🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tư Tưởng Hồ Chí Minh Về Giáo Dục Với Vấn Đề Đổi Mới Căn Bản Và Toàn Diện Giáo Dục Việt Nam Hiện Nay Ebooks Nhóm Zalo Chịu trách nhiệm xuất bản TẬP PGS.TS. PHẠM MINH TUẤN Chịu trách nhiệm nội dung ỦY VIÊN HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP - XUẤT BẢN TS. HOÀNG MẠNH THẮNG ĐINH ÁI MINH PHẠM THÚY LIỄU NGUYỄN VIỆT HÀ PHAN HƯƠNG GIANG NGUYỄN QUỲNH LAN ÁI MINH GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TS. VÕ VĂN BÉ Biên tập nội dung: Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Đọc sách mẫu: Biên mục trên xuất bản phẩm của Thư viện Quốc gia Việt Nam Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục với vấn đề đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay. - Tái bản lần thứ 2. - H. : Chính trị quốc gia, 2020. - 304tr. ; 21cm ISBN 9786045760215 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh 2. Giáo dục 3. Việt Nam 370.9597 - dc23 CTL0229p-CIP 2 4 TẬP THỂ TÁC GIẢ TS. LÝ VIỆT QUANG (Chủ biên) PGS.TS. PHẠM NGỌC ANH Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh ThS. TRƯƠNG VĂN BẮC Đại học Chính trị, Bộ Quốc phòng ThS. BÙI HỒNG CẨN Đại học Trần Quốc Tuấn, Bộ Quốc phòng PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh PGS.TS. NGUYỄN THỊ KIM DUNG Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh PGS.TS. THÀNH DUY Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam ThS. NGÔ XUÂN DƯƠNG Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh ThS. LÊ THỊ HẰNG Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh TS. LÊ THỊ THU HỒNG Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh ThS. TRẦN THỊ HỢI Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh ThS. NGUYỄN THỊ THU HUYỀN Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ 5 ThS. TRẦN THỊ HUYỀN Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh ThS. NGUYỄN TÙNG LÂM Đại học Chính trị, Bộ Quốc phòng PGS.TS. BÙI ĐÌNH PHONG Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh GS. SONG THÀNH Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh ThS. VŨ ĐỨC THỊNH Sở Giáo dục - Đào tạo Hà Nội PGS.TS. VŨ VĂN THUẤN Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh TS. NGUYỄN XUÂN TRUNG Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh 6 LỜI NHÀ XUẤT BẢN Tư tưởng Hồ Chí Minh là một kho tàng lý luận vô giá về các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực giáo dục. Trong quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục có ý nghĩa hết sức quan trọng, là kim chỉ nam định hướng cho sự phát triển của sự nghiệp giáo dục - đào tạo Việt Nam. Là người đặt nền móng cho sự ra đời nền giáo dục cách mạng Việt Nam, sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến sự nghiệp giáo dục - đào tạo của nước nhà. Ngay sau khi đất nước giành được độc lập năm 1945, giữa muôn vàn khó khăn, gian khổ, Người vẫn đề cao nhiệm vụ chống giặc dốt, thúc đẩy phong trào Bình dân học vụ nhằm xóa nạn mù chữ cho nhân dân. Trong các tác phẩm, các bài nói, bài viết của mình, Người đã nêu bật quan điểm về một nền giáo dục toàn diện, chú trọng cả đức và tài, gắn liền với thực tiễn đời sống, kết hợp giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội. Người cũng là một tấm gương sáng về việc tự học, tự rèn luyện, đấu tranh bền bỉ không ngừng để hoàn thiện bản thân. Triết lý giáo dục của Người vừa kế thừa nền giáo dục truyền thống của dân tộc vừa mang tính hiện đại, mới mẻ. 7 Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương, đường lối của Đảng, trong những năm qua, sự nghiệp giáo dục - đào tạo Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu, song vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, giáo dục - đào tạo cần phải đổi mới mạnh mẽ, căn bản, toàn diện để phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như theo kịp trình độ phát triển của thế giới. Nhằm góp phần tìm hiểu nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và quá trình vận dụng triết lý giáo dục Hồ Chí Minh vào đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản lần thứ hai cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục với vấn đề đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay do TS. Lý Việt Quang làm chủ biên. Cuốn sách là tài liệu quý cho các cấp, các ngành, các nhà hoạch định chính sách trong lĩnh vực giáo dục cũng như tất cả mọi người trong quá trình học tập, rèn luyện, hoàn thiện bản thân để hướng tới giá trị chân, thiện, mỹ, góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc. Tháng 6 năm 2020 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 8 LỜI MỞ ĐẦU Cùng với văn hóa, giáo dục gắn liền với con người và xã hội loài người. Đây là một hoạt động hết sức quan trọng của con người, qua đó những kinh nghiệm, tri thức nhân loại tích lũy trong thực tiễn cuộc sống được trao truyền lại cho nhau, giúp nhân loại không ngừng bổ sung, phát triển những tri thức mới, sâu sắc hơn. Nhờ giáo dục và thông qua giáo dục, con người ngày càng được phát triển toàn diện, hoàn thiện nhân cách. Bao trùm lên tất cả là giáo dục giúp tạo nguồn nhân lực cho sự phát triển trong tương lai của một đất nước, một xã hội. Chính vì vậy, giáo dục được coi là yếu tố quyết định sự phát triển nhanh và bền vững, là nguồn “của cải nội sinh” của mỗi quốc gia. Giáo dục có được làm tốt hay không vừa có tác động rất to lớn đến sự hưng thịnh hay suy yếu của một quốc gia, vừa là một tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ phát triển hiện tại và triển vọng tương lai của quốc gia đó. 9 Vì tầm quan trọng của giáo dục, từ năm 1994, Tổ chức Giáo dục - Khoa học - Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã đưa ra tuyên bố: “Không có một sự tiến bộ và thành đạt nào có thể tách khỏi sự tiến bộ và thành đạt trong lĩnh vực giáo dục của quốc gia đó. Và những quốc gia nào coi nhẹ giáo dục hoặc không đủ tri thức và khả năng cần thiết để làm giáo dục một cách có hiệu quả thì số phận của quốc gia đó xem như đã an bài và điều đó còn tồi tệ hơn cả sự phá sản”. Ngày nay, khi nhân loại đang bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên văn minh trí tuệ, phát triển nền kinh tế tri thức, khoa học, công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, chất xám - trí tuệ con người được xác định là nhân tố quyết định lợi thế cạnh tranh giữa các nền kinh tế trên thế giới, giáo dục do đó càng có vai trò hết sức quan trọng. Các quốc gia phát triển hàng đầu trên thế giới cũng là những quốc gia có nền giáo dục tiên tiến, hiện đại. Sự phát triển “thần kỳ” của Nhật Bản, sự cất cánh của “các con rồng” châu Á như Hàn Quốc, Xingapo, Đài Loan, Hồng Kông không phải do các quốc gia, vùng lãnh thổ này giàu tài nguyên, khoáng sản, mà chủ yếu là do họ đã xây dựng thành công một nền giáo dục tiên tiến, từ đó hình thành nên lực lượng lao động có chất lượng cao, chuyên nghiệp, làm nền tảng, động lực thúc đẩy sự 10 phát triển kinh tế - xã hội, tạo thuận lợi cho đất nước họ hội nhập quốc tế. Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn với phát triển kinh tế tri thức, xây dựng mô hình phát triển nhanh và bền vững để theo kịp bước tiến của các nước trên thế giới. Muốn vậy, nhất thiết phải có nguồn nhân lực chất lượng cao. Do đó, giáo dục càng phải được đặc biệt chú trọng, được xem là “quốc sách hàng đầu”. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế văn hóa. Trong việc đào tạo cán bộ, giáo dục là bước đầu”1. Từ đó, Người nhắc đến phương châm: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”2. Là vị lãnh tụ của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam, mà còn là nhà giáo dục vĩ đại, đặt nền móng cho sự ra đời nền giáo dục cách mạng Việt Nam, hình thành nên triết lý giáo dục mới - triết lý giáo dục Hồ Chí Minh. Hơn thế, Người còn là tấm gương mẫu mực về giáo dục, trước hết là ý thức _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.10, tr.345. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.528. 11 giáo dục, tự học, tự rèn luyện suốt đời, nêu cao những gương người tốt, việc tốt nhằm lôi cuốn sự nghiệp giáo dục thành phong trào của toàn dân vì mục đích xây dựng cuộc sống mới, xã hội mới, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đặc biệt, trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đã chứa đựng những quan điểm mới, hiện đại, đến nay vẫn có giá trị và ý nghĩa thời sự sâu sắc, thể hiện tầm nhìn vượt thời đại của Người. Đó là sự xác định mục tiêu giáo dục không chỉ nhằm trang bị kiến thức khoa học, mà sâu xa hơn là để làm người, để phát triển toàn diện nhân cách người học. Đó còn là quan điểm về nội dung giáo dục toàn diện; là phương châm giáo dục gắn liền với thực tiễn đời sống, kết hợp chặt chẽ vai trò của nhà trường, gia đình và xã hội trong giáo dục; là phương pháp dạy “sao cho dễ hiểu, dễ nhớ, nhanh chóng và thiết thực”, “tránh lối dạy nhồi sọ”; là phương pháp học “lấy tự học làm cốt”, “học suốt đời”, “nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng”, “tuyệt đối không nên nhắm mắt tuân theo sách vở một cách xuôi chiều”, “không nên học gạo, không nên học vẹt”... Người cũng nhắc nhở phải “Sửa đổi chế độ giáo dục cho hợp với hoàn cảnh mới của nhân dân” khi hoàn cảnh thế giới và trong nước thay đổi. Những quan điểm cơ bản ấy đã phát huy tác dụng, tạo động lực cho nền giáo dục Việt Nam phát triển nhanh, bền vững, 12 tạo tiền đề cho nền giáo dục nước ta hội nhập quốc tế, tiến bước cùng các nước phát triển trên thế giới, xây dựng một xã hội mới hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc cho mọi người. Trong Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa (1986 -1996), khi UNESCO đưa ra ba nội dung cơ bản về Triết lý giáo dục thế kỷ XXI, trong đó điều đầu tiên là “Phải coi giáo dục là giải pháp hàng đầu để giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội của một quốc gia cũng như của mỗi cá nhân”, thì chính tư tưởng này đã được Hồ Chí Minh đề cập rất sớm từ cuối những năm 40, giữa những năm 50 của thế kỷ trước. Trong công cuộc đổi mới đất nước, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, Đảng ta ngày càng chú trọng đến vai trò của giáo dục và yêu cầu đổi mới giáo dục cho phù hợp với sự phát triển của đất nước. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã ra Nghị quyết số 04-NQ/HNTW, ngày 14-1-1993 “về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (tháng 6-1996) nhấn mạnh: “Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”1. _______________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, t.55, tr.388-389. 13 Trong nhiệm kỳ khóa VIII, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ hai, tập trung bàn và ra Nghị quyết số 02-NQ/HNTW, ngày 24-12-1996 “Về định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000”. Tinh thần coi trọng vai trò “quốc sách hàng đầu” của giáo dục tiếp tục được Đảng ta khẳng định tại các Đại hội IX (tháng 4-2001), Đại hội X (tháng 4-2006), Đại hội XI (tháng 1-2011) và Đại hội XII (tháng 1-2016). Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã ban hành Kết luận số 14-KL/TW, ngày 26-7-2002 nhấn mạnh: Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII, phương hướng phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ từ nay đến năm 2005 và đến năm 2010. Từ Đại hội XI, vấn đề đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo đã được đặt ra và được Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tập trung bàn và ra Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4-11-2013 “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Như vậy, rõ ràng Đảng đã có ý thức coi trọng giáo dục đào tạo, coi giáo dục là “quốc sách hàng đầu” và 14 lãnh đạo Nhà nước đầu tư thích đáng cho giáo dục thông qua việc tăng ngân sách hằng năm cho giáo dục - đào tạo. Tuy nhiên, mặc dù Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách về giáo dục như trên, tỷ lệ chi cho giáo dục chiếm đến 20% tổng ngân sách quốc gia, song trên thực tế, giáo dục Việt Nam hiện nay vẫn chưa thực sự trở thành nền tảng và động lực cho phát triển đất nước và đang đứng trước nhiều vấn đề nổi cộm cần phải giải quyết, thu hút sự quan tâm đặc biệt của toàn xã hội. Trong những vấn đề đó, nổi lên là các vấn đề chất lượng giáo dục còn thấp và lạc hậu so với ngay cả các nước trong khu vực Đông Nam Á, chưa nói đến so với thế giới; chương trình học vừa nặng nề, quá tải, vừa không thiết thực, nặng về truyền thụ kiến thức hàn lâm, ít chú trọng giáo dục đạo đức công dân, đạo đức nghề nghiệp, các kỹ năng trong cuộc sống; tình trạng “hư học” nhiều hơn “thực học”, mua bằng, chạy điểm diễn ra ở không ít nơi; chất lượng đội ngũ giáo viên còn hạn chế cả về trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức, v.v.. Nhiều ý kiến của các nhà khoa học cho rằng giáo dục Việt Nam hiện nay đang bị “khủng hoảng”, thậm chí có ý kiến dùng ba từ “lạc” (lạc đường, lạc điệu và lạc hậu) để chỉ tình trạng hiện thời của nền giáo dục 15 đất nước. Vì sao có tình trạng nêu trên? Câu hỏi vẫn chưa có lời giải đáp thật thỏa đáng và còn nhiều ý kiến tranh luận. Trong thực tế, nền giáo dục Việt Nam hiện nay vẫn còn lúng túng, chưa tìm được lối ra thích hợp với hoàn cảnh đất nước thời kỳ đổi mới, đòi hỏi phát triển nhanh và bền vững trong bối cảnh thế giới ngày càng phát triển không ngừng, theo đà bùng nổ văn hóa, phát triển kinh tế tri thức, với sự ra đời nhanh chóng công nghệ thông tin, kỹ thuật số và mạng Internet kết nối toàn cầu. Từ yêu cầu bức thiết của thực tiễn đất nước, Đảng tiếp tục đề ra chủ trương phải đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam, nhằm nâng cao chất lượng nguồn lực con người - nguồn tài nguyên quý giá nhất trong các nguồn tài nguyên, phục vụ thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (tháng 1-2016) không chỉ chú trọng đổi mới tư duy kinh tế mà còn đặc biệt quan tâm đến đổi mới tư duy văn hóa, xây dựng con người, trong đó có phát triển giáo dục - đào tạo. Đương nhiên, để đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục nước nhà, phải xuất phát trên một triết lý giáo dục đúng đắn. Trong thực tế, dân tộc Việt Nam đã có một triết lý giáo dục vừa phù hợp với thực tiễn đất nước, 16 vừa mang tầm thời đại, làm cơ sở cho việc phát huy giá trị giáo dục truyền thống dân tộc và tiếp thu tư tưởng giáo dục tiên tiến của nhân loại. Đó chính là triết lý giáo dục Hồ Chí Minh. Quán triệt và vận dụng sáng tạo triết lý giáo dục Hồ Chí Minh vào thực tiễn giáo dục đất nước hiện nay, chúng ta sẽ có cơ sở lý luận và thực tiễn hết sức quan trọng để góp phần đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam hiện nay. Xuất phát từ những nhận thức trên, công trình này tập trung tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục với vấn đề đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay. Trong thực tế, vấn đề giáo dục - đào tạo và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo đã nhận được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, các nhà nghiên cứu giáo dục, các nhà hoạt động thực tiễn. Đã có nhiều công trình, bài viết được xuất bản, trong đó có những công trình, bài viết có chất lượng cao. Các tác giả tham gia công trình này đã tham khảo nghiêm túc những công trình, bài viết đó, đồng thời tiếp thu, kế thừa những quan điểm đúng đắn. Công trình này tập trung vào việc tìm hiểu những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, hay còn gọi là triết lý giáo dục Hồ Chí Minh, khẳng 17 định đó là những giá trị nền tảng để đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở làm rõ triết lý giáo dục Hồ Chí Minh, công trình đi sâu phân tích thực trạng, đề xuất những phương hướng, nội dung, giải pháp vận dụng tư tưởng của Người vào đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay. Từ đó, công trình góp phần trả lời những câu hỏi chưa có lời giải đáp thỏa đáng như đã đề cập ở trên. Nhóm biên soạn xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các nhà khoa học trong và ngoài Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật để cuốn sách sớm đến được với bạn đọc. Rất mong nhận được sự góp ý của các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn và bạn đọc, để lần xuất bản sau, cuốn sách được hoàn thiện hơn. T/M NHÓM BIÊN SOẠN Chủ biên TS. Lý Việt Quang 18 Chương I TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC - NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN 1. Khái niệm giáo dục Theo Từ điển Giáo dục học, giáo dục là: “Hoạt động hướng tới con người thông qua một hệ thống các biện pháp tác động nhằm truyền thụ những tri thức và kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng và lối sống, bồi dưỡng tư tưởng và đạo đức cần thiết cho đối tượng, giúp hình thành và phát triển những năng lực, phẩm chất, nhân cách phù hợp với mục đích, mục tiêu chuẩn bị cho đối tượng tham gia lao động sản xuất và đời sống xã hội”1. Theo Từ điển Văn hóa giáo dục Việt Nam, giáo dục được hiểu là: “Quá trình đào tạo con người có mục đích, có hệ thống, có phương pháp, nhằm chuẩn bị cho con người tham gia vào đời sống xã hội, lao động sản xuất bằng cách tổ chức việc truyền thụ và lĩnh hội những _______________ 1. Bùi Hiền: Từ điển Giáo dục học, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2001, tr.210. 19 kinh nghiệm lịch sử xã hội loài người. Theo nghĩa hẹp, giáo dục là sự bồi dưỡng, rèn luyện về ý thức, thế giới quan, phẩm chất đạo đức cho con người”1. Từ điển tiếng Việt cho rằng, giáo dục có hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất là: “Hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra”. Nghĩa thứ hai là: “Hệ thống các biện pháp và cơ quan giảng dạy - giáo dục của một nước”2. Từ điển Bách khoa cũng định nghĩa giáo dục theo hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất là: “quá trình đào tạo con người một cách có mục đích, nhằm chuẩn bị cho con người tham gia đời sống xã hội, tham gia lao động sản xuất, nó được thực hiện bằng cách tổ chức việc truyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử - xã hội loài người. Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc trưng của xã hội loài người. Giáo dục nảy sinh cùng với xã hội loài người, trở thành một chức năng sinh hoạt không thể thiếu được và không bao giờ mất đi ở mọi giai đoạn phát triển của xã hội. Giáo dục là một bộ phận của quá trình _______________ 1. Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo, Nguyễn Thị Thu Hà: Từ điển Văn hóa giáo dục Việt Nam, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2010, tr.111. 2. Viện Ngôn ngữ học: Từ điển tiếng Việt, Hà Nội, 2006, tr.394. 20 tái sản xuất mở rộng sức lao động xã hội, một trong những nhân tố quan trọng nhất thúc đẩy xã hội phát triển về mọi mặt. Giáo dục mang tính lịch sử cụ thể, tính chất, mục đích, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp và tổ chức giáo dục biến đổi theo các giai đoạn phát triển của xã hội, theo các chế độ chính trị - kinh tế của xã hội”. Nghĩa thứ hai được xác định là: “hệ thống các biện pháp, các tổ chức đào tạo và giáo dục của một nước”1. Như vậy, có thể khái quát giáo dục là một lĩnh vực hoạt động xã hội, xuất hiện do nhu cầu truyền thụ và nâng cao tri thức về tự nhiên, xã hội từ các thế hệ trước sang các thế hệ sau của nhân loại, nhằm sinh tồn và phát triển không ngừng. Trên thực tế, giáo dục bao hàm cả quá trình đào tạo, truyền đạt, lĩnh hội tri thức của con người và các biện pháp, tổ chức, quản lý đào tạo, giáo dục. Giáo dục trở thành nhu cầu không thể thiếu đối với sự tiến bộ, văn minh của nhân loại. Chừng nào con người còn tồn tại, giáo dục vẫn còn tồn tại. Tùy theo mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, xuất phát từ yêu cầu, hoàn cảnh cụ thể mà mỗi quốc gia, mỗi dân tộc xác định mục đích, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp và tổ chức giáo dục cụ thể. _______________ 1. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam: Từ điển Bách khoa Việt Nam, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2002, t.2, tr.120. 21 Nhìn chung, quá trình giáo dục được tạo nên bởi bốn yếu tố cơ bản. Đó là người giáo dục, người được giáo dục, yếu tố môi giới giáo dục và môi trường giáo dục1. Người giáo dục theo nghĩa rộng là người tạo nên những ảnh hưởng nhất định, có mục đích đối với người được giáo dục, thúc đẩy người được giáo dục phát triển cả về thể chất lâ ̃n tinh thần. Người giáo dục theo nghĩa hẹp là người căn cứ vào yêu cầu của xã hội, trực tiếp lấy việc thúc đẩy sự phát triển thể chất và tinh thần của người được giáo dục làm nghề nghiệp của mình, bao gồm giáo viên và những người làm công tác giáo dục trong trường học. Đối với người được giáo dục, theo nghĩa rộng để chỉ người tiếp nhận mọi hình thức giáo dục; theo nghĩa hẹp, là người tiếp nhận ảnh hưởng giáo dục của người giáo dục trong nhà trường, từ đó khiến cho thể chất và tinh thần của bản thân có sự phát triển - tức là học sinh. Ảnh hưởng của người giáo dục đối với người được giáo dục được thực hiện thông qua yếu tố môi giới giáo dục nhất định, như: nội dung giáo dục, phương thức, phương pháp giáo dục, địa điểm và thiết bị giáo dục, công cụ giáo dục có ý nghĩa ký hiệu (ngôn ngữ, biểu bảng, ký hiệu phi ngôn ngữ của cơ thể: tư thế, cử chỉ, _______________ 1. Xem Lương Vị Hùng, Khổng Khang Hoa: Triết học giáo dục hiện đại, người dịch Bùi Đức Thiệp, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr.216-250. 22 biểu cảm). Môi trường giáo dục có thể là gia đình, nhà trường, hay rộng hơn nữa là xã hội. Quá trình giáo dục trong nhà trường được thể hiện trực tiếp thông qua hoạt động dạy học. Đó là quá trình tác động qua lại giữa người dạy và người học nhằm giúp cho người học lĩnh hội những tri thức khoa học, kỹ năng hoạt động nhận thức và thực tiễn, phát triển các năng lực sáng tạo, trên cơ sở đó hình thành thế giới quan và các phẩm chất, nhân cách của người học theo mục đích giáo dục. Quá trình dạy học là sự thống nhất biện chứng của hai thành tố cơ bản trong quá trình dạy học - hoạt động dạy và hoạt động học. Quá trình dạy và học liên hệ mật thiết với nhau, diễn ra đồng thời và phối hợp chặt chẽ sẽ tạo nên sự cộng hưởng của hoạt động dạy và hoạt động học, từ đó tạo nên hiệu quả cho quá trình dạy học. Sinh thời, Hồ Chí Minh chưa bao giờ tự nhận Người là nhà lý luận, hay nhà tư tưởng, mà chỉ nhận là một nhà hoạt động cách mạng chuyên nghiệp, mặc dù trên thực tế, với những cống hiến to lớn đối với cách mạng Việt Nam và sự phát triển, tiến bộ của nhân loại, Người thực sự xứng tầm là nhà lý luận xuất sắc, nhà tư tưởng lỗi lạc trên thế giới. Điều này cũng đồng nghĩa với việc Người chú trọng nhiều đến những vấn đề thực tiễn cách mạng đang đặt ra hơn là những vấn đề lý thuyết, học thuật. Chính vì vậy, trong các bài nói, bài viết, Hồ Chí Minh rất hiếm khi nêu các định nghĩa, 23 khái niệm, mà thường biểu đạt nội hàm khái niệm thông qua những hành động, việc làm cụ thể, hoặc bằng cách sử dụng khái niệm trong những trường hợp cụ thể. Khái niệm giáo dục với Người cũng như vậy. Hồ Chí Minh thường sử dụng khái niệm giáo dục với hai hàm nghĩa: Thứ nhất, giáo dục được Người sử dụng với ý nghĩa là quá trình truyền thụ tri thức về tự nhiên, về xã hội từ thế hệ trước sang thế hệ sau, nhằm phát triển toàn diện con người, để bồi dưỡng, nâng cao tri thức, tư tưởng, tình cảm, thể chất và các kỹ năng của người