🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tư Duy Hệ Thống Cho Mọi Người - Hành Trình Từ Lý Thuyết Tới Tác Động Thực Tiễn Tại Việt Nam
Ebooks
Nhóm Zalo
Chịu trách nhiệm xuất bản
GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
PGS.TS. PHẠM MINH TUẤNÂ
Chịu trách nhiệm nội dung
PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP TS. ĐỖ QUANG DŨNG
Biên tập nội dung:
Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Đọc sách mẫu:
ThS. PHẠM THỊ KIM HUẾ TS. HOÀNG MẠNH THẮNG ThS. ĐÀO DUY NGHĨA ThS. NGUYỄN VIỆT HÀ ĐƯỜNG HỒNG MAI
HOÀNG MINH TÁM
ĐÀO DUY NGHĨA
Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 427-2021/CXBIPH/16-365/CTQG. Số quyết định xuất bản: 19-QĐ/NXBCTQG, ngày 18/02/2021. Nộp lưu chiểu: tháng 4 năm 2021.
Mã ISBN: 978-604-57-6504-3.
Ấn bản tiếng Việt của cuốn sách này được xuất bản lần đầu tiên năm 2016.
Ấn bản tiếng Việt 2020 này được cập nhật và bổ sung thêm từ ấn bản mới nhất tiếng Anh: “Systems Thinking for Everyone: the journey from theory to making an impact” xuất bản bởi Malik International AG, Gallen, Swit zerland, 3rd Edition, in ở Adelaide bởi Malik Australia and Southeast Asia
ISBN: 978-0-6485882-2-1 (print version)
ISBN: 978-0-6485882-3-8 (e-pdf version)
Cuốn sách này dành cho Tất cả - MỌI NGƯỜI trong mọi lĩnh vực, bối cảnh, doanh nghiệp, tổ chức, cơ quan nhà nước, cộng đồng, gia đình, và các cá nhân
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Chúng ta đang sống trong một thế giới phức hợp, với rất nhiều mối quan hệ qua lại chằng chịt giữa các thành phần tự nhiên, xã hội và con người. Hiện nay, dưới tác động của khoa học và công nghệ, thế giới đang biến đổi không ngừng và ngày càng có nhiều vấn đề mới nảy sinh đòi hỏi phải xử lý một cách có hiệu quả. Các vấn đề nảy sinh hầu hết mang tính phức hợp, thế nhưng cách thức giải quyết thường chỉ liên quan trực tiếp đến vấn đề nảy sinh mà ít lưu ý đến mối quan hệ với môi trường xung quanh, nên hiệu quả giải quyết không được như mong muốn, gây ra lãng phí nguồn lực và dễ lặp lại sai lầm trong quá khứ.
Chính vì vậy, một số nhà khoa học đã nghiên cứu kỹ hơn phương pháp tư duy hệ thống trong giải quyết vấn đề, theo đó nhìn nhận thế giới trong một thể thống nhất không thể tách rời, tất cả các đơn vị, yếu tố cấu thành, các hiện tượng cơ bản sinh ra từ chúng đều có mối quan hệ, tác động qua lại với nhau trong một tổng thể.
Với cách thức giải quyết tổng thể, tư duy hệ thống đang là vấn đề thu hút sự quan tâm đặc biệt trong các nghiên cứu của nhiều học giả, nhà khoa học, nhà hoạch định chính sách và nhà quản lý cả vi mô lẫn vĩ mô ở trong nước cũng như nhiều quốc gia trên thế giới. Nhằm cung cấp thêm tài liệu tham khảo cho bạn đọc quan tâm đến vấn đề này, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Tư duy hệ thống cho mọi người - Hành trình từ lý thuyết tới tác động thực tiễn tại Việt Nam của các tác giả PGS.TS. Nguyễn Văn Thành, GS.TS. Ockie Bosch, TS. Nam Nguyễn, GS.TS. Fredmund Malik và TS. Constantin Malik.
v
Trong 11 chương nội dung, trước tiên bạn đọc sẽ hiểu được tại sao phải ứng dụng tư duy hệ thống trong quản lý và giải quyết các vấn đề nảy sinh; tiếp đó, các tác giả sẽ cung cấp cho bạn đọc cơ sở lý thuyết và các nội dung cơ bản về tư duy hệ thống; việc ứng dụng tư duy hệ thống trong thực tiễn tại một số địa phương ở Việt Nam và các kết quả đã đạt được trong thực tế; trên cơ sở đó các tác giả rút ra một số kinh nghiệm để có thể nhân rộng mô hình ứng dụng tư duy hệ thống tại Việt Nam. Cuối cùng, các tác giả giới thiệu với bạn đọc công cụ hiệu quả để ứng dụng tư duy hệ thống trong thực tiễn tại Việt Nam.
Với ngôn ngữ dễ hiểu, ví dụ thực tế sinh động, cuốn sách là tài liệu tham khảo hữu ích cho mọi người để có thể ứng dụng tư duy hệ thống vào thực tế. Tuy nhiên, do là vấn đề còn khá mới nên nội dung cuốn sách không tránh khỏi còn hạn chế, thiếu sót, Nhà xuất bản và các tác giả rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để hoàn thiện nội dung cuốn sách trong lần xuất bản sau.
Tháng 10 năm 2020
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
vi
MỤC LỤC
LỜI TỰA........................................................................................ xi Mở đầu......................................................................................... xv Các nhà khoa học hệ thống nói gì? ............................................xvii Lời cảm ơn................................................................................. xix Lời tác giả ................................................................................... xxi Tại sao tư duy hệ thống quan trọng với mọi người?...................xxiii
1. Hành trình bắt đầu!..................................................................1 Tại sao cần Tư duy hệ thống? .......................................................2 Tư duy hệ thống.............................................................................4 Sự phức hợp của mọi hệ thống mà chúng ta phải xử lý ...............11 Những bài tập nhỏ .......................................................................12 Tài liệu đọc thêm chọn lọc...........................................................12
2. Hành trình vừa bắt đầu - Sao lại chạy trốn
sự phức hợp? .........................................................................14 Chúng ta có cần phải chạy trốn sự phức hợp?.............................15 Việc xử lý sự phức hợp không phải là “đặc quyền” của các nhà khoa học hệ thống - mọi người phải xử lý nó..................15 Hạn chế các “giải pháp tình thế” và lối tư duy một chiều .............16 Phương pháp luận tảng băng trôi và Phương pháp luận hệ thống.......................................................................................17 Quy trình Phòng thí nghiệm học tập tiến hóa dựa trên khoa học tư duy hệ thống ............................................................18
vii
Những bài tập nhỏ .......................................................................23 Tài liệu đọc thêm chọn lọc...........................................................24
3. Mọi người đều tham gia hành trình này?..............................25 Tầm quan trọng của sự tham gia bởi tất cả các bên liên quan...........26 Các mô hình tư duy khác biệt ......................................................27 Cách thu thập các mô hình tư duy (quan điểm, cảm nhận,
tri thức, kinh nghiệm) của các bên liên quan.................................29 Làm cách nào để kết hợp các mô hình tư duy thành những chủ đề chính .....................................................................31 Những bài tập nhỏ .......................................................................33 Tài liệu đọc thêm chọn lọc...........................................................34
4. Hãy khám phá bức tranh toàn cảnh trong hành trình .........35 Xây dựng năng lực cho các bên liên quan...................................36 Tổng hợp các mô hình tư duy bằng cách xây dựng những mô hình/cấu trúc hệ thống ...........................................................37 Sơ đồ vòng nhân quả...................................................................38 Vòng Tăng cường và Vòng Cân bằng..........................................40 Những bài tập nhỏ .......................................................................43 Dữ liệu phần mềm .......................................................................43 Tài liệu đọc thêm chọn lọc...........................................................44
5. Bức tranh toàn cảnh cho ta thấy điều gì? ............................45 Sử dụng mô hình hệ thống để xác định các mối quan hệ và sự tương tác giữa các thành phần của hệ thống .....................46 Các kiểu lỗi hệ thống điển hình - những cấu trúc tổng quát.........46 Điểm đòn bẩy ..............................................................................47 Ví dụ về các kiểu lỗi hệ thống điển hình và điểm đòn bẩy ...........48
viii
Những bài tập nhỏ .......................................................................56 Tài liệu đọc thêm chọn lọc...........................................................57
6. Xử lý điểm đòn bẩy một cách có hệ thống...........................58 Mô hình Bayes (BBN) là gì? ........................................................59 Cách tạo một mô hình Bayes.......................................................63 Ứng dụng mô hình Bayes trong thực tế - Trường hợp
Quản lý hệ thống đồng bộ của thành phố Hải Phòng..................68 Những bài tập nhỏ .......................................................................73 Tài liệu đọc thêm chọn lọc...........................................................73
7. Thực hiện việc quản lý hệ thống đồng bộ............................75 Tầm quan trọng của việc thực hiện theo hệ thống.......................76 Lập kế hoạch quản lý hệ thống để giải quyết sự phức hợp..........79 Những bài tập nhỏ .......................................................................88 Tài liệu đọc thêm chọn lọc...........................................................88
8. Rút kinh nghiệm là một phần của hành trình.......................91 Không có mô hình “hoàn hảo” để giải quyết sự phức hợp............92 Ví dụ về kết quả, tác động và bài học từ các Phòng thí nghiệm học tập tiến hóa trong bước Rút kinh nghiệm .................94 Những bài tập nhỏ .......................................................................99 Tài liệu đọc thêm chọn lọc.........................................................100
9. Ứng dụng khoa học Tư duy hệ thống xây dựng mô hình học tập cho sự phát triển bền vững đầu tiên trên thế giới tại Khu Dự trữ sinh quyển thế giới Quần đảo Cát Bà, Việt Nam.................................................102
Khu Dự trữ sinh quyển thế giới với yêu cầu phát triển bền vững....................................................................................103
ix
Tổng quan về Khu Dự trữ sinh quyển thế giới Quần đảo Cát Bà - mô hình nghiên cứu .....................................................104 Bối cảnh: sự gắn kết giữa nhận thức về mô hình lý thuyết và thực tiễn ứng dụng ................................................................107 Quá trình thực hiện và kết quả xây dựng Mô hình Phòng thí nghiệm học tập về Phát triển bền vững Khu Dự trữ sinh quyển thế giới Quần đảo Cát Bà ........................................107 Tài liệu đọc thêm chọn lọc.........................................................123
10. Áp dụng Khoa học Tư duy hệ thống trong hoạch định chiến lược xây dựng thành phố có bản sắc, có sức sống và có sức cạnh tranh (Mô hình thành phố Hải Phòng, Việt Nam)...................................................125
Tổng quan về thành phố Hải Phòng ..........................................126 Quan điểm lựa chọn Tư duy hệ thống cho quản lý thành phố .........127 Quy trình thực hiện và kết quả bước đầu ...................................127 Những kinh nghiệm thành công để nhân rộng tư duy hệ thống.......138 Tài liệu đọc thêm chọn lọc.........................................................141
11. Các công cụ sẵn có cho một Thế giới phức hợp và Thay đổi nhanh chóng ........................................................143 Thế giới quan thay đổi ...............................................................144 Cơ hội trong nền kinh tế thông tin và tri thức .............................144 Các hệ thống quản lý Malik® tiên tiến và tổng thể ....................145 Tài liệu đọc thêm chọn lọc.........................................................159
Tài liệu tham khảo....................................................................161 Về các tác giả ...........................................................................171
x
LỜI TỰA
Tôi hân hạnh giới thiệu tới bạn đọc một tác phẩm trọn vẹn về khoa học hệ thống, và đúng hơn là về một chặng đường hoàn chỉnh của lý luận khoa học tư duy hệ thống hiện đại được phát triển, hiệu chỉnh, áp dụng và tạo ra những kết quả bước đầu hiệu quả trong thực tiễn ở nhiều khu vực của thế giới, nhất là ở châu Á - Thái Bình Dương và Việt Nam.
Hơn hẳn một mối duyên gặp gỡ thông thường giữa lý luận và hiện thực áp dụng, giữa những tác giả hàn lâm và nhà quản lý thực tiễn, cuốn sách này của Giáo sư Ockie Bosch, Tiến sĩ Nam Nguyễn và Tiến sĩ Nguyễn Văn Thành là sự chín muồi của một phương pháp luận khoa học được sáng tạo, vun đắp với tâm huyết trọn đời của các tác giả, trải qua hơn 10 năm nghiên cứu và cải tiến, được đúc kết, kiểm nghiệm qua nhiều cuộc hội thảo quốc tế và khu vực, và đặc biệt, trải nghiệm bởi hàng ngàn người tham gia thuộc mọi thành phần của xã hội, bao gồm các nhà quản lý, nhà khoa học, nhà chuyên môn, nhà doanh nghiệp, chủ nhà hàng, khách sạn, học sinh, sinh viên, giáo viên, nông dân, ngư dân,... trong nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội như công nghiệp, nông nghiệp, thủy sản, du lịch, môi trường, quản trị, lãnh đạo, y tế, giáo dục và an sinh xã hội...
Với sự chau chuốt đến tinh tế nhưng thể hiện bằng một ngôn ngữ rất dễ hiểu với mọi người, cuốn sách này là một cẩm nang, cung cấp một cách đầy đủ nhất về những công cụ, kỹ năng tư duy hệ thống và thành tựu mới nhất của khoa học hệ thống, điều khiển học giúp bạn đọc - người dùng có thể “làm chủ” mọi sự phức hợp,
xi
thấy được những mối liên hệ đan xen đang chi phối mọi vấn đề tồn tại trong hiện thực khách quan, hình thành nên một phương thức hợp tác, chia sẻ, phát huy trí tuệ tập thể của nhân loại, kết hợp với sức mạnh, năng lực của trí tuệ kỹ thuật số để tìm ra những phương án giải quyết vấn đề đạt hiệu quả nhất và bền vững nhất.
Trong một hành trình thú vị, sáng tạo và giàu cảm xúc ấy, cuốn sách này sẽ dẫn dắt bạn đọc - người dùng bắt đầu với sự quen thuộc khi nhận ra khái niệm hệ thống (tưởng chừng trừu tượng) đã được minh họa sinh động bằng những ví dụ có tính phổ biến và lâu đời trong nhiều nền văn hóa; rồi ngạc nhiên khi nhận ra sức mạnh to lớn của những công cụ tưởng chừng như đơn giản (sơ đồ vòng nhân quả) nhưng lại có khả năng “vẽ lên cả thế giới”; và rất nhanh chóng, làm chủ thành tựu tiên tiến nhất hiện nay của khoa học hệ thống và công nghệ điều khiển học (thuyết Bayes, phần mềm mô hình hóa) để tự tin “thử nghiệm” và “kiểm nghiệm” các chiến lược, biện pháp quản lý, đầu tư để đảm bảo tính khả thi và hiệu suất đầu tư cao nhất, đột phá nhất.
Tuy nhiên, còn hơn cả một cuốn sách, các tác giả, Giáo sư Ockie Bosch, Tiến sĩ Nam Nguyễn và Tiến sĩ Nguyễn Văn Thành, với vai trò là những nhà hàn lâm, nhà quản lý, lãnh đạo chú trọng tạo ra những chuyển biến tích cực cho các hệ thống phát triển bền vững trong thực tiễn, đã góp phần thúc đẩy, tạo ra một bước chuyển lớn cho khoa học hệ thống khi lần đầu tiên các ông giúp đưa tư duy hệ thống và các ứng dụng khoa học điều khiển hệ thống vào thực tiễn quản lý, quản trị: đó chính là Mô hình phòng thí nghiệm học tập về Phát triển bền vững đầu tiên trên thế giới tại Khu Dự trữ sinh quyển thế giới Quần đảo Cát Bà, Mô hình ứng dụng lý thuyết trò chơi cho giáo dục phát triển bền vững với thế hệ trẻ, và đặc biệt, Mô hình tổng thể quản trị thành phố Hải Phòng trong điều kiện thay đổi (mô hình đầu tiên trên thế giới ứng dụng khoa học hệ thống vào quản lý một thành phố). Những thành tựu trong lý thuyết và đóng
xii
góp thực tiễn của các ông đã được ghi nhận, kiểm chứng và đánh giá cao tại Hội nghị thế giới lần thứ 57 của Hiệp hội Khoa học hệ thống quốc tế (ISSS) diễn ra tại thành phố Hải Phòng và Khu Dự trữ sinh quyển Cát Bà tháng 7 năm 2013.
Tôi tin bạn đọc ở mọi lứa tuổi, mọi lĩnh vực hàn lâm hay thực tiễn, và mọi nơi trên thế giới, với sự trợ giúp của cuốn sách - cẩm nang khoa học hệ thống này, sẽ luôn tìm được những kết quả rất mới, rất hiệu quả trên mọi hành trình nghiên cứu, học tập, thiết kế, xây dựng và quản lý các hệ thống bền vững.
