đời sống mới; Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc; Vai trò của văn học, nghệ thuật và sứ mệnh của người nghệ sĩ; Mối quan hệ giữa văn hóa với kinh tế và chính trị; Tính chất, đặc trưng của báo chí cách mạng Việt Nam; Vai trò của đội ngũ cán bộ văn hóa; Vai trò, sứ mệnh của nhà giáo và tính chất của nền giáo dục mới.
Mặc dù các tác giả đã có nhiều cố gắng trong quá trình biên soạn nhưng chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, khiếm khuyết. Rất mong nhận được những ý kiến góp ý của bạn đọc để lần xuất bản sau cuốn sách được hoàn thiện hơn.
TẬP THỂ TÁC GIẢ
8
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ KHÁI NIỆM, VAI TRÒ, QUY LUẬT VẬN ĐỘNG VÀ NHỮNG ĐIỂM LỚN KHI XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA DÂN TỘC
T
ư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân một di sản đồ sộ, phong phú, đề cập đến nhiều vấn đề quan trọng, như: tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với
9
sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân…, trong đó có tư tưởng của Người về chăm lo, phát triển văn hóa, con người, xây dựng đời sống mới nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa là sự kết tinh những tinh hoa văn hóa của dân tộc qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, là hiện thân cho khát vọng vươn lên, khẳng định bản sắc văn hóa dân tộc trên bước đường phát triển. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, đặc biệt là sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.
1. Quan niệm về văn hóa
Văn hóa là một hiện tượng xã hội có phạm vi biểu hiện rất rộng. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh
10
về văn hóa, có thể thấy Người quan niệm về văn hóa theo ba cách hiểu:
Thứ nhất, văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng nhất - đó là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra để đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của mình trong tiến trình đi lên của lịch sử. Văn hóa là đặc trưng của toàn bộ đời sống của loài người. Xây dựng văn hóa là xây dựng tất cả các mặt của đời sống xã hội và quan tâm đến trình độ phát triển của con người.
Thứ hai, văn hóa được hiểu theo nghĩa hẹp hơn - đó là những giá trị tinh thần, là đời sống tinh thần của xã hội như đạo đức, tín ngưỡng, tôn giáo, thẩm mỹ, tâm linh, nghệ thuật... Như vậy văn hóa chỉ là một mặt, chứ không phải toàn bộ đời sống xã hội loài người.
Thứ ba, văn hóa được hiểu theo nghĩa hẹp nhất - đó là trình độ học vấn của con người. Tùy từng thời kỳ, Người đã sử dụng khái niệm văn hóa với những nội hàm rộng hẹp khác nhau. Nhưng khi đi vào xây dựng nền văn hóa mới, Người đã coi văn hóa là đời sống tinh thần, thuộc về kiến trúc thượng tầng, để có sự phân biệt tương đối với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Trong Mục đọc sách ở phần cuối tập Nhật ký trong tù (1942-1943), lần đầu tiên Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra một định nghĩa về văn hóa:
11
“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”1.
Quan niệm về văn hóa của Hồ Chí Minh ra đời trong một bối cảnh không gian và thời gian đặc biệt, khi cả nước đang tập trung vào nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Điều này cho thấy Người đã sớm nhận thức về vai trò và sứ mệnh của văn hóa trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Định nghĩa trên đã bao chứa nhiều nội dung: văn hóa là sự phát triển tự thân và tất yếu, mang tính xã hội cao, do nhu cầu tồn tại của con người; văn hóa là phương thức hoạt động và không ngừng nâng cao phương thức theo tiến triển xã hội; trong cái chung về phương thức hoạt động có cái riêng về công cụ cho sinh hoạt hằng ngày. Từ các mặt đó, có thể thấy vai trò sáng tạo và giá trị nhân văn đã trở thành cốt lõi của văn hóa.
_____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.3, tr.458.
12
Văn hóa là sự phát huy và hiện thực hoá các năng lực bản chất của con người. Con người là chủ thể sáng tạo của văn hóa, đồng thời văn hóa là phương thức sinh tồn, là môi trường sống của con người.
Như vậy, văn hóa theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh được hiểu theo nghĩa rộng nhất. Đó là toàn bộ những giá trị vật chất và những giá trị tinh thần mà loài người sáng tạo ra nhằm đáp ứng lẽ sinh tồn, đồng thời cũng là mục đích sống của loài người. Nguồn gốc và động lực sâu xa của văn hóa chính là nhu cầu thực tiễn của con người, thúc đẩy con người sáng tạo, cải tạo tự nhiên và xã hội, tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần phục vụ tốt hơn nhu cầu của mình, đây cũng chính là quá trình sáng tạo văn hóa của con người.
Điều thú vị là khi đối chiếu với một số định nghĩa khái quát về văn hóa do UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc) đưa ra gần nửa thế kỷ sau đó, chúng ta chỉ thấy khác nhau về cách diễn đạt, còn về cơ bản ý nghĩa của văn hóa thì không khác biệt với lập luận của Hồ Chí Minh. Văn hóa trong quan niệm của Người và UNESCO gặp nhau ở sự tương đồng về cấu trúc văn hóa, tính đặc trưng riêng biệt của văn hóa, hay hệ thống những giá trị về vật chất và tinh thần, cách ứng xử của con người, vai trò của văn hóa
13
đối với tiến trình phát triển của dân tộc và nhân loại. Theo nghĩa đó, văn hóa chính là hồn cốt của một quốc gia, dân tộc, làm nên sức sống, diện mạo và cốt cách của quốc gia, dân tộc đó trong lịch sử. Đây chính là tầm nhìn, là cống hiến to lớn của Người vào kho tàng trí tuệ của nhân loại.
2. Vai trò của văn hóa
Kế thừa những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, được ánh sáng khoa học, cách mạng và nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin rọi chiếu, Hồ Chí Minh đã nhận thức được tầm quan trọng của văn hóa đối với đời sống con người, đối với sự nghiệp giải phóng xã hội và canh tân đất nước, đối với việc xây dựng tình đoàn kết và sự hiểu biết, xích lại gần nhau giữa các dân tộc.
Từ sau Cách mạng Tháng Tám, văn hóa đã được Người xác định là đời sống tinh thần của xã hội, là thuộc về kiến trúc thượng tầng. Văn hóa được đặt ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội, tạo thành bốn vấn đề chủ yếu của đời sống xã hội: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cần chú ý, cũng phải coi là quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Nhưng văn hóa là một kiến trúc thượng tầng”1.
_____________
1. Hồ Chí Minh: Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1984, tr.34.
14
Đồng thời, trong quan hệ của bốn thành tố trên, Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trò quyết định của chính trị và kinh tế đối với sự phát triển của văn hóa. Văn hóa thuộc kiến trúc thượng tầng, gắn bó hữu cơ với cơ sở hạ tầng, vì thế, từ trong bản chất và tuân thủ quy luật chung, văn hóa ở trong kinh tế và chính trị, văn hóa không thể đứng ngoài, mà có nhiệm vụ góp phần thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế, phục vụ sự nghiệp cách mạng của nhân dân, trở thành một động lực to lớn, chủ động tác động tích cực trở lại đối với kinh tế và chính trị. Văn hóa của một dân tộc thể hiện trước hết ở trình độ dân trí, ở tầm cao trí tuệ, sự nhận thức của người dân về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình đối với đất nước.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ về vai trò và sức mạnh của văn hóa trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Năm 1946, tình thế cách mạng Việt Nam như “ngàn cân treo sợi tóc”, thực dân Pháp tiếp tục gây hấn, ngày 24/11/1946 Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất đã được diễn ra trọng thể tại Nhà hát Lớn (Hà Nội) với hơn 200 đại biểu là đại diện cho Chính phủ, Quốc hội và các nhà hoạt động văn hóa trên toàn quốc tham dự. Trong diễn văn khai mạc Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trò, sức mạnh của văn hóa: “Văn hóa phải
15
soi đường cho quốc dân đi”1. Với ý nghĩa đó, văn hóa có vai trò động lực đối với sự phát triển của đất nước, trước mắt là chấn hưng nền văn hóa dân tộc, tạo nền tảng vững chắc để phát triển đất nước và đem đến những thắng lợi cho cách mạng nước nhà.
Người nêu nhiệm vụ của văn hóa mới là phải lấy hạnh phúc của đồng bào, sự nghiệp đấu tranh của dân tộc làm nội dung phản ánh, đồng thời phải tiếp thu những kinh nghiệm của văn hóa xưa và nay để xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam với ba tính chất: dân tộc, khoa học, đại chúng. Người nêu rõ vị trí, ảnh hưởng của văn hóa, nghệ thuật trong việc giáo dục thế hệ trẻ, xây dựng con người Việt Nam yêu nước, độc lập, tự chủ. Mặc dù chỉ họp trong một ngày trước khi rời Hà Nội lên Việt Bắc chuẩn bị cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nhưng Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất đã đặt cơ sở cho việc xây dựng nền văn hóa mới của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sau Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất, một phong trào kháng chiến hóa văn hóa và văn hóa hóa kháng chiến dưới sự lãnh đạo của Đảng đã trở thành cuộc cách mạng mở rộng. Đảng ta xác định vai trò, nhiệm vụ to lớn của văn hóa lúc
_____________
1. Xem Báo Cứu quốc, ngày 25/11/1946.
16
này là phục vụ cho công cuộc kháng chiến. Những nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ dùng ngòi bút, tài năng của mình để cho ra đời các tác phẩm tuyên truyền, thông tin về chiến sự, kể những mẩu chuyện kháng chiến cho dễ nghe, dễ hiểu. Dưới ngọn cờ “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nêu cao trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đã cùng nhau chung sức, đồng lòng xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, để văn hóa thực sự phát huy vai trò động lực, nguồn lực nội sinh quan trọng cho sự phát triển của đất nước.
3. Quy luật vận động của văn hóa
Một nền văn hóa lớn mạnh, giàu bản sắc phụ thuộc vào nhiều yếu tố, đó là sức nghĩ, sức sáng tạo của các thế hệ người dân quốc gia đó; là quá trình không ngừng kế thừa, phát huy, lan tỏa giá trị văn hóa của các thế hệ nối tiếp, đồng thời đó là quá trình người dân không ngừng sáng tạo, bổ sung thêm những giá trị mới để bồi đắp, làm giàu đẹp thêm nền văn hóa dân tộc.
Với cái nhìn duy vật lịch sử, biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng sự vận động của văn hóa chịu ảnh hưởng, chi phối, tác động của nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, xã hội. Văn hóa không thể
17
đứng ngoài, thoát ly khỏi nền tảng kinh tế, vật chất và cơ sở hạ tầng của chế độ. Tuy nhiên văn hóa là lĩnh vực đặc biệt nhạy cảm, tinh tế, nó có đời sống riêng với những quy luật vận động mang tính đặc thù, nó có tính độc lập tương đối và tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng, thể chế kinh tế, chính trị - xã hội.
Xét trong phạm vi của một nền văn hóa cụ thể, có thể thấy nền văn hóa không đứng im, không thể tồn tại một cách biệt lập, không thể khép mình, đóng cửa với thế giới mà văn hóa luôn luôn vận động, sáng tạo, biến đổi không ngừng với nhiều giá trị mới được sản sinh cũng như tự đào thải những cái lạc hậu, chậm tiến để phát triển, đi lên.
Bản sắc của một nền văn hóa không chỉ là quá trình sáng tạo, bồi đắp của các thế hệ mà là quá trình cộng đồng, dân tộc không ngừng học tập, cải biến, tiếp thu, vận dụng một cách sáng tạo những giá trị tinh hoa văn hóa nhân loại.
