🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Trưởng Thành - Trách Nhiệm Là Chính Mình
Ebooks
Nhóm Zalo
OSHO
Trưởng thành
Trách nhiệm
là chính mình
Sự sáng suốt về cách sống mới
HÀ NỘI 3/2010
OSHO
Maturity
The Responsibility of Being Oneself
Insights for a New Way of Living
ÓOSHO INTERNATIONAL FOUNDATION
Trưởng thành: Trách nhiệm là chính mình
Copyright © 2000 Osho International Foundation, Switzerland. www.osho.com.
OSHO là thương hiệu đã đăng kí của Osho International Foundation, được dùng theo giấy phép/cấp phép.
Mục lục
Mục lục
Lời nói đầu
Nghệ thuật sống
Định nghĩa
Từ dốt nát tới hồn nhiên
Trưởng thành và già đi
Trưởng thành của tâm linh
Chu kì bẩy năm của cuộc sống
Hội chứng
Người lạ trong phòng khách
Mãn kinh - Đó không chỉ là "thứ của con gái" Lão già dơ dáy
Cay đắng
Quan hệ trưởng thành
Phụ thuộc, Độc lập, Liên thuộc
Nhu cầu và việc cho, yêu và có
Tình yêu và hôn nhân
Bố mẹ và con cái
Tình yêu cộng với nhận biết bằng hiện hữu Đứng ở ngã tư đường
Khi vĩnh hằng thấm vào thời gian
Luật của già đi
Chuyển tiếp
Từ không tới có
Hoà nhập và định tâm
Khi sinh và tử trở thành một
Vứt bỏ trò chơi
Câu đố
Giết người biện minh được
Sống không thái độ
Từ dục tới dâm dục
Cuộc hành trình tiếp diễn
Về tác giả
NƠI THIỀN
Cộng đồng Osho quốc tế
Lời nói đầu
Nghệ thuật sống
Con người được sinh ra để đạt tới cuộc sống, nhưng điều đó tất cả phụ thuộc vào con người. Con người có thể bỏ lỡ nó. Con người có thể cứ thở, con người có thể cứ ăn, con người có thể cứ già đi, con người có thể cứ đi tới nấm mồ - nhưng đây không phải là cuộc sống, đây là cái chết dần. Từ cái nôi tới nấm mồ… cái chết dần dài bẩy mươi năm. Và bởi vì hàng triệu người quanh bạn đang chết trong cái chết chậm chạp, dần dần này, bạn cũng bắt đầu bắt chước họ. Trẻ con học mọi thứ từ những người quanh chúng, và chúng ta bị bao quanh bởi cái chết.
Cho nên điều đầu tiên chúng ta phải hiểu điều tôi ngụ ý bởi "sống". Nó phải không đơn giản chỉ là già đi, nó phải là trưởng thành. Và đây là hai điều khác biệt.
Già đi, bất kì con vật nào cũng có khả năng ấy. Trưởng thành là đặc quyền của con người.
Chỉ vài người mới tuyên bố về quyền này.
Trưởng thành có nghĩa là mọi khoảnh khắc đều đi sâu hơn vào nguyên tắc của cuộc sống; nó có nghĩa là đi xa khỏi cái chết - không hướng tới cái chết. Bạn càng đi sâu hơn vào cuộc sống, bạn càng hiểu nhiều hơn cái bất tử bên trong mình. Bạn đi xa khỏi cái chết; một khoảnh khắc tới khi bạn có thể thấy rằng cái chết không là gì ngoài việc thay quần áo, hay đổi nhà, đổi hình dạng - chẳng cái gì chết, chẳng cái gì có thể chết được.
Cái chết là ảo tưởng lớn nhất có đó.
Với trưởng thành, quan sát cây cối mà xem. Khi cây vươn lên cao, rễ của nó ăn sâu xuống, sâu hơn. Có cân bằng - cây vươn càng cao rễ ăn càng sâu. Bạn không thể có cây cao bốn chục mét với bộ rễ nhỏ được; chúng không thể đỡ được cây khổng lồ như vậy.
Trong cuộc sống, trưởng thành nghĩa là đi sâu vào bên trong bản thân mình - đó là nơi rễ của bạn ăn vào.
Với tôi, nguyên tắc thứ nhất của cuộc sống là thiền. Mọi thứ khác tới ở hàng thứ hai. Và thời thơ ấu là thời gian đẹp nhất. Khi bạn già hơn điều đó nghĩa là bạn đang tới gần cái chết hơn, và việc đi vào thiền trở thành ngày một khó khăn hơn.
Thiền nghĩa là đi vào trong cái bất tử của bạn, đi vào trong cái vĩnh hằng của bạn, đi vào trong tính thượng đế của bạn. Và đứa trẻ là người đủ phẩm chất nhất bởi vì nó không bị nặng gánh bởi tri thức, không bị nặng gánh bởi tôn giáo, không bị nặng gánh bởi giáo dục, không bị nặng gánh bởi đủ mọi loại rác rưởi. Nó hồn nhiên.
Nhưng không may hồn nhiên của nó bị kết án là dốt nát. Dốt nát và hồn nhiên có điểm tương tự, nhưng chúng không là một. Dốt nát cũng là trạng thái không biết - nhưng có khác biệt lớn lao nữa, điều đã bị toàn thể nhân loại bỏ qua mãi cho tới nay. Hồn nhiên là không có hiểu biết nhưng nó không có ham muốn được hiểu biết. Nó là mãn nguyện, thoả mãn hoàn toàn.
Đứa trẻ nhỏ không có tham vọng, nó không có ham muốn. Nó bị cuốn hút thế vào khoảnh khắc này - con chim tung cánh thu hút mắt nó toàn bộ thế; mỗi con bướm thôi, màu sắc rực rỡ, và nó bị mê mẩn; cầu vồng trên trời... và nó không thể nào quan niệm được rằng có thể có cái gì ý nghĩa hơn, phong phú hơn cầu vồng này. Và đêm đầy sao, sao xa tít ngoài sao...
Hồn nhiên là giầu có, nó là tràn đầy, nó là thuần khiết.
Dốt nát là nghèo nàn, nó là kẻ ăn xin - nó muốn cái này, nó muốn cái nọ, nó muốn được am hiểu, nó muốn được kính trọng, nó muốn giầu có, nó muốn quyền hành. Dốt nát đi trên con đường của ham muốn. Hồn nhiên là trạng thái của vô ham muốn. Nhưng bởi vì cả hai đều không có tri thức, chúng ta bị lẫn lộn về bản chất của chúng. Chúng ta đã cứ cho rằng chúng là một.
Bước đầu tiên trong nghệ thuật sống là hiểu ra phân biệt giữa dốt nát và hồn nhiên. Hồn nhiên phải được hỗ trợ, được bảo vệ - bởi vì đứa trẻ đã mang theo mình kho báu vĩ đại nhất, kho báu mà các hiền nhân tìm ra sau những nỗ lực cam go. Các hiền nhân đã nói rằng họ trở lại thành trẻ thơ lần nữa, rằng họ được tái sinh. Ở Ấn Độ, người brahmin thực, người biết thực, đã tự gọi mình là dwij, được sinh hai lần. Sao lại được sinh ra hai lần? Điều gì đã xảy ra cho lần sinh thứ nhất? Cần gì phải có lần sinh thứ hai? Và người đó sẽ được gì trong lần sinh thứ hai?
Trong lần sinh thứ hai người đó sẽ thu được điều đã có sẵn ở lần sinh thứ nhất nhưng xã hội, bố mẹ, những người xung quanh người đó đã chà nát nó, phá huӹ nó. Mọi đứa trẻ đều bị nhồi nhét bởi tri thức. Tính đơn giản của nó bằng cách nào đó phải bị loại bỏ đi, bởi vì đơn giản sẽ không ích gì cho
nó trong thế giới cạnh tranh này. Đơn giản của nó đối với thế giới sẽ có vẻ như nó là kẻ khờ; hồn nhiên của nó sẽ bị khai thác theo đủ mọi cách. Sợ xã hội, sợ thế giới mà bản thân chúng ta đã tạo ra, chúng ta cố gắng làm cho mọi đứa trẻ thành láu lỉnh, tinh ranh, am hiểu - lọt vào loại người có quyền lực, không vào loại người bị áp bức và bất lực.
Và một khi đứa trẻ bắt đầu phát triển theo hướng sai, nó cứ đi mãi theo con đường đó - toàn thể cuộc sống của nó đi theo hướng đó.
Bất kì khi nào bạn hiểu rằng bạn đã bỏ lỡ cuộc sống, nguyên tắc đầu tiên cần quay lại là hồn nhiên. Vứt bỏ tri thức, quên đi kinh sách, quên đi tôn giáo, lí thuyết thượng đế học, các triết học của bạn. Được sinh ra lần nữa, trở thành hồn nhiên - và nó lại ở trong tay bạn. Lau sạch tâm trí mọi thứ không do bạn biết, mọi thứ vay mượn, mọi thứ tới từ truyền thống, tục lệ. Mọi thứ đã được người khác trao cho bạn - bố mẹ, thầy giáo, đại học, cứ việc gạt bỏ nó đi. Lần nữa lại thành đơn giản, lần nữa lại là đứa trẻ. Và phép màu này là điều có thể xảy ra qua thiền.
Thiền đơn giản là phương pháp giải phẫu kì lạ cắt rời bạn khỏi mọi thứ không phải là của bạn và giữ lại chỉ những thứ là bản thể đích thực của bạn. Nó thiêu cháy mọi thứ khác và để cho bạn đứng đó trần trụi, một mình dưới mặt trời, trong gió. Cứ dường như bạn là người đầu tiên mới xuống trái đất - người chẳng biết gì, người phải khám phá ra mọi thứ, người phải là người tìm kiếm, người phải đi vào cuộc hành hương.
Nguyên tắc thứ hai là cuộc hành hương. Cuộc sống phải là việc tìm tòi - không phải là ham muốn mà là việc truy tìm; không phải là tham vọng trở thành cái này, trở thành cái nọ, tổng thống một nước hay thủ tướng một nước, mà là cuộc truy tìm để tìm ra "Mình là ai?"
Điều rất lạ là những người không biết mình là ai, đang cố gắng trở thành ai đó. Họ thậm chí không biết mình là ai ngay lúc này! Họ không quen thuộc với bản thể mình - nhưng họ có mục đích trở thành.
Trở thành là bệnh tật của linh hồn.
Hiện hữu là bạn.
Và khám phá ra sự hiện hữu của mình là bắt đầu của cuộc sống. Thế thì từng khoảnh khắc đều là khám phá mới, từng khoảnh khắc đều đem tới niềm vui mới. Bí ẩn mới mở ra cánh cửa của nó, tình yêu mới bắt đầu lớn lên trong bạn, từ bi mới mà bạn chưa bao giờ cảm thấy trước đây, nhạy cảm
mới về cái đẹp, về tính thượng đế. Bạn trở thành nhạy cảm tới mức ngay cả nhành cỏ nhỏ bé nhất cũng giữ tầm quan trọng mênh mông với bạn. Nhạy cảm của bạn cho bạn thấy rõ ràng rằng nhành cỏ nhỏ này cũng quan trọng với sự tồn tại như ngôi sao lớn nhất kia; không có nhành cỏ này, sự tồn tại sẽ không được như nó đang vậy. Nhành cỏ nhỏ này là duy nhất, nó là không thể thay thế được, nó có tính cá nhân riêng của nó.
Và nhạy cảm này sẽ tạo ra tình bạn mới cho bạn - tình bạn với cây cối, với chim chóc, với con vật, với núi non, với dòng sông, với đại dương, với các vì sao. Cuộc sống trở nên giầu có hơn khi tình yêu phát triển, khi tình bạn phát triển.
Trong cuộc đời của thánh Francis có một sự kiện đẹp. Ông ấy sắp chết, và ông ấy bao giờ cũng du hành trên lưng một con lừa từ chỗ nọ tới chỗ kia để chia sẻ kinh nghiệm của mình. Tất cả các đệ tử của ông ấy đều tụ tập lại để nghe lời nói cuối cùng của ông ấy. Lời cuối cùng của một người bao giờ cũng là lời có ý nghĩa nhất mà người đó đã từng thốt ra bởi vì chúng chứa toàn thể kinh nghiệm của cuộc sống của người đó.
Nhưng điều các đệ tử nghe thấy, họ không thể nào tin nổi...
Thánh Francis đã không phát biểu gì với các đệ tử cả, ông ấy lại nói với con lừa. Ông ấy nói, "Người anh em, ta vô cùng biết ơn anh. Anh chở ta từ chỗ này qua chỗ kia mà chẳng một lời phàn nàn, chẳng bao giờ càu nhàu. Trước khi ta rời khỏi thế giới này, mọi điều ta muốn là sự tha thứ từ anh; ta đã không nhân đức với anh." Đây là những lời cuối cùng của thánh Francis. Nhạy cảm vô cùng để nói với với con lừa, "Người anh em lừa…" và xin tha thứ.
Khi bạn trở nên nhạy cảm hơn, cuộc sống trở thành lớn lao hơn. Nó không phải là cái ao nhỏ, nó trở thành có tính đại dương. Nó không bị giới hạn vào bạn và vợ bạn và con bạn - nó không bị giới hạn chút nào. Toàn thể sự tồn tại này trở thành gia đình bạn, và chừng nào toàn thể sự tồn tại này còn chưa là gia đình bạn thì bạn vẫn còn chưa biết cuộc sống là gì - bởi vì không người nào là hòn đảo cả, tất cả chúng ta đều được nối với nhau.
Chúng ta là lục địa bao la, được nối liền theo cả triệu cách.
Và nếu trái tim chúng ta còn chưa tràn đầy tình yêu với cái toàn thể, cuộc sống của chúng ta cũng bị cắt ngắn đi theo cùng tỉ lệ đó.
Thiền sẽ đem tới cho bạn nhạy cảm, cảm giác lớn lao của việc thuộc về thế giới này. Nó là thế giới của chúng ta - các vì sao là của chúng ta, và chúng ta không phải là người xa lạ ở đây. Chúng ta cố hữu thuộc vào sự tồn tại. Chúng ta là một phần của nó, chúng ta là trung tâm của nó.
Điều thứ hai, thiền sẽ đem bạn tới im lặng lớn lao - bởi vì mọi tri thức rác rưởi đều đã mất đi rồi. Các ý nghĩ là một phần của tri thức cũng mất đi rồi... im lặng mênh mông, và bạn ngạc nhiên: Im lặng này là âm nhạc duy nhất có đó.
Mọi âm nhạc đều là nỗ lực để đem im lặng này vào sự hiển lộ bằng cách nào đó. Những nhà tiên tri của phương Đông cổ đại đã rất nhấn mạnh tới điểm là mọi nghệ thuật vĩ đại - âm nhạc, thơ ca, điệu múa, hội hoạ, điêu khắc - tất cả đều được sinh ra từ thiền. Chúng là nỗ lực để bằng cách nào đó đem cái không thể biết được vào thế giới của cái đã biết cho những người còn chưa sẵn sàng cho cuộc hành hương - chính là món quà cho những người còn chưa sẵn sàng đi vào cuộc hành hương. Có lẽ bài ca có thể làm bật ra ham muốn đi vào cuộc truy tìm về cội nguồn, có thể là một bức tượng.
