🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tư Tưởng Hồ Chí Minh Hỏi - Đáp Ebooks Nhóm Zalo Chịu trách nhiệm xuất bản Q. GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP PHẠM CHÍ THÀNH Chịu trách nhiệm nội dung PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP TS. ĐỖ QUANG DŨNG Biên tập nội dung: Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Đọc sách mẫu: ThS. PHẠM THỊ THINH TS. HOÀNG MẠNH THẮNG ThS. NGUYỄN VIỆT HÀ PHẠM THUÝ LIỄU NGUYỄN QUỲNH LAN ThS. TRẦN MINH NGỌC BỘI THU Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 4139-2020/CXBIPH/17-337/CTQG. Số quyết định xuất bản: 5368-QĐ/NXBCTQG, ngày 15/10/2020. Nộp lưu chiểu: tháng 10 năm 2020. Mã ISBN: 978-604-57-6112-0. Biên mục trên xuất bản phẩm của Thư viện Quốc gia Việt Nam Trần Thị Phúc An Tư tưởng Hồ Chí Minh hỏi - đáp: Biên soạn theo chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo / Trần Thị Phúc An ch.b.. - H.: Chính trị quốc gia, 2019. - 292tr.; 21cm 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh 2. Sách hỏi đáp 335.43460711 - dc23 CTL0216p-CIP 2 TẬP THỂ TÁC GIẢ TS. TRẦN THỊ PHÚC AN (Chủ biên) ThS. NGUYỄN THỊ KIM DUNG ThS. NGUYỄN THỊ THÚY HÀ ThS. LÊ QUỐC HIỆP ThS. NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG ThS. NGUYỄN TUẤN VƯƠNG ThS. LÊ THỊ YẾN ThS. NGUYỄN VĂN TRIỆU 4 LỜI NHÀ XUẤT BẢN Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Hệ thống quan điểm này bao gồm quan điểm về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của Nhân dân; về quyền làm chủ của Nhân dân, xây dựng Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân; về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về phát triển kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; về xây dựng con người... Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp văn hóa Đông, Tây, kim, cổ với hạt nhân là chủ nghĩa Mác - Lênin, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp biến tinh hoa văn hoá nhân loại. Để góp phần làm rõ hơn các giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như giúp người học, người đọc giải đáp một cách hệ thống từng nội dung cụ thể tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản 5 Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh hỏi - đáp (Biên soạn theo chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo) của TS. Trần Thị Phúc An. Cuốn sách được biên soạn dưới dạng hỏi - đáp, bám sát chương trình giảng dạy môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học, cao đẳng hiện nay dựa theo các cụm vấn đề. Dù đã cố gắng hết sức trong quá trình biên soạn nhưng cuốn sách khó tránh khỏi những hạn chế, kính mong các chuyên gia, các nhà khoa học, nhà nghiêu cứu, giảng dạy về tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như đông đảo bạn đọc, sinh viên,... đóng góp ý kiến để cuốn sách được hoàn thiện hơn trong lần xuất bản sau. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc. Tháng 7 năm 2019 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 6 LỜI NÓI ĐẦU Thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế”, Ban Bí thư đã ra Kết luận số 94-KL/TW ngày 28/3/2014 về “Tiếp tục đổi mới học tập lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân”. Kết luận ghi rõ: “Đổi mới việc học tập lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân nhằm tạo bước tiến mới, có kết quả, chất lượng cao hơn, góp phần làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng giữ vai trò chủ đạo trong đời sống xã hội; bảo đảm thế hệ trẻ Việt Nam luôn trung thành với mục tiêu, lý tưởng của Đảng và với chế độ ta”. Để đáp ứng yêu cầu đổi mới việc giảng dạy và học tập các môn lý luận chính trị, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Kế hoạch số 3863/BGDĐT-GDĐH ngày 28/8/2018 về “Triển khai việc biên soạn chương trình, giáo trình các môn lý luận chính trị trình độ đại học”. Thực hiện 7 Kế hoạch đó, các giáo trình Triết học Mác - Lênin, Kinh tế chính trị Mác - Lênin, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Tư tưởng Hồ Chí Minh và Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức biên soạn nhằm thực hiện mục tiêu “Đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học”1. Với mục đích giúp sinh viên, đặc biệt là sinh viên không chuyên ngành lý luận chính trị tiếp cận, học tập và nghiên cứu tốt hơn môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh thông qua hệ thống ngân hàng các câu hỏi, chúng tôi tổ chức biên soạn cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh hỏi - đáp (Biên soạn theo chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo). Cuốn sách được biên soạn thành 6 chương với tổng số 37 câu hỏi dựa theo kết cấu của chương trình môn học được Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt dùng cho sinh viên bậc đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành lý luận chính trị. Các câu hỏi đều bám sát và có sự kế thừa các nội dung của Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức biên soạn. Sau mỗi một câu hỏi là các câu hỏi phụ giúp sinh viên có thể hiểu thêm giá trị, sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh; sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng và sự vận dụng của bản thân sinh viên về tư tưởng, đạo đức, ______________ 1. Nghị quyết số 29-NQ/TW, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI, ngày 04/11/2013. 8 phong cách Hồ Chí Minh vào việc giải quyết các vấn đề xảy ra trong cuộc sống... Trong quá trình biên soạn, cuốn sách khó có thể tránh khỏi những hạn chế nhất định. Vì vậy, chúng tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp chân thành của các nhà khoa học, các cán bộ, giảng viên và sinh viên để cuốn sách được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn. Hà Nội, tháng 7 năm 2019 T/M CÁC TÁC GIẢ TS. Trần Thị Phúc An 9 10 Chương I ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ Ý NGHĨA HỌC TẬP MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Câu hỏi 1: Đánh giá quá trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về tư tưởng Hồ Chí Minh? Trả lời: Khi nói khái niệm tư tưởng là nói đến một hệ thống quan điểm, lý luận mang giá trị như một học thuyết được xây dựng trên một thế giới quan và phương pháp luận nhất quán, đại biểu cho ý chí, nguyện vọng của một giai cấp, một dân tộc, phù hợp với nhu cầu tiến hóa của thực tiễn, trở lại chỉ đạo và cải tạo thực tiễn. Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành và phát triển từ trước năm 1911 đến khi Hồ Chí Minh qua đời. Đảng Cộng sản Việt Nam sớm có sự nhìn nhận và đánh giá công lao của Hồ Chí Minh và vai trò tư tưởng của Người. Sự nhận thức đó của Đảng là cả một quá trình. Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam (từ ngày 06/01/1930 đến ngày 07/02/1930) đã thông qua Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng. Những văn kiện này 11 được coi là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Cương lĩnh thể hiện những nội dung rất cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Từ khi Hồ Chí Minh về nước, chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng tháng 5/1941 đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng năm 1951, tư tưởng của Người tiếp tục được khẳng định và được đưa vào chủ trương, đường lối của Đảng. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (tháng 02/1951), Đảng Lao động Việt Nam nêu rõ: “Đường lối chính trị, nền nếp làm việc và đạo đức cách mạng của Đảng ta hiện nay là đường lối, tác phong và đạo đức Hồ Chủ tịch... Toàn Đảng hãy ra sức học tập đường lối chính trị, tác phong và đạo đức cách mạng của Hồ Chủ tịch; sự học tập ấy, là điều kiện tiên quyết làm cho Đảng mạnh và làm cho cách mạng đi mau đến thắng lợi hoàn toàn”1. Trong Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đọc tại Lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh có viết: “Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra HỒ CHỦ TỊCH, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta”2. Như vậy, lần đầu tiên Trung ương Đảng đã đánh giá Hồ Chí Minh là “Anh hùng dân tộc vĩ đại”. ______________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.12, tr.9. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.15, tr.627. 12 Tiếp nối sự đánh giá ấy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (tháng 12/1976) nêu: “Thắng lợi to lớn của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước cũng như những trang sử chói lọi của cách mạng Việt Nam ngót nửa thế kỷ nay mãi mãi gắn liền với tên tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, người khai sinh nền Cộng hòa Dân chủ Việt Nam, người vun trồng khối đại đoàn kết dân tộc và xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, vị lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân và nhân dân ta, người anh hùng dân tộc vĩ đại, người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế”1. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (tháng 3/1982), Đảng khẳng định: “Đảng phải đặc biệt coi trọng việc tổ chức học tập một cách có hệ thống tư tưởng, đạo đức tác phong của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong toàn Đảng”2. Tiếp theo đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986), Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh: “Muốn đổi mới tư duy, Đảng ta phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa di sản quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh”3. ______________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.37, tr.474. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.43, tr.292. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.133. 13 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6/1991) đã đánh dấu mốc quan trọng trong nhận thức của Đảng về tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”1. Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể của Việt Nam và trong thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và của cả dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh “tiêu biểu sáng ngời cho sự kết hợp giai cấp và dân tộc, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với mỗi người Việt Nam là vô cùng gần gũi, gắn liền với tình cảm yêu thương vô hạn của nhân dân đối với Bác, bởi công lao to lớn và đạo đức cách mạng trong sáng của Người. Vì vậy, nói tư tưởng Hồ Chí Minh là phù hợp với thực tế cách mạng nước ta, phù hợp với tình cảm và nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân ta”2. Đại hội cũng xác định: “Điều kiện cốt yếu để công cuộc đổi mới giữ được định hướng xã hội chủ nghĩa và đi đến thành công là trong quá trình đổi mới Đảng phải kiên trì và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững vai trò lãnh đạo xã hội”3. ______________ 1, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Sđd, tr.329, 261. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.51, tr.30. 14 Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, công tác nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh được tiến hành nghiêm túc, thường xuyên và đạt được những kết quả quan trọng. Những kết quả nghiên cứu đó đã cung cấp những luận cứ khoa học, có sức thuyết phục để Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX xác định khá toàn diện và hệ thống những vấn đề cốt yếu thuộc nội hàm khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại... Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”1. Định nghĩa trên là một bước tiến mới trong nhận thức của Đảng về tư tưởng Hồ Chí Minh, làm định hướng cho các nhà nghiên cứu tiếp tục đi sâu tìm hiểu về tư tưởng của Người, đặc biệt là xác định nội dung giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh với tư cách là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành động của toàn Đảng, toàn dân ta. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cho đến nay, các nhà khoa học trong và ngoài nước đã tiếp tục ______________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Sđd, tr.633. 