Hà Nội, tháng 3 năm 2016
PGS.TS. Trần Đình Thiên
Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam
xiii
Mở đầu
Chúng ta không thể giải quyết các vấn đề rắc rối với cùng 1 tư
“
tưởng đã tạo ra chúng” (Albert Einstein)
“Thế kỷ XXI là thế kỷ của sự phức hợp” (Stephen Hawking) “Không có quốc gia kém phát triển, chỉ có những quốc gia quản lý kém” (Peter Drucker)
Kể từ năm 2017, Liên hợp quốc, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đều tuyên bố công khai rằng tư duy hệ thống cần được coi là một kỹ năng lãnh đạo quan trọng cần thiết để xử lý tính liên đới nền tảng của các vấn đề kinh tế, xã hội và môi trường phức hợp, từ địa phương đến toàn cầu.
Ngoài ra, chúng ta đang sống trong một thế giới phức hợp và kết nối thay đổi nhanh chóng. Do đó, điều rất quan trọng đối với các nhà quản lý, lãnh đạo và mọi công dân là phải được trang bị “cách suy nghĩ mới”, các công cụ và phương pháp mới về quản lý hiệu quả (cuộc sống và công việc của họ) và giải quyết thành công các vấn đề phức hợp của họ.
Các nhà khoa học hệ thống vẫn chưa hết ngạc nhiên bởi cách thức cộng đồng quốc tế gắn bó với các phương pháp tiếp cận một chiều khi giải quyết các vấn đề phức hợp. Việc họ sẵn sàng lặp lại những sai lầm tương tự và không sẵn sàng chấp nhận một cách tiếp cận có hệ thống hơn được thể hiện rất rõ ràng. Các vấn đề phức hợp - những vấn đề có biểu hiện phi tuyến tính, không chắc chắn, không
rõ ràng và mới nổi, những vấn đề có nhiều bên liên quan hoặc có thể chịu ảnh hưởng chính trị, đòi hỏi một cách tiếp cận khác biệt. Nhận thấy tư duy hệ thống là chìa khóa quan trọng đối với cộng đồng quốc tế, Giáo sư Ockie Bosch, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Thành và Tiến sĩ Nam Nguyễn đã phát triển và triển khai một quy trình hay mô hình tư duy hệ thống thành công, có thể được điều chỉnh cho các vấn đề quy mô nhỏ và lớn, được gọi là Phòng thí nghiệm Học tập Tiến hóa (ELLab). Quá trình này vượt
xv
qua ranh giới văn hóa và ngành, đặt tư duy hệ thống và quy trình ELLab vào một bối cảnh thực tế sẽ cho phép MỌI NGƯỜI tạo ra sự khác biệt cho dù điều đó ở cấp địa phương hay toàn cầu. Quy trình ELLab cung cấp một cách tiếp cận có bài bản, có thể lặp lại và dễ tiếp cận để xử lý sự phức hợp. Quan trọng hơn, quy trình ELLab đã được triển khai thành công và mang lại hiệu quả to lớn trong việc hỗ trợ các cộng đồng lớn và nhỏ, các chính quyền, các cơ quan viện trợ và các tổ chức khác.
Ấn bản lần thứ hai này bao gồm một chương bổ sung đặc biệt đề cập đến một thời đại công nghệ phát triển nhanh chóng và bùng nổ thông tin bằng cách giới thiệu các công cụ “kỹ thuật số” mới và tiên tiến của thời đại này, hiện đang làm tăng tiềm năng của hệ thống tư duy theo cấp số nhân - một phần giới thiệu ngắn về các phương pháp và hệ thống Malik tiên tiến.
Cuốn sách được viết bằng ngôn ngữ “đơn giản”, cung cấp nhiều ví dụ “dễ hiểu” và các ứng dụng thực tế của tư duy hệ thống cũng như các công cụ và mô hình hệ thống liên quan, trong nhiều tình huống phức hợp trên toàn thế giới.
Nó cũng được viết dưới dạng sách giáo khoa, có một số “thử thách nhỏ” (ở cuối mỗi chương) để người đọc thực hành và củng cố những gì đã được đề cập trong chương. Ngoài ra, có một “danh sách tài liệu đọc thêm chọn lọc” để cung cấp thêm thông tin và tài liệu tham khảo về nội dung liên quan của mỗi chương.
Cuốn sách này rất kịp thời và cần thiết trong “Sự chuyển đổi vĩ đại của thế kỷ XXI” và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư này. Nó sẽ hữu ích và thú vị đối với nhiều độc giả, từ các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý đến các lãnh đạo doanh nghiệp, học giả và người dân - MỌI NGƯỜI.
Tôi rất vui được giới thiệu với độc giả ấn bản lần thứ hai của cuốn sách này về Tư duy hệ thống cho mọi người!
St. Gallen, ngày 01 tháng 9 năm 2019
Giáo sư, Tiến sĩ Fredmund Malik
Người sáng lập và Chủ tịch Viện Malik, Thụy Sĩ
xvi
Các nhà khoa học hệ thống nói gì?
Các tác giả đã dành nhiều năm gọt giũa các khái niệm và ứng dụng về hệ thống. Một số ý tưởng trong đó đã nảy sinh từ những cuộc hội thoại chuyên sâu với các nhà chuyên môn hệ thống khác, và rồi bén rễ trong các chương trình đại học mà các ông giảng dạy. Ứng dụng quan trọng nhất, dù vậy, dường như lại là việc chuyển đổi các khái niệm rất lý thuyết thành thực tiễn trong những bối cảnh mà người tham gia có thể đã hoặc chưa bao giờ chung một ngôn ngữ. Họ đã dùng các ý tưởng hệ thống để trao quyền cho người dân địa phương được tham gia vào quá trình ra quyết định, và thiết kế tương lai của chính mình.
Giáo sư Gary Metcalf, Hoa Kỳ
Nguyên Chủ tịch, Liên đoàn quốc tế về Nghiên cứu hệ thống
Cuốn sách này thực sự là về nghệ thuật tạo ra sự đổi mới. Nó giải quyết các thách thức phức hợp mà chúng ta gặp phải hàng ngày. Nó giúp chúng ta vẽ ra một bản đồ tốt hơn về thế giới. Nó khuyến khích việc học tập không chỉ về lĩnh vực kỹ thuật, mà hơn nữa là các khía cạnh vi mô và vĩ mô của thực tiễn văn hóa và chính trị. Chúng ta thấy được các động lực gây ra sự phức hợp và cách thức điều chỉnh chúng. Chúng ta thấy được sức mạnh của bối cảnh dẫn đến sự tốt hơn hay tồi tệ đi. Và chúng ta học được cách rút kinh nghiệm về vai trò của chúng ta trong việc tạo ra một thế giới và có trách nhiệm về các kết quả. Cuốn sách này hướng dẫn chúng ta trên hành trình học tập để đi tới sự đổi mới mà chúng ta muốn thấy trên thế giới.
xvii
Tiến sĩ Louis Klein
Chủ tịch, Nhóm Tài năng hệ thống, Berlin, Đức
Là nhà khoa học về rôbốt, xã hội nhân văn, phúc lợi và các hệ thống phức hợp, tôi nhận ra rằng mọi thứ đều gắn kết và tương tác với nhau. Không có gì có thể được coi là tách biệt cả. Tuy nhiên, con người đã tập trung vào những cách tiếp cận giản lược hàng trăm năm rồi. Cuốn sách này giúp “mọi người” những điều cần thiết để giải quyết các vấn đề phức hợp - tức là tập trung vào các hệ thống. Những nội dung toàn cầu như các vấn nạn môi trường, nghèo đói, quản lý thiên tai, phúc lợi, y tế, giáo dục, kinh tế, chính trị và đổi mới đều có sự liên kết với nhau. Cuốn sách này đưa chúng ta vào một kỷ nguyên mới của tư duy hệ thống trong một ngôn ngữ dễ hiểu với mọi người và giúp tư duy hệ thống trở nên phổ biến trong xã hội.
Giáo sư Takashi Maeno
Trưởng khoa, Trường Thiết kế và Quản trị hệ thống, Đại học Keio, Nhật Bản
xviii
Lời cảm ơn
Các tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới nhiều người đã đi
qua những nẻo đường trên hành trình liên tục của chúng tôi từ lý thuyết tới việc tạo ra tác động trong thực tiễn. Nhiều người từ khắp các quốc gia trên thế giới đã tham gia cùng chúng tôi nghiên cứu và kiểm nghiệm các phương pháp hệ thống, như Phó Giáo sư Đan Đức Hiệp và nhiều cán bộ của Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng, những người ở Khu Dự trữ sinh quyển Quần đảo Cát Bà; Quỹ Bill & Melinda Gates và Nhóm Grand Challenges, Hoa Kỳ; Philip Taylor và Hamish Park từ Bộ Phát triển bang Nam Australia; Frances Graetz từ Bộ Y tế bang Nam Australia; Giáo sư Takashi Maeno, Trưởng khoa, Trường Thiết kế và Quản trị hệ thống, Đại học Keio, Nhật Bản; Tiến sĩ Ishwaran Natarajan, nguyên Giám đốc Ban Khoa học Sinh thái và Trái đất, UNESCO; Giáo sư Nguyễn Viết Thịnh và Giáo sư Nguyễn Hoàng Trí, Đại học Sư phạm Hà Nội, Ủy ban Quốc gia Chương trình Con người và Sinh quyển (MAB) Việt Nam; Giáo sư Tường Duy Kiên và Tiến sĩ Phạm Thị Phương Nga, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Việt Nam; Tiến sĩ Alan Shiell, Chủ tịch Hội đồng quản trị Trung tâm Tài năng Khoa học Y tế dự phòng và Điều trị; Tiến sĩ Sonia Wutzke, Phó Giám đốc Trung tâm Hợp tác Y tế dự phòng Australia.
Chúng tôi cũng biết ơn sự hỗ trợ và niềm cảm hứng liên tục từ nhiều đồng nghiệp mà chúng tôi đã cộng tác như Giáo sư Gary Metcalf, nguyên Chủ tịch Liên đoàn quốc tế về Nghiên cứu hệ thống; Giáo sư Gerald Midgley và Tiến sĩ Jennifer Wilby, Trường Kinh doanh, Đại học Hull, Vương quốc Anh; Tiến sĩ Louis Klein, Chủ tịch Nhóm Tài năng hệ thống, Berlin, Đức; Giáo sư Wolfgang Hofkirchner và Giám đốc điều hành Stefan Blachfellner, Trung tâm Nghiên cứu
xix
Khoa học hệ thống Bertalanffy, Áo; Giáo sư Roberto Barrera, Đại học Patagonia, Argentina; Giáo sư Deborah Hammond, Đại học Sonoma, California, Hoa Kỳ; Giáo sư Pamela Henning, Trường Kinh doanh, Đại học Adelphi, New York, Hoa Kỳ; Tiến sĩ Sam Wells, Trường Kinh doanh, Đại học Adelaide, Australia; Damian Scanlon, Giám đốc Chương trình MBA Adelaide, Australia; Giáo sư Gandolfo Dominici, Giám đốc khoa học Phòng thí nghiệm hệ thống kinh doanh, Italy; và rất nhiều đồng nghiệp khác.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn Stephen Hayes và Warwick Watkins từ Think2Impact, PGS.TS. Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam về những đóng góp của họ cho cuốn sách này. Những đóng góp giá trị của họ từ những năm kinh nghiệm nghiên cứu các vấn đề phức hợp đã nói trực tiếp với “mọi người” rằng cuốn sách này được viết cho ai. Xin dành một lời cảm ơn đặc biệt tới Kailash Krishnamurthi về đóng góp của ông và nhóm Tư vấn Gravity tại Bangalore, Ấn Độ, với hỗ trợ kỹ thuật của Ankur Mahanta. Sự giúp đỡ của Ankur và nhóm thiết kế tuyệt vời tại Gravity đã làm cho cuốn sách này đã trở nên giàu màu sắc và mang lại trải nghiệm sâu sắc, ngay cả khi chỉ đọc lướt qua lần đầu.
Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, chúng tôi đánh giá cao các sinh viên hiện tại và trước đây tại các chương trình đại học và sau đại học. Sự nhiệt tình của họ trong việc ứng dụng kiến thức vào xem xét các vấn đề phức hợp ở nhiều bối cảnh quốc gia, văn hóa và chính trị khác nhau đã giúp chúng tôi không ngừng phát triển trong vai trò những nhà khoa học hệ thống đam mê đưa khoa học tới những nơi có thể tạo ra sự khác biệt cho cuộc sống con người.
Cuối cùng, dành cho gia đình của chúng tôi - xin cảm ơn mọi người đã dành cho chúng tôi sự ủng hộ tuyệt vời trong những chuyến “Đi để Tác động” của chúng tôi.
CÁC TÁC GIẢ
xx
Lời tác giả
Tiến sĩ Nguyễn Văn Thành, Cử nhân Kinh tế, Cử nhân Luật, Thạc sĩ Quản lý Kinh tế công nghiệp, Tiến sĩ Kinh tế, Phó Giáo sư Kinh tế
Giáo sư Ockie Bosch, Cử nhân khoa học, Thạc sĩ khoa học, Tiến sĩ khoa học
Tiến sĩ Nam Nguyễn, Cử nhân Kinh tế, Thạc sĩ Kinh doanh nông nghiệp, Tiến sĩ Quản lý hệ thống
Khi bắt đầu hành trình vào khoa học hệ thống, chúng tôi đã tập trung tìm hiểu và phát triển lý thuyết. Tuy nhiên chúng tôi sớm nhận ra rằng nếu chỉ biết các khái niệm hoặc các đặc điểm của hệ thống và cách sử dụng các công cụ hệ thống thì chưa đủ để giúp các thành viên trong công chúng tích cực ứng dụng kiến thức về hệ thống theo cách mà các “nhà tư duy hệ thống” mong đợi... Nếu để tạo ra các nhà tư duy hệ thống mà chỉ cần phải dạy các sự thật hệ thống cho người học, thế giới có lẽ đã có số lượng các nhà tư duy hệ thống nhiều như số người đã từng đọc một cuốn sách về hệ thống hoặc đã tham gia một khóa học về hệ thống. Điều quan trọng là chúng tôi đã nhận thấy tiềm năng to lớn của tư duy hệ thống cho việc quản lý các vấn đề phức hợp trong tất cả các lĩnh vực cần quan tâm. Để tiềm năng đó trở thành hiện thực, tư duy hệ thống phải vượt ra ngoài các giới học giả - tư duy hệ thống và các khái niệm, công cụ ứng dụng cần được đưa vào thực tiễn, nơi sẽ tạo ra sự khác biệt.
Tư duy hệ thống chưa đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra các quyết định đầu tư và chính sách tốt hoặc trong việc giải quyết
xxi
các vấn đề phức hợp. Và thường khó biết trước những hệ quả ngoài mong đợi từ các lựa chọn. Việc liên lạc và hợp tác liên ngành để giải quyết bản chất đa chiều của các vấn đề phức hợp vẫn chưa phổ biến trong các xã hội. Những “giải pháp tình thế”, vốn dễ dùng để chữa các triệu chứng, đã trở thành cách thức được ưa chuộng để giải quyết các vấn đề phức hợp. Những vấn đề này cấp thiết đòi hỏi những cách suy nghĩ đổi mới và sáng tạo, một cách tiếp cận với các công cụ mới để giải quyết các vấn đề xã hội đang phải đối mặt. Nghiên cứu của chúng tôi trong hơn 20 năm qua đã tập trung chủ yếu vào cách thức đưa lý thuyết ứng dụng vào thực tiễn, nhất là, làm cho tư duy hệ thống trở nên phổ biến hơn trong xã hội. Nội dung của cuốn sách này dựa trên nhiều kinh nghiệm và thành công của chúng tôi trong việc giới thiệu tư duy hệ thống tới nhiều xã hội, nền văn hóa, cộng đồng, tổ chức và doanh nghiệp.
Tư duy hệ thống cho mọi người?
Ai là mọi người?
Theo định nghĩa, khi bạn muốn đề cập tất cả các thành viên trong một tập hợp, tức là “mọi người”. Tập hợp được đề cập ở đây là toàn xã hội của chúng ta - địa phương, khu vực, quốc gia hoặc toàn cầu. Vì vậy, bạn cũng là một trong những người sẽ có thể thấy cuốn sách này là hữu ích, bởi vì nó được viết cho bạn.
xxii
Tại sao tư duy hệ thống quan trọng với mọi người?