Nhấn mạnh vào quy luật giao lưu - tiếp biến của nền văn hóa dân tộc, phát biểu tại Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất (năm 1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Văn hóa Việt Nam là ảnh hưởng lẫn nhau của văn hóa Đông phương và Tây phương chung đúc lại... Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt, ta học lấy để tạo ra một nền văn hóa Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm
18
tốt của văn hóa xưa và văn hóa nay, trau dồi cho văn hóa Việt Nam thật có tinh thần thuần túy Việt Nam để hợp với tinh thần dân chủ”1.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh có 30 năm bôn ba hải ngoại, đặt chân đến nhiều quốc gia, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa, nhiều lớp người khác nhau trong xã hội, Người cũng đã nhanh chóng tiếp thu, vận dụng những cái hay, tiến bộ, phù hợp của các nền văn hóa, từ tư tưởng, học thuyết đến lối sống, phong tục tập quán, cách ăn, cách nói, cách dùng từ, cách viết... vào điều kiện, hoàn cảnh của nước ta, được diễn đạt, “Việt hóa” bằng ngôn ngữ giản dị, trong sáng, dễ thuộc, dễ nhớ, dễ tiếp thu, ứng dụng để làm giàu đẹp thêm vốn văn hóa truyền thống.
Về đặc trưng, bản chất của nền văn hóa Việt Nam, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa Việt Nam là kết quả của quá trình giao lưu, tương tác, gặp gỡ của các nền văn hóa Đông phương và Tây phương với những giá trị nhân văn, tiến bộ được các thế hệ người dân Việt Nam không ngừng học tập, cải biến và vận dụng sáng tạo vào điều kiện, hoàn cảnh của nước ta.
Người căn dặn những người làm công tác văn hóa, văn nghệ phải ra sức học tập, tiếp thu tinh
_____________
1. Hồ Chí Minh: Về công tác văn hóa văn nghệ, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1971, tr.71.
19
hoa văn hóa nhân loại, đồng thời kế thừa, tiếp thu những cái tốt, cái đẹp, cái tinh túy của văn hóa xưa và văn hóa nay để tạo ra một nền văn hóa mới mang đậm tinh thần, cốt cách, bản sắc dân tộc, phù hợp với tinh thần dân chủ. Đó là nền văn hóa của nhân dân, do nhân dân sáng tạo và nhân dân là chủ thể thực hành, thụ hưởng thành quả của nền văn hóa đó.
Bên cạnh việc ra sức học tập, tiếp thu, vận dụng sáng tạo tinh hoa văn hóa nhân loại, Người cũng lưu ý đến một quy luật mang tính phổ biến trong phát triển, xây dựng nền văn hóa dân tộc, đó là quy luật kế thừa.
Những sáng tạo về văn hóa gắn liền với dòng chảy lịch sử của dân tộc. Mỗi giai đoạn, thời kỳ, các thế hệ người dân Việt Nam lại sáng tạo ra những giá trị văn hóa độc đáo, phù hợp với cách nghĩ, cách cảm, tư duy và trình độ của con người cũng như những đòi hỏi từ thực tiễn cuộc sống. Những sáng tạo, phát minh đó gắn liền với lịch sử, ghi dấu những giai đoạn, thời kỳ lịch sử nhất định, một đi không trở lại, không thể tái tạo, tái sinh. Vì thế để tạo nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, giàu bản sắc, việc bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, văn hóa cổ xưa là trách nhiệm của hậu thế, bảo đảm tính liền mạch trong phát triển văn hóa.
20
Đề cập đến vấn đề này, trong Sắc lệnh số 65/SL ngày 23/11/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký đã nói lên tầm quan trọng, cần thiết về vấn đề bảo tồn cổ tích trên toàn cõi Việt Nam. Sau này trong tác phẩm Đời sống mới (1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập đến những nguyên tắc của việc xây dựng đời sống mới, không phải cái gì cũ cũng bỏ hết; cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ; cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm. Với cái nhìn biện chứng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra những nguyên tắc, yêu cầu khi xây dựng đời sống mới cũng như xây dựng nền văn hóa dân tộc, phải biết trân trọng, kế thừa thành quả của các thế hệ đi trước, đồng thời ra sức gìn giữ, phát huy để cái hay, cái đẹp được nảy nở, lan tỏa rộng rãi trong cộng đồng, nhân lên những giá trị tốt đẹp.
Thông qua những hành động, việc làm, lời nói cụ thể, qua cung cách ứng xử hằng ngày của Người với công việc, với cán bộ, nhân dân đã toát lên tinh thần nhân văn Hồ Chí Minh, biểu tượng sinh động của quá trình không ngừng tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại cũng như kế thừa, học tập, phát huy những nét đẹp trong văn hóa truyền thống để xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam tiên tiến, giàu bản sắc.
21
Kế thừa tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt quá trình lãnh đạo nhân dân thực hiện công cuộc kháng chiến, kiến quốc, xây dựng cuộc đời mới đều nhất quán quan điểm khi nhấn mạnh: “Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thụ tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc.
Trong thời đại Hồ Chí Minh, với đường lối đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta, văn hóa Việt Nam tiếp tục được phát huy, đã góp phần quyết định vào những thắng lợi to lớn của nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội”1.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quy luật vận động của văn hóa là những chỉ dẫn quan trọng trong quá trình xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc hiện nay.
_____________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2015, t.57, tr.293.
22
4. Năm điểm lớn khi xây dựng nền văn hóa dân tộc
Sau khi nêu quan điểm, ý kiến về ý nghĩa, nội hàm của văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra những nhiệm vụ quan trọng để xây dựng, kiến tạo nền văn hóa dân tộc.
Nếu văn hóa là thuộc tính chung của loài người, do con người sáng tạo trong quá trình lịch sử nhằm đáp ứng nhu cầu sinh tồn thì việc xây dựng nền văn hóa cụ thể gắn liền với điều kiện, hoàn cảnh của mỗi quốc gia, dân tộc, do người dân, cộng đồng của dân tộc đó sáng tạo nên là rất cần thiết, mang tính thiết thực, lâu dài. Nói đến nền văn hóa dân tộc là nói đến những đặc trưng, tính chất, những yếu tố cấu thành bản sắc, nét riêng của mỗi nền văn hóa.
Trong Mục đọc sách của tập Nhật ký trong tù, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm về xây dựng nền văn hóa Việt Nam mới. Người khẳng định: Khi xây dựng nền văn hóa dân tộc cần chú ý hài hòa, đồng bộ các thành tố, các lĩnh vực cơ bản liên quan mật thiết đến nền văn hóa, đó là:
“1- Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường. 2- Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
3- Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội.
23
4- Xây dựng chính trị: dân quyền.
5- Xây dựng kinh tế”1.
Trong năm điểm lớn khi xây dựng nền văn hóa dân tộc thì trọng tâm là vấn đề xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống của con người và xã hội. Trong mỗi mục, Người đều có diễn giải, giải thích những nhiệm vụ đi kèm, trong đó trọng tâm là nhấn mạnh đến mục đích, yêu cầu về xây dựng con người, vì con người là chủ thể sáng tạo, đồng thời cũng là đối tượng được thụ hưởng những thành quả văn hóa do chính mình và xã hội sáng tạo ra.
Gắn với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, việc xây dựng, phát triển con người - chủ thể của nền văn hóa, phải chú ý đến việc xây dựng, củng cố tinh thần độc lập, tự cường, phải gieo vào trong suy nghĩ, tâm lý của mỗi người dân tinh thần, khát vọng độc lập tự do; phải có tinh thần tự lực, tự cường với lòng yêu nước nồng nàn để bảo vệ, gìn giữ nền độc lập của Tổ quốc, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Khát vọng, mong muốn cháy bỏng trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là nước nhà được độc lập, dân tộc được tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Đây cũng chính là mong muốn,
_____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.458.
24
khát vọng của muôn triệu người dân Việt Nam. Vì thế trong bối cảnh cuộc kháng chiến, kiến quốc, xây dựng nền văn hóa mới, những người có trách nhiệm và mỗi người dân Việt Nam yêu nước cần bồi đắp, hình thành tinh thần, tâm lý độc lập tự cường, cùng nhau đoàn kết chống lại ách đô hộ của thực dân, phong kiến tay sai.
Trong bài trả lời phỏng vấn các nhà báo nước ngoài vào đầu năm 1946, sau thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành Chủ tịch chính thức của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trước câu hỏi của phóng viên về lý do và ý định của Bác khi nhận nhiệm vụ Chủ tịch nước, Bác đã trả lời ngắn gọn những câu hỏi ấy để cho “đồng bào trong nước và các nhân sĩ nước ngoài đều biết”, trong đó Người khẳng định: “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui. Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để câu cá,
25
trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi”1.
Trong bản Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, điều mong muốn cuối cùng của Bác là: “Toàn Ðảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”2.
Mong muốn, khát vọng của Bác về nước nhà được độc lập cũng là mong ước của toàn thể nhân dân, đồng bào. Vì thế, xây dựng nền văn hóa dân tộc cần khơi dậy tinh thần, khát vọng độc lập, tự cường trong tư tưởng, suy nghĩ, hành động của mỗi người dân, tạo ý chí, tinh thần, sức mạnh đại đoàn kết để làm nên những thắng lợi chung của cách mạng, kháng chiến.
Bên cạnh nhiệm vụ xây dựng “tâm lý” là nhiệm vụ xây dựng “luân lý”, “xã hội”, “chính trị”, trong đó nhấn mạnh vào những mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, xã hội. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng nền văn hóa mới, con người mới, mỗi cá nhân cần ý thức sâu sắc về trách nhiệm với cộng đồng, sẵn sàng hy sinh lợi ích
_____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.187.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.624.
26
cá nhân, đề cao giá trị, lợi ích của cộng đồng, tập thể. Đối với cán bộ văn hóa, cán bộ cách mạng, đảng viên cần nêu cao tinh thần nêu gương sáng, “tiên ưu hậu lạc”, mang lại những lợi ích thiết thực cho đồng bào.
Trong nhiệm vụ xây dựng xã hội, chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến vấn đề phúc lợi, an sinh xã hội, đảm bảo mọi người đều bình đẳng, bình quyền, được đối xử công bằng, “làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít”1.
Đặc biệt, trong xây dựng nền văn hóa mới, cần chú ý đến vấn đề “dân quyền”, tức là mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể xây dựng và kiến thiết nước nhà. Đề cao vai trò, quyền lợi của nhân dân, trong tác phẩm Thường thức chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Dưới sự thống trị của đế quốc và phong kiến, nhân dân chỉ có nghĩa vụ, như nộp sưu đóng thuế, đi lính đi phu mà không có quyền lợi. Câu tục ngữ “dân ngu khu đen, đập đi hò đứng”, đã nói rõ tình trạng ấy. Dưới chế độ dân chủ cộng hòa, thì khác hẳn. Nhân dân có nghĩa vụ, đồng thời có quyền lợi. Nhân dân có quyền tự do tư tưởng, tự do tổ chức, tự do tín ngưỡng, v.v. có quyền ứng cử và bầu cử. Đàn bà có mọi quyền lợi
_____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.290.
27
như đàn ông. Các dân tộc trong nước đều có quyền lợi như nhau.
Nhân dân được hưởng những quyền lợi ấy, cho nên mọi người cần phải hǎng hái làm tròn nghĩa vụ của mình trong mọi công việc kháng chiến, cứu nước, xây dựng nước nhà”1.
Đề cập đến một trong những nhiệm vụ của nhà nước dân chủ mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến nhiệm vụ xây dựng chính quyền: “Phải cải tiến công tác trong các cơ quan chính quyền, tẩy sạch bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Phải liên hệ chặt chẽ với nhân dân. Phải giáo dục nhân dân biết sử dụng quyền lợi của mình và hăng hái làm tròn nghĩa vụ của mình. Phải đàn áp nghiêm ngặt bọn phản động, ngăn ngừa và trừng trị mọi hoạt động phá hoại”2.