15 khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh và giá trị to lớn của tư tưởng đó đối với dân tộc và nhân loại. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (tháng 4/2006) khi đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Sự nghiệp cách mạng của Đảng và của nhân dân ta 76 năm qua đã khẳng định rằng, tư tưởng vĩ đại của Người cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin mãi mãi là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam, là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và dân tộc ta. Tư tưởng đó đã dẫn dắt chúng ta trên mỗi chặng đường xây dựng và phát triển đất nước, là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam, là sức mạnh tập hợp và đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp cách mạng của chúng ta hôm nay và mai sau”1. Trong các kỳ Đại hội sau đó, Đảng luôn khẳng định công lao vĩ đại của Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam và khẳng định tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là những nhân tố không thể thiếu trong tư tưởng và hành động của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân Việt Nam đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (tháng 01/2016) của Đảng nhấn mạnh: “Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam”2. ______________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.6-7. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.199. 16 Trong những năm đầu của thế kỷ XXI, Đảng chủ trương học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong toàn hệ thống chính trị. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII nhận định: “Việc thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đạt kết quả bước đầu quan trọng”1. Tuy nhiên, việc này “chưa đều, chưa đi vào chiều sâu ở nhiều ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị; một số nơi thực hiện còn mang tính hình thức”2. Vì vậy, Đại hội quyết định: “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; coi đó là công việc thường xuyên của các tổ chức đảng, các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, địa phương, đơn vị gắn với chống suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”3. Đó cũng chính là tinh thần của Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị nhằm triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Câu hỏi 2: Phân tích vai trò của các phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh? Trả lời: Phương pháp được hình thành từ lý luận. Lý luận đề ra phương pháp. Phương pháp tác động trở lại lý luận, làm ______________ 1, 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.187, 193, 202. 17 cho lý luận phát triển, hình thành lý luận mới, đến lượt nó lại đề ra phương pháp mới. Phương pháp có nội dung khách quan sâu sắc và bị quy định bởi đặc điểm, bản chất của khách thể. Con người là chủ thể sáng tạo ra phương pháp. Cũng chính con người sử dụng phương pháp, mang nó vào hoạt động thực tiễn, dùng nó như một công cụ, một phương tiện để tác động vào đối tượng nhằm đạt tới mục tiêu hoạt động của mình. Nhờ có lý luận khoa học dẫn dắt mà hoạt động của con người trở nên tự giác chứ không mù quáng. Cũng nhờ có phương pháp gắn liền với lý luận mà con người tránh được mò mẫm, tự phát và đạt được hiệu quả trong hoạt động. Hệ thống các phương pháp là đa dạng, tùy theo sự phân loại khoa học, có những phương pháp riêng áp dụng trong một bộ môn khoa học, có phương pháp chung cho một số bộ môn và có phương pháp phổ biến cho tất cả các bộ môn. Tiểu sử, sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh là đối tượng nghiên cứu. Một đối tượng có thể nói là đa dạng và phong phú bao gồm trong đó những vấn đề không phải chỉ thuộc về một khoa học mà của nhiều khoa học, không phải chỉ gồm một hệ thống mà nhiều hệ thống. Bởi lẽ, Người vừa là anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất; Người vừa là nhà tư tưởng, nhà lý luận cách mạng, vừa là người tổ chức, vị chỉ huy của cách mạng; vừa là chiến sĩ tiên phong của phong trào giải phóng dân tộc, vừa là nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; vừa là nhà chiến lược quân sự, nhà chính trị, nhà 18 ngoại giao, nhà thơ, nhà báo... xuất sắc. Chính vì vậy, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải sử dụng tổng hợp các phương pháp. Đó là: Phương pháp duy vật biện chứng: Phương pháp này đòi hỏi phải xuất phát từ hiện thực khách quan của đời sống vật chất và các quan hệ kinh tế để giải thích trạng thái hiện thực của ý thức tư tưởng và các quan hệ tinh thần. Đây là một phương pháp triết học mácxít đóng vai trò dẫn đường về thế giới quan và phương pháp luận trong nghiên cứu. Phương pháp duy vật lịch sử: Chủ nghĩa duy vật lịch sử với một hệ thống chặt chẽ các nguyên lý, các tư tưởng khoa học là nền tảng lý luận, phương pháp luận chung của tất cả khoa học xã hội. Nó đóng vai trò vũ trang phương pháp luận nghiên cứu cho khoa học xã hội nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng; là sợi dây dẫn đường, kim chỉ nam hành động trong khi tiếp cận và giải quyết các vấn đề về con người, xã hội trong quá trình nghiên cứu. Phương pháp lôgíc: Là phương pháp nghiên cứu một cách tổng quát nhằm tìm ra được cái bản chất vốn có của sự vật, hiện tượng và khái quát thành lý luận. Phương pháp lịch sử: Nghiên cứu sự vật, hiện tượng theo trình tự thời gian, quá trình diễn biến đi từ phát sinh, phát triển đến hệ quả của nó. Muốn hiểu được bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng thì phải hiểu được quá trình hình thành, phát sinh, phát triển của nó. Ngược lại, chỉ có nắm được bản chất và quy luật của sự vật thì mới nhận thức được lịch sử của nó 19 một cách đúng đắn. Vì vậy, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh còn cần phải kết hợp cả phương pháp lôgíc và lịch sử. Phương pháp so sánh: Là sự hỗ trợ cần thiết làm nổi bật tính thống nhất giữa lịch sử và lôgíc. Đó là sự so sánh giữa đối tượng này với đối tượng khác trong những điều kiện, hoàn cảnh xác định chi phối chúng. Nó cho phép nhìn rõ nét tương đồng và sự khác biệt, nhận rõ những cái riêng có cùng một cái chung, bản chất hoặc những dấu hiệu để phân biệt cái riêng này với cái riêng khác. Phương pháp so sánh là phương pháp nghiên cứu nhờ so sánh mà vạch ra cái chung và cái đặc thù trong các hiện tượng lịch sử, trình độ phát triển và xu hướng phát triển của các hiện tượng ấy. Phương pháp liên ngành: Hồ Chí Minh thể hiện tư tưởng của mình thông qua nhiều lĩnh vực như tư tưởng chính trị, tư tưởng triết học, tư tưởng kinh tế, tư tưởng quân sự, tư tưởng văn hóa... Vì vậy, các phương pháp liên ngành cần được sử dụng trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh để nghiên cứu toàn bộ hệ thống tư tưởng cũng như mỗi tác phẩm lý luận riêng biệt của Người. Bên cạnh đó, còn có thể sử dụng tổng hợp các phương pháp như: phân tích, tổng hợp, hệ thống, phỏng vấn - điều tra xã hội học, phân tích văn bản học - là phương pháp thường dùng khi nghiên cứu di sản và lịch sử tư tưởng, phương pháp kết hợp phân tích lịch đại với phân tích đồng đại để làm sáng tỏ sự hình thành và phát triển tư tưởng, quan hệ và ảnh hưởng qua lại giữa vĩ nhân với thời đại lịch sử. 20 Ngoài ra, cần kết hợp nghiên cứu các tác phẩm với thực tiễn chỉ đạo cách mạng của Hồ Chí Minh. Nghiên cứu môn học tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết phải dựa vào các tác phẩm mà Người để lại. Tuy nhiên, thực tiễn chỉ đạo của Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam là một bộ phận rất quan trọng làm nên hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh. Có nhiều nội dung phản ánh tư tưởng Hồ Chí Minh không ở trong văn bản mà là ở trong chỉ đạo thực tiễn; phản ánh qua hoạt động của các đồng chí, học trò của Người. Như vậy, việc sử dụng các phương pháp cụ thể để nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò quan trọng trong việc giúp người nghiên cứu có được một cái nhìn toàn diện và hệ thống về tư tưởng của Hồ Chí Minh. Câu hỏi 3: Cần phải bảo đảm những nguyên tắc nào trong quá trình nghiên cứu và học tập tư tưởng Hồ Chí Minh? Trả lời: Sự nghiên cứu khoa học về Hồ Chí Minh chỉ có thể hoàn thành được nhiệm vụ của mình nếu biết xuất phát từ chính bản thân đối tượng và xây dựng được những nguyên tắc phương pháp luận cụ thể trên cơ sở lý thuyết về đối tượng đó. Vì vậy, trong quá trình nghiên cứu và học tập tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải nắm vững những quan điểm cơ bản có ý nghĩa phương pháp luận; biết vận dụng thấu 21 đáo và nhuần nhuyễn những nguyên tắc phương pháp luận chung của khoa học xã hội. a) Thống nhất tính đảng và tính khoa học Nội dung chủ yếu của phương pháp luận này là ở chỗ phải đứng trên lập trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, quán triệt những quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam để nhận thức và phân tích những quan điểm của Hồ Chí Minh. Đồng thời, phải bảo đảm được tính khách quan, khoa học của những luận đề được nêu ra; cần kết hợp chặt chẽ giữa tính đảng và tính khoa học. Đây là một nguyên tắc rất cơ bản trong phương pháp luận nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, tránh việc phủ định và cường điệu hóa tư tưởng của Người. b) Quan điểm thực tiễn và nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn Đây là nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, xuyên suốt, có ý nghĩa là cơ sở xuất phát và quyết định mọi nhận thức, tư duy của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là một con người rất thực tiễn, luôn xuất phát từ thực tiễn và hết sức coi trọng thực tiễn. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn Việt Nam cuối thế kỷ XIX mà Nguyễn Tất Thành quyết định đi sang phương Tây để tìm đường cứu nước. Từ thực tiễn 10 năm đi khắp các châu lục mà Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Từ thực tiễn tồn tại và phát 22 triển của xã hội Việt Nam, Người đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam. Với Người, quan điểm thực tiễn không đồng nghĩa với thực dụng, thiển cận, kinh nghiệm chủ nghĩa. Vì vậy, Người rất coi trọng lý luận. Lý luận chính là sự khái quát từ thực tiễn và trở về chỉ đạo thực tiễn. Đây là vòng xoáy của hai yếu tố luôn tương tác nhau để làm cho chúng ngày càng hoàn thiện. Người coi tổng kết kinh nghiệm là một biện pháp để thực hiện “thống nhất lý luận và thực tiễn”, vừa nâng cao trình độ lý luận, vừa nâng cao trình độ hoạt động thực tiễn. c) Quan điểm lịch sử cụ thể Khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải đặt những quan điểm của Người trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể nhất định. Xem xét các quan điểm của Người trong mối quan hệ biện chứng với thực tiễn cuộc sống, nghĩa là đặt những quan điểm đó trong quá trình vận động và phát triển không ngừng, trong quá trình tương tác với hoàn cảnh nhất định. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của một thời kỳ lịch sử, nó phản ánh hiện thực lịch sử và do đó, chịu sự chi phối, tác động của chính bản thân điều kiện lịch sử. d) Quan điểm toàn diện và hệ thống Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về cách mạng Việt Nam. Vì vậy, phải nhìn nhận sự vật và hiện tượng một cách toàn diện, bao 23 quát, phải luôn quán triệt mối liên hệ qua lại của các yếu tố, nội dung khác nhau trong hệ thống tư tưởng của Hồ Chí Minh mà hạt nhân cốt lõi là tư tưởng độc lập, tự do, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Tránh tình trạng bỏ sót việc lớn, bỏ qua những việc cơ bản, có ảnh hưởng đến đại cục; tránh tình trạng chỉ biết những việc vụn vặt, phải nắm lấy những việc chủ yếu, trọng tâm, những việc có tác động chung đến toàn hệ thống. Mỗi vấn đề đều có quá trình phát sinh, hình thành, tồn tại, vận động. Do đó, khi nghiên cứu, xem xét, giải quyết phải đặt vấn đề đó vào trong một tổng thể, tìm ra bản chất vấn đề trong toàn bộ trạng thái vận động của nó. Những quan điểm của Hồ Chí Minh đều có tính nhất quán trong một hệ thống chặt chẽ. Vì vậy, học tập, nghiên cứu để vận dụng vào sự nghiệp cách mạng hiện nay không nên biệt lập từng quan điểm của Người, cắt khúc các quan điểm đó một cách siêu hình mà cần đặt tư tưởng Hồ Chí Minh trong hệ thống lý luận Mác - Lênin. đ) Quan điểm kế thừa và phát triển Học tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện mới phải hiểu đúng những quan điểm cơ bản của Người, nắm bắt đúng tình hình thực tế trong nước và thế giới. Điều kiện hiện nay có nhiều thay đổi khác với trước kia, vì thế những quan điểm của Hồ Chí Minh phải được vận dụng, phát triển sáng tạo cho sát với hoàn cảnh, điều kiện lịch sử mới. 24 Theo tinh thần Hồ Chí Minh “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, trong kế thừa và phát triển, phải giữ đúng nguyên tắc, mục đích, mục tiêu chiến lược thể hiện qua toàn bộ tư tưởng của Người. Trong quá trình vận dụng cần lưu ý đến việc vận dụng tinh thần và phương pháp của Người để tiếp tục nhận thức và vận dụng đúng quy luật, giải quyết những vấn đề mới do cuộc sống đặt ra. Câu hỏi 4: Phân tích sự cần thiết phải học tập, nghiên cứu môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh? Trả lời: a) Nghiên cứu, học tập môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh giúp cho người học có thể nâng cao năng lực tư duy lý luận Với ý nghĩa cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin làm thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh có vai trò định hướng về lý luận và thực tiễn hành động cho những người Việt Nam yêu nước. Môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh có tác dụng góp phần củng cố cho người học về lập trường, quan điểm cách mạng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; tích cực, chủ động đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái để bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; biết 25 vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống. Năng lực tư duy lý luận của mỗi người là điều rất cần thiết để giúp giải quyết được yêu cầu do cuộc sống đặt ra. Hơn nữa, tri thức và kỹ năng của sinh viên hình thành và phát triển qua nghiên cứu môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh là những yếu tố bồi đắp năng lực lý luận để chỉ dẫn hành động rất quan trọng, trở thành một công dân có ích cho xã hội. b) Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng và rèn luyện bản lĩnh chính trị cho người học Sinh viên nghiên cứu môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ có điều kiện trau dồi phẩm chất đạo đức cách mạng để lập thân, lập nghiệp, sống có ích cho xã hội, nâng cao lòng tự hào về đất nước và con người Việt Nam. Bởi lẽ, học tập môn Tư tưởng Hồ Chí Minh giúp cho người học có điều kiện hiểu sâu và toàn diện về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh, về tấm gương đạo đức cách mạng của Người. Thông qua việc học tập môn học, sinh viên sẽ nâng cao bản lĩnh chính trị, kiên định ý thức và trách nhiệm công dân, thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện bản thân mình theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, đóng góp thiết thực và hiệu quả cho sự nghiệp cách mạng của đất nước, vững bước trên con đường mà Hồ Chí Minh, Đảng và Nhân dân Việt Nam đã lựa chọn. 26 c) Xây dựng, rèn luyện phương pháp và phong cách công tác cho người học Qua nghiên cứu môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh, người học có điều kiện vận dụng tốt hơn những kiến thức và kỹ năng đã nghiên cứu, học tập vào việc xây dựng phương pháp học tập, tu dưỡng, rèn luyện phù hợp với điều kiện cụ thể của từng người, từng hoàn cảnh. Người học có thể vận dụng xây dựng phong cách tư duy, phong cách diễn đạt, phong cách làm việc, ứng xử, sinh hoạt... phù hợp từng nơi, từng lúc với phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Tư tưởng Hồ Chí Minh có tác dụng góp phần tích cực vào việc giáo dục thế hệ trẻ tiếp tục hình thành và hoàn thiện nhân cách để trở thành những chiến sĩ tiên phong trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 27 Chương II CƠ SỞ, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Câu hỏi 5: Chứng minh sự ra đời của tư tưởng Hồ Chí Minh là một tất yếu khách quan? Trả lời: Tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là sản phẩm chủ quan, phản ánh tâm lý, nguyện vọng của Nhân dân Việt Nam đối với lãnh tụ kính yêu của mình. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam, ra đời do yêu cầu khách quan và là sự giải đáp những nhu cầu bức thiết do cách mạng Việt Nam đặt ra từ đầu thế kỷ XX đến nay. Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành dưới tác động, ảnh hưởng của những điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể ở trong nước và thế giới lúc Người đang sống và hoạt động. Hồ Chí Minh đã nắm bắt chính xác xu hướng phát triển của thời đại để tìm ra con đường cách mạng đúng đắn cho dân tộc mình. 28 a) Xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX Đến giữa thế kỷ XIX, Việt Nam là một xã hội phong kiến độc lập với nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, trì trệ. Sau khi lật đổ được triều đại Tây Sơn, chính quyền nhà Nguyễn đã thi hành một chính sách đối nội, đối ngoại bảo thủ, phản động: tăng cường đàn áp, bóc lột ở bên trong và thực hiện bế quan tỏa cảng đối với bên ngoài; cự tuyệt mọi đề án cải cách nên đã không mở ra được khả năng cho Việt Nam cơ hội tiếp xúc và bắt nhịp với sự phát triển của thế giới, khiến cho Việt Nam ngày càng lạc hậu với thế giới bên ngoài. Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng vào bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng chính thức xâm lược Việt Nam. Ngày 06/6/1884, triều đình nhà Nguyễn ký Hiệp ước Patơnốt chịu sự bảo hộ của Pháp. Việt Nam từ một xã hội phong kiến độc lập trở thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Sau khi đánh chiếm được Việt Nam, thực dân Pháp thiết lập bộ máy thống trị thực dân và tiến hành những cuộc khai thác nhằm cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa. Từ năm 1897, thực dân Pháp tiến hành chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất đến năm 1914 và sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918), chúng tiến hành chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919 - 1929) ở Đông Dương với số vốn đầu tư trên quy mô lớn, tốc độ nhanh. Do sự du nhập của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tình hình kinh tế Việt Nam có sự biến đổi: quan hệ kinh tế nông thôn bị phá vỡ, hình thành nên 29 những đô thị mới, những trung tâm kinh tế và tụ điểm cư dân mới. Nhưng thực dân Pháp không du nhập một cách hoàn chỉnh phương thức tư bản chủ nghĩa vào Việt Nam mà vẫn duy trì quan hệ kinh tế phong kiến. Chúng kết hợp hai phương thức bóc lột tư bản và phong kiến để thu lợi nhuận siêu ngạch. Chính vì thế, Việt Nam không thể phát triển lên chủ nghĩa tư bản một cách bình thường được, nền kinh tế bị kìm hãm trong vòng lạc hậu và phụ thuộc nặng nề vào kinh tế Pháp. Ngay khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, các phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp bùng lên rầm rộ và lan rộng trong cả nước. Mặc dù các cuộc khởi nghĩa của nhân dân diễn ra sôi nổi nhưng vẫn thất bại vì chưa có đường lối kháng chiến rõ ràng, chưa lôi kéo được đông đảo tầng lớp nhân dân tham gia và chưa gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Điển hình là các phong trào của Trương Định (1859 - 1864), Nguyễn Trung Trực (1861 - 1868)... ở Nam Bộ; Trần Tấn, Đặng Như Mai (1874), Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng (1885 - 1896)... ở miền Trung; phong trào của Nguyễn Thiện Thuật (1883- 1892), Nguyễn Quang Bích (1885 - 1892), cuộc khởi nghĩa của nông dân Yên Thế của Hoàng Hoa Thám (1885 - 1913)... ở miền Bắc. Đầu thế kỷ XX, trước sự ảnh hưởng của các cuộc vận động cải cách ở Trung Quốc của Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu, gương Duy Tân của Nhật Bản, cuộc vận động hiến pháp (năm 1898), cách mạng Tân Hợi (năm 1911) ở Trung Quốc... tràn vào Việt Nam, phong trào chống Pháp 30 của Nhân dân Việt Nam chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản với sự xuất hiện của các phong trào như: Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân, Việt Nam Quang phục hội... nhưng các phong trào này cũng chỉ rộ lên một thời gian ngắn rồi bị dập tắt. Việt Nam rơi vào cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước. Điều đó đặt ra yêu cầu bức xúc là phải tìm con đường cứu nước mới đúng đắn cho dân tộc. Trước hoàn cảnh ấy, Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước. Người nói: “Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”1. b) Tình hình thế giới cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản phương Tây phát triển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền hay còn gọi là chủ nghĩa đế quốc và trở thành hệ thống thế giới. Nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh đặt ra yêu cầu bức thiết về thị trường. Đó chính là nguyên nhân sâu xa dẫn tới những cuộc chiến tranh xâm lược các quốc gia phong kiến phương Đông, biến các quốc gia này thành thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, mua bán nguyên vật liệu, khai thác sức lao động và xuất khẩu tư bản của các nước đế quốc. Sự áp bức ______________ 1. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017, tr.16. 31 và thôn tính dân tộc của chủ nghĩa đế quốc càng tăng thì mâu thuẫn giữa dân tộc thuộc địa với các nước đế quốc, thực dân càng gay gắt, sự phản ứng của nhân dân các nước thuộc địa càng quyết liệt. Do vậy, cùng với mâu thuẫn cơ bản trong xã hội tư bản (mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và vô sản), chủ nghĩa đế quốc ra đời làm nảy sinh một mâu thuẫn mới đó là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc với các dân tộc thuộc địa. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các thuộc địa ngày càng phát triển nhưng chưa nơi nào giành được thắng lợi. Vấn đề dân tộc thuộc địa được đặt ra, đấu tranh giải phóng dân tộc trở thành phong trào rộng lớn và gắn liền với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân quốc tế. Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công. Đối với nước Nga, đó là cuộc cách mạng vô sản, nhưng đối với các dân tộc thuộc địa trong đế quốc Nga thì đó còn là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Bởi vì, trước cách mạng “nước Nga là nhà tù của các dân tộc”. Cuộc cách mạng vô sản Nga thành công, các dân tộc thuộc địa của đế quốc Nga được giải phóng và được hưởng quyền dân tộc tự quyết, hình thành nên các quốc gia độc lập, dẫn đến sự ra đời của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xôviết (năm 1922). Cách mạng Tháng Mười đã nêu tấm gương sáng về sự giải phóng dân tộc bị áp bức, đã mở ra “thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”. Nó làm cho phong trào cách mạng vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa phương Đông có quan hệ mật thiết với 32 nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Quốc tế Cộng sản, tức Quốc tế III - Bộ tham mưu của cách mạng vô sản và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới ra đời ở Mátxcơva ngày 02/3/1919. Dưới sự lãnh đạo của V.I. Lênin, Quốc tế III đã kế thừa và phát huy mạnh mẽ truyền thống cách mạng của Quốc tế I do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập năm 1864, cũng như Quốc tế II trong thời kỳ đầu dưới sự lãnh đạo của Ph. Ăngghen từ năm 1889 đến năm 1895. Quốc tế III đã đẩy mạnh việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và kinh nghiệm Cách mạng Tháng Mười Nga ra khắp thế giới, đã tạo ra sự phân hoá đối với các đảng xã hội dân chủ, xuất hiện xu hướng gia nhập Quốc tế Cộng sản và thành lập các đảng cộng sản trên thế giới. Đêm kết thúc Đại hội Tua ngày 30/12/1920 đã đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc: từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin, Người tìm thấy con đường giải phóng dân tộc là con đường cách mạng vô sản. c) Nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh Tư tưởng bao giờ cũng là sản phẩm của con người, do con người sáng tạo và khái quát hóa trên cơ sở nhận thức nhân tố khách quan. Vào đầu thế kỷ XX đã có hàng trăm người Việt Nam sang Pháp. Cũng đã có nhiều người Việt Nam tham gia Đảng Xã hội Pháp. Thế nhưng trong số những người Việt Nam yêu nước sống ở Pháp 33 vào năm 1920 duy nhất có Nguyễn Ái Quốc trở thành người cộng sản và cũng là 1 người dân thuộc địa tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Có thể nói, trước Đại hội Tua, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp cận gần kề với chân lý của V.I. Lênin, Người suy nghĩ về những vấn đề mà V.I. Lênin đã viết, tuy chưa rõ ràng và sáng tỏ. Đến khi đọc được Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa, Người đã tìm thấy con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự gặp gỡ giữa trí tuệ lớn của Hồ Chí Minh với trí tuệ của dân tộc và trí tuệ thời đại. Chính sự vận động, phát triển của tư tưởng yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX đến những năm 20 của thế kỷ XX, khi bắt gặp chủ nghĩa Mác - Lênin đã hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ tiếp thu, vận dụng sáng tạo, Hồ Chí Minh từng bước góp phần bổ sung, phát triển, làm phong phú chủ nghĩa Mác - Lênin bằng những luận điểm mới, được rút ra từ thực tiễn Việt Nam. Câu hỏi 6: Phân tích những cơ sở lý luận góp phần hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Chỉ ra cơ sở giữ vai trò quyết định trong việc hình thành, phát triển tư tưởng của Người? Trả lời: Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước Việt Nam cũng như những yếu tố dân chủ, công bằng, bác ái ở 34 những mức độ khác nhau trong văn hóa dân tộc và văn hóa phương Đông, phương Tây. a) Giá trị truyền thống dân tộc Văn hóa Việt Nam là thành quả của hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các tộc người sống trên đất nước Việt Nam, đồng thời là kết quả của sự tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn hóa trên thế giới. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, góp phần làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc. Tinh thần yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh để dựng nước và giữ nước là dòng chủ lưu chảy xuyên suốt lịch sử dân tộc, là chuẩn mực cao nhất, đứng đầu bảng giá trị tinh thần Việt Nam và cũng là cội nguồn sâu xa nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người viết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”1. Quá trình hình thành, thống nhất quốc gia dân tộc chính là quá trình cố kết cộng đồng, tạo thành quan hệ ba tầng chặt chẽ: nhà - làng - nước. Đây chính là sợi dây liên kết các tộc người, các giai tầng trong xã hội Việt Nam và tạo nên một sức mạnh vô địch, làm cho đất nước được ______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.38. 35 trường tồn, bản sắc được giữ vững. Nhận thức rõ vai trò quan trọng đặc biệt của đoàn kết, Hồ Chí Minh viết: “Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi... Nhờ lực lượng ấy mà chúng ta sẽ đuổi sạch thực dân Pháp ra khỏi đất nước ta, và lấy lại thống nhất và độc lập thật sự”1. Nói đến đặc trưng của văn hóa Việt Nam là nói đến một nền văn hóa lấy nhân nghĩa làm gốc. Đó là một nền văn hóa trọng đạo lý làm người, đề cao trách nhiệm, bổn phận của cá nhân đối với gia đình, làng, Tổ quốc, coi đó là những chuẩn mực của nhân cách con người. Hồ Chí Minh luôn chú ý kế thừa, phát huy sức mạnh của truyền thống nhân nghĩa. Người nhắc nhở: “Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được”2. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc có truyền thống lạc quan, yêu đời, luôn cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo trong sản xuất và chiến đấu, là một dân tộc ham học hỏi và không ngừng mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hóa nhân loại. Trong muôn nguy ngàn khó, người lao động vẫn động viên nhau “chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo”. Tinh thần đó có cơ sở từ niềm tin vào sức mạnh của bản thân, tin vào sự tất thắng của chân lý, chính nghĩa. Hồ Chí Minh chính là hiện thân của truyền thống đó. ______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.164-165. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.668. 36 b) Tinh hoa văn hóa nhân loại Hồ Chí Minh đã kế thừa và nâng lên tầm cao mới của thời đại nguồn giá trị văn hóa, tư tưởng truyền thống của dân tộc bằng cách kết hợp, tiếp biến, tổng hòa và phát triển biện chứng tinh hoa văn hóa, tư tưởng phương Đông, phương Tây, đặc biệt là học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Người viết: “Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là Chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng phải đã có những điểm chung đó sao? Họ đều muốn: “mưu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội”. Nếu hôm nay, họ còn sống trên đời này, nếu họ họp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy”1. Điều đó cho thấy, Hồ Chí Minh đã biết kế thừa có phê phán, chọn lọc tinh hoa văn hóa của nhân loại để làm giàu cho tư tưởng của mình. ______________ 1. Dẫn theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp (Chủ biên): Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2017, tr.53-54. 37 Một là, tinh hoa văn hóa phương Đông. Hồ Chí Minh xuất thân trong một gia đình nhà Nho yêu nước. Vốn tri thức đầu tiên mà Người có được là vốn tri thức Nho giáo thông qua sự dạy dỗ của người cha, các thầy giáo làng và qua con đường tự học, tự nghiên cứu đã cho phép Người phát huy những ưu điểm và tránh được những nhược điểm của học thuyết này để phục vụ sự nghiệp cách mạng. Người đã khai thác, chắt lọc các yếu tố tích cực của Nho giáo như: triết lý hành động (tư tưởng nhập thế, hành đạo, giúp đời); triết lý nhân sinh (tu thân, dưỡng tính); triết lý bình trị, đại đồng (an ninh, hòa mục); đề cao văn hóa, lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu học. Người coi Khổng giáo “là một thứ khoa học về kinh nghiệm đạo đức và phép ứng xử”1. Yếu tố duy tâm, lạc hậu, phản động như: tư tưởng đẳng cấp, coi thường lao động chân tay, coi khinh phụ nữ... đã được Hồ Chí Minh phê phán như “người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời”2. Phật giáo là một tôn giáo thế giới, sớm được du nhập vào Việt Nam và để lại nhiều dấu ấn trong văn hóa dân tộc, cũng như trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhiều mặt tích cực của Phật giáo như tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, thương người, không phân biệt đẳng cấp, tinh thần bình đẳng, dân chủ, chăm lo làm điều thiện, đề cao lao động... ______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.461. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.220. 38 đã để lại nhiều dấu ấn sâu sắc trong tư duy Hồ Chí Minh. Theo Người: “Lòng tôn kính cha mẹ, tình anh em, tình bạn trung thành, sự hòa thuận giữa mọi người, đều hoặc rút ra từ quan điểm của Phật”1. Tuy nhiên, Phật giáo cũng có những nhược điểm như tư tưởng cam chịu, nhẫn nhục... Phật giáo luôn đặt vấn đề tìm kiếm mục tiêu nhân sinh ở sự giải thoát khỏi vòng luân hồi để đến cõi Niết bàn. Trong tư tưởng, văn hóa phương Đông, Hồ Chí Minh còn đi sâu tìm hiểu những tư tưởng cách mạng trong chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn - một nhà dân tộc dân chủ vĩ đại của nhân dân Trung Quốc. Nghiên cứu chủ nghĩa Tam dân và chính sách thân Nga, liên Cộng, phù trợ công nông của Tôn Trung Sơn, Hồ Chí Minh thấy có những tư tưởng tiến bộ, tích cực và có thể vận dụng vào cách mạng Việt Nam. Hai là, tinh hoa văn hóa phương Tây. Ngay từ khi còn nhỏ, Nguyễn Tất Thành đã được làm quen với văn hóa phương Tây, nhất là văn hóa Pháp, điều đó đã thúc đẩy Người muốn ra nước ngoài để xem những gì ẩn giấu đằng sau những khẩu hiệu “Tự do, bình đẳng, bác ái” và tìm con đường cứu nước cho dân tộc. Khoảng tháng 9/1905, Hồ Chí Minh đã được cha xin cho theo học lớp dự bị (Préparatoire) của trường tiểu học Pháp - bản xứ ở thành phố Vinh. Tại trường này, lần đầu tiên Người được tiếp xúc với khẩu hiệu “Tự do - Bình đẳng - Bác ái”. Người tìm hiểu và biết đó là khẩu hiệu nổi tiếng ______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.454. 39 của đại cách mạng Pháp năm 1789. Tuy chưa hiểu hết được ý nghĩa của những từ đó nhưng nó đã khơi dậy ở Người một sự tò mò bởi những điều này chưa hề được đề cập đến trong sách vở thánh hiền mà Người đã từng đọc. Năm 1906 - 1907, Người được vào học lớp dự bị (Cours préparatoire) và lớp sơ đẳng (Cours élémentaire) tại trường tiểu học Pháp - Việt tỉnh Thừa Thiên. Năm học 1908 - 1909, Người vào học lớp trung đẳng (Cours moyen) ở trường Quốc học Huế, cũng là lúc Tân thư của Trung Quốc được lưu hành ở nhiều nơi. Chính việc dạy dỗ của các thầy là “một yếu tố quan trọng trong việc hình thành tư tưởng sang phương Tây chứ không sang phương Đông”1 của Hồ Chí Minh. Trong 30 năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Hồ Chí Minh sống chủ yếu ở châu Âu nên Người chịu ảnh hưởng rất sâu rộng của nền văn hóa dân chủ và các cuộc cách mạng của phương Tây, Người còn tiếp nhận được tư tưởng dân chủ và hình thành phong cách dân chủ từ hoạt động thực tiễn. Nhờ được rèn luyện trong phong trào công nhân Pháp và sự cổ vũ dìu dắt của nhiều nhà cách mạng và trí thức tiến bộ Pháp, Nguyễn Ái Quốc từng bước trưởng thành, làm giàu trí tuệ của mình bằng vốn kiến thức của thời đại, Đông và Tây, vừa thâu hái, vừa gạn lọc để có thể từ tầm cao của tri thức thời đại mà suy nghĩ, lựa chọn, kế thừa và ______________ 1. GS. Trần Văn Giàu: Hồ Chí Minh - Vĩ đại một con người, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.404. 40 đổi mới, vận dụng và phát triển. Đó cũng là những tiền đề, cơ sở lý luận quan trọng để Người tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lênin. Ba là, chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây chính là cơ sở giữ vai trò quyết định trong việc hình thành, phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhờ có thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã hấp thụ và chuyển hóa được những nhân tố tích cực và tiến bộ của truyền thống dân tộc, tư tưởng, văn hóa nhân loại để tạo nên hệ thống tư tưởng của mình. Bản lĩnh trí tuệ đó đã nâng cao khả năng độc lập, tự chủ và sáng tạo ở Người khi vận dụng những nguyên lý cách mạng vào hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của Việt Nam. Thực tiễn gần 10 năm đi tìm đường cứu nước, nhất là sau khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin (tháng 7/1920), Nguyễn Ái Quốc đã “cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng... vui mừng đến phát khóc...” vì đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc. Từ những nhận thức ban đầu về chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh đã tiến dần tới những nhận thức “lý tính”, trở lại nghiên cứu chủ nghĩa Mác sâu sắc hơn để rồi tiếp thu học thuyết của các ông một cách chọn lọc, không rập khuôn máy móc, không sao chép giáo điều. Người tiếp thu lý luận Mác - Lênin theo phương pháp mácxít. Người vận dụng lập trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để giải 41 quyết những vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam, chứ không đi tìm những kết luận có sẵn trong sách vở. Như vậy, thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin đã giúp Hồ Chí Minh nhìn nhận, đánh giá, phân tích, tổng kết các học thuyết, tư tưởng đương thời cũng như kinh nghiệm hoạt động thực tiễn của mình để tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Câu hỏi 7: Hãy chỉ ra các giai đoạn thể hiện bước tiến trong nhận thức, những dấu mốc cơ bản trong quá trình hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh? Trả lời: Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh được trải qua 5 giai đoạn: - Giai đoạn trước năm 1911: Hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cứu nước. - Giai đoạn từ năm 1911 đến năm 1920: Tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. - Giai