Khi cần giải quyết các vấn đề, bất cứ cơ quan, doanh nghiệp hay cộng đồng nào đều cần nhiều người tham gia. Những người này có thể bị ảnh hưởng bởi những quyết định được ai đó tạo ra, hoặc có thể ảnh hưởng tới sự hình thành và thực hiện các quyết định. Họ có thể ủng hộ hoặc phản đối các quyết định, có sức ảnh hưởng trong cơ quan hoặc cộng đồng nơi họ hoạt động, cũng như đảm bảo các quyết định được thực hiện. Không một dự án hay vấn đề nào có thể được giải quyết mà không có ý kiến, cảm nhận và kiến thức của các bên liên quan.
Nếu vai trò của tất cả các bên liên quan trong các quá trình ra quyết định là quan trọng như vậy, tại sao lại cho rằng việc giải quyết các vấn đề phức hợp là công việc của giới khoa học hệ thống? Chúng ta chỉ có thể giải quyết các vấn đề nếu chúng ta và mọi người liên quan có đủ thông tin và hiểu biết nhất định về các vấn đề xã hội đang phải đối mặt. Vì vậy, điều quan trọng là tất cả các bên liên quan cùng được tham gia vào các hoạt động hoặc vấn đề cần giải quyết. Từ điển Bách khoa mở Wikipedia mô tả sự tham gia của các bên trong kinh doanh là quá trình mà một bên liên quan được cung cấp các cơ hội để gắn kết hơn nữa hoạt động kinh doanh với các nhu cầu và mong đợi của xã hội, giúp duy trì sự bền vững về lâu dài và các giá trị chung của cộng đồng. Trong mọi dự án hoặc khi xử lý vấn đề, việc xác định, phác họa và phân loại ưu tiên các bên liên quan là bước quan trọng đầu tiên.
Mấu chốt để giải quyết thành công mọi vấn đề là sự tham gia liên tục của các bên liên quan trong quá trình tìm kiếm giải pháp,
xxiii
xây dựng, thực hiện và cải thiện kế hoạch quản lý theo thời gian. Điều này đòi hỏi sự hiểu biết về cách thức hoạt động của tư duy hệ thống trong thực tiễn - không nhất thiết là phải trở thành nhà khoa học hệ thống, nhưng mọi người cần tích lũy đủ kiến thức và kỹ năng để tham gia hiệu quả vào việc ra quyết định có hệ thống. Cuốn sách này được viết cho mọi người đang giải quyết các vấn đề trong mọi lĩnh vực của xã hội, từ các doanh nghiệp phức hợp, hệ thống y tế, quản trị công, quản lý môi trường, tới quản lý các chương trình và dự án, đổi mới, phát triển cộng đồng, xóa nghèo v.v., trong bối cảnh khó khăn chung về kinh tế, nhạy cảm văn hóa, lộ trình chính trị khác biệt và các vấn đề xã hội khác.
xxiv
1
Tại sao cần Tư duy hệ thống?
Dù có nhiều nỗ lực giải quyết các vấn đề phức hợp mà xã hội đang phải đối mặt, các kế hoạch và giải pháp ít khi bền lâu, bởi vì chúng ta, và mọi người thường vấp phải thói quen tư duy theo một chiều truyền thống. Đó là cách tự nhiên và dễ dàng, nhưng thường không mang lại những giải pháp lâu dài trong tình hình nhiều vấn đề phức hợp của các cộng đồng hiện đại. Cần có những đổi mới trong tư duy và cách tiếp cận mới để giải quyết các thách thức phức hợp, chưa có tiền lệ của thế giới.
Chúng ta sống trong môi trường bao bọc bởi các hệ thống, và thực tế, là một phần của các hệ thống. Tuy vậy, con người lại không có thói quen nhận biết điều này và cũng chẳng tư duy theo hệ thống. Thậm chí khi chúng ta có thể nhìn thấy “có gì đó không ổn trong hệ thống”, chúng ta lại có xu hướng phân tích vấn đề bằng cách chia hệ thống thành những phần nhỏ và nhỏ hơn nữa để tìm lỗi; đến tận khi chúng ta bắt đầu không thể thấy sự tương tác giữa tất cả các yếu tố1, 2, 21. Kiểu suy nghĩ này là hệ quả của việc không thể quan sát, lý giải được hành động và phản ứng của con người hoặc sự việc một cách tổng hợp (hoặc tổng thể). Nói cách khác, sẽ dễ dàng hình dung hơn nếu chia nhỏ một sự vật, hiện tượng để xem xét các chi tiết, hơn là xem xét chi tiết đó trong mối liên hệ với các bộ phận khác. Cách tư duy một chiều có thể là thỏa đáng nếu bạn đang quyết định sẽ xây nhà ở chỗ nào khi không có các hội đồng và quy định môi trường. Và việc cung cấp năng lượng cho các nền kinh tế hiện đại đã thật dễ dàng nếu chúng ta có thể đốt than và dầu mà không tạo ra hệ quả nào. Tuy nhiên, những
2
hoạt động đó, giống như tất cả mọi hoạt động, đều có hệ quả. Hơn nữa, con người hiểu một cách bản năng về tầm quan trọng của các hệ thống và các thành phần của chúng. Điều chúng ta không làm theo bản năng trong xã hội rộng lớn là giải quyết vấn đề bằng cách xem xét cả hệ thống, thay vào đó, thường tập trung vào các chi tiết có dấu hiệu trục trặc. Vì thế, nhiều chính phủ đã cố gắng kiểm soát nạn béo phì bằng cách khuyến khích tập thể dục hoặc điều chỉnh chế độ ăn mà không đồng thời xem xét về văn hóa ẩm thực, quy hoạch đô thị, sở hữu sinh vật cảnh, áp lực kinh tế, quảng cáo, nông nghiệp, bản chất con người, khẩu phần ăn, tiện nghi, thời gian dành cho nấu nướng và các vấn đề sức khỏe khác làm hạn chế vận động; hoặc họ cố gắng cứu các loài nguy cấp bằng cách thiết lập các vườn quốc gia với những ranh giới lỏng lẻo và đã đầy rẫy loài xâm hại.
Việc quản lý không có hệ thống và thiếu liên lạc, hợp tác liên ngành không phải là những vấn đề mới. Đã có nhiều hội thảo, hội nghị và khóa học tập trung tìm kiếm các giải pháp và nhiều cuốn sách đã được viết về những vấn đề này23, 26, 30, 35, 36. Tuy nhiên, chưa có nhiều hành động hiệu quả để vừa giúp vượt qua rào cản giao tiếp do các mô hình tư duy khác nhau về thế giới, vừa tạo ra các chiến lược quản lý hệ thống cho những vấn đề phức hợp11.
Thêm vào đó, các chính phủ và tổ chức doanh nghiệp chịu áp lực đưa ra các quyết định đầu tư đúng đắn trong bối cảnh thế giới không ngừng thay đổi. Các nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý và lãnh đạo ngày nay được mong đợi tạo ra các giải pháp đổi mới để đáp ứng những thay đổi không ngừng và khó đoán trước. Để quản trị xã hội phức hợp theo hướng phát triển bền vững về kỹ thuật, kinh tế và xã hội, chúng ta cần bước ra khỏi “tấm chăn ấm” của riêng mình và xây dựng những cách tư duy và hành động mới vì tương lai chung. Các nhà quản lý và lãnh đạo hiện tại, tương lai, và các công dân trong xã hội cần được trang bị những cách tư duy mới
3
(tư duy hệ thống) để giải quyết các vấn đề phức hợp theo cách có hệ thống, tổng thể và hợp tác - tức là, cùng nhau xác định và xử lý các nguyên nhân gốc rễ của các vấn đề thay vì tập trung vào cách giải quyết mang tính chất tình thế, ngắn hạn.
Tư duy hệ thống
Hệ thống là gì?
Câu chuyện “thầy bói xem voi” (Hình 1.1) có nhiều phiên bản khác nhau trong các nền văn hóa. Câu chuyện là thế này: Ngày xưa, có sáu thầy bói mù sống trong một ngôi làng. Ngày nọ, dân làng bảo họ rằng: “Này, hôm nay trong làng có con voi đấy”. Các thầy bói mù không biết con voi là thế nào. Họ bèn quyết định: “Dù không nhìn thấy, nhưng chúng mình hãy đi sờ nó vậy”. Cả sáu đi tới nơi con voi đang đứng. Từng người trong số họ sờ vào con voi:
• “Hây, con voi là cái cột nhà”, người đầu tiên sờ chân voi nói. • “Ồ không! Nó là sợi dây thừng ấy mà”, người thứ hai sờ đuôi nói. • “Cũng không phải! Nó là một con rắn lớn”, người thứ ba sờ vòi nói.
• “Nó là một chiếc quạt nan to”, người thứ tư sờ tai voi nói. • “Nó là một bức tường vĩ đại”, người thứ năm sờ bụng voi nói. • “Nó là một cái ống đặc”, người thứ sáu sờ ngà voi kết luận.
Hình 1.1: Thầy bói xem voi (hình minh họa theo Google)
4
Lý do các thầy bói mù cảm nhận con voi khác nhau là bởi mỗi người trong số họ sờ vào một phần khác nhau của con voi. Nói cách khác, mỗi thầy bói đã có một phần sự thật. Con voi có tất cả các đặc điểm mà mỗi thầy bói mù mô tả, nhưng hoàn toàn không phải là thứ họ mô tả trừ khi chúng ta gộp tất cả những câu trả lời của họ lại.
Khi mà mỗi người nhận thức được rằng họ là một phần của một hệ thống, chạm tới sự thật ở điểm nào đó, nhưng có thể chưa chạm tới toàn bộ sự thật của hệ thống, thì khi đó mỗi thành viên trong cùng một đội sẽ vẫn còn theo đuổi những góc nhìn khác nhau. Nhiều khi, những bất đồng không hề là sự bất đồng, mà đơn thuần chỉ là việc các cá nhân nhìn thấy hoặc cảm nhận thấy những khía cạnh khác nhau của cùng một hệ thống, từ đó chỉ nhìn thấy một phần của sự thật mà chỉ khi được gộp lại mới cho thấy toàn bộ sự thật. Nói khác hơn, “hành vi của một hệ thống không thể được nhận biết chỉ bằng những thành phần tạo nên hệ thống đó”52, tr.7. Tuy nhiên, đó vẫn là một triết lý, hay cách làm, chiếm ưu thế trong xã hội hiện tại. Tức là, nếu muốn hiểu được một hệ thống, con người có xu hướng chia nhỏ nó thành các bộ phận và xem xét các phần đó một cách riêng rẽ.
Có nhiều định nghĩa về hệ thống khác nhau, chẳng hạn: • “Hệ thống là một cách nhìn nhận thế giới”84, tr.52.
• “Hệ thống là một tập hợp các phần tương tác để hoạt động như một tổng thể”50, tr.7.
• “Hệ thống là một nhóm các yếu tố hoặc bộ phận được tổ chức chặt chẽ và gắn kết với nhau theo một cấu trúc hoặc cơ cấu nhất định để tạo ra một nhóm hành vi đặc trưng, thường được gọi là “chức năng” hoặc “mục đích” của hệ thống”52, tr.188.
• “Định nghĩa một cách đơn giản, hệ thống là một tổng thể phức hợp mà hoạt động của nó phụ thuộc vào các bộ phận cấu tạo nên nó và sự tương tác giữa chúng”40, tr.3.
• “Hệ thống thì lớn hơn tổng cộng các bộ phận cấu tạo nên nó - nó là sản phẩm của sự tương tác giữa các bộ phận đó”1.
5
Một lưu ý quan trọng là một bộ sưu tập cũng được tạo nên bởi một số thành phần, tuy nhiên chúng đơn thuần chỉ được “đặt” vào cùng một chỗ và chẳng có liên kết gì72. Mỗi hệ thống phải bao gồm: • Các thành phần hoặc bộ phận;
• Sự gắn kết và tương tác giữa các bộ phận, và
• Một chức năng hay mục đích.
Các ví dụ về hệ thống: một đội bóng đá; hệ tiêu hóa; một trường học; một thành phố; một công ty; một con thú; một cây xanh; một khu rừng (Hình 1.2), v.v.. Một khu rừng là một hệ thống lớn trong đó bao gồm nhiều hệ thống nhỏ gồm các cây, con thú... Tương tự, cơ thể bạn cũng là một hệ thống lớn, bao gồm rất nhiều hệ thống phụ. Chẳng hạn, hệ tiêu hóa bao gồm các thành phần như răng, enzyme, dạ dày, ruột..., chúng gắn kết với nhau thông qua sự di chuyển của thức ăn, và thông qua một tập hợp những quá trình sinh hóa tinh tế. Chức năng của hệ thống này là để chia nhỏ thức ăn, biến thức ăn thành những thành phần dinh dưỡng cơ bản và chuyển chúng vào mạch máu (một hệ thống khác) trong khi thải đi những chất thừa52.
Hình 1.2: Rừng là một hệ thống gồm nhiều thành phần có chức năng riêng - mỗi cây hoặc lá cũng là một hệ thống gồm nhiều thành phần có mục đích và chức năng riêng
6
Tư duy hệ thống là gì?
Các học giả có nhiều định nghĩa khác nhau về tư duy hệ thống, chẳng hạn:
• “Tư duy hệ thống là cách thức nhìn nhận, xem xét và tìm hiểu các tình huống phức hợp”85, tr.7.
• “Tư duy hệ thống là cách thức nhìn nhận và mô tả thực tiễn giúp chúng ta hiểu rõ hơn về hệ thống và từ đó tác động vào hệ thống để điều chỉnh chất lượng cuộc sống con người”44, tr.2.
• “Tư duy hệ thống là một ý tưởng lớn - ý tưởng rằng bạn thực sự có thể hiểu và khuất phục sự phức hợp của thế giới thực tiễn bằng cách nhìn ra những thứ gắn kết như một tổng thể”72, tr.15.
• “Tư duy hệ thống là một “cách tư duy mới” để hiểu và quản lý các vấn đề phức hợp”7, tr.15.
Trong quan niệm về mối quan hệ giữa con người và phần còn lại của thế giới tự nhiên, trong các nhận thức triết học về vũ trụ, hay y dược và điều trị, chúng ta thấy rất nhiều ví dụ về các nền văn hóa trong suốt lịch sử đã duy trì một “quan niệm tổng thể”, nhìn nhận sự vật, hiện tượng như một tổng thể, một hệ thống; đây chính là cốt lõi của tư duy hệ thống. Các ví dụ sau minh họa cụ thể sự tồn tại trong hàng thế kỷ của tư duy hệ thống trong nhiều nền văn hóa (Hình 1.3).
Các nền văn hóa bản địa Australia (trong số những nền văn hóa lâu đời nhất còn tiếp tục đến nay) có sự gắn kết sâu đậm với miền đất quê hương, được khắc họa trong những câu chuyện, nghệ thuật và điệu múa của họ. Với họ, đất nước là một từ để chỉ tất cả các giá trị, địa danh, tài nguyên, chuyện kể và những phong tục văn hóa đi kèm với mảnh đất đó và các đặc trưng của nó. Nó mô tả toàn bộ những phạm trù mà tổ tiên họ để lại. Các khái niệm hệ thống cũng hiện diện trong tư duy8, và triết lý của người Maori ở New Zealand.
7
Những người bản địa châu Mỹ đề cao tầm quan trọng của “Đất Mẹ” và “Trời Cha”, cảm nhận rằng mọi thứ trong vũ trụ đều có liên kết. Trong hàng nghìn năm, thổ dân ở đây đã sử dụng những cách làm lành vết thương truyền thống theo phương pháp rất cổ xưa nhưng toàn diện. Cách tiếp cận cổ đại này vẫn được sử dụng tới ngày nay bởi nhiều cộng đồng bản địa châu Mỹ trong chăm sóc sức khỏe76.
Các triết lý phương Đông cũng đã kết tinh một thế giới quan tổng thể và hệ thống. Chẳng hạn, các triết gia Trung Hoa cổ đại tin rằng mọi thứ trong vũ trụ được tạo nên bởi hai yếu tố gọi là “âm” và “dương”. Điều này không chỉ thể hiện trí tuệ tập thể của người Trung Hoa về những đặc tính của vũ trụ, mà còn ảnh hưởng tới cách tư duy siêu hình của người Trung Hoa sau này trong nhiều trường phái và phong trào19.
Thông tin đầu vào được cơ quan cảm nhận truyền tới mấu não và từ đó trở thành ý thức phi vật chất
Các triết gia cổ đại Trung Hoa tin rằng mọi thứ trong vũ trụ được hình thành bởi hai yếu tố “âm” và “dương”
Chủ nghĩa giản lược là một khái niệm triết học cho rằng việc mô tả các thuộc tính của một hệ thống phức hợp có thể được “suy giảm” tới những thuộc tính đơn giản của hệ thống
Hình 1.3: Sự chia tách tinh thần và thể xác, Âm - Dương, Sự Giản lược
8
Tuy nhiên, tư duy phương Tây lại được xây dựng trên ba trụ cột nền tảng bao gồm, chủ nghĩa giản lược Hy Lạp, sự phân biệt tinh thần và vật chất (dẫn tới phân biệt tinh thần và thể xác) do René Descartes khởi xướng, và thế giới quan đơn thần - chủ định do Isaac Newton khởi xướng65. René Descartes dạy cho nền văn minh phương Tây rằng việc cần làm với sự phức hợp là chia nhỏ nó thành nhiều phần và xử lý chúng một cách riêng rẽ18. Đây vẫn là phương thức tư duy thịnh hành tại phương Tây.