Một nhiệm vụ trong xây dựng nền văn hóa mới là vấn đề kinh tế. Ở điểm này Người không diễn giải cụ thể nhưng việc đưa ra nhiệm vụ phát triển kinh tế trong xây dựng, phát triển nền văn hóa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Kinh tế là yếu tố thuộc về cơ sở hạ tầng, điều kiện vật chất, nền tảng xã hội quan trọng của mỗi quốc gia. Văn hóa sẽ phát triển thuận lợi khi đời sống vật chất của người dân được nâng cao, tiềm lực kinh tế của quốc gia được khai thác, phát huy, từ đó mỗi cá nhân
_____________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.264, 265.28
sẽ có nhiều điều kiện để tham gia vào quá trình thực hành, thụ hưởng văn hóa. Đồng thời phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội sẽ là động lực, môi trường tốt để dẫn dắt, thúc đẩy hoạt động kinh tế không ngừng phát triển.
Cũng trong tác phẩm Thường thức chính trị, khi bàn về nhiệm vụ phát triển kinh tế, Người nhấn mạnh: “Xây dựng kinh tế - Phát triển nông nghiệp, công nghệ, thủ công nghệ, thương nghiệp, giao thông vận tải, để cải tiến kinh tế và tài chính của Nhà nước, cải thiện đời sống của nhân dân”1.
Về nhiệm vụ phát triển văn hóa cũng như xây dựng nền văn hóa dân tộc, Người cho rằng: “Xây dựng văn hóa - Phải xây dựng một nền văn hóa dân tộc, khoa học, đại chúng. Phải nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân. Phải đề xướng đạo đức công dân tức là yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, bảo vệ của công... Phải chống văn hóa nô lệ của đế quốc và phong kiến. Phải tăng cường công việc vệ sinh, phải phát triển báo chí”2.
Xây dựng nền văn hóa mới với những nguyên tắc dân tộc, khoa học, đại chúng; có hình thức dân tộc, nội dung xã hội chủ nghĩa, đồng thời khi xây dựng nền văn hóa, cần chú ý đồng bộ, hài hòa các lĩnh vực trọng tâm như xây dựng tâm lý, luân lý,
_____________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.265, 265-266.
29
xã hội, chính trị, kinh tế; “nền văn hóa mới của nước nhà lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở”1. Đây là những quan điểm mới, tiến bộ, thể hiện tầm nhìn chiến lược và tư duy biện chứng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam, nhất là trong giai đoạn hiện nay.
_____________
1. Hồ Chí Minh: Về công tác văn hóa văn nghệ, Sđd, tr.71.
30
S
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC
inh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến sự nghiệp bảo tồn và phát huy giá trị
di sản văn hóa dân tộc. Tư tưởng của Người về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc được thể hiện trên nhiều phương diện.
1. Vai trò của di sản văn hóa
Cái nôi gia đình, quê hương là điểm tựa, nền tảng để từ khi ra đi tìm đường cứu nước cho đến tận cuối đời, Hồ Chí Minh có cái nhìn toàn diện, xuyên suốt và sâu sắc về những khía cạnh của văn hóa dân tộc.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất tự hào về truyền thống dân tộc. Người khẳng định: “... Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta... Chúng ta có quyền tự hào vì những trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung... Chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng
31
dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng”1. Lịch sử dân tộc được Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng, mở đầu bài diễn ca Lịch sử nước ta sáng tác tại Cao Bằng khoảng năm 1941, Người viết:
“Dân ta phải biết sử ta,
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam. Kể năm hơn bốn ngàn năm
Tổ tiên rực rỡ, anh em thuận hòa...”2.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, truyền thống dân tộc được coi là sức mạnh to lớn, được hình thành và phát triển trong tiến trình lịch sử dài lâu, bao gồm những yếu tố thể hiện những phẩm chất của dân tộc ta qua quá trình bền bỉ dựng nước và giữ nước, trong mối quan hệ giữa người với người, giữa người với thiên nhiên, trong đạo đức, lối sống, phong tục tập quán... như cách hiểu toàn diện về văn hóa theo nghĩa rộng. Truyền thống văn hóa dân tộc chính là bản sắc, là di sản văn hóa được kết tinh từ những biến cố thăng trầm của lịch sử, đặc trưng cho khí phách, tâm hồn dân tộc. Mỗi quốc gia, dân tộc nếu không biết kế thừa, giữ gìn và phát huy di sản văn hóa truyền thống thì khó lòng giữ được bản sắc của quốc gia, dân tộc mình.
_____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.38.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.259.
32
Vào ngày 19/9/1954, khi về thăm và nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn Quân Tiên phong (Đại đoàn 308) tại Đền Hùng (Phú Thọ), Bác Hồ đã căn dặn: “Các vua Hùng đã có công dựng nước/ Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”1. Bác đã chọn Đền Hùng - một di tích lịch sử đặc biệt mà mỗi người Việt Nam khi nhắc đến cội nguồn, bao giờ cũng coi đó là niềm tự hào của hồn thiêng sông núi, cho tinh hoa và giống nòi của dân tộc Việt Nam. Bác nhắc đến công lao của các vua Hùng như một sự khơi gợi trong tâm thức mỗi người về ý thức cội nguồn dân tộc, nhắc nhở toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta phải phát huy truyền thống con cháu Lạc Hồng, phải biết trân trọng vốn quý của văn hóa, lịch sử dân tộc, đồng thời phải có trách nhiệm giữ gìn giang sơn gấm vóc. Lời căn dặn của Người không chỉ có ý nghĩa giáo dục to lớn về truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc và tinh thần đại đoàn kết mà còn là sự khẳng định vai trò quan trọng của di sản văn hóa truyền thống đối với sự phát triển mọi mặt của đất nước.
Từ sự khẳng định vai trò của di sản văn hóa truyền thống, một lần nữa Người khái quát lại một quy luật tồn tại suốt mấy nghìn năm lịch sử, đó là: dựng nước phải đi đôi với giữ nước. Việt Nam là một dân tộc có chung một lịch sử, một thứ tiếng,
_____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.59.
33
một nền kinh tế và văn hóa. Dân tộc Việt Nam đã cùng nhau đoàn kết nhất trí trong lao động xây dựng và trong chiến đấu chống ngoại xâm, do đó, bảo vệ và phát huy truyền thống dân tộc là một nhiệm vụ quan trọng. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ II của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hóa đế quốc. Đồng thời, phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới, để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng”1. Theo Người, di sản văn hóa được coi là một bộ phận trọng yếu của truyền thống dân tộc, thể hiện sinh động bản sắc dân tộc. Chính cội nguồn giá trị văn hóa, tư tưởng truyền thống, ý chí độc lập và khát vọng tự do đã trở thành nền tảng văn hóa tinh thần, là động lực vĩ đại của sự trường tồn và phát triển của dân tộc Việt Nam. Vấn đề bảo vệ và phát huy các di sản văn hóa có tầm quan trọng đặc biệt trong sự nghiệp giáo dục truyền thống, góp phần tạo dựng những tiền đề cơ bản cho sự phát triển. Hơn nữa, tư tưởng của Người còn khẳng định mối quan hệ hữu cơ giữa hai phạm trù trong một thể thống nhất, đó là bảo tồn phải đi đôi với phát huy giá trị di sản
_____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.40.
34
văn hóa trong đời sống thực tiễn. Đó là mục đích của hoạt động bảo tồn di sản văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ngày 15/2/1965, Bác Hồ về thăm di tích Côn Sơn (Chí Linh, Hải Dương). Đây là nơi danh sơn cổ tự lưu giữ nhiều giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể của các triều đại và dấu ấn của nhiều danh nhân đất Việt. Sau khi thắp hương ở chùa và Tổ đường, Bác dừng lại bên tấm bia “Côn Sơn Tư Phúc tự bi”. Bác vừa dịch, vừa giảng giải cho anh em trong đoàn hiểu về nội dung của tấm bia với một niềm trân trọng. Bác cùng cả đoàn lên núi Côn Sơn thăm phong cảnh Thanh Hư động và Thạch Bàn, nơi Nguyễn Trãi thường ngồi đọc sách, làm thơ và suy tư việc nước. Bác nói chuyện với cán bộ, nhân dân địa phương và căn dặn: “Cán bộ và nhân dân phải bảo vệ tốt di tích lịch sử, trồng nhiều cây để Côn Sơn trở thành tùng lâm đẹp đẽ”. Lời dặn dò của Bác là nhiệm vụ cao cả của sự nghiệp bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ về giá trị của văn hóa dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Người nhấn mạnh: “Càng thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, càng phải coi trọng những truyền thống tốt đẹp của cha ông”1. Theo Người,
_____________
1. Bác Hồ với văn nghệ sĩ, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1995, tr.421.
35
kế thừa các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc cần được thực hiện theo phương châm: “Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ... Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý. Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm... Cái gì mới mà hay, thì ta phải làm”1. Người luôn đề cao những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và đòi hỏi mỗi người Việt Nam phải kế thừa và phát huy những giá trị ấy trong thời kỳ mới, như: lòng yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, tinh thần bao dung, tinh thần cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Chúng ta phải biết giữ gìn, khôi phục những yếu tố tích cực, loại bỏ những yếu tố tiêu cực trong đời sống văn hóa của nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng dành sự quan tâm đặc biệt đến di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc, đó là những tác phẩm văn học, nghệ thuật cổ điển, nghệ thuật truyền thống của dân tộc. Người từng căn dặn văn nghệ sĩ: “Làm công tác văn nghệ mà không tìm hiểu sâu vốn của dân tộc thì không làm được đâu”2. Riêng đối với nền nghệ thuật âm nhạc dân tộc, Bác căn dặn văn nghệ sĩ phải tôn trọng, giữ gìn và phải “phát triển cho hết cái hay, cái đẹp của dân tộc... Âm nhạc
_____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.112-113. 2. Bác Hồ với văn nghệ sĩ, Sđd, tr.83.
36
dân tộc ta rất độc đáo, Bác đã đi nhiều nước trên thế giới nhưng Bác vẫn nhớ những câu hát của dân ta. Ta có nhiều câu hát dân ca hay lắm. Bây giờ phải khai thác, phát triển nó lên... Nghệ thuật của cha ông hay lắm, tốt lắm! Cố mà giữ gìn. Nhưng chớ có gieo vừng ra ngô”1. Âm nhạc dân tộc đã đi vào tâm hồn và tình cảm của Bác ngay từ thuở ấu thơ, Người vẫn nhớ những làn điệu, những câu hát dân gian ở quê nhà. Ước nguyện bình dị cuối đời của Bác là được nghe một câu hò xứ Nghệ. Phía sau một nhân cách lớn là cội nguồn văn hóa dân tộc.
Lúc sinh thời, với cương vị là Chủ tịch nước, Người đã đến thăm hơn 40 di sản văn hóa và thiên nhiên tiêu biểu cùng nhiều bảo tàng trong nước, góp ý chỉ đạo định hướng hoạt động bảo vệ và phát huy kho tàng di sản văn hóa dân tộc. Bản thân Người vẫn thường hay dẫn Chinh phụ ngâm, Truyện Kiều, những câu hò, lời ca, điệu ví quen thuộc trong văn nghệ dân gian vào các câu chuyện, các bài nói, bài viết của mình, như một lời nhắc nhở khéo léo cho các thế hệ sau rằng cần phải luôn gìn giữ vốn văn hóa - văn nghệ truyền thống quý báu của dân tộc. Bảo tồn di sản văn hóa dân tộc phải gắn liền với kế thừa, chọn lọc và phát huy giá trị di sản quý báu của cha ông, sáng tạo cái mới
_____________
1. Bác Hồ với văn nghệ sĩ, Sđd, tr.217.
37
cái hay, giữ gìn thuần phong mỹ tục, cốt cách dân tộc và giáo dục cho các thế hệ mai sau.
