🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tư Tưởng Chính Trị Của C.Mác, Ph.Ăngghen V.I.Lênin Và Hồ Chí Minh Ebooks Nhóm Zalo Chịu trách nhiệm xuất bản: Q. GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP PHẠM CHÍ THÀNH Chịu trách nhiệm nội dung: ỦY VIÊN HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP - XUẤT BẢN TS. VÕ VĂN BÉ Biên tập nội dung: Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Đọc sách mẫu: ThS. PHẠM NGỌC BÍCH ThS. NGUYỄN THỊ HẢI BÌNH NGUYỄN THỊ HƯƠNG ThS. NGUYỄN VIỆT HÀ HỒNG MAI HOÀNG MINH TÁM NGUYỄN HƯƠNG BÙI BỘI THU Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 4139-2020/CXBIPH/16-337/CTQG. Số quyết định xuất bản: 5367-QĐ/NXBCTQG, ngày 15/10/2020. Nộp lưu chiểu: tháng 10 năm 2020. Mã ISBN: 978-604-57-6111-3. Biên mục trên xuất bản phẩm của Thư viện Quốc gia Việt Nam Lê Minh Quân Tư tưởng chính trị của C. Mác, Ph. Ăngghen, V. I. Lênin và Hồ Chí Minh : Sách chuyên khảo / Lê Minh Quân. - H. : Chính trị Quốc gia, 2020. - 328tr. ; 21cm 1. Marx, Karl, 1818-1883, Triết gia, chính trị gia, Đức 2. Engels, Friedrich, 1820-1895, Triết gia, chính trị gia, Đức 3. Lenin, Vladimir Ilich, 1870-1924, Lãnh tụ Cách mạng, triết gia, Nga 4. Hồ Chí Minh, 1890-1969, Lãnh tụ Cách mạng, Việt Nam 5. Tư tưởng chính trị 6. Sách chuyên khảo 320.5322 - dc23 CTF0454p-CIP 2 LỜI NHÀ XUẤT BẢN Nghiên cứu để nhận thức sâu sắc hơn, vận dụng và làm phong phú hơn kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng chính trị đáp ứng yêu cầu của tình hình mới là một trong những nhiệm vụ to lớn và khó khăn của công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. Cho đến nay, việc nghiên cứu và vận dụng tư tưởng chính trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta đã được triển khai trong nhiều bộ môn khoa học lý luận chính trị, nhất là những môn khoa học lý luận chính trị có tính nền tảng và chuyên ngành. Với sự ra đời của bộ môn Chính trị học, tư tưởng chính trị của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh trở thành đối tượng nghiên cứu trực tiếp và được nghiên cứu với tính cách là một chỉnh thể. Với phương pháp tiếp cận của Chính trị học, tư tưởng chính trị của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh được nghiên cứu một cách có hệ thống và với những phương pháp mới, bước đầu mang lại những kết quả nhất định và hứa hẹn nhiều triển vọng. Sự phát triển của các bộ môn khoa học chính trị, trong đó có bộ môn Chính trị học và môn học Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị, nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, ngày càng đòi hỏi phải đi sâu nghiên cứu tư tưởng chính trị của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh. Những nghiên cứu này, một mặt, hướng tới những vấn đề lý thuyết của chính trị, nhất là những quan điểm có tính 5 nền tảng của các nhà kinh điển về chính trị, mặt khác và quan trọng hơn, hướng tới những vấn đề chính trị thực tiễn từ công cuộc đổi mới, trong đó có đổi mới chính trị và mối quan hệ của nó với đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay. Để tiếp tục phục vụ cho việc học tập và nghiên cứu, tham khảo và vận dụng tư tưởng chính trị của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản lần thứ tư, có chỉnh lý, bổ sung cuốn sách Tư tưởng chính trị của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh do PGS.TS. Lê Minh Quân, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, biên soạn. Cuốn sách gồm Lời mở đầu, Kết luận và ba phần như sau: Phần thứ nhất: Tư tưởng chính trị của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh. Đây là phần tổng quan tư tưởng chính trị của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh và tư tưởng của các ông về dân chủ và chống quan liêu, tham nhũng. Phần thứ hai: Giới thiệu một số tác phẩm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh về chính trị. Phần thứ ba: C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin với cuộc đấu tranh bảo vệ và phát triển tư tưởng chính trị của chủ nghĩa Mác. Nghiên cứu tư tưởng chính trị, nhất là chọn lọc và giới thiệu những luận điểm, quan điểm về chính trị của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh từ các tác phẩm kinh điển là một công việc khó khăn, đòi hỏi nhiều thời gian và công sức, sự hiểu biết và ý thức trách nhiệm. Mặc dù đã có nhiều cố gắng từ phía tác giả và Nhà xuất bản, nhưng cuốn sách khó tránh khỏi còn những khiếm khuyết. Rất mong nhận được sự góp ý chân thành của bạn đọc để những lần tái bản sau cuốn sách hoàn chỉnh hơn. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc. Tháng 01 năm 2020 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 6 LỜI MỞ ĐẦU Tư tưởng chính trị của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh có thể xem là nội dung chủ yếu trong hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trước đây, ở Việt Nam tư tưởng chính trị của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh được nghiên cứu trong nhiều bộ môn khoa học chính trị, trước hết là các môn Triết học, Kinh tế chính trị học, Chủ nghĩa xã hội khoa học và sau này là Tư tưởng Hồ Chí Minh. Với phương pháp tiếp cận nghiên cứu này, tư tưởng chính trị của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh, một mặt, được xem xét như là sự phát triển hợp lôgíc của các bộ môn khoa học có liên quan, nhất là các bộ môn khoa chính trị có tính chất nền tảng của khoa học chính trị ở Việt Nam như triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học và tư tưởng Hồ Chí Minh; mặt khác, lại được xem như là sự vận dụng vào những lĩnh vực cụ thể của chính trị, vào việc giải quyết những nhiệm vụ chính trị cụ thể trong các môn khoa học chính trị có tính chất chuyên ngành như Lịch sử Đảng, Xây dựng Đảng, Nhà nước và pháp luật, Văn hóa xã hội chủ nghĩa và Quan hệ quốc tế, v.v.. 7 Với sự ra đời của Chính trị học ở Việt Nam, bộ môn khoa học này ngày càng được xác định là bộ môn khoa học chính trị cơ bản ở nước ta. Từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX, tư tưởng chính trị của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh trở thành đối tượng nghiên cứu trực tiếp của Chính trị học, hơn nữa còn trở thành một môn học - Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị. Với phương pháp tiếp cận nghiên cứu này, tư tưởng chính trị của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh được Chính trị học nghiên cứu với tính cách là một thể thống nhất. Chính trị học, một mặt, triển khai nghiên cứu những quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh về các vấn đề của chính trị, mặt khác, dựa chắc vào các cơ sở của triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học và tư tưởng Hồ Chí Minh để luận giải những vấn đề của chính trị. Chính trị học ở Việt Nam, trước hết nghiên cứu một cách có hệ thống các quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh về những vấn đề cơ bản của chính trị nói chung như các quan điểm về quyền lực và chính trị, về quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước, về khoa học và nghệ thuật giành, giữ, thực thi quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước. Đồng thời, Chính trị học ở Việt Nam còn nghiên cứu một cách có hệ thống các quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh về những vấn đề chính trị cơ bản của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, từ những vấn đề giai cấp, 8 đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản, dân tộc và giải phóng dân tộc đến những vấn đề về xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, v.v.. Từ đây, khi nghiên cứu và giải quyết những vấn đề của chính trị hiện đại, về lý luận cũng như thực tiễn, chúng ta không chỉ dựa trên cơ sở triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học mà còn dựa trên cơ sở của Chính trị học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Thực tế nghiên cứu và giảng dạy bộ môn Chính trị học nói chung và môn học Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị nói riêng ở nước ta những năm qua cho thấy, việc xác định đúng đắn đối tượng và phương pháp nghiên cứu của môn học này là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. Cho đến nay, ở nước ta những công trình nghiên cứu về tư tưởng chính trị của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh, nhất là từ góc độ chính trị học vẫn còn hiếm. Các công trình đã có chủ yếu là những trích dẫn từ một số tác phẩm kinh điển của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh về những vấn đề cơ bản của chính trị. Công trình nghiên cứu ở mức độ khiêm tốn này mong muốn bước đầu xây dựng một cách nhìn tổng quát và có hệ thống về tư tưởng chính trị của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh. Với phương pháp kết hợp lôgíc và lịch sử, ở đây các vấn đề nghiên cứu vừa được trình bày theo vị trí, tầm quan trọng của các quan điểm về chính trị của các nhà 9 kinh điển, vừa được trình bày theo quá trình hình thành và phát triển của các quan điểm ấy. Trên cơ sở tổng quan về tư tưởng chính trị của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh, công trình này đi sâu phân tích quan điểm của các ông, nhất là những luận điểm còn ít được biết đến và bàn luận về vấn đề dân chủ, vấn đề xây dựng và thực hiện quyền làm chủ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, vấn đề chống sự suy thoái và biến chất của quyền lực - vấn đề chống quan liêu, tham nhũng và mối quan hệ giữa những vấn đề ấy với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Để làm rõ hơn những quan điểm về chính trị của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh, công trình phân tích những luận điểm của các ông về nhiều vấn đề chính trị cụ thể thông qua việc lựa chọn giới thiệu một số tác phẩm chủ yếu về chính trị, trong đó có các tác phẩm luận chiến, chống lại những kẻ thù của tư tưởng chính trị của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong các tác phẩm được lựa chọn giới thiệu và phân tích lần này có những tác phẩm lần đầu tiên được giới thiệu và giới thiệu đầy đủ. Việc lựa chọn giới thiệu một số tác phẩm kinh điển về chính trị ở đây có ý nghĩa tương đối, bởi lẽ trong các tác phẩm về triết học, kinh tế chính trị học, v.v. các ông đều ít nhiều nói tới, hướng tới chính trị, thậm chí còn đặt nền tảng thế giới quan và phương pháp luận cho việc luận giải các vấn đề của chính trị; đồng thời, trong các tác phẩm về chính trị, các ông vẫn luôn phát hiện, bổ sung và 10 phát triển các quan điểm triết học và kinh tế chính trị học v.v. của mình. Nghiên cứu tư tưởng chính trị của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh đòi hỏi phải kết hợp tìm hiểu các trước tác do các ông để lại với tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp hoạt động chính trị và xã hội phong phú của các ông. Tư tưởng của các ông nói chung và tư tưởng chính trị của các ông nói riêng là kết quả của sự nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn trên tinh thần khoa học và cách mạng, gắn lý luận với thực tiễn. Công trình cố gắng kết hợp việc phân tích các quan điểm lý luận với việc nêu những sự kiện, những nhân chứng lịch sử thể hiện sinh động cuộc đời và sự nghiệp của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh, thể hiện sự thống nhất trong hoạt động thực tiễn và lý luận của các ông, giúp hiểu sâu sắc hơn không chỉ tư tưởng mà còn phương pháp, đạo đức và phong cách của các ông. Công trình nghiên cứu ở mức độ khiêm tốn này, trong đó có sự kế thừa những công trình đã có, về tư tưởng chính trị của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh mong muốn được tham gia xây dựng và phát triển bộ môn Chính trị học, trong đó có môn Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị, cũng như nghiên cứu và phát triển lý luận nói chung ở nước ta. Đồng thời, công trình này mong muốn được tham gia vào hoạt động thực tiễn thông qua việc khái quát và hệ thống hóa những tư tưởng chính trị chủ yếu của các nhà kinh điển 11 như là cơ sở lý luận của công cuộc đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội, trong đó có đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, xây dựng và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân nói riêng ở nước ta hiện nay. Tác giả 12 Phần thứ nhất TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA C.MÁC, PH.ĂNGGHEN, V.I.LÊNIN VÀ HỒ CHÍ MINH 13 14 Chương I TỔNG QUAN TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA C.MÁC, PH.ĂNGGHEN, V.I.LÊNIN VÀ HỒ CHÍ MINH I- TỔNG QUAN TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA C.MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN 1. Tư tưởng chính trị của C.Mác và Ph.Ăngghen được hình thành từ cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản từ đầu thế kỷ XIX trên cả hai địa hạt lý luận và thực tiễn. Trên cơ sở những nghiên cứu lý luận và thực tiễn với tinh thần phê phán và cách mạng, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng nên cơ sở thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng cho việc hình thành một quan niệm khoa học mới về chính trị. Chủ nghĩa duy vật biện chứng do các ông phát hiện ra là một chỉnh thể thế giới quan, phương pháp luận và hệ tư tưởng khoa học của thời đại mới. Nó cung cấp cho giai cấp công nhân và quần chúng lao động công cụ nhận thức khoa học về bản chất và các quy luật vận động của lịch sử; hình thành quan niệm duy vật về lịch sử, nhận rõ vai trò sáng tạo ra lịch sử của quần chúng nhân dân và lịch sử được xem như là một quá trình lịch sử - tự nhiên. 15 Ph.Ăngghen khẳng định, C.Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử thế giới. Trước kia toàn bộ quan niệm về lịch sử đều dựa trên quan điểm cho rằng, xét cho cùng thì phải đi tìm nguyên nhân của mọi biến đổi lịch sử ở tư tưởng đang luôn luôn thay đổi của con người và cho rằng trong tất cả những chuyển biến lịch sử, những chuyển biến chính trị là những chuyển biến quan trọng nhất chi phối toàn bộ lịch sử. Nhưng C.Mác đã chứng minh được rằng, toàn bộ lịch sử loài người từ trước đến nay là lịch sử đấu tranh giành quyền lực giữa các giai cấp với nhau, là việc giữ lấy quyền thống trị cho những giai cấp cũ và giành lấy quyền thống trị cho những giai cấp mới. Giai cấp và quan hệ giai cấp, đến lượt mình, lại sinh ra và tồn tại từ những điều kiện vật chất, từ sản xuất và trao đổi1. Việc giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thông qua đấu tranh giai cấp là quy luật phổ biến của mọi thời đại lịch sử, là điều cốt lõi trong quan niệm duy vật về lịch sử. Đây là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận triết học của chính trị, là nền móng tư tưởng của chính trị học mácxít. “... Toàn bộ lịch sử đã qua, trừ trạng thái nguyên thủy, đều là lịch sử của đấu tranh giai cấp; rằng những giai cấp xã hội đấu tranh với nhau ấy luôn luôn là những sản phẩm của những quan hệ sản xuất và quan hệ trao đổi, tóm lại là những sản phẩm của những quan hệ kinh tế của thời đại của các giai cấp ấy; do đó cơ cấu kinh tế của xã hội luôn _______________ 1. Xem C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.19, tr.165. 16 luôn là cái cơ sở hiện thực mà xét đến cùng ta phải dựa vào mới giải thích được tất cả thượng tầng kiến trúc là chế độ pháp quyền và chế độ chính trị, cũng như những quan niệm tôn giáo, triết học và các quan niệm khác của mỗi thời kỳ lịch sử nhất định”1. Với việc phát hiện ra bản chất của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là bóc lột giá trị thặng dư sức lao động, thì căn nguyên sâu xa của tình trạng tha hóa lao động, tha hóa bản chất con người trong chủ nghĩa tư bản cũng như trong các chế độ xã hội dựa trên tư hữu về tư liệu sản xuất và đối kháng giai cấp, cội nguồn của mọi tình trạng bóc lột về kinh tế, áp bức về chính trị và nô dịch về tinh thần của giai cấp tư sản đối với công nhân và lao động đã được làm rõ. Con đường xóa bỏ tình trạng tha hóa lao động chỉ có thể là con đường cách mạng từng bước xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Trong cơ cấu xã hội của xã hội tư bản, đối kháng giữa tư sản và vô sản là đối kháng điển hình. Giai cấp vô sản hiện đại, do chính nền đại công nghiệp và phương thức sản xuất tư bản tạo ra, là giai cấp cách mạng, có sứ mệnh lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản, tự giải phóng mình và giải phóng nhân loại. Giai cấp vô sản là giai cấp tiên tiến và cách mạng, vì nó đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến của xã hội và tiêu biểu cho xu thế phát triển của lịch sử. Đây là lực lượng xã hội có khả năng tiến hành những cải biến cách mạng và xây dựng trật tự xã hội mới. Sự trưởng thành của giai cấp vô sản thể hiện ở sự chuyển biến từ đấu tranh _______________ 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.19, tr.303. 17 kinh tế đến đấu tranh tư tưởng và đấu tranh chính trị chống lại ách thống trị của giai cấp tư sản và chế độ tư bản chủ nghĩa. Bước ngoặt của cuộc đấu tranh giai cấp đó là sự ra đời của chính đảng của giai cấp vô sản với mục tiêu trực tiếp là giành chính quyền và mục tiêu cuối cùng của nó là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Phong trào đấu tranh của công nhân gắn liền với các phong trào đấu tranh xã hội, hình thành nên lực lượng giai cấp công nhân quốc tế và các tổ chức quốc tế của công nhân từ Quốc tế I thời C.Mác và Quốc tế II thời Ph.Ăngghen. Công xã Pari năm 1871 là sự kiện cách mạng vĩ đại đầu tiên của giai cấp vô sản, là sự thể nghiệm lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác trong đấu tranh chính trị của giai cấp vô sản chống chủ nghĩa tư bản. Từ thực tế Công xã Pari, cuộc đấu tranh chính trị không chỉ là giành quyền lực mà còn là giữ vững và thực thi quyền lực, tổ chức xây dựng chế độ chính trị mới, xã hội mới, thực hiện quyền làm chủ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Với việc phát kiến ra nguyên lý về vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản trên cơ sở thực hiện một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử thế giới (quan niệm duy vật biện chứng về lịch sử); giải thích một cách triệt để quan hệ giữa tư bản và lao động (quan niệm về giá trị thặng dư và bóc lột giá trị thặng dư); tư tưởng chính trị của C.Mác và Ph.Ăngghen thực sự trở thành tư tưởng của giai cấp vô sản mà nòng cốt là giai cấp công nhân hiện đại, trở thành vũ khí đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc, thực hiện sứ mệnh giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Các quan điểm trong tư tưởng 18 chính trị của C.Mác và Ph.Ăngghen nói riêng và lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen nói chung là lý luận chống chủ nghĩa tư bản, lý luận về cách mạng vô sản ở thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh ở thế kỷ XIX. Sự hình thành và phát triển tư tưởng chính trị của C.Mác và Ph.Ăngghen trải qua nhiều thời kỳ khác nhau - thời kỳ hình thành (1844-1848), thời kỳ phát triển (1848-1871), thời kỳ phát triển trên cơ sở thực tiễn Công xã Pari (1871-1895). 2. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn thời đại mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã có những kiến giải khoa học đối với chính trị nhất quán với quan niệm duy vật về lịch sử và phương pháp biện chứng về sự phát triển xã hội. Theo đó, chính trị là một hiện tượng xã hội hình thành từ khi trong xã hội loài người xuất hiện giai cấp và đối kháng giai cấp. Còn sự xuất hiện giai cấp và đối kháng giai cấp - các mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa - lại bắt nguồn từ nguyên nhân kinh tế là sự ra đời của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Xét đến cùng, chính trị xuất hiện trên cơ sở kinh tế và do kinh tế chi phối và quyết định. Những biến đổi về kinh tế mà trực tiếp là sự phát triển của lực lượng sản xuất, của phân công lao động, của quá trình xã hội hóa sản xuất và của hình thức sở hữu trong quan hệ sản xuất sớm muộn đều dẫn tới những biến đổi trong chính trị. Mâu thuẫn giai cấp dẫn tới đấu tranh giai cấp chỉ là sự phản ánh về mặt xã hội của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất. Xem xét các mâu thuẫn trong chính trị, trước hết là các quan hệ giai cấp, phải bắt đầu từ phân tích các mâu thuẫn trong kinh tế, mà xét đến cùng là vấn đề lợi ích. Chế độ sở hữu tư liệu sản xuất phải được nhìn nhận là cơ sở kinh tế cơ bản của chế độ chính trị. 19 Chính trị xuất hiện vào giai đoạn xã hội cộng sản nguyên thủy tan rã và chế độ chiếm hữu nô lệ ra đời cách đây hàng vạn năm. Chủ nô là giai cấp thống trị đầu tiên trong lịch sử nắm quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước và đối lập trực tiếp với số đông là quần chúng nô lệ. Các cuộc nổi dậy của nô lệ chống lại giai cấp chủ nô là sự kiện lịch sử đầu tiên về đấu tranh giai cấp. “Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp. Người tự do và người nô lệ, quý tộc và bình dân, chúa đất và nông nô, thợ cả phường hội và thợ bạn, nói tóm lại, những kẻ áp bức và những người bị áp bức, luôn luôn đối kháng với nhau, đã tiến hành một cuộc đấu tranh không ngừng, lúc công khai, lúc ngấm ngầm, một cuộc đấu tranh bao giờ cũng kết thúc hoặc bằng một cuộc cải tạo cách mạng toàn bộ xã hội, hoặc bằng sự diệt vong của hai giai cấp đấu tranh với nhau”1. Chính trị là vấn đề giai cấp, quan hệ giai cấp, đấu tranh giai cấp và đỉnh cao của cuộc đấu tranh ấy là đấu tranh giành quyền lực cho một giai cấp nhất định. Bước ngoặt của đấu tranh chính trị là sự bùng nổ cách mạng xã hội, giành lấy chính quyền nhà nước, lật đổ chế độ cũ và thiết lập chế độ mới. “Cách mạng là hành động chính trị cao nhất: ai muốn cách mạng thì phải thừa nhận các phương tiện, thừa nhận hoạt động chính trị chuẩn bị cách mạng, giáo dục công nhân làm cách mạng và không có cái đó thì ngay hôm sau cuộc chiến đấu công nhân bao giờ cũng bị bọn Phavrơ và Pia mê hoặc. Chính trị cần làm là _______________ 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.596-597. 20 chính trị công nhân? Chính trị công nhân; chính đảng công nhân không được theo đuôi chính đảng tư sản này hoặc kia mà phải trở thành một đảng độc lập có mục đích của mình, chính sách của mình”1. Chính trị là vấn đề quyền lực, biểu hiện trực tiếp là quyền lực nhà nước và tính hiện thực của quyền lực lại là lợi ích, mà trước hết là lợi ích kinh tế. Chính trị hiểu theo nghĩa trực tiếp là vấn đề chính quyền nhà nước, là quyền lực nhà nước, là công việc quản lý nhà nước đối với xã hội. “Giai cấp nào muốn nắm quyền thống trị, ngay cả khi quyền thống trị của nó đòi hỏi phải thủ tiêu toàn bộ hình thức xã hội cũ và sự thống trị nói chung, như trong trường hợp của giai cấp vô sản - thì giai cấp ấy trước hết phải chiếm lấy chính quyền để đến lượt mình có thể biểu hiện lợi ích của bản thân mình như là lợi ích phổ biến, điều mà giai cấp ấy buộc phải thực hiện trong bước đầu”2. Giải quyết các vấn đề cơ bản của chính trị như quan hệ giai cấp, lợi ích giai cấp còn tiếp tục cả sau khi giai cấp mới đã giành được chính quyền, khi ấy cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra dưới những hình thái mới. Sự xuất hiện của giai cấp và đấu tranh giai cấp dẫn đến sự xuất hiện của nhà nước - hình thức tổ chức và thực thi quyền lực của giai cấp thống trị đối với xã hội. Nhà nước có hai đặc trưng cơ bản, một mặt, là quyền lực của giai cấp có thế lực nhất, mặt khác là một quyền lực công cộng3. Nhưng trong lịch sử nhân loại không phải lúc nào cũng đã _______________ 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.17, tr.552. 2. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.48. 3. Xem C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.21, tr.253-255. 21 có nhà nước. Đã từng có những xã hội không cần đến nhà nước, không cần đến một khái niệm nào về nhà nước. Sự phát triển của xã hội chỉ đến một giai đoạn nhất định, trong đó trước hết phải nói đến sự phát triển của kinh tế, mới có nhà nước. Sự phát triển của sản xuất sẽ đến lúc sự tồn tại của các giai cấp không những không cần thiết mà còn cản trở trực tiếp cho sản xuất, thì giai cấp nhất định không còn nữa. Giai cấp tiêu vong thì nhà nước cũng tiêu vong. Khi ấy, “xã hội sẽ tổ chức lại nền sản xuất trên cơ sở liên hiệp tự do và bình đẳng giữa những người sản xuất, sẽ đem toàn thể bộ máy nhà nước xếp vào cái vị trí thật sự của nó lúc bấy giờ: vào viện bảo tàng đồ cổ, bên cạnh cái xa kéo sợi và cái rìu bằng đồng”1. Quyền lực nói chung, quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước nói riêng, theo C.Mác và Ph.Ăngghen, là một mối quan hệ xã hội, trong đó người này hay nhóm người này chi phối còn người kia hay nhóm người kia phục tùng. Quyền lực là một tất yếu khách quan, được hình thành từ trong quá trình sản xuất. Xem xét các quan hệ kinh tế, như quan hệ công nghiệp và quan hệ nông nghiệp, hiện đang là cơ sở của xã hội tư sản hiện đại, chúng ta sẽ thấy được rằng những quan hệ đó có xu hướng là ngày càng thay thế hành động phân tán bằng hành động liên hợp của nhiều người. Quyền lực là ý chí của người này buộc người khác phải tiếp thu và quyền uy lấy sự phục tùng làm tiền đề. Sau khi cách mạng đã lật đổ bọn tư bản - những kẻ đã dùng quyền uy để chi phối sản xuất và lưu thông của cải, thì công nhân vẫn _______________ 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.21, tr.258. 22 cần có quyền lực, chỉ có điều là hình thức tổ chức và thực thi quyền lực - quyền lực quản lý và sử dụng những tư liệu sản xuất đã trở thành sở hữu tập thể của mình - là thay đổi. C.Mác và Ph.Ăngghen đã đặt nền móng cho một quan niệm mới về quyền lực nói chung và quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước nói riêng, dựa trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng1. _______________ 1. Trong tác phẩm Bàn về quyền uy (1872), Ph.Ăngghen cho rằng sự phức tạp hóa các quá trình sản xuất tùy thuộc lẫn nhau đã từng bước thay thế cho hoạt động độc lập của cá nhân riêng lẻ. Hoạt động liên hợp là tổ chức nhau lại, mà tổ chức thì tất yếu cần đến quyền uy (quyền lực). Yêu cầu phối hợp sản xuất và phân phối trong mỗi ngành lao động đòi hỏi phải được giải quyết bởi quyền uy. Bộ máy tự động của một nhà máy lớn còn chuyên chế hơn nhiều so với một nhà tư bản nhỏ sử dụng lao động của công nhân. Không thể xóa bỏ được quyền uy, vì muốn xóa bỏ quyền uy trong đại công nghiệp, thì phải xóa bỏ bản thân đại công nghiệp, xóa bỏ nhà máy sợi để trở về với cái xa kéo sợi. Một quyền uy nhất định, không kể được tạo ra bằng cách nào và một sự phục tùng nhất định đều là những điều mà trong bất cứ tổ chức xã hội nào cũng phải có. Những điều kiện để tiến hành sản xuất và lưu thông sản phẩm làm cho quyền uy trở nên tất yếu. Những điều kiện vật chất và lưu thông ngày càng phức tạp, sự phát triển của đại công nghiệp và nông nghiệp ngày càng mạnh mẽ sẽ mở rộng phạm vi của quyền uy. Nhà nước cùng với quyền uy chính trị sẽ mất đi sau cuộc cách mạng xã hội tương lai, nghĩa là những chức năng xã hội sẽ mất tính chất chính trị và sẽ biến thành những chức năng quản lý đơn thuần chăm lo đến lợi ích của xã hội. Cách mạng là cái có quyền uy nhất, là một hành vi trong đó một bộ phận dân cư dùng những thủ đoạn quyền uy phi thường để cưỡng bức một bộ phận khác phải phục tùng ý chí của mình. Đảng chiến thắng không thể không dùng vũ khí của mình làm cho bọn phản động phải khiếp sợ, để duy trì quyền thống trị của mình. Kinh nghiệm Công xã Pari (1871), chẳng hạn, đã kiểm nghiệm điều ấy. 23 Chính trị là việc giải quyết các mối quan hệ giữa các giai cấp và tầng lớp xã hội trong vấn đề quyền lực và phân bổ lợi ích. Còn nhà nước không gì khác hơn là bộ máy cưỡng bức của một giai cấp này đối với một giai cấp khác vì những lợi ích nhất định, nhất là lợi ích kinh tế. Tham gia vào hoạt động chính trị là tham gia vào cuộc đấu tranh vì lợi ích của một giai cấp này hay giai cấp khác. Chính trị là hoạt động tất yếu khách quan của con người, song luôn có nội dung cụ thể phù hợp với một phương thức sản xuất nhất định. Cơ cấu và các quan hệ kinh tế là cơ sở chủ yếu của chính trị và những thay đổi trong chính trị. Thuộc tính nổi bật của chính trị là tính giai cấp. Mọi thuộc tính khác đều biểu hiện qua lăng kính giai cấp, bị chi phối và chế ước bởi tính giai cấp. Hệ tư tưởng chính trị, nhà nước, đảng phái chính trị, đường lối, chính sách, luật pháp cho đến văn hóa chính trị luôn luôn mang dấu ấn giai cấp của giai cấp