Tư duy hệ thống không phải là một khái niệm mới. Thật không dễ để xác định điểm bắt đầu chính xác của lĩnh vực tư duy hệ thống, vì sự bắt đầu chỉ là vấn đề quan niệm. Chẳng hạn, Midgley53, 54 gợi ý rằng lĩnh vực nghiên cứu hệ thống bắt đầu từ đầu thế kỷ XX bởi Alexander Bogdanov6 hoặc Ludwig von Bertalanffy79, 80. Các tài liệu cũng thừa nhận rộng rãi rằng Checkland17, 18 và Senge70, 71
cũng đề xuất những cách tiếp cận tư duy hệ thống có sức ảnh hưởng lớn.
Tư duy hệ thống là một lĩnh vực rất rộng lớn. Sherwood72 kết luận rằng sẽ không thể bao quát được hết mọi công cụ, kỹ thuật, phương pháp và cách tiếp cận tư duy hệ thống trong cùng một văn bản. Thật dễ hiểu là đã có rất nhiều sách và bài viết về chủ đề tư duy hệ thống. Ví dụ, hãy xem Emery25, Flood và Gregory27, Midgley55, Jackson40, Hammond33, và Francois28 để thấy một “kho” đầy những cách tiếp cận hệ thống khác nhau và tổng hợp nhiều nguồn khái niệm về tư duy hệ thống. Nhiều học giả cũng đã viết những cuốn sách “dễ đọc” để “hóa giải tư duy hệ thống và làm cho nó dễ hiểu hơn tới đông đảo bạn đọc”, như Haines32, Weinberg84, Sherwood72, Maani và Cavana50.
Tư duy hệ thống đã và đang được áp dụng trên nhiều lĩnh vực và chuyên ngành, như quản lý40, kinh doanh75, 83, ra quyết định và xây dựng sự đồng thuận49, quản lý nguồn nhân lực67, sự học tập của các tổ chức29, y tế48, 58, hệ thống hàng hóa69, hệ thống sản xuất
9
nông nghiệp85, quản lý tài nguyên4, quản lý mâu thuẫn môi trường24, giáo dục38, lý thuyết quản lý xã hội57, an ninh lương thực và chính sách dân số43, phát triển bền vững59, 74, và quản lý sự phức hợp10.
Trong khối lượng lớn các ấn phẩm về tư duy hệ thống, cuốn sách Nguyên lý thứ năm của Peter Senge, được mô tả là “bán chạy nhất”, “hơn một triệu bản đã được in” và là “một trong những cuốn sách quản lý nổi tiếng trong vòng bảy mươi lăm năm qua”. Senge71 mô tả điều ông tin là năm nguyên lý nòng cốt mới đang trỗi dậy để hình thành những tổ chức học tập, bao gồm Tư duy hệ thống, Hoàn thiện bản thân, Mô hình tư duy, Xây dựng tầm nhìn chung và Học tập theo nhóm. Ông nhấn mạnh là năm nguyên lý này cần được phát triển như một chỉnh thể, đồng thời chỉ ra các thách thức trong việc lồng ghép những công cụ mới, thay vì “đơn giản áp dụng chúng một cách riêng lẻ”. Đây là lý do tại sao tư duy hệ thống là nguyên lý thứ năm - “nguyên lý lồng ghép các nguyên lý, đưa chúng thành một trường phái lý thuyết và thực tiễn”. Bên cạnh hàng triệu người đọc cuốn sách này, tại sao Nguyên lý thứ năm lại chưa được hấp thu vào việc ra các quyết định hay áp dụng hàng ngày? Tại sao hành trình từ lý thuyết tới tác động thực tiễn lại khó đến vậy?
Dù được áp dụng trong nhiều lĩnh vực, tư duy hệ thống chủ yếu được sử dụng và áp dụng bởi các nhà khoa học hệ thống và một số học giả. Việc ứng dụng tư duy hệ thống bởi các nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý, nhà chuyên môn và người dân vẫn còn ở mức hạn chế. Điều này là do nhiều yếu tố, chẳng hạn như “khó diễn giải tư duy có hệ thống”37, tư duy hệ thống chưa trở thành cụm từ phổ biến18, nó là thuật ngữ thường gây hiểu nhầm, mỗi người hiểu nó theo một nghĩa khác nhau32, sự chú trọng của giáo dục chính quy vào các sự kiện, chi tiết, và các quy trình riêng rẽ thay vì các mối liên quan theo hệ thống34, và phần lớn việc giáo dục hệ thống đến nay vẫn tập trung vào việc đào tạo chuyên gia41.
10
Bên cạnh đó, sự đa dạng của các trường phái lý thuyết hệ thống đã tạo ra sự rối rắm về khái niệm tư duy hệ thống. Cần phải làm cho tư duy hệ thống và tư duy kết nối trở nên phổ biến, hoặc “phổ thông” như gợi ý của Allen3, và dễ hiểu với mọi người; tức là, trở thành “ngôn ngữ chung” như đề xuất của Zhu87 hoặc “hấp thu vào nghiên cứu khoa học, như cách thức mà thống kê ngày nay là một phần thiết yếu của mọi khoa học” như khẳng định của Bosch và cộng sự7.
Sự phức hợp của mọi hệ thống mà chúng ta phải xử lý Tất cả chúng ta đã trở nên gắn kết trong một mạng lưới kỹ thuật số và vật lý rộng lớn. Các vấn đề tiềm ẩn nhiều tranh luận như y tế, bảo vệ môi trường, giới, nghèo đói, sức khỏe tinh thần, phát triển kinh tế, di cư, sử dụng đất hoặc điều tiết nguồn nước v.v. hiện đang đan xen vào nhau và lan truyền trong một hệ thống toàn cầu gồm nhiều quá trình sinh thái, kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị và những tác động qua lại diễn ra liên tục, đầy thử thách, chưa từng thấy trước các cuộc cách mạng công nghiệp và công nghệ.
Những vấn đề và thách thức phức hợp ngày càng gia tăng này đòi hỏi những cách tư duy mới và cách tiếp cận khác biệt để giải quyết bản chất đa chiều, đa lĩnh vực của sự phức hợp. Hiện có nhu cầu cấp thiết cần thay đổi về mặt xã hội để giải quyết sự phức hợp trong một thế giới quá tập trung vào những cách thức tiếp cận giản lược (chia nhỏ sự vật, hiện tượng thành các phần, tư duy một chiều truyền thống, tìm kiếm giải pháp tình thế). Chúng ta cần bước ra khỏi những “tấm chăn ấm” và xây dựng những cách tư duy, hành động mới vì tương lai của chính chúng ta. Tư duy hệ thống mang lại một phương pháp tổng thể và toàn diện để cảm nhận tất cả những khía cạnh chính của mọi vấn đề phức hợp, giúp tạo nên những chiến lược quản lý hiệu quả và bền lâu.
11
Những bài tập nhỏ
1. Đây là những triệu chứng hay nguyên nhân gốc rễ?
Triệu chứng hay
Nguyên nhân gốc rễ Giải thích
Thất bại trong hôn nhân
Đau đầu
Đau tim
Dị ứng da
Cao huyết áp
Biến đổi khí hậu
Đói nghèo
Khủng hoảng tài chính toàn cầu
Toàn cầu hóa
Stress
An toàn thực phẩm
2. Một chương trình đại học thường là một tập hợp các môn học. Làm thế nào để thay đổi một chương trình như vậy thành một hệ thống các môn học?
3. Một đội bóng là một hệ thống: các chi tiết, sự tương tác và mục đích của hệ thống này là gì?
Tài liệu đọc thêm chọn lọc
Nếu bạn muốn biết thêm về nội dung của chương này, bạn có thể đọc thêm các tài liệu sau:
1. Meadows D.: Thinking in Systems: A Primer (Edited by Diana Wright), Sustainability Institute. Chelsea Green Publishing Company: USA, 2008.
12
2. Maani KE, Cavana RY.: Systems thinking, system dynamics: Managing change and complexity. Prentice Hall: Auckland, NZ, 2007. Tuy nhiên, nếu bạn là sinh viên đại học hoặc muốn tìm hiểu thêm, bạn có thể đọc những tài liệu thú vị sau:
1. Ackoff RL.: Ackoff”s best: His classic writings on management. Wiley: New York, USA, 1999.
2. Boardman J, Sauser B.: Systems Thinking: Coping with 21st Century Problems. CRC Press: New York, USA, 2008. 3. Hammond D.: The science of synthesis: Exploring the social implications of general systems theory. University Press of Colorado: Boulder, CO, USA, 2003.
4. Midgley G. (ed).: Systems Thinking (Volumes 1-4). Sage: London, UK, 2003.
5. Senge PM.: The fifth discipline: The art and practice of the learning organization (revised and updated). Random House: New York, USA, 2006.
6. Sherwood D.: Seeing the Forest for the Trees: A Manager”s Guide to applying Systems Thinking. Nicholas Brealey Publishing: London, UK, 2002.
7. Vester F.: The art of interconnected thinking: Tools and concept for a new approach to tackling complexity. MCB Verlag GmbH: Munich, Germany, 2007.
8. Weinberg GM.: An introduction to general systems thinking. Dorset House Publishing: New York, USA, 2001.
13
14
Chúng ta có cần phải chạy trốn sự phức hợp?
Như đã đề cập trong Chương 1, mọi người đều phải giải quyết các vấn đề vốn ngày càng trở lên phức hợp, trong đó: • Các yếu tố hay thành phần đều mang tính đa chiều và phụ thuộc lẫn nhau;
• Luôn có sự tham gia của nhiều bên liên quan;
• Con người có nền tảng, chương trình và mục tiêu đa dạng; • Không có “viên thuốc thần” hoặc giải pháp tình thế nào dùng được.
Cách dễ nhất để mọi người xử lý sự phức hợp là chỉ việc “đầu hàng” hoặc “chạy trốn”!
Việc xử lý sự phức hợp không phải là “đặc quyền” của các nhà khoa học hệ thống - mọi người phải xử lý nó
Chỉ có thể giải quyết được các vấn đề phức hợp khi chúng ta có đủ kiến thức và mọi người cơ bản hiểu được các vấn đề mà xã hội đang phải đối mặt. Mấu chốt để xử lý thành công mọi vấn đề là việc các bên cùng nhau tham gia liên tục để tìm giải pháp, xây dựng, thực hiện và cải thiện kế hoạch quản lý theo thời gian. Điều này đòi hỏi mọi người phải hiểu được cách thức hoạt động của tư duy hệ thống trong thực tiễn - không nhất thiết là phải trở thành nhà khoa học hệ thống, nhưng mọi người cần tích lũy đủ kiến thức và kỹ năng để tham gia hiệu quả vào việc ra quyết định có hệ thống. Vì vậy, cuốn sách này được viết cho tất cả những ai đang cần xử lý các vấn đề trên khắp các lĩnh vực của xã hội, từ các doanh nghiệp phức hợp, hệ thống y tế, quản trị công, quản lý
15
môi trường, tới quản lý các chương trình và dự án, đổi mới, phát triển cộng đồng, xóa nghèo v.v., trong bối cảnh căng thẳng kinh tế, nhạy cảm văn hóa, lộ trình chính trị khác biệt và các vấn đề xã hội khác.
Chương này mô tả quy trình các bước giải mã sự phức hợp thông qua phương pháp phân tích hệ thống có sự tham gia và xem xét các cấu trúc hệ thống để xác định những điểm tựa của đòn bẩy (từ đây gọi tắt là điểm đòn bẩy) cho các giải pháp hệ thống. Nó cũng cho thấy tầm quan trọng của sự đổi mới hiệu quả, sự tăng cường phối hợp liên ngành và cùng nhau học tập. Học tập để tìm ra giải pháp cho những vấn đề phức hợp bằng cách áp dụng quy trình khoa học hệ thống, cả ở cấp độ cơ sở - Phòng thí nghiệm học tập tiến hóa (xem bên dưới) và trên toàn cầu.
Hạn chế các “giải pháp tình thế” và lối tư duy một chiều Hầu hết những phương pháp nghiên cứu và giải quyết các vấn đề phức hợp hiện nay đều mang tính tình thế và không hệ thống45, 48. Rất ít cá nhân hoặc tập thể xem xét các vấn đề theo một cách tổng thể, tức là chỉ có ít người nhận thức được mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố trong cùng trong một hệ thống; và việc thảo luận trung thực thường là rất hiếm. Những lô cốt ý tưởng, chính sách và hoạt động ràng buộc trong các nhóm. Các vấn đề liên tục nảy sinh mà không được giải quyết thoả đáng, từ việc bảo vệ đại dương đến việc quy hoạch thành phố. Sự thật đã rõ ràng rằng chúng ta không thể tiếp tục giải quyết các vấn đề phức hợp bằng cách tư duy một chiều và đơn ngành truyền thống. Xã hội ngày càng đòi hỏi phải từ bỏ cách tư duy một chiều với hệ quả là các biện pháp “đối phó tình huống” không mang lại kết quả lâu bền, để chuyển sang sử dụng cách tư duy mới - tư duy theo hệ thống.
Như trên trình bày, chúng ta cần có những cách tiếp cận toàn diện, liên ngành82, trong đó có cân nhắc mô hình tư duy của các bên
16
liên quan và khuyến khích lối tư duy hệ thống. Nói cách khác, chỉ có thể giải quyết được các vấn đề phức hợp về xã hội, kinh tế hay môi trường hiện nay bằng cách coi trọng sự tương tác của tất cả các yếu tố hệ thống22, 43, 56, 60, 74.
Phương pháp luận tảng băng trôi và Phương pháp luận hệ thống Mặc dù là một khái niệm “cũ”55, tư duy hệ thống ngày càng được coi là một “cách tư duy mới” để hiểu và quản lý các vấn đề phức hợp ở cả cấp độ địa phương và toàn cầu7, 15. Hình ảnh tảng băng trôi50 được sử dụng để minh họa mô hình nhận thức có tên gọi là Bốn cấp độ của tư duy (Hình 2.1) khi xem xét các hệ thống.
tương tác giữa các
bộ phận
$$$ kinh phí xử lý nguyên nhân gốc rễ của nghèo đói
hình dáng của hệ thống Hiểu biết của mọi người
$$$ hạn chế các hệ quả không mong đợi
Hình 2.1: So sánh cách tiếp cận Tảng băng trôi và cách tiếp cận Hệ thống
Nguồn: Theo50 và 10
17
Ở mô hình lý thuyết này, các sự kiện hay hiện tượng (là những vấn đề dễ dàng được xác định), chỉ là phần nhìn thấy trên mặt nước của tảng băng trôi. Hầu hết các quyết định và giải pháp hiện nay đều diễn ra ở cấp độ này, bởi vì các “giải pháp tình thế” (chữa các triệu chứng) xem ra là cách dễ nhất mặc dù không tạo ra kết quả lâu bền. Ở cấp độ tư duy sâu hơn (cấp độ thứ tư), gần như chẳng bao giờ nổi lên trên bề mặt, là “mô hình tư duy chi phối cách thức hoạt động của các cá nhân và tổ chức. Mô hình tư duy phản ánh niềm tin, giá trị và quan niệm của mỗi cá nhân, là lý trí chi phối hành vi của chúng ta”50, tr. 15.
Tiến tới cấp độ thứ ba của tư duy là một bước quan trọng để tìm cách gắn kết các mô hình tư duy thành một cấu trúc hệ thống; giúp chúng ta thấy được cách thức các bộ phận tương tác và liên quan lẫn nhau như thế nào. Do vậy, các cấu trúc hệ thống có thể giúp làm sáng tỏ những mối liên hệ ràng buộc trong các hệ thống phức hợp.
Cấp độ thứ hai của tư duy là khám phá và xác định các chu trình diễn biến hình thành khi chúng ta tập hợp nhiều sự kiện đơn lẻ (hoặc các điểm dữ liệu) để tạo ra một “tiểu sử” các hành vi hoặc kết quả trong quá khứ; cũng như giúp định lượng và định tính mối quan hệ giữa các thành phần trong tổng thể một hệ thống.
Phương pháp luận và thế giới quan tư duy hệ thống bao hàm cả bốn cấp độ tư duy nói trên bằng cách đưa các nhà lãnh đạo và các bên liên quan từ cấp độ sự kiện sang các cấp độ sâu hơn của tư duy và giúp hiểu rõ hơn về hệ thống đang xem xét50.