2. Bảo tồn “cổ tích”
Ngay khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời ngày 2/9/1945, để bảo vệ và củng cố những thành quả cách mạng đã đạt được, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã bắt tay ngay vào quá trình quản lý đất nước trước sự đe dọa của thù trong, giặc ngoài và đối mặt với muôn vàn khó khăn về nhiều mặt, bằng cách ban hành kịp thời các sắc lệnh điều chỉnh rất nhiều mối quan hệ xã hội khác nhau. Công cuộc bảo vệ và phát huy giá trị của di sản văn hóa đã được Người cụ thể hóa bằng việc ban hành Sắc lệnh số 65/SL ngày 23/11/1945 về vấn đề bảo tồn cổ tích trong toàn cõi Việt Nam chỉ hơn 2 tháng sau khi nước nhà giành được độc lập. Đây là sắc lệnh đầu tiên của Nhà nước ta đặt nền móng cho sự nghiệp bảo tồn di sản văn hóa dân tộc.
Sắc lệnh ghi rõ:
“Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Xét rằng việc bảo tồn cổ tích là việc rất cần trong công cuộc kiến thiết nước Việt Nam; Xét rằng Đông phương Bác cổ học viện có nhiệm vụ bảo tồn tất cả cổ tích trong toàn cõi Việt Nam;
38
Ra Sắc lệnh:
Điều thứ nhất: Đông phương Bác cổ học viện có nhiệm vụ bảo tồn tất cả cổ tích trong toàn cõi Việt Nam.
Điều thứ hai: Đông phương Bác cổ học viện từ nay sẽ thay Pháp quốc Viễn Đông Bác cổ học viện bãi đi.
Điều thứ ba: Những luật lệ về việc bảo tồn cổ tích vẫn để nguyên như cũ.
Điều thứ tư: Cấm phá hủy những đình chùa, đền, miếu hoặc những nơi thờ tự khác, những cung điện, thành, quách cùng lăng mộ chưa được bảo tồn. Cấm phá hủy những bi ký, đồ vật, chiếu sắc, văn bằng, giấy má, sách vở có tính cách tôn giáo hay không, nhưng có ích cho lịch sử mà chưa được bảo tồn.
Điều thứ năm: Chính phủ vẫn công nhận nguyên tắc những khoản trợ cấp hàng năm của toàn quốc, của mỗi kỳ hay mỗi tỉnh cho Đông phương Bác cổ học viện. Khi dự thảo ngân sách cho toàn quốc, cho từng thời kỳ hay từng tỉnh, ông Bộ trưởng Bộ Tài chính, ông Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục, ông Ủy viên tài chính của mỗi kỳ hay của mỗi tỉnh phải dự tính khoản trợ cấp cho Đông phương Bác cổ học viện.
Điều thứ sáu: Các ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc gia Giáo dục chiếu Sắc lệnh này thi hành”.
39
Sắc lệnh ngắn gọn, súc tích, gồm 6 điều với vỏn vẹn chưa đầy 300 chữ nhưng đã bao quát được những tư tưởng, quan điểm sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề bảo tồn di sản văn hóa. Với việc xác định “bảo tồn cổ tích là việc rất cần trong công cuộc kiến thiết nước Việt Nam”, Chủ tịch Hồ Chí Minh vô cùng thấu hiểu giá trị di sản văn hóa của cha ông để lại cũng như sự cần thiết phải bảo vệ, gìn giữ những tài sản vô giá ấy. Sắc lệnh xác định trách nhiệm “bảo tồn tất cả cổ tích trong toàn cõi Việt Nam” cho “Đông phương Bác cổ học viện” - một cơ quan chuyên môn của nước Việt Nam mới, thay thế Pháp quốc Viễn đông Bác cổ học viện thực hiện các nhiệm vụ: giữ nguyên những luật lệ về bảo tồn cổ tích, “cấm phá hủy những đình chùa, đền, miếu hoặc những nơi thờ tự khác, những cung điện, thành, quách cùng lăng mộ chưa được bảo tồn”, “cấm phá hủy những bi ký, đồ vật, chiếu sắc, văn bằng, giấy má, sách vở có tính cách tôn giáo hay không, nhưng có ích cho lịch sử mà chưa được bảo tồn”. Sắc lệnh đã thể hiện tầm nhìn chiến lược, những quan điểm, những định hướng hết sức đúng đắn đối với sự nghiệp bảo tồn di sản văn hóa dân tộc. Di sản văn hóa là hồn cốt của dân tộc, đánh mất di sản là mất đi bản sắc dân tộc, cho nên bảo tồn và phát huy di sản văn hóa là một nhiệm vụ lâu dài.
Sắc lệnh số 65/SL ngày 23/11/1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành là văn bản quy phạm
40
pháp luật đầu tiên của Nhà nước Việt Nam mới về bảo tồn di sản văn hóa dân tộc. Sắc lệnh này thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân, đối với sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị các di sản văn hóa dân tộc. Cho đến nay, Sắc lệnh này vẫn giữ nguyên ý nghĩa lý luận và thực tiễn, soi sáng cho sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa của đất nước. Đó là quan điểm về vai trò quan trọng của di sản văn hóa trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, về tính kế thừa trong phát triển văn hóa, về trách nhiệm của Nhà nước, xã hội và mỗi công dân trong việc bảo vệ di sản văn hóa. Chính vì thế, việc Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 36/2005/QĐ-TTg ngày 24/2/2005 lấy ngày 23/11 hằng năm là “Ngày Di sản văn hóa Việt Nam” là xuất phát từ những ý nghĩa trọng đại của sự kiện này.
3. Gìn giữ sự trong sáng của tiếng Việt
Ngôn ngữ có ý nghĩa đặc biệt đối với quá trình phát triển của mỗi quốc gia, góp phần quan trọng trong việc kế thừa và bảo tồn di sản văn hóa dân tộc. Đối với dân tộc Việt Nam, một trong những phương thức bảo tồn di sản văn hóa dân tộc là giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc sử dụng và bảo vệ tiếng Việt, Người thường
41
nhắc nhở mọi người phải biết giữ gìn và quý trọng tiếng Việt. Mặc dù giỏi ngoại ngữ nhưng Người chỉ sử dụng trong những trường hợp bắt buộc như: ra nước ngoài, trong đàm phán hoặc làm việc với các chính khách. Những khi nói chuyện với đồng bào trong nước, Người chú trọng dùng tiếng mẹ đẻ, nói ngôn ngữ của dân tộc. Hồ Chí Minh luôn khẳng định vị trí đặc biệt không thể thay thế của tiếng Việt trong đời sống xã hội ở Việt Nam.
Trong Bài nói chuyện tại Đại hội lần thứ III của Hội Nhà báo Việt Nam ngày 8/9/1962, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trò của tiếng nói: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp”1. Bác căn dặn khi viết cho nhân dân, phục vụ quần chúng thì phải học cách nói của quần chúng nhân dân - mộc mạc, giản dị mà chân thành. Không chỉ những người làm công tác báo chí, mà mỗi người chúng ta đều phải có ý thức giữ gìn, phát huy những giá trị to lớn của tiếng Việt trong sự nghiệp cách mạng. Người thường nhắc nhở: “Ta phải giữ đất nước của chúng ta, Tổ quốc của chúng ta; phải giữ cái tiếng của chúng ta”2. Người mong rằng mỗi người dân Việt Nam đều có ý thức
_____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.465.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.306.
42
bảo vệ tiếng Việt cả trong giao tiếp cũng như viết báo, làm văn... “không nên dùng tiếng ngoại quốc, khi có thể dùng tiếng ta”1. Người nói rằng ngôn ngữ của ta lúc bấy giờ còn nghèo nàn, khi nói và viết phải vay mượn nhiều từ ngữ nước ngoài nhưng không được vì thế mà lạm dụng, bởi lạm dụng chỉ làm cho diễn đạt thêm phần khó hiểu. Bác phê bình: “Khuyết điểm nặng nhất là dùng chữ nước ngoài quá nhiều và nhiều khi dùng không đúng”. “Đời sống xã hội ngày càng phát triển và đổi mới. Có những chữ ta không có sẵn và khó dịch đúng, thì cần phải mượn chữ nước ngoài... Còn những tiếng ta có, vì sao không dùng, mà cũng mượn chữ nước ngoài?... Của mình có mà không dùng, lại đi mượn của nước ngoài, đó chẳng phải là đầu óc quen ỷ lại hay sao?”2. Chúng ta sử dụng tiếng nước ngoài để làm giàu thêm trong khi diễn đạt, nhưng phải có chừng có mực: “Cái gì tiếng Việt Nam có thì cứ nói tiếng Việt Nam, chớ có mượn tiếng nước ngoài”3. Người cho rằng tác phẩm để tuyên truyền thì phải là một tác phẩm ai đọc cũng hiểu được. Muốn thế phải dùng tiếng Việt một cách trong sáng, dùng tiếng nói của quần chúng.
_____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.33.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.465.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.306.
43
Người tìm thấy ở tiếng nói - một di sản văn hóa tinh thần, một ngọn nguồn, một nền tảng để xây dựng nền văn hóa mới của dân tộc. Người căn dặn các nghệ sĩ phải giữ gìn và phát huy những cái hay cái đẹp của tiếng Việt, phải biết quý trọng vốn nghệ thuật dân gian của dân tộc. Để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, chúng ta phải chú trọng kế thừa và phát triển vốn văn hóa dân gian, đặc biệt là dân ca, ca dao, tục ngữ, những sáng tác miêu tả con người, cuộc sống, chiến đấu của nhân dân bằng tiếng nói của mình. Người đánh giá cao các sáng tác của nhân dân, coi những sáng tác của nhân dân là những hòn ngọc quý chứa đựng vốn quý báu của văn hóa dân tộc và các thế hệ sau này phải biết giữ gìn vốn quý đó.
Mỗi người dân cần phải hiểu rằng yêu tiếng Việt là yêu nước, phải có trách nhiệm giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, làm cho tiếng Việt lan tỏa, góp phần bảo tồn, quảng bá, phát triển di sản văn hóa dân tộc.
4. Tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại
Bàn đến Hồ Chí Minh với việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại thì phải khẳng định rằng thời gian 30 năm hoạt động ở nước ngoài, những dấu ấn của văn hóa phương Tây in đậm trong tâm trí Hồ Chí Minh. Hơn thế nữa, Người thể hiện khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy
44
sự hiểu biết lẫn nhau, xích lại gần nhau giữa các dân tộc trên thế giới. Hơn 30 năm bôn ba ở khắp năm châu, bốn biển, hơn ai hết, Hồ Chí Minh am hiểu sâu sắc các trào lưu nghệ thuật trên thế giới, nhận dạng chính xác và đánh giá đúng từng nền văn hóa của nhân loại. Nắm vững quy luật hình thành và phát triển văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng văn hóa dân tộc phải giao lưu, phải thâu hóa văn minh của các dân tộc khác. Người cũng chỉ rõ: Kế thừa, tiếp thu tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại không chỉ làm phong phú văn hóa dân tộc, mà còn góp phần làm phong phú văn hóa nhân loại. Vì vậy, Người kêu gọi phải học hỏi cái hay trong từng nền văn hóa của các dân tộc trên thế giới.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, nói giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc không đồng nghĩa với quan điểm dân tộc hẹp hòi, đóng cửa, khép kín và cũng hoàn toàn xa lạ với kiểu bắt chước, học đòi, lai căng để đánh mất đi cái độc đáo, cái đặc trưng của dân tộc mình, mà phải biết kế thừa, phát huy có chọn lọc những truyền thống văn hóa tốt đẹp phù hợp với điều kiện lịch sử mới, kiên quyết phê phán và loại bỏ những tập tục lạc hậu, cổ hủ, đủ bản lĩnh để mở rộng giao lưu với thế giới, tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tốt đẹp, tiến bộ của văn hóa nhân loại, tỉnh táo chống lại sự xâm nhập của mọi thứ văn hóa độc hại... Trong Bài nói tại Hội nghị văn hóa
45
toàn quốc, tháng 11/1946, Người cho rằng: “Văn hóa Việt Nam là ảnh hưởng lẫn nhau của văn hóa Đông phương và Tây phương chung đúc lại... Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt, ta học lấy để tạo ra một nền văn hóa Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và văn hóa nay, trau dồi cho văn hóa Việt Nam thật có tinh thần thuần túy Việt Nam để hợp với tinh thần dân chủ”1. Đây cũng là xu hướng tất yếu của các nền văn hóa. Điều này phù hợp với quy luật phát triển của văn hóa luôn có sự giao lưu, ảnh hưởng lẫn nhau. Cho đến nay chúng ta càng thấy rõ hơn giá trị của những luận điểm này khi thế giới đang trở thành một môi trường cộng sinh về kinh tế và văn hóa, khi sự phát triển của một cộng đồng, một dân tộc, một quốc gia không tách rời sự phát triển của các cộng đồng khác, của các quốc gia khác và sự phát triển của toàn thế giới.