thống trị cầm quyền. Đứng vững trên lập trường giai cấp, giữ vững tính Đảng là vấn đề có tính nguyên tắc trong việc nhận thức và giải quyết các vấn đề chính trị. Đồng thời, chính trị còn mang tính dân tộc vì chính trị trước hết lại tồn tại trong lòng mỗi quốc gia - dân tộc và chịu sự chế định của yếu tố dân tộc. Chính trị còn mang tính thế giới vì chính trị là một lĩnh vực của đời sống thế giới, là quan hệ giữa các nhà nước, các chính phủ, chính trị liên quan tới những vấn đề chung của khu vực và toàn cầu. Ngoài ra, chính trị còn mang những thuộc tính khác nữa như tính nhân văn, tính lịch sử và tính thời đại, v.v.. 24 Chính trị có tính lịch sử và, hơn nữa, còn là một phạm trù lịch sử. Chính trị chỉ xuất hiện trong những điều kiện lịch sử nhất định và nó sẽ mất đi khi những điều kiện cho sự tồn tại của nó không còn nữa, đó là hiện tượng chính trị tự tiêu vong. Chính trị chỉ có thể tự tiêu vong khi nó đi hết lôgíc của sự vận động của nó, khi tính tất yếu kinh tế làm cho tính tất yếu chính trị của sự tiêu vong đã chín muồi. Về mặt lịch sử có thể xem xã hội cộng sản nguyên thủy là một xã hội tiền chính trị. Các chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản và cả xã hội xã hội chủ nghĩa đều là những xã hội chính trị, mặc dù xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội chính trị kiểu mới, trong đó chính trị quá độ tới sự tự tiêu vong. Chính trị trong chủ nghĩa xã hội khác về chất so với chính trị trong các xã hội dựa trên nền tảng của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và đối kháng giai cấp. Là một hiện tượng tạm thời của lịch sử nhưng chính trị tồn tại rất lâu dài, từ khi có chế độ nô lệ cho tới khi chủ nghĩa cộng sản văn minh hoàn toàn được xác lập. Quyền lực chính trị tất yếu thuộc về giai cấp, tầng lớp xã hội đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến của xã hội, đại biểu cho xu hướng tiến bộ của sản xuất và do đó đại biểu cho lợi ích chung của xã hội. Việc đấu tranh giành quyền thống trị tất yếu và trước hết phải giành lấy chính quyền nhà nước. Nhà nước là tổ chức bạo lực của giai cấp này chống lại giai cấp kia, là hình thức hoàn chỉnh nhất của quyền lực chính trị. Việc giành lấy nhà nước tất yếu cần tới bạo lực, sức mạnh cưỡng chế, với những hình thức khác nhau, bạo lực quân sự và bạo lực chính trị. 25 Việc giành và giữ quyền lực chính trị tất yếu cần tới mối liên minh giữa giai cấp cách mạng, giai cấp cầm quyền với các giai cấp, tầng lớp xã hội có liên quan. Quyền lực nhà nước bao hàm hai mặt chuyên chính và dân chủ vì lợi ích giai cấp cầm quyền. Chuyên chính và dân chủ luôn có tính giai cấp. Việc giữ quyền lực chính trị cần thiết phải củng cố chế độ sở hữu như là nền tảng của phương thức sản xuất và của giai cấp đang nắm quyền lực chính trị. 3. Việc xác định đúng nội dung và bản chất của chính trị không chỉ có ý nghĩa trong lý luận nhận thức về chính trị, mà điều quan trọng hơn là nó vạch ra mục tiêu cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân là giành lấy chính quyền, xây dựng chính quyền mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xây dựng một xã hội không còn nhà nước, không còn giai cấp. Trong bối cảnh cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh chính trị và ý thức hệ diễn ra gay gắt thì những người cách mạng cần phải đi vững trên lập trường chính trị của giai cấp công nhân để nhận thức và giải quyết đúng đắn các vấn đề của chính trị. “Quyền lực chính trị, theo đúng nghĩa của nó, là bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác. Nếu giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, nhất định phải tự tổ chức thành giai cấp, nếu giai cấp vô sản thông qua con đường cách mạng mà trở thành giai cấp thống trị và với tư cách giai cấp thống trị, nó dùng bạo lực tiêu diệt chế độ sản xuất cũ, thì đồng thời với việc tiêu diệt chế độ sản xuất ấy, nó cũng tiêu diệt luôn cả những điều kiện của sự đối kháng giai cấp, nó tiêu diệt 26 các giai cấp nói chung và cũng do đấy, tiêu diệt cả sự thống trị của chính nó với tư cách là một giai cấp. Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”1. Giai cấp vô sản tiến hành đấu tranh giai cấp, đấu tranh chính trị giành lấy chính quyền và xây dựng chế độ xã hội mới là do “toàn bộ xã hội tư bản đã vạch ra từ trước” và thắng lợi của công dân và thất bại của chủ nghĩa tư bản là tất yếu như nhau. Đó là do yêu cầu giải quyết mâu thuẫn giai cấp vô sản và giai cấp tư sản mà căn nguyên của nó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản; do điều kiện sinh hoạt của giai cấp vô sản trong chủ nghĩa tư bản trở nên bần cùng hóa; giai cấp nhân dân là giai cấp bị áp bức, bóc lột duy nhất có thể và chỉ có thể tự giải phóng mình. Giai cấp vô sản không đại diện cho lợi ích riêng, lợi ích hạn hẹp, khi giành chính quyền và cầm quyền; giai cấp vô sản đấu tranh giành chính quyền và cầm quyền là vì lợi ích của toàn thể những người lao động. Giai cấp vô sản tiên tiến và cách mạng là nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội hiện đại. Chính trị của giai cấp vô sản hướng chủ yếu vào việc giải phóng mọi năng lực sản xuất của xã hội; đồng thời hướng vào việc xóa bỏ lao động làm thuê và giải phóng lao động. Nó xóa bỏ tận gốc những cơ sở kinh tế và xã hội sinh _______________ 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.628. 27 ra giai cấp, áp bức và bóc lột giai cấp - tức xóa bỏ chế độ tư hữu. Xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thông qua phát triển sản xuất, nhất là phát triển công nghiệp trên cơ sở của khoa học và kỹ thuật hiện đại, chứ không phải bằng ý chí chủ quan, bằng nhiệt tình cách mạng hay bằng mệnh lệnh hành chính và bạo lực. Giai cấp vô sản đấu tranh chính trị nhằm giải phóng về kinh tế, tạo ra những điều kiện vật chất cho việc một xã hội mới nhân đạo và văn minh. Chính trị và đấu tranh chính trị, do vậy, chỉ là “thủ đoạn”, là “giai đoạn thứ nhất của giai cấp công nhân” nhằm giải phóng giai cấp, xã hội và con người về mặt kinh tế. “... Công cuộc giải phóng giai cấp công nhân về mặt kinh tế là một mục tiêu vĩ đại mà mọi phong trào chính trị phải phục vụ như một phương tiện”1. Chính trị vô sản là chính trị quá độ, chính trị tự tiêu vong, nó xóa bỏ những điều kiện sinh tồn từ trước tới nay của nhà nước và của chính trị. Điều kiện để giải phóng giai cấp công nhân là xóa bỏ mọi sự khác biệt giai cấp và xóa bỏ giai cấp. Cũng giống như trước kia, điều kiện để giải phóng đẳng cấp thứ ba tức tầng lớp tư sản là sự xóa bỏ tất cả các đẳng cấp và tầng lớp do xã hội phong kiến sinh ra. Trong quá trình phát triển của mình, giai cấp công nhân sẽ thay thế xã hội tư sản bằng một tổ chức liên hiệp, tổ chức liên hiệp này sẽ loại bỏ các giai cấp và sự đối kháng giai cấp. Sẽ không còn có chính quyền theo đúng nghĩa của nó nữa, vì chính quyền chính là biểu hiện tập trung và chính thức của sự _______________ 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.16, tr.705. 28 đối kháng giai cấp trong xã hội. Do vậy, giai cấp vô sản cần ý thức được sứ mệnh lịch sử của mình và xác định được những phương pháp, biện pháp thực hiện sứ mệnh ấy như một tất yếu khách quan. Giai cấp vô sản cần tổ chức ra chính đảng tiền phong của mình để dẫn dắt giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh lật đổ giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. “Trong cuộc đấu tranh của mình chống quyền lực liên hợp của các giai cấp hữu sản, giai cấp công nhân, chỉ khi được tổ chức thành một chính đảng độc lập đối lập với tất cả các chính đảng cũ do các giai cấp hữu sản lập nên, thì mới có thể hành động với tính cách là một giai cấp”1. Lý luận về xây dựng chính đảng của giai cấp vô sản đã được C.Mác và Ph.Ăngghen đặt nền móng từ trong quá trình xây dựng những tổ chức và sau đó là những chính đảng của giai cấp công nhân trên thế giới từ giữa thế kỷ XIX, nhất là từ sau Công xã Pari năm 1871. Giai cấp vô sản cần liên minh chặt chẽ với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác trong cuộc đấu tranh giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước. Khi thời cơ đến phải dùng bạo lực lật đổ nhà nước của giai cấp tư sản và tổ chức ra nhà nước kiểu mới của mình. Thực hiện dân chủ và chuyên chính vì lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Sử dụng quyền lực nhà nước để củng cố và phát triển các cơ sở kinh tế, trong đó có chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, làm nền tảng cho _______________ 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.18, tr.203. 29 quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Giai cấp vô sản cần tự tổ chức lại ở trong nước họ, vì vũ đài thực sự của cuộc đấu tranh của họ là ở trong nước. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, do vậy, là có tính dân tộc, nhưng không phải về mặt nội dung mà là về mặt hình thức của nó, như Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã nói1. Cần kết hợp đúng đắn việc giải quyết vấn đề giai cấp với vấn đề dân tộc, giải phóng giai cấp vô sản với giải phóng các dân tộc bị áp bức. Thắng lợi của giai cấp vô sản đối với giai cấp tư sản đồng thời còn là dấu hiệu giải phóng tất cả các dân tộc bị áp bức. Giai cấp vô sản cần xây dựng và phát triển nghệ thuật chính trị, xây dựng đội ngũ những nhà chính trị của giai cấp công nhân có đủ phẩm chất và năng lực. C.Mác và Ph.Ăngghen xác định đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản, nhưng cuộc đấu tranh ấy diễn ra theo quá trình phát triển từ thấp đến cao, từ đấu tranh kinh tế đến đấu tranh tư tưởng và đấu tranh chính trị. Hình thức đầu tiên và là trình độ thấp nhất của đấu tranh giai cấp là đấu tranh kinh tế vì những lợi ích kinh tế trước mắt của công nhân và lao động. Tuy là hình thức thấp nhất nhưng lại rất quan trọng vì nó tạo ra môi trường và điều kiện tập dượt sự trưởng thành xã hội và chính trị cho giai cấp công nhân, làm cho giai cấp công nhân tự tổ chức thành một lực lượng độc lập về chính trị sau này. Nhưng nếu chỉ dừng lại _______________ 1. Xem C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.19, tr.39. 30 ở mục tiêu, lợi ích kinh tế trước mắt thì đấu tranh kinh tế có nguy cơ giam hãm phong trào công nhân vào chủ nghĩa kinh tế tầm thường, cải lương, cơ hội về chính trị và sẽ bị giai cấp tư sản thao túng. Dấu hiệu trưởng thành của giai cấp vô sản là chuyển tới đấu tranh tư tưởng, đấu tranh lý luận, tới trình độ tự giác, có lý luận khoa học và cách mạng dẫn đường, tự ý thức được sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình, hướng tới mục tiêu triển vọng của phong trào. Hình thức cao nhất của đấu tranh giai cấp là đấu tranh chính trị, hướng tới mục tiêu giành quyền lực nhà nước, tự giải phóng mình khỏi thân phận nô lệ và trở thành chủ thể quyền lực. Đến trình độ đấu tranh chính trị, giai cấp vô sản mới đụng chạm trực tiếp tới quyền lực thống trị của giai cấp tư sản và có thể hành động để lật đổ quyền thống trị ấy, giành lấy chính quyền về tay mình. Đấu tranh giai cấp phát triển đến cao trào biểu hiện thành cách mạng chính trị giành chính quyền. C.Mác gọi đây là giai đoạn thứ nhất của cuộc cách mạng công nhân, giai cấp công nhân tự mình trở thành lực lượng thống trị trong dân tộc. Còn trong tiến trình lâu dài của cách mạng xã hội, việc cải tạo các thể chế chính trị cũ, xây dựng các thể chế chính trị mới vẫn tiếp tục diễn ra. Cuộc cách mạng chính trị nào cũng có hai thuộc tính: tính chính trị gắn với vấn đề lật đổ nhà nước cũ, thiết lập nhà nước mới, thay đổi chủ thể của quyền lực; tính xã hội gắn với cơ sở xã hội của cách mạng và việc cải tạo các quan hệ xã hội, tổ chức đời sống xã hội, giải quyết các vấn đề về quản lý và phát triển xã hội mới. Sau khi xác lập được 31 quyền lực nhà nước, giai cấp vô sản tập trung sức phát triển kinh tế và xã hội trên cơ sở cải tạo các quan hệ sản xuất đã lỗi thời và xây dựng các quan hệ sản xuất mới phù hợp với yêu cầu phát triển của sản xuất. Theo Ph.Ăngghen, “Vậy chúng tôi đấu tranh cho chuyên chính chính trị của giai cấp vô sản để làm gì, nếu quyền lực chính trị bất lực về kinh tế? Bạo lực (tức là quyền lực nhà nước) - cũng là một sức mạnh kinh tế!”1. Chuyên chính vô sản là quan điểm chủ đạo và chỉ đạo trong tư tưởng chính trị của C.Mác và Ph.Ăngghen. Chuyên chính vô sản là tất yếu, khách quan tồn tại trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Chuyên chính vô sản chính là việc giai cấp vô sản được tổ chức thành giai cấp thống trị trong xã hội, được tổ chức thành nhà nước; là bước quá độ lịch sử để tiến tới xã hội không còn giai cấp và nhà nước; là sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp vô sản đối với nhà nước và xã hội; giai cấp công nhân và nhân dân lao động là chủ thể của quyền lực; dân chủ đối với đa số, chuyên chính đối với thiểu số, v.v.. Nhiệm vụ của chuyên chính vô sản là cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới về mọi mặt, tạo ra những điều kiện vật chất cho sự giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Từ kinh nghiệm của Công xã Pari, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phác thảo những luận điểm quan trọng, đặt nền móng cho việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước của giai cấp vô sản, về liên minh công - nông và _______________ 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.37, tr.683. 