học. Giáo dục theo nghĩa này là hoạt động diễn ra rất phong phú về cả loại hình, không gian, thời gian, trong đó nòng cốt là hoạt động dạy và học trong các nhà trường, với chủ thể là người dạy và người học. Đây là điều Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng trong quá trình tuyên truyền, vận động và tổ chức cách mạng. Bởi Người hiểu rất rõ, dưới chế độ thực dân phong kiến, sự cai trị tàn bạo và chính sách “ngu dân” thâm độc của chính quyền thuộc địa đã khiến đại đa số nhân dân Việt Nam trong tình trạng mù chữ, không có hiểu biết về các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là về các quyền tự do, dân chủ mà họ xứng đáng được hưởng. Người cũng xác định giáo dục là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của chế độ mới, khẳng định bản chất ưu việt hơn hẳn của chế độ xã hội chủ nghĩa so với chế độ thực dân phong kiến. 24 Thứ hai, giáo dục còn được Hồ Chí Minh sử dụng với ý nghĩa hẹp hơn là hoạt động tác động đến nhận thức của mỗi người, nhằm bồi dưỡng, nâng cao ý thức trách nhiệm, đạo đức công dân, đặc biệt là đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Với cách tiếp cận giáo dục này, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở các cấp ủy đảng, chính quyền phải chú ý giáo dục cán bộ, đảng viên, công chức trong bộ máy nhà nước và nhân dân nâng cao tinh thần trách nhiệm, tu dưỡng, thực hành đạo đức cách mạng, đồng thời đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân và các biểu hiện quan liêu, tham ô, lãng phí. Chính với ý nghĩa này, ngày 3-9-1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ cách mạng lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu vấn đề chế độ thực dân đã đầu độc dân ta với rượu cồn và thuốc phiện. Nó đã dùng mọi thủ đoạn hòng hủ hóa dân tộc ta bằng những thói xấu, như lười biếng, gian giảo, tham ô và những thói xấu khác. Từ đó, Người cho rằng: “Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập. Tôi đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH”1. _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.7. 25 Khái niệm giáo dục trong một số trường hợp còn được Hồ Chí Minh diễn đạt bằng các khái niệm: trồng người, huấn luyện, đào tạo. Người nêu luận điểm nổi tiếng: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”1. Khi đề cập đến công tác cán bộ, Hồ Chí Minh cũng từng yêu cầu: “Mở lớp huấn luyện là một việc rất tốt, rất cần. Nhưng phải hiểu rằng: học cốt để mà làm. Học mà không làm được, học mấy cũng vô ích. Vì vậy huấn luyện (T.G nhấn mạnh) phải thiết thực, sao cho những người đến học, học rồi, về địa phương họ có thể thực hành ngay. Nhiều đồng chí ta không hiểu cái lẽ rất giản đơn đó”2. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nêu trách nhiệm của các thầy giáo và mục đích ngành giáo dục: “Các thầy giáo có nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang là đào tạo (T.G nhấn mạnh) cán bộ cho dân tộc. Vậy giáo dục cần nhằm vào mục đích là thật thà phụng sự nhân dân”3. 2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của giáo dục Suốt đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt tới sự nghiệp giáo dục. Bởi lẽ, trong quan _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.528. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.343. 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.400. 26 niệm của Người, giáo dục có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng đối với việc xây dựng con người mới, xã hội mới. Trong cả tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh, vị trí, vai trò của giáo dục được thể hiện ở mấy điểm chủ yếu sau: Thứ nhất, giáo dục là bước đầu, phải được ưu tiên phát triển trước hết, không có giáo dục thì cũng không nói gì đến kinh tế, văn hóa. Đây là luận điểm được Hồ Chí Minh nêu ra trên cơ sở phân tích và đúc rút thành bài học từ thực tiễn vận động của cách mạng Việt Nam. Trong thời kỳ nước nhà còn chưa giành được độc lập, Hồ Chí Minh đã khởi đầu sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người chính từ việc tuyên truyền, giáo dục cách mạng để thức tỉnh quần chúng nhân dân ý thức rõ nỗi đau của người dân mất nước và sức mạnh vô cùng to lớn của họ khi được tổ chức lại trong một khối đoàn kết chặt chẽ, từ đó vùng dậy đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng. Người xác định những nhiệm vụ đầu tiên của mình trong công tác lãnh đạo cách mạng là: “trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”1. Từ bài học thất bại của những phong trào đấu tranh yêu nước của các bậc tiền bối, Hồ Chí Minh phê phán _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.209. 27 hiện tượng “xúi dân bạo động”, mà không hướng dẫn cho nhân dân cách tổ chức khoa học, hiệu quả, hoặc “làm cho dân quen tính ỷ lại, mà quên tính tự cường”. Đó đều là những khuynh hướng sai lầm trong công tác lãnh đạo cách mạng, mà nguyên nhân hết sức quan trọng là chưa nhận thức được đầy đủ vị trí, vai trò trước hết của giáo dục cách mạng đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng. Sau ngày chính quyền cách mạng ra đời, trước yêu cầu xây dựng và bảo vệ đất nước, chống lại các thế lực phản cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh càng nhấn mạnh vai trò đi trước của giáo dục. Nói chuyện với các cán bộ giảng dạy và học viên lớp đào tạo hướng dẫn viên các trại hè cấp 1 (ngày 12-6-1956), Người chỉ ra rằng: “Bây giờ xây dựng kinh tế. Không có cán bộ không làm được. Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế văn hóa. Trong việc đào tạo cán bộ, giáo dục là bước đầu”1. Sự phát triển kinh tế, văn hóa của đất nước nhằm không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, làm cho nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc luôn luôn là mục tiêu phấn đấu suốt đời của Hồ Chí Minh. Người quan niệm đó _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.345. 28 chính là giá trị thực, tiêu chí thực của độc lập. Bởi “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”1. Sự phát triển kinh tế, văn hóa được đặt trong một sự nghiệp lớn lao là xây dựng một xã hội mới về chất, cao hơn hẳn xã hội cũ, đó là xã hội cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Để hoàn thành sự nghiệp lớn lao và cao đẹp như vậy, Hồ Chí Minh ý thức rất rõ phải không ngừng phát triển kinh tế, trong đó trọng tâm là nâng cao năng suất lao động, ứng dụng những thành tựu khoa học - kỹ thuật vào trong sản xuất. Đồng thời, phải kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng nền văn hóa nước nhà theo phương châm dân tộc, khoa học, đại chúng. Yếu tố tiên quyết để khoa học - kỹ thuật được ứng dụng vào kinh tế, để các giá trị văn hóa được bảo tồn và nhân lên, chính là phải thông qua giáo dục - đào tạo. Thứ hai, giáo dục giúp mở mang và nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Từ thực trạng nền giáo dục Việt Nam dưới sự thống trị phản động của thực dân Pháp, Hồ Chí Minh đã lên án: ““Làm cho dân ngu để dễ trị”, đó là chính sách mà _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.64. 29 các nhà cầm quyền ở các thuộc địa của chúng ta ưa dùng nhất”1. Bằng ngòi bút sắc bén, Người đã vạch trần bản chất của cái gọi là “khai hóa văn minh” của thực dân Pháp. Chúng “khai hóa văn minh” bằng việc xây dựng nhiều nhà tù, đại lý bán rượu cồn, thuốc phiện hơn rất nhiều lần so với việc xây dựng trường học. Ngay cả với số lượng rất hạn chế, “quá bủn xỉn và nhỏ giọt” những trường học, “tâm địa thực dân” cũng được thể hiện rất rõ trong mục tiêu, nội dung chương trình học. Trường học lập ra không phải để giáo dục cho thanh niên Việt Nam một nền học vấn tốt đẹp và chân thực, mở mang trí tuệ và phát triển tư tưởng cho họ, “mà trái lại càng làm cho họ đần độn thêm”. Những người đến trường đã “được hưởng” một nền giáo dục: “Ngoài mục đích giáo dục để đào tạo tùy phái, thông ngôn và viên chức nhỏ đủ số cần thiết phục vụ cho bọn xâm lược - người ta đã gieo rắc một nền giáo dục đồi bại, xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát nữa, vì một nền giáo dục như vậy chỉ làm hư hỏng mất tính nết của người đi học, chỉ dạy cho họ một lòng “trung thực” giả dối, chỉ dạy cho họ biết sùng bái những kẻ mạnh hơn mình, dạy cho thanh niên yêu một Tổ quốc không phải là Tổ quốc của mình và đang áp bức mình. _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.108. 30 Nền giáo dục ấy dạy cho thanh thiếu niên khinh rẻ nguồn gốc dòng giống mình. Nó làm cho thanh thiếu niên trở nên ngu ngốc. Điều gì có thể rèn luyện được cho học sinh biết suy nghĩ, biết phân tích thì người ta không dạy ở nhà trường. Vấn đề nào có liên quan đến chính trị, xã hội và có thể làm cho người ta tỉnh ngộ đều bị bóp méo và xuyên tạc đi. Có học lịch sử nước Pháp đi nữa, thì người ta không hề đả động đến chương nói về cách mạng. Người ta cấm học sinh đọc tác phẩm của Huygô, Rútxô và Môngtexkiơ. Nói tóm lại, trường học thật là tương xứng với chế độ đã khai sinh ra nó”1. Những người không đến trường thì bị đầu độc bằng các thói hư, tật xấu như rượu chè, cờ bạc, thuốc phiện. Chế độ thực dân phản động đã tìm mọi cách kìm giữ dân tộc Việt Nam trong vòng tăm tối, dốt nát để dễ bề thống trị. Do vậy, gắn liền với cuộc đấu tranh giành độc lập của dân tộc, tự do và hạnh phúc của nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn chú trọng cuộc đấu tranh mở mang, nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân. Người coi dốt nát cũng là một kẻ địch. Kẻ địch này câu kết cùng giặc ngoại xâm chống phá cách mạng Việt Nam. Vì vậy, ngay sau ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, đồng thời với cuộc đấu tranh chống _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.424-425. 31 giặc ngoại xâm và “giặc đói”, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng, Chính phủ chỉ đạo toàn dân khẩn trương diệt “giặc dốt”, trong đó trọng tâm là phát động phong trào Bình dân học vụ. Người kêu gọi tha thiết: “Quốc dân Việt Nam! Muốn giữ vững nền độc lập, Muốn làm cho dân mạnh nước giàu, Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”1. Dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nền giáo dục cách mạng non trẻ của Việt Nam đã góp phần xứng đáng vào công cuộc chấn hưng đất nước, chống thù trong, giặc ngoài, bảo vệ vững chắc chính quyền cách mạng - thành quả cách mạng quan trọng nhất, trước những khó khăn, thách thức tưởng chừng không thể vượt qua. Ý thức rõ sự nghiệp cách mạng là do quần chúng nhân dân tạo ra, nhưng đó không phải là những người dân bất kỳ, mà phải là những người được giáo dục, được giác ngộ và tổ chức, những người vừa có đức, vừa có tài, vì vậy Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc bồi _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.40. 32 dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài. Đối với Người, nguồn lực con người luôn luôn là nguồn lực quan trọng nhất, là nguồn lực của mọi nguồn lực, bảo đảm cho thắng lợi của sự nghiệp cách mạng trong mỗi giai đoạn. Đặc biệt, khi đất nước bước vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội - một sự nghiệp chưa từng có tiền lệ trong lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có những con người xã hội chủ nghĩa. Trong tư tưởng của Người, nhân tố con người với tất cả tố chất như năng lực, hiểu biết, đạo đức là yếu tố then chốt, có tính chất quyết định với thành công của cách mạng, tiền đồ của dân tộc. Nhưng chất lượng nguồn lực con người lại phụ thuộc vào giáo dục, chỉ có thể có được và được bảo đảm thông qua vai trò của giáo dục; muốn có những con người xã hội chủ nghĩa, không có cách thức nào khác ngoài phát huy vai trò của giáo dục xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, Người giao nhiệm vụ cho các thầy cô giáo: “Bây giờ nhiệm vụ giáo dục khác trước. Các cô, các chú có nhiệm vụ rất quan trọng: Bồi dưỡng thế hệ công dân, cán bộ sau này. Làm tốt thì thế hệ sau này có ảnh hưởng tốt. Làm không tốt sẽ có ảnh hưởng không tốt đến thế hệ sau”1. _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.344. 