Trong Báo cáo chính trị trình bày tại Đại hội lần thứ II của Đảng, Bác nhấn mạnh: “Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hóa đế quốc. Đồng thời, phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới, để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và
_____________
1. Hồ Chí Minh: Về công tác văn hóa văn nghệ, Sđd, tr.71.
46
đại chúng”1. Hồ Chí Minh cho rằng, điều kiện cần thiết để có thể tiếp thu được tinh hoa văn hóa nhân loại là những người làm công tác văn hóa, văn nghệ phải có kiến thức, phải chịu khó học hỏi, nâng cao trình độ hiểu biết của mình. Người nói: “Phải mở rộng kiến thức của mình về văn hóa thế giới... Phải nghiên cứu toàn diện văn hóa của các dân tộc khác, chỉ trong trường hợp đó mới có thể tiếp thu được nhiều hơn cho văn hóa của chính mình”2. Mặt khác, Hồ Chí Minh cũng nêu rõ: “Mình có thể bắt chước cái hay của bất kỳ nước nào ở Âu - Mỹ nhưng điều cốt yếu là sáng tác. Mình đã hưởng cái hay của người thì cũng phải có cái hay cho người ta hưởng. Mình đừng chịu vay mà không trả”3. Đây chính là sự vận dụng phép biện chứng giữa cho và nhận trong tiếp xúc, giao lưu, đối thoại giữa các nền văn hóa. Ngoài ra, trong quá trình tiếp thu, phải chú ý đến đặc điểm của dân tộc mình, “nếu quá nhấn mạnh đặc điểm dân tộc để phủ nhận giá trị phổ biến của những kinh nghiệm lớn, cơ bản của các nước anh em, thì sẽ mắc sai lầm nghiêm trọng của chủ nghĩa xét lại”4.
_____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.40.
2. Hồ Chí Minh: Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, Sđd, tr.5-21.
3. Báo Cứu quốc, số ra ngày 9/10/1945.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.97-98.
47
Tư duy văn hóa của Hồ Chí Minh luôn rộng mở. Mặc dù không phủ nhận việc kế thừa các giá trị văn hóa của nhân loại để làm phong phú, đa dạng nền văn hóa dân tộc, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng phê phán, chống lại “cách mượn” không phải lối, chối bỏ đi các giá trị vốn có của dân tộc, hay là sự tiếp thu xô bồ mọi thứ của thiên hạ, đồng thời cho rằng cần tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tốt, cái đẹp để làm giàu thêm cho văn hóa dân tộc. Đây thực sự là “Việt hóa” những cái từ ngoài đến, biến chúng thành những cái bên trong, tự nhiên như những yếu tố nội sinh của văn hóa Việt Nam. Đứng vững trên cái nền dân tộc để chiếm lĩnh, tiếp thu những giá trị văn hóa bên ngoài, bản lĩnh đó của dân tộc Việt Nam đã được thể hiện trong suốt chiều dài lịch sử mấy nghìn năm qua. Ông Hans D’Orville, Phó Tổng Giám đốc UNESCO coi “các cuộc hành trình trong cuộc đời của Hồ Chí Minh đã khiến Người trở thành công dân của thế giới, đồng thời là đại sứ của Việt Nam trên khắp toàn cầu..., con người của sự đối thoại”1. Ở Người luôn hiện diện một thái độ trân trọng những giá trị văn hóa nhân loại, rộng mở để thu nhận những yếu tố tích cực, tiến bộ và nhân văn nhằm làm phong phú cho nền văn hóa
_____________
1. Hans D’Orville: “Tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên giá trị thời đại”, in trong Bảo tàng Hồ Chí Minh: Đặc san Thông tin tư liệu, số 27, tháng 6/2010, tr.11.
48
Việt Nam, giao lưu, đối thoại để đạt tới sự hòa đồng, hướng tới một tương lai hòa bình và phát triển của các dân tộc trên thế giới. Đây chính là tinh thần khoan dung văn hóa Hồ Chí Minh. Tinh thần khoan dung này bắt nguồn từ truyền thống nhân ái, khoan hòa, từ đặc tính mềm dẻo, năng động chấp nhận những yếu tố mới của văn hóa Việt Nam đã được Người kế thừa và nâng cao.
Như vậy có thể thấy, việc tiếp thu có chọn lọc văn hóa của nhân loại để xây dựng văn hóa cách mạng, vừa là truyền thống, vừa là nhu cầu tất yếu khách quan. Quan điểm của Người về xây dựng nền văn hóa mới là hết sức rộng mở, tiên tiến và hiện đại. Giữ vững và phát huy những giá trị văn hóa dân tộc, đồng thời tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa nhân loại để làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam - đó là những nét đặc sắc trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh. Người đã nhìn thấy phép biện chứng giữa tính dân tộc và tính nhân loại như là một quy luật trong xây dựng nền văn hóa mới ở Việt Nam. Tư tưởng ấy đã được vận dụng và phát huy trong công cuộc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nhất là thời kỳ đất nước ta mở rộng giao lưu và hội nhập quốc tế.
5. Bài trừ hủ tục, mê tín dị đoan
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, trong quá trình xây dựng xã hội mới cần bài trừ tệ mê tín
49
dị đoan, xóa bỏ các hủ tục lạc hậu để nhân dân có cuộc sống ngày càng văn minh. Muốn vậy, trước hết phải phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng văn hóa mới, “giữ vững thuần phong mỹ tục, thực hiện đời sống mới”1. Đồng thời, phải thường xuyên tuyên truyền phổ biến thường thức khoa học, từ đó giúp quần chúng nhân dân nhận thức được tác hại của hủ tục lạc hậu và nạn mê tín dị đoan. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, các quan điểm, tư tưởng của Người về cách mạng tư tưởng - văn hóa, xoá bỏ những tàn dư tư tưởng và hủ tục của xã hội cũ, về xây dựng nền văn hóa mới với nội dung xã hội chủ nghĩa mang đậm đà bản sắc dân tộc, về xây dựng con người mới, đạo đức mới, lối sống mới xã hội chủ nghĩa là một nội dung không bao giờ cũ. Người khuyên cán bộ một mặt phải tôn trọng và bảo đảm tự do tín ngưỡng, mặt khác phải kiên trì giáo dục quần chúng xóa bỏ “mê tín nhảm” và các hủ tục. Người nhắc nhở cán bộ phải: “Dạy cho đồng bào: 1. Thường thức vệ sinh, để dân bớt đau ốm. 2. Thường thức khoa học, để bớt mê tín nhảm”2.
Trong Bài nói chuyện tại Hội nghị tuyên giáo miền núi ngày 31/8/1963, Bác nêu rõ: “Cái gì phải xóa? - Mê tín hủ tục”3. Người chỉ ra rằng: “văn hóa
_____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.234.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.604.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.166.
50
ở miền núi đã tiến bộ nhiều” nhưng “còn có mặt chưa tốt như: vệ sinh còn kém, lấy vợ lấy chồng quá sớm... Những hủ tục khác như cúng bái, ma chay còn nhiều. Có nơi nuôi gà, nuôi lợn được bao nhiêu giết để cúng gần hết. Trong kháng chiến, ở những vùng có bộ đội, có cơ quan của ta ở, thì ta giúp đỡ nhân dân chữa bệnh để họ đỡ cúng bái. Bây giờ có nhiều bệnh viện, bệnh xá, ở biên giới có các đồng chí công an vũ trang cũng giúp dân chữa bệnh rất tốt. Nhưng chưa phải là đã hết cúng bái mê tín. Vì đó là phong tục tập quán đã lâu đời. Muốn cải tạo phong tục tập quán được tốt, thì tuyên huấn phải làm, mà phải làm bền bỉ liên tục, làm dần dần, chứ không thể chủ quan nóng vội, muốn làm hết ngay một lúc”1.
Phần cuối bài phát biểu, Người khẳng định: Phải “Ra sức giúp đỡ đồng bào phát triển những việc có lợi ích cho đời sống vật chất và văn hóa của các dân tộc. Ra sức làm cho tốt, cho khéo để xóa bỏ những cái có hại như hủ tục mê tín dị đoan, thiếu vệ sinh, tảo hôn, v.v..”2. Theo Hồ Chí Minh, phương pháp giáo dục khắc phục mê tín, hủ tục phải thận trọng, kiên trì, gần gũi với đồng bào; với phương châm lấy cái tốt mà bỏ dần cái xấu, “dần dần nói cho người ta hiểu,
_____________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.163-164, 169.
51
để người ta vui lòng làm, chứ không có quyền ép người ta”1, không thể nóng vội xóa bỏ hết mọi sự mê tín một cách cực đoan mà “nói ngắn gọn, nói những vấn đề thiết thực, chắc chắn làm được, để cho mọi người hiểu rõ và quyết tâm làm bằng được”2. “Đồng bào các dân tộc rất thật thà và rất tốt. Nếu nói đúng thì đồng bào nghe, đồng bào làm và làm được”3. Chức năng của văn hóa là phải giúp con người nhận thức được cái đúng, cái sai, cái tốt, cái xấu để định hướng hành động đúng. Trong xây dựng nền văn hóa mới, việc phát huy những truyền thống tốt đẹp, khắc phục những cái lỗi thời, lạc hậu của quá khứ là một vấn đề phức tạp, khó khăn và lâu dài, vì đó là vấn đề thuộc về nhận thức tư tưởng, tập quán và tri thức của mỗi người và của cả cộng đồng xã hội. Do vậy, thường xuyên đẩy mạnh cả hai mặt đó là yêu cầu của sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới.
Báo Cứu quốc số 2128 ra ngày 25/7/1952, trong bài “Chiến tranh nhồi sọ”, Bác viết: “Mỹ đang ra sức xâm lược văn hóa để hủ hóa và gieo rắc bệnh phục Mỹ, thân Mỹ, sợ Mỹ vào nhân dân, nhất là thanh niên... Đó là một điều mà cán bộ giáo dục và tuyên truyền ta phải đặc biệt chú ý
_____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.127.
2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.169.52
và phải ra sức chống lại”1. Trong bài “Tuyên truyền”, đăng trên Báo Nhân Dân ngày 25/5/1954, Bác viết: “Chúng dùng đủ mọi cách, mọi dịp để tuyên truyền để hòng phá hoại tâm lý và tinh thần của nhân dân ta...”2. Bài “7.000 tấn thuốc độc”, đăng trên Báo Nhân Dân ngày 1/7/1955, Bác cảnh báo: “Ngoài kinh tế, quân sự, chính trị, đế quốc Mỹ đang âm mưu xâm lược miền Nam bằng văn hóa”...3. Qua một loạt bài viết của mình, Người chỉ ra âm mưu xâm lược bằng văn hóa của kẻ thù, khiến dân ta sống khép mình giữ những hủ tục lạc hậu, thói quen mê tín dị đoan, lâu dần phá hoại tâm lý và đời sống tinh thần của nhân dân, từ đó thao túng về mặt chính trị. Do đó, công tác tuyên truyền của chúng ta phải hết sức coi trọng việc bài trừ hủ tục, mê tín dị đoan, xây dựng đời sống mới, lối sống mới. Tính chiến đấu của báo chí cách mạng phải thể hiện mạnh mẽ trong việc biểu dương các nhân tố tích cực, cái đúng, cái mới, cái tốt để nhân rộng thành phong trào, đồng thời phải phê phán mạnh mẽ nhân tố tiêu cực, cái sai, cái xấu... nhằm đẩy lùi, khắc phục chúng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy rằng sinh trưởng trong xã hội cũ, chúng ta ai cũng mang
_____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.454.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.491.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.24.
