🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Truyện kiều và các nhà nho thế kỷ XIX
Ebooks
Nhóm Zalo
TRUYỆN KIỀU VÀ CÁC NHÀ NHO THẾ KỶ XIX Phạm Đan Quế
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
CHO BỘ SÁCH ĐIỆN TỬ e BOOK
NGHIÊN CỨU TRUYỆN KIỀU
Của Tác giả Phạm Đan Quế
Hai quyển sách đầu tiên nghiên cứu về Truyện Kiều của tác giả Phạm Đan Quế được Nhà xuất bản Hà Nội cho ra mắt năm 1991. Sau đó là các nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, NXB Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, NXB Văn học rồi NXB Giáo dục ấn hành những cuốn sách tiếp theo. Hơn mười năm sau (2002), Nhà xuất bản Thanh niên cho in hai quyển sách mới khá độc đáo là Truyện Kiều đọc ngược và Lục bát Hậu Truyện Kiều và sau đó cho tái bản cùng in mới toàn bộ 15 tác phẩm viết về Truyện Kiều của ông trong vòng 3 năm 2002-2005.
Đến nay đã một thập niên nữa trôi qua, để hướng tới Kỷ niệm 250 năm năm sinh Đại Thi hào Nguyễn Du, cũng là dịp UNESCO - Tổ chức Giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên hiệp quốc vinh danh nhà thơ là Danh nhân văn hóa thế giới , năm 2013, Nhà xuất bản Thanh niên lại vừa cho ra mắt hai tác phẩm mới rất đặc biệt của cùng tác giả là Thế giới nghệ thuật Truyện Kiều và Bài thơ vịnh Kiều độc đáo và cách làm thơ thuận nghịch độc , vừa đạt kỷ lục là Bài thơ có nhiều cách đọc nhất Việt Nam , với 1.728 cách đọc là 1.728 bài dẫn xuất, đều là những bài thơ cổ phong.
***
Hướng tới Lễ Kỷ niệm, Công Ty Cổ phần Sách và Văn hóa Phương Nam chúng tôi cho ra mắt Bộ sách Điện tử eBOOK NGHIÊN CỨU TRUYỆN KIỀU của tác giả Phạm Đan Quế đã xuất bản trong 22 năm qua từ 1991 đến 2013, để quý vị độc giả có đầy đủ tư liệu tham khảo [1] . Bộ sách gồm 18 tác phẩm theo mấy hướng tiếp cận sau đây:
I. Truyện Kiều và nguồn gốc với 4 quyển:
1. Truyện Kiều đối chiếu
2. Truyện Kiều và Kim Vân Kiều Truyện
3. Tìm hiểu điển tích Truyện Kiều
4. Đoạn Trường Tân Thanh (Truyện Kiều lược chú) II. Văn hoá Kiều với 6 quyển:
1. Bình Kiều, vịnh Kiều, bói Kiều
2. Bói Kiều như một nét văn hóa
3. Đố Kiều, nét đẹp văn hóa
4. Tập Kiều, một thú chơi tao nhã
5. Từ lẩy Kiều, đố Kiều... đến các giai thoại về Truyện Kiều 6. Bài thơ Vịnh Kiều độc đáo
và cách làm Thơ Thuận nghịch độc.
III. Truyện Kiều và lịch sử tiếp nhận với 4 quyển: 1. Truyện Kiều và các nhà nho thế kỷ XIX
2. Truyện Kiều trên sách báo thế kỷ XX
3. Truyện Kiều đọc ngược
4. Lục bát hậu Truyện Kiều
IV. Tìm hiểu nghệ thuật Truyện Kiều với 4 quyển: 1. Về những thủ pháp nghệ thuật trong văn chương Truyện Kiều 2. Thế giới nhân vật trong Truyện Kiều
3. Truyện Kiều và những kỷ lục
4 Thế giới Nghệ thuật Truyện Kiều
Với quyển Truyện Kiều và các nhà nho thế kỷ XIX , tác giả vẫn giữ nguyên như trong lần tái bản của Nhà xuất bản Thanh Niên năm 2007, có chỉnh lý ít nhiều cho chính xác, nhằm giúp quý vị có một cái nhìn đầy đủ hơn về sự ưu ái dành cho kiệt tác của các tác giả đồng thời với Nguyễn Du, cũng như những khía cạnh văn hóa đa dạng đã có từ gần hai trăm năm nay.
Cùng với hai quyển sách mới in vừa qua, những tác phẩm của ông Phạm Đan Quế đã nghiên cứu Truyện Kiều một cách khá toàn diện và hết sức công phu, qua bao năm tháng miệt mài bên kiệt tác vô song của Đại thi hào mà nhân dân ta hằng yêu quý, Công Ty Cổ phần Sách và Văn hóa Phương Nam chúng tôi xin được trân trọng giới thiệu cùng quý vị độc giả gần xa, mong được đóng góp một phần vào dịp Lễ kỷ niệm long trọng này.
CÔNG TY CỔ PHẦN SÁCH VÀ VĂN HÓA
PHƯƠNG NAM
[1] Vì mỗi quyển là một đề tài riêng biệt, được viết ra tại từng thời điểm, nên nhiều khi có những chỗ trùng lặp, dù đã lược bớt một số đoạn, tác giả về cơ bản vẫn giữ nguyên đầy đủ nội dung từng quyển sách như trong ấn bản lần đầu, vì không phải ai cũng có đủ cả bộ sách, mong quý vị độc giả thể tình và thông cảm cho.
CÙNG BẠN ĐỌC
Trong bầu trời văn học Việt Nam, Nguyễn Du không chỉ là một vì sao sáng mà thực sự là ngôi sao sáng nhất, mặt trời của nền thi ca Việt Nam với Truyện Kiều bất hủ. Ngay từ khi ra đời, Truyện Kiều đã được mọi tầng lớp nhân dân ta say mê, yêu thích, yêu thích đến độ gửi vào đấy cả niềm tin, niềm tin về tình yêu và cuộc sống. Nhiều tập phê bình, bình luận văn học về Nguyễn Du trước đây chỉ mới giới thiệu được những nhận định, đánh giá gần đây về Truyện Kiều. Thực ra ngay từ thế kỷ 19, các nhà văn, nhà thơ đã có những đóng góp rất quan trọng trong việc bình luận Truyện Kiều.
Về văn chương, ngôn ngữ, các vị đã say mê, khâm phục Nguyễn Du và đưa ra những đánh giá sâu sắc, hóm hỉnh và khá táo bạo.
Mộng Liên Đường chủ nhân thì viết “... Lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi đau đớn như đứt ruột...” hoặc “... Nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì tài nào có cái bút lực ấy. ..”.
Đặc biệt, Vũ Trinh đưa ra rất nhiều nhận xét tới từng chữ, từng câu trong truyện và để lại những lời phẩm bình sâu sắc, độc đáo làm chúng ta ngày nay đọc lại có thể sửng sốt và càng thấy rõ được văn tài của Nguyễn Du. Chỉ với hai câu nói về Hoạn Thư :
Ở ăn thì nết cũng hay
Nói điều ràng buộc thì tay cũng già.
Vũ Trinh đã phê : “ Thật đúng là một vị mệnh phụ đảm đương việc nhà. Ta với nàng sinh không cùng một thời, ở không cùng một chỗ mà nay đọc đến hai câu này như cảm thấy không rét mà run. ..”
Còn các nhà bình luận khác lại đặt trọng tâm vào bình luận nhân vật Thuý Kiều hoặc là đứng trên quan điểm đạo đức phong kiến hoặc là đứng trên quan điểm nhân sinh xã hội. Hầu hết các nhà nho thời ấy đều say sưa ca ngợi Thuý Kiều. Riêng Nguyễn Công Trứ lại lên án nàng khá gay gắt, cho rằng nàng chẳng có hiếu hạnh, tiết nghĩa gì :
“... Bán mình trong bấy nhiêu năm
Đố đem chữ "hiếu" mà lầm được ai. ..”
Chu Mạnh Trinh thì lại biện hộ cho Kiều trước những lời cáo buộc, say mê nàng Kiều như một trang giai nhân bằng xương bằng thịt:
“... Đã toan đúc sẵn nhà vàng, chờ người quốc sắc
Lại muốn mượn chùm phương thảo hú vía thuyền quyên.. .”
Không chỉ có bình Kiều, các cụ ta ngày xưa đã từng say sưa vịnh Kiều, tập Kiều... rồi đến bói Kiều, một việc làm có từ thế kỷ 19 như Đình Nguyên Đào Nguyên Phổ đã cho biết.
Với cái nhìn văn chương là để giúp đời, các nhà nho xưa không thừa nhận một thứ văn chương không có ích gì cho nhân tâm thế đạo, họ quan niệm văn dĩ tải đạo (văn để chở đạo), thi ngôn chí (thơ để nói chí), chính quan niệm ấy đã chỉ đạo cách nhìn nhận cũng như cách thưởng thức đánh giá của họ. Một trong hai người nổi tiếng đầu thế kỷ 19 (thần Siêu thánh Quát) cho rằng có hai loại văn chương: có loại đáng thờ, có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. Lê Quý Đôn còn khẳng định cụ thể hơn: Vô luận cổ văn hay kim văn, tuy thể loại và câu văn có khác nhau nhưng đại để đều phải có nội dung là đạo. Có nội dung ấy thì văn chương phát đạt, không thì hỗn loạn. Phải viết có nội dung thì văn chương thịnh, không như thế thì suy.
Nguyễn Văn Siêu nói về đạo và cho rằng: Văn và đạo tuy có tên khác nhau nhưng nội dung của nó thì bắt nguồn từ đạo, bởi đạo không phải do sự gò ép đưa đến từ bên ngoài mà đó là cái mà tâm ta sẵn có. Đạo rất rộng, ví như nước của biển khơi, tuy gò đảo chắn ở phía trước nhưng dòng không rối loạn. Ao vị rất xa nhưng mạch thường thông. Đạo là tâm hồn, là lương tri, tình cảm của người viết, đồng thời đạo cũng phản ánh đạo đời, nhân tâm thế đạo. Phan Huy Chú cho rằng: Cái hay trong tâm Phật ngụ vào trong văn chương sách vở. Cho nên xem đến tư văn xem thì biết được đạo đời.
Quan niệm văn học là nhân học, người xưa khi thưởng thức phê bình không bao giờ tách người viết ra khỏi tác phẩm. Họ thường tìm tâm sự, chí hướng, khí phách của tác giả trong tác phẩm mà khen chê. Có khi chỉ một chữ một câu cũng đủ gây thiện cảm hay ác cảm đối với
người đọc vì người xưa yêu cầu rất cao ở người làm thơ viết văn. Nhà văn nhà thơ phải có đủ cả học vấn và phẩm cách nên Lê Quý Đôn nói: Bản chất của văn chương vốn từ học vấn mà ra, học vấn uyên bác thì văn viết mới hay. Nhữ Bá Sĩ cũng khẳng định: Nói chung đức hạnh, học thức là cái gốc của văn chương.
Khuynh hướng phê bình xưa không những không tách người viết ra khỏi tác phẩm mà cũng không tách tác phẩm văn chương ra ngoài cuộc sống hiện tại vì văn chương là cái hiện trạng của một thời đã làm nên nó. Tuy nhiên văn chương vẫn phải chú trọng đến sự ngăn chặn đều xấu, bảo tồn đều hay, không tách ra khỏi chính sự đương thời. Các cụ thường phê phán lối văn chương khoa cử đương thời, xa rời cuộc sống, mắc bệnh học vấn (đua nhau theo đòi cái ngọn từ chương, tỉa tót chạm trổ hết sức xa hoa, cỏ biếc trăng non thực là tinh xảo. Nhưng tìm nó xem có điều gì quan hệ tới quốc kế dân sinh thì tuyệt nhiên vắng bóng).
Người xưa vừa chú trọng đến nội dung của văn học vừa xem trọng sức hấp dẫn nghệ thuật nên Lê Quý Đôn đã nhắc đến một ý của Chu Hy đời tống: Lời không văn vẻ thì không đi được xa.
Sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu một cách tương đối toàn diện, hệ thống các bài bình Kiều, vịnh Kiều cùng những tiếp nhận của người xưa về Truyện Kiều đã có từ thế kỷ trước để có một cái nhìn tổng quát chính là mục đích của cuốn sách này. Sách được biên soạn và ra mắt lần đầu năm 1994 (Nhà xuất bản Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và do Nhà xuất bản Văn học tái bản năm 2000. Năm 2003, khi Nhà xuất bản Thanh niên tái bản lần thứ hai, chúng tôi đã bổ sung thêm phần Bói Kiều và Tập Kiều đã có từ thế kỷ 19 và giới thiệu tương đối đầy đủ các tác giả, với nhiều bản dịch khác nhau, có bổ sung thêm một số tư liệu mới cùng cố gắng sắp xếp các tác giả một cách hợp lý theo trình tự thời gian. Phần phiên âm nhất là nguyên văn chữ Hán nhiều bài đành để lại cùng những bài của các tác giả khuyết danh ở thế kỷ này.
Trong lần tái bản này, cuốn sách được chia làm 4 phần :
1. BÌNH KIỀU.
2. VỊNH KIỀU (Các bài vịnh bằng chữ Hán và chữ Nôm).
3. TUỒNG KIM VÂN KIỀU
VÀ MỘT SỐ TƯ LIỆU KHÁC.
4. ĐÀO HOA MỘNG KÝ
Thực ra, với các nhà nho thế kỷ 19, còn hai phần nữa là bói Kiều và tập Kiều đã được chúng tôi nghiên cứu trong hai quyển sách riêng với nhan đề :
1. Bói Kiều như một nét văn hóa
2. Tập Kiều - một thú chơi tao nhã
Do vậy, so với bản in lần thứ ba của quyển này, chúng tôi lược đi phần Bói Kiều và Tập Kiều. Dù chúng tôi đã cố gắng nhiều trong việc biên soạn, nhưng chắc chắn sách không tránh được những thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quí vị độc giả.
Ngày 8 tháng 11 năm 2013
PHẠM ĐAN QUẾ
PHẦN THỨ NHẤT BÌNH KIỀU
1. VŨ TRINH (1759 – 1828) [1]
NGUYỄN LƯỢNG (1768 – 1817) [2]
Vũ Trinh và Nguyễn Lượng là anh rể và em trai của Nguyễn Du, những tác giả sống cùng thời với Nguyễn Du. Hai ông rất phục tài văn chương của Nguyễn Du và để lại những lời phẩm bình sâu sắc và độc đáo đối với văn chương Truyện Kiều. Đọc những lời bình của Vũ Trinh, chúng ta càng thấy được giá trị văn tài của Nguyễn Du cũng như nỗi lao tâm khổ tứ của tác giả Truyện Kiều. Chúng ta cũng thấy được Vũ Trinh đã cảm thông sâu xa và trực tiếp với Nguyễn Du cũng như gián tiếp với Thuý Kiều qua lời bình cuốn Đoạn Trường Tân Thanh.
Vũ Trinh tự là Duy Chu, hiệu Lai Sơn, biệt hiệu Lan Trì Ngư Giả là người huyện Lang Tài, tỉnh Bắc Ninh. Năm 17 tuổi đậu hương cống đời Lê. Năm 1789 khi Lê Chiêu Thống chạy sang Tàu, ông không theo kịp đã về làng ở ẩn. Năm 1802, Gia Long lên ngôi, ông bị triệu ra làm Thị Trung học sĩ. Năm 1807, ông được cử đi sứ Trung Hoa (trước khi Nguyễn Du đi sứ 6 năm), lúc về cùng soạn luật và khá thân thiết với Nguyễn Văn Thành. Năm Bính Tý (1816), cha con Nguyễn Văn Thành bị tội, ông cũng bị đày vào Quảng Nam. Đến đời Minh Mệnh, năm 1828, ông mới được tha về và mất ngay năm ấy. Tác phẩm của Vũ Trinh để lại có : Lan Trì, Kiến văn lục, Cung oán thi tập, Sử Yên thi tập...
Nguyễn Lượng là em khác mẹ với Nguyễn Du – con thứ chín của Nguyễn Nghiễm. Ông từng làm tri phủ Thiên Trường, hiệu là Châu Sơn Tiều Lữ. Theo Kiều Oánh Mậu, Nguyễn Lượng cũng có hiệu là Châu Giang, sống cùng thời với Vũ Trinh.