32 những vấn đề về chiến lược và sách lược, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước của giai cấp vô sản. II- TỔNG QUAN TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA V.I.LÊNIN 1. Tư tưởng chính trị của V.I.Lênin được hình thành và phát triển từ cuộc đời hoạt động gian khổ và phong phú của Người, gắn bó chặt chẽ với các thời kỳ của phong trào cách mạng của giai cấp vô sản thế giới và của lịch sử cách mạng Nga những năm cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, từ thời kỳ chuẩn bị và thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa (1895-1918); thời kỳ thực hiện Chính sách kinh tế mới (1919-1924). Trên thế giới, đó là thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền lũng đoạn nhà nước, chủ nghĩa đế quốc, từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX; thời kỳ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế khủng hoảng và chủ nghĩa cơ hội và xét lại xuất hiện. Trước hết, V.I.Lênin đã bảo vệ thành công chủ nghĩa Mác nói chung và tư tưởng chính trị của chủ nghĩa Mác nói riêng trước sự xuyên tạc và phản bội của chủ nghĩa cơ hội và xét lại; phê phán sự tầm thường hóa, làm mất đi sức sống, tính khoa học và cách mạng trong chủ nghĩa Mác và tư tưởng chính trị của chủ nghĩa Mác chống lại các quan điểm giáo điều, kinh nghiệm, thiển cận và hình thức. V.I.Lênin khẳng định: “Chủ nghĩa Mác thừa nhận rằng chỉ khi nào đấu tranh giai cấp không những bao trùm lĩnh vực chính trị, mà nó còn nắm lấy cái căn bản nhất trong chính trị: tức là việc tổ chức chính quyền nhà nước, thì khi 33 đó nó mới là một cuộc đấu tranh giai cấp phát triển đầy đủ, có “quy mô toàn dân tộc””1. Đồng thời, V.I.Lênin còn là người tiếp tục phát triển tư tưởng của chủ nghĩa Mác nói chung, tư tưởng chính trị của chủ nghĩa Mác nói riêng, làm phong phú và sâu sắc thêm những kiến giải lý luận của chủ nghĩa Mác trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, giải phóng giai cấp vô sản, xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện lịch sử mới. V.I.Lênin đã có những phát triển quan trọng đối với lý luận về cách mạng vô sản và lý luận về xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện của các nước lạc hậu, chậm phát triển, không qua chế độ tư bản chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa xã hội. Là người khai phá và thể nghiệm lý luận phát triển rút ngắn tới chủ nghĩa xã hội trong thực tiễn cách mạng vô sản và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Là người chuyển chủ nghĩa xã hội khoa học từ thắng lợi trên địa hạt lý luận thời đại C.Mác sang thắng lợi trên địa hạt thực tiễn ở thời đại mình. V.I.Lênin là người truyền bá những giá trị trong tư tưởng chính trị của chủ nghĩa Mác nói riêng, chủ nghĩa Mác nói chung vào phong trào vô sản Nga và thế giới, là người trực tiếp lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi, xây dựng nước Nga Xôviết, trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh để giữ vững chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, chuyển nước Nga từ thời kỳ Chính sách cộng sản thời chiến sang thời kỳ _______________ 1. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t.23, tr.301-302. 34 Chính sách kinh tế mới. Tư tưởng chính trị của V.I.Lênin là tư tưởng chống chủ nghĩa tư bản ở hình thái phát triển mới của nó là chủ nghĩa tư bản độc quyền lũng đoạn nhà nước; là lý luận về khả năng xuất hiện cách mạng ở một số nước, thậm chí ở một nước lạc hậu, tiền tư bản chủ nghĩa; là lý luận bỏ qua chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa xã hội bằng con đường phát triển rút ngắn và quá độ gián tiếp; là lý luận giải phóng dân tộc trên lập trường của giai cấp công nhân. 2. Tư tưởng chính trị của V.I.Lênin thể hiện ở những quan niệm, những phân tích, những bình luận của Người về chính trị, về cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh chính trị để giành lấy quyền lực về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động, về cuộc đấu tranh để giữ vững và thực thi có hiệu quả quyền lực ấy, về khoa học và nghệ thuật chính trị, về nguyên tắc và phương pháp thực hành chính trị trong thực tiễn. “Nhưng cần hiểu chính trị như thế nào? Nếu hiểu chính trị theo nghĩa cũ, ta có thể phạm sai lầm lớn, sai lầm nặng. Chính trị là cuộc đấu tranh giữa các giai cấp; chính trị là thái độ của giai cấp vô sản đang đấu tranh tự giải phóng mình chống giai cấp tư sản toàn thế giới”1. Trên cơ sở các quan điểm chung của C.Mác và Ph.Ăngghen về chính trị, trong những hoàn cảnh lịch sử mới, V.I.Lênin đã nêu ra những quan niệm cụ thể về chính trị. Chính trị, trước hết, là lĩnh vực quan hệ giữa người với người, _______________ 1. V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.41, tr.482. 35 không phải tính từng cá nhân mà tính hàng triệu người1. Chính trị là sự tham gia vào những công việc của nhà nước, là việc vạch hướng đi cho nhà nước, việc xác định những hình thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà nước2. Chính trị bắt đầu ở nơi nào có hàng triệu người; không phải ở nơi có hàng nghìn người, mà ở đâu có hàng triệu người thì ở đó mới có một chính trị nghiêm túc3. Chính trị là vận mệnh thực tế của hàng triệu con người4. Chính trị là cuộc đấu tranh giữa các giai cấp5. Chính trị là quan hệ giữa các giai cấp6. Chính trị là việc giải quyết mối quan hệ giữa người và người - giải quyết mối quan hệ giữa các giai cấp và tầng lớp người trong xã hội, là việc giải quyết lợi ích của giai cấp vô sản thông qua tổ chức và hoạt động của nhà nước. Hơn nữa, Người còn chỉ rõ: “Theo thế giới quan tư sản, chính trị hình như tách rời kinh tế. Giai cấp tư sản nói: nông dân hãy làm việc để sinh sống, công nhân hãy làm việc để mua được trên thị trường trên tất cả những cái gì cần để sống; còn chính trị trong lĩnh vực kinh tế, thì đó là việc của người chủ các anh. Nhưng không phải như vậy, chính trị phải là việc của nhân dân, việc của giai cấp vô sản...”7. _______________ 1. Xem V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.32, tr.329. 2. Xem V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.33, tr.404. 3. Xem V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.36, tr.20. 4. Xem V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.40, tr.150. 5. Xem V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.41, tr.482. 6. Xem V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.43, tr.87-88. 7. V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.41, tr.482-483. 36 Chính trị, theo V.I.Lênin, là mối quan hệ giữa các giai cấp và tầng lớp người trong xã hội và là cuộc đấu tranh giữa họ để giành, giữ và thực thi quyền lực. Nói cách khác, chính trị là cuộc đấu tranh giữa các giai cấp và tầng lớp người có lợi ích mâu thuẫn nhau - những mâu thuẫn không thể điều hòa được trong xã hội có giai cấp và đối kháng giai cấp - để giành quyền lực. Trong xã hội hiện đại, đối kháng giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản trong chế độ tư bản là đối kháng tiêu biểu nhất. Đấu tranh để giải quyết vấn đề quyền lực, mà trước hết là quyền lực nhà nước, chỉ có thể là cuộc đấu tranh chính trị với ý nghĩa là trình độ phát triển cao nhất của đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp ở trình độ của đấu tranh chính trị là dấu hiệu chín muồi của một cuộc cách mạng xã hội. Vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền. Chính trị là vấn đề quyền lực; là vấn đề quyền lực của giai cấp thống trị nào phải bị thay thế và bị thay thế bằng cách nào; là việc giai cấp mới nào sẽ thay thế giai cấp thống trị cũ nắm lấy quyền thống trị xã hội, nắm lấy nhà nước. Kinh tế là nguồn gốc của chính trị và là nhân tố quyết định chính trị. Nguyên lý căn bản của mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là: “Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế”1, “Chính trị tức là kinh tế được cô đọng lại”2. Và “Chừng nào người ta chưa biết phân biệt được lợi ích của giai cấp này hay giai cấp khác, ẩn đằng sau bất kỳ _______________ 1. V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.42, tr.349. 2. V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.45, tr.147. 37 những câu nói, những lời tuyên bố và những lời hứa hẹn có tính chất đạo đức, tôn giáo, chính trị và xã hội, thì trước sau bao giờ người ta vẫn là kẻ ngốc nghếch bị người khác lừa bịp và tự lừa bịp mình về chính trị”1. Chính trị do kinh tế quyết định nhưng chính trị không ở vị thế thụ động mà còn giữ vị trí ưu tiên, vị trí hàng đầu trong việc xác định phương hướng phát triển của kinh tế và, hơn nữa, “chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế”2. “Không có một lập trường chính trị đúng thì một giai cấp nhất định nào đó, không thể nào giữ vững được sự thống trị của mình, và do đó, cũng không thể hoàn thành được nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực sản xuất”3. Chính trị ở trong kinh tế và, ngược lại, kinh tế thâm nhập vào chính trị. Việc xử lý mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế đòi hỏi những tư duy chính trị nhạy bén và những phương pháp chính trị sáng tạo. Trong hòa bình xây dựng, V.I.Lênin chỉ rõ: “Chính trị chủ yếu của chúng ta lúc này là xây dựng nhà nước về mặt kinh tế, v.v.”4. Trên cơ sở các quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về chính trị với tính cách là một phạm trù lịch sử, V.I.Lênin đã luận chứng cơ sở kinh tế cho sự tự tiêu vong của nhà nước nói riêng và chính trị nói chung. Theo V.I.Lênin, chính trị nói chung, nhà nước nói riêng bao giờ cũng dựa trên một cơ sở kinh tế, một nền tảng vật chất nhất định. Chính trị và nhà nước là sản phẩm tất yếu của kinh tế, _______________ 1. V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.23, tr.57. 2, 3. V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.42, tr.349, 350. 4. V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.41, tr.483. 38 là phương thức và công cụ để thực hiện quyền lực và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Chuyên chính vô sản - nhà nước kiểu mới, quyền lực chính trị mới của giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Đây là nhà nước nửa nhà nước, nhà nước tự tiêu vong. Cơ sở kinh tế cho nhà nước và chính trị tự tiêu vong là sự phát triển cao độ của sản xuất và năng suất lao động xã hội. Chủ nghĩa xã hội chiến thắng chủ nghĩa tư bản cũng là do năng suất lao động quyết định. Đồng thời, chính trị còn là một khoa học và một nghệ thuật. Là một khoa học, chính trị có cái lôgíc khách quan và nội tại của nó. Chính trị xuất hiện và vận động theo quy luật khách quan, không theo ý chí chủ quan của một giai cấp, một chính đảng hay một cá nhân nào. Chính trị buộc chúng ta phải tính đến tất cả các lực lượng, các nhóm, các đảng, các giai cấp. Là một khoa học, chính trị đòi hỏi chúng ta phải chú ý đến kinh nghiệm của quần chúng và của các nước, chứ không phải chỉ căn cứ vào mong muốn, chính kiến và trình độ giác ngộ của một nhóm hay một đảng duy nhất nào. “Chính trị có tính lôgíc khách quan của nó, không phụ thuộc vào những dự tính của cá nhân này hay cá nhân khác, của đảng này hay đảng khác”1. Là một nghệ thuật, chính trị đòi hỏi sự vững vàng, kiên định về chiến lược và sáng tạo, linh hoạt về sách lược. Chiến lược và sách lược trong chính trị là mục tiêu, phương hướng, tính chất, thái độ và phương pháp hoạt _______________ 1. V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.246. 39 động của một giai cấp, một tầng lớp, một chính đảng. Cách mạng đòi hỏi rất sáng tạo và linh hoạt về phương pháp, về sách lược. Nghệ thuật cần thiết trong cách mạng là sự mềm dẻo, biết tính đến những điều kiện khách quan đã thay đổi để thay đổi sách lược, chọn những con đường khác nhau để đến đích, để giành thắng lợi. Cần phân biệt sự kiên định về nguyên tắc với tính thủ cựu, lạc hậu; giữa linh hoạt, mềm dẻo với sự dao động, ngả nghiêng hay cơ hội và xét lại. “Khi mà chính trị đòi hỏi một sự chuyển biến kiên quyết, một sự mềm dẻo và một bước quá độ khéo léo thì những người lãnh đạo phải hiểu được điều ấy”1. Chính trị thể hiện tập trung và trước hết ở đường lối chiến lược và sách lược, phương thức và phương pháp giành chính quyền. Cách mạng là cần thiết và tất yếu, là hệ quả hợp lôgíc của đấu tranh giai cấp cách mạng cần được nhận thức một cách khoa học để hành động hợp quy luật, chứ không phải là ý chí chủ quan, phiêu lưu của một lực lượng hay cá nhân nào. Cách mạng là hành động sáng tạo, có tổ chức và được lãnh đạo chặt chẽ bởi giai cấp tiên tiến nhất đứng ở vị trí trung tâm của sự vận động lịch sử nhằm sáng tạo ra một kiểu chế độ xã hội mới chứ không phải là sự phá phách vô chính phủ. Các nhân tố khách quan và chủ quan quy định hành động chính trị của một giai cấp cách mạng là những điều kiện để cách mạng có thể nổ ra và thắng lợi. _______________ 1. V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.43, tr.87. 40 Chính trị đòi hỏi phải nắm vững tình thế và thời cơ cách mạng trong việc giành chính quyền, tranh thủ sự ủng hộ của quần chúng và xây dựng chính quyền mới - mở rộng sự thống trị của mình. Tình thế cách mạng, theo V.I.Lênin, là những biến đổi trong các quan hệ giai cấp - xã hội; những động thái, những tiến triển của các mâu thuẫn giai cấp và những phản ứng tương ứng của các giai cấp, các lực lượng xã hội xác định chiều hướng, tính chất vận động của một cuộc cách mạng. Những dấu hiệu khách quan của tình thế cách mạng bao gồm: thứ nhất, giai cấp thống trị ở bên trên không thể nào duy trì ách thống trị như cũ được nữa, không thể nào sống như cũ được nữa; thứ hai, giai cấp bị thống trị ở bên dưới cũng không thể nào chịu đựng được tình cảnh áp bức, bóc lột như trước đây được nữa, họ phải đi tới những hành động phản kháng và bước vào thời kỳ bão táp của cách mạng; thứ ba, những tầng lớp trung gian, do tác động mạnh mẽ bởi những cuộc xung đột giữa các giai cấp đối lập, đã sẵn sàng ngả về phía cách mạng để làm thay đổi tình cảnh hiện thực. Tình thế cách mạng là điều kiện cần thiết nhưng chưa đủ để có thể nổ ra cách mạng. Tình thế cách mạng phải phát triển tới độ chín muồi, vượt qua những tâm trạng, những xu hướng để trở thành hành động thực tiễn của một lực lượng thực tiễn, ở đấy nó được kết hợp với sự chín muồi những nhân tố chủ quan mới tạo ra thời cơ cách mạng. Thời cơ cách mạng là tổng hợp của những nhân tố khách quan và chủ quan đã chín muồi trong quá trình tiến triển của các mâu thuẫn giai cấp - xã hội. Nhân tố khách quan là do tình thế cách mạng tạo ra. 41 Nhân tố chủ quan là do ý chí, là sự giác ngộ về mục tiêu và nhiệm vụ cách mạng của giai cấp cách mạng, là trình độ tổ chức và lãnh đạo quần chúng, trong đó nhân tố chủ quan hàng đầu là chính đảng của giai cấp cách mạng. “Không phải tình thế cách mạng nào cũng làm nổ ra cách mạng, mà chỉ có trong trường hợp là cùng với tất cả những thay đổi khách quan nói trên, lại còn có thêm một thay đổi chủ quan, tức là: giai cấp cách mạng có khả năng phát động những hành động cách mạng có tính chất quần chúng, khá mạnh mẽ để đập tan (hoặc lật đổ) chính phủ cũ là chính phủ, ngay cả trong thời kỳ có những cuộc khủng hoảng, cũng sẽ không bao giờ “đổ” nếu không đẩy cho nó “ngã”1. Muốn cho cách mạng nổ ra, chuyển từ khả năng thành hiện thực thì còn phải có thời cơ cách mạng. Đặc điểm của thời cơ là tính đúng lúc và kịp thời, tính mau lẹ và kiên quyết, tính sáng tạo, dũng cảm và có hiệu quả nhất của các hành động cách mạng trong việc xử lý các tình huống phức tạp. Việc nhận biết và chớp thời cơ đòi hỏi giai cấp cách mạng và chính đảng tiên phong của nó phải nhận thức và vận dụng một cách khoa học các quy luật vận động khách quan của chính trị với những chiến lược và sách lược đấu tranh phù hợp. Ở thời điểm có tính bước ngoặt của cách mạng, chính trị không dừng lại ở lý thuyết mà là thực hành, ở sự khảo duyệt của thực tiễn. Để nắm vững và tranh thủ thời cơ cách mạng đòi hỏi phải nhận _______________ 1. V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.26, tr.269. 