Lần sau các bạn đi vào đền thờ Phật Gautam, ngồi im lặng, quan sát bức tượng này đi. Bởi vì bức tượng này đã được làm theo cách, theo tỉ lệ mà nếu bạn quan sát nó bạn sẽ rơi vào im lặng. Nó là bức tượng của thiền; nó chẳng liên quan gì tới Phật Gautam cả.
Đó là lí do tại sao tất cả những bức tượng đó lại đều trông giống nhau - Mahavira, Phật Gautam, Neminatha, Adinatha.... Hai mươi bốn tirthankaras của người Jaina... trong cùng một ngôi đền bạn sẽ thấy hai mươi bốn bức tượng tất cả đều giống nhau, đích xác hệt như nhau. Thời thơ ấu tôi hay hỏi bố tôi, "Bố có thể giải thích cho con sao lại có thể cả hai mươi bốn người đó giống hệt nhau đến thế? - cùng kích thước, cùng cái mũi ấy, cùng khuôn mặt ấy, cùng thân thể ấy..."
Và bố tôi thường nói, "Bố chẳng biết. Bố bao giờ cũng tự mình thấy khó hiểu rằng chẳng có một chút khác biệt nào. Và điều đó gần như chưa được nghe nói tới - thậm chí không có hai người trên cả thế giới này giống nhau, còn nói gì tới cả hai mươi bốn người?"
Nhưng khi thiền của tôi nở hoa thì tôi tìm ra câu trả lời - chẳng từ ai khác cả, tôi đã tìm ra câu trả lời rằng những bức tượng này chẳng liên quan gì tới những người kia cả. Những bức tượng này có cái gì đó liên quan tới
điều đang xảy ra bên trong hai mươi bốn người kia, và việc xảy ra đó đích xác là một. Chúng ta đã không bận tâm tới cái bên ngoài; chúng ta đã nhấn mạnh rằng chỉ cái bên trong mới nên được chú ý tới. Cái bên ngoài là không quan trọng. Ai đó là thanh niên, ai đó là người già, ai đó da đen, ai đó da trắng, ai đó đàn ông, ai đó đàn bà - chẳng thành vấn đề gì cả; điều thành vấn đề là ở chỗ bên trong có đại dương im lặng. Trong trạng thái đại dương đó, thân thể lấy một điệu bộ nào đó.
Bạn đã tự mình quan sát điều đó rồi, nhưng bạn lại không tỉnh táo. Khi bạn giận dữ, bạn có quan sát không? - thân thể bạn lấy một điệu bộ nào đó. Trong giận dữ bạn không thể để bàn tay mình mở được; trong giận dữ - nắm đấm. Trong giận dữ bạn không thể mỉm cười được - hay bạn có thể? Với một xúc động nào đó, thân thể phải tuân theo điệu bộ nào đó.
Những điều nhỏ bé được liên hệ sâu sắc bên trong.
Cho nên những bức tượng này được tạo ra theo cách để nếu bạn đơn giản ngồi im lặng và quan sát, và rồi nhắm mắt lại, thì một hình ảnh âm bản, mờ bóng sẽ đi vào trong thân thể bạn và bạn bắt đầu cảm thấy cái gì đó mà bạn chưa từng cảm thấy trước đây. Những bức tượng và ngôi đền đó không được làm ra để tôn thờ; chúng được làm ra để kinh nghiệm. Chúng là những phòng thí nghiệm khoa học - chúng chẳng liên quan gì với tôn giáo cả! Một khoa học bí mật nào đó đã được dùng trong hàng thế kỉ để cho các thế hệ sắp tới có thể đi vào tiếp xúc với kinh nghiệm của các thế hệ cổ hơn. Không qua sách vở, không qua lời, mà qua cái gì đó đi sâu hơn - qua im lặng, qua thiền, qua an bình.
Khi im lặng của bạn làm phát triển tình bằng hữu của bạn, thì tình yêu của bạn cũng phát triển; cuộc sống của bạn trở thành điệu vũ từ khoảng khắc nọ sang khoảnh khắc kia, thành lễ hội.
Bạn đã bao giờ nghĩ xem tại sao, trên khắp thế giới, trong mọi nền văn hoá, trong mọi xã hội, luôn có vài ngày trong năm dành cho lễ hội? Vài ngày này dành cho lễ hội chỉ là sự bù lại - bởi vì các xã hội này đã lấy đi mọi lễ hội của cuộc sống của bạn và nếu không có cái gì được trao cho bạn để bù lại thì cuộc sống của bạn có thể trở thành mối nguy hiểm cho nền văn hoá.
Mọi nền văn hoá đều cho bạn đền bù nào đó để cho bạn không cảm thấy bị mất hút hoàn toàn trong khổ, trong buồn. Nhưng những đền bù này là giả tạo.
Pháo bông và ánh sáng đủ mầu sắc không thể làm cho bạn vui mừng được. Chúng chỉ dành cho trẻ con - với bạn chúng chỉ là mối phiền toái. Nhưng trong thế giới bên trong của bạn có thể có ánh sáng, bài ca, vui vẻ liên tục.
Bao giờ cũng nhớ rằng xã hội đền bù cho bạn khi nó cảm thấy rằng cái bị kìm nén có thể bùng nổ trong tình huống nguy hiểm nếu không được đền bù. Xã hội tìm cách nào đó để cho phép bạn xả bớt cái bị kìm nén ra - nhưng đây không phải là lễ hội thật, và nó không thể thật được.
Lễ hội thật phải tới từ cuộc sống của bạn, trong cuộc sống của bạn.
Và lễ hội thật không thể theo lịch được, rằng vào ngày đầu tiên của tháng mười một bạn sẽ mở hội. Kì lạ, cả năm bạn khổ và vào ngày đầu của tháng mười một bỗng nhiên bạn thoát ra khỏi khổ, nhảy múa sao? Hoặc khổ là giả hoặc ngày đầu tháng mười một là giả; cả hai không thể cùng thật được. Và một khi ngày đầu tháng mười một qua rồi bạn trở lại vào lỗ đen của mình, mọi người về lại trong khổ của mình, mọi người về lại trong lo âu của mình.
Cuộc sống phải là lễ hội liên tục, liên hoan ánh sáng của năm tròn. Chỉ thế thì bạn mới có thể trưởng thành, bạn mới có thể nở hoa.
Biến đổi những điều nhỏ bé thành lễ hội đi.
Chẳng hạn, ở Nhật Bản họ có lễ hội trà. Trong mọi thiền viện và trong mọi nhà của những người có thể đảm đương được điều đó, họ đều có một ngôi đền nhỏ cho việc uống trà. Bây giờ, trà không còn là điều bình thường, thế tục; họ đã biến đổi nó thành lễ hội. Ngôi đền dành cho việc uống trà được làm theo cách nào đó - trong khu vườn đẹp, với cái ao đẹp; thiên nga bơi trong ao, hoa nở khắp xung quanh. Khách tới và họ phải bỏ giầy bên ngoài; đó là ngôi đền. Và khi bạn đi vào đền bạn không thể nói được; bạn phải bỏ suy nghĩ và các ý nghĩ và việc nói của mình ở bên ngoài cùng đôi giầy. Bạn ngồi xuống trong tư thế thiền và người chủ, người đàn bà chuẩn bị trà cho bạn - chuyển động của bà ấy mới duyên dáng thế, cứ dường như bà ấy đang múa, di chuyển xung quanh chuẩn bị trà, đặt chén và đĩa trước bạn cứ như bạn là thượng đế. Với kính trọng như vậy... bà ấy sẽ cúi lạy, và bạn sẽ nhận trà với cùng sự kính trọng.
Trà được chuẩn bị trong một chiếc ấm đặc biệt, tạo ra âm thanh hay, âm nhạc của riêng nó. Và một phần của lễ hội trà là mọi người phải lắng nghe âm nhạc của trà trước hết. Cho nên mọi người đều im lặng, lắng nghe...
chim chóc ríu rít bên ngoài vườn, và tiếng ấm reo... trà đang tạo ra bài ca riêng của nó. An bình bao quanh...
Khi trà đã sẵn sàng và nó được rót vào cốc của mọi người, bạn không chỉ uống nó theo cách mọi người vẫn làm ở mọi nơi. Trước hết bạn sẽ ngửi hương của trà. Bạn sẽ nhấm nháp trà cứ dường như nó tới từ cõi bên kia, bạn dành thời gian - chẳng vội gì. Ai đó có thể bắt đầu thổi sáo hay đánh đàn sitar. Một điều bình thường - chỉ trà thôi - và họ đã làm nó thành liên hoan tôn giáo đẹp. Mọi người tới với nó để được nuôi dưỡng, tươi tắn, cảm thấy trẻ trung hơn, cảm thấy lí thú hơn.
Và điều có thể được làm với trà cũng có thể được làm với mọi thứ - với quần áo của bạn, với thức ăn của bạn. Mọi người đang sống gần như trong giấc ngủ; bằng không thì mọi vải, mọi lụa có cái đẹp riêng của nó, cảm giác riêng của nó. Nếu bạn nhạy cảm thì quần áo không chỉ che phủ thân thể bạn, thế thì nó là cái gì đó diễn đạt tính cá nhân của bạn, cái gì đó diễn đạt hương vị của bạn, văn hoá của bạn, bản thể của bạn. Mọi thứ bạn làm nên mang tính diễn đạt về bạn; nó nên có chữ kí riêng lên nó. Thế thì cuộc sống trở thành lễ hội liên tục.
Cho dù bạn bị ốm và bạn đang nằm trên giường, bạn sẽ làm cho những khoảnh khắc nằm trên giường đó thành khoảnh khắc của cái đẹp và niềm vui, khoảnh khắc của thảnh thơi và nghỉ ngơi, khoảnh khắc của thiền, khoảnh khắc của việc nghe âm nhạc hay thơ ca. Không có nhu cầu buồn rằng bạn ốm. Bạn phải hạnh phúc rằng mọi người đều ở văn phòng còn bạn nằm trên giường như vua, thảnh thơi - ai đó đang chuẩn bị trà cho bạn, ấm nước đang reo bài ca, một người bạn đã đề nghị được tới và thổi sáo cho bạn...
Những điều này còn quan trọng hơn bất kì thuốc nào. Khi bạn ốm, gọi bác sĩ tới. Nhưng điều quan trọng hơn, gọi những người yêu bạn tới bởi vì không có thuốc nào quan trọng hơn tình yêu. Gọi những người có thể tạo ra cái đẹp, âm nhạc, thơ ca tới quanh bạn bởi vì không có gì chữa lành được như tâm trạng lễ hội. Thuốc là loại trị liệu thấp nhất - nhưng dường như chúng ta đã quên mất mọi thứ, cho nên chúng ta phải lệ thuộc vào thuốc và trở nên gắt gỏng và buồn bã, cứ dường như bạn đang bỏ lỡ vui vẻ lớn lao nào đó bạn đang có ở văn phòng! Trong văn phòng bạn khổ - mới mỗi một ngày vắng và bạn vẫn níu bám lấy khổ, nữa - bạn sẽ không buông bỏ nó.
Làm mọi thứ mang tính sáng tạo đi, làm điều tốt nhất từ điều tồi nhất - đó là điều tôi gọi là nghệ thuật sống. Và nếu một người đã sống cả đời mình làm mọi khoảnh khắc và mọi pha của nó thành cái đẹp, tình yêu, niềm vui, thì một cách tự nhiên cái chết của người đó sẽ là đỉnh cao tối thượng của toàn bộ nỗ lực của người đó. Những chi tiết cuối cùng... cái chết của người đó sẽ không xấu như nó vẫn thường xảy ra mọi ngày cho mọi người.
Nếu cái chết mà xấu, điều đó nghĩa là toàn thể cuộc sống của bạn đã bị phí hoài. Cái chết nên là chấp nhận an bình, lối đi đáng yêu vào cái không biết, lời chào tạm biệt vui vẻ với những người bạn cũ, với thế giới cũ. Không nên có thảm kịch nào trong nó.
Một Thiền sư, Lin Chi, sắp chết. Hàng nghìn đệ tử của ông ấy đã tụ tập tại buổi thuyết giảng cuối cùng, nhưng Lin Chi chỉ nằm đó - vui vẻ, mỉm cười, nhưng chẳng nói lấy một lời.
Thấy rằng ông ấy sắp chết rồi và ông ấy lại chẳng nói lấy một lời, ai đó nhắc Lin Chi - một người bạn cũ, một bậc thầy theo đúng thẩm quyền của ông ấy... Ông ấy không phải là đệ tử của Lin Chi; đó là lí do tại sao ông ấy có thể nói với ông này, "Lin Chi, ông đã quên mất rằng ông phải nói lời cuối của mình sao? Tôi bao giờ cũng nói trí nhớ của ông không được ổn. Ông sắp chết rồi... ông quên mất rồi sao?"
Lin Chi nói, "Nghe đây." Và trên mái nhà hai con sóc đang chạy, kêu ríu rít. Và ông ấy nói, "Hay thế" rồi ông ấy chết.
Trong một khoảnh khắc, khi ông ấy nói "Nghe đây," đã có im lặng tuyệt đối. Mọi người đều nghĩ ông ấy sắp nói điều gì đó lớn lao, nhưng chỉ hai con sóc đang đánh nhau, kêu ríu rít, chạy trên mái nhà.... Và ông ấy mỉm cười rồi ông ấy chết. Nhưng ông ấy đã trao thông điệp cuối cùng của mình: đừng làm mọi thứ thành nhỏ và lớn, tầm thường và quan trọng. Mọi thứ đều quan trọng. Vào khoảnh khắc này, cái chết của Lin Chi là quan trọng cũng như hai con sóc đang chạy trên mái, chẳng có khác biệt gì. Trong sự tồn tại tất cả đều như nhau. Đó là toàn thể triết lí của ông ấy, giáo huấn của cả đời ông ấy - rằng không có gì lớn lao và không có gì nhỏ bé cả; tất cả đều phụ thuộc vào bạn, điều bạn làm ra từ nó.
Bắt đầu bằng thiền, và mọi sự sẽ cứ phát triển trong bạn - im lặng, chân thành, phúc lạc, nhạy cảm. Và bất kì cái gì tới từ thiền, cố đem nó vào cuộc sống. Chia sẻ nó, bởi vì mọi thứ được chia sẻ đều phát triển nhanh. Và khi bạn đã đạt tới điểm của cái chết, bạn sẽ biết không có cái chết. Bạn có thể
nói lời tạm biệt, không có nhu cầu cho nước mắt của buồn rầu - có thể có nước mắt của niềm vui, nhưng không của nỗi buồn.
Nhưng bạn phải bắt đầu từ việc mang tính hồn nhiên.