Trong Mười điều lệ ngôn cuốn Đoạn Trường Tân Thanh, Kiều Oánh Mậu có viết : "Những lời phê bình của Vũ tiên sinh và Nguyễn tiên sinh, tôi chỉ trích lấy những câu hay, nhân ghi kèm theo tên người bình để nêu rõ con mắt nhận xét sáng suốt của mỗi người... "
Những lời bình mà chúng tôi trích giới thiệu sau đây chủ yếu dựa theo bản Kiều chữ Nôm chép tay của cụ Ưng Gia tặng Viện Khảo cổ Sàigòn (số thư mục VNT4) do Bửu Cầm và Tạ Quang Phát dịch. [3] . Trong bản Kiều này có lời mặc bình (lời phê bình mực đen) của Vũ Trinh và lời chu bình (lời phê bình bằng mực đỏ) của Nguyễn Lượng. Lời mặc bình nhiều hơn và hay hơn lời chu bình. Vì vậy những lời bình trích sau đây đa số là của Vũ Trinh, lời bình
nào của Nguyễn Lượng thì chúng tôi đều có ghi rõ.
Trang đầu Lời phê của Vũ Trinh và Nguyễn Lượng, bản chữ Nôm chép tay của cụ Ưng Gia tặng Viện Khảo Cổ Sài Gòn.
LỜI BÌNH của VŨ TRINH – NGUYỄN LƯỢNG
1. 0001. Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
0003. Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
0005. Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
* Mạo đầu sổ ngữ cảm khái hệ chi... Khai quyển sổ cú tận chi: Ở đây mấy lời mở đầu quyển truyện niềm cảm khái đã vang theo... Mấy câu đầu đã nói trọn cốt truyện. [4]
2. 0031. Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
* Hồ Cầm thị Thuý Kiều : Đàn hồ cầm chính là bản thân Thuý Kiều vậy. 3. 0065. Kiếp hồng nhan có mong manh,
Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương.
* Tự sự xứ hoàn đái bi thảm cánh giác hữu tình tứ : Ở chỗ kể chuyện lại vang theo lời than thở bi ưu khiến càng có tình ý thú vị.
4. 0107. Rằng : "Hồng nhan tự thuở xưa,
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu.
0109. Nỗi niềm tưởng đến mà đau,
Thấy người nằm đó biết sau thế nào?"
* Thuý Kiều nhất ngôn dẫn xuất, đa tình giả bất năng tự nhĩ khô mộc : Một lời của Thuý Kiều nói ra gợi cho người đa tình không thể như cây khô vậy.
5. 0115. Kiều rằng : "Những đấng tài hoa,
Thác là thể phách, còn là tinh anh..."
* Nhi nữ hà tri não tiết tạo vật chí bi: Con gái biết gì mà tiết lậu bí mật của tạo hóa. 6. 0187. Thoắt đâu thấy một tiểu kiều,
Có chiều phong vận, có chiều thanh tân.
* Hữu thử nghiệt căn hữu thử ảo mộng, phi thị Đạm Tiên lai tầm Thuý Kiều, tự Thuý Kiều tâm thượng vô nhất khắc bất hữu Đạm Tiên tại: Có nghiệt căn ấy thì có giấc mộng ảo ấy. Chẳng phải Đạm Tiên tìm đến Thuý Kiều mà chính tự trong lòng Thuý Kiều không có giây khắc nào không có Đạm Tiên.
7 . 0481. Trong như tiếng hạc bay qua,
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời.
Chẳng nói là về sau còn có lối văn kỳ diệu của mấy chương nghe đàn này, thật là cái tài đáng kính, cái khéo thật tuyệt.
8. 0601. Duyên hội ngộ, đức cù lao,
Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn.
Có một đoạn kể những suy tính liệu lường này mới thấy Thuý Kiều bỏ mình chuộc cha không phải dễ dàng (Suy nghĩ đã kỹ càng).
9. 0625. Hỏi tên, rằng: Mã Giám sinh,
Hỏi quê, rằng : Huyện Lâm Thanh cũng gần.
Chữ "gần" lại kỳ diệu, có một lối ngầm mà người bây giờ chỉ đọc sơ qua khiến cái khổ tâm vô hạn của tác giả phải vùi mất.
10. 0677. Thà rằng liều một thân con,
Hoa dù rã cánh lá còn xanh cây.
0069. Phận sao đành vậy cũng vầy,
Cầm như chẳng đậu những ngày còn xanh.
Tình ý rốt ráo, bút pháp rốt ráo, không biết tác giả lúc hạ bút viết đến đây có bỏ sách mà gào khóc lên một tiếng chăng ?
11. 0695. Một mình nàng, ngọn đèn khuya,
Áo đầm giọt lệ, tóc se mái sầu :
0697. "Phận dầu dầu vậy cũng dầu,
Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời.
0699. Công trình kể biết mấy mươi,
Vì ta khăng khít cho người dở dang.
0701. Thề hoa chưa ráo chén vàng,
Lỗi thề thôi đã phũ phàng với hoa!..."
* Việc đại hiếu đã xong đến đây mới nhớ đến tình, tác giả miêu tả tâm chí của liệt nữ rất có đầu mối. Nếu luận về văn tự, mấy lời ấy đều là lệ máu rưới thành, tiếng khóc và nước mắt cùng ra một lượt (Nhược luận văn tự, sổ ngữ giai xích lệ sái thành, thanh lệ câu xuất).
12. 0713. Thuý Vân chợt tỉnh giấc xuân,
Dưới đèn ghé lại ân cần hỏi han.
Nguyễn Lượng phê : Phụ tù tỉ mại, chỉ quản hôn thụy, Thuý Vân nhị kiến, thân phận tự biệt: Cha bị tù, chị phải bán mình mà cứ việc ngủ say. Đến đây, Thuý Vân hai lần xuất hiện mà xem ra thân phận cô ta khác với Thuý Kiều.
Vũ Trinh phê: Thuý Vân tam kiến câu tự nhất khối ngoan thạch. Đoạn Trường hội thượng na đắc hữu thủ xuẩn hóa? Đạm Tiên kỳ nại tha hà! Chỉ hợp tùy phú quý tố mệnh phụ nhĩ: Thuý Vân xuất hiện ba lần mà lần nào cũng trơ như hòn đá. Trong hội Đoạn Trường sao có của ngu xuẩn như vậy ? Cô Đạm Tiên còn làm gì được nàng nữa! Nàng chỉ đáng cho theo thói giàu sang mà làm bà quan là phải.
13. 0739. Mất người con chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
0741. Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy so tơ phím này.
0743. Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
* Quang cảnh này tôi không biết Thuý Kiều làm sao nói ra được, lại không biết tác giả làm sao tả ra được bốn câu thành một hơi liên tục (Hựu bất tri tác giả như hà tả đắc xuất tứ cú tác nhất khí tục).
14. 0755. "Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi, thiếp đã phụ chàng từ đây!"
* Thử thanh lệ câu tận thời ngữ giã : Đây là lời nói sau khi tiếng khóc và nước mắt đã dứt cạn rồi.
15. 0787. Ngập ngừng thẹn lục e hồng,
Nghĩ lòng lại xót xa lòng đòi phen.
0789. Phẩm tiên rơi đến tay hèn,
Hoài công nắng giữ mưa gìn với ai.
0791. Biết thân đến bước lạc loài,
Nhị đào thà bẻ cho người tình chung.
* Đây là lời ảo não của Thuý Kiều lúc tình ý đã rốt ráo, vậy lời nói lúc này chẳng làm sao được vậy. Giả sử Kim Trọng đến vào lúc ấy, Thuý Kiều có tiếc việc thất thân với chàng không ? – Rằng không! (Nhược Kim Trọng dĩ thử thời chí, Thuý Kiều tích thất thân hồ? – Viết phủ!)
16. 0795. Trùng phùng dầu họa có khi,
Thân này thôi có còn gì mà mong.
Vũ Trinh phê :
Nhất thất cước thành thiên cổ hận,
Tái hồi đầu thị bách niên thân.
Linh nhân thống tuyệt :
Một bước xẩy chân thành hờn vạn cổ
Quay đầu ngoảnh lại kể đã trăm năm
Khiến người đau đớn vô cùng.
17. 0857. Giận duyên tủi phận bời bời,
Cầm dao nàng đã tính bài quyên sinh.
* Thuý Kiều tuy thân dĩ thất, nhi nhất điểm trinh tâm vị thương hoặc thất, dương ư thử đẳng xứ kiến chi : Thuý Kiều tuy đã thất thân nhưng một tấm lòng trinh ngờ rằng chưa từng mất, có thể thấy như thế ở những đoạn này.
18. 0993. Nào hay chưa hết trần duyên,
Trong mê dường dã đứng bên một nàng.
* Xứ xứ Đạm Tiên, xứ xứ oan nghiệt : Chỗ nào có Đạm Tiên là chỗ ấy có oan nghiệt. 19. 1033. Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
1035. Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.
* Đoạn này đọc lên thì cảm thấy nỗi sầu biệt ly dâng nên vạn hộc (ly sầu vạn hộc) lòng oán hận kết thành ngàn mối có thể sánh với hơn mười bài thơ Đường (khả để Đường thi thập du thủ).
20. 1039. Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
* Đây đương lúc mới vào thanh lâu, mối tình đầu rất tha thiết, cho nên khi nhớ tưởng,
Thuý Kiều liền khẩn thiết nghĩ đến người tình chung rồi sau mới nghĩ đến việc khác. Đây là lẽ tự nhiên của tình ý con người và cũng là chỗ bất định của tác giả. Hãy xem từ đây về sau, những điều nàng kể thì ắt thấy hiếu trung trước rồi tình tứ sau. Về sau những nhớ tưởng của Thuý Kiều đều hiếu trước tình sau, chỉ có chỗ này việc thề ước mới được nhớ tưởng trước là nỗi suy nghĩ kỹ càng của tác giả (Dĩ hậu Thuý Kiều khởi niềm giai tiên hiếu hậu tình, duy xứ thủ cập minh ước, thị tác giả chi tế tâm xứ).
21. 1147. Thân lươn bao quản lấm đầu,
Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa.
* Nguyễn Lượng phê : Trinh bạch hữu thời nhi hối giã, trào hước chi cực: Đến sự trinh bạch mà có khi còn phải hối, (thì trò đời) chơi đùa nhạo cợt thực là quá lắm.
22. 1219. Những nghe nói đã thẹn thùng,
Nước đời lắm nỗi lạ lùng khắt khe.
* Giai nhân đọa lạc phủ thủ tự sầu, thiên cổ hạ như Thuý Kiều năng hữu kỷ nhân: Giai nhân trụy lạc cúi đầu mà buồn khổ lấy một mình thì từ ngàn xưa về sau được như Thuý Kiều đã có mấy ai.
23. 1239. Mặc người mưa Sở mây Tần,
Những mình mình có biết xuân là gì.
* Nhất trinh tự như : Một lòng trinh tự nhiên (Tuy thất thân nhưng lòng Thuý Kiều vẫn trinh bạch tự nhiên).
24. 1253. Nhớ ơn chín chữ cao sâu,
Một ngày một ngả bóng dâu tà tà.
* Một niềm hiếu nghĩa của Thuý Kiều nhớ cha mẹ ở mọi nơi đều không quên bỏ, thật là đáng thương, đáng kính.
25. 1483. Trộm nghe kẻ lớn trong nhà,
Ở vào khuôn phép, nói ra mối giường.
* Thuý Kiều thụy giác : Thuý Kiều đã tỉnh lại không còn hôn mê nữa.
26. 1515. Thương nhau xin nhớ lời nhau,
Năm chầy cũng chẳng đi đâu mà chầy.
1517. Chén đưa nhớ bữa hôm nay,
Chén mừng xin đợi ngày rày năm sau.
* Mấy chén rượu biệt ly, mấy câu tình biệt ly đều là những giọt lệ biệt ly nhuộm thành. Những khúc ruột biệt ly tả nên một thiên phú biệt ly, một bức họa biệt ly không thể nào chia ra mà xét được.
27. 1525. Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường.
* Khả để nhất thiên biệt phú: Ngang giá với một thiên phú biệt ly.
28. 1533. Ở ăn thì nết cũng hay,
Nói điều ràng buộc thì tay cũng già.
Vũ Trinh phê: Chân chính nhất vị đương gia mệnh phụ. Ngã dữ quân, sinh bất đồng thời, cư bất đồng địa, chí kim độc chi, do giác bất hàn nhi lật: Thật đúng là một vị mệnh phụ đảm đương việc nhà. Ta với nàng sinh không cùng thời, ở không cùng chỗ mà nay đọc đến hai câu này như cảm thấy không rét mà run.
29. 1537. Lửa tâm càng dập càng nồng,
Trách người đen bạc ra lòng trăng hoa.
1539. Ví bằng thú thật cùng ta,
Có dong kẻ dưới mới là lượng trên.
* So sánh lời phân tỏ rõ ràng của Thuý Kiều với điều nghĩ của Hoạn Thư thì thấy sở kiến của hai người giống nhau. Giả sử Thúc Sinh khéo phân xử điều đình thì Thuý Kiều và Hoạn Thư hai người ắt sẽ là đôi tri kỷ trong khuê phòng. Tiếc thay lại không được như thế.
30. 1615. Dọn thuyền lựa mặt gia nhân,
Hãy đem dây xích buộc chân nàng về.
1617. Làm cho, cho mệt, cho mê,
Làm cho đau đớn ê chề cho coi.
* Đấy là lòng nghĩ ngợi kỹ càng và lớn gan của bậc anh hùng, đáng sợ và cũng đáng yêu. Giả sử Hoạn Thư làm Hồ Tổng đốc thì ắt không có lối quỷ quyệt giả dụ hàng rồi đánh úp, giả sử Hoạn Thư làm Từ Minh Sơn (Từ Hải) thì ắt không có việc tin dễ dàng, đề phòng sơ hở và tính toán sai lầm. Đồng thời hai bậc ấy làm sao khỏi bị Hoạn Thư chê cười.
31. 1797. Tìm đâu cho thấy cố nhân,
Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương.
* Khả kiến Thúc chi chung tình bất như Kim chi hậu : Có thể thấy lòng chung tình của Thúc sinh không bằng lòng trung hậu của Kim Trọng.
32. 1971. Liệu mà xa chạy cao bay,
Ái ân ta có ngần này mà thôi .
* Rất hay là chỗ kể Thúc Sinh tỏ tình với ni cô Trạc Tuyền hoàn toàn không có một điều gì là ngôn ngữ của bậc trượng phu (Tối diệu thị tư Thúc Sinh tố tình xứ toàn vô nhất điểm trượng phu ngôn ngữ).
33. 2247. Cánh hồng bay bổng tuyệt vời,
Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm.
* Vũ Trinh phê : Tả biệt xứ, tả tư xứ, phàm tam ngũ xứ, các biệt nhất dạng toàn vô nhất bút giá điệp. Chân thị văn chương vô tận tàng cao thủ. Chỗ tả biệt ly, chỗ tả thương nhớ,
phàm có năm ba chỗ mà mỗi chỗ một cách, không có chỗ nào trùng lặp giống nhau. Thật là một bậc cao thủ vô hạn trong văn chương.
34. 2371. Trót lòng gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng!
* Vũ Trinh phê : Cú cú lý trực : (Hoạn Thư nói) câu nào, câu nấy lý lẽ đều chính trực cả. 35. 2389. Máu rơi thịt nát tan tành,
Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời.
* Nguyễn Lượng phê : Không giết Hoạn Thư mà giết mẹ Hoạn Thư để thỏa lòng căm tức, thế chẳng là nhẫn tâm lắm ru! Tác giả vì thế mà giấu cái sự thật ấy đi chăng? (Tác giả cố ẩn kỳ sự dư ?). Riêng ta, ta bảo Thúc Kỳ Tâm (Thúc sinh) chính đáng giết, còn Mã Giám sinh thật không đáng giết chút nào (Mã Giám sinh tối bất khả sát). Xin các người có thâm tình trong thiên hạ, thử nghĩ mà xem. Có người nói : Vì chàng Kim mà giết họ Mã cũng phải. Nhưng thế thì đối với ông Viên ngoại ra sao ? Cho nên đem Kiều mà liệt vào truyện hiệp kỹ thì cũng có lý vậy. Đây là một việc ở giữa trời đất, không nên thiếu mà cũng là một việc không nên đều như thế cả, nếu trên mặt đất này, khắp đâu cũng đều như vậy thì những sự than thở kể sao cho xiết.
(Thử thiên địa gian bất khả thiếu chi sự, diệc bất tu tận đắc chi sự, biến địa giai thị, hà khả thắng thán).
36. 2569. Một cung gió thảm mưa sầu,
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay.