42 thức và xử lý đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa cái khách quan và cái chủ quan trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Thời cơ vừa là khách quan vừa là chủ quan. Mặt khách quan của thời cơ do tình thế tạo ra, biểu hiện trực tiếp thành sự kiện, tình huống cụ thể, gắn với thời điểm, hoàn cảnh, địa điểm nổ ra cách mạng, đó là thời gian và không gian chính trị. Mặt chủ quan của thời cơ là sự chủ động và sẵn sàng của lực lượng cách mạng, nhất là giai cấp lãnh đạo, là Đảng cách mạng với sự chuẩn bị đầy đủ cả lực lượng vật chất và tinh thần. Đây là điều kiện đủ để có thể tiến hành cách mạng thắng lợi. Thời cơ đến rất nhanh và trôi đi rất nhanh, nắm vững và chớp được thời cơ thì cách mạng thắng lợi. Trong đấu tranh chính trị, trong việc giành, giữ và thực thi quyền lực nhiều khi còn phải xử lý sáng suốt, khôn ngoan vấn đề thỏa hiệp. Đây là một phương sách cần thiết nhằm thực hiện những mục tiêu chính trị đã xác định. Tuy nhiên, cần phân biệt thỏa hiệp có nguyên tắc và thỏa hiệp vô nguyên tắc. Thỏa hiệp có nguyên tắc là cần thiết để bảo toàn lực lượng cách mạng, khi tương quan lực lượng chưa cân sức, kẻ thù còn mạnh, cần phải nhân nhượng cho kẻ thù một cái gì đó, thường là những lợi ích tạm thời, cục bộ, không cơ bản để hòa hoãn, tránh những đòn tấn công gây tổn thất cho cách mạng, tranh thủ thời gian hòa bình để phát triển lực lượng, cuối cùng giáng đòn quyết liệt vào kẻ thù, giành thắng lợi. Ngược lại, thỏa hiệp vô nguyên tắc là từ bỏ mọi nguyên tắc, mắc vào sai lầm chính trị, đầu hàng kẻ thù, phản bội lại cách mạng. 43 Chính trị còn đòi hỏi phải biết lợi dụng một cách khôn ngoan mọi mâu thuẫn dù là nhỏ bé nhất trong hàng ngũ kẻ thù, tranh thủ mọi khả năng tập hợp đồng minh. Về phương pháp giành chính quyền, theo V.I.Lênin, có thể sử dụng bạo lực hay hòa bình, trong đó có hoạt động nghị trường, do những điều kiện khách quan trong tương quan lực lượng giữa các giai cấp quy định. Tìm kiếm những khả năng hòa bình để giành chính quyền là con đường tốt nhất cho cách mạng và cực kỳ quý báu, mặc dù nó rất hiếm hoi - cực kỳ hiếm hoi. Sử dụng bạo lực không phải là phương thức duy nhất của cách mạng, vẫn có những con đường, những phương thức giành chính quyền không bạo lực, bằng hòa bình, thông qua đấu tranh nghị trường, giành thắng lợi trong bầu cử hợp pháp, đấu tranh cho dân sinh, dân chủ, làm thay đổi dần tương quan lực lượng, cuối cùng giành được chính quyền. Có thể giành chính quyền bằng phương pháp hòa bình hay bạo lực, nhưng quan trọng là ở chỗ cách mạng chứ không phải cải lương. Phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về phương thức giành chính quyền, V.I.Lênin phân tích đặc điểm của nhà nước tư sản trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và rút ra kết luận về tính tất yếu và phổ biến của bạo lực cách mạng. Bạo lực cách mạng không đồng nhất với vũ trang khởi nghĩa hay với sử dụng sức mạnh quân sự. Bạo lực cách mạng có cơ sở chính trị - xã hội là sức mạnh của quần chúng. Kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị của quần chúng là đặc điểm của thời kỳ bão táp của cách mạng. Việc sử dụng bạo lực thường được sử dụng là do giai cấp thống trị không bao giờ tự rời bỏ quyền lực, 44 nó chỉ có thể bị lật đổ và ngay cả khi đã mất quyền lực thì những âm mưu phục hồi của nó cũng chưa hết. Bạo lực là “bà đỡ” của các cuộc cách mạng. Để giành chính quyền, cần chú ý đến vấn đề khởi nghĩa, nhất là khởi nghĩa vũ trang. Sự sáng tạo và linh hoạt trong khởi nghĩa là điều cần thiết, nhưng nó đòi hỏi phải tuân theo những quy tắc nhất định. Đó là không bao giờ được đùa giỡn với khởi nghĩa. Khởi nghĩa là một phương trình mà thông số là hết sức không xác định và hằng ngày trị số của nó có thể thay đổi. Khởi nghĩa đòi hỏi một quyết tâm, một hành động kiên quyết nhất, chủ động thế tấn công, tấn công bất ngờ và mau lẹ, còn phòng ngự là con đường chết. Trong khởi nghĩa, như Đantơ từng nói, phải dũng cảm, dũng cảm và dũng cảm nữa. “Khởi nghĩa cũng là một nghệ thuật, cũng như chiến tranh và các loại hình nghệ thuật khác”1. 3. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản là cuộc đấu tranh giành lấy quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước về tay giai cấp vô sản. Quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước của giai cấp vô sản, thể hiện ở nhà nước vô sản và nền dân chủ vô sản mang một bản chất giai cấp mới - bản chất giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân thực hiện lợi ích và quyền lực của đông đảo quần chúng lao động và nhờ đó thực hiện lợi ích và quyền lực của giai cấp mình. “Chính trị là cuộc đấu tranh giữa các giai cấp; chính trị là thái độ của giai cấp vô sản đang _______________ 1. V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.33, tr.365. 45 đấu tranh tự giải phóng mình chống giai cấp tư sản toàn thế giới”1. V.I.Lênin cho rằng, thừa nhận đấu tranh giai cấp mà không thừa nhận đấu tranh chính trị giành chính quyền là đóng khung chủ nghĩa Mác trong thuyết đấu tranh giai cấp, là cắt xén và xuyên tạc chủ nghĩa Mác. Mở rộng việc thừa nhận đấu tranh giai cấp dẫn đến chuyên chính vô sản mới là người mácxít chân chính, mới là thái độ thật sự khoa học và cách mạng trong nhận thức về chính trị và cuộc đấu tranh chính trị của giai cấp vô sản. Chuyên chính vô sản là mục đích trực tiếp của cuộc đấu tranh chính trị của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản. Tính triệt để của cuộc đấu tranh chính trị của giai cấp vô sản trong thực tiễn phải được đánh giá và kiểm chứng bằng hành động cách mạng thật sự để giành lấy chính quyền. Đấu tranh giai cấp, đấu tranh chính trị rốt cuộc phải tiến tới cách mạng xã hội mà vấn đề cơ bản là giành lấy chính quyền. Đã là người dân chủ thì phải chú ý tới lợi ích của đa số nhân dân. Đã là người cách mạng thì phải kiên quyết phá bỏ mọi cái có hại, mọi cái lỗi thời2. Đấu tranh chính trị là hình thức cao nhất của đấu tranh giai cấp, là dấu hiệu đặc trưng về trình độ trưởng thành thực sự về chính trị của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản. Để đạt tới trình độ đấu tranh chính trị, giai cấp vô sản phải tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp từ đấu tranh kinh tế _______________ 1. V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.41, tr.482. 2. Xem V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.34, tr.223. 46 đến đấu tranh về tư tưởng và lý luận chống giai cấp tư sản. Đấu tranh kinh tế là hình thức thấp nhưng rất quan trọng của đấu tranh giai cấp, là trường học tập hợp và giáo dục ý thức giai cấp, là cơ sở dẫn tới đấu tranh chính trị. Và do đó, cách mạng là đấu tranh chứ không phải là cải lương, là chính trị chứ không phải là kinh tế. Đấu tranh tư tưởng và lý luận nhằm tập hợp, giáo dục, giác ngộ ý thức, trình độ và bản lĩnh chính trị. “Đấu tranh chống các thế lực phản động có nghĩa trước hết là tách quần chúng khỏi ảnh hưởng tư tưởng của thế lực phản động”1. Đấu tranh tư tưởng và lý luận, một mặt, là cuộc đấu tranh chống lại các khuynh hướng giáo điều, xét lại, cơ hội tả khuynh và hữu khuynh, mặt khác, là sự tuyên truyền, truyền bá tư tưởng, lý luận vào thực tiễn phong trào vô sản, hình thành thế giới quan khoa học và cách mạng, hình thành chính đảng của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, lật đổ chủ nghĩa tư bản và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người khẳng định lại nhận định của Ph.Ăngghen rằng, cuộc đấu tranh vĩ đại của đảng dân chủ - xã hội không phải chỉ có hai hình thức (kinh tế và chính trị), mà là có ba hình thức và xếp hình thức đấu tranh lý luận ngang với hai hình thức đấu tranh trên. Hơn nữa, chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong2. Từ phương diện quyền lực và thể chế bảo đảm quyền lực, cách mạng vô sản và tiến tới chủ nghĩa xã hội chính là _______________ 1. V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.249. 2. Xem V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.32. 47 xóa bỏ nhà nước chuyên chính tư sản, xác lập nhà nước vô sản. Vì “nhà nước là một tổ chức quyền lực đặc biệt, nó là tổ chức bạo lực dùng để trấn áp một giai cấp nào đó”1. Sản phẩm đích thực của cách mạng vô sản phải là quyền lực cho giai cấp vô sản và nhân dân lao động phải là một nền dân chủ mới, một thể chế chính trị - một nhà nước kiểu mới. V.I.Lênin nhắc lại một định nghĩa tuyệt hay của chủ nghĩa Mác về nhà nước rằng: “Nhà nước, tức là giai cấp vô sản được tổ chức thành giai cấp thống trị”2. “... Hoặc là chuyên chính tư sản, hoặc là chuyên chính vô sản, - không hiểu như thế thì thật là không hiểu một tý gì về học thuyết chính trị và kinh tế của C.Mác”3. Sau khi giành được chính quyền, chính trị của giai cấp vô sản bước sang một giai đoạn mới với những mục tiêu và nhiệm vụ mới. Chính trị của giai cấp vô sản chuyển trọng tâm từ đấu tranh lật đổ giai cấp thống trị cũ để giành quyền lực bằng cách chiến thắng những thế lực tự phát tư sản, phản động, những âm mưu bạo loạn, lật đổ nhằm phục hồi chế độ cũ sang thích ứng với công việc mới, yêu cầu mới. Khi đó, giai cấp vô sản phải học cách lãnh đạo, quản lý, đặc biệt là quản lý kinh tế và quản lý nhà nước; thực hiện tốt nhất sự ủy quyền của nhân dân, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân. Cơ sở bảo đảm cho thắng lợi của chủ nghĩa xã hội là năng suất lao động xã hội, là năng lực lãnh đạo, tổ chức quản lý để đông đảo quần chúng lao động phát huy được _______________ 1, 2. V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.33, tr.30. 3. V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.38, tr.371. 48 tính chủ động, sáng tạo vào việc xây dựng chế độ mới. Chính trị, do đó, chuyển trọng tâm vào kinh tế và nhiệm vụ hàng đầu là quản lý kinh tế, lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia quản lý xã hội, quản lý nhà nước, quản lý kinh tế. Tính chính trị của vấn đề là ở chỗ giai cấp vô sản thông qua chính đảng của nó phải làm thế nào xác định được đường lối và chính sách phát triển kinh tế - xã hội thích hợp và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đó. Chính trị biểu hiện những lợi ích kinh tế căn bản của giai cấp thống trị. Toàn bộ hệ thống chính trị của xã hội phải bảo vệ lợi ích kinh tế của giai cấp thống trị, ở đây là giai cấp vô sản, là đông đảo quần chúng lao động, một cách có ý thức. Theo V.I.Lênin, trong cuộc đấu tranh của chúng ta có hai mặt của vấn đề hay là hai nhiệm vụ. Nhiệm vụ thứ nhất là phá hủy di sản của chế độ tư bản, đập tan âm mưu muốn bóp chết chính quyền Xôviết, âm mưu mà toàn thể giai cấp tư sản cứ lặp đi lặp lại và chúng ta đã phải tập trung chú ý nhiều nhất vào nhiệm vụ đó, nó cản trở chúng ta chuyển sang nhiệm vụ thứ hai là nhiệm vụ xây dựng. “Chính trị chủ yếu của chúng ta lúc này là xây dựng nước nhà về mặt kinh tế... Chính trị của chúng ta phải là như vậy”1. Xây dựng và thực hiện quyền lực của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là mục tiêu, là động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Quan điểm chỉ đạo trong tư tưởng chính trị của V.I.Lênin _______________ 1. V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.41, tr.482-483. 49 là xác lập và giữ vững sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước nhằm đưa lại nhiều nhất những cơ hội để nhân dân thực hiện được quyền làm chủ của mình; xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, xây dựng chế độ mới v.v. tất cả là nhằm phát huy có hiệu quả nhất tính chủ động sáng tạo của quần chúng trong việc xây dựng chế độ mới. Thành công trong lãnh đạo và quản lý là ở chỗ biết sống trong lòng quần chúng, biết tâm trạng quần chúng và giữ được lòng tin tuyệt đối của quần chúng1. Cần phải học tập và rèn luyện tinh thần, thái độ và phương pháp ứng xử dân chủ với nhân dân cùng với việc học tập các tri thức khoa học, luật pháp, kỹ thuật quản lý, học buôn bán. Sự tự phụ do việc hạn chế về năng lực, trình độ trong cán bộ lãnh đạo, quản lý là rất có hại. Vì mắc vào cái đó mà người ta đem quyền uy, chức vụ ra để che giấu tình trạng không hiểu biết, không biết xử lý công việc, là một nhất thiết phải đề phòng. Lãnh đạo dân chủ là phải biết khuyến khích phê bình, đề cao trách nhiệm phê bình. Dân chủ là chìa khóa giải quyết mọi vấn đề. “Lựa chọn người và kiểm tra sự thực hiện. Đó là vấn đề then chốt”2. Trên cơ sở tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về chính đảng của giai cấp vô sản, V.I.Lênin đã nêu ra học thuyết về xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản mà nòng cốt là giai cấp công nhân hiện đại. Nhiều vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng và phát triển chính đảng _______________ 1. Xem V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.44, tr.608. 2. V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.44, tr.450. 