Cho nên trước hết, vứt mọi thứ tào lao bạn đang mang đi - và mọi người đều đang mang nhiều thứ tào lao thế! Người ta tự hỏi, để làm gì? Chỉ bởi vì mọi người đã nói với bạn rằng đây là những tư tưởng vĩ đại, những nguyên lí... Bạn đã không thông minh với chính mình. Thông minh với chính mình đi.
Cuộc sống rất đơn giản, nó là điệu vũ vui vẻ. Và toàn thể trái đất này có thể tràn đầy niềm vui và điệu vũ, nhưng có những người nghiêm trang mong rằng không ai nên cười, rằng không ai nên mỉm cười, rằng không ai nên cười to, rằng cuộc sống là tội lỗi, rằng cuộc sống là sự trừng phạt. Làm sao bạn có thể tận hưởng được cuộc sống khi hoàn cảnh lại ở mức bạn đã được liên tục bảo cho rằng nó là sự trừng phạt? - rằng bạn đang chịu đựng bởi vì bạn đã làm những điều sai trái, và đó là một loại nhà giam nơi bạn đã bị tống vào đó để chịu đựng?
Tôi nói với bạn cuộc sống không phải trại giam, nó không phải là sự trừng phạt. Nó là phần thưởng, và nó được trao cho chỉ những người đã kiếm được nó, người xứng đáng với nó. Bây giờ tận hưởng nó là quyền của bạn; nếu bạn không tận hưởng nó thì đó sẽ là tội lỗi. Sẽ là chống lại sự tồn tại nếu bạn rời khỏi nó như khi bạn đã tìm tới nó. Không, rời khỏi nó với chút ít hạnh phúc hơn, chút ít hương thơm hơn.
Lắng nghe bản thể bạn đi. Nó liên tục cho bạn các hướng dẫn đấy; nó là tiếng nói nhỏ bé, tĩnh lặng. Nó không quát tháo bạn, điều đó đúng. Và nếu bạn có chút ít im lặng bạn sẽ bắt đầu cảm thấy cách
thức của mình. Là con người bạn đang là đi. Đừng bao giờ cố gắng là người khác, và bạn sẽ trưởng thành. Trưởng thành là chấp nhận trách nhiệm là chính mình, với bất kì giá nào. Mạo hiểm tất cả để là chính mình, đó là tất cả những gì là sự trưởng thành.
Định nghĩa
Từ dốt nát tới hồn nhiên
Trưởng thành có cùng nghĩa như hồn nhiên, chỉ với một khác biệt duy nhất: nó là hồn nhiên được giành lại, nó là hồn nhiên được đoạt lại. Mọi đứa trẻ sinh ra đều hồn nhiên, nhưng mọi xã hội đều làm biến chất nó. Mọi xã hội, mãi cho tới nay, đều đã gây ảnh hưởng huӹ hoại lên mọi đứa trẻ. Mọi nền văn hoá đều tuỳ thuộc vào việc khai thác hồn nhiên của trẻ thơ, vào việc khai thác đứa trẻ, vào việc làm cho nó thành kẻ nô lệ, vào việc huấn luyện nó vì chủ định riêng của họ, vì mục đích riêng của họ - chính trị, xã hội, ý thức hệ. Toàn thể nỗ lực của họ đã là làm sao tuyển lựa đứa trẻ như một nô lệ cho mục đích nào đó. Những mục đích đó do các quyền lợi được đảm bảo quyết định. Các tu sĩ và chính khách đã cùng tham gia vào một mưu đồ thâm sâu, họ đã làm việc cùng nhau.
Khoảnh khắc đứa trẻ bắt đầu trở thành một phần của xã hội, nó cũng bắt đầu đánh mất đi cái gì đó giá trị vô cùng; nó bắt đầu đánh mất đi mối tiếp xúc với Thượng đế. Nó trở nên bị dính vào cái đầu, nó quên mất tất cả về trái tim - mà trái tim mới là cây cầu dẫn tới bản thể. Không có trái tim bạn không thể đạt tới bản thể riêng của mình được, điều đó là không thể được. Từ cái đầu không có cách nào đi thẳng tới bản thể; bạn phải đi qua trái tim - và mọi xã hội đều mang tính phá huӹ trái tim. Họ chống lại tình yêu, họ chống lại tình cảm; họ kết án tình cảm chỉ là đa cảm. Họ kết án mọi người yêu trong suốt nhiều thời đại bởi một lí do đơn giản là tình yêu không bắt nguồn từ cái đầu, nó bắt nguồn từ trái tim. Người có khả năng yêu sớm hay muộn sẽ đi tới phát hiện ra bản thể mình - và khi người ta phát hiện ra bản thể mình thì người ta được tự do với mọi cấu trúc, tự do với mọi hình mẫu. Người đó tự do với mọi giam cầm. Người đó là tự do thuần khiết.
Mọi đứa trẻ được sinh ra đều hồn nhiên nhưng mọi đứa trẻ đều bị xã hội làm thành người thành thạo. Do đó trường phổ thông, đại học, cao đẳng tồn tại; chức năng của chúng là phá huӹ bạn, làm biến chất bạn.
Trưởng thành nghĩa là giành lại hồn nhiên bị mất của bạn, đòi lại thiên đường của bạn, trở lại thành đứa trẻ lần nữa. Tất nhiên điều đó có khác biệt - đứa trẻ thường nhất định bị làm biến chất, nhưng khi bạn đòi lại tuổi thơ của mình, bạn trở thành không thể nào bị biến chất được. Không ai có thể làm biến chất bạn, bạn trở thành đủ thông minh - bây giờ bạn biết điều xã
hội đã làm với bạn và bạn tỉnh táo và nhận biết, và bạn sẽ không cho phép điều đó xảy ra lần nữa.
Trưởng thành là tái sinh, việc sinh tâm linh. Bạn được sinh ra tinh khôi, bạn lại là đứa trẻ lần nữa. Với cặp mắt tươi tắn bạn bắt đầu nhìn vào sự tồn tại. Với tình yêu trong tim bạn tiếp cận tới cuộc sống. Với im lặng và hồn nhiên bạn thấm nhuần vào cốt lõi bên trong nhất của riêng mình. Bạn không còn chỉ là cái đầu nữa. Bây giờ bạn dùng cái đầu, nhưng nó là người phục vụ của bạn. Ban đầu bạn trở thành trái tim, và thế rồi bạn siêu việt lên trên ngay cả trái tim...
Đi ra ngoài ý nghĩ và tình cảm và trở thành sự hiện hữu thuần khiết là trưởng thành. Trưởng thành là việc nở hoa tối thượng của thiền.
Jesus nói, "Chừng nào các ông còn chưa được sinh ra lần nữa, các ông sẽ không vào được vương quốc của Thượng đế đâu." Ông ấy đúng đấy, bạn phải được sinh ra lần nữa.
Có lần Jesus đang đứng ở bãi chợ và ai đó hỏi, "Ai xứng đáng vào vương quốc của Thượng đế?" Ông ấy nhìn quanh. Có một giáo sĩ và giáo sĩ này phải bước lên trước một chút, chắc mẩm rằng mình được chọn - nhưng ông ấy lại không được chọn. Rồi lại có người đức hạnh nhất thị trấn - nhà luân lí, nhà thanh giáo. Ông ta bước lên một chút, hi vọng rằng mình được chọn, nhưng ông này cũng không được chọn. Jesus nhìn quanh - ông ấy thấy một đứa trẻ nhỏ, chẳng trông mong gì mình được chọn, chẳng bước lên, cho dù một li. Không có ý tưởng nào, không có vấn đề rằng nó được chọn. Nó chỉ đang thích thú với toàn bộ khung cảnh này - đám đông và Jesus và mọi người bàn tán, còn nó nghe. Jesus gọi đứa trẻ lại, ông ấy bế đứa trẻ giơ lên và ông ấy nói cho đám đông, "Những người giống như đứa trẻ nhỏ này, họ là những người duy nhất xứng đáng vào vương quốc của Thượng đế."
Nhưng nhớ, ông ấy nói, "Những người giống đứa trẻ nhỏ này..." Ông ấy không nói, "Những người là trẻ nhỏ." Có khác biệt lớn lao giữa hai loại người này. Ông ấy không nói, "Đứa trẻ này sẽ vào vương quốc của Thượng đế," bởi vì mọi đứa trẻ nhất định sẽ bị làm biến chất, nó phải đi lạc lối. Mọi Adam và mọi Eve đều nhất định phải bị đuổi khỏi vườn Địa đàng, họ phải đi lạc lối. Đó là con đường duy nhất để thu lại tuổi thơ thực: trước hết bạn phải làm mất nó. Điều này rất lạ, nhưng đó là cách cuộc sống như vậy. Điều đó rất ngược đời, nhưng cuộc sống là ngược đời. Để biết cái đẹp thực của
thời thơ ấu, trước hết bạn phải làm mất nó; bằng không bạn sẽ không bao giờ biết được nó.
Cá không bao giờ biết đại dương ở đâu cả - trừ phi bạn kéo cá ra khỏi đại dương và ném nó lên bãi cát dưới mặt trời cháy bỏng; thế thì nó biết đại dương ở đâu. Bây giờ nó không khao khát đại dương, nó làm mọi nỗ lực để trở lại đại dương, nó nhảy vào trong đại dương. Vẫn cùng con cá đó vậy mà lại không phải là cùng con cá đó. Vẫn cùng đại dương đó vậy mà không phải là cùng đại dương đó, bởi vì con cá đã học được bài học mới. Bây giờ nó nhận biết, bây giờ nó biết, "Đây là đại dương và đây là cuộc sống của mình. Không có nó mình cũng không còn nữa - mình là một phần của nó."
Mọi đứa trẻ đều phải đánh mất hồn nhiên của mình rồi giành lại nó. Việc đánh mất chỉ mới là một nửa của quá trình - nhiều người đã đánh mất nó, nhưng rất ít người giành lại được nó. Đó là điều không may, rất không may. Mọi người đều đánh mất nó, nhưng thỉnh thoảng mới có một Phật, một Zarathustra, một Krishna, một Jesus giành lại được nó. Jesus không là ai khác ngoài Adam đang về nhà. Magdalene không là ai khác ngoài Eve đang quay về nhà. Họ đã bước ra khỏi biển và họ đã thấy khổ và họ đã thấy cái ngu xuẩn. Họ đã thấy rằng ra khỏi đại dương không phải là phúc lạc.
Khoảnh khắc bạn trở nên nhận biết rằng là một phần của bất kì xã hội nào, bất kì tôn giáo nào, bất kì văn hoá nào thì vẫn còn là khổ, thì vẫn còn là tù nhân - chính ngày đó bạn bắt đầu vứt bỏ xiềng xích của mình. Trưởng thành đã tới, bạn đang giành lại hồn nhiên của mình một lần nữa.
Trưởng thành và già đi
Có khác biệt lớn lao giữa trưởng thành và già đi, khác biệt bao la, và mọi người bao giờ cũng vẫn còn bị lẫn lộn về điều đó. Mọi người cứ tưởng rằng già đi là trở nên trưởng thành - nhưng già đi thuộc vào thân thể. Mọi người đều già đi, mọi người đều sẽ trở nên già lão, nhưng không nhất thiết trưởng thành. Trưởng thành là trưởng thành nội tâm.
Già đi không phải là điều bạn làm ra, già đi là cái gì đó xảy ra về mặt thể chất. Mọi đứa trẻ được sinh ra, khi thời gian trôi qua, đều trở nên già. Trưởng thành là cái gì đó bạn đem tới cho cuộc sống của mình - nó tới từ nhận biết. Khi một người già đi với nhận biết tràn đầy người đó trưởng thành. Già đi cộng với nhận biết, kinh nghiệm cộng với nhận biết, là trưởng thành.
Bạn có thể kinh nghiệm một việc theo hai cách. Bạn có thể đơn giản kinh nghiệm nó cứ dường như bạn bị thôi miên, không nhận biết, không chú ý tới điều đang xảy ra; sự việc đã xảy ra nhưng bạn lại không có đó. Nó đã không xảy ra trong sự hiện diện của bạn, bạn vắng mặt. Bạn chỉ đi qua, nó chưa bao giờ gây bất kì chú ý nào trong bạn. Nó chưa bao giờ để lại bất kì dấu hiệu nào lên bạn, bạn chưa bao giờ học được điều gì từ nó. Nó có thể đã trở thành một phần của kí ức của bạn, bởi vì theo một cách nào đó bạn đã hiện diện, nhưng nó lại chưa bao giờ trở thành trí huệ của bạn. Bạn chưa bao giờ trưởng thành qua nó. Thế thì bạn già đi.
Nhưng nếu bạn đem phẩm chất của nhận biết vào một kinh nghiệm thì cùng kinh nghiệm đó trở thành trưởng thành.
Có hai cách sống: một cách là sống trong giấc ngủ say - thế thì bạn già đi, mọi khoảnh khắc bạn đều trở nên già đi, mọi khoảnh khắc bạn cứ chết dần đi, có vậy thôi. Toàn thể cuộc sống của bạn chỉ gồm cái chết chậm chạp, dài dài. Nhưng nếu bạn đem nhận biết vào kinh nghiệm của mình - dù bất kì điều gì bạn làm, bất kì điều gì xảy ra với bạn, bạn đều tỉnh táo, quan sát, lưu tâm, bạn đang thưởng thức kinh nghiệm này từ mọi góc cạnh, bạn đang cố gắng hiểu ý nghĩa của nó, bạn đang cố gắng thấm nhuần vào chính chiều sâu của nó, điều đã xảy ra cho bạn, bạn đang cố gắng sống nó một cách mãnh liệt và toàn bộ - thế thì đấy không chỉ là hiện tượng bề mặt đâu. Sâu ở dưới bên trong bạn cái gì đó đang thay đổi cùng nó. Bạn đang trở nên
ngày một tỉnh táo hơn. Nếu đây là sai lầm, kinh nghiệm này, thì bạn sẽ không bao giờ phạm lại nó lần nữa.
Người trưởng thành không bao giờ phạm phải cùng một sai lầm lần nữa. Nhưng người già đi thì cứ phạm cùng sai lầm lặp đi lặp lại mãi. Người đó sống trong vòng tròn mà chẳng bao giờ học được cái gì. Bạn sẽ giận dữ hôm nay, bạn đã giận dữ hôm qua và hôm kia, và ngày mai bạn lại sẽ giận dữ và rồi ngày kia cũng thế. Bạn cứ lặp đi lặp lại giận dữ, lặp đi lặp lại ăn năn, lặp đi lặp lại quyết định sâu sắc rằng bạn sẽ không phạm điều đó lần nữa. Nhưng quyết định đó chẳng tạo ra thay đổi gì - bất kì khi nào bạn bị lúng túng thì cơn thịnh nộ lại chiếm lĩnh, bạn bị ám ảnh; cùng sai lầm ấy lại phạm phải. Bạn đang già đi.