* Nguyễn Lượng phê: Chỉ thử nhất cú vô hạn thương cảm, tưởng đương nhật Thuý Kiều ngũ chỉ thượng huyết thanh đô tùng tác giả nhất chi bút đầu tâm huyết trung xuất lai : Chỉ một câu thơ này mà lòng thương cảm vô hạn, tưởng như ngày ấy những tiếng đàn đẫm máu trên năm đầu ngón tay của Thuý Kiều đều do từ tâm huyết của tác giả mà trào ra đầu ngọn bút.
37. 2587. Rộng thương một mảnh hồng quần,
Hơi tàn được thấy gốc phần là may.
* Thử Thuý Kiều sở dĩ bất tử Từ Hải giả dã:
Đấy là lý do khiến Thuý Kiều không chết theo Từ Hải (Lúc nào cũng nhớ cha mẹ mà không chết được).
38. 3013. Tưởng bây giờ là bao giờ,
Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao!
* Nguyễn Lượng phê : Chân cá tương đối như mộng mị : Thật như đứng trước một cảnh chiêm bao!
39. 3075. Quả mai ba bảy đương vừa,
Đào non sớm liệu so tơ kịp thì!
* Thuý Vân thử gian ngôn ngữ, thùy giáo tha lai : Hồi bấy giờ những lời nói này của Thuý Vân, không biết ai đã dạy cho chị ta nói vậy.
40. 3115. Xưa nay trong đạo đàn bà,
Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường
3117. Có khi biến có khi thường,
Có quyền nào phải một đường chấp kinh.
* Kim Trọng giải rõ chữ trinh ra, chàng thật là tri kỷ của Thuý Kiều. Này, song trinh cả tâm hồn lẫn thể xác mới thật đáng quí chuộng vậy. Nhưng trong đời có kẻ tâm trinh mà thể lại không trinh, cũng có kẻ thể trinh mà tâm không trinh, thì người người làm sao biết được (Thế hữu tâm trinh nhi tích bất trinh, diệc hữu tích trinh nhi tâm bất trinh, ô đắc nhân nhân nhi tri chi).
41. 3917. Phím đàn dìu dặt tay tiên,
Khói trầm cao thấp tiếng huyền gần xa.
* Tả Kiều sở đàn phàm ngũ xứ, nhất xứ hữu nhất xứ tình cảnh, nan đắc nan đắc : Trong truyện này, tác giả tả Thuý Kiều đánh đàn có năm chỗ (mở đầu bằng đánh đàn thì cũng kết thúc bằng đánh đàn), mỗi chỗ có một tình thái riêng, thật khó được thế, thật khó được thế!
42. 3199. Khúc đâu đầm ấm dương hòa,
Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh.
3201. Khúc đâu êm ái xuân tình,
Ấy hồn Thục đế hay mình đỗ quyên.
3203. Trong sao châu nhỏ duềnh quyên,
Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông.
* Đoạn này lấy ý bài thơ Cẩm Sắt của Lý Thương Ẩn làm thanh điệu tiếng đàn của Thuý Kiều cũng khác tục.
Bài thơ Cẩm Sắt của Lý Thương Ẩn :
Cẩm sắt vô đoan ngũ thập huyền
Nhất huyền nhất trục tứ hoa niên
Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp
Thục đế xuân tâm thác đỗ quyên
Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ
Lam Điền nhật noãn ngọc sinh yên
Thử tình khả đãi thành trung ức
Chỉ thị đương thời dĩ võng niên.
DỊCH THƠ :
Đàn gấm năm mươi chẵn sợi mành
Mỗi dây một trục nhớ ngày xanh
Mơ màng bướm lẫn Trang sinh mộng
Ảo não quyên kêu Thục đế tình
Thương hải lệ châu trăng chiếu suốt
Lam Điền hơi ngọc khói hun thành
Tình nàng đợi nhớ trong mai hậu
Chán nản giờ đây khổ nỗi mình.
2. TIÊN PHONG
MỘNG LIÊN ĐƯỜNG CHỦ NHÂN
BÀI TỰA TRUYỆN KIỀU (1820)
"Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân" tên thực là Nguyễn Đăng Tuyển. Ông từng đỗ Tú Tài được bổ làm giám sinh ở Quốc Tử Giám. Năm Minh Mệnh thứ 17(1836) được bổ làm tri huyện Vị Xuyên (Tuyên Quang) sau chuyên về Kinh làm chủ sự ở Bộ Hộ rồi được thăng Thừa Chỉ, Thị Độc. Ông là người "vì văn học mà được Vua biết đến" thường được Vua Tự Đức cho ngồi bên cạnh dự các kỳ thi do Vua chủ trì, ông đã soạn các quyển"Đào hoa mộng ký", "Nam thị quốc phong", dâng Vua xem, được tán thưởng, chuyển làm trước tác rồi được sung chức Biên Tu Quốc Sử Quán. Năm 1856, ông được bổ Tri Phủ Thuận Thành (Bắc Ninh) rồi xin hưu trí. Tuy đã về hưu,ông vẫn được Vua cho người về thăm hỏi, lại sai làm Vịnh sử ca.Vào dịp Vua 50 tuổi(ngũ tuần đại khánh), ông dâng thơ tụng, được ban thưởng, vài năm sau thì mất, thọ 86 tuổi.
Nguyễn Đăng Tuyển, một cây bút tài hoa, được lưu danh cùng Tố Như tử với tên hiệu "Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân" trong Bài tựa sau đây cùng với Bài tựa của Phong Tuyết chủ nhân Thập Thanh Thị được dịch in trong sách "Truyện Thuý Kiều" do Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu khảo, in năm 1925.
Cả hai bài tựa trên đều được các cụ Bùi Kỷ - Trần Trọng Kim dịch ra và cho in trong bản Truyện Thuý Kiều (1925). Rất tiếc là các cụ không nói gì thêm về hai nhà bình luận này.
Nay đọc lại lời bình sâu sắc của ông, ta mới thấy các nhà văn xưa biết khen chê hết lòng không vì một lý do gì khác ngoài tấm lòng ngưỡng mộ thi hào Nguyễn Du.
Hai trang này là văn bản chữ Hán, tiếp theo là phần phiên âm và bản dịch của Bùi Kỷ - Trần Trọng Kim năm 1925.
PHIÊN ÂM :
Thiên địa gian, hữu tuyệt thế tài tình nhân, diệc bất năng vô khảm kha bất bình sự. Tài nhi phất hoạch tương ngộ, tình nghi phất hoạch tương ủy, thử đoạn trường chi sở do sinh dã. Cánh hữu lân tích tài tình giả, đồ kỳ sự nhi quan kỳ nhân, năng bất vi chi yết ô hồ. Hà dĩ ngôn chi, thánh nhân vong tình, hạ ngu bất cập tình, tình chi sở chung chính tại ngã bối. Cố nhân ký quả tình, định thị vô tài, đãn mục mông sinh hạt, tử ư y quan, tuý bão chi trung, nguyệt tịch hoa thần, thảo mộc cầm ngư yên tắc dĩ nhĩ. Nhược dĩ tuyệt thế tài tình chi nhân, ngọc mạo hoa nhan, cẩm tâm tú khẩu, hữu liễu nhứ ngâm thành thiêm hương liêm chi sắc. Hữu đồng thi phú tựu tranh thư án chi quang, nhất ban tài tình quán thiên thu nhi độc bộ giả, tòng hữu chân chính tài nhân, dữ chi tác hợp, hoa tiền thi vận, nguyệt hạ cầm thanh, hài bách niên mỹ mãn ân tình thành nhất đại phong lưu thoại bản đương chi giả ký vô khảm kha bất bình chi sự truyện chi giả hựu an hữu Đoạn trường Tân Thanh tai ? Duy dĩ giai kỳ dị ngộ, hảo sự đa khiên, hoàn hưởng bất thành, nhi trúc thanh không động, đào hoa y cựu nhi nhân diện dĩ phi. Tài nhi phất
hoạch tương ngộ yên, tình nhi phất hoạch tương ủy yên, dĩ tuyệt thế tài tình chi nhân nhi trị thử khảm kha bất bình chi sự, bất kỳ ư thiên chi ách nhân thái thậm hồ. Thử Đoạn Trường Tân Thanh chi sở vi tác dã. Kim Trọng Thuý Kiều phong tình lục trung bất thuyết dã, phong tình chi hữu lục cựu hỹ, Hồng Sơn Tố Như tử ngoạn kỳ lục, kỳ kỳ sự lân mẫn kỳ tài chi bất ngộ, ư thị hồ dịch chi dĩ quốc âm nhan chi viết Đoạn Trường Tân Thanh . Lục tắc cựu nhi đoạn trường chi thanh tắc tân dã, Thủy chung kết khởi, đại để dĩ tạo vật đố tài nhất ngữ. Nhi cái Thuý Kiều nhất sinh, hữu thần thi tình tiêu xái, hồn phiêu tọa lý chi nhân, hữu thần cầm vận du dương não sát đăng tiền chi khách, hữu thần trâm giới lục đầu, nhi tình thâm mặc khế. Hữu thần hải tang cục hoán nhi gia vận biến di. Thanh lâu phạm khuyết, đệ vi lai vãng chi trường, thanh cảnh trần tung, bão lịch nhàn mang chi huống. Bi hoan ly hợp, thập ngũ niên gian, tự sự thông chân, trực thị văn trung hữu họa. Khán đáo mộng tỉnh đoạn trường, căn duyên vị liễu, cầm chung bạc mệnh, oán hận nan tiêu, tuy thần liêu thế viễn, mạc đổ kỳ nhân. Nhi hào đoan huyết sái, chỉ thượng lệ sinh, độc chi giả lệnh nhân tâm tuý, lệnh nhân hồn tiêu, cảm khái lâm ly hữu bất thắng kỳ trường chi dục đoạn dã. Vị chi Đoạn Trường Tân Thanh , dã diệc nghi. Dư thường ư mai song chi hạ, duyệt chi nhất thiên, thủy nhạ Tố Như tử chi dụng tâm chi khổ, tự sự chi thần, tả cảnh chi công, đàm tình chi thiết, tự phi nhãn phù lục hợp, tâm quán thiên thu vị tất hữu thử bút lực dã. Toại hân thiên vi chi tự.
Thuý Kiều chi khấp Đạm Tiên, Tố Như tử chi Truyện Thuý Kiều , tích tuy thù nhi tâm tắc nhất, hậu chi lân kim nhân, do kim nhân chi lân cổ nhân, tài tình nhị tự, thành phổ thiên hạ cổ kim tài tử chi thông lụy dã. Dư dĩ đạm mặc nhất chương bằng điếu Thuý Kiều ư thiên tải chi hạ, tuy ba nhân hạ lý bất túc dĩ ngưỡng tỷ dao thiên diệc biểu nhất chủng tài tình sầu trái, dị đại đồng tâm; hạnh đắc vĩ Tố Như tử chi Tân Thanh đồng vi đỗng khốc, cổ nhân chi nhất đoạn trường vân nhĩ.
Thời
Hoàng triều Minh Mạng vạn vạn niên chi trọng xuân thượng hoán. Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân, thư vu Hạc giang chi Thán Hoa hiên .
BẢN DỊCH CỦA BÙI KỶ – TRẦN TRỌNG KIM :
BÀI TỰA
Trong trời đất đã có người tài tình tuyệt thế tất thế nào cũng có việc khảm kha bất bình. Tài mà không được gặp gỡ, tình mà không được hả hê, đó là cái căn nguyên của hai chữ đoạn trường vậy. Thế mà lại có kẻ thương tiếc tài tình, xem thấy việc, trông thấy người, thì còn nhịn thế nào được mà không thở than rền rĩ!
Nghĩ là bậc thánh mới quên được tình, bậc ngu không hiểu tới tình, tình chung chú vào đâu, chính là chung chú vào bọn chúng ta vậy. Cho nên phàm người đã ít tình tất là không có tài, chỉ nửa lòa nửa sáng, sống chết ở trong vòng áo mũ, trong cuộc no say, dù có gặp cái cảnh thanh nhã như hoa thơm buổi sáng, trăng tỏ ban đêm, cũng chỉ trơ trơ như cây cỏ như cá chim vậy.
Còn đến bậc tuyệt thế tài tình, mặt ngọc vẻ hoa, lòng gấm miệng vóc, ngâm thơ liễu nhứ [5] , nổi tiếng đài hương; vịnh phú ngô đồng [6] , khoe tài án bút; nếu một bậc quán tuyệt thiên thu [7] , như thế, lại gặp được bậc chân chính tài nhân kết duyên, tác hợp [8] , khi thơ ngâm hoa nở, khi đàn gảy trăng lên, nguồn ái ân trọn nghĩa trăm năm, truyện phong lưu chép thành một lục, người đương vào cái cảnh ấy đã không gặp phải nỗi khảm kha bất bình, thì người truyền lại việc ấy còn phải đặt ra truyện Đoạn Trường Tân Thanh làm gì ?
Chỉ vì dịp may dễ lỡ, việc tốt thường sai; tiếng hoàn lặng ngắt, còn trơ bóng trúc lung lay; mặt ngọc vắng tênh, chỉ thấy hoa đào hớn hở. Có tài mà không gặp được tài, có tình mà không hả được tình, tài tình đã tuyệt thế, gặp toàn bước khảm kha, há không phải là con Tạo đang tay ách người quá lắm ru ? Ấy chính là truyện Đoạn Trường Tân Thanh vì đấy mà làm ra vậy.
Truyện Thuý Kiều chép ở trong Lục phong tình, ta không cần bàn làm gì. Lục phong tình cũng đã cũ rồi. Tố Như tử xem truyện, thấy việc lạ, lại thương tiếc đến những nỗi trắc trở của kẻ có tài, bèn đem dịch ra quốc âm đề là Đoạn Trường Tân Thanh , thành ra cái lục phong tình thì vẫn là cái lục cũ, mà cái tiếng đoạn trường thì lại là cái tiếng mới vậy.
Trong một tập thủy chung lấy bốn chữ "tạo vật đố tài" tóm cả một đời Thuý Kiều: khi lai láng tình thơ, người tựa án khen tài châu ngọc, khi nỉ non tiếng nguyệt, khách dưới đèn đắm khúc tiêu tao; khi duyên ưa kim cải, non bể thề bồi; khi đất nổi ba đào, cửa nhà tan tác, khi lầu xanh, khi rừng tía, cõi đi về nghĩ cũng chồn chân, khi kinh kệ, khi can qua, mùi từng trải nghĩ mà tê lưỡi. Vui, buồn, tan, hợp, mười mấy năm trời, trong cuốn văn tả ra như hệt, không khác gì một bức tranh vậy. Xem đến chỗ giấc mộng đoạn trường tỉnh dậy mà căn duyên vẫn gỡ
chưa rồi; khúc đàn Bạc mệnh gảy xong, mà oán hận vẫn còn chưa hả, thì dẫu đời xa người khuất, không được mục kích tận nơi nhưng lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột. Thế thì gọi tên là Đoạn Trường Tân Thanh cũng phải.
Ta lúc nhàn đọc hết cả một lượt, mới lấy làm lạ rằng : Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy. Bèn vui mà viết Bài Tựa này.
Thuý Kiều khóc Đạm Tiên, Tố Như tử làm Truyện Thuý Kiều, việc tuy khác nhau mà lòng thì là một, người đời sau
thương người đời nay, người đời nay thương người đời xưa, hai chữ tài tình thật là một cái thông lụy của bọn tài tử khắp trong gầm trời và suốt cả xưa nay vậy.
Ta lấy một thiên mực nhạt, xa viếng nàng Kiều, tuy lời văn quê kệch, không đủ sánh với bức dao thiên, song đủ tỏ ra rằng cái nợ sầu của hai chữ tài tình, tuy khác đời mà chung một dạ. May được nối ở đằng sau quyển Tân Thanh của Tố Như tử, cùng làm một khúc Đoạn trường để than khóc người xưa.
Tháng hai, niên hiệu Minh Mệnh,
Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân
viết ở Thán Hoa hiên đất Hạc Giang.
3. PHONG TUYẾT CHỦ NHÂN
THẬP THANH THỊ
BÀI TỰA TRUYỆN KIỀU (1828)
Cho đến nay chưa có tài liệu nào nói tới tiểu sử của Phong Tuyết chủ nhân Thập Thanh Thị. Phải chăng ông là một trong những chủ nhân đã cho xuất bản Truyện Kiều và cho đăng Bài tựa Truyện Kiều vào thời vua Minh Mệnh, năm 1828, sau bài của Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân đã giới thiệu trên đây 8 năm. Cả hai bài tựa trên đều được các cụ Bùi Kỷ -
Trần Trọng Kim dịch ra và cho in trong bản Truyện Thuý Kiều (1925). Rất tiếc là các cụ không nói gì thêm về hai nhà bình luận này.