33 Bởi vậy, nền giáo dục mới định hướng và tạo điều kiện cho tất cả mọi người, không phân biệt giai cấp, giàu nghèo, tôn giáo... được học tập, có điều kiện để phát huy năng lực của mình. Nền giáo dục ấy tạo ra những thế hệ công dân, cán bộ có đạo đức, có năng lực, có trình độ, có sức khỏe, kế tục được sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Trong bức thư cuối cùng gửi cho ngành giáo dục nhân dịp khai giảng năm học 1968-1969, một lần nữa, Người khẳng định: “Giáo dục nhằm đào tạo những người kế tục sự nghiệp cách mạng to lớn của Đảng và nhân dân ta”1. Như vậy, với Chủ tịch Hồ Chí Minh, giáo dục - đào tạo con người trở thành một chiến lược nhân văn - cách mạng, có ý nghĩa quan trọng trong quá trình giải phóng và phát triển con người. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đã xem “giáo dục con người” là điểm xuất phát, cũng là động lực chủ yếu với mục tiêu xây dựng con người mang bản chất nhân văn xã hội chủ nghĩa. Sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, cùng với việc tìm người tài đức, tuyển chọn nhân tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng, Nhà nước tích cực chỉ đạo xây dựng các trường đào tạo cán bộ trên toàn quốc nhằm phục vụ sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc. Người nêu quan điểm rất thiết thực, nhưng cũng rất độc đáo: “Cách mạng cũng là một nghề. _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.508. 34 Làm nghề gì cũng phải học, vậy làm cách mạng cũng phải học. Nếu không giáo dục cho đảng viên làm cách mạng mà cứ yêu cầu họ làm cách mạng thì họ không làm tròn được nhiệm vụ”1. Có thể nói, thành công của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác chính là thành công trong việc giáo dục cách mạng cho toàn dân, mở mang và nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài. Với sức mạnh tổng lực của toàn thể nhân dân đã được giác ngộ về quyền độc lập, tự do, hạnh phúc; với đội ngũ những người học trò, cộng sự là những cán bộ nòng cốt, kiên trung của sự nghiệp cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khéo léo tổ chức và hiện thực hóa được khát vọng của Người và dân tộc là đánh đổ ách thống trị ngoại bang, giành lại nền độc lập của đất nước, quyền làm người, quyền làm chủ đích thực của nhân dân, tạo tiền đề thuận lợi để tiếp tục xây dựng xã hội mới ngày càng văn minh, tiến bộ. Thứ ba, sâu sắc hơn cả là Hồ Chí Minh xác định giáo dục nhằm phát triển toàn diện con người, giải phóng triệt để con người. Như đã đề cập, dưới chế độ thực dân nửa phong kiến, do chính sách “ngu dân” hết sức phản động và _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.294. 35 thâm độc, người dân Việt Nam trong xã hội cũ không chỉ bị thống trị, đày đọa về thể xác, mà còn bị nô dịch, tha hóa về tinh thần. “Căn bệnh” dốt nát và những thói hư, tật xấu làm cho đại đa số người dân vốn đã bị kiệt quệ, cơ cực về đời sống vật chất, do sự vơ vét, bòn rút của thực dân Pháp, càng thêm bị điêu đứng, bế tắc về đời sống tinh thần. Xuất phát từ tinh thần yêu nước chân chính, nhiệt thành, từ tấm lòng vì nước, vì dân sâu sắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nỗ lực phấn đấu suốt đời để cứu nước, cứu dân. Người đã nhận thức rõ vai trò không thể thiếu của giáo dục trong sự nghiệp cách mạng vĩ đại và nhân văn. Nếu như việc giành lại nền độc lập nước nhà là sự thủ tiêu ách thống trị của thực dân Pháp đối với dân tộc, mang lại quyền sống, quyền làm người cho nhân dân, thì việc mở mang và nâng cao dân trí thông qua nền giáo dục cách mạng đã thực sự giải phóng tinh thần của nhân dân, đặt người dân vào vị trí xứng đáng là chủ nhân đích thực của đất nước. Dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chỉ trong một thời gian ngắn sau ngày nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, nền giáo dục cách mạng Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng. Sau một năm thực hiện phong trào xóa nạn mù chữ, đã có 75.805 lớp học xóa mù chữ được tổ chức, với sự 36 tham gia giảng dạy của 97.664 người. Có hơn 2,5 triệu học viên đã biết đọc, biết viết. Các trường học từ hệ tiểu học, trung học, đến đại học bắt đầu được khai giảng trở lại. Năm học 1945-1946, chỉ tính riêng ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, đã có 5.654 trường tiểu học được mở, với 206.784 học sinh và 25 trường trung học, với 7.514 học sinh. Ở bậc đại học và cao đẳng, các trường Y khoa, Dược khoa, Cao đẳng kỹ thuật, Cao đẳng công chính, Cao đẳng canh nông, Thú y được mở lại. Đồng thời, trường Đại học Văn khoa, lớp chính trị xã hội được mở thêm1. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục không chỉ đảm nhiệm việc truyền dạy tri thức, học vấn cho con người, mà sâu sắc hơn là nhằm đào tạo ra những con người phát triển toàn diện, “vừa hồng, vừa chuyên”, vừa có tri thức, vừa có lý tưởng, đạo đức, sức khỏe, thẩm mỹ... Do vậy, giáo dục có vai trò hết sức to lớn trong việc cải tạo con người cũ, xây dựng con người mới, gột bỏ những thói hư, tật xấu và trau dồi, hình thành những phẩm chất tốt đẹp. Chính với ý nghĩa như vậy, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Lúc ngủ, mọi người đều có vẻ thuần hậu, Tỉnh dậy, mới phân biệt rõ người thiện kẻ ác; _______________ 1. Xem Lê Mậu Hãn (Chủ biên): Đại cương lịch sử Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1998, t.III, tr.31-32. 37 Thiện, ác vốn chẳng phải là bản tính cố hữu, Phần lớn đều do giáo dục mà nên”1. Sự nghiệp xây dựng xã hội mới đòi hỏi phải có sự nỗ lực tham gia của những con người mới. Hồ Chí Minh nêu lên chân lý: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”2. Để có những con người xã hội chủ nghĩa phải thông qua giáo dục nhằm phát triển con người toàn diện, vừa “hồng” vừa “chuyên” trong thời đại mới. Đó là quá trình rèn “đức”, luyện “tài”, không ngừng vươn lên của mỗi con người, để phát triển toàn diện và hoàn thiện bản thân, để được cống hiến và khẳng định giá trị làm người của bản thân. Đó là quá trình đi tới sự giải phóng triệt để, con người thực sự làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội. Như vậy, với Hồ Chí Minh, giáo dục luôn luôn có vị trí đứng đầu, là quốc sách hàng đầu trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội mới tiến bộ hơn, văn minh hơn. Độc lập, tự do, hạnh phúc của nhân dân, sự hưng thịnh của đất nước không thể trở thành hiện thực nếu không có sự tham gia của giáo dục. Sứ mệnh của giáo dục là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, là động lực của sự phát _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.413. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.66. 38 triển, đưa nước nhà tiến tới giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Đó là sứ mệnh vừa có ý nghĩa trọng đại, vừa mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. 3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về mục tiêu giáo dục Có thể nói, trong việc xây dựng nền giáo dục, việc xác định mục tiêu giáo dục trở thành vấn đề cốt yếu đầu tiên, có ý nghĩa quyết định đến việc xác định nội dung chương trình, phương pháp và những hình thức giáo dục phù hợp. Trong xã hội phong kiến, mục đích của giáo dục là đào tạo những con người thuộc làu kinh sách Nho giáo để ra làm quan cai trị dân. Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, để dễ bề duy trì ách thống trị, chúng thực hiện chính sách “ngu dân”, làm cho đại đa số người dân bị mù chữ. Trong một số lượng nhỏ giọt các trường học, chúng đã xây dựng “một nền giáo dục đồi bại, xảo trá”, với mục tiêu đào tạo ra lực lượng tay sai, phục vụ cho chính quyền thực dân trong công cuộc cai trị và bóc lột thuộc địa. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, chế độ xã hội mới do nhân dân lao động làm chủ ra đời. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “Chế độ khác thì giáo dục cũng phải khác... Mục đích giáo dục bây giờ là 39 phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, đào tạo lớp người, lớp cán bộ mới”1. Nê ̀n giáo dục mới của Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh định hướng phát triển là nê ̀n giáo dục toàn dân, toàn diện, tiên tiến, hiện đại với mục tiêu nhất quán của giáo dục là đào tạo con người mới, đào tạo những công dân hữu ích cho nước nhà, “một nền giáo dục của một nước độc lập, một nền giáo dục nó sẽ đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em”2. “Đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam”, tức là Hồ Chí Minh muốn đề cập đến mục tiêu đào tạo nguồn lực con người cho sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam mới giàu mạnh, để non sông Việt Nam trở nên tươi đẹp, dân tộc Việt Nam bước tới đài vinh quang, sánh vai với các cường quốc năm châu. “Phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em” là nói đến việc phát triển toàn diện con người, biến những tiềm năng của con người trở thành năng lực thực tế, giải phóng thực sự con người, để con người xứng đáng với giá trị làm người, trở thành chủ nhân đích thực của cuộc sống mới, làm chủ tự nhiên và xã hội. _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.344. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.34. 40 Đào tạo những người công dân có ích cho đất nước là giá trị lớn nhất của một nền giáo dục tiến bộ. Tinh thần công dân là tinh thần sống theo pháp luật, đúng kỷ cương phép nước, có ý thức thực hiện bổn phận của người công dân, sống và làm việc có trách nhiệm với cộng đồng xã hội trên cơ sở lòng yêu nước, tự hào dân tộc. Hồ Chí Minh cho rằng, trong xã hội mới, học không phải để kiếm lấy mảnh bằng để làm ông thông, ông ký, hay để đi làm quan mà quan trọng hơn là học để làm người, học để làm việc, học để sửa chữa tư tưởng, học để tu dưỡng đạo đức cách mạng, học để tin tưởng, học để hành, để quyết tâm hy sinh, bền gan chiến đấu đến cùng cho lý tưởng của cách mạng. Đây chính là mục tiêu nền tảng mà Hồ Chí Minh đã xác lập cho nền giáo dục nước Việt Nam mới ngay từ buổi đầu. Theo Hồ Chí Minh, giáo dục cũng là một mặt trận, bởi vậy mục tiêu của giáo dục - đào tạo phải làm sao tiếp tục phát huy giá trị truyền thống dân tộc, bồi dưỡng, hình thành những giá trị mới, đẩy lùi cái xấu, cái yếu kém. Người nhấn mạnh: “cốt nhất là phải dạy cho học trò biết yêu nước, thương nòi. Phải dạy cho họ có chí tự lập, tự cường, quyết không chịu thua kém ai, quyết không chịu làm nô lệ”1, “trong lúc dạy, chớ nên làm cho học trò có tư tưởng vị quốc như bọn phát xít, vị quốc nghĩa là chỉ biết yêu trọng nước mình mà khinh _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.120. 41 ghét nước người... Phải tẩy sạch óc kiêu ngạo, tự phụ, mà giáo dục thực dân còn để lại”1. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bắt đầu sự nghiệp khai sáng cho dân tộc Việt Nam bằng một nền giáo dục toàn diện với mục tiêu tẩy sạch tàn dư của nền giáo dục nô dịch. Có thể nói mục tiêu trọng tâm và xuyên suốt trong tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là xây dựng con người mới. Xuất phát từ yêu cầu cụ thể của mỗi giai đoạn cách mạng khác nhau, mục tiêu này được Người xác định cụ thể cho phù hợp với thực tiễn. Trong thời kỳ chuẩn bị thành lập Đảng, Người tập trung vào việc triển khai các lớp huấn luyện, đặc biệt là tại Quảng Châu - Trung Quốc, nhằm trang bị cho những lớp thanh niên cộng sản đầu tiên hiểu biết cơ bản về chủ nghĩa Mác - Lênin, về phong trào cách mạng thế giới; qua đó nâng cao trình độ nhận thức cho cán bộ về con đường cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Nhiều người trong số đó, như Trần Phú, Lê Hồng Phong, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Lương Bằng... đã trở thành những “hạt giống đỏ”, những nhà lãnh đạo có uy tín của cách mạng Việt Nam, những người học trò, cộng sự gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.120. 