Nếu bạn sống một kinh nghiệm về giận dữ một cách toàn bộ, bạn sẽ không bao giờ giận dữ lần nữa được. Một kinh nghiệm về giận dữ sẽ là đủ để dạy rằng điều đó là ngu xuẩn, điều đó là ngớ ngẩn, điều đó đơn giản ngu si - không phải nó là tội lỗi, nó đơn giản là ngu si. Bạn đang tự làm hại mình và làm hại người khác, chẳng để làm gì. Sự việc đó không xứng với nó. Thế thì bạn đang trưởng thành dần lên. Ngày mai tình huống này sẽ được lặp lại nhưng giận dữ sẽ không lặp lại nữa. Và người đang thu được trưởng thành đã không quyết định rằng mình sẽ không giận dữ lần nữa, không - đó là dấu hiệu về người còn chưa trưởng thành. Người trưởng thành không bao giờ quyết định về tương lai; bản thân sự trưởng thành lo điều đó. Bạn sống hôm nay - chính việc sống đó sẽ quyết định ngày mai sẽ thế nào; ngày mai sẽ bắt nguồn từ hôm nay.
Nếu giận dữ mà đau đớn, độc hại, bạn đang chịu địa ngục qua nó rồi, phỏng có ích gì mà quyết định, hay lấy lời thề và đi tới chùa chiền mà tuyên bố, "Bây giờ mình thề rằng mình sẽ không bao giờ giận dữ nữa "? Mọi điều này đều ngây thơ, chẳng có ích gì! Nếu bạn đã biết rằng giận dữ là độc hại - thì xong rồi! Con đường đó bị đóng lại, cánh cửa đó không còn tồn tại với bạn nữa. Tình huống này sẽ được lặp lại ngày mai nhưng bạn sẽ không bị tình huống đó ám ảnh. Bạn đã học được cái gì đó - hiểu biết sẽ có đó. Bạn thậm chí có thể cười, bạn thậm chí còn thích thú về mọi điều làm sao mọi người lại ngu xuẩn thế. Hiểu biết của bạn trưởng thành lên qua mọi kinh nghiệm.
Bạn có thể sống cứ như bạn đang trong thôi miên - đó là cách chín mươi chín phần trăm mọi người đang sống - hay bạn có thể sống với sự mãnh liệt, nhận biết. Nếu bạn sống với nhận biết thì bạn trưởng thành; bằng không bạn
đơn giản trở nên già đi. Và trở nên già đi thì không phải là việc trở nên trí huệ. Nếu bạn đã là người ngu khi bạn còn trẻ và bây giờ bạn đã trở nên già, bạn chỉ là người ngu già, có vậy thôi. Chỉ trở nên già đi, bạn không thể trở nên trí huệ được. Bạn thậm chí có thể còn ngu hơn bởi vì bạn có thể đã đạt tới thói quen máy móc, như rô bốt.
Cuộc sống có thể được sống theo hai cách. Nếu bạn sống một cách vô ý thức bạn đơn giản chết; nếu bạn sống một cách có ý thức bạn đạt tới cuộc sống ngày một nhiều hơn. Cái chết sẽ tới - nhưng nó không bao giờ tới với người trưởng thành, nó chỉ tới với người đã từng già đi và vẫn đang già đi. Người trưởng thành không bao giờ chết, bởi vì người đó sẽ học ngay cả qua cái chết. Ngay cả cái chết cũng sẽ là một kinh nghiệm cần được sống một cách mãnh liệt, và được quan sát, được cho phép.
Người trưởng thành chưa bao giờ chết cả. Thực tế, trên nền tảng trưởng thành cái chết vật lộn và tự làm nó tan tành, tự tử. Cái chết chết, nhưng người trưởng thành không bao giờ chết. Đó là thông điệp của tất cả những người đã thức tỉnh, rằng bạn bất tử. Họ đã biết về điều đó, họ đã sống cái chết của họ. Họ đã quan sát và họ đã tìm ra rằng nó có thể qui hàng bạn nhưng bạn vẫn còn xa cách, bạn vẫn còn xa xôi. Cái chết xảy ra gần bạn nhưng nó không bao giờ xảy ra cho bạn.
Bất tử là bản thể của bạn, phúc lạc là bản thể của bạn, nhưng những kinh nghiệm này bạn không thể nhồi vào trong tâm trí và kí ức được. Bạn phải trải qua cuộc sống và đạt tới chúng. Nhiều đau khổ có đó, nhiều đau đớn có đó. Và bởi vì đau đớn và đau khổ mà mọi người thích sống một cách ngu xuẩn - cần phải hiểu tại sao nhiều người cứ khăng khăng mãi rằng họ phải sống trong thôi miên, tại sao các Phật và Christ cứ nói với mọi người hãy thức tỉnh mà chẳng ai nghe cả. Phải có tham dự sâu sắc nào đó vào trong thôi miên, phải có đầu tư sâu nào đó. Đầu tư này là gì?
Các cơ chế này cần phải được hiểu; bằng không thì bạn sẽ nghe tôi và bạn sẽ chẳng bao giờ trở nên nhận biết. Bạn sẽ nghe và bạn sẽ làm cho điều đó thành một phần tri thức của mình, rằng "Vâng, người này nói hãy nhận biết và nhận biết là tốt, và những người đạt tới nhận biết trở nên trưởng thành..." Nhưng bản thân bạn sẽ không đạt tới nó, nó sẽ vẫn còn chỉ là tri thức. Bạn có thể trao đổi tri thức của mình với người khác, nhưng chẳng ai được giúp đỡ theo cách đó cả.
Tại sao? Bạn đã bao giờ hỏi câu hỏi này chưa? Sao bạn lại không đạt tới nhận biết? Nếu điều đó đưa tới phúc lạc vô hạn, đạt tới satchitananda, tới chân lí tuyệt đối - thì sao không nhận biết? Sao bạn cứ khăng khăng ngủ mãi? Có đầu tư nào đó - và đây là đầu tư đó: nếu bạn trở nên nhận biết, có đau khổ. Nếu bạn trở nên nhận biết, bạn trở nên nhận biết về cái đau và cái đau lại nhiều tới mức bạn sẽ muốn uống thuốc ngủ và ngủ mất.
Việc ngủ này trong cuộc sống có tác dụng như sự bảo vệ chống lại cái đau. Nhưng đây là rắc rối - nếu bạn ngủ để chống lại cái đau, bạn cũng ngủ chống lại cả cái sướng nữa. Nghĩ về điều đó dường như có hai vòi nước: một vòi có viết "đau", và vòi kia viết "sướng". Bạn muốn đóng vòi bên viết đau, và bạn lại muốn mở vòi bên viết sướng. Nhưng đây là trò chơi này - nếu bạn đóng vòi đau thì vòi sướng lập tức đóng lại, bởi vì đằng sau cả hai chỉ có một vòi viết "nhận biết ". Hoặc cả hai đều để mở hoặc cả hai đều đóng, bởi vì cả hai đều là hai mặt của cùng một hiện tượng, hai khía cạnh.
Và đây là toàn thể mâu thuẫn của tâm trí: tâm trí muốn ngày một hạnh phúc hơn - hạnh phúc là có thể nếu bạn nhận biết. Và thế rồi tâm trí muốn ngày một ít đau đớn hơn - nhưng ngày một ít đau đớn là có thể chỉ nếu bạn vô nhận biết. Bây giờ bạn ở vào thế tiến thoái lưỡng nan. Nếu bạn muốn không đau nữa, lập tức sướng biến mất khỏi cuộc sống của bạn, hạnh phúc biến mất. Nếu bạn muốn hạnh phúc bạn mở cái vòi này ra - lập tức cái đau cũng chảy ra. Nếu bạn nhận biết, bạn phải nhận biết về cả hai. Cuộc sống là đau đớn và vui sướng. Cuộc sống là hạnh phúc và bất hạnh. Cuộc sống là ngày và đêm, cuộc sống là sống và chết. Bạn phải nhận biết cả hai.
Cho nên nhớ điều đó. Nếu bạn sợ đau bạn sẽ vẫn còn trong thôi miên; bạn sẽ già đi, trở nên già lão và chết. Bạn bỏ lỡ cơ hội. Nếu bạn muốn nhận biết thế thì bạn phải nhận biết về cả đau và sướng; chúng không phải là hiện tượng tách rời. Và người trở nên nhận biết thì trở nên rất hạnh phúc nhưng cũng trở nên có khả năng bất hạnh sâu sắc, mà bạn lại không có khả năng về điều đó.
Chuyện xảy ra, một Thiền sư sắp chết và đại đệ tử của ông ấy … một người nổi tiếng vào thời ông ấy, thậm chí còn nổi tiếng hơn Thầy; thực tế Thầy đã trở nên nổi tiếng bởi vì đệ tử này. Đại đệ tử này bắt đầu khóc; ngồi ngay trên bậu cửa ngôi chùa ông ấy bắt đầu khóc nước mắt ròng ròng. Cả nghìn người đã tụ tập lại; họ không thể nào tin được vào điều đó, bởi vì họ chưa bao giờ thấy bất kì người đã thức tỉnh nào lại khóc mà khóc với nước mắt lăn dài trên mặt. Họ nói, "Chúng tôi không thể tin được điều đó - cái gì
xảy ra vậy? Ông khóc, mà chính bản thân ông đã nói với chúng tôi rằng bản thể bên trong nhất của chúng ta không bao giờ chết, rằng cái chết không tồn tại. Chúng tôi đã nghe ông nói cả triệu lần rằng cái chết không tồn tại - vậy sao ông lại khóc? Thầy ông vẫn còn sống trong bản thể thầy cơ mà."
Đệ tử này mở mắt ra và ông ấy nói, "Đừng quấy rầy ta. Cứ để ta kêu khóc. Ta không khóc vì Thầy và bản thể thầy đâu, ta khóc vì thân thể thầy đấy. Thân thể thầy cũng đẹp lắm. Chẳng bao giờ thân thể này lại tồn tại nữa."
Và thế rồi ai đó cố gắng khuyên nhủ ông ấy rằng điều này sẽ gây tai tiếng lắm cho tên tuổi ông ấy: "Biết bao nhiêu người đã tụ tập lại rồi, và họ sẽ nghĩ rằng ông không chứng ngộ."
Đệ tử này nói, "Thì cứ để cho họ nghĩ bất kì điều gì họ muốn nghĩ đi. Vì cái ngày ta trở nên chứng ngộ ta đã trở nên phúc lạc vô hạn, nhưng ta cũng đã trở thành nhạy cảm vô hạn với đau đớn và đau khổ."
Điều này dường như là nó phải vậy. Nếu bạn đánh Phật, Phật sẽ chịu đựng nhiều hơn là bạn sẽ chịu đựng nếu ai đó đánh bạn - bởi vì ông ấy đã trở nên nhạy cảm vô hạn. Sự nhạy cảm của ông ấy là rất tinh tế, ông ấy hệt như cánh hoa sen vậy. Hòn đá của bạn sẽ đánh trúng ông ấy rất sâu, nó sẽ làm cho ông ấy đau lắm. Tất nhiên ông ấy sẽ nhận biết về nó, tất nhiên ông ấy sẽ tách rời khỏi nó. Tất nhiên ông ấy sẽ siêu việt lên trên nó, ông ấy sẽ không phải là một phần của nó, ông ấy sẽ là một hiện tượng tựa đám mây bao quanh nó - nhưng điều đó xảy ra.
Bạn không thể nhạy cảm đến thế với đau đớn, bạn ngủ say thế. Bạn đi như người say - người say ngã lăn trên phố, đập đầu vào cống rãnh - chẳng cái gì xảy ra. Nếu người đó mà nhận biết thì thế nào cũng bị đau.
Phật đau khổ vô hạn và Phật thích thú vô hạn. Bao giờ cũng nhớ, bất kì khi nào bạn đạt tới đỉnh cao, thì thung lũng sâu cũng được tạo ra đồng thời. Nếu bạn muốn lên tới cõi trời, gốc rễ của bạn sẽ phải ăn tới chính địa ngục. Bởi vì bạn sợ đau đớn nên bạn không thể trở nên nhận biết - và thế thì bạn không thể học được gì cả.
Cũng hệt như bạn sợ kẻ thù đến mức bạn đã đóng mọi cửa nhà mình lại. Bây giờ ngay cả bạn bè cũng không thể vào được, ngay cả người yêu cũng bị bỏ ở ngoài. Người yêu cứ gõ cửa nhưng bạn lại sợ, có thể đấy là kẻ thù thì sao. Cho nên bạn bị khoá lại - đó là cách tôi thấy tất cả các bạn đấy,
khép kín, sợ kẻ thù, và bạn bè không thể vào được. Bạn đã biến bạn thành thù - bây giờ không ai có thể vào được, bạn sợ thế.
Mở cửa ra đi. Khi không khí trong lành vào nhà thì có mọi khả năng nguy hiểm cũng vào. Khi bạn tới, kẻ thù cũng tới bởi vì ngày và đêm vào cùng nhau, đau và sướng vào cùng nhau, sống và chết vào cùng nhau. Đừng sợ đau, bằng không bạn sẽ sống trong thuốc mê. Nhà phẫu thuật cho bạn thuốc mê trước khi ông ấy mổ vì sẽ đau lắm, bạn sẽ không thể nào chịu đựng được điều đó. Ý thức của bạn phải bị làm mờ xỉn đi, tối đi, thế thì ông ấy có thể mổ xẻ cả thân thể và bạn sẽ không đau.
Bởi vì sợ đau mà bạn đã tự buộc mình sống trong tâm thức mờ xỉn, trong sự tồn tại mờ xỉn, gần như không sống - đây là hoảng sợ. Bạn phải vứt bỏ hoảng sợ đó; bạn phải đối mặt với nỗi đau, bạn phải đi qua đau đớn, chỉ thế thì khả năng mới mở ra cho bạn bè đi vào.
Và khi bạn biết cả hai, bạn lập tức trở thành cái thứ ba. Khi bạn biết cả hai - đau đớn và vui sướng, nhị nguyên, ngày và đêm - bỗng nhiên bạn đã trở nên siêu việt.
Trưởng thành là nhận biết. Già đi chỉ là làm phí hoài bản thân mình.
ĐIỀU NỀN TẢNG NHẤT CẦN PHẢI NHỚ là ở chỗ cuộc sống mang tính biện chứng. Nó tồn tại qua hai mặt, nó là một nhịp điệu giữa các cái đối lập. Bạn không thể hạnh phúc mãi mãi được, bằng không hạnh phúc sẽ mất mọi ý nghĩa. Bạn không thể trong hài hoà mãi mãi được, bằng không bạn sẽ trở nên vô nhận biết về hài hoà. Hài hoà phải được đi theo bởi không hài hoà lặp đi lặp lại, và hạnh phúc phải được đi sau bởi bất hạnh. Mọi sướng đều có đau riêng của nó, và mọi đau đều có sướng riêng của nó.
Chừng nào người ta còn chưa hiểu tính hai mặt này của sự tồn tại, người ta còn trong khổ.