Nay đọc lại lời bình sâu sắc của ông, ta mới thấy các nhà văn xưa biết khen chê hết lòng không vì một lý do gì khác ngoài tấm lòng ngưỡng mộ thi hào Nguyễn Du : “Kiều ngẫu nhiên mà sinh ra, mà có sắc đẹp, mà lại đa tình, cho đến khi đi Thanh minh, khi gặp Kim Trọng, khi bán mình chuộc cha, đều là ngẫu nhiên cả; cả đến lúc bị hãm ở Thanh lâu, lúc đối chất ở phủ đường, lúc đã đâm đầu xuống Tiền Đường, lúc lại đoàn viên với Kim Trọng, cũng đều là ngẫu nhiên cả. Đem bút mực tả lên trên tờ giấy nào những câu vừa lâm ly, vừa ủy mị, vừa đốn tỏa, vừa giải thư, vẽ hệt ra một người tài mệnh trong mười mấy năm trời, cũng là vì cái lịch duyệt của người ấy có lâm ly, ủy mị, đốn tỏa, giải thư, thì mới có cái văn tả hệt ra như vậy. Thế thì Thuý Kiều không cần phải có người thực mới có truyện song cũng phải có như thế mới có truyện vậy”.
Trang trước là văn bản chữ Hán, sau đây là phần phiên âm và bản dịch của Bùi Kỷ - Trần
Trọng Kim năm 1925.
PHIÊN ÂM :
Hoặc hữu vấn ư dư viết, sở vị Thuý Kiều giả cổ hữu kỳ nhân hồ, viết bất tri dã, viết nhiên tắc cát vi hữu Thuý Kiều chi truyện dã, viết man man vô thủy dĩ chí hữu thủy, tự Thái Cực nhi lưỡng nghi, nhi tứ tượng, huy nhiên biến hóa, nạc tri kỳ kinh, kỳ gian hàn thử vãng lai, âm dương đại tạ, tiêu tích doanh chi vận, hoặc bất năng giai như kỳ thường, tắc sở vị biến giả, ư thị hồ xuất hề, thị dĩ hoặc ngũ lục bách niên nhất biến, hoặc tam tứ bách niên nhất biến, hoặc ngũ lục thập niên nhất biến, biến giả hựu bất năng giai như kỳ thường, tắc phàm thân lý kỳ thời, thân lịch kỳ cảnh, xúc cảm biến sự chi đa đoan, lự phát hung trung chi khối lỗi, ư thị hồ chế chi bút mặc dĩ ký chi, hùng anh chi phổ, diễm sử chi hàm, trung thần liệt nữ chi biên, đạo sĩ ni cô chi thảo, phàm giai chế chi bút mặc dĩ ký kỳ thân chi sở lý lịch chi cảnh giới hiên nhĩ.
Thuý Kiều chi truyện, thủy chư phổ hàm biên thảo sở chế chi bút mặc giả du, ngẫu nhiên sinh, ngẫu nhiên mỹ, ngẫu nhiên nhi đa tình, ngẫu nhiên nhi Đạp Thanh, ngẫu nhiên nhi Ngưng Bích, ngẫu nhiên nhi tà dương tụ ngộ lai nhân, ngẫu nhiên nhi lưu thủy đào hoa thương vãng sự, hựu ngẫu nhiên nhi hỏa khan, nhi mộc lụy, nhi thủy ân ấp khoái kim nhĩ đoàn viên, tương bút mặc ư chỉ thưởng vãng lai lâm ly chi cú, ủy mị chi từ, đốn tỏa chi văn, giải thư chi tiết, hoạt họa thập đa niên tài mệnh đích nhân, phàm dĩ kỳ nhân chi lý lịch, kỳ thân hữu như thị chi lâm ly, như thị chi ủy mỵ, như thị chi giải thư, như thị chi đốn tỏa hiên nhĩ.
Nhược nhiên tắc Thuý Kiều bất tất hữu kỳ nhân, nhiên hậu hữu kỳ truyện, di dịch tất hữu kỳ nhân, nhiên hậu hữu kỳ truyện dã. Tử viết, tiểu tử hà mạc học vu thi, thi khả dĩ quan, khả dĩ nhĩ, khả dĩ quần, khả dĩ oán. Mạnh tử viết, thiện độc thi giả, bất dĩ văn hại từ, bất dĩ từ hại ý, dĩ ý nghinh chí thị vi đắc chi, độc Thuý Kiều giả nhi hữu đắc ư thử ngôn hiên, tắc sở vị Thuý Kiều kỳ nhân giả, đán mạc ngộ chi khả dã.
Thời
Minh Mệnh Mậu Tý niên đào nguyệt ký vọng, Phong Tuyết Chủ nhân Thập Thanh Thị, thuật vu Cẩm Đàm Trang Thứ.
****
BẢN DỊCH CỦA BÙI KỶ – TRẦN TRỌNG KIM:
Có người hỏi ta rằng : Thuý Kiều có người thực không? Ta đáp lại rằng : Không biết. Người ta lại hỏi rằng : Thế thì làm sao mà lại có truyện Thuý Kiều? Ta đáp lại rằng: Từ lúc mờ mịt chưa có gì, đến lúc có thái cực, có lưỡng nghi, có tứ tượng, rồi tự nhiên biến hóa không ai dò được manh mối tự đâu. Trong khoảng ấy có rét, có nắng, có âm, có dương, lúc sinh ra, lúc mòn đi, lúc đầy lên, lúc vơi xuống, không thể nào cứ giữ mãi được mực thường. Đã không giữ được mực thường, thì tất có cuộc biến. Vì thế hoặc năm sáu trăm năm, hoặc ba bốn trăm năm, hoặc năm sáu mươi năm, cũng phải có một lần biến. Cái biến ấy đã khác với cái thường, thì phàm ai gặp phải thời ấy, bước vào cái cảnh ấy, ngổn ngang những biến cố ở trước mắt, chồng chất những khối lỗi ở trong lòng, mới phải mượn đến bút mực để chép ra như những truyện anh hùng, truyện phong tình, truyện trung thần, liệt nữ, truyện đạo sĩ, ni cô, chẳng qua là mượn ngòi bút, tờ giấy để chép những cái cảnh ngộ lịch duyệt của bản thân mà thôi. Truyện Thuý Kiều có lẽ cũng là một thứ sách như thế cả.
Kiều ngẫu nhiên mà sinh ra, mà có sắc đẹp, mà lại đa tình, cho đến khi đi Thanh minh, khi gặp Kim Trọng, khi bán mình chuộc cha, đều là ngẫu nhiên cả; cả đến lúc bị hãm ở Thanh lâu, lúc đối chất ở phủ đường, lúc đã đâm đầu xuống Tiền Đường, lúc lại đoàn viên với Kim Trọng, cũng đều là ngẫu nhiên cả. Đem bút mực tả lên trên tờ giấy nào những câu vừa lâm ly, vừa ủy mị, vừa đốn tỏa, vừa giải thư, vẽ hệt ra một người tài mệnh trong mười mấy năm trời, cũng là vì cái lịch duyệt của người ấy có lâm ly, ủy mị, đốn tỏa, giải thư, thì mới có cái văn tả hệt ra như vậy. Thế thì Thuý Kiều không cần phải có người thực mới có truyện song cũng phải có như thế mới có truyện vậy.
Khổng Tử nói rằng : "Tiểu tử sao không học Kinh Thi, Kinh Thi có thể xem xét được biến cố, có thể hưng khởi được lòng người, có thể biết lẽ ở đời, có thể hả hê được những nông nỗi uất ức ở trong lòng". Mạnh Tử có nói rằng : "Ai khéo đọc Kinh Thi không nên nệ câu văn mà làm hại lời, không nên nệ lời mà làm hại ý, cứ lấy ý đón lấy cái chí của cổ nhân mà hiểu được, thế là được". Ai đọc Truyện Kiều mà hiểu được những lời nói ấy, thì cái người mà ta gọi là Thuý Kiều có thể sớm tối lúc nào cũng gặp được vậy.
Tháng hai năm Mậu Tý, niên hiệu Minh mệnh,
viết ở Cẩm Đàm Trang Thứ.
Phong tuyết chủ nhân Thập thanh thị
4. MINH MỆNH (1791 – 1840)
THÁNH TỔ NHÂN HOÀNG ĐẾ NGỰ CHẾ
TỔNG THUYẾT
Ông chính tên là Nguyễn Phước Đảm, sinh năm 1791, là con thứ tư của vua Gia Long. Hoàng tử Đảm được lập làm thái tử n#m 1815 đến 1820 thì làm vua, đặt quốc hiệu là Đại Nam, niên hiệu là Minh Mệnh.
Là người tinh thâm Nho học, sùng đạo Khổng Mạnh, Minh Mệnh rất quan tâm đến học hành khoa cử tuyển chọn nhân tài. Bản thân nhà vua cũng rất say mê, khuyến khích việc biên soạn sách vở, nhất là loại sách sử, địa. Ông làm thơ, soạn sách, viết rất nhiều. Nhiều người biên soạn sách mới, dâng sách cũ, đều được nhà vua ban thưởng khuyến khích. Bản thân vua có ý thức về sự tu thân, ông cũng muốn cho dân chúng trong nước giữ gìn thuần phong mỹ tục. Ông ban các điều huấn dụ để dạy dỗ dân. Trong thời gian trị vì từ năm 1820 đến 1840, nhà vua cho sửa sang pháp luật, chế độ, kỷ cương phép nước, nghiêm cấm đạo Gia Tô. Nhưng ông quá nghiêm khắc một mực theo cổ, tuyệt giao với ngoại quốc. Vua Minh Mệnh mất năm 1841, thọ 50 tuổi. Miếu hiệu là Thánh tổ Nhân hoàng đế.
Ông yêu thích văn chương và say mê Truyện Kiều. Đợt bình Kiều có quy mô lớn đầu tiên mà nhà vua đứng ra chủ trì là vào năm 1830, mở văn đàn ngâm vịnh và sai các quan ở Hàn Lâm Viện chép lại để cho đời sau. Nhà vua viết bài Tổng Thuyết bằng chữ Hán với nhan đề :
THÁNH TÔNG NHÂN HOÀNG ĐẾ
NGỰ CHẾ TỔNG THUYẾT
Đây là một bài bình Kiều quan trọng cho ta thấy cách đánh giá của nhà vua đối với cuốn truyện. Trong tập văn thơ này còn có các bài vịnh Kiều của Hà Tôn Quyền và một số bài khác nữa.
Để độc giả có tư liệu tham khảo, chúng tôi xin giới thiệu bài Tổng Thuyết này với hai bản dịch khác nhau, một của Võ Khắc Triển và Lê Thước, một của Tô Nam Nguyễn Đình Diệm.
THÁNH TỔ NHÂN HOÀNG ĐẾ
NGỰ CHẾ TỔNG THUYẾT
Nhược phù : Tài vi nhân ngộ
Tình dĩ cảnh thiên
Hợp quan thường cân quắc vu nhất nhân
Tiêu danh giáo phong lưu vu thiên cổ.
Danh truyền nhi luận bất định, thanh thảo mai oan Tâm thi nhi tắc phi, hoàng tuyền đới tiếu
Bất hữu nhất kinh đề phẩm, đỗng cổ nhân nhi tặng hậu nhân. Hà do trùng phát u quang, bổ khuyết sử nhi thành tín sử
Duy tích Minh triều nữ tử
Xuất ư Vương thị danh gia
Tước đài quang tỏ xuân phong, cầm khiêu túc oán Ô hạng liên ngâm liễu như, thi phả tân sầu
Tuy bán thế phong trần vị kết Tiêu lang chi hận Nhi thiếu niên âm luật, tảo hàm thương phụ chi bi Bất tự giải kỳ tình duyên
Tức độc cang kỳ tài tử.
Hoàng hương sạ tỉnh, Lưu hiệu thư chi xuân mộng phi hư Hồng diệp tư đề, Kim công tử chi thu ba dị huyến Trần căn vị liễu, khuê tự đa mang
Minh tài đính ư đồng tâm
Tai hốt sinh ư vô vọng
Ngộ nhân thì dị, sự dữ tâm vi
Sơn hải thiên trùng, cô phụ chiếu nhân chi nguyệt. Đình vi chỉ xích, không hoài nhiễu xá chi vân Lưu lạc yên hoa, phiêu linh bình ngạnh
Thê dã diệc lý dã, thiên dã ức nhân dã
Tuy nhiên : hữu thử tuyệt đại tài tình nhân
Thành thử tuyệt đại tài tình sự
Tây Thi dĩ tằng mộc dục, tự trình băng tuyết chi tư Vương Tường bất giả đan thanh, cánh thặng tỳ bà chi khúc Suy kiền chí ẩn, túc nghiệm sơ tâm
Tư Mã cầu hoàng, di đương lô ư Trác thị
Thôi Oanh đãi nguyệt, nghiêm náo giản ư Trương quân Gián thế pháp dĩ hoàng kim, xả thân hành hiếu Tả ly sầu ư xích chử, thính muội hoàn thân
Bạch nhận cam tâm xử nữ thủ thân chi tiết
Cẩm y hiệu thuận trượng phu vị quốc chi tâm Phàm thập ngũ niên chi hí điệp du phong, bất quan ý tưởng Tức thiên vạn lý chi cuồng phong sậu vũ, vưu kiến bình sinh Tha như :
Thụ Sở Khanh chi khi, ngộ Thúc sinh chi xuẩn Trật cước ư vu lan hội, phụ tâm ư Từ Minh Sơn Điểu hạnh khai lung, cánh hà kỳ ư trạch mộc
Ngư cầu thoát võng, khởi liệu kế phù la hồng. Tại thức giả vị chi bất bình
Giai ngộ khử hữu sơ nan liệu.
Nhược cẩu phi nhân ý, thiện cập nhân tâm
Tắc vận hội bất tề, cùng đồ đa suyễn
Bạn hổ lang ư binh nhân chi nội
Nhị ngư hà ư phong lãng chi trung
Bách chiết thiên ma, nhất sinh vạn tử
Hà dĩ yên ba giang thượng không chiêu hoàn bội chi hồn Vân Thủy Am trung, trùng mịch giới châm chi ước giả tai Thị dĩ, đương thời mặc khách, hậu đại tao nhân
Ai kỳ chí giả dĩ vi hiếu trung
Lượng kỳ tâm giả dĩ vi trinh liệt
Khiết thân bất tử, tỉ ư giảo tuyết chi Tô lang
Đào nạn phi liên, nghĩ ư xuy tiêu chi Ngũ tử
Thủy dã hầm sầu mạch lộ, nhân tình nhị diệc thị tiền oan Chung yên tiêu kiếp Tiền Đường, nghiệp chướng nhi ninh phi nghĩa khí Nại hà , ngọc nhan bất tác, trúc hãn nan bằng
Tài tử tình thư, cánh lạc ư Kim ngọc tượng chi ngoại
Giai nhân tâm sự, tẫn phó ư phong sương binh hỏa chi dư Thánh Thán bất phùng, hàn yên tán mạn
Hoa Đường dĩ viễn, phá bích tiêu điều
Sở đương mịch kỳ di biên, cáo chư đồng chí
Truyền thân tả chiếu ly tảo trích hoa
Hóa công họa công, hợp trước phủ ba chi bút
Thiên thế bách thế, liêu phân thiều bộc chi âm
Thượng dĩ hoàn luân đài kiểm điểm chi sơ tâm
Hạ dĩ bi nghệ uyển bình chướng chi giai thoại
Diệc cổ kim lai tài bình nhất vận sự nhĩ.
BÀI TỔNG THUYẾT CỦA VUA MINH MỆNH
BẢN DỊCH CỦA VÔ KHẮC TRIỂN VÀ LÊ THƯỚC
Ví bằng :
Tài làm cho người phải lầm lỗi; tình vì cảnh ngộ phải đổi dời.
Hợp mũ xiêm và khăn yếm vào một người; nêu danh giáo và phong lưu cho muôn thuở.
Danh lưu truyền mà luận không định, vùi oan dưới cỏ xanh; tâm dầu đúng mà tích lại sai, ngậm cười nơi suối thảm.
Nếu không một phen bình phẩm, khóc cổ nhân mà tặng hậu nhân; thì sao rõ được ánh sáng bổ khuyết sử mà thành tín sử.