Quy trình Phòng thí nghiệm học tập tiến hóa dựa trên khoa học tư duy hệ thống
Phần này nói về một phương pháp luận tư duy hệ thống toàn diện, gắn với quy trình Phòng thí nghiệm học tập tiến hóa (ELLab) được thiết kế để giải quyết hiệu quả các vấn đề phức hợp trong nhiều bối cảnh khác nhau.
18
ELLab là một quy trình khoa học hệ thống tiên tiến - khác với các khung hệ thống và cách tiếp cận hệ thống thông thường. Quy trình ELLab đã được cải tiến cả về khái niệm, thiết kế và cách sử dụng. Các nghiên cứu và ghi chép về tư duy hệ thống tập trung trong lý thuyết và các tạp chí nghiên cứu. Tuy nhiên, việc ứng dụng tư duy hệ thống trên thực tế và việc theo dõi tác động lại không rõ ràng, khập khiễng và sai lệch rất cao. ELLab phát hiện những hạn chế này trong quá trình ứng dụng tư duy hệ thống vào thực tiễn; từ đó cung cấp một quy trình và phương thức hiệu quả giúp kết nối khoa học, nghiên cứu với nhu cầu đổi mới trong những môi trường kinh tế, chính trị, xã hội đa dạng, mà ở đó các nhà lãnh đạo, cán bộ quản lý và cộng đồng đang phải vật lộn thế giới thực tiễn phức hợp. ELLab thừa nhận bản chất đa chiều của các chỉ số môi trường rộng lớn và tạo ra một phương pháp luận hữu ích cho việc kết nối giữa các bên liên quan, xác định, phân tích và tổng hợp các vấn đề. Quan trọng hơn cả, ELLab ghi nhận rằng nghiên cứu sẽ ít có tác động thỏa đáng nếu khoa học thì đúng nhưng việc ứng dụng, phân tích và phương hướng tác động lại không phù hợp.
Trong ELLab, cả ở khía cạnh ảo (một cách tư duy, một khái niệm) và thực tiễn (các cá nhân cùng nhau tìm kiếm sự đồng thuận), các bên liên quan cùng nhau nghiên cứu kỹ về hệ thống, xây dựng tầm nhìn chung và các kỹ năng để liên tục thích nghi, đổi mới và cải tiến theo hệ thống.
ELLab là một quy trình độc đáo có tính chu kỳ bao gồm bảy bước (Hình 2.2) cho tư duy và hành động, các bên liên quan tham gia vào những chuỗi hoạt động cụ thể. ELLab tạo ra một quy trình hệ thống và môi trường thuận lợi để các nhà hoạch định chính sách, cán bộ quản lý và các cán bộ cơ sở, cộng đồng dân cư và các nhà nghiên cứu cùng phối hợp và học hỏi lẫn nhau trong một “phòng thí nghiệm thực nghiệm” - nhằm tìm hiểu và giải quyết các vấn đề phức hợp, đa chiều với nhiều bên có lợi ích liên quan, theo một cách
19
thức có hệ thống10. Mục đích cao nhất của ELLab là giúp thực hiện những hành động nhất quán nhằm tạo ra các kết quả bền vững. Hình 2.2 là sơ đồ mô tả quy trình tuần hoàn của ELLab59, 64.
Quy trình xây dựng một ELLab (Hình 2.2) là một “phương pháp luận” độc đáo để cùng nhau tổng hợp và sử dụng những tri thức sẵn có hoặc sẽ có để hỗ trợ xử lý các vấn đề phức hợp. Nó bắt đầu từ “Cấp độ thứ tư của tư duy” bằng một cuộc hội thảo xác định vấn đề (bước 1) và nhiều thảo luận với các nhóm chuyên gia nhằm thu thập mô hình tư duy của các bên liên quan trong vấn đề đang cần xử lý, cảm nhận của họ về hoạt động của hệ thống, điều mà họ cho là rào cản và động lực cho sự thành công của hệ thống và các chiến lược (giải pháp) tiềm năng để vượt qua các vấn đề này.
Bước tiếp theo là thực hiện “Cấp độ thứ ba của tư duy” thông qua các phiên họp xây dựng năng lực (bước 2) trong đó các thành viên tham gia (tất cả các bên liên quan) sẽ học cách tập hợp các mô hình tư duy thành một cấu trúc hệ thống (bước 3). Phần mềm Vensim77 là một công cụ quý giá để xây dựng các mô hình hệ thống (Sơ đồ vòng nhân quả) của vấn đề đang cần giải quyết. Bước học tập này có ý nghĩa thực sự quan trọng nhằm giúp tất cả những người tham gia hiểu rõ ý nghĩa của mô hình hệ thống.
Tiếp theo, những người tham gia sẽ chuyển tới “Cấp độ thứ hai của tư duy” bằng cách diễn giải và khám phá mô hình hệ thống để tìm ra các chu trình diễn biến, phương thức liên kết của các thành phần trong mô hình, và các vòng phản hồi, vòng tăng cường và vòng cân bằng. Bước này giúp các bên liên quan thấy được sự phụ thuộc giữa họ với nhau và vai trò, trách nhiệm của từng bên trong toàn bộ hệ thống. Các rào cản và động lực chính của hệ thống được thảo luận chi tiết, tạo cơ hội cho các bên thấy rõ hơn tầm quan trọng của các hành động, chiến lược và chính sách đồng bộ. Nói chung, quy trình này giúp cho các bên có liên quan hiểu rõ hơn về cách nghĩ (mô hình tư duy) của nhau và xây dựng nhận thức chung về các vấn đề đang cần giải quyết.
20
Hình 2.2: Phòng Thí nghiệm học tập tiến hóa để giải quyết các vấn đề phức hợp
Nguồn: Theo10
Việc diễn giải mô hình hệ thống sẽ cho phép xác định các điểm đòn bẩy cho các giải pháp hệ thống (bước 4). Điểm đòn bẩy là những vị trí trong một hệ thống phức hợp (ví dụ như một nền kinh tế, một cơ thể sống, một thành phố hay một hệ sinh thái) mà ở đó chỉ một “thay đổi nhỏ ở một thứ có thể tạo ra những thay đổi lớn với tất cả mọi thứ... điểm đòn bẩy là những điểm có sức mạnh”51, tr. 1.
21
Senge71, tr. 64, cũng gọi các điểm đòn bẩy là “những điểm phù hợp trong một hệ thống mà tại đó các hành động nhỏ được tính toán kỹ lưỡng đôi khi có thể tạo ra những sự cải thiện lớn và bền vững”. Việc tìm ra các điểm đòn bẩy sẽ giúp ích rất lớn trong việc xác định các giải pháp hệ thống, từ đó đạt được các mục tiêu hoặc giải quyết các vấn đề của hệ thống.
Kết quả từ bước trên sẽ được sử dụng để hoàn chỉnh mô hình hệ thống, đồng thời tạo nên một Kế hoạch đồng bộ cho hệ thống (bước 5) với các mục tiêu và chiến lược mang tính hệ thống. Để vận hành được kế hoạch đồng bộ này, phương pháp mô hình hóa Mạng Bayes (Bayesian Belief Network - BBN modelling16, 73) được sử dụng để xác định các yêu cầu cho việc triển khai các chiến lược quản lý; các yếu tố có thể ảnh hưởng đến những kết quả dự kiến; và trình tự thực hiện các hoạt động nhằm đảm bảo hiệu quả chi phí và tác động tối đa.
Việc xây dựng các chính sách và quyết định đầu tư tốt dựa vào những kiến thức tốt nhất (thông tin, dữ liệu khoa học, tri thức thực nghiệm, ý kiến chuyên gia) có được tại từng thời điểm. Mô hình hệ thống có thể được sử dụng để kiểm tra trước kết quả của các giải pháp hệ thống thông qua việc quan sát những gì sẽ xảy ra với tổng thể hệ thống khi một chiến lược hoặc tập hợp các chiến lược được triển khai, tức là trước khi có bất cứ sự đầu tư nào về thời gian hay kinh phí cho việc thực hiện trên thực tế.
Khi đã xác định được các giải pháp hệ thống và xây dựng được kế hoạch hoạt động, bước tiếp theo cho các bộ phận quản lý là thực hiện các chiến lược và/hoặc chính sách (bước 6) có thể tạo ra tác động lớn nhất. Các mục tiêu sẽ được xác định và các chương trình giám sát sẽ được triển khai nhằm đo lường và/hoặc quan sát các kết quả đầu ra của các chiến lược và chính sách này. Trong nhiều trường hợp, chỉ cần điều chỉnh các chương trình giám sát sẵn có cho phù hợp với các mục tiêu xác định từ quá trình ELLab (ví dụ, bổ
22
sung vào danh mục cần đo lường những yếu tố đã được sử dụng để xây dựng Mô hình BBN).
Bởi không mô hình hệ thống nào có thể hoàn toàn “chính xác” trong một thế giới phức hợp, bất trắc và luôn xảy ra các hệ quả không mong đợi, cách duy nhất để quản lý sự phức hợp là Rút kinh nghiệm (bước 7) thường xuyên về kết quả của những hành động và quyết định đã thực hiện. Điều này giúp xác định mức độ thành công hay không thành công của các giải pháp và/hoặc tìm ra các hệ quả ngoài dự kiến, các rào cản mới mà trước đó chưa biết.
Tóm lại, ELLab là một quy trình khung được thiết kế để giải quyết mọi vấn đề phức hợp, trong mọi bối cảnh (từ các tổ chức lớn, các hệ thống tự nhiên hay xã hội đến một gia đình đang gặp trục trặc hay một doanh nghiệp nhỏ không đạt lợi nhuận), mọi lĩnh vực ngành nghề (như kinh doanh, y tế, chế tạo, giáo dục, marketing, phát triển, quản lý môi trường và rất nhiều lĩnh vực khác). Các tài liệu tham khảo dưới đây cung cấp thêm cho bạn đọc các ví dụ về việc áp dụng thành công ELLab để giải quyết các vấn đề phức hợp trong nhiều bối cảnh khác nhau5, 8, 9-11, 31, 43, 46, 47, 60, 61, 64.
Những bài tập nhỏ
1. Theo bạn đâu là những yếu tố mấu chốt để giải quyết hiệu quả các vấn đề?
2. Tại sao mô hình hoặc cấu trúc hệ thống lại quan trọng khi bạn xử lý một vấn đề phức hợp?
3. Hãy chỉ ra sự khác biệt chính giữa phương pháp luận Phòng thí nghiệm học tập tiến hóa (ELLab) và cách tư duy một chiều truyền thống?
4. Hãy chỉ ra giá trị của việc huy động sự tham gia của nhiều bên liên quan, dù họ không biết gì về tư duy hệ thống, vào quá trình của ELLab?
5. “Điểm đòn bẩy” là gì?
23
Tài liệu đọc thêm chọn lọc
Những tài liệu chọn lọc sau đây sẽ cung cấp cho bạn thông tin về một số cách tiếp cận dựa trên hệ thống có thể dùng để xử lý các vấn đề phức hợp. Các bạn sinh viên đại học có thể sẽ muốn tìm hiểu sâu hơn là chỉ lướt qua những tài liệu này:
1. Checkland P, Scholes J.: Soft systems methodology: a 30 year retrospective. Wiley: Chichester, UK, 1999.
2. Espinosa A, Walker J.: A Complexity Approach to Sustainability: Theory and Application. Imperial College Press: London, UK, 2011.
3. Forrester JW.: Systems dynamics - a personal view of the first fifty years. System Dynamics Review 23(2/3): 345-358, 2007. 4. Forrester JW.: Systems dynamics - the next fifty years. System Dynamics Review 23(2/3): 359-370, 2007.
5. Jackson MC.: Systems Approaches to Management. Kluwer/ Plenum: New York, USA, 2000.
6. Jackson MC.: Systems thinking: creative holism for managers. John Wiley & Sons: Chichester, UK, 2003.
7. Lewin R.: Complexity: Life at the Edge of Chaos. Phoenix: USA, 2001.
8. Malik F.: Managing, Performing, Living: Effective Management for a New Era. Campus Verlag GmbH: Frankfurt, Germany, 2010.
9. Malik”s approaches: http://www.malik-management.com/en 10. Sterman JD.: Business Dynamics: Systems Thinking and Modeling for a Complex World. Irwin McGraw-Hill: Boston, USA, 2000.
24
25
Tầm quan trọng của sự tham gia bởi tất cả các bên liên quan
Xác định, phác họa và xếp ưu tiên các bên liên quan trong mỗi dự án là những bước khởi đầu quan trọng nhất để quản lý sự phức hợp. Các dự án và sáng kiến khác chỉ được coi là thành công khi những người có liên quan chính trong dự án và sáng kiến đó công nhận là thành công. Điều này đòi hỏi phải có sự tham gia hiệu quả của ít nhất là những nhân tố chủ chốt trong dự án, tìm hiểu và quản lý các nguyện vọng của họ, từ đó tạo ra các kết quả đáp ứng hoặc tốt hơn các “kỳ vọng đã được quản lý” đó13. Để giải quyết được sự phức hợp đòi hỏi phải có nhiều thông tin, kiến thức, dữ liệu, ý kiến và ý tưởng. Các bên liên quan chính là nguồn cung cấp thông tin phong phú nhất, bởi lẽ họ đang thực sự tham gia giải quyết vấn đề, và chịu ảnh hưởng từ bất cứ quyết định hay hành động nào được triển khai trong quá trình đó.
Các nhà khoa học hệ thống và mô hình hóa đã thừa nhận sự cần thiết phải có sự tham gia của nhiều bên liên quan vào các nghiên cứu. Sự cởi mở đối với các quan điểm và tầm nhìn đa dạng không chỉ giúp tăng cường thông tin hỗ trợ việc tìm kiếm các giải pháp triệt để; mà còn đảm bảo rằng các bên liên quan sẽ tiếp tục tham gia vào các bước tiếp theo để giải quyết vấn đề (“Tôi đóng góp giá trị; kiến thức của tôi được trân trọng”). “Tiếp thu” là yếu tố cốt lõi cho sự thành công của việc tập hợp các bên liên quan. Các bên liên quan đều có một vai trò nhất định, và có những thành viên có quyền ra quyết định. Mỗi bên liên quan phải thể hiện sự cam kết về việc xử lý vấn đề bằng cách đảm bảo tất cả các hành động của
26
họ đều thuận theo những quyết định đã thống nhất trong quá trình họ tham gia.
Việc huy động các bên liên quan cùng tham gia vào giải quyết các vấn đề quản lý của chính họ, thay vì dựa vào các chuyên gia bên ngoài, được gọi là cách tiếp cận “có sự tham gia” hay còn gọi là cách tiếp cận “từ dưới lên”. Trong phương pháp phân tích hệ thống có sự tham gia, việc tham dự của các bên liên quan có thể giúp xác định nhiều yếu tố ảnh hưởng đến mục tiêu hoặc kết quả dự kiến; trong quá trình đó, tư duy hệ thống đóng vai trò là một cơ chế hỗ trợ các bên liên quan thảo luận và trao đổi cách hiểu của mình về hệ thống quản lý và mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố trong hệ thống đó (xem Chương 4).
Các mô hình tư duy khác biệt
Mỗi chúng ta đều có những tầm nhìn, nguyện vọng và quan điểm khác nhau (các mô hình tư duy) về cách thức ứng xử với thế giới xung quanh. Mô hình tư duy của chúng ta chứa đựng các thông tin được tích luỹ từ sự trải nghiệm trong cuộc sống; chúng quyết định nhận thức của chúng ta về những thông tin mới và giúp chúng ta tạo ra những tri thức mới.
Mọi người liên hệ với thế giới xung quanh bằng cách tạo ra những giả thuyết và “kiểm nghiệm” chúng thông qua các hành động hàng ngày, quan sát sự phản hồi từ những tương tác này với môi trường hoặc những người khác, và rà soát lại giả thuyết của mình nếu cần thiết để phù hợp với tình hình. Các “giả thuyết” hoặc nếp tư duy được gọi là “quan niệm” bởi lẽ chúng liên quan đến cách thức người ta “lý giải” các tình huống. Đó là cách thức con người hình thành các mô hình tư duy. Mô hình tư duy là “những giả định, tưởng tượng hoặc thậm chí là những bức tranh hay hình ảnh đã ăn sâu vào tiềm thức; ảnh hưởng đến cách thức chúng ta nhìn nhận thế giới và tạo ra các hành động”71.
27
Mô hình tư duy phản ánh những niềm tin, giá trị và giả thuyết của mỗi con người, chúng chính là nguyên nhân sâu xa lý giải cách thức hành xử của chúng ta44, 50. Chúng ảnh hưởng mạnh mẽ đến những điều chúng ta làm bởi chúng chi phối cách thức quan sát và cảm nhận của chúng ta71. Mô hình tư duy là bộ lọc mà qua đó chúng ta có thể diễn giải những trải nghiệm, đánh giá các kế hoạch và lựa chọn cách thức hoạt động. Theo nghĩa này, các hệ tư tưởng triết học, chính trị và văn học chính là những mô hình tư duy71, 75.