Chấp nhận toàn bộ, với mọi thống khổ của nó và mọi cực lạc của nó. Đừng khao khát điều không thể được; đừng ham muốn rằng chỉ có cực lạc mà không thống khổ. Cực lạc không thể tồn tại một mình được, nó cần cái tương phản. Thống khổ trở thành bảng đen, thế thì cực lạc trở thành rất rõ ràng và to lớn, cũng như trong bóng tối của đêm các vì sao chói sáng thế. Đêm càng tối, sao càng sáng. Ban ngày chúng không biến mất, chúng đơn giản trở thành không thấy được; bạn không thể thấy được chúng bởi vì không có tương phản.
Nghĩ về cuộc sống mà không có cái chết; nó sẽ là nỗi đau không thể chịu đựng nổi, sự tồn tại không thể chịu đựng nổi - cái chết xác định cuộc sống, cho cuộc sống một kiểu mãnh liệt. Bởi vì cuộc sống đang lướt qua nhanh, từng khoảnh khắc trở thành quí giá. Nếu cuộc sống vĩnh hằng, ai quan tâm? Người ta có thể chờ đợi ngày mai vĩnh viễn - thế thì ai sẽ sống bây giờ và ở đây? Bởi vì ngày mai có cái chết, nó buộc bạn phải sống bây giờ và ở đây. Ban phải lao vào trong khoảnh khắc hiện tại này, bạn phải đi tới chiều sâu tối thượng của nó bởi vì ai mà biết được, khoảnh khắc tiếp có thể tới, có thể không tới.
Thấy nhịp điệu này người ta thoải mái, thoải mái với cả hai. Khi bất hạnh tới người ta đón chào nó, khi hạnh phúc tới người ta đón chào nó, vẫn biết rằng chúng là đối tác trong cùng một trò chơi. Đây là cái gì đó phải liên tục ghi nhớ. Nếu nó trở thành việc ghi nhớ nền tảng trong bạn, cuộc sống của bạn sẽ có hương vị mới toàn bộ - hương vị của tự do, hương vị của không đeo bám, hương vị của không gắn bó. Bất kì cái gì tới bạn vẫn còn tĩnh lặng, im lặng, chấp nhận.
Và người có khả năng tĩnh lặng, im lặng, chấp nhận đau đớn, thất vọng và khổ, sẽ biến đổi chính phẩm chất của bản thân khổ. Với người đó, khổ cũng trở thành kho báu; với người đó, ngay cả đau cũng cho tính sắc nét. Với người đó, ngay cả bóng tối cũng có vẻ đẹp, chiều sâu, cái vô hạn riêng của nó. Với người đó, ngay cả cái chết cũng không phải là chấm dứt mà chỉ là bắt đầu của cái gì đó chưa biết.
Trưởng thành của tâm linh
Phẩm chất của người trưởng thành rất kì lạ. Thứ nhất, người đó không phải là một người. Người đó không còn là cái ta nữa - người đó có sự hiện diện, nhưng người đó không phải là một người.
Thứ hai, người đó giống đứa trẻ, đơn giản và hồn nhiên. Đó là lí do tại sao tôi nói phẩm chất của người trưởng thành lại rất kì lạ, bởi vì trưởng thành cho một cảm giác cứ dường như người đó đã từng trải, dường như người đó đã già đi, lão đi - về mặt thể chất người đó có thể già nhưng về mặt tâm linh người đó là đứa trẻ hồn nhiên. Trưởng thành của người đó không chỉ là kinh nghiệm thu được qua cuộc sống - nếu chỉ thế thì người đó sẽ không giống như đứa trẻ, thế thì người đó sẽ không là sự hiện diện - người đó sẽ là một người có kinh nghiệm, am hiểu nhưng không trưởng thành.
Trưởng thành không liên quan gì tới kinh nghiệm sống của bạn. Nó có cái gì đó liên quan tới cuộc hành trình nội tâm của bạn, kinh nghiệm về cõi bên trong của bạn.
Người càng đi sâu hơn vào bản thân mình thì người đó càng trưởng thành nhiều hơn. Khi người đó đạt tới chính trung tâm của bản thể mình, người đó là sự trưởng thành hoàn hảo. Nhưng vào khoảnh khắc đó người này biến mất, chỉ sự hiện diện còn lại. Cái ta biến mất, chỉ im lặng còn lại. Tri thức biến mất, chỉ hồn nhiên còn lại.
Với tôi, trưởng thành là cái tên khác cho việc nhận ra: bạn đã đi tới hoàn thành tiềm năng của mình, nó đã trở thành thực tại. Hạt mầm đã đi trên cuộc hành trình lâu dài và đã nở hoa.
Trưởng thành có hương thơm. Nó đem lại cho cá nhân này cái đẹp vô cùng. Nó cho thông minh, sự sắc bén nhất của thông minh. Nó làm cho người đó không là cái gì khác hơn tình yêu. Hành động của người đó là tình yêu, không hành động của người đó là tình yêu; cuộc sống của người đó là tình yêu, cái chết của người đó là tình yêu. Người đó chính là bông hoa của tình yêu.
Phương Tây có định nghĩa về trưởng thành rất ngây thơ. Phương Tây ngụ ý qua trưởng thành là bạn không còn hồn nhiên nữa, là bạn đã chín
muồi qua các kinh nghiệm sống - là bạn không thể bị lừa một cách dễ dàng, là bạn không thể bị khai thác, là bạn có bên trong mình cái gì đó như tảng đá cứng rắn, sự bảo vệ, an ninh. Định nghĩa này rất tầm thường, rất trần tục. Vâng, trong thế giới này bạn sẽ thấy những người trưởng thành thuộc kiểu này. Nhưng cách thức tôi nhìn trưởng thành là hoàn toàn khác, đối lập hẳn với định nghĩa này. Trưởng thành sẽ không làm bạn thành tảng đá; nó sẽ làm bạn mong manh thế, mềm mại thế, đơn giản thế...
Tôi nhớ... Một tên trộm vào chiếc lều của nhà huyền môn. Lúc đó là đêm trăng tròn, và cũng bởi nhầm lẫn mà anh ta đã vào; bằng không, bạn tìm được gì trong nhà người huyền môn? Tên trộm ngó nghiêng, và ngạc nhiên là chẳng có gì cả - rồi bỗng nhiên nó thấy một người đi tới với cây nến trong tay. Người này nói, "Anh tìm gì trong bóng tối thế? Sao anh không đánh thức ta dậy? Ta vừa mới ngủ ngay cạnh cửa trước, và ta có thể chỉ cho anh xem cả ngôi nhà." Và ông ấy nhìn giản dị và hồn nhiên thế, cứ dường như ông ấy không thể quan niệm được rằng bất kì ai cũng có thể là kẻ cắp.
Đối diện với sự đơn giản và hồn nhiên như vậy tên trộm nói, "Có lẽ ông không biết rằng ta là kẻ trộm."
Nhà huyền môn nói, "Có hề gì đâu, mọi người đều phải là ai đó. Vấn đề là ở chỗ ta đã ở trong ngôi nhà này ba mươi năm rồi và ta chẳng tìm thấy gì cả cho nên chúng ta cùng tìm vậy! Và nếu chúng ta có thể tìm thấy cái gì đó trong ngôi nhà này thì chúng ta có thể là bạn hàng được. Ta đã chẳng tìm thấy gì trong ngôi nhà này cả - nó trống rỗng." Tên trộm hơi hoảng - người này dường như kì lạ thế! Hoặc là ông ta điên hoặc ... ai mà biết được ông ta thuộc loại người nào? Anh ta muốn trốn, và thêm vào đó anh ta đã mang những thứ trộm được từ hai nhà khác mà anh ta đang để bên ngoài nhà.
Nhà huyền môn chỉ có mỗi một cái chăn - đó là tất cả những gì ông ấy có - và lúc đó lại là đêm lạnh, cho nên ông ta nói với tên kẻ trộm kia, "Đừng bỏ đi theo cách này - đừng xúc phạm ta theo cách này; bằng không ta sẽ chẳng bao giờ có thể tha thứ được cho bản thân mình, rằng một người nghèo tới nhà ta vào giữa đêm và phải ra đi tay trắng. Lấy chăn này đi. Và nó sẽ có ích đấy - bên ngoài trời lạnh thế. Ta ở bên trong nhà; ở đây ấm hơn."
Ông ta bọc tên trộm bằng chiếc chăn. Tên trộm đến mất cả trí! Nó nói, "Ông làm gì vậy? Tôi là kẻ trộm!"
Nhà huyền môn nói, "Điều đó không thành vấn đề. Trong thế giới này mọi người đều phải là ai đó, phải làm cái gì đó. Anh có thể ăn trộm, điều đó không thành vấn đề - nghề nghiệp là nghề nghiệp. Làm điều đó cho tốt vào, với mọi ân huệ của ta. Làm việc đó cho hoàn hảo, chớ bị bắt; bằng không anh sẽ bị rắc rối đấy."
Tên trộm nói, "Ông lạ thật đấy. Ông ở trần, và ông chẳng có gì cả …"
Nhà huyền môn nói, "Đừng lo, vì ta đi cùng với anh! Chỉ mỗi cái chăn này mới giữ ta trong ngôi nhà này; bằng không thì trong ngôi nhà này chẳng có gì cả - và cái chăn ta đã cho anh rồi. Ta đi cùng anh - chúng ta sẽ sống cùng nhau! Và anh dường như có nhiều thứ; đấy là đối tác tốt. Ta đã đem mọi thứ của ta cho anh rồi, anh có thể cho ta một chút ít gì đó - thế sẽ là phải."
Tến trộm không thể nào tin được vào điều đó. Nó chỉ muốn thoát khỏi chỗ đó và thoát khỏi người đó. Nó nói, "Không, tôi không thể đem ông đi cùng tôi được. Tôi có vợ, tôi có con. Và hàng xóm của tôi, họ sẽ nói gì nếu tôi đem một người trần trụi về nhà mình ...?"
Nhà huyền môn nói, "Phải rồi. Ta sẽ không đẩy anh vào tình thế khó xử nữa. Vậy anh có thể đi được, ta sẽ vẫn ở trong nhà này." Và ngay khi tên trộm vừa đi thì nhà huyền môn quát lên, "Này! Quay lại!" Tên trộm chưa bao giờ nghe thấy giọng nói nào mạnh mẽ thế; vang tới sắc như dao. Anh ta phải quay lại. Nhà huyền môn nói, "Học cách thức lịch sự đi. Ta đã cho anh chiếc chăn và anh thậm chí chẳng thèm cám ơn ta. Cho nên trước hết hãy cám ơn đi - điều đó sẽ giúp anh trên đường dài. Thứ hai, khi đi ra… anh đã mở cửa khi anh vào - đóng cửa lại đã! Anh không thể thấy được đêm lạnh thế sao, và anh không thể thấy được rằng ta đã cho anh cái chăn và ta đang trần trụi đấy sao? Việc anh là kẻ trộm cũng tốt nhưng khi có liên quan tới phép lịch sự, ta là người khó khăn đấy. Ta không thể dung thứ được cho loại hành vi này. Nói cám ơn đi!"
Tên trộm phải nói, "Xin cám ơn ông ạ," và anh ta đóng cửa lại rồi chuồn mất. Anh ta không thể nào tin nổi điều đã xảy ra! Anh ta không thể ngủ được cả đêm. Anh ta cứ nhớ đi nhớ lại mãi... anh ta chưa bao giờ nghe thấy giọng nói nào mạnh mẽ thế, đầy uy quyền thế. Mà người này lại chẳng có gì cả!
Anh ta điều tra vào ngày hôm sau và tìm ra rằng người này là một bậc Thầy vĩ đại. Anh ta đã không cư xử tốt - đi tới người nghèo đó là tuyệt đối
xấu, ông ta chẳng có cái gì cả. Nhưng ông ấy là bậc Thầy vĩ đại.
Tên trộm nói, "Điều đó tôi có thể tự hiểu được - ông ấy là loại người rất kì lạ. Trong cả đời mình tôi đã từng tiếp xúc với các loại người khác nhau, từ người nghèo nhất cho tới người giầu nhất, nhưng chưa bao giờ... ngay cả việc nghĩ tới ông ấy, run rẩy chạy khắp người tôi. Khi ông ấy gọi tôi lại tôi không thể nào chạy mất được. Tôi tuyệt đối tự do, tôi có thể lấy mọi thứ và chạy mất nhưng tôi lại không thể làm thế được. Có cái gì đó trong giọng nói của ông ấy kéo tôi lại."
Sau vài tháng tên trộm bị bắt, và trong toà án quan toà hỏi anh ta, "Anh có thể nêu tên người biết anh ở vùng lân cận đây không?"
Anh ta nói, "Có chứ, một người biết tôi " - và anh ta nêu tên bậc Thầy ra.
Quan toà nói, "Thế là đủ rồi - gọi bậc Thầy tới. Chứng nhận của ông ấy xứng đáng với sự chứng nhận của mười nghìn người. Điều ông ấy nói về anh sẽ là đủ để đưa ra phán quyết."
Quan toà hỏi, "Thầy có biết người này không?"
Thầy nói, "Biết anh ta sao? Chúng tôi là đối tác đấy! Anh ta là bạn tôi, anh ta thậm chí còn tới thăm tôi vào giữa đêm. Trời lạnh đến mức tôi đã cho anh ta chiếc chăn của mình. Anh ta đang dùng nó, các ông có thể thấy. Cái chăn đó nổi tiếng khắp đất nước, mọi người đều biết nó là của tôi."
Quan toà nói, "Anh ta là bạn ông sao? Và anh ta ăn trộm sao?"
Bậc Thầy nói, "Không bao giờ! Anh ta không bao giờ ăn trộm cả. Anh ta hào hoa phong nhã tới mức khi tôi đưa cho anh ta chiếc chăn, anh ta đã nói với tôi, `Cám ơn ông'. Khi anh ta đi ra khỏi nhà, anh ta im lặng đóng cửa lại. Anh ta là một anh bạn rất lễ phép, tử tế."
Quan toà nói, "Nếu ông nói vậy, thì mọi lời chứng của các nhân chứng đã nói rằng anh ta là kẻ cắp đều bị xoá bỏ. Anh ta được tự do." Nhà huyền môn đi ra và tên trộm đi theo ông ta.
Nhà huyền môn nói, "Anh làm gì vậy? Sao anh lại đi cùng ta?"
Nó nói, "Bây giờ tôi không bao giờ có thể rời bỏ được thầy. Thầy đã gọi tôi là đối tác của thầy. Không ai đã cho tôi bất kì kính trọng nào. Thầy là người đầu tiên đã nói rằng tôi là người hào hoa phong nhã, người tử tế. Tôi định ngồi dưới chân thầy và học cách được giống thầy. Từ đâu mà thầy có
được trưởng thành này, sức mạnh này, uy quyền này… nhìn mọi thứ theo cách hoàn toàn khác sao?"