Nhớ xưa :
Cô gái Kiều Minh, con nhà Vương Thị
Đài Đồng Tước khóa chặt gió xuân, đàn khiêu oán cũ; sớm Ô Y ngâm câu tơ liễu, thơ tả sầu riêng.
Tuy nửa kiếp phong trần, gã Tiêu Lang chưa gỡ xong mối hận; mà tuổi xanh âm điệu, người thương phụ đã nếm phải mùi sầu.
Dẫu nàng chẳng hiểu rõ tình riêng; nhưng ta cũng thương vì tài tử.
Mộng hoàng lương chợt tỉnh, giấc mơ nàng Đạm chẳng phải hư không; thơ hồng điệp riêng đề, khóe mắt chàng Kim xem chừng dễ mến.
Gốc trần duyên chưa tỏ rõ; tình khuê các đã vấn vương.
Lời thề thốt vừa kết mối đồng tâm; cơn tai biến chợt sinh khi vô cớ
Cảnh nhân thời mà đổi khác; việc với lòng thường trái nhau.
Nghìn trùng non nước, chỉ mặt trời than thở nghĩa tình lang; gang tấc đình vi, trông mây bạc băn khoăn lòng hiếu tử.
Trôi giạt yên hoa; lênh đênh bèo bọt.
Thế vậy cũng lý vậy; trời chăng hay người chăng.
Tuy nhiên :
Đã có người tài tình hơn đời; mới có cái việc tài tình hơn đời.
Tây Tử khi đã tắm gội, vẻ băng tuyết hiện lên;
Vương Tường chẳng mượn đan thanh, khúc tì bà để lại.
Xét tới tấm lòng u uẩn; mới hay tấc dạ kiên trinh
Dầu có nghe Tư Mã gảy khúc "Cầu hoàng", nhưng khác với Văn Quân bên lò nấu rượu; tuy cũng giống Thôi Oanh ngâm câu "Đãi nguyệt" mà vẫn nghiêm với Quân Thụy trong lúc trao thơ.
Vì tiền vàng phá phép công bằng, phải bán mình giữ trọn hiếu đạo; mượn giấy đỏ tả sầu ly biệt, đành cậy em chắp mối thân tình.
Dùng dao nhọn sát thân, lòng trinh nữ giữ mình tiết lớn; khuyên áo gấm qui thuận, bậc trượng phu vì nước lòng ngay.
Mười lăm năm bướm lại ong qua, không từng để ý; nghìn muôn dặm mưa dồn gió dập, vẫn giữ vững lòng.
Còn như :
Mắc Sở Khanh lừa, gặp Thúc Sinh xuẩn.
Lỡ bước trong Vu Lan Hội; phụ lòng với Từ Minh Sơn.
Chim được sổ lồng, biết chọn cây nào mà đậu; cá mong thoát lưới, nào ngờ hồng lại sa vào.
Người thức giả vì nàng than thở; gặp cảnh ngộ cũng khó liệu toan.
Nếu không tự lo liệu, khéo chuyển lòng trời; thì vận hội đổi thay, đường cùng lầm lạc. Trong binh đao làm bạn với hùm beo; giữa sóng gió làm mồi cho tôm cá. Trăm gãy nghìn mài; một sống muôn chết.
Thì sao được trên sóng khói, gọi hồn người vòng ngọc chuỗi vàng; mà trở lại am nước mây, kết ước cũ duyên kim phận cải.
Nên chi:
Khách bút nghiên hồi ấy; bạn Tao Đàn đời sau.
Thương chí nàng cho là hiếu trung; xét lòng nàng cho là trinh tiết.
Sạch mình mà không đến chết, nuốt tiết sánh với Tô Lang; tránh nạn chứ đâu phải gian, thổi tiêu ví cùng Ngũ Tử.
Lúc trước ngậm sầu ở nơi đường cái, tình duyên mà cũng bởi tiết oan; về sau tiêu ở sông Tiền Đường, nghiệp chướng phải chăng là nghĩa khí.
Biết sao đây :
Mặt ngọc không còn thấy; sử xanh khó làm bằng.
Truyện tình tài tử lại ở ngoài vàng ngọc sừng ngà; nỗi lòng giai nhân đều phó mặc gió sương binh lửa.
Thánh Thán đâu còn khói tàn man mác; Hoa Đường đã vắng, vách cũ tiêu điều [9] .
Phải nên tìm lại sách xưa; tỏ cùng đồng chí.
Truyền thần tả ảnh; họa vẻ thêu hoa.
Thợ trời, thợ người, họp ngồi bút búa rìu hoa gấm; ngàn đời ngàn thuở, phân lời bàn Bộc thượng tiêu thiều.
Trên là để vẹn được tấm lòng kiểm điểm ở Luân đài; dưới lại để góp thêm câu chuyện phẩm bình trong nghệ uyển.
Như thế cũng là một việc hay về tài tình xưa đến nay đó vậy.
Niên hiệu Minh Mệnh thứ 11,
năm Canh Thìn (1830), trung tuần tháng Tám.
Các quan thừa chỉ ở Viện Hàn Lâm vâng mạng kính chép.
BẢN DỊCH CỦA TÔ NAM NGUYỄN ĐÌNH DIỆM :
Ví phỏng :
Tài nọ xui người lầm lỡ
Tình kia vì cảnh đổi đời
Khăn yếm áo xiêm, một người khoác đủ
Phong lưu gia giáo, muôn thuở nêu cao
Danh còn mà phân vân nghị luận, nấm mồ xanh chôn chặt nỗi oan
Tâm phải mà sự tích trái lẽ, dưới suối vàng ngậm cười số phận
Ví chẳng một phen bình phẩm, khóc người xưa để tặng người nay
Thì sao tia sáng rõi ra, và sử thiếu để thành sử thực
Nhớ xưa :
Thời Minh có người con gái
Họ Vương cũng hạng danh gia
Đài Đồng Tước khóa kín gió xuân, đàn khêu khúc oán Ngõ Ô Y ngâm vần tơ liễu, thơ gợi mạch sầu
Gió bụi nửa đời, khối hận Tiêu lang chưa kết
Cung thương lầu bậc, mối sầu thương nữa sớm vương Ví thử tình duyên không sao cởi mở
Thì phần tài tử, cũng đáng xót thương
Tỉnh giấc kê vàng, tập xuân mộng của Lưu hiệu thư chẳng hão Đề thơ lá thắm, nét thu ba của Kim công tử dễ yêu Chỉ tại chưa dứt trần căn
Đã vội tính bài gia thất
Đôi chữ đồng tâm vừa mới đính ước
Tầy trời tai vạ đưa đến bỗng dưng!
Cảnh vì thời biến đổi khác xa
Sự với tâm trở nên trái ngược
Ngàn trùng non biển, trăng kia sao nỡ phũ phàng Gang tấc gia đình, mây nọ vẫn thường quanh quẩn Hoa trôi bèo dạt, xiết nỗi lênh đênh
Là thế âu cũng là lý? Tại trời hay bởi tại người ?
Tuy nhiên có trang tuyệt thế tài tình
Thì mới có truyện tài tình tuyệt đại
Tây Thi sau lần tắm gội, thì màu trắng mới phô
Vương Tường khỏi mượn phấn son, có khúc Tỳ bà để lại
Phải dò đến chỗ kín đáo, thì mới thấy được bản tâm
Nghe khúc Tư Mã cầu hoàng, lò rượu vội theo không như ả Trác Tới chốn Tây Sương đợi nguyệt, thư tình nghiêm nghị đối với chàng Trương Bôi đen luật pháp biết dùng vàng, bán mình để tròn chữ hiếu Thổ lộ tình thâm trên mảnh giấy, mượn em chắp mối tơ thừa Tính mạng liền với mũi dao, tiết tháo giữ mình của người xử nữ Triều đình khuyên ai quy thuận, tấm lòng cứu nước của kẻ trượng phu Mười lăm năm bướm lả ong lơi, đặt ngoài ý tưởng
Muôn ngàn dặm mưa sa gió táp, tỏ chí bình sinh
Lại còn những lúc :
Bị gã Sở Khanh lừa gạt
Gặp phải chàng Thúc ngây thơ
Lỡ bước trong hội Vu Lan
Phụ tâm đối với Từ Hải
Chim sổ lồng là sự may mắn, nghĩ gì đến việc chọn cây
Cá thoát lưới là sự ước mong, tưởng đâu chim hồng lại vướng
Đều là những việc không thể liệu trước
Khiến cho thức giả cũng bất bình thay
Nếu không thiện chí, hợp với lòng trời
Gặp bước đường cùng, hẳn nhiều ngang trái
Trong vòng gươm giáo, kề miệng sói lang
Giữa quãng phong ba, làm mồi tôm cá
Thực là trăm đày ngàn đọa
Khác gì vạn tử nhất sinh
Thì sau trên bến Tiền Đường, còn lễ chiêu hồn ai đó Tiếp đến trong am Vân Thủy, lại nối kim cải ước xưa? Bởi vậy làng thơ sau trước .
Khách bút nghiên thuở ấy, Bạn Tao đàn về sau
Người thương về chí, cho là trọn đạo hiếu trung
Kẻ xét về tâm, bảo là kiên trinh tiết liệt
Giữ mình trong sạch, tỉ như Tô Vũ ăn tuyết qua ngày Lánh bước tai nàn, so với Ngũ Viên thổi tiêu độ nhật Buổi trước bên đường nuốt lệ, thương tình đó cũng bởi tiền oan Hồi sau hết kiếp Tiền Đường, nghiệp chướng đây cũng là nghĩa khí Giờ sao mặt hoa đã khuất
Chỉ còn giấy mực khó tin
Tài tử tình thư, bỏ sót ngoài rương ngà ngọc ?
Giai nhân tâm sự, mặc đời binh lửa gió sương
Thánh Thán khôn tìm, khói hương lạnh lẽo
Hoa Đường xa vắng, tường vách tiêu điều
Nên phải lượm lặt những mẩu tàn biên
Để mà cống hiến các bạn đồng chí
Truyền hình vẽ bóng, thâu nhị hái hoa
Thợ vẽ thợ trời, hợp cả nét bút búa rìu hoa gấm
Muôn đời ngàn kiếp, chia rành những tiếng dâu bộc tiêu thiều
Trên khỏi phụ công kiểm điểm của khách lan đài
Dưới góp thêm phần giai thoại trong vườn văn nghệ
Thiết tưởng cũng là việc hay đối với khách tài tình kim cổ vậy.
5. NGUYỄN VĂN THẮNG (1802 – 1835)
KIM VÂN KIỀU ÁN
Trong các nhà bình Kiều đầu thế kỷ 19, đặc biệt có ông nghè Nguyễn Văn Thắng với tập KIM VÂN KIỀU ÁN viết trong khoảng thời gian 1830 – 1831.
Ông người phường An Thái huyện Vĩnh Thuận, phủ Phụng Thiên (làng Bưởi Hà Nội) đậu tiến sĩ năm Minh Mệnh thứ 7 (1826) làm quan đến chức Tham hiệp tỉnh Thanh Hóa. Do được phái điều tra chống tham quan ô lại, ông đã đánh đổ được hai thượng quan là quan Trấn thủ và quan Trấn hiệp, có lẽ vì vậy mà sau ông bị vu oan và bị cách chức hạ ngục năm 1830. Tại đây ông đã đem hiểu biết của mình về pháp luật để làm tập Kim Vân Kiều án . Tập này gồm Lời tựa (đánh giá chung Truyện Kiều và nêu lý do viết tập sách) cùng 22 bản án phân tích tính tình, hành trạng, đánh giá cái tốt, cái xấu của 25 nhân vật trong truyện. Ông nêu rõ công, tội
từng người rồi đem xét xử theo Quốc pháp và đề nghị thưởng phạt các nhân vật trong truyện như một quan tòa. Có lẽ chính ông cũng muốn xin Triều đình xét xử công minh về tội ông như ông đã làm với các nhân vật trong Truyện Kiều.
Chúng tôi xin giới thiệu ở đây Lời tựa và năm bản án đầu theo bản phiên âm của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn ( Tập san Khoa học Xã hội – Paris số 13 – 14 tháng 1 – 1987). Năm bản án tiếp theo lấy từ quyển THƠ VỊNH KIỀU của Nguyễn Văn Y (Lạc Việt Sài Gòn xuất bản năm 1973). Những bản án còn lại đã trích ở quyển TỪ LẤY KIỀU, ĐỐ KIỀU ĐẾN CÁC GIAI THOẠI VỀ TRUYỆN KIỀU.
* Sang thế kỷ 20, một số tác giả cũng theo Nguyễn Văn Thắng soạn các bản án khác như : – Án Thuý Kiều của Nguyễn Liên Phong (Sài Gòn 1907 và 1929)
– Thuý Kiều Án của Trần Phong Sắc (1930)...
LỜI TỰA KIM VÂN KIỀU ÁN (1831)
Đạo chúng ta trong khoảng trời đất trôi quanh mênh mông. Tuy ở bể xa núi hoang, kẻ Lào xứ Mọi, không ai không bị thấm hóa. Phàm các điều trăm nhà chép lại, dù chuyện tình, chuyện tạp, chuyện mua cười, chuyện đùa vui, người xưa đều thích chép không tiếc công. Ấy là bởi vì những kẻ không có việc làm, trong khi nhàn rỗi, không sợ phê bình mà tay cứ viết ra.
Ta sinh không đúng thời, không được học rộng. Từng nghe về truyện quốc ngữ KIM VÂN KIỀU, thì xưa ở Bắc quốc có nhà Ngũ Văn Lâu đã khắc bản thực lục, mà ngày nay được thấy khắp nơi. Sách đến nước ta, có quan Đông Các đã kể lại diễn ra Quốc âm, truyền khắp trong nước, đọc lên như thấy nguyên truyện. Không những văn nhân tài tử khi mắt đọc thì lòng thích, thân khoái mà thôi, mà hẳn là những trai đồng gái chợ khi ngâm truyền cho nhau, cũng tay múa đùi rung.
Tôi lúc ấy đang giang hồ không dừng bước, cánh bèo đang lênh đênh chưa giạt lại quê hương. Chuyện xưa, sau một lúc rồi cũng không nghĩ tới nữa. Mùa đông năm Canh Dần, tôi bị giam ở ngục suốt ngày chơ vơ không lấy gì dã lòng buồn. Thỉnh thoảng đọc chuyện Nôm Kim Vân Kiều, may được hiểu thấm lời trong truyện, nghiền ngẫm tìm thú trong văn.
Trộm nghĩ rằng thực là trong 1575 câu [10] , ý văn nối tiếp nhau, mối tình tả khéo. Không
phải chỉ có những áng văn xưa của Bằng quận công, Long tĩnh hầu là hay mà thôi. Còn như bọn chúng tôi, đâu dám "tầm chương trích cú" mà bàn luận.
Nhưng xét những người dẫn ra trong chuyện ấy, hoặc kẻ có tài khá yêu, hoặc kẻ có nghĩa khá khen, hoặc kẻ có hạnh khá tiết, hoặc kẻ có tình khá thương, hoặc kẻ có đức khá noi, hoặc kẻ có tật xấu khá ghét.
Ba thước gươm không tư vị, há dong thứ các tình tội trước dư luận! Năm trăm năm lưu nghị, án tình chưa thỏa trong lời văn biện luận.
Kính theo điển lệ triều ta mà thẩm xét chân tình, khiến không sai sót một điều gì để lại nghìn năm sau. Đó là mục đích ta không quản sự quê mùa mà viết ra trình, để mua lấy một chuyện cười mà thôi.
1) ÁN THUÝ KIỀU
1. Hiếu tình có một – Tài sắc gồm hai.
2. Hoa ghen thắm, liễu hờn xanh, ngọc trắng gương trong nền quốc sắc – Cá mê vần, chim đắm khúc, non cao nước chảy bực thương cung.
3. Giá thuyền quyên đã đáng chứa nhà vàng – Sức tài nữ cũng nên trao thước ngọc.
4. Tranh thủy mặc bốn câu ba vận, khách chung tình rối ruột động niềm tây – Thơ Đoạn Trường một vẫy mười bài, bạn tri kỷ giật mình nhường giải nhất.
5. Kiếp má phấn đến khi lấy mệnh bạc – Tấm lòng son không thẹn chút vừng hồng.
6. Ghi thịt xương thề trả đức sinh thành, nhắm mắt đưa chân theo máy tạo – Qua dâu bể dám ăn lời ước hẹn, trao tơ chắp chỉ cậy tay em.