Tuy nhiên, chúng ta không thể chỉ đơn thuần nhìn vào người khác và phủ định những mô hình tư duy của họ. Bất cứ sự phối hợp, đồng thuận nào của con người đều bắt nguồn từ sự chia sẻ kinh nghiệm, sự trùng hợp, hoặc là kết quả của sự thấu hiểu và thảo luận chân thành. Khi người ta lớn lên và sinh sống trong những cộng đồng tương đối cô lập, các mô hình tư duy của mỗi cá nhân trong cộng đồng đó có xu hướng trùng hợp với nhau. Trong thế kỷ XXI, sự cô lập là hiếm có, trong khi sự đa dạng, phức hợp là điều phổ biến. Tất cả chúng ta đã trở nên gắn kết trong một mạng lưới kỹ thuật số và vật lý rộng lớn. Các vấn đề tiềm ẩn nhiều tranh luận, như y tế, bảo vệ môi trường, giới, nghèo đói, sức khỏe tinh thần, phát triển kinh tế, di cư, sử dụng đất hoặc điều tiết nguồn nước v.v. hiện đang đan xen vào nhau và lan truyền trong một hệ thống toàn cầu gồm nhiều quá trình sinh thái, kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị, các ý tưởng và tương tác sinh động39, 66, 78, 81.
Trong mọi hệ thống chính quyền, tổ chức, doanh nghiệp hay cộng đồng đều có những cá nhân quan tâm đến các hệ thống đó (các bên liên quan); mỗi bên đều có mô hình tư duy riêng về hệ thống và mục đích của nó tùy theo sự hiểu biết, kinh nghiệm, trình độ và quan niệm giá trị của bản thân họ. Điều này nghĩa là trong số các bên liên quan sẽ có vô số những quan điểm và nhận thức hiện hữu hoặc tiềm ẩn khác nhau về cách thức hoạt động của các quá trình trong hệ thống mà họ đang tham gia68, cũng như về các yếu
28
tố ảnh hưởng đến các mục đích của hệ thống. Để quản lý các hệ thống, điều quan trọng là phải dung hòa các quan điểm khác nhau của các bên liên quan, sao cho các đề xuất giải pháp tích hợp được những kinh nghiệm sẵn có, và có thể chấp nhận được đối với những người sẽ thực hiện sự thay đổi hoặc chịu hệ quả của việc thực hiện các biện pháp đó.
Cách thu thập các mô hình tư duy (quan điểm, cảm nhận, tri thức, kinh nghiệm) của các bên liên quan
Việc phác họa hệ thống sẽ bắt đầu bằng việc trao đổi cảm nhận xung quanh một vấn đề và tìm hiểu các câu hỏi như: • Chính xác thì vấn đề mà chúng ta đang phải đối mặt là gì? • Tình huống trục trặc này bắt đầu như thế nào?
• Nguyên nhân sâu xa của nó là gì?
• Làm thế nào để giải quyết vấn đề?
• Rào cản nào đối với việc giải quyết vấn đề này?
• Điều gì hay ai là động cơ tiềm năng trong hệ thống này? Hình 3.1: Hội thảo để tập hợp mô hình tư duy của các bên liên quan
29
Tổ chức một cuộc hội thảo để tìm ra các mô hình tư duy đòi hỏi phải có một người dẫn dắt chương trình giỏi và một vài quy tắc cốt lõi như:
• Tất cả mọi tri thức, quan điểm, thông tin đều được coi là có giá trị;
• Tạo điều kiện thảo luận để các bên hiểu được mô hình tư duy của nhau;
• Tránh mâu thuẫn bằng cách tôn trọng kiến thức của nhau và ghi nhận các ý kiến.
Cần ghi nhớ rằng để giao tiếp với những người khác, chúng ta không cần phải suy nghĩ (tư duy) giống như họ, nhưng cần có khả năng hiểu được cách họ tư duy12. Do đó, ngay cả khi có nhiều quan điểm khác nhau, việc thấu hiểu những quan điểm đó từ quá trình “lập bản đồ hệ thống” sẽ giúp các bên đạt được nhận thức chung về hệ thống quản lý. Giao tiếp hiệu quả cũng có thể giúp thay đổi các cảm nhận và kỳ vọng để chúng trở lên thực tế và khả thi.
Trong các hội thảo thường diễn ra tình huống: một nhóm người làm việc cho cùng một tổ chức nhưng lại có các cấp bậc khác nhau (Hình 3.1). Chúng tôi đã thực hiện nhiều hội thảo như vậy, ví dụ như về du lịch bền vững tại Campuchia, khi đó các bên liên quan bao gồm rất nhiều người với các vị trí khác nhau, từ các quan chức chính phủ như Bộ trưởng, Tổng Cục trưởng Tổng Cục du lịch đến các công chức chịu trách nhiệm thực thi các chính sách, các viên chức trẻ ở những cấp chính quyền thấp hơn, các chủ khách sạn và lái xe taxi. Trong tình huống này, khó có thể ghi nhận được một cách chân thực và sâu sắc về mô hình tư duy của các đại biểu. Việc thay đổi phương pháp hội thảo theo cách yêu cầu mọi người “lặng lẽ” chia sẻ ý kiến, đã giải quyết được tình huống các quan chức cấp cao lấn
30
át thảo luận, trong khi các quan chức cấp thấp hơn và những người không có chức vụ giữ im lặng hoàn toàn. Tất cả đại biểu đã ghi lại các mô hình tư duy của mình (bằng cách trả lời các câu hỏi như ở phần trên) vào những mảnh giấy được phát, rồi sau đó bỏ chúng vào các hộp chứa lớn mà không ghi tên mình. Việc này tiết lộ một bức tranh rất sinh động về ngành du lịch thông qua sự tham gia toàn diện của các đại biểu. Hạn chế của phương pháp này là có rất ít trao đổi để các bên hiểu biết mô hình tư duy của nhau hơn. Tuy nhiên, khi đã thu thập được các mô hình tư duy và tích hợp chúng vào một sơ đồ hệ thống (xem điểm kế tiếp), sự thảo luận và học tập chung đã diễn ra rất sôi nổi.
Làm cách nào để kết hợp các mô hình tư duy thành những chủ đề chính
Ở ví dụ sau đây, các phụ nữ nông hộ nhỏ và các bên có liên quan (trong một dự án của Quỹ Gates) đã xác định các vấn đề mà họ cho là cốt lõi, các giải pháp khả quan, các rào cản và động lực. Các thành viên tham gia cuộc hội thảo được khuyến khích chia sẻ các mô hình tư duy của mình về cách họ nhìn nhận hoàn cảnh sống, việc canh tác hiện tại và nghĩ về các giải pháp có tiềm năng đạt được mục đích chính, đó là cải thiện chất lượng cuộc sống của họ. Rất nhiều ý tưởng đã được viết ra giấy, sau đó được đính lên trên một tấm bảng trắng. Nhiều tờ giấy có nội dung giống nhau, và trong trường hợp này các đại biểu sẽ xếp chúng chồng lên nhau. Sau đó các đại biểu được đề nghị thảo luận và xác định các chủ đề chính cho các yếu tố vừa được ghi nhận. Các tờ giấy này sau đó được bố trí lại theo các chủ đề chính đó để tạo ra một bản đồ trực quan về các mô hình tư duy đã bộc lộ (Hình 3.2).
31
Bước này là dịp để các đại biểu thảo luận về mô hình tư duy của họ và tìm hiểu cách thức suy nghĩ của các bên khác. Ngay cả khi mọi người không đồng thuận, tất cả các ý tưởng vẫn được giữ nguyên trên bảng. Đây là bước đầu tiên hướng tới sự học tập chung và cùng nhau hình dung về tổng thể hệ thống đang xem xét. Nó tạo nền tảng cho sự đồng thuận về mục đích chính của hội thảo, giúp các bên bắt đầu tư duy về sự liên hệ giữa các yếu tố tác động trong hệ thống. Việc nhóm các ý tưởng thành các chủ đề chính là rất hữu ích để lồng ghép các mô hình tư duy thành một mô hình/cấu trúc hệ thống (xem Chương 4).
TĂNG THU NHẬP
CÁC YẾU TỐ SẢN XUẤT Công cụ/thiết
Hỗ trợ của nhà nước &
Ổn định
Tiếp cận thị trường/
Năng lực tài chính
bị sản xuất hiện có
Chi phí sản xuất
Liên kết với thị trường
thị trường
Doanh số
Đầu tư công Hạ tầng
Cách làm thủ công/
CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI
Thu nhập Giá nông sản Nông sản chất lượng
Các tổ
thông thường Hiệu suất
Sự hỗ trợ của gia đình
Tập quán cũ về nữ giới
Giao lưu xã hội
Khách hàng hài lòng
Việc
làm thêm
dịch vụ
địa phương
sản xuất
Bình
đẳng giới
Chất lượng sống của phụ nữ
nông nghiệp nhỏ
Thương hiệu nông sản
Đa dạng hóa sản phẩm
NÂNG CAO NĂNG LỰC/GIÁO DỤC Tài chính
ÁP LỰC CÔNG VIỆC CÁC VẤN ĐỀ SỨC KHỎE
chất lượng/ bản chất của các chương trình tập huấn
Mong muốn học hỏi
Khả năng học hỏi
San sẻ công việc
Số giờ làm việc
Sử dụng hóa chất độc hại
Phương thức/ vật tư sản xuất thân thiện
môi trường
Các vấn đề sức khỏe
Kiến thức/ Kỹ năng
Nâng cao năng lực
Các
phát minh
Áp lực
công việc
Ô nhiễm
môi trường Sâu bệnh
Hình 3.2: Các mô hình tư duy (ý tưởng, cảm nhận, rào cản, hành động...) của các đại biểu đã được sắp xếp thành những chủ đề chính
Hình 3.3 cho thấy một ví dụ về cách thức những ý tưởng, cảm nhận khác nhau (mô hình tư duy) của nhiều bên liên quan được nhóm thành những chủ đề chính.
32
Dịch vụ
Cơ sở hạ tầng
Chất thải
Khách sạn, Nhà hàng
Sức hấp dẫn của đảo Cát Bà Tiếp cận thị trường
Đầu tư nông nghiệp
Thông tin, truyền thông
Sử dụng không hợp lý tài nguyên Sức khỏe
Doanh thu du lịch
Bảo tồn tài nguyên
Sinh kế người dân
Tuổi thọ
Cơ cấu quản trị
Các chính sách
Nghèo đói
Số người được đào tạo Thiếu quy hoạch đồng bộ NGOs
Ô nhiễm du lịch
Chất thải
Ô nhiễm nông nghiệp
Sức hấp dẫn của đảo Cát Bà Trữ lượng nước ngầm
Các nguồn ô nhiễm khác Sử dụng nước ngầm
Sử dụng không hợp lý tài nguyên
Dịch vụ
Công trình mới
Hạ tầng Tiếp cận thị trường Đầu tư nông nghiệp
Thông tin, truyền thông
Khách sạn, Nhà hàng
Công trình xây dựng mới Ô nhiễm du lịch
Ô nhiễm nông nghiệp Trữ lượng nước ngầm Số lượng du khách
Các nguồn ô nhiễm khác Sử dụng nước ngầm
Nhận thức
Tệ nạn xã hội/tội phạm Các giá trị văn hóa Dân số
Nhập cư
GDP/người
Phát triển du lịch
Đa dạng sinh học
Cơ cấu quản trị
Các chính sách
Phát triển du lịch
Số lượng du khách
Số người được đào tạo
Dân số
Doanh thu du lịch GDP/người
Doanh thu nông nghiệp Các nguồn thu khác Sinh kế người dân
Nghèo đói
Thiếu quy hoạch đồng bộ NGOs
Nhập cư
Số sinh viên
Các giá trị văn hóa Tệ nạn xã hội/tội phạm Nhận thức
An toàn thực phẩm Sức khỏe
Tuổi thọ
Hình 3.3: Những chủ đề chính từ các “mô hình tư duy” của các bên liên quan trong việc quản lý bền vững Quần đảo Cát Bà
Những bài tập nhỏ
1. Bạn hãy nêu tên những bên liên quan chính trong một công ty sản xuất ô tô?
2. Có phải cách tiếp cận “từ dưới lên” trong việc xây dựng các giải pháp hệ thống có thể áp dụng trong mọi trường hợp, như trong chính quyền, doanh nghiệp phi lợi nhuận, một gia đình đang trục trặc?
3. Theo bạn đâu là rào cản để các bên liên quan chia sẻ các mô hình tư duy của mình với những người khác và làm thế nào để bạn có thể chắc chắn rằng họ chia sẻ nhận thức và ý kiến một cách trung thực?
4. Làm cách nào để một người dẫn dắt hội thảo vượt qua được các rào cản trên?
5. Tại sao nói việc tôn trọng kiến thức của nhau và ghi chép tất cả các ý kiến lại có vai trò quan trọng trong việc giải quyết hay quản lý một vấn đề phức hợp?
33
6. Tuỳ thuộc vào tình huống của bạn, ví dụ làm việc cho một cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, ngân hàng, tổ chức dịch vụ tư vấn gia đình hoặc bạn là thành viên một lớp học, câu lạc bộ thể thao, hoặc bất cứ lĩnh vực nào bạn quan tâm, hãy:
a) Lập một nhóm “các bên có liên quan” nhỏ cho một vấn đề phức hợp cụ thể có liên quan đến bạn hoặc cơ quan của bạn. b) Yêu cầu các bên có liên quan lần lượt vào vai của người mà họ đại diện và hỏi họ các câu hỏi liên quan đến vấn đề đang được xem xét (dùng những câu hỏi hướng dẫn ở phần trên). c) Xây dựng một bản đồ trực quan về các mô hình tư duy vừa được ghi nhận (ví dụ Hình 3.3) với các chủ đề được xác định (để hỗ trợ các hoạt động được trình bày trong Chương 4). d) Tạo cơ hội để “các bên liên quan” giải thích suy nghĩ và cảm nhận của họ và bổ sung thông tin nếu cần thiết (hoặc xoá các chi tiết theo sự nhất trí của toàn bộ những người tham gia). e) Xác định các yếu tố tác động được nêu bởi nhiều người (để đại biểu thấy được yếu tố nào là quan trọng hơn).
Tài liệu đọc thêm chọn lọc
Những tài liệu chọn lọc sau đây sẽ cung cấp thêm thông tin về các mô hình tư duy và phương pháp điều phối thảo luận: 1. Bourne LM.: Stakeholder Relationship Management Maturity,
2008 (accessed 9 March 2015): www.stakeholder-management. com/shopcontent.asp?type=methodology-papers.
2. Responder Linking SCP and Growth Debate (accessed on 9 March 2015): http://www.scp-responder.eu/about/methodology. 3. Senge PM.: The fifth discipline: The art and practice of the learning organization (revised and updated). (Chapter 9: Mental models) Random House, Inc.: New York, USA, 2006.
34
35
Xây dựng năng lực cho các bên liên quan
Xây dựng năng lực (bước 2 của ELLab) thực chất là một nội dung được thực hiện xuyên suốt các bước của quá trình ELLab. Những người tham gia (tất cả các bên liên quan) tiến hành xây dựng năng lực (tập huấn nội bộ) về tư duy hệ thống, mối quan hệ biện chứng và cách thức xây dựng mô hình, sử dụng Sơ đồ vòng nhân quả (chương này) và phương pháp Mô hình Mạng Bayes (BBN) (Chương 6) nhằm:
• Tổng hợp các mô hình tư duy thành một cấu trúc hệ thống; • “Làm chủ” các mô hình hệ thống thông qua nội dung tập huấn và tham gia trực tiếp;
• Hiểu được mối quan hệ biện chứng lẫn nhau giữa và bên trong các bên liên quan (các cơ quan nhà nước và từng đơn vị trong tổ chức đó) để tăng cường liên lạc;
• Các nhu cầu và liên kết cần thiết cho việc phối hợp liên ngành hiệu quả.
Những người tham gia nòng cốt vào quá trình này được tham dự vào tất cả các nội dung tập huấn, trong khi một số người sử dụng kết quả cuối cùng (như phụ nữ ở khu vực nông thôn) chỉ tham dự vào một số nội dung nhất định (như phần tuyên truyền) để giúp xác định được các chủ đề, thảo luận các điểm đòn bẩy, xếp loại các yếu tố quan trọng, đánh giá và tinh chỉnh các mô hình, và hình thành cách thức xem xét các kết quả đầu ra để phát huy tối đa lợi ích của việc học tập chung.
Chúng tôi đã giúp xây dựng năng lực cho nhiều người (các bên liên quan) tại các địa điểm đã hoặc đang xây dựng các ELLab.