42 Cách mạng Tháng Tám thành công, nhiệm vụ cấp thiết đặt ra lúc này là phải giữ vững, củng cố và xây dựng chính quyền, bảo vệ nền độc lập mới giành được, đồng thời với việc xóa bỏ tàn tích của xã hội thực dân, phong kiến, xây dựng đời sống mới cho nhân dân. Để thực hiện được những mục tiêu đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra nhiệm vụ hàng đầu là diệt giặc dốt, nâng cao dân trí. Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ (ngày 3-9-1945), Người nêu rõ: Nạn dốt “Là một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta... Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy tôi đề nghị mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ”1. Người chỉ đạo và quan tâm sát sao đến việc tổ chức, thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp, nhiều quyết sách liên quan đến ngành giáo dục, từ xóa nạn mù chữ, tổ chức bình dân học vụ, bổ túc văn hóa, mở rộng hệ thống trường vừa học, vừa làm, trường bổ túc công nông kết hợp với việc xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống giáo dục quốc dân từ mầm non đến đại học. Giai đoạn toàn quốc kháng chiến và xây dựng nền dân chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi chuyển hướng giáo dục cho phù hợp với nhiệm vụ mới của cách mạng trong giai đoạn đó. Người yêu cầu phải sửa đổi triệt để nội dung chương trình cho phù hợp. Người xác định: _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.7. 43 Học “để nâng cao khả năng và tẩy rửa khuyết điểm”1. “Học để sửa chữa tư tưởng... Học để tu dưỡng đạo đức cách mạng... Học để tin tưởng... Học để hành...”2. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chủ trương giáo dục tập trung xây dựng nền văn hóa, phục vụ cho công cuộc kháng chiến và kiến quốc. Theo Người: “Kháng chiến có thắng lợi thì kiến quốc mới thành công. Kiến quốc có chắc thành công, kháng chiến mới mau thắng lợi. Kiến thiết cần có nhân tài”3. Bởi vậy, nhiệm vụ của giáo dục là phải nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo nhân lực phục vụ cho sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc. Khi miền Bắc bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh nêu lên mục tiêu của giáo dục là “phát triển mạnh để phục vụ yêu cầu của cách mạng”4, đáp ứng nhu cầu của thời kỳ xây dựng chế độ mới. Đây là thời kỳ rất cần những con người có trình độ, đạo đức, tri thức, kỹ năng và khả năng làm chủ xã hội. Nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục là góp phần đào tạo con người mới, con người phát triển toàn diện, có tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có trình độ văn hóa, _______________ 1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.359, 360-361. 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.114. 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.647. 44 khoa học kỹ thuật; những con người có đủ năng lực, phẩm chất để làm chủ cuộc sống của bản thân và làm chủ vận mệnh của quốc gia. Trong đào tạo con người, Hồ Chí Minh đặc biệt nhắc nhở “phải chú trọng dạy đạo đức công dân”1, phải làm sao cho “Nhà trường phải gắn liền với thực tế của nước nhà, với đời sống của nhân dân”, phải tẩy sạch những hiện tượng tiêu cực, những biến tướng trong giáo dục. Trong Thư gửi giáo viên, học sinh, cán bộ thanh niên và nhi đồng (ngày 31-10-1955), Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Trước hết phải ra sức tẩy sạch ảnh hưởng giáo dục nô dịch của thực dân còn sót lại, như: Thái độ thờ ơ đối với xã hội, xa rời đời sống lao động và đấu tranh của nhân dân; học để lấy bằng cấp, dạy theo lối nhồi sọ. Và cần xây dựng tư tưởng: Dạy và học để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Nhà trường phải gắn liền với thực tế của nước nhà, với đời sống của nhân dân. Thầy giáo và học trò, tùy hoàn cảnh và khả năng, cần tham gia những công tác xã hội, ích nước lợi dân”2. Mục tiêu của nền giáo dục cách mạng được Hồ Chí Minh diễn đạt tập trung và hết sức sâu sắc trong Lời ghi ở trang đầu quyển Sổ vàng của Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương - nay là Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: _______________ 1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.126, 185-186. 45 “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự Đoàn thể, “ “ giai cấp và nhân dân, “ “ Tổ quốc và nhân loại”1. Từ chính việc đi ra thế giới, hòa mình vào văn hóa nhân loại và tự học tập “để biết”, để thỏa mãn khát khao tìm hiểu thế giới xung quanh, để khám phá, tìm hiểu phẩm cách, kỹ năng... của loài người, Hồ Chí Minh đã chỉ ra hai tầng quan niệm sau đây: Tầng thứ nhất, học với mục đích tự thân: Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Tầng thứ hai, học với mục đích cao cả: Học để phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại. “Học để làm việc” - học tập phải giúp cho sự sinh tồn của con người. Con người muốn tồn tại trước hết phải làm việc để sống. Dù cho ở trình độ sản xuất nào thì làm việc là hoạt động sống để tồn tại đều phải thông qua học tập dưới mọi hình thức. Xã hội ngày càng phát triển và kỹ năng sản xuất vượt qua việc chỉ học tập kinh nghiệm thì vấn đề học tập kỹ năng làm việc, học tập quan hệ _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.208. 46 làm việc, học tập phương pháp làm việc... không ngừng biến đổi, phát triển, đòi hỏi con người càng phải dành nhiều thời gian, công sức cho việc học tập, để thích ứng với những biến đổi không ngừng đó. Bởi thế, việc học để làm việc vì sự sinh tồn bao giờ cũng là thuộc tầng thứ nhất. Trong tầng quan niệm này, “học để làm việc” là nhằm đáp ứng và thích ứng những yêu cầu có tri thức để làm việc cho sự sinh tồn. Yêu cầu đó không dừng ở sự lặp đi, lặp lại các tri thức vốn có, mà chú trọng tới sự phát triển của tri thức và kỹ năng... để làm việc. Để chuẩn bị cho việc đi ra nước ngoài tìm đường cứu nước, mặc dù được học ở Trường Quốc học Huế danh tiếng, nhưng đến tháng 5-1909, Nguyễn Tất Thành đã bỏ học để theo cha vào Bình Định, và ở đây Người đã học thêm tiếng Pháp với thầy Phạm Ngọc Thọ - giáo viên dạy tại Trường Tiểu học Pháp - Việt Quy Nhơn, theo chương trình lớp cao đẳng (Cours supérieur). Tháng 1-1910, ông Nguyễn Sinh Sắc bị bãi chức Tri huyện Bình Khê (Bình Định) và bị triệu hồi về Huế, Nguyễn Tất Thành vẫn được cha cho ở lại Bình Định để tiếp tục việc học tiếng Pháp với thầy Thọ. Sau đó, đến tháng 9-1910, Người bắt đầu từ Bình Định đi Phan Thiết, rồi đi Sài Gòn, và từ đây, Người rời Tổ quốc, bắt đầu cuộc hành trình gian khổ để tìm đường cứu nước, cứu dân. 47 Trong thời gian ở nước ngoài, sau khi rời Mỹ, Nguyễn Tất Thành tới nước Anh năm 1912, ngoài việc lao động kiếm sống, Người dành hết thời gian cho việc học tiếng Anh. Năm 1917, khi về Pháp, Người lại ôn luyện vốn Pháp văn bằng việc học hỏi và tập viết báo, làm báo, kiếm sống và hoạt động cách mạng. Đến cuối năm 1923, sau khi tới Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc có vào học một lớp ngắn hạn tại Trường Đại học cộng sản của những người lao động Phương Đông1. Đến năm 1934, Người mới vào học ở Trường quốc tế Lênin; và năm 1937, Người là nghiên cứu sinh của Viện nghiên cứu các vấn đề thuộc địa. Nhưng việc học ở hai trường đó là ngoài ý muốn của Người trong thời gian này. Bởi vậy, trên thực tế, trong suốt cuộc đời mình, Nguyễn Ái Quốc chỉ tự học là chính. Người học để làm việc, làm việc phục vụ cho tồn tại và học để phục vụ cho hoạt động cách mạng. Rõ ràng, việc học tập ngoại ngữ của Nguyễn Ái Quốc được đặt lên hàng đầu. Người học ngoại ngữ để làm phương tiện để tự đi ra nước ngoài, để làm việc. Ngoại ngữ là phương tiện giao tiếp đầu tiên phục vụ cho _______________ 1. Nguyễn Ái Quốc đến Liên Xô để tham dự Đại hội Quốc tế Cộng sản, nhưng vì V.I. Lênin đang ốm nặng, Đại hội phải hoãn họp, nên Người đã vào học lớp ngắn hạn của Trường. Đến ngày 14-4-1924, Người nhận quyết định vào làm cán bộ ngoài biên chế của Ban Phương Đông, Quốc tế Cộng sản. 48 các hoạt động để sống của Nguyễn Ái Quốc, bắt đầu từ việc làm phụ bếp trên tàu Đô đốc Latútsơ Tơrêvin, cho đến các hoạt động kiếm sống sau này ở mọi nẻo đường hoạt động cách mạng. Ngoại ngữ giúp cho Người có thể độc lập trong việc đi lại, khảo sát, nghiên cứu, tranh luận và tham gia tất cả các hoạt động chính trị ở nước ngoài, trong những điều kiện cực kỳ khó khăn, kể cả việc thoát khỏi nhà tù của thực dân, đế quốc ở Hồng Kông (1931-1933) và ở nhà tù của Tưởng Giới Thạch (1942-1944). Trong Phiếu Lý lịch dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ VII, năm 1935, Người ghi như sau: Trình độ học vấn: tự học Ngoại ngữ: Pháp, Anh, Nga, Đức, Ý, Trung Quốc, Thái Lan. Không chỉ tự học ngoại ngữ, Nguyễn Tất Thành còn tự học viết báo, tự nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tự nghiên cứu và tiếp thu tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây, văn hóa toàn nhân loại, mà không qua bất kỳ một trường lớp chính quy nào. Người học từ thực tiễn trong hoạt động của phong trào giải phóng dân tộc (từ trong các hoạt động của Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa), trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế (các hoạt động trong Quốc tế III; trong Đảng Xã hội và Đảng Cộng sản Pháp), học cách tổ chức của xã hội dân chủ ở phương Tây (đặc biệt là ở Mỹ, Anh, Pháp - những nơi Người đã từng sống, làm việc và hoạt động) 49 và trong các hoạt động lý luận, thực tiễn của phong trào cách mạng nhiều nước khác (điển hình là ở Liên Xô, Trung Quốc và các nước Đông Nam Á...). Vốn ngoại ngữ tốt đã giúp cho Hồ Chí Minh có thể đọc trực tiếp và hiểu tận gốc lý luận và tri thức văn hóa của nhân loại, của các dân tộc. Và cũng nhờ đó, Người có thể tiếp thu có chọn lọc các giá trị tinh hoa văn hóa nhân loại, mở rộng và làm phong phú tài sản văn hóa của mình. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh có thể lựa chọn và dẫn dắt dân tộc theo một con đường cách mạng đầy sáng tạo để đi đến thành công. Đồng thời, nhờ có ngoại ngữ, Người có thể sống trong lòng nhân dân, bạn bè, đồng chí của các dân tộc trên thế giới. “Học để làm người” - học tập phải giúp cho con người xứng đáng với tư cách người Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, học tập không chỉ dừng ở nội dung để làm việc cho sinh tồn, mà cùng với quá trình đó, học còn để làm người. Học để “làm người” của mỗi con người là quá trình hoàn thiện con người cá nhân. Học tập, trước hết là để phát triển tính người - với đạo đức và tư duy khoa học của con người, để nhờ đó con người có thể giải thích mọi sự vật, hiện tượng một cách khoa học. Trên cơ sở tư duy khoa học, con người có thể đánh giá độc lập, phê phán và tác động tới sự vật, hiện tượng khách quan để phục vụ cho lợi ích của con người... Trên cơ sở năng lực tư 50 duy ấy, con người có thể tự quyết định vận mệnh của mình, hành động của mình trước các hoàn cảnh, điều kiện khác nhau một cách đúng đắn nhất. Bằng cách học tập không ngừng, cả trong lý luận và thực tiễn xã hội, đã giúp Hồ Chí Minh tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại và trên cơ sở đó đã làm giàu tri thức văn hóa, nâng cao tầm trí tuệ và mở rộng tầm nhìn của Người - từ dân tộc đến nhân loại. Chính trên tầm cao, độ rộng của tri thức nhân loại mà Hồ Chí Minh có thể tiếp thu thế giới quan, phương pháp luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, để trên cơ sở đó phân tích và hiểu rõ quy luật tiến hóa của loài người, của xã hội Việt Nam. Người đã thấy được những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu trong xã hội Việt Nam và đề ra phương thức giải quyết đúng đắn, khoa học, phù hợp với dân tộc và xu hướng tiến hóa của nhân loại và thời đại. Bằng con đường tự học, Hồ Chí Minh đã đạt tới mức thấu hiểu sâu sắc sự tương đồng và khác biệt giữa triết lý phương Tây với triết lý phương Đông. Đồng thời, từ nhiều con đường phát triển của các dân tộc trên thế giới đã trải nghiệm, Người đã phát hiện ra và hướng cho dân tộc mình con đường tự giải phóng đúng đắn, và lãnh đạo tổ chức, xây dựng xã hội mới thích hợp nhất với dân tộc Việt Nam, hòa nhập vào dòng tiến hóa chung của nhân loại mà đích của nó là sự giải phóng 51 triệt để con người và vì một nền hòa bình bền vững trên thế giới. Việc học tập của Hồ Chí Minh không phải vì sự uyên bác tri thức hoặc giành địa vị xã hội mà chính là để tìm con đường cứu nước, cứu dân - con đường mà biết bao bậc tiền bối đã đổ xương máu tìm kiếm nhưng “trăm thất bại không một thành công”. Người học để mưu tìm “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”1. Người học để đạt đến giá trị làm người cao nhất, đó là hành động vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại khỏi khổ đau, giải phóng tất cả mọi người khỏi những bất công trên trái đất này. “Học để làm cán bộ” - học tập phải giúp cho con người vươn lên Theo Hồ Chí Minh, học để “làm cán bộ” là nấc thang mới phải được hình thành trên cơ sở của nấc thang học để làm việc và học để làm người. Học để làm cán bộ chỉ có thể có trên cơ sở kết quả của người đã biết làm việc, đã biết làm người đúng với ý nghĩa cao cả của nó. Như vậy, học để làm cán bộ là ở _______________ 1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.1, tr.112. 52 mức độ cao để con người cụ thể có thể đảm nhận được vai trò, trách nhiệm trước xã hội. Dẫn dắt đồng bào trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, người cán bộ lãnh đạo phải có đủ phẩm chất cách mạng. Trước hết, đó là đạo đức cách mạng, và cùng với đó là năng lực tổ chức, năng lực chuyên môn để có thể giác ngộ, tổ chức, hướng dẫn nhân dân trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội mới. Những phẩm chất ấy không phải tự nhiên mà có được. Nó phải được bồi đắp bởi quá trình học tập, rèn luyện lâu dài, cả cuộc đời, trong lý luận và nhất là trong thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội mới. Chúng ta hiểu tại sao, ở mỗi thời kỳ cách mạng, Hồ Chí Minh lại có những quan tâm mới đến vấn đề phẩm chất của người cán bộ, mà trước hết là đạo đức cách mạng. Trong sách Đường cách mệnh xuất bản năm 1927, vấn đề đầu tiên Người đề cập là vấn đề Tư cách một người cách mệnh. Trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của dân tộc, năm 1947, trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Người nêu lên nội dung bao hàm tất cả những vấn đề phẩm chất mà người cán bộ phải có. Trong công cuộc xây dựng xã hội mới đi lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh lại quan tâm đến vấn đề Đạo đức cách mạng... 53 Có thể nói, theo quan niệm của Hồ Chí Minh, học để làm cán bộ không chỉ để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng mà còn phải đạt tới mức độ cao hơn, đó là làm gương cho người khác, cho nhân dân, nêu gương đạo đức và nêu gương thực hiện các nhiệm vụ được giao. Làm cán bộ là nói tới năng lực tiên phong mà con người phải phấn đấu mới có được. “Học để phụng sự” - học tập phải giúp cho con người hướng đích Hồ Chí Minh đặt câu hỏi: “Học để phụng sự ai?”. Đối với người học nói chung, Người đã trả lời: “Để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân giàu, nước mạnh, tức là để làm trọn nhiệm vụ người chủ của nước nhà”1. Nhưng đối với cán bộ, đảng viên, lời dạy của Người là: Học để phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại. Đây là nấc thang mới mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên trong mục đích học tập cho mọi người nói chung và cho cán bộ, đảng viên nói riêng. Đối với mọi người, học là “để làm tròn nhiệm vụ của người chủ nước nhà”. Từ là chủ, đến làm chủ là những thang giá trị khác nhau, mức độ khác nhau của người dân, _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.179. 54 trong đó thang “làm chủ” là thang bậc hoàn chỉnh, phụ thuộc vào năng lực chủ quan của con người. “Là chủ” được xác định bởi Hiến pháp và pháp luật, nhưng con người chỉ có thể “làm chủ” khi có đủ năng lực tham gia vào việc quản lý xã hội, quản lý đất nước. Bởi vậy, con người là chủ và làm chủ phải có năng lực bản thân - đó là trí tuệ, trách nhiệm và bản lĩnh, mới có thể thật sự là người “làm chủ”. Đối với đảng viên, trước hết, học để phụng sự Đảng, vì những mục tiêu của Đảng, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và học để phụng sự Tổ quốc và nhân loại. Cần nhìn nhận như vậy để thấy rõ thứ tự những nấc thang của giáo dục. Đó là định hướng việc giáo dục và học tập cho con người nói chung và đảng viên nói riêng. Có thể nói, theo quan niệm của Hồ Chí Minh, học tập với nội dung cụ thể là để phụng sự, để hình thành con người mới, con người cộng sản theo đúng nghĩa cao cả của nó. Từ sự phân tích ở trên, nếu nhìn nhận theo cách phân tầng, thì tầng thứ nhất là tầng giáo dục với nội dung nhằm tới mục đích tự thân. Đó là học để con người có thể làm việc để tồn tại, để làm người đúng nghĩa làm người, để làm cán bộ xứng đáng với vai trò và trách nhiệm của cán bộ. Tầng thứ hai, cao hơn và có xuất phát điểm từ sự hoàn thiện bản thân con người 55 của tầng thứ nhất mà có được. Đó chính là tầng quan niệm nội dung giáo dục bảo đảm cho người học “học để phụng sự”, với ý nghĩa vĩ đại, cao cả nhất. Có thể nói rằng, khái niệm học để phụng sự của Hồ Chí Minh có ý nghĩa lớn lao hơn khái niệm ngày nay cho rằng “học để chung sống”. Đó cũng là định hướng cho nội dung giáo dục hiện nay. Nhưng cũng có thể hiểu, theo một nghĩa nào đó, học để phụng sự đồng nghĩa với khái niệm học để chung sống, nhưng chung sống ở tầm trách nhiệm cao nhất của con người, theo nghĩa Mình vì mọi người và mọi người vì mình. 4. Quan điểm của Hồ Chí Minh về nội dung giáo dục Trong nội dung giáo dục, Hồ Chí Minh quan tâm đến tính toàn diện, bao gồm cả năng lực và phẩm chất của người học. Người đòi hỏi mỗi người dân dưới chế độ mới phải có cả tài lẫn đức, trong đó đức là nền tảng cho sự phát triển nhân cách. Tháng 8-1960, trong Thư gửi các cán bộ giáo dục, học sinh, sinh viên các trường và các lớp bổ túc văn hóa, Người chỉ rõ: “Trong việc giáo dục và học tập, phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động và sản xuất”1. _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.647. 56 Đây là những nội dung giáo dục hết sức căn bản, gắn bó chặt chẽ với nhau, làm nền tảng cho sự phát triển của con người Việt Nam. 4.1. Giáo dục chính trị, tư tưởng Giáo dục chính trị, tư tưởng là một trong những nội dung căn bản trong tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh, có vai trò quyết định sự thành công của sự nghiệp cách mạng. Người quan niệm: Phải có chính trị trước rồi có chuyên môn. Thống nhất chính trị, tư tưởng sẽ thống nhất hành động. Không có chính trị, tư tưởng thì dễ “tả” khuynh, hoặc hữu khuynh. Theo Hồ Chí Minh, chính trị là linh hồn, chuyên môn là cái xác. Có chuyên môn mà không có chính trị thì chỉ còn cái xác không hồn. Chính trị, tư tưởng làm cho người học tin tưởng vào Đảng, vào nhân dân, vào tương lai tươi sáng của cách mạng. Giáo dục chính trị, tư tưởng sẽ giúp khắc phục tư tưởng lạc hậu, nâng cao tinh thần tự giác, tính tích cực của người học. Đào tạo con người xã hội chủ nghĩa thì trước hết phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Nội dung giáo dục chính trị, tư tưởng là truyền bá lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin - “Khoa học về các quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội; khoa học về cách mạng của quần chúng bị áp bức và bị bóc lột; khoa học về thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở tất cả các nước; 57 khoa học về xây dựng chủ nghĩa cộng sản”1. Người chỉ rõ vai trò của lý luận: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”2. Với Hồ Chí Minh, giáo dục, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin không phải là học thuộc lòng từng câu, từng chữ, mà phải học tập tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin, học lập trường, quan điểm và phương pháp biện chứng, để áp dụng sáng tạo lập trường, phương pháp ấy, nhằm giải quyết có hiệu quả những vấn đề phát sinh trong thực tiễn cách mạng. Người từng nhắc nhở: “để giải quyết đúng các vấn đề, thì chúng ta phải cố gắng học tập lý luận Mác - Lênin. Có học tập lý luận Mác - Lênin mới củng cố được đạo đức cách mạng, giữ vững lập trường, nâng cao sự hiểu biết và trình độ chính trị, mới làm được tốt công tác Đảng giao phó cho mình”3. Người cũng nêu lên mối liên hệ giữa lý luận với thực tế và yêu cầu học thì phải hành..., “Phải chữa cái bệnh kém lý luận, khinh lý luận và lý luận suông”4. Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng cho rằng phải học đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước. _______________ 1, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.96, 610-611. 2, 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.273-274, 275. 58 Bởi đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước là sự vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn xã hội của đất nước trong từng thời kỳ lịch sử. Người giải thích “có nắm vững đường lối cách mạng... mới hiểu rõ mình phải làm gì và đi theo phương hướng nào để thực hiện mục đích của Đảng trong giai đoạn cách mạng hiện nay”1. Người cũng cho rằng để giáo dục chính trị, tư tưởng có hiệu quả cao, công tác giáo dục lý luận phải có nhiều hình thức, được cụ thể hóa, phù hợp với từng cấp học, ngành học, phù hợp với chương trình và mục tiêu đào tạo. 4.2. Giáo dục đạo đức Trong giáo dục, Hồ Chí Minh rất coi trọng giáo dục đạo đức. Phê phán nền giáo dục thực dân phong kiến, Người nói: “Dưới chế độ thực dân phong kiến, mục đích đi học là cốt được mảnh bằng để làm ông thông, ông phán, lĩnh lương nhiều, ăn ngon, mặc đẹp. Thế thôi, số phận dân tộc thế nào, tình hình thế giới biến đổi thế nào, không hay, không biết gì hết”2. Dưới chế độ mới, Người đòi hỏi mỗi học viên trong nhà trường Việt Nam xã hội chủ nghĩa phải có cả đức lẫn tài, trong đó đức là gốc, là nền tảng cho sự phát triển lành mạnh và toàn diện. _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.115. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.178. 59 Theo Người: “giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?”1. Cho nên, Người thường khích lệ, động viên giáo viên và những cán bộ giáo dục phải bồi dưỡng cho thế hệ trẻ tình cảm tốt đẹp, ý thức tập thể, lối sống thật thà, khiêm tốn, trung thực; biết xử sự có văn hóa. Đạo đức cách mạng không phải là cái sẵn có trong mỗi con người, cũng không phải từ trên trời sa xuống, mà do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mới có được. Bởi vậy, Hồ Chí Minh nêu lên một yêu cầu rất quan trọng đối với ngành giáo dục: “Trong giáo dục không những phải có tri thức phổ thông mà phải có đạo đức cách mạng”2. Tại Hội nghị tổng kết phong trào thi đua “dạy tốt, học tốt”, tháng 8-1963, Người nhấn mạnh: “Nội dung giáo dục cần chú trọng hơn nữa về mặt đức dục. Dạy cho các cháu đạo đức cách mạng, biết yêu Tổ quốc, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu khoa học, yêu lao động và người lao động, thật thà, dũng cảm, sẵn sàng tham gia lao động và bảo vệ Tổ quốc”3. Việc giáo dục đạo đức phải được ưu tiên trong nội dung chương trình, thời _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.292-293. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.345. 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.746. 60 gian học, kết hợp giáo dục đạo đức trong các môn học, trong cuộc sống sinh hoạt và công tác hằng ngày để hoàn thiện nhân cách con người. Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, trên cơ sở kế thừa những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc và quan điểm đạo đức của các nhà tư tưởng tiến bộ, Hồ Chí Minh đã xây dựng hệ thống các chuẩn mực đạo đức, xác lập thang giá trị đạo đức chung, hình thành nhân cách của con người Việt Nam mới. Trong đó, Người khẳng định trước hết và quan trọng nhất là giáo dục cho mỗi người và toàn dân tộc phẩm chất “trung với nước, hiếu với dân”, tức là phải trung thành với sự nghiệp cách mạng, phấn đấu vì sự nghiệp đấu tranh cho độc lập dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Bên cạnh đó, cần phải giáo dục đức tính cơ bản cần có của con người là Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Cùng với việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng phẩm chất tốt đẹp nhất thiết phải chống lại biểu hiện sai trái của chủ nghĩa cá nhân. Đối với từng lứa tuổi, ngành, giới khác nhau, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên nội dung giáo dục đạo đức cụ thể, phù hợp với mỗi thành phần nhất định. Với cán bộ, nói chuyện tại Đại hội III Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam, Người chỉ rõ: “Đạo đức cách mạng là bất kỳ ở cương vị nào, bất kỳ làm công việc gì, đều không sợ khó, không sợ khổ, đều một lòng một dạ 61 phục vụ lợi ích chung của giai cấp, của nhân dân, đều nhằm mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội”1. Đối với trí thức, Người nêu lên yêu cầu: “Đảng và Chính phủ phải giúp bằng cách giáo dục, để trí thức có lập trường vững vàng, quan điểm đúng đắn, tư tưởng sáng suốt, tác phong dân chủ. Nói tóm lại: Giúp đỡ các bạn trí thức chính tâm và thân dân”2. Đối với học sinh, sinh viên, Hồ Chí Minh xác định nội dung giáo dục đạo đức, rèn luyện nhân cách theo các mục tiêu là yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, phải thực hiện đức tính trong sạch, chất phác, hăng hái, cần kiệm3. Người khuyên học sinh, sinh viên phải có động cơ học tập đúng đắn, để xứng đáng với vai trò làm chủ nước nhà. Trả lời câu hỏi “Học để phụng sự ai?”, Người khẳng định: “Để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân giàu, nước mạnh, tức là để làm trọn nhiệm vụ người chủ của nước nhà. Học phải đi đôi với hành: Khi ở nhà, phải thương yêu cha mẹ, giúp đỡ cha mẹ về công việc, giúp đỡ về tinh thần (học được điều gì về tình hình trong nước và thế giới thì nói lại cho cha mẹ nghe). _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.90. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.378. 3. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.178-179. 62 - Ở trường thì phải đoàn kết, giúp đỡ anh chị em, thi đua học tập. Phải đoàn kết giữa thầy và trò, làm cho trường mình luôn luôn tiến bộ. - Ở xã hội: các cháu có thể giúp được nhiều việc có ích. Thí dụ: tuyên truyền vệ sinh, giúp đỡ các em nhi đồng, xung phong dạy bình dân học vụ, v.v..”1. 4.3. Giáo dục văn hóa, trình độ chuyên môn Cùng với việc giáo dục đạo đức, giáo dục văn hóa, chuyên môn nhằm bồi dưỡng năng lực nhận thức, phát triển trí tuệ, nâng cao trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ cho con người được Hồ Chí Minh hết sức coi trọng. Người cho rằng: “Trên nền tảng giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng tốt, phải phấn đấu nâng cao chất lượng văn hóa và chuyên môn nhằm thiết thực giải quyết các vấn đề do cách mạng nước ta đề ra và trong một thời gian không xa, đạt những đỉnh cao của khoa học và kỹ thuật”2. Sớm nhận thức được tầm quan trọng của văn hóa, Hồ Chí Minh xác định văn hóa là một mặt căn bản của xã hội, là một trong những mục tiêu, nhiệm vụ của việc xây dựng con người mới có tri thức và trình độ. Đặc biệt với Việt Nam, xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa nửa phong kiến với nền kinh tế _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.179. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.507. 63 nông nghiệp lạc hậu là một cuộc đấu tranh cách mạng khó khăn, lâu dài, gian khổ. Nhận thức sâu sắc điều này, ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, tại phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, Người nêu lên yêu cầu cấp thiết: phải diệt nạn dốt và coi nạn dốt cũng là kẻ thù nguy hiểm, không kém gì nạn đói và nạn ngoại xâm. Năm ngày sau khi nước nhà giành độc lập, ngày 8-9-1945, Hồ Chí Minh ký ba sắc lệnh quan trọng về giáo dục, trong đó có sắc lệnh “cưỡng bách học chữ quốc ngữ không mất tiền”. Người cũng làm cho toàn dân thấm nhuần tư tưởng muốn cho Việt Nam “dân mạnh, nước giàu”, “dân cường, nước thịnh” thì phải quyết tâm học tập, phải làm cho dân tộc Việt Nam trở thành một dân tộc thông thái. Cùng với việc xây dựng con người mới về tư tưởng, chính trị, đạo đức, Hồ Chí Minh rất quan tâm việc đào tạo và nâng cao trình độ kiến thức chuyên môn cho mọi người, bởi công việc xây dựng đất nước ngày càng nhiều, càng mới, khó khăn hơn, to lớn hơn, phức tạp hơn. Người nêu ví dụ: “Nếu ta muốn dùng máy móc mà máy móc ngày một thêm tinh xảo, thì công nhân cũng phải có trình độ kỹ thuật rất cao không kém gì kỹ sư, phải biết tính toán nhiều”1. Hồ Chí Minh _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.388. 64 xác định một trong những nhiệm vụ trọng yếu trong xây dựng xã hội mới là: “Quyết tâm đi sâu vào khoa học - kỹ thuật và nghiệp vụ, phát huy tinh thần sáng tạo, dám nghĩ dám làm, ra sức học tập và vận dụng tốt sáng kiến và kinh nghiệm tiên tiến, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả chiến đấu”1. Đối với thanh niên, Hồ Chí Minh yêu cầu cần giáo dục cho họ tình yêu lao động, quý trọng người lao động, có ý thức kỷ luật lao động, tinh thần dám nghĩ, dám làm, nhẫn nại, sáng tạo trong lao động. Một trong những nội dung giáo dục văn hóa, kỹ thuật được Hồ Chí Minh đề cập là bồi dưỡng nâng cao kiến thức các môn khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, kỹ thuật để người học có kiến thức toàn diện, tham gia tốt nhất vào sự nghiệp xây dựng nước nhà. Người nêu yêu cầu cụ thể đối với nội dung của từng cấp học. Đối với đại học thì chú ý “cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức học tập lý luận và khoa học tiên tiến của các nước bạn, kết hợp với thực tiễn của nước ta, để thiết thực giúp ích cho công cuộc xây dựng nước nhà”2. Đối với cấp trung học phổ thông, Người lưu ý việc “cần đảm bảo cho học trò những tri thức phổ thông chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.111. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.186. 65 dựng nước nhà, bỏ những phần nào không cần thiết cho đời sống thực tế”1. Còn với cấp tiểu học thì tập trung dạy làm người, cụ thể là “giáo dục các cháu thiếu nhi: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công”2. Đối với lứa tuổi này, Hồ Chí Minh chú ý đến việc phát triển cá tính của trẻ, “chớ gò ép thiếu nhi vào khuôn khổ của người lớn. Phải đặc biệt chú ý giữ gìn sức khỏe của các cháu”3. Tư duy Hồ Chí Minh về giáo dục chuyên môn là hết sức hiện đại. Đó là kiểu tư duy “thực dạy, thực học”, không ôm đồm, nhồi nhét kiến thức, một kiểu tư duy mà các nền giáo dục tiên tiến hiện nay đang thực hiện rất hiệu quả. 4.4. Giáo dục thể chất, sức khỏe và thẩm mỹ Hồ Chí Minh coi sức khỏe như là một quyền sống cao nhất của con người. Sức khỏe là hạnh phúc của mỗi người, của cả dân tộc. Dân cường, nước mới thịnh. Người chỉ rõ: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới làm thành công. Mỗi một người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân mạnh khỏe tức là cả nước mạnh khỏe”4. _______________ 1, 2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.186. 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.241. 66 Hồ Chí Minh chủ trương đưa giáo dục thể chất vào trường học từ rất sớm. Năm 1941, sau khi về nước, một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Người là vấn đề giáo dục thế hệ trẻ. Trong mười chính sách lớn của Mặt trận Việt Minh, có đề cập đến việc xây dựng nền giáo dục quốc dân mới, trong đó có giáo dục thể chất “Khuyến khích và giúp đỡ nền giáo dục quốc dân làm cho nòi giống ngày thêm mạnh”1 và nhi đồng “Được Chính phủ săn sóc đặc biệt về thể dục và trí dục”2. Cách mạng Tháng Tám thành công, với cương vị là Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh nhắc nhở cán bộ và các cơ quan chức năng bốn việc cần quan tâm, đó là: công tác phòng bệnh, công tác thể dục thể thao, công tác vệ sinh và thực hiện đời sống mới. Người cho rằng, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới làm thành công. Người chỉ rõ, giáo dục thể chất là một mặt cần thiết, quan trọng như các mặt giáo dục khác. Hơn nữa, giáo dục thể chất có vai trò tiền đề cho các hoạt động giáo dục khác, bởi nó đem lại cho tuổi trẻ sức khỏe - vốn quý báu nhất của con người. Có sức khỏe tốt thì mới bảo đảm giáo dục trí, mỹ, đức đạt hiệu quả cao nhất. Bởi vậy, phải đưa thể chất trở thành môn học _______________ 1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.631. 67 chính thức trong nhà trường và phải thực sự coi trọng môn học này. Người khuyên bảo thiếu nhi, học sinh hãy “siêng tập thể thao cho mình mẩy được nở nang”1, phải học giỏi không chỉ các môn văn hóa, mà cả môn giáo dục thể chất. Giáo dục thể chất học đường không chỉ rèn luyện sức khỏe cho học sinh, mà còn là nơi phát hiện và bồi dưỡng những vận động viên thể thao có triển vọng từ tuổi thiếu nhi, cung cấp những tài năng thể thao cho nước nhà. Đầu năm học 1946-1947, khi đến thăm Trường trung học phổ thông Nguyễn Trãi, Người khuyên học sinh phải làm theo lời dạy của Lênin: học sinh Liên Xô phải học giỏi ba thứ: tiếng Nga, toán và thể dục. Ngày 27-3-1946, Người ký Sắc lệnh thành lập Nha Thanh niên và Thể dục thuộc Bộ Quốc gia giáo dục nhằm triển khai công tác giáo dục thể chất trong học sinh, thanh thiếu niên cả nước. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc của Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam ngày 2-11-1956, Người căn dặn đoàn viên, thanh niên: “Phải rèn luyện thân thể cho khỏe mạnh. Khỏe mạnh thì mới có đủ sức để tham gia một cách dẻo dai bền bỉ những công việc ích nước lợi dân”2. _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.15. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.440. 68 Cùng với giáo dục thể chất, giáo dục thẩm mỹ là nội dung giáo dục quan trọng được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập từ sớm, thể hiện quan điểm giáo dục hiện đại, tiến bộ của Người. Giáo dục thẩm mỹ, về bản chất của nó, là hình thành ở mỗi con người quan niệm về cái đẹp, nhu cầu thưởng thức và nâng cao năng lực cảm thụ, sáng tạo ở con người. Cùng với các nội dung khác, làm tốt công tác giáo dục thẩm mỹ sẽ thúc đẩy mạnh mẽ việc hình thành nhân cách con người, hướng con người vào cái thiện, cái đẹp để không ngừng tự hoàn thiện mình. Hồ Chí Minh cho rằng: “Mỹ dục: Để phân biệt cái gì là đẹp, cái gì là không đẹp”1. Chữ “mỹ” nghĩa là tốt đẹp. Mà trong xã hội, không gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ nhân dân. Cho nên, giáo dục thẩm mỹ không chỉ là giáo dục năng khiếu, giáo dục nghệ thuật, mà còn là việc bồi dưỡng trình độ văn hóa thẩm mỹ và nhu cầu xây dựng cuộc sống theo cái đẹp, hình thành lối sống cao đẹp, có tinh thần trách nhiệm và thái độ phục vụ nhân dân của con người. Người nêu rõ: “Muốn hoàn thành nhiệm vụ được tốt thì chúng ta phải học tập, chúng ta phải trau dồi tư tưởng, trau dồi nghệ thuật”2. _______________ 1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.175, 513. 