7. Phận bèo mây bao quản áng phong trần – Vừng trăng gió chẳng phai lòng thiết thạch.
8. Lời thần mộng gẫm xô bồ chưa hết, cõi Lâm Tri đành ngọc nát vàng tan – Nòi thư hương vì dan díu đã lâu, miền Vô Tích chịu da chì tóc rối.
9. Cung khốc tố giải cơn cừu oán – Tờ thân cung động tấm lòng bi.
10. Các viết kinh bấm bụng nuốt sầu riêng, cam khuất phục bởi chưa lời từ tạ – Đêm tà nguyệt băng mình pha lối lạ, mắc bô đào vì kém chước hiểm sâu.
11. Cùng đường mang nặng nghĩa với sư già – Túng đất phải chiều lòng cùng vãi Bạc.
12. Trải mấy lượt chán chường trường phong nguyệt, buôn đi bán lại thiếu chi nơi –Trong năm năm giật mượn sức anh hùng, oán trả ơn đền đành các tích.
13. Tủi danh phận xui nên lưu lạc – So tài tình xem cũng phân minh.
14. Thuở khuyến hàng mừng tưởng việc như lời, thương muôn dân lành để đeo tiếng bạc – Cơn khánh hạ bỗng thấy người lật mặt, đem nghìn vàng thân nặng giấu sông Tiền.
15. Hội Đoạn Trường mong thực hẹn tương tri – Thuyền Bát nhã may nhờ tay cứu khổ.
16. Sum họp thỏa một nhà như trước, ơn chàng Kim cho lấy hiếu làm trinh – Vẻ vang mừng hai họ hơn xưa, tủi phận bạc dám soi hoa với đuốc.
17. Xét sau trước đủ nhân trinh hiếu nghĩa – Thương lâu nay làm tuyết nguyệt phong hoa. 18. Ấy tình tùng hiếu xuất, sự thuộc vô can – Và tội chuẩn công sai, lý ưng gia thưởng. 19. Kíp truyền Hội chủ rút tên ra, hãy kiếp ấy quyền nghi mệnh phụ –
Hợp sức Nguyệt ông xe chỉ lại, để thân sau Chánh phẩm phu nhân.
2) ÁN ĐẠM TIÊN
1. Giá nổi một đời – Tiếng bay bốn bể.
2. Hương một nén cũng cam lòng tri ngộ, mơ màng phách quế tỉnh đường mê – Thơ mười bài đem thử sức sơ giao ngần ngại chân giày đi lại đứng.
3. Nền tài sắc đã mỉa chiều quyền quý – Miền phong hoa mà thấy dạ thủy chung.
4. Chốn thanh lâu đem túc trái (nợ sẵn) bảo thầm, một lời trót đã hẹn hò, nào tiếc sức ngoài mười năm chong bóng – Án minh phủ thuở tiền khiên (vướng víu ở kiếp trước) gỡ trắng, hai ngả dù khôn dan díu, cũng có công xa nghìn dặm đưa tin.
5. Nghiệm giao tình trọn vẹn nên thương – Xét nghiệp chướng đọa đày cũng xót.
6. Phạt một lẽ hững hờ cùng viễn khách, phụ chẳng phụ, do nghi ư lý (xét lý chưa chắc đã có lỗi), vậy thân này quyền uý Nguyệt Hoa thần – Như những điều vất vả với tri âm, tình nên tình, diệc túc vi công (cũng đủ kể là công), chờ kiếp khác gia phong Cung Các nữ.
3) ÁN THÚC SINH
1. Rặt nòi tú mỡ – Quen thói bốc rời.
2. Việc tày trời bưng bít dấu trong bình, ấp lồng kín giấu voi ruộng rạ – Kiến dò quanh co, bò miệng chén, cu tắm dơ (chim cu tắm vũng nước bẩn) những thói trẻ ranh.
3. Tội khi man (lừa dối) đem buộc lấy vào mình – Lời đính chúc (lời Kiều dặn về thú với vợ cả) chẳng dám thò ra miệng.
4. Tiệc giải cấu muốn giày hành khoan nhặt, bó tay vào đều cung tửu giấu quanh – Gác viết kinh khi rơi lệ vắn dài, cắn răng lại chước tại đào (bỏ trốn) phất kéo.
5. Cũng mang tiếng là tuồng quân tử – Làm ô danh đến bạn đàn bà.
6. Dưới gối cha, làm nũng dở bài bây, lời si ngốc đã dơ trong danh giáo – Trước mặt vợ, sợ quen giang mắt láo, lúc lệ rơi thêm dại cả hình thù.
7. Đã thất cơ mà thua trí đàn bà – Sao tự thú chẳng hết lòng chị nọ.
8. Xét trong nhẽ sinh vi nam tử, oan khổn nội kìa nghiêm đường phủ doãn, xem thể diện có còn ai đến thế, tội quá nhu ưng định nghị mãn đài (bố vợ đứng đầu ở Kinh... tội quá nhu nhược, nên đánh trăm roi). Thương vì tình tố thị lương nhân, quyền tại gia là trủng tể phu nhân, tư cơ cũng vì nó mà nên, thế sở bức hãy cô dung nhất thứ (Vốn là người lành... quyền ở nhà là bà vợ quan đầu triều, gia tài có nhờ đó, thế bắt buộc nên tạm tha tội cho một lần).
9. Còn như gấm trăm cuốn bạc nghìn cân : Tuy Thúc mỗ chẳng công chi nên thưởng – Song Kiều nhi có bụng ấy cũng cho.
4) ÁN TỪ HẢI
1. Thao lược đủ tài – Côn quyền hơn sức.
2. Giơ tay trắng gọi anh hùng bốn bể, thét lưỡi gươm cất muôn đội tì hưu – Thổi đất bằng rầm, sóng gió một phương, đá chân ngựa xô năm tòa thành quách.
3. Thế oanh liệt quặn sông cựa núi – Sức tung hoành lở đất long trời.
4. Cảm một lời tri kỷ giữa trần ai, đem vinh hiển về tươi màu phấn đại – Nghe mấy chuyện bất bình phen lưu lạc, ra oai linh rửa sạch hận thuyền quyên.
5. Trong năm năm vùng vẫy nghiệp bá vương – Dư trăm trận ra vào tài trí dũng.
6. Lời trong trướng gẫm thị phi hữu lí, đồng lương tâm thương trăm họ vô cô – Lệnh dưới cờ truyền bộ khúc chinh nghi, giải binh lính quyết một bề quy thuận.
7. Ấy khinh tin, sơ phòng chế, chẳng phải rằng đam ngộ tình sự trái oan – Trước thiên tải, tưởng cơ đồ còn tiếc nữa tuy thành bại cũng anh hùng.
8. Thôi tạm về quản ôn binh – Rồi sẽ nghị tâu cho làm thống tướng.
5) ÁN HOẠN THƯ
1. Tinh ma nhất thứ – Sâu sắc nước đời.
2. Vắng mặt chồng riêng họp lũ côn quang miền tha cảnh cướp người buông lửa – Bắt thứ thiếp nhận làm người mê thất, phen thị tì lấp phấn vùi hương.
3. Thói hồng nhan không mua lấy dễ dàng – Tiếng nghiệt phụ đã nên rằng độc địa.
4. Trên tiệc để ai cười nước mắt, còn là dâng rượu, lại còn gẩy đàn hồ – Bên phòng xui kẻ khóc chiêm bao, còn bẻ tờ cung, lại còn tra nét mặt.
5. Tình đã phân minh – Lý không hồi bộ (bào chữa).
6. Tuy ghen ghét là phụ nhân chi thường trái (thói thường của đàn bà), phép thường xét đến cũng không dung – Mà trộm cướp là quốc điển chi nghiêm hình (tội nặng trong luật nước), phận gái làm quàng không nhẽ thứ.
7. Gẫm đến tình hình thành khả ố (đáng ghét) – So vào tội trạng bất ưng khinh (không nên coi nhẹ).
8. Song mà còn chút khá ngờ – Vậy phải cho nên chưa quyết
9. Quan Âm Các thủa nhãn tiền hiện hoạch, dâm đắc tích mà thác tự vô tri (Bắt được trước mắt tang tích thông dâm mà giả như không biết) Chiêu Ẩn Am khi gia vật khả bằng, đạo đắc tang cũng chi tri bất vấn (Nhận được đúng đồ quí của mình là chứng cớ mà để im không điều tra).
10. Ấy Hoạn Thư tình dường xem cũng khá – Vì Thúc Sinh vụng xử hóa xui nên.
11. Vả Hoạn Mẫu còn đội án vô nghi, chẳng kẻo mẹ nuông con là thế – Thương Thúc Mỗ chưa yên đường kế hậu, hãy cho chồng lĩnh vợ đem về.
6) KIM TRỌNG ÁN [11]
Dòng dõi trâm anh, văn chương đài các
Bực tài danh nền phước hậu
Mối hồng lầu, duyên tú các thiếu chi ?
Trong phong nhã ngoài hào hoa
Sân ngọc bội, phường kim môn dễ mấy ?
Xem đai đất đã vào dòng cụ thể
Gẫm phong quang chưa ra vẻ lão thành
Kẻ tấn thân mà quen thói dông dài
Mượn bước tầm phương đo sắc nước
Khách hàn mặc khéo dơ tuồng ve chuốt
Thuê hiên Lãm Thuý ướm tơ đào
Chữ phất cần, đà lỗi với gia đình
Đường phi thể, lại phạm vào công luận
Xem buổi mới đã nài hoa ép liễu
Nỗi trăng gió chẳng nể lòng đoan chính
Án điêu gian, chẳng lựa phải tra
Gẫm khi nên còn gạn phấn tưởng hương
Giá bếp buồng nghe thoáng tiếng thị phi
Luật thất tự, hiện tồn khả cứ
Xét hữu lộc cô nhứt niên sung dịch
Niệm đa tình cô nhứt thứ tùng khinh
Vả thương chàng, nhân ngãi đủ đều, thủy chung một mực Gắn bó nặng cùng lời non nước
Nuôi hai thân thay mặt khách tình chung
Dặn dò hỏi lại lúc phân ly
Nối sợi chỉ đền lòng người mạng bạc
Chén nguyện chứa chan dòng nước mắt
Gối tình vơ vất giấc chiêm bao
Mười mấy thu phong mở quạt hoa
Những là thảm lấp sầu xây
Nhìn khâm chẩm mơ màng lời sơn hải
Ngoài ngàn dặm đổi thay sứ nhạn Sá quản của thuê công mướn
Gẫm đỉnh chung đau đớn nỗi bình bồng Áng phong trần nhìn thấy mặt mới cam Duyên thi tửu phải chiều lòng cho trọn
Ấy tâm đức cũng là tuồng quân tử Tình nên thương mà đắc cách cũng ơn Vả văn chương đã đáng bực cao danh Tài cũng tiếc xả khí hà trạc dụng. 7) HOẠN PHU NHÂN ÁN
Nhờ đức ấm phong, chính ngôi mệnh phụ Bề thảo ngay lẽ lấy mình làm trước Lập nghiêm cho chính chốn quê môn Đàng ở ăn không để đức cho con Lưu tệ nỡ hư nền phúc lộc
Sao không nghĩ phúc đức tại mẫu Mà nỡ đem bạc ác giáo nhi ?
Chiều con mà hội đảng chỉnh thuyền Ngàn dặm dám buông tuồng việc dữ Dự lộc nước mà ỷ quyền lộng phép
Tấc giang không khiếp sợ oai trời Nỗi xử tâm quả thật kẻ đa đoan
Cơn đào án tầm phương thoát võng Chờ tróc hoạch đích thân, sẽ án luật trị tội. 8) KHUYỂN ƯNG ÁN
Dạ vượn lòng hươu, đầu trâu mặt khỉ Tra đến lẽ thuyền bè riêng vượt bể Bắt người buông lửa há rằng oan ? Thương vì tình cơm áo nặng vào mình Giày lạnh xông than nên phải khó Tuy biết tứ hành là phạm pháp
Song mà sở mạng dám từ nan
Chiếu vi tùng phát phối viễn vi nô Chờ hiệu lực hứa hồi dân sinh nghiệp. 9) BẠC HẠNH, BẠC BÀ ÁN
Một ổ bợm già, vốn nghề hành viện Mừng được khách son phai phấn lợt Tìm đường hung hiểm ép tơ đào Dòm dõi khuôn vốn một lời mười Lập chước đảo điên tranh mặt bạc
Án từ đích xác, tang vật hiển nhiên
Đứa mụ dầu mà lấy sáu mươi quan
Tình khả ố gia giảo giam hậu
Thằng buôn sóng kể đà hai mươi hốt
Tội nạn dung ưng nghị trảm kiêu.
10) ĐÔ LÃO LẠI ÁN
Nhớ dai nhất thứ, nói khéo đầu dây
Ngoài phố phường sự tích đã mười năm
Nhỏ nhặt tóc tơ tình chẳng lẫn
Trước quan lại ngôn từ thông một mạch
Đầu đuôi phải chuyện như in
Xét tên này chừng đã cao niên
Xem tài khí cũng nên đại dụng
Trộm nghĩ người làm báu nước
Ngẫm tên này nên hộ vụ thi tài
Trông lệnh trên thánh mở khoa đời
Chuẩn khoản ấy hạ tào tham nghị.
6. ĐÀO NGUYÊN PHỔ (1860 – 1907)
TỰA ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH
Đào Nguyên Phổ, tự là Tảo Bi hiệu là Hoành Hải người làng Thượng Phán, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình. Ông đỗ Cử nhân năm 1884, nhưng chưa dự thi Hội ngay, mà lại ra làm
quan nhà Nguyễn. Ban đầu, Đào Nguyên Phổ được bổ chức Huấn đạo huyện Tam Nông tỉnh Hưng Hóa, rồi làm Tri huyện tại huyện Võ Giàng tỉnh Bắc Ninh. Sau trở về đi dạy học trên địa bàn tỉnh Nam Định cũ (Nam Định và Thái Bình). Trong thời gian này, ông giao du với các chí sĩ yêu nước thời đó. Năm 1895, ông vào Huế, học tại trường Quốc tử giám. Đến Năm 1898, sau 3 năm học tại kinh đô, ông dự thi Hội và đỗ Đình nguyên Hoàng giáp. Rồi làm Thừa chỉ sau quản làm chủ bút tờ Đồng Văn nhật báo. Sách để lại có cuốn Việt Sử Tân ước và Bài tựa Đoạn Trường Tân Thanh viết năm 1898 do Kiều Oánh Mậu chú thích (Cuốn Kiều này xuất bản năm 1902 với tên Đoạn Trường Tân Thanh ).
Năm 1902, ông từ quan, ra Hà Nội làm nghề nhà báo, viết cho Đăng cổ tùng báo , và tích cực truyền bá tư tưởng duy tân. Năm 1907, ông tham gia sáng lập trường Đông Kinh Nghĩa Thục, cùng với Lương Văn Can, Nguyễn Quyền,... Sau khi Đông Kinh Nghĩa Thục bị đóng cửa, tiếp đến vụ đầu độc lính Pháp ở Hà Thành bị thất bại, Đào Nguyên Phổ bị người Pháp truy lùng ráo riết. Nên ông đã phải tự sát vào năm 1908 để khỏi bị Pháp bắt, cũng để giữ danh tiết đồng thời tránh hệ lụy cho gia đình và bạn bè.
* * *
TỰA ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH (1898)
Nước Việt ta từ Hàn Thuyên đời Trần bắt đầu dùng quốc âm làm thơ phú, rồi thể văn quốc âm mới nổi lên. Thể trên sáu dưới tám, dài ngắn hợp độ, âm tiết dịu dàng, tưởng cũng phỏng theo những câu có sẵn trong kinh sử mà làm ra. Bài tựa Truyện Tỳ bà của Kiều Giá sơn nói đã tường rồi vậy. [12] Người đời phỏng theo cách ấy mà phu diễn ra quốc âm có đã nhiều. Nhưng mùi dã lời quê, mười phần thì đã đến tám chín, không đáng nói đến. Truyện Phan Trần, truyện Hoa Tiên, người ta đều khen là kiệt xướng, song cũng chưa thoát khỏi còn có câu hay câu dở, chỗ nhã chỗ tục. Muốn cầu cho được áng văn lời như châu ngọc, điệu hợp cung thương thì chỉ một truyện Kim Vân Kiều mà thôi.