50 vô sản đã được xác định, nhất là khi Đảng trở thành Đảng cầm quyền. Trở thành Đảng cầm quyền là bước ngoặt trong sự phát triển của Đảng. Từ đây Đảng đứng trước những thuận lợi rất căn bản mà cũng có nhiều nguy cơ. Thuận lợi là Đảng đã hoạt động công khai, hợp pháp, có vị trí chính trị đặc biệt trong xã hội, trở thành lực lượng tiên phong dẫn dắt sự phát triển của xã hội. Đảng có cơ sở xã hội rộng khắp trong cả nước, cán bộ, đảng viên của Đảng tham gia vào các cơ quan quyền lực của Nhà nước, các tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Tư tưởng, đường lối của Đảng được thể chế hóa thành chính sách và pháp luật để thực hiện. Đường lối chiến lược, cương lĩnh hành động đúng đắn, tổ chức vững mạnh là những nhân tố quyết định sự phát triển thắng lợi của cách mạng trong điều kiện Đảng cầm quyền. Khó khăn và nguy cơ cũng xuất hiện, đó là bước chuyển của cách mạng sang thời kỳ lấy việc xây dựng xã hội mới, nền kinh tế mới làm nhiệm vụ trung tâm. Điều đó đòi hỏi Đảng phải có đủ năng lực ngang tầm với nhiệm vụ mới, phải kịp thời thay đổi nội dung và phương pháp lãnh đạo, phải là Đảng tiêu biểu cho trí tuệ, lương tâm, danh dự của thời đại. Trong thời kỳ này xuất hiện những khó khăn mới như thiếu kiến thức và kinh nghiệm lãnh đạo, quản lý, thiếu văn hóa. Đó còn là bệnh quan liêu, mất dân chủ, xa rời quần chúng, xa rời thực tiễn; thoái hóa, biến chất bởi tham vọng quyền lực và lợi ích; các căn bệnh kiêu ngạo cộng sản và ăn hối lộ. Do đó, xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức trở thành nhiệm vụ có tính then chốt. Thực hiện 51 đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hành dân chủ trong Đảng, tăng cường công tác kiểm tra và kỷ luật đảng, giáo dục và rèn luyện đảng viên, xây dựng ý thức giai cấp công nhân thành ý thức chủ đạo trong xã hội. Nhà nước là tổ chức quyền lực nhưng lại chịu sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước là hình thức tổ chức để thực hiện dân chủ. Trong chủ nghĩa xã hội lần đầu tiên chế độ nhà nước trùng hợp với chế độ dân chủ. Cơ sở sâu xa của sự trùng hợp đó là chế độ sở hữu xã hội và giai cấp công nhân đại biểu cho lợi ích của toàn xã hội, là quần chúng được cách mạng giải phóng đã trở thành người chủ của xã hội mới. Cần thực hiện các nhiệm vụ và biện pháp để xây dựng luật pháp, kiểm tra giám sát của quần chúng đối với hoạt động của Nhà nước và hành vi của công chức; chống quan liêu, lãng phí và tham ô; giáo dục, đào tạo, bố trí và sử dụng cán bộ; cải cách hành chính và việc thi hành chính sách. Cần chọn đúng người, giao đúng việc, kiểm tra thường xuyên; bộ máy phục vụ chính trị chứ chính trị không phục vụ bộ máy; thảo luận tập thể, trách nhiệm cá nhân. Cùng với Đảng và Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng, đó là những thực thể cấu thành hệ thống chuyên chính vô sản. Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, phương pháp hoạt động giữa Đảng và Nhà nước, thực hiện dân chủ, chống quan liêu tham nhũng. Trong các tổ chức chính trị, tổ chức công đoàn là cơ sở chính trị - xã hội quan trọng của Đảng và Nhà nước. Hệ thống các tổ chức chính trị này phải nhằm vào mục tiêu dân chủ, củng cố khối liên minh chính trị vững chắc của 52 các lực lượng xã hội, nhất là liên minh công - nông, đảm bảo sức mạnh xã hội của Đảng và Nhà nước. Củng cố và phát triển sự đoàn kết dân tộc, thực hiện chính sách hòa bình hữu nghị giữa các dân tộc đi đôi với bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, thực hiện chính sách dân tộc và tôn giáo đúng đắn, thực hiện chủ nghĩa quốc tế vô sản trên cơ sở thế giới quan chính trị của giai cấp công nhân. Nâng cao văn hóa chính trị trong Đảng và trong quần chúng. Văn hóa chính trị thể hiện trong văn hóa lãnh đạo, văn hóa quản lý và tổ chức; trong hành vi ứng xử giữa người có chức có quyền với quần chúng, trong quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Để chính trị trở thành văn hóa chính trị, chủ thể cầm quyền phải giải quyết các mối quan hệ giữa chính trị với khoa học, chính trị với đạo đức và pháp luật, giữa quyền lực và chân lý một cách có văn hóa, giữa người lãnh đạo, quản lý nắm quyền lực với giới trí thức khoa học và với các tầng lớp xã hội khác. “Một người không biết chữ là người đứng ngoài chính trị; trước hết phải dạy a, b, c cho họ đã. Không thế, thì không có chính trị; không thế, thì chỉ có những tin đồn đại, những chuyện nhảm nhí, những chuyện hoang đường, những thiên kiến, chứ không phải là chính trị”1. Tư tưởng chính trị của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin thể hiện tính khoa học, tính cách mạng và tính nhân văn sâu sắc. Tư tưởng chính trị ấy xác định mục đích cao cả nhất là giải phóng con người - giải phóng nhân loại khỏi mọi áp bức, đau khổ; tiếp nối chủ nghĩa nhân đạo _______________ 1. V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.44, tr.218. 53 mà nhiều nhà tư tưởng tiến bộ trong lịch sử đã nêu lên. Giải phóng loài người nói chung trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản bắt đầu từ giải phóng giai cấp công nhân khỏi sự tha hóa bởi nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong xã hội hiện đại, giải phóng giai cấp công nhân là điều kiện để giải phóng xã hội, giải phóng loài người. Lực lượng vật chất của công cuộc giải phóng đó là giai cấp vô sản. Trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản chỉ duy nhất giai cấp công nhân là giai cấp cách mạng, đại biểu cho một phương thức sản xuất tiên tiến của thời đại, là đại biểu cho nguyện vọng và lợi ích chung của loài người tiến bộ. Giai cấp vô sản chỉ có thể thực hiện được sứ mệnh là người giải phóng xã hội nếu giải phóng được chính mình với tư cách là bộ phận đông đảo nhất trong xã hội. Giai cấp vô sản chỉ có thể xóa bỏ được địa vị bị bóc lột của mình với tư cách là một giai cấp nếu xóa bỏ triệt để phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, do đó phải giải phóng tất cả những tầng lớp, những giai cấp gắn liền và phụ thuộc phương thức sản xuất ấy. Sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính nhân loại, giữa mục tiêu giải phóng giai cấp và mục tiêu giải phóng xã hội nói chung là một nguyên tắc, một yêu cầu mà những người cộng sản phải tuân theo. Giai cấp vô sản chỉ có thể thực hiện được sứ mệnh thế giới của mình khi nó phải trở thành dân tộc. Về bản chất đó là cuộc cách mạng có tính toàn thế giới nhưng về hình thức không thể không có tính dân tộc. Giai cấp vô sản trước hết phải trở thành dân tộc. Trước khi là đại biểu thực sự cho toàn thể nhân loại, giai cấp vô sản đã phải xứng đáng là đại biểu cho toàn thể dân tộc mình. 54 Những người cộng sản khi cầm quyền phải hiểu rằng những chính sách có lợi cho sự phát triển chung của xã hội, của đất nước cũng chính là có lợi cho giai cấp công nhân. Những chính sách có lợi cho giai cấp công nhân không tách rời mà phải gắn bó với lợi ích chung của các giai cấp khác của dân tộc trên cơ sở phương thức và trình độ sản xuất khách quan của mỗi dân tộc. Lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và các tầng lớp khác phù hợp với sự phát triển đất nước là tiêu chí đúng đắn của đường lối, chính sách một Đảng cầm quyền. Lợi ích của giai cấp công nhân mỗi nước thống nhất với lợi ích của giai cấp công nhân ở các nước khác, thống nhất với lợi ích của tất cả các tầng lớp, giai cấp khác đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, vì sự tiến bộ chung của toàn thể loài người. Chính trị của giai cấp công nhân là cách mạng, nghĩa là lật đổ xã hội tư bản chủ nghĩa, sáng tạo ra một xã hội mới. Cuộc cách mạng này cần có những tiền đề khách quan, chín muồi về kinh tế và xã hội. Các bước đi trong quá trình của nó cần phải tuân theo những điều kiện khách quan và quy luật phổ biến của chính trị. Chính trị của giai cấp công nhân là sự kết hợp chặt chẽ của mục tiêu cách mạng với phương pháp, bước đi khoa học phù hợp với thực tế khách quan. Có tinh thần cách mạng thực sự thì sẽ đạt đến khoa học thực sự trong chính trị và, ngược lại, có tinh thần khoa học thực sự sẽ thể hiện tinh thần cách mạng trong lý luận và thực tiễn chính trị. Đảng cộng sản khi đã có chính quyền phải xây dựng và thực hiện được những chính sách có tính cách mạng, đổi mới nhưng lại có 55 cơ sở khoa học, phản ánh đúng những quy luật của đất nước và thời đại. Giai cấp công nhân cần tôn trọng và hành động theo các quy luật khách quan của chính trị. Kết hợp sử dụng các phương pháp và biện pháp chính trị cần thiết và có thể trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Cần phải biết sử dụng những phương pháp của chính trị. Cách mạng là sáng tạo ra cái mới, tiến bộ, nhân văn. Chỉ có thể xây dựng được chủ nghĩa cộng sản trên cơ sở nền học vấn hiện đại và nếu không có nền học vấn đó thì chủ nghĩa cộng sản vẫn chỉ là nguyện vọng. Giai cấp công nhân cần có văn hóa, văn hóa trong chính trị, văn hóa chính trị - hạt nhân của văn hóa ấy là tư tưởng mình vì mọi người. Đặc điểm của văn hóa chính trị của giai cấp công nhân là chủ nghĩa tập thể, trung thực, thẳng thắn, có trách nhiệm, thương yêu con người, tôn trọng danh dự và phẩm giá con người. III- TỔNG QUAN TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH 1. Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh là một bộ phận chủ yếu trong hệ thống tư tưởng của Người. Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh đề cập đến nhiều vấn đề, từ nhận thức hay quan niệm về chính trị đến những vấn đề của chính trị trong thực tiễn như đường lối của cách mạng Việt Nam; từ những vấn đề xây dựng Đảng, giành và giữ chính quyền, xây dựng chế độ mới, xây dựng và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, vấn đề cán bộ và đạo đức cách mạng, vấn đề vận động quần chúng đến những vấn đề về chiến lược, 56 sách lược và nghệ thuật chính trị, phương pháp và phong cách của hoạt động và con người chính trị. Trước hết, Hồ Chí Minh đã mở rộng và phát triển những luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về chính trị với việc đưa nội dung đạo đức mới vào quan niệm về chính trị. Người quan niệm chính trị, với đúng ý nghĩa của nó, phải xuất phát từ mục tiêu của hành động vì con người, vì nước, vì dân và vì nhân loại tiến bộ. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, đạo đức là cơ sở của chính trị, đạo đức cách mạng là gốc của người cách mạng. Chính trị là đạo đức, là thanh khiết từ to đến nhỏ. Mọi hoạt động chính trị phải dựa trên cơ sở đạo đức, hướng tới những hành vi có đạo đức, mà cụ thể xây dựng và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Để thực hiện mục tiêu chính trị, các chủ thể chính trị phải có đạo đức, các phong trào chính trị đều phải hướng tới đạo đức. Những phong trào chính trị hướng tới đạo đức là những phong trào chân chính, như những phong trào dân tộc chân chính, dân chủ chân chính, hòa bình chân chính và tự do chân chính, v.v.. Những tổ chức chính trị hướng tới đạo đức là những tổ chức chân chính như nhà nước, đảng phái và quân đội chân chính, v.v.. Đồng thời, Hồ Chí Minh cho rằng chính trị là đoàn kết, là sức mạnh của sự đoàn kết. Đoàn kết chính là hành động chính trị đặc trưng nhất, lôi cuốn hàng triệu người vào cuộc đấu tranh cho một xã hội phát triển và tiến bộ. - Về đường lối của cách mạng Việt Nam, tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh thể hiện tập trung và trước hết ở quan điểm về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. 57 Nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam là giành quyền độc lập cho dân tộc, giành chính quyền về tay nhân dân. Trong những tình thế và thời cơ nhất định, dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập. Khi đã giành được độc lập, giành được chính quyền thì toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy. Nhưng trong điều kiện lịch sử mới, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội lại có mối quan hệ biện chứng với nhau. Độc lập dân tộc là điều kiện, là tiền đề chính trị để đi tới chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là bảo đảm đầy đủ, thực chất và bền vững cho độc lập dân tộc. Về lý luận, quan điểm này dựa trên cơ sở lý luận về cách mạng không ngừng của C.Mác và Ph.Ăngghen và Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin. Về thực tiễn, quan điểm này dựa trên cơ sở thực tế xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và kinh nghiệm các cuộc cách mạng trên thế giới, nhất là Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. - Về xây dựng Đảng, Hồ Chí Minh xác định cách mạng muốn thành công thì phải có Đảng lãnh đạo. Người khẳng định: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng giống như người không có trí khôn, 58 tàu không có bàn chỉ nam”1. Dưới ánh sáng tư tưởng của Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời do sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của mình. Từ kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Mười Nga, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: “Muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và V.I.Lênin”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và của Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lật đổ ách thống trị, áp bức và bóc lột của bọn thực dân, phong kiến, giành lấy độc lập, giành lấy chính quyền. Từ khi có chính quyền, Hồ Chí Minh đặt vấn đề phải xây dựng Đảng ta thành đảng cầm quyền thật sự trong sạch, vững mạnh. Người khẳng định tư cách của một Đảng chân chính cách mạng, nhất là khi trở thành đảng cầm quyền. Theo đó, Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài, nhiệm vụ mà Đảng phải làm tròn là giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng. Cán bộ, đảng viên phải hiểu biết lý luận, lý luận phải đi đôi với thực hành; phải gắn bó, học tập và lãnh đạo quần chúng; phải cần, kiệm, liêm, chính. Mỗi công việc của Đảng đều phải giữ đúng nguyên tắc, liên lạc _______________ 1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.2, tr.289, 304. 