53
trong mình hoặc nhiều hoặc ít vết tích xấu xa của xã hội đó về tư tưởng, về thói quen, mà “Thói quen rất khó đổi. Cái tốt mà lạ, người ta có thể cho là xấu. Cái xấu mà quen người ta cho là thường”1. Như vậy, những giá trị tốt - xấu, đúng - sai, thật - giả... trong xã hội, thường bị lẫn lộn, khó phân biệt là do những thói quen và tập tục lạc hậu chi phối, ngấm ngầm cản trở sự tiến bộ. Do đó, việc thay đổi những thói quen lạc hậu cần tiến hành thường xuyên, liên tục và rộng khắp với sự tham gia hưởng ứng của toàn xã hội. Tuy nhiên, “Đời sống mới không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ... Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý... Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm... Cái gì mới mà hay, thì ta phải làm... Làm thế nào cho đời sống của dân ta, vật chất được đầy đủ hơn, tinh thần được vui mạnh hơn. Đó là mục đích đời sống mới”2. Giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa trong phong tục truyền thống là để xây dựng cuộc sống dân tộc được tốt đẹp hơn và xóa bỏ những yếu tố lạc hậu, góp phần xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trên các địa phương. Mỗi dân tộc dù có khác nhau nhưng đều có điểm chung là cùng
_____________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.125, 112-113.54
nhau xây dựng đời sống văn hóa mới, giữ gìn gia phong, thuần phong mỹ tục.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa của dân tộc có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, là những chỉ dẫn quý báu của Đảng và nhân dân trong việc nhận thức và giải quyết những vấn đề đặt ra trong công cuộc xây dựng và phát triển văn hóa hiện nay. Với Người, việc bảo vệ, gìn giữ và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc là rất cần thiết, là việc phải làm, nên làm, nhưng quan trọng hơn lại là việc biết vận dụng và phát triển những giá trị ấy vào cuộc sống. Đó chính là cách tốt nhất để bảo vệ và gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc. Ở Hồ Chí Minh luôn có sự gắn bó chặt chẽ giữa truyền thống và hiện đại, mọi sự tiến bộ đều bắt nguồn từ truyền thống tốt đẹp. Do đó, Người luôn nhắc nhở mọi người phải biết quý trọng vốn cổ dân tộc, trân trọng giá trị truyền thống quý báu của dân tộc ta. Mối quan hệ giữa truyền thống với hiện đại, giữ gìn và phát triển là thuộc quy luật vận động của văn hóa nhưng không phải ai cũng nhận thức và giải quyết được. Hồ Chí Minh là một trong số những người cách mạng chân chính mà theo cách nói của Lênin là đã thành công trong việc giải quyết mối quan hệ này.
Từ tầm nhìn của một nhà văn hóa lớn của dân tộc, Đảng ta tiếp tục kế thừa, vận dụng và phát huy tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
55
bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (tháng 7/1998) đã ban hành nghị quyết chuyên đề về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trong đó khẳng định: “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể”1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: “Chú trọng gìn giữ, phát triển các di sản văn hóa phi vật thể, tôn tạo và quản lý tốt các di sản văn hóa vật thể, các di tích lịch sử; nâng cấp các bảo tàng”2. Nối tiếp những thành tựu trong xây dựng và phát huy văn hóa, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng xác định: “Huy động sức mạnh của toàn xã hội nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc; khích lệ sáng tạo các giá trị văn hóa mới,
_____________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.57, tr.309.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.60, tr.276.
56
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu văn hóa dân tộc. Xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội”1. Tư tưởng của Người là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và nhân dân trong sự nghiệp bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc, đưa di sản trở thành động lực quan trọng cho sự phát triển đất nước hiện nay. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”2.
_____________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.129.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.II, tr.330.
57
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG MỚI
1. Tính cấp thiết phải xây dựng đời sống mới
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sự kiện này mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập, tự do. Tuy nhiên, ngay sau đó, đất nước lại bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp. Trong bối cảnh quốc gia mới phải đối mặt với hàng loạt khó khăn trong và ngoài nước, về kinh tế, chính trị, ngoại giao, xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức rất rõ tính cấp bách của việc cải thiện đời sống nhân dân, xây dựng đời sống mới, xóa bỏ những thói quen, nếp sống cổ hủ, lạc hậu.
Ngày 3/9/1945, Bác Hồ đề nghị Chính phủ lâm thời thông qua chương trình hành động cấp bách gồm 6 điểm, và trở thành nội dung cốt lõi của đời sống mới là: 1- Tăng gia sản xuất để chống đói,
58
quyên góp gạo để giúp đỡ người nghèo, diệt giặc đói; 2- Mở phong trào chống nạn mù chữ, diệt giặc dốt; 3- Tổ chức tổng tuyển cử để xây dựng hiến pháp dân chủ; 4- Mở phong trào giáo dục cần, kiệm, liêm, chính để bài trừ những hủ tục từ chế độ cũ để lại; 5- Bãi bỏ một số loại thuế không phù hợp, cấm hút thuốc phiện; và 6- Tự do tín ngưỡng và đoàn kết tôn giáo1. Chương trình này và những lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với các giai cấp, tầng lớp xã hội trong năm 1946 đã thể hiện rõ mong muốn xây dựng đời sống văn hóa mới của quốc gia độc lập.
Tháng 1/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắn gửi các thanh niên: “Qua năm mới, các cháu phải xung phong thực hành “đời sống mới”. Đời sống mới là - Hăng hái, kiên quyết, không sợ khó, không sợ khổ; - Phải siêng học, phải siêng làm, phải tiết kiệm; - Việc nên làm (như ủng hộ kháng chiến, tăng gia sản xuất) thì ta không chờ ai nhắc nhủ; - Việc nên tránh (như tự tư tự lợi) thì ta không đợi ai ngăn ngừa. Năm mới, chúng ta thực hành đời sống mới để trở nên những công dân mới, xứng đáng với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”2.
Nhân dịp Xuân Bính Tuất (1946), Bác Hồ đã gửi thư cho Phụ nữ Việt Nam, kêu gọi chị em:
_____________
1. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.6-8. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.194.
59
“Phải gắng làm sao
Gây “Đời sống mới”
Việc thành là bởi
Chúng ta siêng mần
Vậy nên chữ cần
Ta thực hành trước
Lại phải kiệm ước
Bỏ thói xa hoa
Tiền của dư ra
Đem làm việc nghĩa
Thấy của bất nghĩa
Ta chớ tham thàn
Thế tức là liêm
Đã liêm thì khiết
Giữ mình làm việc
Quảng đại công bình
Vì nước quên mình
Thế tức là chính
Cần, kiệm, liêm, chính
Giữ được vẹn mười
Tức là những người
Sống “Đời sống mới””1.
Đối với giai cấp công nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có những lời kêu gọi để xây dựng đời sống mới nhân ngày Quốc tế lao động 1/5/1946.
_____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.199-200.60
Bác kêu gọi: “Cùng toàn quốc đồng bào! Cùng anh chị em lao động! Ngày 1 tháng 5 là một ngày tết chung cho lao động cả các nước trên thế giới. Đó là một ý nghĩa đoàn kết rất sâu xa. Ở nước ta, lần này là lần đầu mà đồng bào ta, anh chị em lao động ta, được tự do đón tiếp ngày 1 tháng 5. Vậy nên nó có ý nghĩa đặc biệt sâu xa hơn nữa. Đối với chúng ta nó là một ngày chẳng những là ngày tết lao động, mà nó còn là ngày toàn dân đoàn kết. Đoàn kết để giữ vững tự do dân chủ. Đoàn kết để kiến thiết nước nhà. Đoàn kết để xây dựng một đời sống mới”1.
Đối với lực lượng Tự vệ chiến đấu Hoàng Diệu, Bác Hồ khích lệ rằng: “Nhất là đối với đời sống mới, anh em thực hành thật chu đáo. Muốn cổ động vệ sinh có hiệu quả, anh em tổ chức thành từng ban đi quét và khai cống nước bẩn ở trong các ngõ sâu. Tất cả các cuộc biểu tình khổng lồ rất nghiêm trang, rất có quy củ trên đường phố hoặc trước Nhà hát Lớn, trước Việt Nam học xá đều do anh em giữ trật tự và nhiều khi anh em hợp tác với ban tổ chức làm kỳ đài, chôn cột cờ, kẻ biểu ngữ, cổ động dân chúng. Anh em lại dự định đi các tỉnh để gây phong trào thể dục. Bất luận một việc xã hội nào do Chính phủ hay đoàn thể xướng
_____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.251.
61
ra đều được anh em xung phong. Anh em Tự vệ chiến đấu thành Hoàng Diệu, thật đáng làm gương cho không những tự vệ các địa phương mà cho cả các hạng thanh niên nữa”1.
Đối với kiều bào nước ngoài ở Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có thư gửi ngày 12/9/1946, khuyên “1- Phải triệt để đoàn kết; 2- Ra sức tuyên truyền và ủng hộ bằng mọi phương diện cho Tổ quốc; 3- Thực hành khẩu hiệu ĐỜI SỐNG MỚI: CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH; 4- Mỗi người cần biết thạo một nghề để mai sau về nước giúp ích cho cuộc xây dựng nước Việt Nam mới”2.
Trong Lời phát biểu ngày 9/11/1946 nhân phiên bế mạc kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bác Hồ đã nói rằng: “các đại biểu thực hiện đời sống mới khắp các nơi... Toàn cả nhân dân và Chính phủ nhất trí, chúng ta thế nào cũng đạt được độc lập, thống nhất, nước mạnh, dân giàu”3.
Tháng 4/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 44/SL về xây dựng đời sống mới. Từ đó, Đảng phát động phong trào “xây dựng đời sống mới”, thành lập Ủy ban vận động đời sống mới Trung ương ngày 3/4/1946. Từ đó, những nội dung về xây dựng đời sống mới đã được Bác Hồ trù liệu chắc chắn, bài bản để đáp ứng yêu cầu thực tiễn. _____________
1, 2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.289, 332, 492.62
Ngày 24/11/1946, tại Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất, Bác Hồ đã đọc diễn văn khai mạc, nêu rõ nhiệm vụ của nền văn hóa Việt Nam là xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam với ba tính chất là dân tộc, khoa học, đại chúng. Có thể thấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng bước đưa ra những ý tưởng, khái niệm, hiểu biết chung về “đời sống mới”. Đây là những bước cơ bản trước khi Bác Hồ công bố tác phẩm Đời sống mới để giúp nhân dân hiểu rõ hơn về những vấn đề của việc xây dựng đời sống mới trong thời đại độc lập, tự do.
Đầu năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hoàn thiện tác phẩm Đời sống mới với bút danh “Tân Sinh” - nghĩa là “Sống mới”. Tác phẩm này được hoàn thành vào ngày 20/3/1947 tại Chiến khu Việt Bắc, được Ban Trung ương vận động Đời sống mới xuất bản để phục vụ cho việc tuyên truyền thực hành văn hóa mới, đời sống mới. Đây là một cuốn sách phổ thông, hình thức hỏi - đáp về đời sống mới, nhằm trình bày vắn tắt, rõ ràng, thiết thực, dễ hiểu về đời sống mới. Người chỉ ra rằng thực hành đời sống mới là một điều cần kíp cho công cuộc cứu quốc và kiến quốc. Và do đó, quyển sách Đời sống mới chính là một hướng dẫn cụ thể cho nhân dân thực hành đời sống mới1.
_____________
1. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.111-128.