Truyện này là của cụ Nguyễn Du, người Tiên Điền, làm Hữu tham tri bộ Lễ buổi đầu bản triều, y theo cuốn truyện của Thanh Tâm Tài Nhân mà làm ra. Lời lẽ xinh xắn mà văn hoa, âm điệu ngân vang mà tròn trịa, tài liệu chọn rất rộng, sự việc kể rất tường, lượm lặt những diễm khúc tình từ của cổ nhân; lại góp đến cả phương ngôn ngạn ngữ nước nhà, mặn mà vụn vặt không sót, quê mùa tao nhã đều thu. Nói tình thì vẽ được hình trạng hợp ly cam khổ, mà tình
không rời cảnh, tả cảnh thì bày hết thú vị tuyết nguyệt phong hoa, mà cảnh tự vướng tình, mực muốn múa mà bút muốn bay, chữ hay phô mà câu hay nói, khiến người cười, khiến người khóc, khiến người vui, khiến người buồn, khiến người giở đi giở lại ngàn lần, càng đọc thuộc lại càng không biết chán, thật là một khúc Nam âm tuyệt xướng, một điệu tình phổ bực đầu vậy.
Lời xưa nói : "Làm trai biết đánh tổ tôm, uống chè Chính Thái [13] xem nôm Thuý Kiều" mới là hợp thúc tao nhã. Ngày nay nào khách văn chương, bạn thoa quần, cho đến kẻ buôn bán, người thôn hào, không ai là không có một quyển Kiều cầm tay để thưởng thức. Ngay như cả những người không biết lấy một chữ mà cũng thuộc được vài câu, cũng thường khi nằm khi ngồi đem ra ngâm ngợi. Ôi! sao mà lại có văn làm say người đến thế ? Còn một điều, tôi lấy làm lạ hơn nữa là người đời dùng để bói, thì thấy ứng nghiệm như thần, mà xem tựa linh kinh Quỷ Cốc [14] . Là bởi làm sao ? Há chẳng phải tại : Thuý Kiều có tài sắc không hai, làm một bậc tình nhân tuyệt đỉnh ngàn đời; mười lăm năm lịch duyệt phong trần, nên một thiên tình sự tuyệt đỉnh nghìn xưa, diễn ra làm truyện, lâm ly đốn tỏa, thành một khúc tình từ tuyệt đỉnh nghìn thu, đem so với bản của Thanh Tâm Tài Nhân lại càng hay hơn nhiều lắm; người đã kỳ, việc lại kỳ, văn tài càng kỳ, nên chi chẳng những làm say người đọc mà lại có thể thông cảm thần minh nữa chăng ?
Truyện Kiều ấn hành đã lâu, nét chữ có chỗ nhầm, người xem do cái nhầm này mà ra cái lẫn khác, phần nhiều cứ lấy ý kiến riêng mà cưỡng giải. Bạn thân tôi là Kiều Giá sơn, đỗ phó bảng triều Tự Đức, sành văn quốc âm, ngày làm quan ở tỉnh Bắc đã soạn Truyện Tỳ bà, nay lại đem truyện này đính chính, kê dẫn điển tích cho người xem hiểu rõ; và nhân văn án của tham hiệp tiến sĩ Nguyễn Văn Thắng đã định, Giá sơn có làm thêm hai bản án thổ quan và ngư phủ, lại vịnh cả thơ và đề cả tựa. Ai thấy đều khen là bác nhã và khuyên cho in để cống hiến người sành thơ văn. Nhưng Giá sơn vì bận công việc báo quán Đồng Văn, chưa rỗi để làm việc đó.
Năm Ất Mùi ( Tức năm 1895 ) tôi đương học ở Quốc tử giám, có công tử họ ngoại nhà vua cầm đến tặng tôi một bản Kiều mới, nhan đề là Đoạn Trường Tân Thanh . Tôi mở ra đọc, thấy châm chước từng chữ, từng câu thay cũ đổi mới; danh bút phê bình, cơ thần linh động. Lại được vua phê cho đôi câu đối. (Đôi câu đối của vua Tự Đức phê ở đầu sách); người đẹp văn hay, được đóa thiên hương làm tăng thêm khí sắc. Vậy nên ngâm vịnh quý hơn được ngọc
bích, người truyền nhau sao chép, giá giấy đắt như "giấy quý Lạc Đô".
Mùa hè năm nay, tôi ở kinh vinh quy, mang sẵn bản Kiều ấy đưa biếu Giá sơn. Giá sơn trông thấy liền mừng cuống lên nhân gia công kiểm duyệt kinh tường, rồi khắc in để cho nhiều người thưởng thức. Tôi tin chắc rằng người đời muốn lấy cái mà hun đúc tính tình, kích dương phong nhã, cũng do bản Truyện Kiều này mà được vậy.
Thượng tuần tháng mười một, mùa đông năm Mậu Tuất (1898), niên hiệu Thành Thái.
Đình Nguyên, nhị giáp tiến sĩ khoa Mậu Tuất, Đào Nguyên Phổ, hiệu Hoành Hải, người Cần Giang, tỉnh Thái Bình ghi.
TRẦN LÊ NHÂN dịch
7. CHU MẠNH TRINH (1862 – 1905)
THANH TÂM TÀI NHÂN THI TẬP TỰ
Chu Mạnh Trinh tự là Cán Thần, hiệu Trúc Vân, người làng Phú Thị, huyện Đông Yên, tỉnh Hưng Yên (nay thuộc Gia Lâm, Hà Nội).
Ông sinh năm Nhâm Tuất, 1862 (niên hiệu Tự Đức thứ 15). Tổ tiên ông theo nghiệp nông vốn là một nhà dân thường; mãi đời phụ thân là Chu Duy Tĩnh mới thi đỗ Cử nhân và làm quan đến Ngự sử.
Thuở nhỏ rất thông minh, học thân phụ, ông có khiếu nhớ nhiều hơn người và làm văn đã có phép tắc và điển nhã. Lớn lên ông tập văn bài ở trường cụ Phạm Hi Lượng (người phường Nam Ngư, Hà Nội; sau là nhạc phụ ông).
Năm 19 tuổi, ông đi thi hương đỗ Tú tài (khoa Canh Thìn, 1880, niên hiệu Tự Đức thứ 33) và năm 25 tuổi ông thi đỗ Giải nguyên (khoa Bính Tuất, 1886, Đồng Khánh nguyên niên) ở trường Nam Định (Khóa ấy Hà Nội, Nam Định hợp nhất gọi là trường Hà Nam, tất cả có 73 người đỗ Cử nhân, 218 đỗ Tú tài). Đến năm 31 tuổi, gặp khoa Nhâm Thìn, 1892, niên hiệu Thành Thái thứ 4, ông thi hội trúng cách và vào thi đình đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ.
Đỗ đại khoa rồi, năm sau, 1893, ông được bổ Tri phủ Lý Nhân (Hà Nam). Làm quan được
mấy tháng thì thân phụ mất, ông phải cáo quan về cư tang. Hết hạn ông được thăng làm Án sát tỉnh Hưng Yên rồi sau được cử làm Án sát các tỉnh Hà Nam, Bắc Ninh và Thái Nguyên.
Năm 1903, niên hiệu Thành Thái thứ 15, ông từ chức Án sát Thái Nguyên cáo quan về nghỉ; mùa xuân năm 1905, ông tham dự cuộc thi bình vịnh Truyện Kiều tại Hưng Yên và được giải nhất thơ Nôm [15] . Nhưng do bị bệnh mã đao không chữa được nên ngày 28 tháng 7 năm Ất Tỵ (28-8-1905), niên hiệu Thành Thái thứ 17, ông mất, thọ 44 tuổi.
Ông là khách phong lưu đa tình, các nghề chơi tao nhã như thơ, đàn đều giỏi cả.
Trong khi làm quan và lúc đã cáo về, ông thường ngao du các nơi danh thắng. Ông thích nhất cảnh chùa Hương Tích ở phủ Mỹ Đức, Hà Đông. Chính tay ông đã vẽ kiểu và trùng tu chùa ngoài (Thiên Trù). Chùa làm xong, ông cùng các bạn đến ngoạn cảnh và đề vịnh. Hiện nay còn lưu truyền ba bài : Hương Sơn phong cảnh, Hương Sơn nhật trình và Hương Sơn hành trình . Song tác phẩm đặc sắc nhất của ông là cuốn Thanh Tâm Tài Nhân thi tập gồm một bài tựa (Tự) và hai mươi mốt bài Vịnh Kiều thất ngôn bát cú.
I. PHIÊN ÂM CHỮ HÁN:
THANH TÂM TÀI NHÂN THI TẬP TỰ
Kim sử :
Duyên đề tặng phiến, Liêu Dương bất quy thúc phụ chi tang, Biến khởi mại ty, Lôi Châu đức biện oan dân chi án Tắc : Sắt cầm hảo hợp
Cốt nhục đoàn viên
Bích ngọc trương lưu
Tử thoa bất đoạn
Yên hoa thương khách, hà lai mãi tiếu chi kim
Thanh giáo ngoại thần, chung trở quy hàng chi giáp
Hà dĩ : Biểu khuê nhân chi hiếu hạnh
Kiến hiệp nữ chi cơ quyền
Nãi tri : Sự phi khúc tắc bất kỳ,
Ngộ dũ chuân nhi nãi hiển
Khanh chân đạt giả, tu tri thương hiệu chi liên tài Ngã diệc vân nhiên, mạc oán hồng nhan chi vô phận Độc thị : Vị thông môi chước
Tiên đính tư minh
Nhất trụy phồn hoa
Tiện thành kết tập
Hoặc giải vì thủy đãng vân lưu chi thái
Luân nhi vị chi nghinh diệp tống chi phong Bất tri :
Hồng hạnh xuất tường, vị phó hương tâm phấn điệp Sương phong ẩm hận, khủng duyên họa sự ư trì ngư Lệ kinh lý chi băng sương
Độ sầu biên chi tuế nguyệt
Vô hà chi bích, giá khả trị ư liên thành
Dĩ thệ chi ba, mộng do hồi ư cựu phố
Thí bình tình nhi trước luận
Nghi lược tích nhi nguyên tâm;
Huống hựu :
Thập thủ tân thi, quán nhập Đoạn trường chi tập Tứ huyền cung oán, phổ thành Bạc mệnh chi âm Giác thê lương kỳ não nhân
Phục sính đình nhi cố ảnh
Hoa ưng thâu diễm
Liễu đục tăng kiều
Tham Bắc bộ chi phong tao, tiếu đề diệc vận
Thiện Nam triều chi phấn đại, nùng đạm tương nghi Cố nghi chư lão chung tình, biến danh tính ư quần biên tụ giốc Toại sử thiên thu ký sự, thái phong lưu ư thặng phấn tàn chi Ta hồ : Tiểu trích phong trần
Kỷ tao ma nghiệt
Tình thiên hạo diểu
Hận hải thương mang
Tùy phong chi nhứ hà y
Trụy hỗn chi hoa vô lại
Can khanh thậm sự
Thế cổ thiên sầu
Nhiên nhi :
Thính nguyệt dạ chi tỳ bà, thanh xam dị thấp;
Xướng cách giang chi ngọc thụ, bạch mấn thiêm hoa
Do lai danh sĩ giai nhân, túc thế hữu Hoa nghiêm chi kiếp
Hưu quái thanh sơn hoàng thổ, thiên cổ đồng luân lạc chi bi
Bộc bản đa tình
Cảm thâm đồng điệu
Vị ngô Không Hoa ư sắc giới
Thiên liên ảo mộng ư trường xuân
Kim ốc A kiều, mạn trước bán không chi tưởng
Mỹ nhân phương thảo, bằng chiêu cách đại chi hồn
Ngẫu hứng bút dĩ trừu tư
Toại trục hồi nhi phân vịnh
Ngôn chi trường dã, tạ đương khách song thính vũ chi đàm
Linh chi lai hề, hoặc tại Lạc phố lăng ba chi da [16] .
II. BẢN DỊCH VĂN XUÔI.
NGUYỄN QUẢNG XƯƠNG
Nay ví thử :
Vì nhân duyên khăng khít mà tặng cho nhau chiếc quạt, nhưng Kim Trọng không phải về hộ tang chú ở Liêu Dương; gia biến gây nên bởi gã bán tơ, nhưng nếu án lại được xét cho ra nỗi oan uổng.
Thời :
Vợ chồng sẽ sum họp, tình cốt nhục sẽ được sum vầy; hòn ngọc biếc sẽ giữ được lâu dài, cành thoa tía không bị tan gãy; Như thế thời người khách buôn hoa việc gì mà phải bỏ tiền ra mua lấy tiếng cười của nàng, mà người bầy tôi ở ngoài thanh giáo (uy quyền) của Triều đình trọn đời sẽ không giải đáp.
Thời :
Làm sao mà tỏ ra được người đàn bà hiếu hạnh; làm sao mà thấy được người hiệp nữ lại có cơ quyền.
Thế mới biết được :
Việc đời không cong quẹo thời không có gì lạ; càng gặp những việc trắc trở mới tỏ rõ được mặt anh tài.
Nàng thật là người thông hiểu sự đời nên biết rằng trời vẫn thương kẻ có tài; Ta cũng cho như thế là phải, đừng nên oán kẻ hồng nhan không có phúc phận.
Chỉ vì :
Chưa có mối manh trước đã đính lời thệ ước. Một đóa hoa rơi kết chặt mối tình. Hoặc có người bảo:
Vì cái thói nước mây trôi nổi ( ý nói lãng mạn ) chìm đắm mà thành ra tư cách "cành đưa lá đón" hư thân.
Nào biết đâu :
Hoa hạnh đỏ mọc ngoài tường nhưng vẫn chưa phó thác nhị thơm cho con bướm phấn; mũi dao sắc định quyên sinh nhưng đành nuốt giận, sợ cháy thành vạ lây ao cá. Cố sức giữ tấm thân trong sạch như sương tuyết trong gương mà qua tháng ngày sầu thảm. Ngọc bích không vết, giá quý hơn thành liền, lớp sóng đã tan, còn mơ mòng trở về bến cũ. Thử lấy bình tĩnh mà bàn xét, lượt qua sự tích cũng thể tất cho tâm lý của nàng.
Phương chi :
Lại còn mười bài thơ mới mà nàng đã chiếm giải nhất trong tập Đoạn trường; bốn dây cung oán mà nàng đã phổ thành tiếng đàn Bạc mệnh, khúc đàn sầu thảm làm não lòng người, lại còn nhúng nhính quay đầu nhìn bóng.
Nàng đã yểm nhiễm cách phong tao của Bắc bộ ( nơi ăn chơi ), cười khóc nên thơ; thành thục nghề son phấn của Nam triều ( nơi phồn hoa ) phai nồng tùy lúc. Cho nên khắp mặt chung tình tên tuổi giắt bên quần, góc áo nàng (danh thiếp của khách làng chơi nàng bỏ vào túi quần và ống tay áo).
Có thế mới làm cho kẻ chép chuyện nghìn thu về sau nhặt cái phong lưu ở nơi son mốc phấn thừa.
Than ôi!
Nàng tiên nhỏ kia giáng xuống cõi trần, mấy phen chiếc thân đày đọa; trời tình man mác, bể giận mông mênh! Sợi tơ mành theo gió biết giạt về đâu, cánh hoa rơi xuống nước bẩn không nơi ỷ thác! Ta lạm bàn đến việc riêng của nàng thay người xưa mà sầu mướn.
Nhưng chẳng riêng ta ( xưa kia ai ) đã nghe tiếng tỳ bà đêm trăng khuya mà áo xanh để dầm giọt lệ; hát khúc ngọc thụ ở bên sông mà mái tóc thêm hoa ? Xưa nay người danh sĩ kẻ giai nhân vẫn mang cái kiếp Hoa Nghiêm từ đời trước [17] . Đừng lấy làm lạ rằng núi xanh, đất vàng nghìn xưa vẫn mang chung một mối sầu bi của kiếp đời luân lạc.
Chúng tôi vốn đa tình, gặp người đồng điệu, tự thấy cảm thông, cho mình chưa thoát được cái kiếp không hoa ở nơi sắc giới mà thương tiếc hão huyền trong giấc mộng xuân.
Mơ tưởng chuyện vẩn vơ trên mây xanh như A Kiều, Kim Ốc, gọi hồn người chín suối, sắc đẹp, tiếng thơm. Lúc ngẫu hứng cầm bút giãi bày tư tưởng, xếp đặt truyện ra từng hồi để nhớ người mà ngâm vịnh.
Nói ra còn dài, mượn truyện để làm câu tiếp khách lúc trời mưa. Nàng có thiêng thì về đây, hay còn dạo gót sen trên mặt sóng, lúc đêm khuya, ở bến sông Lạc phố ?