59 chặt chẽ với quần chúng, phải có phương pháp đúng đắn và linh hoạt. Đảng không che giấu khuyết điểm, không sợ phê bình, tự nhận khuyết điểm để sửa chữa và tiến bộ. Đảng phải giữ nghiêm kỷ luật, trung thành, hăng hái. Đặc biệt, Đảng phải luôn xem những chỉ thị, nghị quyết của mình được thực hiện như thế nào. Có như vậy mới giữ được lòng tin của dân với Đảng, mới giành và giữ được chính quyền, mới phát triển được kinh tế, văn hóa và nâng cao đời sống nhân dân. - Về xây dựng chế độ mới, Hồ Chí Minh quan niệm chủ nghĩa xã hội là chủ nghĩa nhân đạo hiện thực, là chế độ xã hội bảo đảm sự phát triển hài hòa của con người và xã hội, là xã hội phát triển vì con người. Chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội có lực lượng sản xuất phát triển, có quan hệ sản xuất phù hợp dựa trên cơ sở chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất và thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động. Chủ nghĩa xã hội có chế độ chính trị dân chủ, nhà nước của dân, do dân và vì dân, dựa trên cơ sở của khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là liên minh công - nông - trí thức do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội không có áp bức và bóc lột, mọi người được bình đẳng và có điều kiện phát triển toàn diện. Hồ Chí Minh quan niệm chủ nghĩa xã hội là đối lập với chủ nghĩa cá nhân, nhưng Người không phủ nhận cá nhân mà tôn trọng cá nhân - tôn trọng các giá trị và lợi ích cá nhân. Từ một nước nông nghiệp nghèo nàn và lạc hậu, nên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta sẽ có nhiều khó khăn, mới mẻ và lâu dài. Về nguyên tắc, phải có 60 Đảng Cộng sản chân chính lãnh đạo, có Nhà nước thật sự của dân, do dân và vì dân, và khối đại đoàn kết toàn dân, mà nòng cốt là liên minh công - nông - trí thức. Phải phát huy nhân tố con người, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tiếp thu những thành tựu của khoa học - kỹ thuật và quản lý hiện đại. Dựa trên những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin, tham khảo kinh nghiệm của các nước anh em, nhưng phải xác định được những bước đi và biện pháp phù hợp với thực tế của đất nước. Về phương châm, xây dựng chủ nghĩa xã hội phải từ thấp đến cao, không chủ quan nôn nóng, phải hợp quy luật, phải thuận lòng dân. Đặc biệt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò quan trọng của công nghiệp hóa, trên cơ sở phát triển của nông nghiệp, xem đó là con đường phải đi của chúng ta. Về phương pháp và biện pháp tiến hành, phải kết hợp cải tạo xã hội cũ với xây dựng xã hội mới và lấy xây dựng làm chính, phải có kế hoạch và biện pháp thiết thực. - Về xây dựng và thực hiện quyền lực của nhân dân, xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân, Hồ Chí Minh khẳng định, nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới và xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân1. Tất cả quyền lực _______________ 1. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.232. 61 đều thuộc về nhân dân1. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Nhà nước, nhất là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Chế độ tuyển cử của chúng ta thực hiện dân chủ và đoàn kết toàn dân; tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Nhân dân có quyền kiểm soát và bãi miễn những đại biểu không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân2. Nhân dân là người chủ thì cán bộ, công chức là người phục vụ, là công bộc của dân. “Nhiệm vụ của Chính quyền ta và Đoàn thể ta là phụng sự nhân dân. Nghĩa là làm đày tớ cho dân ... Đã phụng sự nhân dân, thì phải phụng sự cho ra trò. Nghĩa là việc gì lợi cho dân, thì phải làm cho kỳ được. Việc gì hại cho dân, thì phải hết sức tránh”3. Xây dựng Nhà nước ta thành Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân là để thực hành dân chủ, để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân rộng rãi hơn, thật sự hơn. Nhà nước pháp quyền quản lý xã hội bằng pháp luật, nhưng vẫn kết hợp với tuyên truyền, giáo dục đạo đức trong nhân dân. - Về phương pháp và nghệ thuật chính trị thì trước hết là vấn đề đoàn kết. Đoàn kết, đại đoàn kết là một tư tưởng chính trị ở tầm chiến lược, một chủ kiến độc đáo của Hồ Chí Minh trong cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Người khái quát quy luật thành công trong hoạt động và lãnh đạo cách mạng là đoàn kết. Đoàn kết là lẽ sinh tồn của Đảng và của _______________ 1, 2. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.375. 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.432. 62 dân tộc, chỉ có đoàn kết thì mới tạo ra sức mạnh đưa cách mạng tới thành công. Đoàn kết, đại đoàn kết phải có tổ chức, có lãnh đạo, nghĩa là được xây dựng trên một cơ sở lý luận khoa học nhằm hoàn thành những mục tiêu của cách mạng. Lực lượng của toàn dân phải được tập hợp trong một mặt trận dân tộc thống nhất, trên nền tảng của liên minh công - nông - trí thức, do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Đoàn kết thống nhất trong Đảng là cơ sở cho đoàn kết trong xã hội. Đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế. Đoàn kết phải rộng rãi và lâu dài, thật sự và vững chắc. Muốn đoàn kết, lãnh đạo được nhân dân thì phải tuyên truyền, vận động nhân dân, vận động quần chúng. Lực lượng của dân rất lớn, việc dân vận rất quan trọng, dân vận kém thì việc gì cũng kém, dân vận khéo thì việc gì cũng thành công. Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân, góp thành lực lượng toàn dân thực hành những công việc của cách mạng. Cán bộ phụ trách dân vận phải là tất cả đảng viên, cán bộ đảng, chính quyền và hội viên của các tổ chức quần chúng. Về phương pháp dân vận, những người phụ trách dân vận cần phải có óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm, chứ không chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh, phải thật thà nhúng tay vào việc, làm gương làm mẫu trước nhân dân. - Về vấn đề con người chính trị, vấn đề cán bộ, Hồ Chí Minh quan tâm trước hết là vấn đề tư cách đạo đức và tác phong của người cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, người cách mạng phải quan tâm, chăm lo đến ba mối quan hệ, 63 quan hệ với mình, quan hệ với người và quan hệ với việc. Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính và vị công vong tư; không hiếu danh và kiêu ngạo, nói thì phải làm, giữ chủ nghĩa cho vững; hy sinh, ít lòng ham muốn vật chất và bí mật. Đối với người thì phải khoan thứ; đối với đoàn thể thì phải nghiêm, bày vẽ cho người, cương trực mà không táo bạo, v.v.. Đối với việc phải xem xét kỹ càng, quyết đoán, dũng cảm và phục tùng đoàn thể1. 2. Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh là sự thống nhất hữu cơ giữa tính khoa học, tính cách mạng và tính nhân văn. Tính khoa học trong tư tưởng chính trị của Hồ Chí Minh thể hiện ở sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tế Việt Nam, luận giải đúng đắn con đường và phương pháp của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và sự phát triển của xã hội Việt Nam phù hợp với xu thế phát triển khách quan của thời đại. Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh thể hiện tính độc lập và chủ động trong đường lối và phương pháp đấu tranh giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước; trong vận động và tập hợp quần chúng; trong phương pháp và phong cách lãnh đạo và quản lý xã hội; trong sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Tính cách mạng trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh thể hiện sự triệt để, không dừng lại ở nhận thức mà đi tới hành động cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới bằng phương pháp cách mạng; ở sự thiết thực và thấm nhuần các quan điểm thực tiễn và phát triển. Tính cách mạng _______________ 1. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.281. 64 được thể hiện trong sự sáng tạo về chủ trương và đường lối cách mạng, về phương pháp, biện pháp và bước đi của cách mạng, về phương thức lãnh đạo và quản lý, về tư duy và hành động, về hướng tới cái mới đi đôi với kế thừa. Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh thể hiện một kiểu mẫu về chính trị hành động, nói đi đôi với làm. Tính nhân văn trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh thể hiện ở sự quan tâm đến con người, hướng đến giải phóng cho con người, đấu tranh để con người được sống trong độc lập, tự do, bình đẳng và hạnh phúc; đấu tranh để đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành; nhân dân và các dân tộc trên thế giới không còn bị áp bức và nô dịch. Chính trị trong quan niệm của Hồ Chí Minh là đạo đức và hành động cách mạng vì nước, vì dân, vì con người. 65 Chương II TƯ TƯỞNG CỦA C.MÁC, PH.ĂNGGHEN VÀ V.I.LÊNIN VỀ DÂN CHỦ VÀ DÂN CHỦ VÔ SẢN I- TƯ TƯỞNG CỦA C.MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN VỀ DÂN CHỦ VÀ CUỘC ĐẤU TRANH VÌ DÂN CHỦ CỦA GIAI CẤP VÔ SẢN 1. Sự hình thành những quan điểm tư tưởng về dân chủ của C.Mác và Ph.Ăngghen gắn liền với cuộc đời hoạt động thực tiễn và lý luận hết sức phong phú của các ông từ trong các phong trào đấu tranh vì dân chủ, dân chủ cách mạng trong thời kỳ vận động quanh co, phức tạp của cách mạng tư sản và sau này là cuộc đấu tranh vì dân chủ của giai cấp vô sản cách mạng. Năm 1841, sau khi nhận được bằng Tiến sĩ Triết học vào tháng 4, do việc Chính phủ Phổ ngăn cấm các lực lượng tiến bộ tham gia phong trào dân chủ cách mạng, C.Mác từ bỏ ý định trở thành giáo sư đại học và giảng đường đại học. Từ đây C.Mác tham gia vào hoạt động xã hội và chính trị nhằm tuyên truyền những quan điểm tiến bộ của mình. Còn Ph.Ăngghen, từ tháng 7-1836 đến tháng 3-1841, bắt đầu nghiên cứu triết học Hêghen và các sách báo liên quan 66 đến các phong trào dân chủ và cách mạng lúc đó. Từ đây quan điểm chính trị của Ph.Ăngghen với tính cách là quan điểm của một nhà dân chủ cách mạng được hình thành, rồi sau đó ông từng bước chuyển từ lập trường này sang lập trường của chủ nghĩa cộng sản. Năm 1843, C.Mác tham gia vào hoạt động báo chí, tập hợp những đại biểu tiến bộ của phong trào dân chủ ở Đức và ở Pháp, tham gia Tạp chí Niên giám Pháp - Đức. Trong các công trình công bố từ mùa thu năm 1843 đến tháng 1-1844, C.Mác đã trình bày các quan điểm mới về những vấn đề của chính trị - xã hội lúc đó. Với các tác phẩm Bàn về vấn đề Do thái, Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, C.Mác chuyển từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường của chủ nghĩa cộng sản. Những cuộc gặp gỡ của C.Mác với các nhà dân chủ và xã hội chủ nghĩa Pháp trong những năm từ cuối 1843 đến đầu 1845 đã giúp C.Mác có những nhận thức mới và hoàn thiện hơn về vấn đề dân chủ, về thực chất của lập trường dân chủ cách mạng. Từ tháng 8-1844 đến tháng 4-1846, C.Mác tiếp tục liên hệ với các nhà dân chủ và xã hội chủ nghĩa Pháp, tiếp xúc với lãnh đạo các hội bí mật của công nhân và thợ thủ công ở Đức và Pháp. Tháng 9-1845, C.Mác và Ph.Ăngghen tham gia các cuộc hội nghị của phái Hiến chương và lãnh đạo Đồng minh những người chính nghĩa và một số nhà hoạt động trong phong trào cải cách và dân chủ các nước. Với sự ủng hộ của Ph.Ăngghen, một trong số hội nghị này đã thông qua Nghị quyết về việc thành lập Hội Liên hiệp của những người dân chủ của các nước ở Luân Đôn để trao đổi tin tức về phong trào dân chủ và cách mạng. 67 Từ tháng 9-1847, C.Mác và Ph.Ăngghen bắt đầu cộng tác thường xuyên với tờ báo Bruyxen Đức. Với ảnh hưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, tờ báo đã trở thành cơ quan tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản và tư tưởng dân chủ. C.Mác và Ph.Ăngghen trở thành những người sáng lập Hội Dân chủ Bruyxen và trở thành người lãnh đạo của tổ chức này. Sau đó C.Mác và Ph.Ăngghen trở thành những người gắn kết chặt chẽ giữa hai tổ chức dân chủ là Hội Những người dân chủ anh em ở Luân Đôn và Hội Dân chủ Bruyxen. Tháng 10, tháng 11-1847, Ph.Ăngghen viết tác phẩm Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản. Trong tác phẩm này, Ph.Ăngghen đã trình bày một số quan điểm cơ bản về dân chủ và chế độ dân chủ trong quá trình đấu tranh của giai cấp vô sản. Tháng 11, tháng 12-1847, Đại hội lần thứ II Liên đoàn những người cộng sản giao cho C.Mác và Ph.Ăngghen soạn thảo Cương lĩnh của Liên đoàn dưới hình thức Tuyên ngôn. Tháng 1-1848, C.Mác và Ph.Ăngghen hoàn thành việc biên soạn Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đề cập vấn đề dân chủ và đấu tranh cho dân chủ như là mục tiêu của cách mạng vô sản, đặc biệt là ở giai đoạn thứ nhất của cuộc cách mạng đó. Tháng 12-1847, Hội Những người anh em dân chủ ở Luân Đôn ủy nhiệm cho Ph.Ăngghen làm đại biểu của Hội ở Pari. Sau đó Ph.Ăngghen được bầu làm đại biểu của Hội Dân chủ tại Pari. Tháng 2-1848, C.Mác dự cuộc họp của Hội Dân chủ Bruyxen để bàn về tổ chức Đại hội dân chủ quốc tế. C.Mác và Ph.Ăngghen xác định mục tiêu Hội Dân chủ Bruyxen là 68 đấu tranh cho dân chủ, nó có nhiệm vụ liên hệ với những người dân chủ ở các nước khác. Trong thư của Hội Dân chủ Bruyxen gửi Hội Những người dân chủ anh em ở Luân Đôn, đã cho rằng dân chủ trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết giai cấp vô sản Anh, Airơlen và các nước khác là thành tựu quan trọng nhất của toàn bộ sự nghiệp của giai cấp vô sản cho đến thời kỳ đó. Tháng 5-1848, dựa vào tin tức của phái viên Liên đoàn những người cộng sản từ các thành phố khác nhau của Đức về sự non yếu về mặt tổ chức của các chi bộ thuộc Liên đoàn, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng những người cộng sản cần phải gia nhập phong trào dân chủ, đứng về phía cánh tả và thực tế là cánh vô sản. Hai ông gia nhập Hiệp hội dân chủ ở Khuên và khuyên những người ủng hộ mình hãy tích cực tham gia vào các Hiệp hội công nhân. C.Mác và Ph.Ăngghen kết luận rằng, về lợi ích phải làm cho báo Báo mới vùng Ranh trở thành công cụ chủ yếu trong việc phổ biến các chỉ thị chung của Liên đoàn và tuyên truyền tư tưởng dân chủ và chủ nghĩa xã hội ở Đức. C.Mác tích cực tham gia vào hoạt động của tổ chức dân chủ ở Đức, Áo và Ba Lan. Tháng 8-1848, C.Mác dự phiên họp của Hội Liên hiệp dân chủ ở Viên và tham gia xây dựng Tuyên ngôn của Hội. Năm 1848 là thời kỳ cách mạng dân chủ tư sản đang diễn ra ở nhiều nước châu Âu như Pháp, Đức, Áo, Hung nhằm xóa bỏ ở các mức độ khác nhau những tàn tích của chế độ phong kiến và dọn đường cho các quan hệ tư bản chủ nghĩa phát triển. Đây cũng là thời kỳ phong trào đấu tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức đang dâng lên 69 mạnh mẽ ở nhiều quốc gia châu Âu. Trong các tác phẩm viết thời kỳ này, C.Mác và Ph.