Nhà huyền môn nói, "Anh có biết đêm hôm đó ta cảm thấy tồi tệ thế nào không? Anh đã đi rồi - không có chăn mà trời lạnh đến mức không thể ngủ được. Ta chỉ ngồi bên cửa sổ nhìn trăng tròn, và ta đã viết một bài thơ: 'Nếu như mình đủ giầu mình đã đem mặt trăng hoàn hảo này cho người nghèo kia, người từ trong bóng tối đã vào để tìm cái gì đó trong nhà người nghèo. Mình sẽ đem cho mặt trăng này nếu mình đủ giầu, nhưng mình nghèo.' Ta sẽ chỉ cho anh xem bài thơ, đi cùng ta.
"Ta đã khóc đêm hôm đó, rằng kẻ trộm nên học lấy đôi điều. Ít nhất họ nên thông báo trước một hai ngày khi họ tới một người như ta để chúng ta có thể thu xếp cái gì đó, để cho họ không phải ra đi với bàn tay trắng. Và cũng tốt là anh đã nhớ tới ta trong toà án ấy; bằng không những người kia là nguy hiểm, họ có thể đã ngược đãi anh. Ta đã đưa ra đề nghị rằng mọi đêm ta đi cùng với anh và là đối tác với anh, nhưng anh đã từ chối. Bây giờ anh muốn tới ta! Không có vấn đề gì, anh có thể tới; bất kì cái gì ta có ta sẽ chia sẻ với anh. Nhưng đó không phải về vật chất, nó là cái gì đó vô hình."
Tên trộm nói, "Cái đó tôi có thể cảm thấy được - nó là cái gì đó vô hình. Nhưng thầy đã cứu đời tôi, và bây giờ cuộc đời tôi là của thầy. Thầy làm bất kì điều gì thầy muốn làm từ nó, tôi đơn giản làm phí hoài nó. Nhìn thầy, nhìn vào mắt thầy, một điều là chắc chắn - rằng thầy có thể biến đổi tôi. Tôi đã lâm vào tình yêu từ chính cái đêm đó."
Trưởng thành với tôi là hiện tượng tâm linh.
TRƯỞNG THÀNH TÂM LINH LÀ CHẠM TỚI BẦU TRỜI BÊN TRONG CỦA BẠN. Một khi bạn lắng đọng vào bầu trời bên trong của mình, bạn đã tìm ra ngôi nhà và trưởng thành lớn lao nảy sinh trong hành động của bạn, trong hành vi của bạn. Thế thì bất kì điều gì bạn làm cũng có vẻ duyên dáng trong nó. Thế thì bất kì điều gì bạn làm tự nó cũng là bài thơ. Bạn sống với chất thơ, việc bước đi của bạn trở thành điệu vũ, im lặng của bạn trở thành âm nhạc.
Trưởng thành được ngụ ý là bạn đã về tới nhà. Bạn không còn là đứa trẻ phải lớn nữa - bạn đã lớn rồi. Bạn đã chạm tới chiều cao của tiềm năng của mình. Lần đầu tiên trong một cảm giác kì lạ bạn không hiện hữu - và bạn lại hiện hữu. Bạn không còn trong những ý tưởng, tưởng tượng cũ của mình, không còn trong cách hiểu cũ về bản thân mình; tất cả những cái đó đã mất
hết. Bây giờ cái gì đó mới nảy sinh bên trong bạn, tuyệt đối mới và trong trắng, cái làm biến đổi toàn thể cuộc sống của bạn thành niềm vui. Bạn đã trở thành người lạ với thế giới khổ này, bạn không tạo ra khổ cho bản thân mình hay cho bất kì ai khác. Bạn sống cuộc sống của mình trong tự do toàn bộ, không có bất kì để ý nào về điều người khác sẽ nói.
Những người bao giờ cũng để ý tới người khác và ý kiến của người khác, đều chưa trưởng thành. Họ bị tuỳ thuộc vào ý kiến của người khác. Họ không thể làm bất kì cái gì một cách chân thực, chân thành, họ không thể nói ra điều họ muốn nói - họ nói điều người khác muốn nghe. Các chính khách của bạn nói những điều bạn muốn nghe. Họ cho bạn lời hứa mà bạn muốn. Họ biết hoàn toàn rõ rằng họ không thể hoàn thành được những lời hứa này; mà họ cũng chẳng có ý định nào để hoàn thành chúng cả. Nhưng nếu họ nói một cách chính xác, đúng đắn, tình huống hiện là gì, và nêu rõ ràng cho bạn rằng nhiều điều bạn đòi hỏi là không thể được, rằng chúng không thể được thực hiện, thì họ sẽ bị tống ra khỏi quyền lực. Bạn sẽ không chọn chính khách chân thật.
Thế giới này rất kì lạ. Nó gần như cái nhà thương điên. Nếu, trong nhà thương điên này, bạn trở nên tỉnh táo và nhận biết về bản thể bên trong của mình, bạn được may mắn.
Chu kì bẩy năm của cuộc sống
Cuộc sống có hình mẫu bên trong, hiểu được nó là tốt. Cứ bẩy năm một, các nhà sinh lí nói, thân thể và tâm trí trải qua khủng hoảng và thay đổi, được đổi mới hoàn toàn. Thực tế nếu bạn sống bẩy mươi tuổi, giới hạn trung bình, thân thể bạn chết đi mười lần. Cứ mỗi bẩy năm mọi sự lại thay đổi - điều đó cũng giống như đổi mùa. Trong bẩy mươi năm vòng tròn này hoàn chỉnh. Đường đi từ sinh tới tử, vòng tròn này hoàn chỉnh trong bẩy mươi năm. Nó có mười phân chia.
Thực tế cuộc đời con người không nên bị phân chia thành thời thơ ấu, thời thanh niên, thời già lão - điều đó không khoa học lắm bởi vì cứ bẩy năm một thời kì mới lại bắt đầu, một bước mới được thực hiện.
Trong bẩy năm đầu tiên đứa trẻ coi mình là trung tâm, cứ dường như nó là trung tâm của toàn thể thế giới. Toàn thể gia đình xoay quanh nó. Bất kì cái gì nó cần, họ đều hoàn thành ngay lập tức; bằng không nó sẽ nổi cơn tam bành, giận dữ, cuồng nộ. Nó sống như hoàng đế, hoàng đế thực thụ - mẹ, bố, mọi người phục vụ, và cả gia đình chỉ tồn tại vì nó. Và tất nhiên nó nghĩ cùng điều đó cũng đúng cho thế giới rộng hơn. Mặt trăng lên vì nó, mặt trời lên vì nó, mùa vụ đổi vì nó. Đứa trẻ trong bẩy năm vẫn còn tuyệt đối bản ngã, lấy mình làm trung tâm. Nếu bạn hỏi các nhà tâm lí, họ sẽ nói đứa trẻ trong bẩy năm vẫn còn tự thoả mãn, thoả mãn cho chính mình. Nó không cần cái gì khác, không cần ai khác. Nó cảm thấy đầy đủ.
Sau bẩy năm - một đột phá. Đứa trẻ không còn lấy mình làm trung tâm nữa; nó trở thành lệch tâm, theo đúng nghĩa. Lệch tâm - từ này có nghĩa là "đi ra ngoài trung tâm." Nó đi tới người khác. Người khác trở thành hiện tượng quan trọng - bạn bè, kéo bè kéo cánh... Bây giờ nó không còn quan tâm nhiều tới bản thân mình nữa; nó quan tâm tới người khác, thế giới lớn hơn. Nó đi vào cuộc phiêu lưu để biết "người khác" này là ai. Cuộc truy tìm bắt đầu.
Sau bẩy năm đứa trẻ trở thành người hay hỏi lớn. Nó hỏi về mọi thứ. Nó trở thành người hoài nghi lớn vì việc truy tìm của nó đang đó. Nó hỏi cả triệu câu hỏi. Nó làm cho bố mẹ chán đến chết, nó trở thành mối phiền toái. Nó quan tâm tới người khác, và mọi thứ của thế giới đều là mối quan tâm
của nó. Tại sao cây lại xanh? Tại sao Thượng đế đã tạo ra thế giới? Tại sao điều này là như vậy? Nó bắt đầu trở nên ngày một triết lí hơn - truy tìm, hoài nghi, nó cứ khăng khăng đi vào mọi thứ.
Nó giết con bướm để xem cái gì ở bên trong, nó phá đồ chơi chỉ để xem đồ chơi hoạt động thế nào, nó ném đồng hồ đi chỉ để nhìn vào bên trong đồng hồ, sao mà đồng hồ cứ tích tắc và rung chuông - cái gì đang diễn ra bên trong? Nó trở nên quan tâm tới người khác - nhưng người khác vẫn còn cùng giới. Nó không quan tâm tới con gái. Nếu con trai khác quan tâm tới con gái nó sẽ nghĩ bọn họ là chị em. Con gái không quan tâm tới con trai. Nếu con gái nào đó quan tâm tới con trai và chơi với chúng thì cô bé này là con gái kiểu con trai, không bình thường, không trung bình; cái gì đó sai. Giai đoạn thứ hai này các nhà phân tâm và tâm lí sẽ nói là đồng dục.
Sau mười bốn tuổi cánh cửa thứ ba mở ra. Nó không còn quan tâm tới con trai nữa, con gái không còn quan tâm tới con gái. Chúng lễ phép, nhưng không quan tâm. Đó là lí do tại sao bất kì tình bạn nào xảy ra giữa bẩy và mười bốn tuổi đều sâu sắc nhất, bởi vì tâm trí là đồng dục, và trong cuộc sống tình bạn như vậy sẽ không bao giờ xảy ra lần nữa. Những người bạn đó vẫn còn là bạn vĩnh viễn, nó là mối liên hệ sâu sắc thế. Bạn sẽ trở nên thân thiện với mọi người nhưng điều đó sẽ vẫn còn là sự quen biết, không phải là hiện tượng sâu sắc đã xảy ra giữa bẩy và mười bốn tuổi.
Nhưng sau tuổi mười bốn con trai không còn quan tâm tới con trai. Nếu mọi sự xảy ra bình thường, nếu nó không bị mắc kẹt ở đâu đó, nó sẽ quan tâm tới con gái. Bây giờ nó trở thành dị dục - không chỉ quan tâm tới những người khác, mà thực sự quan tâm tới một người khác - bởi vì khi con trai quan tâm tới con trai, con trai có thể là "người khác" nhưng người khác vẫn là con trai như bản thân nó, không đích xác là người khác. Khi con trai trở nên quan tâm tới con gái, bây giờ nó thực sự quan tâm tới cái đối lập, người khác thực. Khi con gái trở nên quan tâm tới con trai, bây giờ thế giới đi vào.
Tuổi mười bốn là tuổi cách mạng lớn lao. Dục trở nên chín muồi, người ta bắt đầu nghĩ dưới dạng dục; những phóng túng dục trở thành nổi bật trong giấc mơ. Con trai trở thành Don Juan lớn, bắt đầu tán tỉnh. Thơ ca nảy sinh, lãng mạn. Nó đi vào trong thế giới.
Đến tuổi hai mươi mốt - nếu mọi sự diễn ra bình thường, và đứa trẻ không bị xã hội bó buộc phải làm điều gì đó không tự nhiên - đến tuổi hai mươi mốt đứa trẻ trở nên quan tâm tới tham vọng hoài bão nhiều hơn tình
yêu. Nó muốn xe Rolls Royce, biệt thự lớn. Nó muốn là người thành công, một Rockefeller, một thủ tướng. Tham vọng trở thành nổi bật; ham muốn về tương lai, được thành công, cách thành công, cách hoàn thành, cách đi vào cuộc tranh đấu là toàn bộ mối quan tâm của nó.
Bây giờ nó không chỉ đi vào thế giới tự nhiên, nó đang đi vào thế giới con người, bãi chợ. Bây giờ nó đi vào thế giới của điên khùng. Bây giờ chợ trở thành điều nổi bật nhất. Toàn thể bản thể của nó đều hướng tới chợ - tiền bạc, quyền lực, danh tiếng.
Nếu mọi sự đi đúng - vì nó chẳng bao giờ đi đúng cả, tôi đang nói về hiện tượng tự nhiên tuyệt đối - thì đến tuổi hai mươi tám con người không còn cố gắng đi vào trong cuộc sống phiêu lưu theo bất kì cách nào. Từ hai mươi mốt tới hai mươi tám người ta sống trong phiêu lưu; đến tuổi hai mươi tám người ta trở nên tỉnh táo hơn rằng tất cả các ham muốn không thể được hoàn thành hết. Có nhiều hiểu biết hơn rằng nhiều ham muốn là không thể được. Nếu bạn ngu bạn có thể cứ theo đuổi chúng, nhưng những người thông minh đi vào một cánh cửa khác khi đến tuổi hai mươi tám. Họ trở nên quan tâm đến an ninh và tiện nghi, ít phiêu lưu và tham vọng hơn. Họ bắt đầu lắng đọng. Tuổi hai mươi tám là chỗ hết cho thời lập dị chống lại xã hội.
Đến tuổi hai mươi tám mọi người hippies đều trở thành thật thà, nhà cách mạng không còn là nhà cách mạng nữa; họ bắt đầu lắng đọng, họ tìm kiếm cuộc sống tiện nghi, số dư ngân hàng nho nhỏ. Họ không muốn là Rockefellers - chuyện đó kết thúc rồi, niềm thôi thúc đó không còn nữa. Họ muốn có ngôi nhà nhỏ, nhưng là một chỗ ấm cúng, được thiết lập để sống, để có an ninh, để cho ít nhất họ bao giờ cũng có thể có một số dư ngân hàng nho nhỏ. Họ tới công ti bảo hiểm quãng tuổi hai mươi tám. Họ bắt đầu lắng đọng. Bây giờ kẻ lêu lổng không còn là kẻ lêu lổng nữa. Anh ta mua nhà, bắt đầu sống trong đó; anh ta trở nên văn minh. Từ văn minh - civilization bắt nguồn từ civis, thường dân. Bây giờ anh ta trở thành một phần của thị trấn, thành phố, của định chế. Anh ta không còn là kẻ lêu lổng, không còn là kẻ lang thang. Bây giờ anh ta không đi tới Kathmandu và Goa. Anh ta không đi đâu cả - mọi sự đã kết thúc, đã du hành đủ rồi, đã biết đủ rồi; bây giờ anh ta muốn định cư và nghỉ lại một chút.
Đến tuổi ba mươi lăm năng lượng sống đạt tới điểm đỉnh của nó. Vòng tròn đã hoàn thành một nửa và năng lượng bắt đầu suy giảm. Bây giờ người này không chỉ quan tâm tới an ninh và tiện nghi, người này trở thành một
Tory, chính thống. Người đó không chỉ quan tâm tới cách mạng, người đó trở thành người phản cách mạng. Bây giờ người đó chống lại mọi thay đổi, người đó là người tuân thủ theo tôn giáo. Người đó chống lại mọi cuộc cách mạng; người đó muốn giữ nguyên trạng bởi vì bây giờ người đó đã lắng đọng và nếu bất kì cái gì thay đổi thì mọi sự sẽ bị đảo lộn. Bây giờ người đó nói chống lại những kẻ hippies, chống lại nổi dậy. Bây giờ người đó đã thực sự trở thành một phần của định chế.