III. BẢN DỊCH CỦA ĐOÀN TƯ THUẬT [18]
Đoàn Tư Thuật hiệu Mai Nhạc, người làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông.
Ông sinh năm Bính Tuất (1886) niên hiệu Đồng Khánh nguyên niên. Thân phụ ông là Đoàn Ngưng, làm quan tới hàng Bố chánh.
Ông là người tính tình phóng dịch, hay rượu, hay thơ. Thơ văn quốc âm của ông ngoài một số ít bài văn, bài thơ soạn dịch linh tinh, ông có dịch được bản tuồng Tỳ bà ký của Cao Tắc Thành (do Tản Đà san nhuận, đề tựa và in năm 1923) và cuốn tiểu thuyết Tuyết Hồng lệ sử của Từ Trẩm Á (đã đăng báo Nam Phong và đã được nhà Nam Ký xuất bản thành sách).
Như ta nhận thấy, văn ông cũng có tính chất lãng mạn và một tính cách nhẹ nhàng, diêm dúa nhưng vì sự nghiệp trước tác của ông có ít người biết đến ngoài bản dịch này.
Ông mất năm 1928, niên hiệu Bảo Đại thứ ba, thọ 43 tuổi .
Ôi! Giá sử ngay như trước :
Liêu Dương cách trở, duyên chàng Kim đừng dở việc ma chay.
Quan lại công bằng, án Viên Ngoại tỏ ngay tình oan uổng.
Thì [19] đâu đến nỗi :
Son phấn mười mấy năm lưu lạc
Đem thân cho thiên hạ mua cười
Mà chắc rằng :
Biên thùy một cõi nghênh ngang, ai xui được anh hùng cởi giáp.
Thì sao tỏ được :
Là người thục nữ mà đủ đường hiếu nghĩa, tay đàn bà mà lại có cơ quyền. Thế mới biết :
Người khôn thì hay gặp gian truân
Chuyện đời khéo lắm trò quanh quẩn
Con tạo hóa vốn thương yêu người tài sắc, nàng đà biết thế hay chưa ? Khách má hồng đừng giận nỗi trăng già, ta cũng khuyên lời phải chẳng. Chỉ vì một nỗi:
Mối manh chưa tỏ, thề thốt đã nhiều, trăng gió mắc vào, phồn hoa dính mãi. Cũng có người bảo :
Tại nước chảy mây trôi lỡ bước
Nên cành đưa lá đón quen thân.
Nào biết đâu :
Bông hạnh nở ngoài tường, chưa để con ong qua tới.
Cho có muốn :
Lưỡi dao liều với mạng, lại sợ thành cháy vạ lây
Tấm lòng này như tuyết như gương, mối sầu nọ qua ngày qua tháng. Ngọc kia không vết, giá liên thành [20] khôn xiết so bì
Nước đã trôi xuôi, hồn cựu mộng vẫn còn vơ vẩn
Bàn cho thật phải, tình cũng nên thương.
Lại xem như :
Bút mực tài hoa Đoạn trường mười khúc
Trúc tơ phong nhã, Hồ cầm một chương
Câu thần vẳng giọng tiêu tao, bóng nguyệt tưởng chiều não nuột Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Vậy nên : Khách đa tình say chuyện phong lưu, trăm năm cũ còn ghi tên tuổi hão Người chép sách tiếc vì tài sắc, nghìn thu sau nhặt cái phấn hương thừa Than ôi! Một bước phong trần, mấy phen chìm nổi
Trời tình mờ mịt, bể giận mênh mông
Sợi tơ mành theo gió đưa đi
Cánh hoa rụng chọn gì đất sạch
Ai dư nước mắt khóc người đời xưa.
Thế mà :
Giống đa tình luống những sầu chung, hạt lệ Tầm Dương chan chứa Lòng cảm cựu, ai xui thương mướn, nghe cây Ngọc Thụ não nùng Cho hay danh sĩ, giai nhân cùng một kiếp hoa nghiêm nặng nợ Ngán nỗi non xanh đất đỏ, để riêng ai luân lạc đau lòng
Ta cũng nòi tình, thương người đồng điệu
Cái kiếp hoa không lẩm cẩm, con hồn xuân mộng bâng khuâng Đã toan đúc sẵn nhà vàng, chờ người quốc sắc
Lại muốn mượn chùm phương thảo, hú vía thuyền quyên
Sẵn bút nghiên chia vịnh từng hồi, đem sự tích tóm làm một tựa. Bây giờ kể lại còn dài chưa hết, hạt ba tiêu như thánh thót mưa thu.
Hỡi ôi! Hồn có biết chăng ?
Bóng hoàn bội tưởng ra vào Lạc phố!
IV. BẢN DỊCH CỦA NGUYỄN VĂN ANH
Ví phỏng :
Duyên trao quạt vuông tròn, đất Liêu Dương không về tang chú Việc bán tơ bay buộc, phủ Lôi Châu sớm xét tình oan. Thì đã :
Cầm sắt vui vầy, cửa nhà sum họp;
Còn nguyên vẻ ngọc, chưa gẫy cành thoa;
Bọn khách yên hoa đâu có đưa vàng mãi tiếu
Kẻ ngoài thanh giáo hẳn không cởi giáp quy hàng Bởi đâu mà :
Giãi lòng hiếu thảo bạn phòng khuê
Rõ sự cơ quyền trang hiệp nữ;
Thế mới biết :
Không éo le không thành chuyện lạ
Càng gian truân càng tỏ lòng ngay
Nàng vẫn thừa khôn, cũng nên biết khuôn xanh thương tiếc Ta hãy nhắc lại, xin chớ phiền má phấn hẩm hiu Chỉ vì :
Chưa liệu mối manh đã riêng thề thốt
Sa chân trót lỡ, mất nết đi rồi.
Có người bảo :
Phải chăng tại nước chảy mây trôi, lênh đênh quen thói Mà xui nên cành chim lá gió, đưa đón dập dìu. Nhưng hãy thử xem :
Hoa hạnh mỉm cười, chưa từng để hương phai bướm lượn Lưỡi dao nuốt giận, vì e rằng thành cháy vạ lây Trong gương lành in dấu băng sương
Bên sầu não lần qua năm tháng
Ngọc không chớm vết, dường ngang giá liên thành Nước đã xuôi dòng, còn mộng quay về bến cũ Vì bàn theo lẽ phải
Nên lượng tấm lòng son.
Phương chi :
Mười vận Tân Thanh, thơ tập Đoạn Trường treo giải nhất Bốn dây sầu oán, khúc nhà Bạc mệnh lựa nên chương Não người những bậc tiêu tao
Ngắm bóng có chiều phong vận
Hoa ghen thua thắm
Liễu hờn kém xanh
Vẻ phong tao cười khóc nên thơ, sánh vai Bắc bộ
Mầu son phấn nhạt nồng để lối, ăn đứt Nam triều
Nên chi những khách chung tình ghi tên họ khắp bên góc quần góc áo. Khiến cả nghìn sau chép truyện, nhặt hào hoa trong phấn thải hương thừa. Than ôi :
Chút đọa phong trần
Mấy phen ma nghiệt
Giời Tình mờ mịt
Bể Hận mênh mang
Sợi tơ mành theo gió bơ vơ
Cành hoa rụng lẫn bùn tơi tả
Tự mình buộc lấy
Ai trạnh thương cùng
Nhưng :
Đêm trăng nghe khúc tỳ bà, áo xanh đẫm lệ
Cách bến thoảng ca ngọc thụ, tóc bạc thêm hoa
Bởi chưng gái sắc trai tài, kiếp trước Hoa Nghiêm đều nặng nợ Nên nỗi đất vàng non biếc, từ xưa luân lạc những chung sầu Ta vốn đa tình
Cảm cùng một điệu
Chưa giác ngộ Hoa không trong Sắc giới
Luống bâng khuâng Mộng ảo giấc Xuân trường
Say vẻ Á kiều, toan đúc nhà vàng câu chuyện hão
Đặt chùm phương thảo, chiêu hồn người ngọc chút tình suông
Nghĩ đòi cơn cầm bút ngậm ngùi
Nhớ từng đoạn ngụ tình đề vịnh
Lời đành dài vậy, nơi khách song truyện phiếm nghe mưa
Hồn có về chăng, bến Lạc phố canh khuya dậy sóng.
V. BẢN DỊCH CỦA TRÚC VIÊN LÊ MẠNH LIÊU
Ví bằng sau khi :
Tặng quạt trao duyên, tang thúc phụ không bầy cơ cách trở.
Bán tơ gây vạ án Lôi châu xét rõ nỗi oan khiên.
Thì :
Sắt cầm đầm ấm cốt nhục sum vầy, ngọc biếc trong veo, thoa vàng chẳng gẫy. Chú lái buôn hoa, đâu có mang vàng trả giá; anh hùng giặc cỏ hẳn không cởi giáp về hàng.
Như vậy lấy gì làm nên hiếu hạnh của khách khuê phòng, làm sao biết cơ huyền của người thục nữ.
Thế mới biết :
Việc đời không khuất khúc sẽ không ly kỳ; cảnh ngộ càng gian truân lại càng sáng tỏ. Nàng (Thuý Kiều) là người đạt, thừa hiểu tạo hóa ghen tài; ta (Tác giả) cũng đồng tình, không hờn hồng nhan kém phận.
Duy có điều :
Mối lái chưa thông, đã riêng thề thốt; phồn hoa vừa chớm, liền thạo gió trăng. Hoặc có kẻ cho rằng :
Vì nước chảy mây trôi nguyên sẵn nết, nên lá đưa cành đón dễ lành nghề. Có biết đâu :
Hoa hạnh ló ngoài tường, phong nhị dù ong chao bướm liệng; con dao nguyên trong áo, toan liều e thành cháy vạ lây. Dùi mài băng sương trong kính, đắp đổi ngày tháng bên sầu. Ngọc lành không vết, giá đáng sánh với thành liền; sóng cả lướt qua, hồn còn vương nơi bến cũ. Thử bình tĩnh mà lập luận, hãy bỏ việc xét nguyên tình.
Huống chi :
Mười bài thơ mới, chiếm nhất giải hội Đoạn trường; bốn sợi đàn hồ, đủ năm canh thiên Bạc mệnh. Nghe ra tê tái lòng người, ngắm lại thướt tha bóng ngọc. Hoa đành thua vẻ, liễu giận kém tươi. Hệt vẻ phong lưu đất Bắc, cười khóc nên thơ; trọn mầu son phấn triều Nam, nhạt hồng đúng mức. Vậy nên các lão chung tình, ghi tên tuổi khắp quần là áo lượt; khiến cho người sau chép việc, tìm phong lưu nơi phấn cũ hương thừa.
Than ôi!
Tạm ngã phong trần, trải bao nghiệp chướng! Sóng tình lồng lộng, biển hận mênh mông. Tơ liễu theo trận gió đưa không gì vướng víu, bông hoa rơi vùng đất lấm, xiết nỗi ăn năn! Vẫn biết can dự vào việc nàng, chỉ là thêm sầu cho người cổ.
Nhưng cổ nhân từng :
Nghe khúc tỳ bà dưới nguyệt, lệ đẫm áo xanh; lắng thơ ngọc thị bên sông, đầu thêm tơ trắng. Tóm lại danh sĩ giai nhân, sau trước hoa nghiêm một kiếp; lạ gì non xanh đất sét, cùng chung luân lạc ngàn thu.
Tôi vốn đa tình, cảm người đồng điệu. Chưa tỉnh hai chữ "Không hoa" trong bể sắc, luống ham một trường "Ảo mộng" giữa đêm xuân. Nhà vàng chưa ả, niềm riêng mơ tưởng hão huyền;
người đẹp cỏ thơm, đời cách chiêu hồn phảng phất. Nhân cất bút nhớ người, bèn theo hồi chia vịnh.
Viết đã quá dài, thánh thót giọt mưa tiêu bên cửa; hồn như có tới, dập dình như theo sóng Lạc canh khuya.
VI. BẢN DỊCH CỦA TÔ NAM
Ví chăng :
Mối tình quạt ước, chàng Kim không dở việc phù tang
Vụ án tơ vương, quan phủ xét rõ tình oan khuất.
Thì cũng :
Sắt cầm hòa nhịp, cốt nhục sum vầy
Ngọc bích còn nguyên, thoa vàng chẳng gãy.
Khách buôn hoa nguyệt, tự đâu đem vàng đến đổi trận cười
Tay chúa hải tần, hồ dễ cởi giáp quay về hàng phục.
Thì sao tỏ được :
Hiếu hạnh của khách buồng the
Cơ quyền của trang hiệp nữ.
Mới hay :
Việc không khuất khúc nó chẳng ly kỳ
Đời có éo le, càng thêm rạng rỡ.
Cô đã là người hiểu thấu, ông xanh ghét bỏ chi tài
Tôi đây cũng nghĩ thế mà, má hồng đừng than phận bạc.
Chỉ vì :
Chưa thông manh mối, đã lén thề nguyền
Sa ngã một lần, lẳng lơ mất nết.
Nên có kẻ bảo :
Vì tình lãng mạn, theo đà nước cuốn mây trôi Nói dễ trở nên, cái thói cành đưa lá đón
Nhưng có biết đâu :
Bông hạnh dẫu nở ngoài tường, chưa để con ong rút nhị Dao con không liều mệnh bạc, vì e lây vạ cháy thành. Muốn giữ tấm lòng tuyết sạch giá trong
Đành phải nuốt hận qua ngày đoạn tháng.
Hạt châu không vết, giá kia sánh với thành liền Lớp sóng trôi qua, hồn vẫn mơ về bến cũ. Hãy cứ bình tình mà xét
Thử xem tâm tích cân qua.
Huống chi :
Mười vận tân thi, tập Đoạn trường đã treo giải nhất Bốn dây cung oán, đàn Bạc mệnh cũng phả từ xa. Người nghe luống những não nề
Hình ảnh còn đương xúng xính.
Khiến cho hoa hờn liễu tủi
Vì thua dáng điệu yêu kiều.
Cười khóc nên thơ, góp mặt phong lưu đất Bắc
Điểm tô đậm nhạt, đều tăng vẻ đẹp thiên nhiên
Vậy nên những khắc chung tình, phần tên họ ghi kính nơi cạp quần gấu áo Đến nỗi ngàn sau chép truyện, nét ăn chơi còn moi chỗ phấn tã son tàn. Than ôi :
Nửa kiếp phong trần, bao phen vùi dập
Đường tình mờ mịt, bể hận mênh mang.
Tơ mành theo gió thổi đi, không nơi nương tựa
Cành hoa rơi vào mảnh đục, hết chỗ nâng niu.
Ô hay việc không dính dáng, hơi đâu than khóc người xưa. Nhưng khi :
Dưới nguyệt nghe khúc tỳ bà, lệ tuôn đẫm áo
Bên sông ca bài ngọc thụ, khách cũng phờ râu.
Xưa nay danh sĩ giai nhân, vốn có nợ duyên truyền kiếp Ngàn thu sanh non đất đỏ, trong vòng lẩn quẩn thương nhau. Tôi vốn đa tình, cảm người đồng điệu
Đôi chữ không hoa chưa tỉnh
Trong trường xuân mộng còn say
Bâng khuâng chuyện đúc nhà vàng, chờ người quốc sắc
Nên cũng mượn chòm phương thảo, hú vía giai nhân
Trong khi bút hứng dạt dào
Chia vịnh từng hồi để lại.
Sở dĩ dài dòng văn tự, vì câu chuyện vẫn trong lúc quán khách đêm mưa Họa chăng hồn có về đây, hãy còn mảng thú yên ba trên dòng Lạc thủy.
VII. BẢN DỊCH CỦA LÃNG NHÂN
Ví thử :
Gắn bó tự ngày trao quạt, tang Liêu Dương đừng lỡ hẹn duyên hài, đặt bày cho gã bán tơ, án Lôi quận giải ngay niềm oan khuất.
Ắt là :
Sắt cầm êm ả, cốt nhục sum vầy
Ngọc biếc vẫn lành, thoa vàng không gãy.
Lả lơi hoa rượu, khách làng chơi đâu được dịp mua cười; ngang dọc biên thùy, tay cung kiếm há thua cơ bó giáp ?
Thì sao thấy được :
Chốn khuê các đã đủ điều hiếu hạnh;
bạn quần thoa mà biết lẽ kinh quyền!
Mới hay :
Việc đời khuất khúc, chuyện mới ly kỳ;
cảnh ngộ éo le nết càng tỏ rõ.