đoạn từ năm 1921 đến năm 1930: Hình thành cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt Nam. - Giai đoạn từ năm 1930 đến năm 1945: Vượt qua thử thách, kiên trì giữ vững lập trường cách mạng. - Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1969: Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển, hoàn thiện. Những bước tiến trong nhận thức, những dấu mốc cơ bản trong quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện trong các giai đoạn sau: 42 a) Giai đoạn trước năm 1911: Hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cứu nước Xuất thân trong một gia đình nhà nho yêu nước, Nguyễn Tất Thành đã được tiếp nhận truyền thống yêu nước, nhân nghĩa của dân tộc; hấp thụ vốn văn hóa Quốc học, Hán học và bước đầu tiếp xúc với văn hóa phương Tây; chứng kiến cuộc sống khổ cực, điêu đứng của nhân dân và tinh thần đấu tranh bất khuất của cha anh đã để lại trong Người những ấn tượng sâu sắc, nung nấu lòng căm thù và thôi thúc Người đi tìm đường cứu nước. Hành trang ra đi của Nguyễn Tất Thành là tri thức ban đầu rất quan trọng về văn hóa Đông, Tây và lòng yêu nước nhiệt thành với chí hướng rõ rệt trên cơ sở phê phán các con đường cứu nước của các nhà yêu nước trước đó. Nhờ thế, Người đã tìm được hướng đi đúng, đích đi đúng, cách đi đúng để sớm đi tới thành công. b) Giai đoạn từ năm 1911 đến năm 1920: Tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc Ngày 05/6/1911, Nguyễn Tất Thành với tên gọi Văn Ba đã lên tàu Latouche Trévilles để ra đi tìm đường cứu nước. Thời kỳ này, Nguyễn Tất Thành đã bôn ba khắp các châu lục để tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn trên thế giới và khảo sát cuộc sống của nhân dân các dân tộc bị áp bức. Năm 1911, Người đến Pháp, tiếp đó sống ở Mỹ từ năm 1912 đến năm 1913, sống ở Anh từ năm 1913 đến năm 1917, cuối năm 1917 Người trở về Pháp. Cuộc hành trình đã giúp Người nhận ra cội nguồn mọi sự đau khổ của nhân loại ở ngay những nước chính quốc. 43 Năm 1919, thay mặt những người yêu nước Việt Nam ở Pháp, Người gửi đến Hội nghị Vécxây bản Yêu sách của nhân dân An Nam để đòi quyền tự do, dân chủ, bình đẳng cho các dân tộc. Bản yêu sách tuy không được chấp nhận nhưng nó giúp Người hiểu được rằng, muốn được giải phóng không thể bằng con đường thương lượng, đàm phán mà phải bằng con đường khác. Tháng 7/1920 được tiếp xúc với Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Việc tiếp xúc với Luận cương của V.I. Lênin đã tạo ra bước ngoặt căn bản trong tư duy Hồ Chí Minh về mọi vấn đề chính trị, văn hóa, xã hội, đã giải đáp trúng điều trăn trở, tìm kiếm của Hồ Chí Minh. Người đã tìm thấy ở đó câu trả lời bức thiết nhất cho cả dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX là: Làm thế nào có thể giành được độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho mỗi người? Tháng 12/1920, tại Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp họp ở thành phố Tua, Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Đảng Xã hội Pháp gia nhập Quốc tế Cộng sản và đây cũng là sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Đây là sự kiện đánh dấu bước chuyển về chất trong tư tưởng của Người: từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin, lựa chọn con đường giải phóng dân tộc là con đường cách mạng vô sản. 44 Như vậy, thời kỳ này Hồ Chí Minh đã có sự chuyển biến vượt bậc về tư tưởng, từ giác ngộ chủ nghĩa dân tộc tiến lên thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, từ một chiến sĩ chống thực dân trở thành một chiến sĩ cộng sản. c) Giai đoạn từ năm 1921 đến năm 1930: Hình thành cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt Nam Đây là thời kỳ hoạt động thực tiễn và lý luận cực kỳ sôi nổi và phong phú của Nguyễn Ái Quốc trên đất Pháp (1921 - 1923), Liên Xô (1923 - 1924), Trung Quốc (1924 - 1927), Thái Lan (1928 - 1929). Trong khoảng thời gian này, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam đã được hình thành về cơ bản. - Hoạt động thực tiễn: Trong thời gian sống ở Pháp (1921 - 1923), Nguyễn Ái Quốc hoạt động với cương vị là Trưởng tiểu ban Đông Dương trong Ban Nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp, tham gia sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa, xuất bản tờ báo Le Paria (Người cùng khổ) nhằm tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin vào các nước thuộc điạ. Giữa năm 1923, Nguyễn Ái Quốc sang Mátxcơva dự Hội nghị Quốc tế Nông dân và được bầu vào đoàn chủ tịch của Hội. Sau đó Người tiếp tục tham dự các đại hội quốc tế cộng sản lần thứ V và các đại hội quần chúng khác: Quốc tế Thanh niên, Quốc tế Công hội đỏ và được học lớp bồi dưỡng tại trường Đại học Phương Đông. Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, 45 ra báo Thanh niên, mở lớp đào tạo, huấn luyện cán bộ chính trị đưa về nước hoạt động. Đầu năm 1930, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất 3 tổ chức cộng sản trong nước thành Đảng Cộng sản Việt Nam, trực tiếp soạn thảo Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam. - Hoạt động lý luận: Những bài viết của Hồ Chí Minh trong thời kỳ này như: Bản án chế độ thực dân Pháp (năm 1925), những bài viết trên báo chí của Đảng Cộng sản Pháp, cuốn Đường kách mệnh (năm 1927) đã thể hiện những quan điểm lớn, độc đáo, sáng tạo về con đường cách mạng Việt Nam, có thể tóm tắt như sau: Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải đi theo con đường cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng nhân dân lao động, giải phóng giai cấp công nhân, phải kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có quan hệ mật thiết với nhau. Cách mạng thuộc địa không lệ thuộc vào cách mạng chính quốc mà có tính chủ động, độc lập. Cách mạng thuộc địa có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng ở chính quốc và giúp cho cách mạng ở chính quốc trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn. Cách mạng thuộc địa trước hết là “dân tộc cách mệnh” đánh đuổi thực dân, đế quốc xâm lược, giành độc lập, tự do. 46 Giải phóng dân tộc là việc chung của cả dân chúng; phải tập hợp lực lượng dân tộc thành một sức mạnh to lớn để chống đế quốc và tay sai. Phải đoàn kết và liên minh với các lực lượng đế quốc, song phải nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, không được ỷ lại chờ đợi ở sự giúp đỡ của quốc tế. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, của cả dân tộc. Phải tổ chức quần chúng, lãnh đạo và tổ chức đấu tranh bằng các hình thức và khẩu hiệu thích hợp. Phương pháp đấu tranh để giành chính quyền là sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng và có thể bằng phương pháp khởi nghĩa dân tộc. Cách mạng muốn thành công trước hết phải có đảng cách mạng lãnh đạo, vận động và tổ chức quần chúng đấu tranh. Như vậy, toàn bộ con đường của cách mạng Việt Nam đã được thể hiện khá rõ trong giai đoạn này. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh cũng đã kết hợp nghiên cứu xây dựng lý luận với tuyên truyền tư tưởng giải phóng dân tộc, vận động tổ chức quần chúng đấu tranh, xây dựng tổ chức cách mạng, chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng của Hồ Chí Minh trong những năm 20 của thế kỷ XX được truyền bá vào Việt Nam, làm cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp ở Việt Nam trở thành một 47 phong trào tự giác, dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930, thông qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. d) Giai đoạn từ năm 1930 đến năm 1945: Vượt qua thử thách, kiên trì giữ vững lập trường cách mạng Tư tưởng của Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam thể hiện trong Hội nghị thành lập Đảng bị quan điểm tả khuynh trong Quốc tế Cộng sản (Đại hội VI) phê phán. Theo chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, Trần Phú về triệu tập Hội nghị Trung ương lần thứ nhất (tháng 10/1930) phê phán quan điểm của Nguyễn Ái Quốc ở Hội nghị thành lập Đảng và ra quyết định thủ tiêu Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng..., đặc biệt là ở việc xác định lực lượng, bước đi, phương thức tiến hành cách mạng, đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Trên cơ sở xác định chính xác con đường cần phải đi của cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã kiên trì bảo vệ quan điểm của mình về vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, về cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa và cách mạng vô sản, chống lại những biểu hiện tả khuynh và biệt phái trong Đảng. Trước tình hình thế giới mới (chủ nghĩa phát xít, nguy cơ chiến tranh thế giới), Đại hội VII Quốc tế Cộng sản (năm 1935) đã nhìn nhận một loạt vấn đề cơ bản của phong trào cách mạng thế giới, bắt đầu từ việc tự phê bình 48 về khuynh hướng “tả”, cô độc biệt phái, bỏ rơi ngọn cờ dân tộc và dân chủ đến chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, chủ trương thành lập mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh, đòi quyền dân sinh, dân chủ. Chính vì vậy, tháng 9/1938, Nguyễn Ái Quốc nhận được quyết định điều động về mặt trận Đông Dương để trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Đầu năm 1941, Nguyễn Ái Quốc về nước, trực tiếp chỉ đạo Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa I (tháng 5/1941), đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trên hết, tạm gác lại khẩu hiệu cách mạng điền địa, xoá bỏ vấn đề Liên bang Đông Dương, lập ra Mặt trận Việt Minh, thực hiện đại đoàn kết dân tộc, đưa tới thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Đó cũng là thắng lợi đầu tiên của tư tưởng Hồ Chí Minh. Như vậy, trong thời gian này, Hồ Chí Minh đã triệu tập Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, xây dựng cương lĩnh, định ra đường lối cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản, tổ chức quần chúng đấu tranh. Trong mấy năm đầu của những năm 30, Người kiên trì giữ vững quan điểm cách mạng của mình, vượt qua khuynh hướng “tả” đang chi phối Quốc tế Cộng sản, chi phối Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phát triển thành chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc, xác lập tư tưởng độc lập, tự do dẫn đến sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. 49 đ) Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1969: Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển và hoàn thiện Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, dân tộc Việt Nam bị buộc phải đối đầu với hai đế quốc to là Pháp và Mỹ. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng, với đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội và đại đoàn kết toàn dân, với phương châm kháng chiến gắn liền với kiến quốc (trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954) và tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc vừa kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc những năm 1954 - 1969; với sự giúp đỡ của bạn bè thế giới, Nhân dân Việt Nam chẳng những đã đánh thắng bọn đế quốc xâm lược, mà còn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc làm cơ sở cho sự nghiệp thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong hoàn cảnh đó, tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục được bổ sung, phát triển và hoàn thiện trên một loạt vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam như: đường lối vừa kháng chiến, vừa kiến quốc; đường lối chiến tranh nhân dân “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính”; xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước vốn là thuộc địa nửa phong kiến quá độ lên chủ nghĩa xã hội không trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong điều kiện đất nước bị chia cắt và có chiến tranh; về vấn đề xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền... 50 Câu hỏi 8: Phân tích những phẩm chất cá nhân, mối quan hệ giữa hoạt động lý luận và thực tiễn của Hồ Chí Minh trong quá trình hình thành và phát triển tư tưởng của Người? Trả lời: a) Những phẩm chất cá nhân Hồ Chí Minh Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm hoạt động tinh thần của cá nhân Hồ Chí Minh, phụ thuộc rất lớn vào các yếu tố nhân cách, phẩm chất và năng lực tư duy của chính người sáng tạo ra nó. Hồ Chí Minh là một con người sống có hoài bão, có lý tưởng, yêu nước, thương dân sâu sắc, có bản lĩnh kiên định, có khí tiết kiên cường trong đấu tranh thực hiện mục tiêu, lý tưởng đã lựa chọn, sẵn sàng hy sinh vì độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của Nhân dân. Hồ Chí Minh có tư chất thông minh, tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo cộng với đầu óc phê phán tinh tường, sáng suốt trong việc nghiên cứu, tìm hiểu các cuộc cách mạng tư sản hiện đại. Trong tư tưởng, lý luận, Người không giáo điều, phụ thuộc, bắt chước tư tưởng, hành động của người khác mà luôn có sự vận dụng sáng tạo, có sự bổ sung và phát triển thành tư tưởng của mình. Trong lãnh đạo cách mạng, Người luôn chủ động lựa chọn hướng đi đúng đắn cho nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân, dân tộc, không dựa dẫm, ỷ lại vào người khác; luôn vận dụng sáng tạo những quy luật chung của xã hội loài người, của thế giới vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. 