36
Các bên liên quan đã và đang tham gia chặt chẽ vào tất cả các bước khác nhau trong quá trình hình thành ELLab của họ. Việc phối hợp chặt chẽ cho phép các bên xây dựng tầm nhìn chung, hiểu ra sự phức hợp và xác định được nguyên nhân gốc rễ của vấn đề, thay vì chỉ đơn thuần là xử lý các triệu chứng. Điều này cũng giúp cho họ xây dựng được các giải pháp tập thể theo thời gian, “thí nghiệm” và điều chỉnh các giải pháp khi cần thiết bằng việc cùng nhau thảo luận và chia sẻ kiến thức. Bên cạnh đó, việc phối hợp chặt chẽ cũng giúp các bên “làm chủ” được ELLab và cách thức vận hành chúng.
Có được một “nhà vô địch” là một bài học quan trọng nữa mà chúng tôi có được từ thực tế công việc. Chúng tôi đã may mắn được làm việc với một nhà vô địch (một người trên vị trí lãnh đạo, hiểu và ủng hộ cách tiếp cận này) ở mọi nơi mà ELLab được hình thành. Đây là điều cần thiết cho việc thực hiện và vận hành thành công của các ELLab.
Tổng hợp các mô hình tư duy bằng
cách xây dựng những mô hình/cấu
trúc hệ thống
Quá trình xây dựng mô hình hệ thống giúp cho các bên liên quan có được nhận thức chung và cái nhìn toàn cảnh về hệ thống mà họ đang giải quyết. Mặc dù không mô hình nào có thể phản ánh “đúng” hoàn toàn về thực tại, mô hình hệ thống có giúp làm sáng tỏ các động lực của các hệ thống phức hợp42.
TẠI SAO CẦN SƠ ĐỒ VÒNG NHÂN QUẢ
• ĐỂ TẠO RA “MỘT BỨC TRANH TOÀN CẢNH” VỀ HỆ THỐNG ĐANG XEM XÉT
• DỄ HÌNH DUNG
• HIỂU SÂU HƠN VỀ HỆ THỐNG MÀ BẠN ĐANG XỬ LÝ
37
Các nhà ra quyết định, cán bộ quản lý và các bên liên quan thường thấy khó khăn trong việc “nhìn ra” bức tranh toàn cảnh, xem xét tất cả các mối liên hệ và tương tác giữa các thành phần trong hệ thống của họ. Do đó, cần phải có một bức tranh bao quát về hệ thống để thể hiện mối quan hệ biện chứng và vai trò của các tác nhân và tác động của họ trong hệ thống. Ví dụ, mô hình hệ thống trong Hình 4.2 thể hiện một “bức tranh toàn cảnh” về hệ thống Khu Dự trữ sinh quyển Cát Bà và là một nền tảng quan trọng cho việc học tập, phối hợp và ra quyết định tập thể của nhiều bên liên quan, bao gồm các nhà hoạch định chính sách, cán bộ quản lý và các đại diện cộng đồng.
Sơ đồ vòng nhân quả
• HIỂU HƠN MÔ HÌNH TƯ DUY CỦA NHỮNG NGƯỜI KHÁC ĐỂ NHẬN THẤY ĐƯỢC “VAI TRÒ” VÀ SỰ GẮN KẾT BIỆN CHỨNG GIỮA CÁC THÀNH PHẦN VÀ CÁC BÊN LIÊN QUAN TRONG HỆ THỐNG
• TẠO NỀN TẢNG CHO VIỆC XÂY DỰNG SỰ ĐỒNG THUẬN GIỮA CÁC BÊN CÓ LIÊN QUAN
• LÀ CƠ SỞ CHO VIỆC XÁC ĐỊNH CÁC ĐIỂM ĐÒN BẨY TRONG HỆ THỐNG
Phần mềm Vensim77 là một công cụ hữu ích giúp tổng hợp các mô hình tư duy thành một mô hình hệ thống (Sơ đồ vòng nhân quả) của vấn đề đang được xem xét. Một Sơ đồ vòng nhân quả (CLD) đem lại “...một khuôn mẫu giúp nhìn ra các mối tương quan thay vì chỉ thấy các sự vật, thấy được các chu trình biến đổi thay vì chỉ thấy những khoảnh khắc bất động”70, tr. 68.
Một sơ đồ vòng nhân quả bao gồm hai thành phần chính là biến và mũi tên:
• Biến là một điều kiện, tình trạng, hành động hoặc quyết định có thể ảnh hưởng và bị ảnh hưởng bởi các điều kiện, tình trạng hay
38
hành động khác... Biến có thể mang tính chất định lượng (như số lượng nhân công, khối lượng sản phẩm, lợi nhuận doanh nghiệp, v.v.) hoặc định tính (như các giá trị, động cơ, danh tiếng, cảm giác, sự tôn trọng, v.v.).
• Mũi tên thể hiện mối quan hệ nguyên nhân - hệ quả hay sự thay đổi trong tình trạng giữa hai biến.
Trong sơ đồ vòng nhân quả, mỗi cặp biến có thể thay đổi thuận chiều hoặc ngược chiều. Nếu sự gia tăng (hoặc suy giảm) trong biến X tại phần đuôi của mũi tên tạo ra một sự gia tăng (hoặc suy giảm) tương ứng ở biến Y ở phần đầu mũi tên thì đây là sự thay đổi thuận chiều (thể hiện bằng kí hiệu “S” hay “+” phía trên đầu của mũi tên); tức là, cả hai biến di chuyển lên xuống cùng nhau. Nếu sự gia tăng (hay suy giảm) trong một biến tạo ra sự suy giảm (hay gia tăng) trong một biến còn lại thì đây là sự thay đổi ngược chiều (ký hiệu bằng chữ “O” hoặc “-” bên cạnh đầu mũi tên); nói cách khác, khi biến này di chuyển theo hướng đi lên, biến còn lại sẽ di chuyển đi xuống và ngược lại (theo50, 71, 72). Hình 4.1 minh họa cho nội dung này bằng một ví dụ đơn giản.
Hình 4.1: Ví dụ về mối quan hệ nhân quả giữa hai biến để minh họa cách dùng các ký hiệu tác động cùng chiều hay ngược chiều
39
Một sơ đồ vòng nhân quả thường có
các vòng phản hồi khác nhau. Một vòng
phản hồi xuất hiện khi có một chuỗi các
tương tác hình thành nên một vòng khép
kín, tức là A-B-C-A.
Vòng tăng cường và Vòng cân bằng
Có hai loại vòng phản hồi khác nhau: vòng tăng cường (R) và vòng cân bằng (B). Vòng tăng cường là những hệ thống phản hồi tích cực. Các vòng này có thể cho thấy sự gia tăng hay suy giảm của các hành động. Không giống như vòng tăng cường, vòng cân bằng (vòng phản hồi tiêu cực) duy trì sự ổn định hay lập lại khả năng kiểm soát50.
Cách phân biệt giữa vòng “R” và vòng “B” (theo50, 71, 72):
• Sử dụng tư duy logic hoặc bằng trực
giác để xác định bản chất của vòng
phản hồi: nếu vòng phản hồi thể hiện
hành động gia tăng hay suy giảm là vòng R; nếu vòng phản hồi thể hiện quá trình ngược nhau là vòng B.
• Xem xét vòng phản hồi theo từng biến: bắt đầu từ một biến với một động từ và di chuyển theo vòng phản hồi cho đến khi bạn quay trở lại biến này; nếu dừng lại bằng chính động từ đó thì đây là vòng tăng cường (R), còn nếu dừng lại bằng một động từ trái nghĩa thì đây là một vòng cân bằng (B). Ví dụ, A “tăng” - B “giảm” - C “tăng” - A “tăng” (vòng tăng cường); A “tăng” - B “tăng” - C “tăng” - A “giảm” (vòng cân bằng).
KHU DỰ TRỮ SINH QUYỂN QUẦN ĐẢO CÁT BÀ
BAO GỒM HẦU HẾT QUẦN ĐẢO CÁT BÀ VÀ VÙNG BIỂN XUNG QUANH; NẰM CẠNH DI SẢN THIÊN NHIÊN THẾ GIỚI VỊNH HẠ LONG NỔI TIẾNG CỦA VIỆT NAM.
ĐẢO CÁT BÀ CÓ TẦM QUAN TRỌNG LỚN VỀ ĐA DẠNG SINH HỌC, ĐƯỢC CÔNG NHẬN LÀ KHU VỰC CẦN ƯU TIÊN BẢO TỒN Ở CẤP ĐỘ TOÀN CẦU. NƠI ĐÂY CÓ LOÀI VOỌC ĐẦU VÀNG LÀ MỘT TRONG NHỮNG LOÀI
40
• Đếm số lượng kí tự “O” (hoặc kí tự (-)) trong vòng: nếu bằng 0 hay là các số chẵn (vòng tăng cường R), nếu là các số lẻ (vòng cân bằng B).
Sau đây là các “quy tắc” để vẽ các sơ đồ vòng nhân quả1:
• Quy tắc 1: Hãy biết ranh giới của bạn • Quy tắc 2: Bắt đầu từ chỗ thú vị • Quy tắc 3: Đặt câu hỏi “Cái này ảnh
hướng tới gì?” và “Nó bị cái gì ảnh hưởng?”
• Quy tắc 4: Sử dụng danh từ, không dùng động từ
• Quy tắc 5: Không dùng các thuật ngữ như “gia tăng về” hay “suy giảm về” • Quy tắc 6: Đừng sợ những thứ không bình thường
• Quy tắc 7: Đánh dấu “s” và “o” khi lập sơ đồ
• Quy tắc 8: Một sơ đồ tốt phải trông giống như hiện thực
• Quy tắc 9: Đừng “ưu ái” sơ đồ của bạn • Quy tắc 10: Không sơ đồ nào là “hoàn chỉnh”
LINH TRƯỞNG QUÝ HIẾM NGUY CƠ TUYỆT CHỦNG CAO NHẤT THẾ GIỚI.
ĐẢO CÁT BÀ CÓ DÂN SỐ KHOẢNG 16.000 NGƯỜI VỚI NHIỀU VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG - NHƯ ĐIỀU KIỆN KINH TẾ KHÓ KHĂN CỦA NGƯỜI DÂN ĐỊA PHƯƠNG, THIẾU ĐẤT CANH TÁC, KHAI THÁC TRÁI PHÉP TÀI NGUYÊN, CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC, Y TẾ VÀ SỰ GIA TĂNG DU LỊCH TẠO RA NHIỀU SỨC ÉP CHO VIỆC QUẢN LÝ BỀN VỮNG.
CÁC NHÀ QUẢN LÝ VIỆT NAM VÀ UNESCO ĐÃ NHẬN RA CÁC VẤN ĐỀ PHỨC HỢP NÓI TRÊN VÀ XÁC ĐỊNH TẦM QUAN TRỌNG CỦA CÁC CÁCH TIẾP CẬN HỆ THỐNG ĐỂ QUẢN LÝ HÒN ĐẢO THEO CÁCH TOÀN DIỆN, TRONG KHI GỠ BỎ CÁC RÀO CẢN CƠ QUAN VÀ NGÀNH NGHỀ.
Hình 4.2 là một sơ đồ vòng nhân quả thể hiện mô hình hệ thống của Khu Dự trữ sinh quyển thế giới Quần đảo Cát Bà, Việt Nam.1 Mô hình hệ thống sơ bộ được xây dựng và đánh giá bởi các bên liên quan
1. Xem D. Sherwood: Seeing the Forest for the Trees: A Manager’s Guide to Applying Systems Thinking, London, UK, Nicholas Brealey Publishing, 2002.
41
thông qua một hội thảo tiến hành theo phương pháp Phân tích hệ thống có sự tham gia73. Sau đó, mô hình này tiếp tục được phát triển và cập nhật thông tin từ các lý thuyết, tài liệu sẵn có và ý kiến tham gia của các cán bộ quản lý Khu Dự trữ sinh quyển Quần đảo Cát Bà trong chương trình tập huấn hai tháng tại Australia năm 200862.
Sau đó, mô hình tiếp tục được hiệu chỉnh và đánh giá bởi nhiều bên liên quan (như cán bộ và kiểm lâm của Vườn quốc gia Cát Bà, các chủ khách sạn, nông dân, người dân địa phương và cán bộ thuộc các cơ quan nhà nước khác nhau) tại nhiều hội thảo, thảo luận nhóm và phỏng vấn sâu thực hiện tại thành phố Hải Phòng và đảo Cát Bà trong năm 2008 và 2009.
Hình 4.2 minh họa các động lực (mối quan hệ và sự phụ thuộc lẫn nhau) giữa các thành phần chủ yếu trong hệ thống. Mô hình hệ thống Khu Dự trữ sinh quyển Quần đảo Cát Bà được phân tích
Hình 4.2: Mô hình hệ thống Khu Dự trữ sinh quyển Cát Bà - Một nền tảng cho sự hợp tác (theo60)
Ghi chú: S (cùng chiều), O (ngược chiều), R (tăng cường), B (cân bằng), T1, T2 (số vòng du lịch), S1, S2... (số vòng xã hội), Eco (Kinh tế), Env (Môi trường).
42
thông qua việc xác định các vòng phản hồi50, 72 đã hình thành trong mô hình. Các vòng phản hồi trong mô hình bao gồm 10 vòng tăng cường (“R”) và 5 vòng cân bằng (“B”). Tuy nhiên, chương này không nhắc lại các mô tả chi tiết về sơ đồ hệ thống (bạn đọc xem tài liệu số 3 và 4 trong danh mục các tài liệu đọc thêm để biết thêm chi tiết).
Mô hình hệ thống trên đã được xây dựng và hiệu chỉnh qua nhiều thảo luận với các bên liên quan. Sự tham gia chặt chẽ của các bên có vai trò đặc biệt quan trọng vì nó cho phép các bên “làm chủ” mô hình; am hiểu về hệ thống hơn và càng nhiệt tình tìm kiếm các giải pháp cải thiện hệ thống theo hướng bền vững. Sau khi được xây dựng, hiệu chỉnh hoặc kiểm định, mô hình hệ thống có thể đưa ra những kiểu lỗi hệ thống điển hình và các điểm đòn bẩy tương ứng giúp giải quyết tận gốc các vấn đề phức hợp (xem Chương 5).
Những bài tập nhỏ
1. Hãy vẽ một vòng tăng cường “tốt” để minh họa các phản hồi tích cực gia tăng.
2. Một vòng tăng cường “xấu” trông như thế nào?
3. Hãy cho ví dụ về một vòng cân bằng ngược với các vòng tốt và xấu nêu trên.
4. Hãy tiếp tục với bài tập số 6 trong Chương 3: Bạn đã có một bản đồ trực quan về các biến và biết được tầm quan trọng của chúng. Hãy dùng chúng để lập một CLD phác họa “bức tranh toàn cảnh” của hệ thống bạn đang xử lý.
Ghi chú: Sơ đồ CLD nên gồm có các biến, mũi tên, kí hiệu (S hoặc O), và các vòng tăng cường (R) và cân bằng (B) nếu có.
Dữ liệu phần mềm
Bạn có thể sử dụng phần mềm Vensim cho mục đích giáo dục, tải từ: http://vensim.com/download/ (Tải miễn phí). Phần mềm Độ nhạy Malik (Malik Sensitivity Model) cũng có thể được dùng để vẽ
43
các mối quan hệ giữa các thành phần khác nhau của hệ thống (xem Chương 11).
Tài liệu đọc thêm chọn lọc
Những tài liệu sau đây được chọn lọc để cung cấp cho bạn thêm thông tin về nội dung của chương này:
1. Kim DH.: Introduction to Systems Thinking. Pegasus Communications, Inc.: MA, USA, 1999.
2. Maani KE, Cavana RY.: Systems thinking, system dynamics: Managing change and complexity. Prentice Hall: Auckland, NZ, 2007.
3. Nguyen NC, Bosch OJH and Maani KE.: The importance of systems thinking and practice for creating biosphere reserves as “learning laboratories for sustainable development”. Proceedings of the International Society for the Systems Sciences 2009 Conference, The University of Queensland, Australia, 2009.
4. Nguyen NC, Bosch OJH and Maani KE.: Creating “learning laboratories” for sustainable development in biospheres: A systems thinking approach. Systems Research and Behavioral Science 28(1): 51-62, 2011.
5. Senge PM.: The fifth discipline: The art and practice of the learning organization (revised and updated). Random House, Inc.: New York, USA, 2006.
6. Sherwood D.: Seeing the Forest for the Trees: A Manager”s Guide to Applying Systems Thinking. Nicholas Brealey Publishing: London, UK, 2002.