63
Tác phẩm phổ thông này đã nêu rõ, cụ thể những thông tin về tính chất, đặc trưng của đời sống mới thông qua 19 câu hỏi và 19 lời đáp.
2. Tính chất của đời sống mới
Thông qua tác phẩm Đời sống mới, Bác Hồ mong muốn toàn dân quan tâm đến việc thực hành đời sống văn hóa mới, từ đó giúp cho từng người dân, toàn thể dân tộc cùng tiến bộ. Hay nói cách khác, Người mong muốn việc thực hành đời sống mới trên quy mô toàn xã hội, có hiệu ứng và sức lan tỏa mạnh mẽ. Người nói rằng: “Mỗi đồng bào, bất kỳ già trẻ, gái trai, giàu nghèo, cần phải cố gắng, làm cho đời sống mới lan khắp cả nước. Lúc đó mới có thể nói rằng: Chúng ta đã thực hành đời sống mới”1. Thực hành đời sống mới mang nội dung tổng hợp của thực hành văn hóa, nhất là văn hóa trong hoạt động sống và trong lối sống.
Trong toàn bộ tác phẩm Đời sống mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng các quan điểm khách quan, quan điểm phát huy tính năng động sáng tạo của nhân tố con người, quan điểm toàn diện lịch sử cụ thể, quan điểm phát triển, quan điểm về cái mới, quan điểm thực tiễn để đưa vào
_____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.114.
64
trong 19 câu hỏi và lời đáp đầy ngắn gọn, súc tích để bàn về thực hành đời sống mới1.
Thực hành đời sống mới tức là thực hành Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Người nhấn mạnh rằng: “Chính trong lúc này càng phải thực hành đời sống mới là Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Quân đội phải siêng tập, siêng đánh. Nhân dân tăng gia sản xuất, phải siêng làm, thì kháng chiến chắc chắn thắng lợi, thế cho nên phải Cần. Binh sĩ phải tiết kiệm đạn dược, mỗi viên đạn một tên thù... Cho nên phải Kiệm. Mọi người đều trong sạch, không tham lam, không đem của công dùng vào việc tư, thì mọi việc mới chạy. Cho nên ai cũng phải Liêm. Mỗi người quốc dân đều phải vì nước quên nhà, hăng hái ủng hộ kháng chiến, ra sức tăng gia sản xuất, trừ diệt bọn bán nước hại dân quyết làm cho Tổ quốc thống nhất độc lập. Thế là Chính”2. Người quan niệm rằng trong kháng chiến vừa cứu quốc vừa kiến quốc càng phải thực hành đời sống mới là cần, kiệm, liêm, chính.
Như vậy, theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những vấn đề được gọi là “đời sống mới” không có nghĩa là bỏ hết cái cũ, không phải _____________
1. Xem Trần Văn Khánh: “Nêu cao và thực hành cần, kiệm, liêm, chính là nhen lửa cho đời sống mới”, Tạp chí Phát triển nhân lực, 2/2010, tr.11.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.112.
65
cái gì cũng làm mới; và có nhiều mức độ khác nhau của việc thực hành đời sống mới. Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ như các tính tham lam, lười biếng, ích kỷ. Những điểm gì cũ mà không xấu, nhưng gây phiền phức như các thủ tục cưới hỏi, cúng lễ xa xỉ, các lễ hội quá xa hoa thì ta phải giảm bớt, phải thực hành tiết kiệm. Ngược lại, cái gì tuy cũ nhưng tốt thì cần được khuyến khích để phát triển thêm, tức là phát huy truyền thống tốt. Đó là những truyền thống như đoàn kết, tương thân tương ái, tận trung với nước, tận hiếu với dân, gia đình thương yêu đùm bọc lẫn nhau, đồng bào cùng thương yêu nhau. Như vậy, những điều cũ không bị đồng nhất làm một, mà được phân chia cụ thể thành các mức độ khác nhau, từ tiêu cực đến tích cực để đưa ra những giải pháp xử lý phù hợp nhất. Đối với cái mới mà hay, ví dụ như việc ăn uống hợp vệ sinh, làm việc ngăn nắp, kỷ luật, hiệu quả thì Người cho rằng cần phải bắt tay vào thực hiện1. Như vậy, thực hành đời sống mới chính là việc lựa chọn cái cũ mà xấu để xóa bỏ, cái cũ mà tốt để duy trì và cái mới mà hay để thực hành, nhằm mục tiêu làm cho đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng tốt đẹp hơn, vững mạnh hơn. Như vậy,
_____________
1. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.112-113.66
Người không phủ định sạch trơn cái cũ, hay khẳng định hoàn toàn cái mới, mà đó là sự phủ định biện chứng, có tính kế thừa, chắt lọc, tiếp thu cái mới thì cũng phải chọn cái hay, cái tốt để thực hiện.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra vấn đề cốt lõi trong tác phẩm Đời sống mới là xây dựng con người mới của đất nước mới Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, để thực sự giải phóng con người khỏi những lề thói phong kiến, thực dân và đưa con người mới đến với những giá trị tốt đẹp của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhắc về vấn đề con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bàn đến những con người cụ thể, các hoạt động cụ thể, cái riêng và cái chung, vị trí của từng con người trong một tổng thể chung làng xã, trường học, bộ đội, công sở,... Cụ thể, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra 5 hoạt động cơ bản cần thực hành đời sống mới là ăn, mặc, ở, đi lại và làm việc. Đây đều là những hoạt động cơ bản hằng ngày của con người, giúp con người duy trì cuộc sống vật chất và tinh thần. Dẫu vậy, Người nhấn mạnh rằng, do trước đây những hoạt động này được thực hành chưa hợp lý nên số đông nhân dân vẫn ăn đói, mặc rách, chưa có nhà cửa khang trang, chưa có cơ sở vật chất, đường sá sạch đẹp, và hiệu quả công việc chưa cao. Thực hành đời sống mới không hề thoát quá xa khỏi những hành động cơ bản của con người,
67
mà là tập trung vào đó một cách hiệu quả, hợp lý, có kỷ luật, đúng đắn để đem lại kết quả tốt nhất. Bác chỉ rõ, việc thực hành đời sống mới là của toàn bộ người dân Việt Nam, không phân biệt giới tính, công việc, trình độ, vùng miền, dân tộc, giàu nghèo. Đây là việc chung của toàn dân để hướng tới một xã hội tốt đẹp hơn, quốc gia Việt Nam tiến bộ hơn. Đặc biệt, Người chỉ ra rằng, người giàu thì càng phải thực hiện đời sống mới bởi nếu chỉ biết lo cho bản thân mình, ích kỷ thì dù có giàu đến mấy cũng không thể hưởng được hết, nhất là trong bối cảnh đồng bào xung quanh đang đói khổ, giặc cướp đang hoành hành. Trước khi viết tác phẩm Đời sống mới, Người đã nhiều lần kêu gọi phong trào tương thân tương ái, hũ gạo cứu đói, giúp đỡ người nghèo. Đã có nhiều phụ lão đem tiền giúp bình dân học vụ hay cứu đói thay vì dùng vào cúng lễ; đã có nhiều gia đình ủng hộ cách mạng, giúp đỡ đồng bào trong điều kiện khó khăn khi mới giành độc lập dân tộc. Đấy chính là cách thực hành đời sống mới, không tham lam, biết đoàn kết, thương yêu lẫn nhau. Đối với người nghèo, việc thực hành đời sống mới là cần thiết để cuộc sống trở nên đầy đủ hơn. Người nhấn mạnh phải siêng năng làm việc; phải sống thật sạch sẽ, vệ sinh để giữ gìn nhà cửa, sức khỏe bản thân luôn được tốt. Người giàu thay đổi cách suy nghĩ, hành động thì người nghèo cũng phải bỏ những
68
thói chưa tốt, học những điều hay để làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, đời sống mới phải được thực hành ở mọi lĩnh vực của cuộc sống để có thể đem đến một kết quả là tiến bộ chung cho toàn quốc gia. Ở cấp độ riêng từng người thì mỗi cá nhân, mỗi con người đều phải thực hành đời sống mới. Ở cấp độ chung hơn là cơ quan, trường học, nhà máy, xí nghiệp, công sở, hợp tác xã, tập thể, doanh trại quân đội, thì việc thực hành đời sống mới được tiến hành chung của tập thể. Mỗi cá nhân trong tập thể đều lựa theo bản thân, sức khỏe, công việc, nhiệm vụ để thực hiện đời sống mới phù hợp với hoàn cảnh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra những ví dụ rất cụ thể để cho nhân dân thấy được phải thực hành đời sống mới như thế nào. Em bé nhi đồng lúc ở nhà thì siêng giúp đỡ cha mẹ, ăn ở sạch sẽ, giữ gìn vệ sinh; lúc đến trường học thì siêng năng học hành, tôn trọng thầy cô, yêu quý bạn bè, giữ kỷ luật, tiết kiệm giấy bút; lúc ở ngoài đường thì phải biết giúp đỡ người khác, biết đề phòng Việt gian, biết giữ bí mật1. Đối với người lớn, Bác Hồ nhấn mạnh rằng: “Lúc kháng chiến cũng như khi kiến quốc, dân ta cần phải tiết kiệm, những cái gì không cần thiết làm thì phải bớt đi, bỏ đi, mới có thể tự cấp,
_____________
1. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.115.
69
tự túc”1. Người đặc biệt nhấn mạnh đến vấn đề tiết kiệm trong điều kiện đất nước còn khó khăn, đồng thời phải thực hiện hai nhiệm vụ kiến quốc và cứu quốc. Đàn ông thì tiết kiệm việc ăn mặc, phụ nữ thì tiết kiệm chuyện son phấn, chuyển từ may mặc áo dài sang dùng áo vắn để tiết kiệm. Như vậy, mỗi một cá nhân ở trong những hoàn cảnh khác nhau đều có những cách khác nhau để thực hành đời sống mới, từ đó góp phần nhỏ bé vào việc toàn dân thực hành đời sống mới, làm cho đất nước tiến bộ hơn. Ngoài việc tiết kiệm, Người còn nhấn mạnh đến việc tăng gia sản xuất, tức là không chỉ Kiệm mà còn là Cần. Tăng gia sản xuất là một bộ phận của đời sống mới, và hai vấn đề này có mối quan hệ mật thiết với nhau. Có tinh thần đời sống mới thì tăng gia mới hiệu quả. Tăng gia thành công thì đời sống mới được dễ dàng thực hiện. Đối với người, tăng gia sản xuất gắn liền với cả bốn đức tính là Cần, Kiệm, Liêm, Chính; tức là thực hành đời sống mới luôn đi kèm với tăng gia sản xuất.
3. Xây dựng đời sống mới ở các làng bản, thôn xóm
Không chỉ nhắc đến một cách chung chung các vấn đề đời sống mới, Bác Hồ còn đưa ra các ví dụ
_____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.115.
70
cụ thể về xây dựng đời sống mới trong từng điều kiện cụ thể. Người nhấn mạnh rằng, nhiều người sống thành một nhóm, nhiều nhóm thành một làng, nhiều làng thành nước. Cứ như vậy, mỗi cá nhân góp phần quan trọng vào hình thành đời sống mới của làng, nếu mọi người cùng xấu thì làng xấu, còn nếu mọi người cùng tốt thì làng tốt, nước mạnh. Bác Hồ cho rằng nếu mọi người cùng cố gắng thì cả dân tộc nhất định sẽ phú cường. Người nhấn mạnh từng làng xã, thôn xóm đều phải có chung những điểm về cả đời sống vật chất và tinh thần. Từ những điểm chung đó, Người đã đưa ra một lời kêu gọi hết sức dung dị, dễ hiểu là đoàn kết lẫn nhau để phục vụ mục tiêu chung là tiến bộ của làng xóm. Bác nói rằng trong làng thì có ba hạng khác nhau về độ giàu có, trình độ, phẩm cách. Về của cải thì có người giàu, người trung lưu, người nghèo. Về phẩm cách thì có người tốt, người vừa và người kém. Về trình độ thì có người thông minh, kẻ vừa, kẻ dốt. Dù ở cách phân chia nào thì hai hạng trên đều phải tìm cách giúp đỡ hạng còn lại trong làng xã, thôn xóm. Như vậy, người dân trong làng phải đoàn kết, tương thân tương ái, không ích kỷ, tham lam mà luôn sẵn sàng chia sẻ lẫn nhau.