51 Hồ Chí Minh là người có ý chí vượt khó, sự khổ công học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức phong phú của thời đại, vốn kinh nghiệm đấu tranh của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân quốc tế để có thể tiếp cận với chủ nghĩa Mác - Lênin, khoa học về cách mạng của giai cấp công nhân quốc tế. Người còn là một con người mẫu mực về đạo đức cách mạng, tác phong bình dị, chân tình, khiêm tốn, gần gũi với quần chúng, có sức cảm hóa lớn đối với mọi người. Những phẩm chất cá nhân ấy đã được phát huy trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh. Nhờ vậy, giữa vô vàn lý thuyết, học thuyết khác nhau, đối lập nhau, giữa đúng và sai, thật và giả đan xen lẫn lộn, Hồ Chí Minh đã tìm ra được mục tiêu, lý tưởng cách mạng đúng đắn và con đường để đi tới mục tiêu, thực hiện lý tưởng ấy. Giữa thực tiễn vô cùng sinh động, phức tạp với bao tình huống khó khăn, bao sóng gió, thử thách, có khi đe dọa cả cuộc sống và sinh mệnh chính trị của mình, Người vẫn đứng vững, vượt lên, vẫn kiên trì chân lý, có những quyết định đúng đắn và sáng suốt, những hoạt động sáng tạo để biến tư tưởng thành hiện thực. b) Mối quan hệ giữa hoạt động lý luận và thực tiễn trong quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh Trong quá trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh có sự kết hợp khá nhuần nhuyễn giữa hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn để thực hiện mục tiêu cách mạng 52 của mình. Người chính là hiện thân của chu trình hoạt động: thực tiễn sinh ra hiểu biết; hiểu biết tiến lên lý luận, lý luận lãnh đạo thực tiễn để đưa cách mạng đến thắng lợi. Trong 30 năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Hồ Chí Minh đã sống, học tập, hoạt động, công tác ở khoảng 30 nước trên thế giới. Người hiểu sâu sắc chủ nghĩa đế quốc, thực dân không chỉ qua tìm hiểu trên các loại tài liệu, sách, báo, radio mà còn hiểu biết sâu sắc về chúng qua thực tế cuộc sống và hoạt động tại các cường quốc đế quốc như: Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Italia, Nhật Bản, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha... Người đặc biệt xác định rõ bản chất, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc, thực dân và thấu hiểu tình cảnh người dân ở nhiều nước thuộc hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc ở châu Á, Âu, Phi, Mỹ Latinh... Người có sự hiểu biết ngày càng sâu sắc hơn về phong trào giải phóng dân tộc, về xây dựng chủ nghĩa xã hội, về xây dựng đảng cộng sản... không chỉ qua nghiên cứu lý luận mà còn qua việc bỏ phiếu tán thành Đảng Xã hội Pháp gia nhập Quốc tế Cộng sản và đây cũng là sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Pháp, rồi trở thành một cán bộ của Ban Phương Đông trực thuộc Quốc tế Cộng sản, qua hoạt động trong Đảng Cộng sản Trung Quốc, qua tham gia vào phong trào cộng sản và công nhân quốc tế ở nhiều nước, qua nghiên cứu đời sống xã hội ở Liên Xô - nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới... 53 Hồ Chí Minh là nhà tổ chức vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Cùng với việc tìm thấy mục tiêu, phương hướng cách mạng Việt Nam ở chủ nghĩa Mác - Lênin, Người đã sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức lãnh đạo cách mạng Việt Nam theo chủ nghĩa Mác - Lênin đi đến thắng lợi hoàn toàn. Người đã sáng lập Mặt trận dân tộc thống nhất, Quân đội nhân dân Việt Nam, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Cùng với đó là một hệ thống các quan điểm lý luận của Người về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền; về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; về mặt trận dân tộc thống nhất; về xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân... Điểm xuất phát của lý luận là thực tiễn. Thực tiễn thúc đẩy lý luận và lý luận cung cấp cơ sở khoa học cho mọi hành động cải tạo thực tiễn của con người. Không có thực tiễn thì không có nội dung của lý luận. Nhưng không có tư duy lý luận và hoạt động nghiên cứu lý luận bởi sự nỗ lực của chủ thể thì lý luận cũng không thể hình thành. Thấu hiểu được điều đó, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn có sự thống nhất trong quan niệm về mối quan hệ biện chứng giữa hoạt động lý luận và nghiên cứu, tổng kết thực tiễn. Từ thực tiễn Việt Nam, Người đã đưa ra nhiều luận điểm sáng tạo, khoa học như các quan điểm về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp; về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, về xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước có 54 nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, kèm phát triển... Những luận điểm đó đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh là hoàn toàn đúng đắn. Như vậy, tổng kết thực tiễn, khái quát lý luận, gắn hoạt động lý luận với hoạt động thực tiễn đã được Hồ Chí Minh thực hiện một cách triệt để. Điều đó được kết tinh trong con người, trong cuộc sống, trong suy nghĩ, hành động và trở thành nét đặc sắc trong tư tưởng của Hồ Chí Minh. 55 Chương III TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI Câu hỏi 9: Phân tích tính đúng đắn và sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc? Trả lời: a) Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của các dân tộc Đối với người dân mất nước, khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa là độc lập cho Tổ quốc, tự do cho nhân dân. Đó là lẽ sống, nguồn cổ vũ to lớn đối với các dân tộc bị áp bức trên thế giới trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Trong quá trình đi tìm đường cứu nước, Người đã tìm hiểu, tiếp nhận những nhân tố về quyền con người được nêu trong Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1791 của Pháp, như quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Từ quyền con người, Người đã khái quát lên 56 chân lý bất di bất dịch về quyền cơ bản của các dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”1. Thay mặt những người yêu nước Việt Nam ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã gửi tới Hội nghị Vécxây (năm 1919) bản Yêu sách của nhân dân An Nam đòi quyền tự do dân chủ tối thiểu, quyền bình đẳng về pháp lý, đòi thay chế độ ra sắc lệnh bằng các đạo luật. Bản yêu sách không được chấp nhận, dù chỉ là những đòi hỏi “rất ôn hòa cả về nội dung và hình thức”. Chính từ thực tế đó, Hồ Chí Minh rút ra kết luận, “chủ nghĩa Uynxơn” thực ra “chỉ là một trò bịp bợm lớn”2. Điều đó giúp Hồ Chí Minh hiểu được rằng muốn đánh đuổi chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc và được giải phóng không thể trông cậy vào lực lượng bên ngoài, không thể bằng con đường thương lượng, đàm phán mà phải tự mình đứng lên đấu tranh giành độc lập. Quyền bình đẳng dân tộc, độc lập tự do là quyền tự nhiên, quyền thiêng liêng, vô giá của các dân tộc. Vì vậy, bất cứ giá nào nhân dân các dân tộc cũng phải giành lại và bảo vệ cho bằng được. Trong Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh khẳng định trước toàn thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và ______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.1. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.441. 57 độc lập ấy”1. Trong các bức thư và điện văn gửi tới Liên hợp quốc và Chính phủ các nước vào thời gian đó, Người đã trịnh trọng tuyên bố “nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”2. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ thể hiện quyết tâm bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc. Người kêu gọi: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”3. Khi Mỹ mở rộng chiến tranh leo thang bắn phá miền Bắc, Hồ Chí Minh kêu gọi: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”4. Không có gì quý hơn độc lập, tự do không chỉ là lẽ sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh mà nó còn là lý do chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng của sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do của Việt Nam. Đồng thời, cũng là nguồn động viên đối với các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Vì vậy, Người không chỉ được tôn vinh là “Anh hùng giải phóng dân tộc” của Việt Nam mà còn được thừa nhận là người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ XX. b) Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, cơm no, áo ấm và hạnh phúc của Nhân dân Khát vọng mà suốt cuộc đời Người luôn hướng tới là ______________ 1, 2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.3, 522, 534. 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.131. 58 giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của đế quốc xâm lược, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc và hạnh phúc cho Nhân dân. Người nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”1. Khát vọng của Người cũng chính là khát vọng của tất cả mọi người dân yêu nước, là mục tiêu của cách mạng, của dân tộc Việt Nam. Với Người, “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”2. Dân chúng chỉ cảm nhận được giá trị thực sự của độc lập, tự do khi họ được ăn no, mặc ấm, được học hành để phát triển, có hiểu biết để thực hành quyền dân chủ, quyền và nghĩa vụ của người công dân. c) Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thực sự, độc lập hoàn toàn Dân tộc độc lập phải được thể hiện trên tất cả các mặt: chính trị, kinh tế, ngoại giao, quân sự, toàn vẹn lãnh thổ; mọi vấn đề thuộc chủ quyền của một dân tộc phải do chính nhân dân dân tộc đó tự quyết định, không có sự can thiệp của nước ngoài. Sau Cách mạng Tháng Tám, để bảo vệ nền độc lập mới giành được, Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký với Sainteny, đại diện Chính phủ Cộng hòa Pháp bản ______________ 1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.187, 64. 59 Hiệp định Sơ bộ ngày 06/3/1946, trong đó ghi: “Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Cộng hòa là một quốc gia tự do có Chính phủ của mình, Nghị viện của mình, quân đội của mình, tài chính của mình”1. Nền độc lập của dân tộc phải được gắn liền với việc lãnh thổ được toàn vẹn. Trong Thư gửi đồng bào Nam Bộ năm 1946, Hồ Chí Minh viết: “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”2. Sau Hiệp định Giơnevơ (năm 1954), Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai miền, Hồ Chí Minh tiếp tục kiên trì đấu tranh chống lại âm mưu chia cắt đất nước của kẻ thù. Người viết: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, không ai có thể chia cắt được”3. Trong Di chúc, Người vẫn thể hiện niềm tin tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng để thống nhất nước nhà. Độc lập, tự do không chỉ là tư tưởng mà còn là lẽ sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh, là mục tiêu chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng của dân tộc Việt Nam. d) Giữ vững độc lập của dân tộc mình đồng thời tôn trọng độc lập của các dân tộc khác Là một người yêu nước và là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh đòi quyền độc ______________ 1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.583, 280. 