44
45
Sử dụng mô hình hệ thống để xác định các mối quan hệ và sự tương tác giữa các thành phần của hệ thống
Hình 4.2 thể hiện các mối quan hệ và sự tương tác giữa các thành phần chính trong hệ thống Khu Dự trữ sinh quyển Quần đảo Cát Bà. Chi tiết xem tại các tài liệu đọc thêm số 3 và 4 ở phần cuối của chương trước. Mô hình hệ thống này được xây dựng cho nhiều mục đích sử dụng bao gồm: là “bức tranh toàn cảnh” giúp các bên liên quan hiểu sâu hơn về hệ thống mà họ tham gia; “tạo ra một nền tảng hợp tác” để quản lý tổng hợp tài nguyên thiên nhiên, và phát triển kinh tế, xã hội, môi trường trên Quần đảo Cát Bà; “là một ví dụ” để truyền đạt khái niệm tới các Khu Dự trữ sinh quyển khác trên thế giới; áp dụng các khái niệm và quy trình hệ thống vào những lĩnh vực khác mà trong đó có nhu cầu quản lý các vấn đề phức hợp60.
Việc xây dựng mô hình hệ thống này cho Khu Dự trữ sinh quyển Quần đảo Cát Bà cũng cho phép xác định các kiểu lỗi hệ thống điển hình và những điểm đòn bẩy liên quan trong hệ thống. Điều này giúp xây dựng các giải pháp ưu tiên và ghi nhận tầm quan trọng của việc giải quyết các vấn đề cốt lõi thay vì xử lý các triệu chứng.
Các kiểu lỗi hệ thống điển hình - những cấu trúc tổng quát Các kiểu lỗi hệ thống điển hình là những mô hình hoặc cấu trúc tổng quát phản ánh những kiểu tình huống khác nhau. Chúng cho thấy hình mẫu của các quá trình vận động và là những công cụ rất hữu ích để phân tích các diễn biến hành vi của hệ thống; bản thân
46
chúng phản ánh những cấu trúc ngầm của hệ thống đang được nghiên cứu 50. Nói cách khác, các kiểu lỗi hệ thống điển hình “tiết lộ một sự đơn giản cực kỳ tinh tế chi phối sự phức hợp của các vấn đề quản lý, cho phép chúng ta nhìn ra nhiều vị trí mà tại đó xuất hiện các điểm đòn bẩy giúp khắc phục các khó khăn, thách thức, và diễn giải các cơ hội này tới những người khác”71, tr.93.
Điểm đòn bẩy
Archimedes (287-212 trước Công nguyên) đã từng nói: Hãy cho tôi chiếc đòn bẩy đủ dài và một điểm tựa tôi sẽ nâng bổng cả trái đất. Câu nói này ngụ ý sức mạnh của một điểm đòn bẩy. Điểm đòn bẩy là những vị trí trong một hệ thống phức hợp (ví dụ như một tập đoàn, một nền kinh tế, một cơ thể sống, một thành phố, một hệ sinh thái) trong đó “sự thay đổi nhỏ ở một thứ có thể tạo ra những thay đổi lớn với tất cả mọi thứ... điểm đòn bẩy là những điểm có sức mạnh”51, tr.1. Senge71, tr. 64
chỉ ra rằng các điểm đòn bẩy chính là “những điểm phù hợp trong một hệ thống mà tại đó các hành động nhỏ được tính toán kỹ lưỡng đôi khi có thể tạo ra những sự cải thiện lớn và bền vững”.
Điểm đòn bẩy tồn tại ở mọi hệ thống. Ví dụ, nền kinh tế của một đất nước là một hệ thống xã hội thực sự phức hợp. Tỷ lệ lãi suất là một trong những điểm đòn bẩy rõ nhất trong nền kinh tế, trong đó chỉ cần sự thay đổi nhỏ về tỷ lệ lãi suất có thể tạo ra những tác động to lớn đến toàn bộ hệ thống kinh tế - xã hội (Hình 5.1).
Giáo dục cũng là một ví dụ khác. Giáo dục được công nhận là một điểm đòn bẩy quan trọng để xóa nghèo ở cả các nước nghèo và nước đang phát triển. Trong các hệ sinh học, châm cứu là một ví dụ điển hình cho khái niệm các điểm đòn bẩy. Các nhà châm cứu tìm ra những “điểm huyệt” hay các điểm đòn bẩy trên cơ thể của người bệnh để châm các mũi kim. Cách thức này sẽ dần dần điều trị được những vấn đề cần chữa trên nhiều phần cơ thể của người bệnh.
47
Lãi suấtHình 5.1: Những thay đổi nhỏ có thể tạo ra chuyển biến lớn qua các đòn bẩy
Mặc dù tồn tại khá phổ biến nhưng các điểm đòn bẩy không mang tính bản năng. Chúng không dễ được phát hiện51. Tuy nhiên, khi đã xây dựng và hiệu chỉnh được sơ đồ vòng nhân quả sát thực cho một hệ thống, các nguyên nhân gốc rễ và các điểm đòn bẩy cho các vấn đề phức hợp sẽ trở nên rõ ràng hơn, từ đó phát hiện các chiến lược, giải pháp phù hợp để giải quyết những vấn đề này50.
Ví dụ về các kiểu lỗi hệ thống điển hình và điểm đòn bẩy Tài liệu số 1 và 4 trong danh mục các tài liệu đọc thêm ở phần cuối chương này sẽ mô tả một số kiểu lỗi hệ thống điển hình phổ biến và các biện pháp xử lý. Điều quan trọng cần lưu ý là việc xác định các kiểu lỗi hệ thống điển hình sẽ luôn cho thấy những khu vực có sức bẩy cao và thấp khác nhau71. Nói cách khác, các cấu trúc hệ thống tổng quát này cho phép chúng ta dễ dàng xác định được các điểm đòn bẩy trong hệ thống đang được xem xét.
Phần này trình bày bốn kiểu lỗi hệ thống điển hình về các động lực chính trong hệ thống mô hình Khu Dự trữ sinh quyển Quần đảo Cát Bà (Hình 4.2). Chúng cho thấy một “câu chuyện” sâu xa, qua
48
đó hiểu được các động lực, sự gắn kết biện chứng và các mối quan hệ tồn tại trong hệ thống mô hình Khu Dự trữ sinh quyển Quần đảo Cát Bà; bao gồm: “Rào cản tăng trưởng”, “Gậy ông đập lưng ông”, “Bi kịch của tài nguyên chung” (hoặc Tác hại của lợi ích nhóm/Cha chung không ai khóc), và “Gánh nặng sang vai” (hoặc Đánh bùn sang ao/Kéo bè sang vịnh).
Rào cản tăng trưởng (R_T1, 2, 3 so với B_T3, 4 - Hình 4.2) Cấu trúc “Rào cản tăng trưởng” giúp tìm hiểu các tình huống trong đó sự tăng trưởng “chạm ngưỡng” tới hạn71. Kiểu lỗi hệ thống này bao gồm một vòng tăng cường và một vòng cân bằng, được minh họa trong Hình 5.2. Thường thì hầu hết mọi người đều phản ứng với các rào cản tăng trưởng bằng cách gây áp lực (“thúc ép”) lên vòng tăng cường. Tuy nhiên, “đòn bẩy nằm ở vòng phản hồi cân bằng... để thay đổi hành vi của hệ thống, [chúng ta] phải tìm ra và thay đổi các yếu tố gây ra sự kìm hãm”71, p.100.
Hình 5.2: Phát triển du lịch trong kiểu lỗi hệ thống điển hình “Rào cản tăng trưởng”
Nguồn: theo tài liệu59
Ghi chú: S (cùng chiều), O (ngược chiều), R (tăng cường), B (cân bằng)
Cách thức quản lý ở đảo Cát Bà cho đến nay tập trung vào việc “thúc ép” vòng tăng cường nhằm thu hút một số lượng ngày càng tăng các du khách đến thăm hòn đảo này. Điều này được minh
49
chứng bởi “hành vi theo thời gian” của “Du lịch” và việc phân tích mô hình hệ thống của đảo Cát Bà, đặc biệt là vòng phản hồi “R_T1”63. Tuy nhiên, nguyên tắc quản lý cho kiểu lỗi hệ thống này là “không tiếp tục thúc ép tăng trưởng, khi không loại bỏ các yếu tố đang kìm hãm sự tăng trưởng”. Trong hệ thống đảo Cát Bà, các điểm đòn bẩy nằm ở vòng phản hồi cân bằng (Hình 5.2), điều này cho thấy cần phải loại bỏ các rào cản hay các yếu tố kìm hãm (như ô nhiễm, thiếu nước ngọt, chất lượng dịch vụ yếu kém) nhằm tạo ra sự phát triển bền vững và lâu dài cho ngành du lịch.
Gậy ông đập lưng ông (R_T1, 3 so với B_T1, 2 - Hình 4.2) Kiểu lỗi hệ thống “Gậy ông đập lưng ông” bao gồm một vòng cân bằng và một vòng tăng cường (Hình 5.3). Nó phản ánh các tình huống trong đó các hệ quả ngoài ý muốn, và thường là có hại, xảy ra khi thực hiện các hành động có chủ đích tốt50. Trong tình huống này, một vấn đề (thường là các triệu chứng của vấn đề) xuất hiện, đòi hỏi sự chú ý tức thời và các “giải pháp tình thế” của các cán bộ quản lý hoặc người ra quyết định liên quan. Mặc dù các giải pháp tình thế thường sẽ kiềm chế được vấn đề trong thời gian ngắn,
Hình 5.3: Phát triển du lịch theo kiểu lỗi hệ thống “Gậy ông đập lưng ông” Nguồn: theo tài liệu59
Ghi chú: S (cùng chiều), O (ngược chiều), R (tăng cường), B (cân bằng), // (khoảng trễ)
50
chúng có thể tạo ra các hệ quả ngoài ý muốn và thường sẽ khiến cho việc xử lý vấn đề trở nên khó khăn hơn về lâu dài. Như minh họa trong Hình 5.3, việc xây dựng nhiều khách sạn, nhà hàng trên đảo Cát Bà đã được coi là một giải pháp cho vấn đề nơi nghỉ dưỡng cho số lượng ngày càng đông các du khách. Tuy nhiên, một hệ quả ngoài mong đợi của giải pháp này là tình trạng ô nhiễm gia tăng, gây thêm áp lực cho vấn đề ăn nghỉ và dịch vụ. Điều này có thể tạo ra một tác động tiêu cực cho ngành công nghiệp du lịch (ví dụ sức hấp dẫn của hòn đảo như một điểm đến du lịch), làm giảm số lượng du khách đến với đảo Cát Bà. Trong cấu trúc hệ thống này, nguyên tắc quản lý là hãy giữ vững trọng tâm lâu dài. Các “giải pháp tình thế” ngắn hạn cần sớm được loại bỏ, hoặc chỉ sử dụng như là phương án tạm thời trong khi tích cực tìm kiếm một giải pháp lâu dài71.
Cha chung không ai khóc (R_Eco2 so với B_Eco, R_Eco1 so với B_T3, 4 - Hình 4.2)
Kiểu lỗi hệ thống điển hình này bao gồm hai vòng tăng cường và hai vòng cân bằng (Hình 5.4). Nó cho thấy rằng kể cả những hành vi theo lẽ thường cũng có thể dẫn đến các hệ quả tai hại theo thời gian50. Nói cách khác, các cá nhân sử dụng các tài nguyên chung có hạn cho nhu cầu của chính mình. Họ được hưởng lợi từ việc này lúc đầu; cuối cùng số lượng họ nhận được ngày càng ít, khiến họ phải tăng cường nỗ lực. Rốt cuộc, nguồn tài nguyên này có thể là bị suy kiệt, xói mòn nghiêm trọng hoặc là bị tiêu thụ hết sạch71. Kiểu lỗi hệ thống này thường được thấy trong việc sử dụng và quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên và phúc lợi công cộng.
Hình 5.4 thể hiện mối quan hệ giữa hai ngành nghề chính trên đảo Cát Bà là du lịch và nông nghiệp. Mỗi ngành của hệ thống này đều cố gắng đầu tư và gia tăng tối đa doanh thu của ngành. Những
51
tác nhân trong lĩnh vực du lịch (như chủ khách sạn và nhà hàng, công ty lữ hành du lịch) muốn đầu tư nhiều hơn để thu về nhiều hơn từ hoạt động du lịch. Tương tự, các tác nhân trong lĩnh vực nông nghiệp (nông dân, ngư dân) cũng muốn đầu tư nhiều hơn để thu được nhiều lợi nhuận hơn từ nuôi trồng.
Các hành động đó làm tăng tổng thể các hoạt động đầu tư vào hệ thống. Tuy nhiên, hệ thống có những giới hạn của nó đối với cả hai lĩnh vực này, ví dụ như sức chứa do thiếu nước ngọt, thiếu điện (và chi phí), thiếu các nhân viên được đào tạo, thiếu đất canh tác và không gian cho số lượng quá đông các bè nổi (lúc này bắt đầu xâm lấn vào khu bảo tồn thiên nhiên). Hệ quả cuối cùng là các vấn đề này sẽ làm giảm lợi nhuận thu được của cả hai ngành (thể hiện qua hai vòng cân bằng trong Hình 5.4)
Hình 5.4: Sức tải trong kiểu lỗi hệ thống “Cha chung không ai khóc” Nguồn: Theo tài liệu59
Ghi chú: S (cùng chiều), O (ngược chiều), R (tăng cường), B (cân bằng), // (khoảng trễ)
52
Trong cấu trúc hệ thống này, nguyên tắc là hãy quản lý các “tài sản chung” bằng cách tuyên truyền, giáo dục cho mọi người gắn với các hình thức tự quản và áp lực tập thể, hoặc là thông qua một quy chế điều chỉnh chính thức, tốt nhất là quy chế này được xây dựng bởi chính các thành viên liên quan71. Trong trường hợp của đảo Cát Bà, điểm đòn bẩy nằm ở việc xây dựng một kế hoạch tổng thể liên ngành cho toàn đảo, tập trung vào lĩnh vực du lịch và nông nghiệp và cách thức để hai lĩnh vực này có thể phát huy vai trò trong những vấn đề lớn hơn như xóa nghèo và bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
Gánh nặng sang vai
Kiểu lỗi hệ thống điển hình này bao gồm hai vòng cân bằng. Cả hai đều cố gắng xử lý cùng một triệu chứng của vấn đề. Vòng bên trên thể hiện việc xử lý các triệu chứng - tức “giải pháp tình thế”. Cách này thường giải quyết được vấn đề nhanh chóng nhưng chỉ mang tính tạm thời. Vòng bên dưới, nơi có một khoảng trễ, cho thấy một cách thức ứng phó vấn đề mang tính căn bản hơn. Dù phương pháp sau thường phải mất một thời gian để phát huy tác dụng, giải pháp căn bản này sẽ mang lại một tác động hiệu quả hơn71.
Các cấu trúc “Gánh nặng sang vai” rất phổ biến trong đời sống của các cá nhân cũng như tổ chức. Trong các tình huống này, các triệu chứng rõ ràng của vấn đề sẽ thu hút nhiều chú ý; và kéo theo là cách giải quyết “tình thế” để triệt tiêu các triệu chứng, ít nhất là trong một khoảng thời gian ngắn. Theo Maani và Cavana50, kiểu lỗi hệ thống này thể hiện xu hướng của con người khi giải quyết các vấn đề dễ dàng, rõ ràng và khẩn cấp trước khi họ bị đặt vào tình huống phải xử lý các vấn đề khó, không rõ ràng và quan trọng.
53
Hình 5.5: Viện trợ quốc tế trong kiểu lỗi hệ thống “Gánh nặng sang vai” Nguồn: Theo tài liệu59
Ghi chú: S (cùng chiều), O (ngược chiều), R (tăng cường), B (cân bằng), // (khoảng trễ)
Trong vòng hai thập kỷ vừa qua, các triệu chứng của những vấn đề trên đảo Cát Bà đã thu hút được rất nhiều sự hỗ trợ tài chính từ các tổ chức quốc tế20. Một số vấn đề như loài voọc đầu vàng có nguy cơ bị tuyệt chủng, đói nghèo, chất thải và ô nhiễm - tất cả đều là các triệu chứng của những vấn đề cốt lõi sâu xa hơn. Sự hỗ trợ này đã tạm thời điều trị được các triệu chứng của vấn đề, như thể hiện trong vòng phản hồi cân bằng trên đỉnh của Hình 5.5. Tuy nhiên, ngay cả khi hàng triệu đô la và nguồn lực con người đã được đầu tư thì rất nhiều vấn đề trên đảo Cát Bà vẫn còn tồn tại; bởi các vấn đề cốt lõi (không rõ ràng hoặc khó phát hiện hơn) đã không được xử lý triệt để14. Đồng thời, việc nhận được nhiều tài trợ quốc tế cũng làm gia tăng sự phụ thuộc của đảo Cát Bà vào tài trợ từ nước
54