69 5. Quan điểm của Hồ Chí Minh về phương châm, phương pháp giáo dục 5.1. Phương châm giáo dục Một là, giáo dục cho tất cả mọi người. Hồ Chí Minh luôn coi giáo dục là một mặt trận quan trọng và học tập là quyền lợi của mọi người dân. Lý tưởng kiến tạo “nền giáo dục cho tất cả mọi người” đã được Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh sớm đề ra và luôn hướng tới trên con đường cách mạng của mình. Năm 1919, thay mặt những người Việt Nam yêu nước, Nguyễn Ái Quốc đã gửi bản Yêu sách tám điểm tới Hội nghị Vécxây, trong đó điểm thứ sáu ghi rõ, phải có quyền “tự do học tập” ở Việt Nam. Tự do học tập là một tư tưởng lớn về giáo dục, khẳng định giữa các giai tầng không hề có sự cách biệt về quyền được học tập; học tập, giáo dục không phải là quyền, là đặc ân của riêng một tập đoàn người, hay một cá nhân nào, mà là quyền chung, quyền cơ bản của tất cả mọi người, không phân biệt giai cấp, tầng lớp, lứa tuổi, giới tính trong xã hội. Ngày 18-2-1930, trong Báo cáo viết bằng tiếng Anh gửi Quốc tế Cộng sản, đề cập về đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc nêu rõ “To make Education for All” (Giáo dục cho mọi người). Hội nghị giáo dục thế giới năm 1990 họp ở Jomtien, Thái Lan 70 đã đưa ra đúng khẩu hiệu trên. Ngày nay, Education for All - viết tắt là EFA là đường lối giáo dục chung của thế giới. Ngày 21-1-1946, trả lời các nhà báo nước ngoài, Hồ Chí Minh khẳng định, Người chỉ có một sự ham muốn, “ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”1. Nguyện vọng của Người thể hiện rõ, Người không chỉ chủ trương mang lại một nền giáo dục tốt đẹp cho mọi người, mà còn để giáo dục đến với từng cá nhân trong xã hội. Ngày nay, trong thời đại văn minh công nghiệp, công nghệ thông tin ngày càng phát triển, càng cần thực hiện một cách nghiêm túc hơn tư tưởng trên, làm cho văn hóa - giáo dục ngày càng thuộc về số đông nhân dân, đồng thời văn hóa - giáo dục cũng phải đến với mỗi con người ở bất kỳ nơi đâu. Hai là, lý luận gắn với thực tiễn, học đi đôi với hành, học tập kết hợp với lao động, sản xuất. Kế thừa truyền thống dân tộc và quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sự thống nhất biện chứng giữa lý thuyết với thực hành, lý luận với thực tiễn, trong sự nghiệp xây dựng nền giáo dục mới của dân tộc, Chủ tịch _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.187. 71 Hồ Chí Minh luôn coi trọng sự thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, học đi đôi với hành, học tập kết hợp với lao động và sản xuất. Lý luận gắn với thực tiễn là nguyên lý mang tính chất xuyên suốt trong tư tưởng và cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh. Người khẳng định: “Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”1. Trong giáo dục, Người nhấn mạnh tầm quan trọng của lý luận đi đôi với thực tiễn. Nội dung xuyên suốt trong triết lý giáo dục con người của Hồ Chí Minh là giáo dục gắn liền với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh không dùng khái niệm “thực học, thực nghiệp” nhưng tư tưởng của Người về “giáo dục liên kết với đời sống của nhân dân, với công cuộc kháng chiến và kiến quốc của dân tộc”2 đã phản ánh nội dung đó. Theo Hồ Chí Minh, học là để làm người, làm việc, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân giàu, nước mạnh; học là để lấy cái thực chất, tiếp thu kiến thức, từ đó vận dụng vào thực tiễn cuộc sống chứ không phải có tấm bằng để “lòe” người khác, cũng không phải để “nói mép”. _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.95. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.139. 72 Mục đích của học là để hành, để phát triển, để sống. Học là hoạt động nhận thức tích cực, chủ động của cá nhân nhằm chuyển những di sản văn hóa của nhân loại thành vốn hiểu biết của bản thân và nhờ vậy giúp biến đổi thái độ, hành vi. Hành không chỉ là vận dụng những điều đã học, mà còn là nguồn gốc của tri thức mới, là biện pháp rèn luyện con người một cách toàn diện. Vì vậy, “Học đi đôi với hành”1. Học mà không hành, không áp dụng vào thực tế khác nào chiếc hòm đựng đầy sách, hành mà không học thì hành không trôi chảy. Học và hành là hai khâu của quá trình nhận thức, gắn bó khăng khít với nhau. Theo Hồ Chí Minh, chỉ khi thực hiện được học đi đôi với hành, thì người học mới rèn luyện được cả tri thức, lẫn kỹ năng thực hành; mới gắn liền tri thức với thực tiễn xã hội, với lao động, sản xuất phong phú. Đây chính là điểm khác biệt căn bản của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa so với nền giáo dục thực dân phong kiến trước đó. Nó thể hiện tính khoa học và cách mạng trong quan điểm giáo dục của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh phê phán lối học vẹt, lối dạy sách vở, biến con người thành những con mọt sách, lối nói suông văn hoa, chữ nghĩa mà không có tác dụng gì. Ngày 21-10-1964, nói chuyện với cán bộ giảng dạy và sinh viên của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Người khuyên: _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.90. 73 “Các cháu học sinh không nên học gạo, không nên học vẹt... Học phải suy nghĩ, học phải liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học với hành phải kết hợp với nhau”1. Học lý luận, học các môn học phải lấy thực tiễn làm ví dụ, minh họa, chứng minh cho sự đúng đắn của lý luận. Người luôn căn dặn giáo viên và học sinh cần gắn việc dạy học với thực tế của cuộc sống, với đời sống của nhân dân. Giáo viên và học sinh cần tham gia những công tác xã hội ích nước lợi dân. Tháng 9-1945, trong Thư gửi các học sinh, Hồ Chí Minh khuyên các em thiếu niên: “Ngoài giờ học ở trường, tham gia vào các Hội cứu quốc để tập luyện thêm cho quen với đời sống chiến sĩ và để giúp đỡ một vài việc nhẹ nhàng trong cuộc phòng thủ đất nước”2. Với các em nhỏ, Người khuyên: “Từ 5 đến 10 cháu tổ chức thành một đội, giúp nhau học hành. Khi học rảnh, mỗi tuần mấy lần cả đội đem nhau đi giúp đồng bào”3. Theo Hồ Chí Minh, giáo dục gắn liền với xã hội cũng chính là nhằm thực hiện gắn học với hành. Đây là điều kiện để thế hệ trẻ đem vốn hiểu biết tiếp thu được phục vụ cuộc sống, phục vụ xã hội, là điều kiện cần thiết để _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.402. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.35. 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.477-478. 74 giáo dục lý tưởng, rèn luyện đạo đức, trách nhiệm, ý thức công dân cho thế hệ trẻ. Trong giai đoạn hiện nay, nắm vững phương châm “học đi đôi với hành”, học để làm việc, để phục vụ thiết thực cho cuộc sống, sẽ giúp giải quyết hiệu quả những tồn tại về sự mất cân bằng trong quy mô đào tạo giữa các bậc trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học dẫn đến tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ”, tình trạng đào tạo mà không sử dụng được, đào tạo một nghề, khi ra trường lại làm một công việc khác; giúp khắc phục tình trạng chất lượng đào tạo không đáp ứng được yêu cầu thực tế, nhất là không đủ trình độ hội nhập với khu vực và quốc tế. Ba là, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Hồ Chí Minh nhận thấy, “trồng người” là sự nghiệp vẻ vang nhưng rất công phu, bền bỉ, khó khăn, phải có sự phối hợp của nhiều lực lượng mới đạt kết quả tốt. Trong Thư Gửi các em học sinh, đăng trên Báo Nhân dân, ngày 24-10-1955, Người viết: “Giáo dục các em là việc CHUNG của gia đình, trường học và xã hội. Bố mẹ, thầy giáo và người lớn phải cùng nhau phụ trách; trước hết là phải làm gương mẫu cho các em trước mọi việc”1. _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.175. 75 Trong Bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ Đảng ngành giáo dục (họp từ ngày 3 đến ngày 8-6-1957, tại Hà Nội), Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. “Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn”1. Người luôn luôn đánh giá cao vai trò của nhà trường, gia đình và xã hội trong việc giáo dục thế hệ trẻ. Gia đình là nơi đem đến cho con người những bài học đầu tiên và thường xuyên, liên tục từ lúc sinh ra đến tuổi trưởng thành qua lời ru của mẹ, tình thương và tấm gương, lời khuyên bảo của ông bà, cha mẹ, anh chị... Gia đình còn là một trong những cội nguồn tạo ra giá trị đạo lý, nhân cách, văn hóa cho con người, nơi hình thành và phát triển tư duy, tình cảm, trí tuệ, bản sắc con người. Nhà trường là thiết chế xã hội có chức năng chuyên trách về giáo dục, nơi thế hệ trẻ được học hỏi những kiến thức văn hóa, khoa học kỹ thuật thông qua sự hướng dẫn của giáo viên và các tổ chức đoàn thể xã hội mà họ tham gia. Còn xã hội, như đoàn thể, cộng đồng nơi con người sinh sống, câu lạc bộ,... cũng có nội dung _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.591. 76 giáo dục với các hình thức riêng của nó và cũng có ảnh hưởng lớn đến thế hệ trẻ. Hồ Chí Minh yêu cầu gia đình, nhà trường, xã hội phải hợp thành sự thống nhất ở mục tiêu giáo dục, phương pháp giáo dục để tạo ra hợp lực cùng một hướng, chứ không phân cực hoặc phản lực triệt tiêu lẫn nhau. Tại Hội nghị cán bộ phụ trách thiếu nhi toàn miền Bắc ngày 19-2-1959, Người nói: “Trẻ em trong như tấm gương, cái tốt dễ tiếp thu, cái xấu cũng dễ tiếp thu. Nếu nhà trường dạy tốt mà gia đình dạy ngược lại, sẽ có những ảnh hưởng không tốt tới trẻ em và kết quả cũng không tốt. Cho nên muốn giáo dục các cháu thành người tốt, nhà trường, đoàn thể, gia đình, xã hội đều phải kết hợp chặt chẽ với nhau”1. Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở những người làm công tác giáo dục phải nhận thức đúng đắn “Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng”, kết quả giáo dục tùy thuộc rất nhiều vào sự tham gia tích cực, sự giúp đỡ thiết thực và sự giác ngộ về trách nhiệm đối với giáo dục của các ngành, các cấp ủy đảng, chính quyền, cũng như của cha mẹ học sinh và của các lực lượng xã hội. Bốn là, kết hợp giữa truyền thống tốt đẹp của dân tộc với tinh hoa văn hóa nhân loại trong giáo dục; đồng thời, _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.76-77. 77 phải sửa đổi chế độ giáo dục phù hợp với thực tiễn đất nước, với hoàn cảnh mới của nhân dân. Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống hiếu học, coi trọng việc học hành, thi cử, với các triết lý “lấy việc học làm gốc”, “nhân bất học bất tri lý”, “học ăn, học nói, học gói, học mở”, “đi một ngày đàng học một sàng khôn”, “nên thợ, nên thầy nhờ có học”, “tôn sư trọng đạo”, “Không thầy đố mày làm nên”; “Muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy”... Thời kỳ thực dân Pháp đô hộ Việt Nam, chúng đã tìm mọi cách xóa mờ truyền thống dân tộc ta nói chung, truyền thống hiếu học nói riêng. Về giáo dục, chúng đã thi hành chính sách “gieo rắc một nền giáo dục đồi bại, xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát nữa”, một nền giáo dục làm “hư hỏng mất tính nết của người đi học”1. Trong bối cảnh xây dựng nền giáo dục mới của dân tộc, khi giáo dục thực dân đang để lại hậu quả nặng nề cả về mặt tư tưởng và thực tiễn với 95% dân số mù chữ, Hồ Chí Minh đã chủ trương xây dựng một nền giáo dục mới hướng vào các giá trị dân tộc, nhân văn đồng thời kết hợp chặt chẽ với những tinh hoa văn hóa nhân loại, một nền giáo dục phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. _______________ 1. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.424. 78