Trong công việc, dù mỗi người trong làng thực hiện những phần việc khác nhau như làm ruộng, làm nghề thủ công hay buôn bán thì đều cần
71
tăng gia sản xuất, giúp đỡ lẫn nhau. Người kêu gọi thành lập các hợp tác xã để người dân cùng tham gia, giúp đỡ lẫn nhau vì nhiều người cùng làm thì đỡ tốn sức, hiệu quả cao, kết quả cao, nhất là trong điều kiện tăng gia sản xuất phục vụ kháng chiến.
Về đời sống văn hóa tinh thần, Người kêu gọi mọi người cùng sốt sắng yêu nước, nhìn nhận việc tốt để làm và việc xấu để tránh. Mọi người dân trong thôn xóm đều sẵn lòng làm công ích vì lợi ích chung. Những ví dụ cụ thể được Bác Hồ chỉ ra như dọn vệ sinh thôn xóm, vứt những đồ vướng trên đường để người khác đi được thuận tiện, đóng góp tài sản cho kháng chiến. Ấy đều là những việc mọi người cần sẵn lòng công ích. Bác cũng kêu gọi mọi người phải khiêm tốn, không được kiêu căng, cũng không nịnh hót, tham lam hay bủn xỉn. Mỗi người dân trong làng do đó đều đầy đủ những đức tính Cần, Kiệm, Liêm, Chính để góp phần giúp làng tiến bộ hơn.
Về đời sống vật chất, Bác cũng chỉ rõ cách thức cho từng người trong làng để thực hành đời sống mới. Đó là cách ăn mặc sạch sẽ, giản đơn, chất phác, không xa xỉ hay lòe loẹt. Đó là cách làm việc siêng năng, ngăn nắp, có kỷ luật, hiệu quả, tập trung. Đó là cách cư xử thành thực, chân thành, thân ái với những người xung quanh. Đó là việc
72
ham học hỏi, học những đức tính tốt của người khác, học chữ, học làm tính để phục vụ cuộc sống và kháng chiến. Mọi người phải học thì mới tiến bộ, càng học thì càng tiến bộ. Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ cho mọi người từng bước, từng biện pháp khác nhau để tiến hành thực hiện đời sống mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định việc thực hành đó không có gì là khó, là đòi hỏi quá tầm. Chỉ cần mỗi người dân có ý chí, có quyết tâm thì nhất định sẽ làm được, và đời sống thôn làng sẽ tiến bộ, đất nước sẽ văn minh.
Về văn hóa, Người nhấn mạnh việc thực hiện đời sống văn hóa mới cho toàn bộ người dân. Đời sống văn hóa mới là mọi người phải biết đọc, biết viết, biết đạo đức và trách nhiệm của công dân. Đây chính là nội dung cụ thể của việc thay đổi cái cũ, tiếp thu cái mới trong văn hóa. Đây cũng là những bước tiếp theo của phong trào Bình dân học vụ để tìm cách xóa nạn mù chữ, giặc dốt cho người dân, hay nói cách khác là xóa bỏ những tàn tích về mặt kiến thức từ thời phong kiến thực dân. Cụ thể, Người chỉ ra rằng những phong tục xấu trong làng xóm như cờ bạc, thuốc phiện, trộm cắp, rượu chè,... cần phải bị cấm hẳn. Những thói hư khác như đánh chửi nhau, kiện cáo nhau, thiếu đoàn kết thì cần phải tìm cách hạn chế để làng trở thành nơi thuần phong mỹ tục, làng có văn hóa.
73
Về vấn đề vệ sinh môi trường, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ ra rất cụ thể. Đường sá trong làng thì phải được xây dựng, quét dọn sạch sẽ. Ao chuôm thì cần dọn dẹp gọn gàng để đỡ muỗi. Giếng nước ăn phải được chăm sóc cẩn thận để phòng tránh bệnh dịch. Nhà xí thì cũng phải được làm ở khu vực riêng để tránh mùi hôi thối ra khu vực xung quanh, lại vừa có phân bón cho hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Về đời sống kháng chiến, ngoài những việc cơ bản trong đời sống là ăn, mặc, ở, đi lại, làm việc; Người còn nhấn mạnh nhiệm vụ của người dân trong mỗi làng là giúp đỡ kháng chiến. Có nhiều cách tham gia kháng chiến khác nhau. Thanh niên có thể tham gia bộ đội để trực tiếp chiến đấu. Người ở lại thì tham gia các đội du kích, tự vệ địa phương để ngăn địch vào tàn phá làng. Mỗi người dân thì cần nâng cao cảnh giác, đề phòng Việt gian. Đồng thời, dân cần giúp bộ đội, giúp đỡ đồng bào tản cư từ nơi khác đến. Một điều đặc biệt quan trọng được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn nhận là việc người dân trong làng xóm cần tham gia vào các tổ chức, đoàn thể khác nhau như Hội Cứu quốc, Hội Phụ nữ, Hội Liên hiệp quốc dân để tập hợp lực lượng làm cách mạng. Như vậy, Bác Hồ đã nhấn mạnh rất rõ những vấn đề mà một người dân trong làng cần thực hiện theo đúng 5 mục là ăn, mặc, ở, đi lại, làm việc.
74
Trong đó, Người nhấn mạnh yếu tố đoàn kết, yếu tố tập hợp lực lượng và việc thực hành đời sống mới để làm cho làng xóm tốt đẹp hơn, tiến bộ hơn.
Để có thể thực hiện được những công việc thay đổi đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi người dân tổ chức thi đua ở các cấp khác nhau, góp phần làm cho thôn xóm, làng xã tiến bộ. Người với người thi đua, nhà với nhà thi đua, làng với làng thi đua. Ai làm tốt thì được nhân dân kính trọng, Chính phủ khen thưởng. Cán bộ trong làng thì phải noi gương cho nhân dân trong làng, thậm chí là hy sinh lợi ích cá nhân vì mục tiêu tập thể. Thi đua chính là phương cách tốt nhất để thúc đẩy người người, nhà nhà trong làng thực hành đời sống mới. Có như thế thì làng xã, thôn xóm mới tiến bộ nhanh, góp phần làm cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa giàu mạnh, phát triển.
Những cách thức mà Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi về đời sống mới tại làng xã từ cách đây hơn 70 năm vẫn còn nguyên giá trị. Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành đời sống mới ở thôn xóm, Đảng và Nhà nước ta đã phát động nhiều phong trào, dự án, chương trình phát triển nông thôn như chương trình xây dựng nông thôn mới, thi đua làng văn hóa, thi đua gia đình văn hóa, thực hiện nếp sống mới tiết kiệm, đoàn kết,...
75
4. Xây dựng đời sống mới trong nhà trường
Bên cạnh việc chú ý yêu cầu thay đổi nếp sống ở các thôn xóm, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc thay đổi nếp sống mới tại trường học bởi đây là nơi đào tạo những thế hệ tiếp theo của đất nước, góp phần thắng lợi vào công cuộc kháng chiến - kiến quốc. Trường học có nếp sống mới thì tương lai của đất nước mới có đời sống mới. Bác Hồ đã nhắc đến mọi đối tượng trong trường học, mọi cấp độ giáo dục, và những yêu cầu cần thiết về nội dung giáo dục để hình thành đời sống mới. Bác coi trường học, từ bậc tiểu học, trung học đến đại học đều là môi trường quan trọng để rèn luyện cho nhi đồng và thanh niên trong bối cảnh đất nước lúc bấy giờ.
Trường học nói chung đều gồm người thầy và học trò. Để xây dựng đời sống mới, người thầy cần thi đua làm sao để dạy dễ hiểu, dễ nhớ, nhanh chóng và thiết thực. Điều này không chỉ đúng trong bối cảnh dân trí đất nước chưa cao do hậu quả của giai đoạn phong kiến, thực dân; mà nó còn đúng trong mọi bối cảnh giáo dục bởi vai trò của người thầy là giúp học trò tìm đến kiến thức một cách đơn giản nhất, dễ hiểu nhất chứ không phải là làm cho học trò thấy khó hiểu hơn về bài giảng. Học sinh như một tờ giấy trắng, người thầy chính là những người tô vẽ những màu sắc khác nhau lên bức tranh đó. Nếu làm tốt thì người thầy
76
sẽ vẽ được những bức tranh đẹp, tích cực, màu sắc trong sáng. Nếu làm không tốt thì tương lai của trẻ em, của nước nhà sẽ mang những màu sắc không đẹp. Ngược lại, học trò cần thi đua học tập thật tốt bởi với học sinh, thi đua học tốt mới là cách thức tốt nhất để thực hiện đời sống mới, nâng cao dân trí. Ngoài ra, học trò còn phải tiết kiệm giấy bút, giữ gìn kỷ luật trong lớp học1.
Bác Hồ chỉ ra rằng việc dạy học không chỉ đơn thuần là dạy kiến thức, mà còn phải dạy học trò lòng yêu nước, thương nòi; ý chí tự lập, tự cường, quyết không chịu thua kém ai, quyết không chịu làm nô lệ. Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đời sống mới luôn có sự song hành của kiến thức và phẩm chất con người. Giáo dục có trách nhiệm đào tạo thế hệ trẻ vừa hồng, vừa chuyên, tức là vừa có kiến thức phục vụ công cuộc kháng chiến kiến quốc, vừa có phẩm chất của con người mới, biết yêu thương, đoàn kết lẫn nhau, biết chịu khó làm việc, có ý chí vươn lên, giúp cho nước nhà tiến bộ. Không chỉ đơn giản về những tình cảm đơn thuần, Bác Hồ còn hướng đến việc giáo dục thế hệ trẻ những lý tưởng cao đẹp như dân chủ, tự do. Người nhấn mạnh việc thực hành và hiểu biết thực hành những vấn đề trên trong giáo dục chứ không chỉ nắm về lý thuyết một chiều.
_____________
1. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.120.
77
Bác yêu cầu người thầy phải giúp học trò hiểu được lý do đất nước cần kháng chiến chống Pháp, những cách thức nào để giúp đỡ kháng chiến, cách thức nào để đề phòng Việt gian, để giúp đỡ đồng bào tản cư, hay giúp đỡ bình dân học vụ. Mỗi đặc trưng của đời sống mới đều được Người đưa vào bài nói một cách giản đơn và gắn liền với thực tiễn đất nước là vừa cứu quốc vừa kiến quốc. Người cũng nhấn mạnh rằng không được giáo dục thế hệ trẻ yêu nước một cách mù quáng và trở thành tư tưởng sôvanh như bọn phát xít, quân phiệt. Những câu chuyện về lý tưởng phải là những vấn đề đơn giản, dễ hiểu về tinh thần, đạo đức; phải xóa bỏ những tàn dư của chế độ thực dân và hướng đến một nền giáo dục mới của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Một điều rất đáng chú ý là Chủ tịch Hồ Chí Minh khuyên học trò tăng gia sản xuất trong điều kiện đất nước còn khó khăn mặc dù đây không phải là nhiệm vụ chính của các cháu. Theo Bác, từng lứa tuổi khác nhau thì có cách thức tăng gia sản xuất khác nhau. Việc tham gia lao động chính là thể hiện sự kính trọng đối với cần lao; là quá trình rèn luyện bản thân trong những môi trường, điều kiện khác nhau; là thể hiện ý chí tự thân tự cường trong bất cứ hoàn cảnh nào; và là một cách thức để rèn luyện sức khỏe. Có thông qua rèn luyện, lao động như vậy
78