Và điều này là tự nhiên - chừng nào điều gì đó còn không đi sai thì con người sẽ không còn ở tình trạng hippie mãi mãi. Đó là một pha, đi qua thì tốt nhưng mắc kẹt lại là xấu. Điều đó nghĩa là bạn vẫn còn bị mắc kẹt ở giai đoạn nào đó. Là đồng dục giữa bẩy và mười bốn tuổi là tốt, nhưng nếu người ta vẫn còn đồng dục trong cả đời thì điều đó có nghĩa là người đó đã không trưởng thành, người đó không là người lớn. Phải có tiếp xúc với đàn bà, đó là một phần của cuộc sống. Giới khác phải trở thành quan trọng bởi vì chỉ thế thì bạn mới có khả năng biết được sự hài hoà của các phía đối lập, xung đột, khổ, và cực lạc - nỗi khổ và cực lạc cả hai. Đó là huấn luyện, huấn luyện cần thiết.
Đến tuổi ba mươi nhăm người ta phải trở thành một phần của thế giới qui ước. Người ta bắt đầu tin vào tín ngưỡng, trong quá khứ, tin vào Vedas, kinh Koran, Kinh Thánh. Người ta dứt khoát chống lại thay đổi bởi vì mọi thay đổi nghĩa là cuộc sống riêng của bạn sẽ bị quấy rối; bây giờ bạn có nhiều thứ bị mất. Bạn không thể ủng hộ cách mạng được - bạn muốn bảo vệ... Người ta thiên về luật pháp và toà án và chính phủ. Người ta không còn là kẻ vô chính phủ nữa; người ta đều ủng hộ cho chính phủ, các qui tắc, điều luật, kỉ luật.
Đến tuổi bốn mươi hai mọi loại ốm yếu thể chất và tinh thần bột phát, bởi vì bây giờ cuộc sống đang suy giảm. Năng lượng đang hướng tới cái chết. Như lúc bắt đầu - năng lượng của bạn đã đi lên và bạn đã trở nên ngày một sống động, mạnh mẽ hơn, bạn đã trở nên ngày một mạnh hơn - bây giờ chính điều đối lập lại xảy ra, bạn trở nên ngày một yếu hơn mọi ngày. Nhưng thói quen của bạn vẫn còn dai dẳng. Bạn đã ăn đủ cho tới tuổi ba mươi nhăm; bây giờ nếu bạn tiếp tục thói quen của mình, bạn sẽ bắt đầu tích trữ mỡ. Bây giờ, lượng thức ăn đó là không cần thiết. Nó đã được cần tới trước đây nhưng bây giờ nó không còn cần thiết nữa bởi vì cuộc sống đang đi tới cái chết, cuộc sống không cần nhiều thức ăn như vậy. Nếu bạn cứ nhét đầy bụng mình như bạn đã làm trước đây, thế thì đủ mọi loại bệnh
tật sẽ xuất hiện: cao huyết áp, đau tim, mất ngủ, ung nhọt - chúng tất cả xảy ra quãng độ bốn mươi hai tuổi; bốn mươi hai tuổi là một trong những điểm nguy hiểm nhất. Tóc bắt đầu rụng, bạc dần. Cuộc sống biến vào trong cái chết.
Và gần tuổi bốn mươi hai tôn giáo bắt đầu trở thành quan trọng lần đầu tiên. Bạn có thể đã từng dính dáng đây đó vào tôn giáo trước đây, nhưng bây giờ tôn giáo lần đầu tiên bắt đầu trở nên quan trọng - bởi vì tôn giáo có liên quan sâu sắc với cái chết. Bây giờ cái chết đang lại gần và ham muốn đầu tiên về tôn giáo nảy sinh.
Carl Gustav Jung đã viết rằng trong cả đời mình ông ấy đã từng quan sát rằng những người tới ông ấy quãng độ tuổi bốn mươi bao giờ cũng có nhu cầu tôn giáo. Nếu họ phát điên, thần kinh, tâm thần, họ không thể nào được giúp đỡ nếu họ không trở nên bắt rễ sâu sắc vào tôn giáo. Họ cần tôn giáo; nhu cầu cơ sở của họ là tôn giáo. Và nếu xã hội là thế tục và bạn còn chưa hề được dạy về tôn giáo, thì khó khăn lớn nhất tới vào quãng độ tuổi bốn mươi hai - bởi vì xã hội không cho bạn bất kì một đại lộ, một cánh cửa, một chiều hướng nào.
Xã hội là tốt khi bạn mười bốn tuổi, bởi vì xã hội cho đủ dục - toàn thể xã hội đều mang tính dục; dục dường như là món hàng duy nhất ẩn kín trong mọi món hàng. Nếu bạn muốn bán xe tải mười tấn, thế nữa, bạn phải dùng một phụ nữ trần truồng. Hay thuốc đánh răng - cũng thế. Xe tải hay thuốc đánh răng chẳng tạo ra khác biệt gì: đàn bà trần truồng bao giờ cũng mỉm cười ở đó đằng sau. Thực sự đàn bà được bán. Xe tải không được bán, thuốc đánh răng không được bán, đàn bà được bán. Và bởi vì đàn bà tới, nụ cười của đàn bà tới cùng thuốc đánh răng, bạn phải mua thuốc đánh răng nữa. Mọi nơi dục đều được bán.
Cho nên xã hội này, xã hội trần tục này, là tốt cho người trẻ. Nhưng họ sẽ không còn trẻ mãi được. Khi họ lên tới bốn hai tuổi bỗng nhiên xã hội bỏ quên lãng họ. Họ không biết phải làm gì bây giờ. Họ trở nên thần kinh bởi vì họ không biết, họ chưa bao giờ được huấn luyện, không kỉ luật nào đã được trao cho họ để đối diện với cái chết. Xã hội đã làm cho họ sẵn sàng cho cuộc sống, nhưng không ai đã dạy họ trở nên sẵn sàng cho cái chết. Họ cần nhiều giáo dục về cái chết cũng như họ cần giáo dục về cuộc sống.
Nếu tôi mà được phép theo cách của mình thì tôi sẽ chia các đại học thành hai phần: một phần cho người trẻ, phần kia cho người già. Người trẻ
sẽ tới để học nghệ thuật của cuộc sống - dục vọng, tham vọng, tranh đấu. Thế rồi khi họ trở nên già hơn và họ đạt tới điểm đánh dấu bốn mươi hai, họ sẽ quay lại đại học để học về cái chết, Thượng đế, thiền - bởi vì bây giờ các đại học cũ sẽ không còn có ích gì cho họ. Họ cần việc huấn luyện mới, kỉ luật mới, để cho họ có thể được bắt vào pha mới đang xảy ra cho họ.
Xã hội này bỏ quên lãng họ; đó là lí do tại sao ở phương Tây có nhiều bệnh tinh thần thế. Phương Đông không nhiều đến như vậy. Tại sao? - bởi vì phương Đông vẫn còn có chút ít huấn luyện trong tôn giáo. Điều đó chưa biến mất hoàn toàn; dù là giả, dù dỏm, nó vẫn có đó, nó tồn tại ngay góc kia thôi. Không còn trong bãi chợ, không còn trong bề dày của cuộc sống; chỉ ở ngay bên cạnh - nhưng có đền chùa. Bên ngoài con đường của cuộc sống, nhưng nó vẫn có đó. Bạn phải bước vài bước và bạn có thể đi tới đó, nó vẫn tồn tại.
Ở phương Tây tôn giáo không còn là một phần của cuộc sống. Đến quãng độ tuổi bốn mươi hai mọi người phương Tây đều trải qua các vấn đề tâm lí. Hàng nghìn kiểu loạn thần kinh xảy ra - và ung nhọt. Ung nhọt là dấu vết của tham vọng. Người tham vọng nhất định bị ung nhọt trong dạ dày: tham vọng cắn xé, nó ăn vào bạn. Ung nhọt không là gì khác hơn việc ăn bản thân bạn. Bạn căng thẳng tới mức bạn bắt đầu ăn thành dạ dày của mình. Bạn căng thẳng thế, dạ dày của bạn căng thẳng thế nó chưa bao giờ được thảnh thơi. Bất kì khi nào tâm trí căng thẳng thì dạ dày căng thẳng.
Ung nhọt là dấu vết của tham vọng. Nếu bạn có ung nhọt điều đó chỉ ra bạn là người rất thành công. Nếu bạn không có ung nhọt bạn là người nghèo; cuộc sống của bạn đã thất bại, bạn đã thất bại hoàn toàn. Nếu bạn bị đau tim lần đầu tiên quãng bốn mươi hai tuổi bạn là người thành công lớn. Ít nhất bạn cũng là bộ trưởng nội các hay nhà công nghiệp giầu có hay nghệ sĩ nổi tiếng; bằng không, làm sao bạn giải thích được cho cơn đau tim? Đau tim là định nghĩa của thành công.
Mọi người thành công đều sẽ bị đau tim, họ phải bị vậy. Toàn thể hệ thống của họ đều bị nặng trĩu bởi các yếu tố độc hại: tham vọng, ham muốn, tương lai, ngày mai, cái không bao giờ có đó. Bạn đã sống trong mơ, bây giờ hệ thống của bạn không thể dung thứ được điều đó thêm nữa. Và bạn vẫn còn căng thẳng với tương lai tới mức căng thẳng này đã trở thành chính phong cách sống của bạn. Bây giờ nó là thói quen bắt rễ sâu.
Tại tuổi bốn mươi hai, lại một đột phá mới tới. Người ta bắt đầu nghĩ về tôn giáo, thế giới khác. Cuộc sống dường như quá nhiều, và thời gian còn lại ít ỏi thế - làm sao bạn có thể đạt tới Thượng đế, niết bàn, chứng ngộ? Do đó mới có lí thuyết đầu thai: "Đừng sợ. Bạn sẽ được sinh ra lần nữa mà, cứ sinh đi sinh lại, và bánh xe cuộc sống sẽ cứ chuyển động mãi. Đừng sợ: có đủ thời gian, có đủ vĩnh hằng còn lại - bạn có thể đạt tới được."
Đó là lí do tại sao ở Ấn Độ ba tôn giáo lớn đã phát sinh - Jaina giáo, Phật giáo và Hindu giáo - và họ không đồng ý về bất kì điểm nào ngoại trừ hoá thân. Các lí thuyết bất đồng thế, thậm chí không đồng ý được trên nền tảng cơ sở về Thượng đế, bản chất của cái ta... nhưng tất cả chúng đều đồng ý về lí thuyết đầu thai - phải có cái gì đó cho nó. Tất cả chúng đều cần thời gian, bởi vì để đạt tới Brahman - người Hindu gọi nó là Brahman - phải cần nhiều thời gian. Đó là tham vọng lớn thế, và chỉ vào tuổi bốn mươi hai bạn mới trở nên quan tâm. Chỉ còn lại hai mươi tám năm nữa thôi.
Và đây mới chỉ là bắt đầu của mối quan tâm. Thực tế vào độ tuổi bốn mươi hai bạn trở lại là đứa trẻ trong thế giới của tôn giáo và chỉ còn lại hai mươi tám năm nữa thôi. Thời gian dường như quá ngắn, không đủ chút nào để đạt tới những đỉnh cao như vậy - Brahman, người Hindu gọi nó là vậy. Người Jaina gọi nó là moksha, tự do tuyệt đối khỏi mọi nghiệp quá khứ. Nhưng hàng nghìn và hàng triệu kiếp đã có đó trong quá khứ; trong vòng hai mươi tám năm làm sao bạn bao quát được? Làm sao bạn sẽ hoàn tác được toàn bộ quá khứ? Quá khứ mênh mông thế đang có đó, nghiệp xấu và nghiệp tốt - làm sao bạn lau sạch được các tội lỗi của mình trong vòng hai mươi tám năm? Điều đó dường như không đúng! Thượng đế đòi hỏi quá nhiều, điều đó là không thể được. Bạn sẽ cảm thấy thất vọng nếu bạn chỉ được cho hai mươi tám năm. Và các Phật tử, người không tin vào Thượng đế, không tin cả vào linh hồn - họ cũng tin vào đầu thai. Niết bàn, sự trống rỗng cuối cùng, cái trống rỗng toàn bộ… khi bạn vẫn còn bị chất đầy với biết bao nhiêu rác rưởi thế trong biết bao nhiêu kiếp sống, làm sao bạn sẽ làm nhẹ được bản thân mình trong vòng hai mươi tám năm? Điều đó là quá nhiều, dường như là việc không thể được. Cho nên tất cả họ đều đồng ý về một việc, là cần nhiều tương lai hơn, cần nhiều thời gian hơn.
Bất kì khi nào bạn có tham vọng, đều cần tới thời gian. Và với tôi người tôn giáo là người không cần thời gian. Người đó được giải thoát ở đây và bây giờ, người đó đạt tới Brahman ở đây và bây giờ, người đó được giải thoát, chứng ngộ, ở đây và bây giờ. Người tôn giáo không cần thời gian
chút nào bởi vì tôn giáo xảy ra trong khoảnh khắc vô thời gian. Nó xảy ra bây giờ, nó bao giờ cũng xảy ra; bằng không thì nó chẳng bao giờ xảy ra cả. Không có cách khác mà nó đã từng xảy ra.
Vào độ tuổi bốn mươi hai niềm thôi thúc đầu tiên nảy sinh, mơ hồ, không rõ ràng, lẫn lộn. Bạn thậm chí không nhận biết về điều đang xảy ra, nhưng bạn bắt đầu nhìn vào đền chùa với sự quan tâm thiết tha. Đôi khi nhân tiện, như một khách thăm vô tình, bạn cũng tới nhà thờ. Đôi khi - lúc có thời gian, chẳng phải làm gì - bạn bắt đầu nhìn vào Kinh Thánh, đọng đầy bụi trên bàn. Mơ hồ, không đích xác rõ ràng, cũng giống như đứa trẻ nhỏ mơ hồ về dục bắt đầu chơi với bộ phận sinh dục của mình, chẳng biết mình đang làm gì. Một thôi thúc mơ hồ... Đôi khi người ta ngồi một mình im lặng, bỗng nhiên cảm thấy an bình, chẳng biết mình đang làm gì. Đôi khi người ta bắt đầu lẩm nhẩm câu mật chú đã được nghe từ hồi nhỏ. Bà già hay lẩm nhẩm đọc nó; cảm thấy căng thẳng, người ta bắt đầu lẩm nhẩm đọc nó. Người ta bắt đầu tìm kiếm, tìm thầy, ai đó hướng dẫn cho mình. Người ta nhận điểm đạo, bắt đầu học mật chú, thỉnh thoảng lặp lại nó, rồi lại quên mất trong vài ngày, lại lặp lại … việc tìm kiếm mơ hồ, dò dẫm.