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.264. 60 lập tự do và hòa bình cho dân tộc Việt Nam, mà còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức. Ngay từ năm 1914, trên đất Anh, vào lúc cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra, Người đã đem toàn bộ số tiền dành dụm được từ đồng lương ít ỏi của mình ủng hộ quỹ kháng chiến của người Anh. Trong những năm 1921 - 1923, khi còn hoạt động ở Pháp, Hồ Chí Minh đóng vai trò chủ chốt trong việc thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa nhằm tuyên truyền, tổ chức, giúp đỡ các dân tộc thuộc địa nhận thức về sứ mệnh tự giải phóng. Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, thực hiện nguyên tắc về quyền dân tộc tự quyết, nhưng Hồ Chí Minh không quên nghĩa vụ quốc tế trong việc ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới. Người nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc, các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân Lào và Campuchia, đề ra khẩu hiệu “giúp bạn là tự giúp mình” và chủ trương phải bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc mang tính khoa học và cách mạng sâu sắc, thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, độc lập cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc. 61 Câu hỏi 10: Làm rõ luận điểm sau của Hồ Chí Minh: “Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản”. Ý nghĩa của luận điểm đó đối với tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam? Trả lời: a) Hồ Chí Minh nghiên cứu phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX Để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp, ông cha ta đã sử dụng nhiều con đường gắn với những khuynh hướng chính trị khác nhau, sử dụng những vũ khí tư tưởng khác nhau. Phong trào Cần Vương (1885 - 1896) do Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết phát động, mở đầu bằng cuộc tiến công trại lính Pháp ở cạnh kinh thành Huế (năm 1885). Việc không thành, Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi chạy ra Tân Sở (Quảng Trị), hạ chiếu Cần Vương. Mặc dù sau đó Hàm Nghi bị bắt, nhưng phong trào Cần Vương vẫn phát triển, nhất là ở Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa: Ba Đình của Phạm Bành và Đinh Công Tráng (1886 - 1887), Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật (1883 - 1892) và Hương Khê của Phan Đình Phùng (1885 - 1896). Cùng thời gian này còn nổ ra cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo, kéo dài đến năm 1913. Thất bại của phong trào Cần Vương chứng tỏ sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến và khuynh hướng thiết lập nhà nước phong kiến trong việc 62 giải quyết nhiệm vụ giành độc lập dân tộc do lịch sử đặt ra. Phong trào Cần Vương tan rã, các sĩ phu, các nhà yêu nước lúc bấy giờ đều tập trung suy nghĩ về nguyên nhân mất nước, con đường cứu nước để giải phóng dân tộc. Đầu thế kỷ XX, mặc dù giai cấp tư sản Việt Nam chưa ra đời nhưng hệ tư tưởng tư sản đã ảnh hưởng đến Việt Nam. Các trí thức phong kiến tiếp thu hệ tư tưởng này làm vũ khí chống Pháp, dấy lên phong trào yêu nước sôi nổi với hai xu hướng bạo động và cải cách. Đại diện tiêu biểu cho xu hướng bạo động là Phan Bội Châu. Với lòng yêu nước sâu sắc, Phan Bội Châu chủ trương đánh đuổi thực dân Pháp và thành lập một chính phủ quân chủ lập hiến. Ông chủ trương dùng phương pháp bạo động đánh đuổi thực dân Pháp để khôi phục độc lập dân tộc và dựa vào Nhật để đánh đuổi Pháp. Năm 1908, trước yêu cầu của thực dân Pháp, Chính phủ Nhật đã trục xuất những người Việt Nam yêu nước ra khỏi Nhật Bản. Phong trào Đông Du tan rã. Năm 1911, cách mạng Tân Hợi của Trung Quốc thành công, lật đổ nền quân chủ Mãn Thanh lập ra Nhà nước Trung Hoa Dân quốc, Phan Bội Châu đã chuyển lập trường từ chủ nghĩa quân chủ sang chủ nghĩa dân chủ. Ông tuyên bố giải tán Duy Tân hội và thành lập Việt Nam Quang Phục hội, nhằm mục đích đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam, thành lập nước Cộng hòa Dân quốc Việt Nam. Để đạt được những mục tiêu trên, Phan Bội Châu đã chủ trương đấu tranh bằng phương pháp bạo động vũ trang giành chính quyền. Chủ trương trên của Phan Bội Châu 63 bước đầu đạt được một số kết quả như: cuộc bạo động của đội Quyến, đội Phấn, ấm Võ ở vùng Nghệ - Tĩnh, ném bom vào khách sạn của Pháp ở Hà Nội, ám sát Tuần phủ ở Thái Bình, cuộc khởi nghĩa ở Thái Nguyên... Tuy nhiên, chủ trương bạo động giành chính quyền của Phan Bội Châu không diễn ra theo ý muốn, cuối cùng dẫn đến kết cục thất bại trước sự đàn áp của thực dân Pháp. Trong tác phẩm Đường kách mệnh, Hồ Chí Minh viết: “Ám sát là làm liều, và kết quả ít, vì giết thằng này còn thằng khác, giết sao cho hết? Cách mệnh thì phải đoàn kết dân chúng bị áp bức để đánh đổ cả cái giai cấp áp bức mình, chứ không phải chỉ nhờ 5, 7 người giết 2, 3 anh vua, 9, 10 anh quan mà được”1. Đại diện cho xu hướng cải lương, cải cách là Phan Châu Trinh. Phan Châu Trinh đã phê phán gay gắt sự lạc hậu, tính trì trệ, yếu hèn của Nhà nước quân chủ phong kiến Việt Nam. Ông cho rằng trình độ của Nhân dân Việt Nam lúc đó còn rất thấp nên muốn làm cách mạng thì trước hết phải khai dân trí (khai trí cho dân) và nâng cao quyền tự do dân chủ. Nhưng quyền hành lại nằm trong tay các vua quan, vì vậy phải đánh đổ vua quan thì mới khai được dân trí. Do đó, phải tiến hành đấu tranh bằng con đường cải lương, đòi quyền tự do dân sinh, dân chủ, tạm thời dựa vào Pháp để đánh đổ giai cấp địa chủ phong kiến. Đây là một cách nhận thức không đúng cả về phương hướng và phương pháp đấu tranh, vì đặc trưng ______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.299. 64 cơ bản của xã hội Việt Nam lúc này là xã hội thuộc địa. Thực dân Pháp và một bộ phận địa chủ, phong kiến tay sai câu kết với nhau để bóc lột nhân dân. Sự ngộ nhận về bản chất kẻ thù là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến phương pháp đấu tranh không đúng của ông. Đau xót trước cảnh dân tộc mất độc lập, nhân dân nô lệ, nhiệt thành với công cuộc chấn hưng dân tộc, nhưng Phan Châu Trinh không thấy được nguồn gốc của việc mất nước, của sự lạc hậu là do chủ nghĩa thực dân Pháp gây ra. Trong những năm 20 của thế kỷ XX, một số nhân sĩ trí thức yêu nước đã có những hoạt động vì công cuộc giải phóng dân tộc, trong đó đáng chú ý là những hoạt động của Huỳnh Thúc Kháng. Đặc điểm nổi bật trong những hoạt động của Huỳnh Thúc Kháng là vận động công khai nhằm chấn hưng dân tộc. Ông cho rằng con đường cách mạng công khai, hợp pháp là con đường có nhiều khả năng dẫn đến thành công. Tuy nhiên, sau đó ông đã nhận ra rằng nghị trường tư sản và con đường cách mạng hợp pháp công khai mà ông theo đuổi chỉ là ảo tưởng. Như vậy, con đường giải phóng dân tộc theo khuynh hướng dân chủ tư sản cũng bị thất bại và không đáp ứng được yêu cầu của lịch sử dân tộc Việt Nam đặt ra lúc bấy giờ. Nguyên nhân thất bại của phong trào yêu nước Việt Nam giữa thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã thể hiện sự khủng hoảng về đường lối cách mạng, về lực lượng lãnh đạo có đủ khả năng đáp ứng yêu cầu của lịch sử, đặc biệt trong đó phải nói đến sự bế tắc về phương pháp đấu tranh của các sĩ phu, văn thân yêu nước đương thời. 65 Từ những bài học thực tiễn của các phong trào yêu nước Việt Nam là cơ sở quan trọng để hình thành một tư duy cách mạng mới ở Hồ Chí Minh. Đó là phải tìm một con đường cứu nước mới khác với con đường cứu nước của các vị cách mạng tiền bối. Chính vì vậy, Người đã quyết định đi ra nước ngoài để tìm con đường cứu nước, giành độc lập cho dân tộc, mang lại hạnh phúc, ấm no cho Nhân dân. b) Hồ Chí Minh nghiên cứu các cuộc cách mạng trên thế giới Nghiên cứu cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Mỹ, Hồ Chí Minh đối chiếu thể chế chính trị của nước Mỹ với cuộc sống của các giai cấp, dân tộc thuộc nhiều màu da khác nhau, Người đi đến kết luận: “Mỹ tuy rằng cách mệnh thành công đã hơn 150 năm nay, nhưng công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính cách mệnh lần thứ hai. Ấy là vì cách mệnh Mỹ là cách mệnh tư bản, mà cách mệnh tư bản là chưa phải cách mệnh đến nơi”1. Nghiên cứu cuộc cách mạng Pháp năm 1789, Hồ Chí Minh đã học được nhiều kinh nghiệm quý, nâng cao tầm hiểu biết về vai trò của các giai cấp trong cách mạng tư sản, về tổ chức, tinh thần, ý chí cách mạng của quần chúng. Nhưng Người thấy rằng, “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, ______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.291-292. 66 kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hẵng còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức. Cách mệnh An Nam nên nhớ những điều ấy”1. Nghiên cứu cách mạng Nga đặc biệt là Cách mạng Tháng Mười (năm 1917), Hồ Chí Minh nhận thấy đó là một cuộc cách mạng giai cấp, đồng thời là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, nằm trong dòng chảy liên tục của quá trình giải phóng con người. Nó làm cho phong trào cách mạng vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa phương Đông có quan hệ mật thiết với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Người viết: “Cách mạng Tháng Mười như tiếng sét đã đánh thức nhân dân châu Á tỉnh giấc mê hàng thế kỷ nay. Cách mạng Tháng Mười đã mở ra trước mắt họ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”2. Xét về bản chất Cách mạng Tháng Mười như là một sự nổi trội, vượt xa và khác hẳn các cuộc cách mạng xã hội từng diễn ra trong lịch sử trước đó, vì: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. ______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.296. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.164. 67 Cách mệnh Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho công, nông các nước và dân bị áp bức các thuộc địa làm cách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới”1. c) Hồ Chí Minh nghiên cứu lý luận và lựa chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc Sau khi đọc được Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin đăng trên báo Nhân đạo (L’Humanité) trong hai số ngày 16 và 17/7/1920, một tờ báo của cánh tả Đảng Xã hội Pháp, Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”2. Người kể lại rằng bản Luận cương có những chữ khó hiểu, nhưng “tôi đọc đi đọc lại và dần dần tôi hiểu ý nghĩa của nó một cách sâu sắc. Bản Luận cương làm cho tôi cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng” và Người nhận thấy “đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”. Từ đó, Người đã có một sự lựa chọn: “tán thành Quốc tế thứ ba và hoàn toàn tin theo Lênin”3. Cả một quá trình phấn đấu, suy nghĩ về vận mệnh đất nước, rút kinh nghiệm, khảo sát trong nhiều năm tháng về con đường giải phóng dân tộc, học tập lý luận, tham gia đấu tranh chính trị, vào Đảng Xã hội, sát cánh với giai cấp ______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.304. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.30. 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.584. 68 công nhân và trí thức cách mạng Pháp, với những đồng bào yêu nước của mình trên đất Pháp, là những tiền đề quan trọng chuẩn bị cho Hồ Chí Minh gặp gỡ và tiếp nhận những quan điểm của V.I. Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Người đã có thêm những nhận thức mới, sáng rõ hơn về cách mạng thuộc địa, về con đường giải phóng các dân tộc khỏi gông cùm nô lệ, con đường giành độc lập cho dân tộc và tự do cho Nhân dân. Có thể khẳng định, chính Luận cương của V.I. Lênin đã tạo ra bước ngoặt căn bản trong sự phát triển nhận thức, tư tưởng của Hồ Chí Minh. Nó phù hợp và đáp ứng những tình cảm, suy nghĩ, hoài bão được ấp ủ từ lâu, nay trở thành hiện thực. Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng lý luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã có sự sáng tạo trong việc vạch ra phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong Chánh cương vắt tắt của Đảng, Người chỉ rõ “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”1. d) Ý nghĩa của luận điểm đối với tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam Những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam như: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, những thắng lợi trong 30 năm chiến tranh ______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.1. 69 cách mạng Việt Nam 1945 - 1975 là thắng lợi của chiến lược giải phóng dân tộc Hồ Chí Minh theo con đường cách mạng vô sản, con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, tạo một bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng chỉ rõ “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn”1. Đại hội X (tháng 4/2006) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổng kết, tiếp thu và làm rõ hơn những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Nhân dân Việt Nam xây dựng. Hội nghị 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X (tháng 3/2010) cũng đã thảo luận và làm sáng tỏ thêm về các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, về vị trí, vai trò của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam... Từ thực tiễn hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới cho thấy nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản. Cũng từ chính thực tiễn đó, cho phép chúng ta khẳng định con đường mà Hồ Chí Minh lựa chọn là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh, một hệ tư tưởng có giá trị, một học thuyết giải phóng và phát triển dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân Việt Nam sẽ vượt ______________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Sđd, tr.455. 70 qua mọi khó khăn, trở ngại, kiên trì mục tiêu xây dựng Việt Nam thành một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các nước tiên tiến trên thế giới. Câu hỏi 11: Làm rõ sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong quan điểm: “Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc”. Ý nghĩa của quan điểm đó đối với cách mạng Việt Nam? Trả lời: a) Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc Xuất phát từ tình hình thực tế ở các nước tư bản phương Tây, C. Mác và Ph. Ăngghen tuy có đề cập đến vấn đề độc lập dân tộc của các nước bị các dân tộc lớn thống trị nhưng chưa có điều kiện bàn về cách mạng giải phóng ở thuộc địa. Các ông cho rằng, một dân tộc đi áp bức dân tộc khác, dân tộc đó không có tự do. Khi giai cấp vô sản ở chính quốc giành được chính quyền thì đương nhiên các dân tộc thuộc địa sẽ được giải phóng. Xuất phát từ lợi ích trực tiếp của giai cấp vô sản các nước Tây Âu, Ph. Ăngghen nêu rõ, phong trào giải phóng dân tộc phải phục tùng mục đích cách mạng vô sản của Tây Âu “Chúng ta phải cùng nhau đấu tranh để giải phóng 71 giai cấp vô sản Tây Âu và bắt tất cả những cái còn lại phải phục tùng mục đích ấy”1 và “nếu nguyện vọng giải phóng của họ xung đột với lợi ích của giai cấp vô sản, thì tôi hoàn toàn không quan tâm đến họ”2. Phải đến khi giai cấp vô sản châu Âu được giải phóng thì nhân dân các nước thuộc địa sẽ trở thành người tự do, thực sự được giải phóng. Như vậy, các ông không đi sâu giải quyết vấn đề dân tộc vì về cơ bản vấn đề dân tộc ở Tây Âu đã được giải quyết trong cách mạng tư sản. Đặc biệt là các ông chưa có điều kiện bàn nhiều về vấn đề dân tộc thuộc địa, vẫn “đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân tộc và chung cho toàn thể giai cấp vô sản”3. Điều đó hoàn toàn đúng với đòi hỏi của thực tiễn cách mạng vô sản Tây Âu đang đặt ra lúc bấy giờ. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã nhận xét rằng: “Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”4. Vì vậy, khi vận dụng học thuyết Mác để nghiên cứu phương Đông, nhất là Việt Nam, cần phải xem xét lại cơ sở lịch sử và phải bổ sung vào học thuyết đó những tư liệu lịch sử phương Đông mà ở thời C. Mác không thể có được. ______________ 1, 2. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.35, tr.364. 3. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.614. 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.509-510. 72 Bước sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc trở thành hệ thống thế giới, cách mạng giải phóng dân tộc trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản, V.I. Lênin mới có cơ sở thực tiễn để phát triển vấn đề dân tộc thuộc địa thành một hệ thống lý luận, được coi là học thuyết về cách mạng thuộc địa. Ông là người đã sớm nhận thấy sức mạnh to lớn của phong trào giải phóng dân tộc và là người đã viết đề cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Trong Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc tộc và vấn đề thuộc địa, V.I. Lênin đã nhấn mạnh quan điểm phải kết hợp phong trào giải phóng dân tộc với phong trào cách mạng vô sản ở chính quốc, các nước làm cách mạng vô sản thành công phải giúp đỡ cách mạng ở các nước thuộc địa, nhất là các nước lạc hậu, còn nhiều tàn tích phong kiến. Theo V.I. Lênin, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc sẽ không thể giành được thắng lợi nếu nó không biết liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa. Song, cũng như những người lãnh đạo Quốc tế Cộng sản lúc bấy giờ, V.I. Lênin đặt cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng vô sản chính quốc, là “hậu bị quân” của cách mạng vô sản chính quốc và cách mạng giải phóng dân tộc chỉ có thể thắng lợi khi cách mạng vô sản chính quốc thắng lợi. Tuyên ngôn thành lập Quốc tế Cộng sản (tháng 3/1919) viết: “Việc giải phóng các thuộc địa chỉ có thể tiến hành với việc giải phóng giai cấp công nhân ở chính quốc...” và “công nhân và nông dân không chỉ ở Angiêri, Bănggan, mà cả ở Ba Tư hay Ácmêni 73 chỉ có thể được độc lập khi nào công nhân ở Anh và ở Pháp lật đổ Chính phủ “Lôigioóc” và “Clêmăngxô” giành chính quyền về tay mình”1. Quan điểm này, vô hình trung đã làm giảm tính chủ động, sáng tạo của phong trào cách mạng ở thuộc địa. Quan điểm trên của V.I. Lênin và Quốc tế Cộng sản đã được thực tiễn của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga (năm 1917) chứng minh là hoàn toàn đúng đắn. Bởi lẽ, sau khi cách mạng vô sản Nga giành được thắng lợi đã tạo điều kiện để giải phóng các dân tộc vốn là thuộc địa của Nga giành độc lập. b) Quan điểm của Hồ Chí Minh về quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc Qua hoạt động thực tiễn phong phú, Hồ Chí Minh sớm nhận ra mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc. Đó là mối quan hệ bình đẳng chứ không phải là quan hệ phụ thuộc hay chính phụ. Người đã vạch rõ bản chất của chủ nghĩa tư bản là vừa áp bức, bóc lột giai cấp công nhân chính quốc, vừa đàn áp nhân dân các dân tộc thuộc địa. Do đó, muốn đánh đổ chủ nghĩa đế quốc thì cách mạng giải phóng dân tộc ở ______________ 1. Dẫn theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp (Chủ biên): Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Sđd, tr.84. 74 thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc phải phối hợp với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung. Ngày 16/5/1924, trong bài báo nhan đề Cách mạng Nga và các dân tộc thuộc địa, đăng trên báo La Vie Ouvrière, Người nêu rõ: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra”1. Đối với cách mạng thuộc địa, phải “Làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”2. Với tinh thần độc lập, tự chủ, Người đi đến luận điểm: “Công cuộc giải phóng anh em (tức nhân dân thuộc địa - TG), chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”3. Xuất phát từ sự phân tích quan hệ giai cấp trong xã hội thuộc địa, nhận thức được vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa, đánh giá đúng sức mạnh dân tộc, năm 1921, Hồ Chí Minh dự đoán cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Đây là điểm khác biệt với quan điểm ______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.320. 2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.134, 138. 75 của phong trào cộng sản quốc tế khi cho rằng: “Cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc”1. Người khẳng định: “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”2. Trong tác phẩm Đường kách mệnh, Hồ Chí Minh viết: “An Nam dân tộc cách mệnh thành công thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ. Và nếu công nông Pháp cách mệnh thành công, thì dân tộc An Nam sẽ được tự do”3. Để đưa ra được nhận định này, Hồ Chí Minh đã có một sự hiểu biết sâu sắc đất nước, con người, lịch sử và cuộc sống, sự đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa, đặc biệt là của Việt Nam với toàn bộ đặc điểm vốn có của nó. Quá trình đi tìm đường cứu nước, tìm phương pháp đấu tranh với kẻ thù, Hồ Chí Minh đã đi sâu nghiên cứu ______________ 1. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh: Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (Tái bản có sửa chữa, bổ sung), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.77. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.48. 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.287. 76 các thủ đoạn, tội ác của thực dân Pháp ở Việt Nam. Người dành thời gian đọc rất nhiều nguồn tài liệu từ kho lưu trữ và các thư viện của nước Pháp, kết hợp với việc khảo sát, kiểm nghiệm thực tiễn đời sống của Nhân dân Việt Nam dưới chế độ thực dân. Trên cơ sở ấy, Người viết tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp. Với những bằng chứng cụ thể và sát thực, Hồ Chí Minh đã vạch trần sự bưng bít có tính chất hệ thống của thực dân Pháp về tội ác của chúng ở Việt Nam và các nước thuộc địa. Người chỉ ra một cách thuyết phục rằng, thực dân Pháp đã thi hành một chính sách phi kinh tế, thu lợi nhuận tối đa, thực hiện chuyên chế về chính trị, thẳng tay đàn áp, không cho nhân dân Việt Nam được hưởng quyền tự do ngôn luận, tự do dân chủ. Trong bài Đông Dương khổ nhục, Hồ Chí Minh tố cáo: “Ở Đông Dương giết người là việc xảy ra hàng ngày... Từ người đại diện tối cao của nhà nước chính quốc đến những tên thực dân bình thường, ai nấy cũng tự ý và đua nhau giết hại, bóc lột đến tận xương tủy dân tộc đã bị chinh phục này... đế quốc Pháp với quân lính của chúng đã coi tính mạng người Đông Dương như cỏ rác, muốn thì chúng tước đoạt của cải, thích thì chúng bắn giết. Nhưng áp bức càng đè nặng lên vai dân chúng bao nhiêu thì dân chúng chống lại càng nhiều bấy nhiêu”1. Do đó, “Trong những năm gần đây, dân bản xứ bị bóc lột ngày một thêm tệ nên họ đã chống chủ nghĩa đế quốc quyết liệt”2. Điều đó ______________ 1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.395-396. 77 chứng tỏ “bây giờ căm hờn đã sôi sục trong lòng những người nô lệ và từ đây chủ nghĩa đế quốc Pháp không còn có thể bóc lột dân chúng Đông Dương mà không gặp những cuộc đấu tranh một sống một chết”1. Theo Người, chế độ thực dân là tha hóa tàn bạo nhất, là kết quả tất yếu của sự phát triển phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nhân dân thuộc địa vừa phải chịu sự nô dịch, đè nén bằng lưỡi lê của nền văn minh, vừa bằng cây thánh giá của giáo hội. Trên thế giới không có dân tộc nào bị đàn áp, hành hạ như người dân thuộc địa. Rõ ràng, vì bị áp bức nặng nề như thế nên người dân thuộc địa, trong đó đông đảo nhất là người lao động, là nông dân, công nhân... đang tiềm ẩn một sự phản kháng mãnh liệt và sẽ bùng nổ khi có thời cơ. Ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ tiềm năng cách mạng to lớn của các dân tộc bị áp bức và nó sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ khi được giác ngộ và tổ chức. Người viết: “Người châu Á - tuy bị người phương Tây coi là lạc hậu - vẫn hiểu rõ hơn hết sự cần thiết phải cải cách toàn bộ xã hội hiện tại”2. Người dự báo: “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ...”3. ______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.396. 2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.47, 48. 78