Ăngghen xác định những quan điểm duy vật lịch sử để phân tích các sự kiện chính trị, các giai cấp, đề ra sách lược của giai cấp vô sản trong đấu tranh cách mạng (liên minh với cánh tả của phái dân chủ tiểu tư sản, đồng thời phê phán những sai lầm vào ảo tưởng của họ) thu hút các tầng lớp nhân dân tham gia cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản, biến cách mạng dân chủ tư sản thành thắng lợi mở đầu của cách mạng vô sản. Cuối năm 1848, đầu năm 1849, các cuộc cách mạng dân chủ tư sản ở Pháp, Đức, Hunggari và Italia đã kết thúc nửa vời và đi vào thoái trào. Từ đây cho đến giữa những năm 1850, tức gần một thập kỷ, là thời kỳ các cuộc cách mạng dân chủ tư sản ở nhiều nước châu Âu kết thúc có lợi cho giai cấp tư sản. Trước khí thế của quần chúng, giai cấp tư sản trở lại thỏa hiệp với giai cấp phong kiến vì nó sợ hãi các lực lượng cách mạng hơn là các thế lực phong kiến. Giai cấp tư sản chuẩn bị và tiến hành các cuộc chính biến, tấn công các thành quả của quần chúng giành được trong thời kỳ cách mạng, đàn áp lực lượng dân chủ, các báo chí dân chủ và cách mạng. C.Mác và Ph.Ăngghen vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và quan niệm duy vật lịch sử để phân tích những sự kiện diễn ra, khái quát kinh nghiệm của quần chúng trong quá trình đấu tranh cách mạng, trong đó có đấu tranh vì dân chủ. Trong một số tác phẩm viết trong những năm 1851-1853 như Cách mạng và phản cách mạng ở Đức của Ph.Ăngghen, Ngày 18 tháng Sương mù của Lui Bônapáctơ của C.Mác v.v., 70 các vấn đề về tính chất và động lực của cách mạng ở Đức và ở Pháp; nhiệt tình cách mạng của quần chúng công nông, tính dao động và hèn nhát của các lãnh tụ phái dân chủ tiểu tư sản; sự phản bội và bất lực của giai cấp tư sản, bản chất phản động của Nhà nước Phổ v.v. đã được phân tích một cách kỹ lưỡng. Đồng thời, C.Mác và Ph.Ăngghen còn chỉ ra các tác động trở lại của châu Á đối với châu Âu. Trong các phân tích về vấn đề phương Đông, C.Mác và Ph.Ăngghen chủ trương giải quyết vấn đề phương Đông bằng con đường cách mạng và thành lập các nhà nước dân chủ ở vùng Ban Căng. Trong một số tác phẩm viết những năm 1854, 1855, 1859, 1860, C.Mác và Ph.Ăngghen còn dự báo về một cao trào mới của phong trào dân chủ và cách mạng ở châu Âu, theo đó giai cấp vô sản sẽ cần phải hành động nhằm biến cuộc chiến tranh Crưm thành cuộc chiến tranh cải tạo châu Âu, giải phóng các dân tộc bị áp bức, thống nhất nước Đức, nước Italia theo con đường dân chủ và cách mạng. Trong bài viết “Hội cải cách hành chính - Hiến chương nhân dân” cho tờ báo Ôđe mới tháng 6-1855, C.Mác đã nêu bật ý nghĩa của “Cương lĩnh dân chủ hóa chế độ chính trị Anh” do phái Hiến chương đề ra, nhấn mạnh việc thực hiện cương lĩnh sẽ mở ra triển vọng cho giai cấp công nhân giành lấy quyền lực chính trị, giành lấy dân chủ. Trong những năm từ 1860 đến 1864 là thời kỳ phong trào dân chủ tư sản được phục hồi và cao trào giải phóng dân tộc đã dâng lên làm thay đổi cục diện chính trị ở châu Âu từ sau khi cách mạng 1848 - 1849 thất bại. Đây là thời kỳ giai cấp công nhân các nước châu Âu, châu Mỹ hoạt 71 động chính trị sôi nổi, quyết tâm đấu tranh để giải phóng mình khỏi ảnh hưởng của giai cấp tư sản tự do. Phong trào vô sản ở một số nước, một mặt, do sự trưởng thành của giai cấp vô sản, mặt khác, có thể xem như là những kết quả của việc hình thành và tuyên truyền tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, đã tách khỏi phong trào dân chủ tư sản và bước lên con đường đấu tranh của giai cấp vô sản. Trong điều kiện ấy, C.Mác và Ph.Ăngghen đi sâu nghiên cứu nhằm hoàn thiện lý luận về tổ chức chính đảng của giai cấp vô sản, chuẩn bị cho cuộc đấu tranh độc lập - cuộc đấu tranh giai cấp sắp tới của giai cấp vô sản. Trong những năm từ 1864 đến 1870 và nhất là năm 1871, trong hoạt động thực tiễn và lý luận (chủ yếu là viết các tác phẩm lý luận) C.Mác và Ph.Ăngghen hướng vào việc xây dựng, củng cố Hội Liên hiệp công nhân quốc tế (Quốc tế I), xây dựng chiến lược, sách lược của tổ chức này. Với sự đóng góp hết sức to lớn và có ý nghĩa quyết định của C.Mác và Ph.Ăngghen, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân quốc tế từng bước trưởng thành, từng bước tách ra khỏi phong trào dân chủ cách mạng của giai cấp tiểu tư sản, nông dân và trí thức cấp tiến. C.Mác và Ph.Ăngghen đã trở thành những người đặt nền móng cho sự ra đời và lớn mạnh của chính đảng của giai cấp vô sản cả về tư tưởng và tổ chức. “Mác đã biến Đảng Dân chủ - xã hội từ một phe phái, một trường phái (của phong trào dân chủ cách mạng - TG) thành một đảng, một đảng mà giờ đây đang đấu tranh thắng lợi và sẽ giành thắng lợi”1. _______________ 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.19, tr.505. 72 Trong những năm từ 1872 đến cuối đời, C.Mác và Ph.Ăngghen trong hoạt động thực tiễn và lý luận của mình đã tiếp tục phát triển và hoàn thiện lý luận về dân chủ thông qua những luận giải về đấu tranh giai cấp, về nhà nước, về cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản. C.Mác và Ph.Ăngghen xác định rõ vị trí và tầm quan trọng của hình thức cộng hòa dân chủ. Trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” (1884), Ph.Ăngghen cho rằng hình thức cao của nhà nước là chế độ cộng hòa dân chủ, chế độ trở thành một tất yếu không thể tránh khỏi trong những điều kiện hiện nay của chúng ta và là cái hình thức duy nhất khiến cho trong đó cuộc chiến đấu quyết định giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản có thể tiến hành đến cùng, vì hình thức đó không chính thức thừa nhận sự chênh lệch về của cải nữa mà của cải phát huy quyền lực của nó một cách gián tiếp (mua chuộc công chức) và thông qua chế độ cộng hòa dân chủ mà giai cấp vô sản ngày một trưởng thành, từng bước tổ chức được thành một chính đảng riêng biệt. C.Mác và Ph.Ăngghen tiếp cận với các tư tưởng dân chủ lúc đầu là từ cơ sở và trên cơ sở của lập trường dân chủ cách mạng. Lập trường dân chủ cách mạng là lập trường hình thành từ trong phong trào chính trị của các tầng lớp tích cực hoạt động chính trị trong giai cấp tiểu tư sản thành thị, nông dân và tầng lớp trí thức cấp tiến, đứng trên lập trường đấu tranh chống tư bản, chống đế quốc. Các chính đảng, các tổ chức và các nhóm chính trị - xã hội lúc đó đại biểu cho lợi ích của những tầng lớp kể 73 trên. Cái xác định lập trường dân chủ cách mạng là thái độ đối với các nhiệm vụ phát triển xã hội được đề ra trong giai đoạn phát triển nhất định - nhất là những thập kỷ đầu và giữa thế kỷ XIX ở Tây Âu - của cuộc đấu tranh giải phóng. Nhân danh nhân dân và vì lợi ích của đa số nhân dân, đặc biệt là của các giai cấp bị áp bức, những người dân chủ cách mạng tuyên chiến với những gì lỗi thời và phản động. Mặc dù vậy, việc thực hiện những quan điểm tư tưởng ấy lại khác nhau, tùy thuộc vào thời đại lịch sử, trình độ kỹ thuật và trình độ văn hóa, so sánh lực lượng ở trong nước và trên thế giới. Thực tiễn lịch sử cho thấy, dân chủ cách mạng xét cả ở bình diện lý luận và thực tiễn là mang tính tiến bộ và cách mạng, nó trước hết nhằm vào việc chống chế độ độc đoán chuyên quyền phong kiến. Còn đối với giai cấp tư sản khi xác lập địa vị kinh tế, chính trị và xã hội của mình đã cần đến các hành động dân chủ và cách mạng - nhưng là dân chủ cho giai cấp tư sản và cách mạng đối với chế độ phong kiến cũ và lỗi thời. C.Mác và Ph.Ăngghen ngày càng thấy tính hạn chế, tính không triệt để của các phong trào dân chủ cách mạng và các trào lưu lý luận nảy sinh từ phong trào ấy, luận giải cho phong trào ấy. Do thấy được tính hạn chế lịch sử, hạn chế bởi tính chất của giai cấp tư sản và tiểu tư sản về dân chủ và cách mạng, các ông từng bước chuyển sang xác lập lập trường, quan điểm mới về dân chủ và cách mạng theo hướng giải quyết những nhiệm vụ lịch sử mới của dân chủ vô sản và cách mạng vô sản, chống chủ nghĩa tư bản, quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen 74 về dân chủ của giai cấp vô sản gắn liền với các tư tưởng về chính đảng và nhà nước vô sản. 2. Từ hoạt động thực tiễn và lý luận mà C.Mác và Ph.Ăngghen ngày càng ý thức rõ hơn về vị trí và tầm quan trọng của vấn đề dân chủ trong cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản và toàn bộ chế độ tư bản. Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về dân chủ vô sản và cuộc đấu tranh vì mục tiêu dân chủ của giai cấp vô sản dần được hình thành. Trả lời câu hỏi cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp vô sản khỏi chế độ áp bức và bóc lột của giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản sẽ diễn biến như thế nào, Ph.Ăngghen cho rằng đó chính là quá trình xây dựng một chế độ dân chủ mới. Bởi vì, “Trước hết, nó tạo ra một chế độ dân chủ và nhờ đó mà trực tiếp hay gián tiếp tạo ra quyền thống trị của giai cấp vô sản”1. Đấu tranh cho dân chủ ngày càng có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản. Đấu tranh vì mục tiêu dân chủ trở thành một nội dung của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản và các giai cấp áp bức, bóc lột khác. “Muốn thế, có lẽ cần phải có một cuộc đấu tranh mới nữa, song cuộc đấu tranh mới đó nhất định sẽ kết thúc bằng thắng lợi của giai cấp vô sản”2. Giai cấp vô sản tiếp tục cuộc đấu tranh vì mục tiêu dân chủ của giai cấp tư sản, khi giai cấp tư sản còn là một giai cấp tiến bộ và cách mạng, chống lại chế độ chuyên chế phong kiến lạc hậu và phản động. Nhưng giai cấp vô sản _______________ 1, 2. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.469-470, 470. 75 sẽ tiến hành cuộc đấu tranh cho dân chủ một cách trung thực và triệt để, chứ không hình thức và nửa vời như giai cấp tư sản đã làm. Đấu tranh cho dân chủ trở thành phương tiện, phương thức tấn công vào giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản; trở thành phương tiện, phương thức tồn tại của chính giai cấp vô sản. “Đối với giai cấp vô sản, chế độ dân chủ sẽ trở nên hoàn toàn vô ích nếu nó không được dùng ngay lập tức làm phương tiện để thi hành những biện pháp rộng rãi trực tiếp đánh vào chế độ tư hữu và bảo đảm sự tồn tại của giai cấp vô sản”1. Những biện pháp chủ yếu nhất mà chế độ dân chủ của giai cấp vô sản sử dụng vào việc cải tạo xã hội cũ - xã hội tư bản, xây dựng xã hội mới - xã hội cộng sản thể hiện ở những lĩnh vực như: hạn chế quyền tư hữu; dần dần tước đoạt bọn chiếm hữu ruộng đất, bọn chủ xưởng, chủ đường sắt, chủ tàu thủy; cạnh tranh của công nghiệp nhà nước; tịch thu tài sản của giai cấp bóc lột; tổ chức lao động trong giai cấp vô sản; thủ tiêu sự cạnh tranh giữa công nhân với nhau, trả tiền công bình đẳng cho người lao động; tất cả mọi người trong xã hội đều có nghĩa vụ lao động như nhau; tiến hành những cải tạo kinh tế và xã hội nhằm không ngừng phát triển sản xuất và nâng cao đời sống của nhân dân lao động. Đặc biệt, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen xác định: “Như chúng ta đã thấy trên kia, bước thứ nhất trong cuộc cách mạng công nhân _______________ 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.470. 76 là giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị, là giành lấy dân chủ”1. C.Mác và Ph.Ăngghen nhận thấy rằng giành lấy dân chủ là một mục tiêu, một nội dung của giai đoạn thứ nhất của cuộc cách mạng công nhân hay cách mạng vô sản. Việc giai cấp vô sản biến thành, trở thành giai cấp thống trị cũng có nghĩa là giai cấp vô sản giành lấy dân chủ. Giai cấp vô sản trở thành giai cấp thống trị có nghĩa là nó giành lấy chính quyền - quyền làm chủ cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cũng có nghĩa là chính quyền của giai cấp vô sản trở thành một hình thức, một hình thái của dân chủ. Dân chủ vô sản và nhà nước vô sản là thống nhất, thậm chí đồng nhất với nhau. Giai cấp vô sản trở thành giai cấp thống trị có nghĩa là giai cấp vô sản trở thành giai cấp làm chủ xã hội, thực hiện quyền làm chủ của đa số dân cư trong xã hội. Việc giai cấp vô sản giành lấy chính quyền, trở thành giai cấp thống trị và giành lấy dân chủ là những mục tiêu, nhiệm vụ cơ bản của cách mạng vô sản. Các bước tiếp theo của cách mạng vô sản sau bước thứ nhất ấy sẽ là việc giai cấp vô sản sử dụng sự thống trị của mình để từng bước một đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước, tức là trong tay giai cấp vô sản được tổ chức thành giai cấp thống trị, để tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản xuất2. Trong điều kiện lịch sử mới khi những tư liệu sản xuất đã tập trung trong tay những cá nhân đã _______________ 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.626. 2. Xem C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.626. 77 liên hiệp lại với nhau thì chính trị vô sản, dân chủ vô sản ngày càng hoàn thiện, ngày càng tự tiêu vong. Dân chủ vô sản là một phạm trù lịch sử. Những giá trị của dân chủ tư sản có ý nghĩa to lớn đối với cuộc đấu tranh giành lấy chính quyền, giành lấy dân chủ và xây dựng chủ nghĩa xã hội của giai cấp vô sản. Các chính đảng của giai cấp vô sản có nhiệm vụ là đưa vào trong phong trào công nhân tự phát những lý tưởng xã hội chủ nghĩa, những lý tưởng này phải đạt tới trình độ khoa học hiện đại, gắn phong trào đó với cuộc đấu tranh chính trị có hệ thống cho nền dân chủ, coi đó là phương tiện để thực hiện chủ nghĩa xã hội. Quần chúng công nông không thể hy vọng và trông cậy vào ai được, ngoài bản thân mình. Nếu công nhân không tự giải phóng, thì không ai có thể giải phóng cho họ được. Song, để làm được điều đó, trong điều kiện của nền dân chủ tư sản, giai cấp công nhân muốn liên hiệp lại thì phải có quyền tự do chính trị. Các quyền tự do, dân chủ trong điều kiện của nền chính trị và dân chủ tư sản không giúp giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động khỏi cảnh bần cùng, nhưng nó sẽ đem lại cho công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động khác vũ khí để đấu tranh chống lại cảnh bần cùng. Cuộc đấu tranh cho dân chủ tư sản là tiền đề cho cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp vô sản. Cách mạng dân chủ càng được thực hiện đầy đủ bao nhiêu thì cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp vô sản càng diễn ra sớm, rộng lớn, rõ rệt và kiên quyết bấy nhiêu. Đấu tranh trong điều kiện của chế độ tư bản, giai cấp vô sản và nông dân không còn con đường nào khác dẫn tới tự do chân chính ngoài con 78