Đến tuổi bốn mươi chín việc tìm kiếm trở thành rõ ràng; phải mất bẩy năm cho việc tìm kiếm trở nên rõ ràng. Bây giờ một quyết tâm nảy sinh. Bạn không còn quan tâm tới người khác nữa, đặc biệt nếu mọi thứ đã đi đúng - và tôi phải nhắc đi nhắc lại điều này bởi vì mọi thứ chẳng bao giờ đi đúng cả - vào độ tuổi bốn mươi chín người ta trở nên không quan tâm tới đàn bà - mãn kinh, vào tuổi bốn mươi chín. Đàn ông không cảm thấy thích tình dục. Toàn bộ mọi sự có vẻ giống như thiếu niên, toàn bộ mọi sự có vẻ giống như hơi chút chưa trưởng thành.
Nhưng xã hội có thể ép buộc… Ở phương Đông họ đã chống lại dục và họ đã kìm nén dục. Khi con trai mười bốn tuổi chúng kìm nén dục và chúng muốn tin rằng con trai vẫn là đứa trẻ, nó không nghĩ tới con gái. Những đứa con trai khác là có thể - những đứa con trai này bao giờ cũng có thể tìm được ở nhà hàng xóm - nhưng chẳng bao giờ là con trai của bạn; nó hồn nhiên như đứa trẻ, như thiên thần. Và nó trông rất hồn nhiên, nhưng điều đó không đúng - nó mơ màng. Con gái đã đi vào tâm thức nó, phải đi vào, điều đó là tự nhiên - và nó phải che dấu điều đó. Nó bắt đầu thủ dâm và nó phải che dấu điều đó. Nó có những giấc mơ làm ướt quần và nó phải che dấu điều đó.
Ở phương Đông con trai mười bốn tuổi trở nên mặc cảm. Cái gì đó sai đang xảy ra - chỉ với nó, bởi vì nó không thể biết được rằng mọi người ở mọi nơi đều làm cùng điều đó. Và nhiều điều mọi người đang trông chờ ở nó - rằng nó phải vẫn còn là một thiên thần, đồng trinh, không nghĩ tới con gái, thậm chí không mơ về con gái. Nhưng nó đã trở nên quan tâm - xã hội đang kìm nén nó.
Ở phương Tây kìm nén này đã biến mất nhưng kìm nén khác lại tới - và điều này phải được hiểu bởi vì đây là cảm giác của tôi, rằng xã hội không bao giờ có thể không mang tính kìm nén được. Nếu nó vứt bỏ kìm nén này, lập tức nó bắt đầu kìm nén khác. Bây giờ kìm nén lại vào quãng bốn mươi chín tuổi ở phương Tây: mọi người bị buộc vẫn còn trong dục bởi vì toàn thể việc dạy bảo nói, "Anh đang làm gì vậy? - đàn ông có khả năng dục mãi cho tới tuổi chín mươi kia!" Những người có thẩm quyền lớn lao đều nói điều đó. Và nếu bạn bất lực và bạn không quan tâm, bạn bắt đầu cảm thấy mặc cảm. Vào độ tuổi bốn mươi chín con người bắt đầu cảm thấy mặc cảm rằng mình không làm tình được nhiều như mình đáng phải làm.
Và có những thầy giáo cứ thuyết giảng, "Điều này là vô nghĩa. Bạn có thể làm tình, bạn có thể làm tình mãi tới chín mươi tuổi kia. Cứ làm tình đi." Và họ nói nếu bạn không làm tình bạn sẽ bị liệt dương; nếu bạn tiếp tục làm tình thì máy của bạn vẫn tiếp tục làm việc. Nếu bạn dừng lại thì chúng sẽ dừng lại, và một khi bạn dừng dục thì năng lượng sống của bạn sẽ sụt giảm, bạn sẽ chóng chết. Nếu chồng dừng lại, vợ quan tâm chăm sóc: "Anh làm gì thế?" Nếu vợ dừng lại chồng sẽ quan tâm chăm sóc cô ấy: "Điều này là ngược với các nhà tâm lí và điều này có thể tạo ra suy đồi nào đó."
Ở phương Đông chúng ta đã làm một điều ngu xuẩn và ở phương Tây cũng vậy, vào thời xưa, họ đã làm cùng điều ngu xuẩn này. Điều đó là chống lại tôn giáo vì đứa trẻ mười bốn tuổi trở nên có khả năng dục - và nó trở nên có khả năng một cách tự nhiên thế. Đứa trẻ chẳng thể làm được gì, điều đó ở ngoài kiểm soát của nó. Nó có thể làm được gì? Làm sao nó có thể làm được điều đó? Mọi giáo huấn về độc thân vào độ tuổi mười bốn đều ngu xuẩn, bạn đang kìm nén con người này. Nhưng những nhà cầm quyền, các tín ngưỡng, các guru già nua, các nhà tâm lí già cả và những người tôn giáo - họ tất cả đều chống lại dục, toàn thể giới cầm quyền đều chống lại dục. Đứa trẻ bị kìm nén, bị làm cho mặc cảm. Tự nhiên không được phép.
Bây giờ chính điều đối lập đang xảy ra tại đầu kia. Vào độ tuổi bốn mươi chín các nhà tâm lí đang buộc mọi người tiếp tục làm tình; bằng
không bạn sẽ mất cuộc sống. Và vào độ tuổi bốn mươi chín... như tại độ tuổi mười bốn dục phát sinh tự nhiên, thì tại độ tuổi bốn mươi chín nó tự nhiên giảm đi. Nó phải như vậy, bởi vì mọi vòng tròn đều phải hoàn chỉnh.
Đó là lí do tại sao ở Ấn Độ chúng ta đã quyết định rằng vào tuổi năm mươi đàn ông nên bắt đầu trở thành một vanprasth, mắt nên hướng vào rừng, lưng nên quay vào bãi chợ. Vanprasth là một từ hay; nó có nghĩa là người bắt đầu nhìn lên Himalaya, nhìn vào rừng. Bây giờ lưng người đó hướng vào cuộc sống và tham vọng và ham muốn và mọi thứ đó - đều kết thúc. Người đó bắt đầu đi tới sự một mình, hướng tới bản thân mình.
Trước điều này, cuộc sống đã thành quá nhiều và người đó không thể một mình được; có những trách nhiệm cần phải được hoàn thành, trẻ con cần được nâng đỡ. Bây giờ chúng đã lớn khôn. Chúng xây dựng gia đình - vào lúc bạn bốn mươi chín thì con bạn lấy vợ lấy chồng, định cư. Chúng không còn là những kẻ hippies, chúng phải đạt tới độ tuổi hai mươi tám. Chúng sẽ lắng đọng - bây giờ bạn có thể đảo lộn được. Bây giờ bạn có thể đi ra khỏi nhà, bạn có thể trở thành vô gia cư. Vào độ tuổi thứ bốn mươi chín người ta nên bắt đầu nhìn về rừng rậm, đi vào nội tâm, trở thành ngày một mang tính thiền và tính cầu nguyện hơn.
Vào độ tuổi năm mươi sáu lại một thay đổi tới, một cuộc cách mạng. Bây giờ nhìn lên Himalaya cũng không đủ; người ta phải thực sự du hành, người ta phải đi. Cuộc sống đang chấm dứt, cái chết đang tới ngày một gần hơn. Vào độ tuổi bốn mươi chín người ta trở nên không quan tâm tới dục khác giới. Vào độ tuổi năm mươi sáu người ta nên trở nên không quan tâm tới người khác, tới xã hội, tới các nghi lễ xã hội, câu lạc bộ. Vào độ tuổi năm mươi sáu người ta nên từ nhiệm khỏi mọi câu lạc bộ Rotaries, mọi câu lạc bộ Lions; bây giờ điều đó có vẻ ngu xuẩn, trẻ con. Cứ tới câu lạc bộ Rotary hay Lions nào đó mà xem mọi người, ăn vận tề chỉnh với cà vạt và đủ mọi thứ - điều đó trông có vẻ thiếu niên, ngây thơ. Họ đang làm gì? Lions - sư tử - chính cái tên này có vẻ ngu ngốc. Với một đứa trẻ nhỏ, tốt - bây giờ họ có câu lạc bộ "Mãnh thú" cho trẻ nhỏ, và cho đàn bà câu lạc bộ "Sư tử cái". Với mãnh thú điều đó là hoàn toàn đúng, nhưng với sư tử và sư tử cái...? Điều đó chỉ ra rằng tâm trí là tầm thường.
Vào độ tuổi năm mươi sáu người ta nên trưởng thành khi thoát ra ngoài mọi vướng víu xã hội. Kết thúc rồi! Người ta đã sống đủ, đã học đủ; bây giờ người ta nên cám ơn mọi người và bước ra khỏi nó. Năm mươi sáu tuổi là thời gian người ta nên tự nhiên trở thành một sannyasin. Người ta nên nhận
tính chất sannyas, người ta nên từ bỏ, điều đó là tự nhiên - khi bạn đi vào, bạn nên từ bỏ. Cuộc sống nên có một lối vào và nó nên có một lối ra; bằng không nó sẽ thành ngạt thở. Bạn đi vào và bạn chẳng bao giờ bước ra và rồi bạn nói bạn ngạt thở, trong đau buồn. Có lối ra đấy, và đó là tính chất sannyas - bạn bước ra khỏi xã hội. Bạn thậm chí không quan tâm tới người khác vào độ tuổi năm mươi sáu.
Đến độ tuổi sáu mươi ba bạn lại trở thành giống đứa trẻ, chỉ quan tâm tới bản thân mình. Đó là điều thiền là gì - đi vào nội tâm, cứ dường như mọi thứ khác đã rơi đâu mất và chỉ mỗi bạn tồn tại. Lần nữa bạn trở thành đứa trẻ - tất nhiên được làm giầu rất nhiều bởi cuộc sống, rất trưởng thành, hiểu biết, với thông minh lớn lao. Bây giờ bạn lại trở thành hồn nhiên. Bạn bắt đầu đi vào nội tâm. Chỉ còn lại vài năm nữa thôi, và bạn phải chuẩn bị cho cái chết. Bạn phải sẵn sàng chết.
Và sẵn sàng chết là gì? Mở hội với cái chết là sẵn sàng chết. Chết hạnh phúc, vui sướng, chết một cách sẵn lòng, đón chào, sẵn sàng. Thượng đế đã cho bạn một cơ hội để học tập, và hiện hữu, và bạn đã học. Bây giờ bạn muốn nghỉ ngơi. Bây giờ bạn muốn đi về nhà tối thượng. Đó đã là nơi tạm trú. Bạn đã lang thang ở miền đất lạ, bạn đã sống với những người lạ, bạn đã yêu những người lạ và bạn đã học nhiều. Bây giờ thời điểm đã tới: hoàng tử phải trở về vương quốc riêng của mình.
Sáu mươi ba là thời điểm người ta trở thành hoàn toàn khép lại trong mình. Toàn thể năng lượng đi vào và đi vào và đi vào, quay vào trong. Bạn trở thành vòng tròn năng lượng, không đi đâu cả. Không đọc, không nói nhiều. Ngày một im lặng hơn, ngày một trở nên bản thân mình hơn, hoàn toàn độc lập với mọi thứ xung quanh bạn. Năng lượng cứ ngày một sụt giảm dần.
Đến độ tuổi bẩy mươi bạn sẵn sàng rồi. Và nếu bạn đã tuân theo hình mẫu tự nhiên này, chỉ ngay trước cái chết của bạn - chín tháng trước cái chết của bạn - bạn sẽ trở nên nhận biết rằng cái chết đang tới. Như đứa trẻ phải trải qua chín tháng trong bụng mẹ, cùng chu kì này được lặp lại hoàn toàn, lặp lại đầy đủ, lặp lại trọn vẹn. Trước lúc cái chết tới, chín tháng trước đó, bạn sẽ trở nên nhận biết. Bây giờ bạn đang đi vào bụng mẹ lần nữa. Bụng mẹ này không trong người mẹ, bụng mẹ này ở bên trong bạn.
Người Ấn Độ gọi điện thờ bên trong nhất của ngôi đền là garbha, bụng mẹ. Khi bạn đi tới ngôi đền thì phần bên trong nhất của ngôi đền này được
gọi là bụng mẹ. Nó được gọi một cách rất biểu tượng như vậy, rất có chủ ý; đó là bụng mẹ người ta phải đi vào. Trong pha cuối cùng - chín tháng - người ta đi vào chính bản thân mình, thân thể riêng của mình trở thành bụng mẹ. Người ta đi vào điện thờ bên trong nhất nơi ngọn lửa bao giờ cũng cháy, nơi ánh sáng bao giờ cũng có, nơi ngôi đền hiện hữu, nơi thượng đế bao giờ cũng sống. Đây là quá trình tự nhiên.
Với quá trình tự nhiên này, không cần tương lai nào cả. Bạn đã sống một cách tự nhiên khoảnh khắc này. Khoảnh khắc tiếp sẽ bắt nguồn từ nó theo cách riêng của nó. Cũng hệt như đứa trẻ lớn lên và trở thành thanh niên - không cần lập kế hoạch cho điều đó, người ta đơn giản trở thành; điều đó là tự nhiên, nó xảy ra. Như dòng sông tuôn chảy và tới đại dương - theo cùng cách này - bạn tuôn chảy và bạn đi tới chỗ kết thúc, tới đại dương. Nhưng người ta phải vẫn còn tự nhiên, trôi nổi và trong khoảnh khắc này. Một khi bạn bắt đầu nghĩ về tương lai và tham vọng và ham muốn, bạn bỏ lỡ khoảnh khắc này. Và khoảnh khắc này bị bỏ lỡ sẽ tạo ra suy đồi bởi vì bạn bao giờ cũng sẽ bỏ thiếu mất cái gì đó; lỗ hổng sẽ có đó.
Nếu đứa trẻ mà không sống thời thơ ấu của mình cho đủ, thời thơ ấu chưa được sống đủ đó sẽ đi vào trong thời thanh niên của bạn - bởi vì nó sẽ đi đâu được? Nó phải được sống qua chứ. Khi đứa trẻ lên bốn và nhảy múa và chơi và chạy khắp nơi, đuổi bắt bướm, điều đó là đẹp. Nhưng khi một thanh niên hai mươi tuổi đuổi bắt bướm thì anh ta dở hơi rồi - thế thì bạn phải nhận anh ta vào bệnh viện, anh ta là một ca tâm thần. Chẳng có gì sai với điều đó ở bốn tuổi; điều đó là tự nhiên, đó là việc cần làm. Đó là đúng việc cần làm - nếu đứa trẻ không đuổi theo bướm thì cái gì đó bị sai, nó phải được đưa tới nhà phân tâm. Thế thì điều đó là được - nhưng khi anh ta hai mươi tuổi và vẫn tung tăng đuổi bướm thì bạn phải nghi ngờ điều gì đó đã đi sai, anh ta vẫn còn chưa trưởng thành. Thân thể đã trưởng thành, tâm trí đang tụt lại sau. Anh ta phải ở đâu đó trong thời thơ ấu của mình - anh ta đã không được phép sống thời thơ ấu một cách trọn vẹn. Nếu anh ta sống thời thơ ấu một cách trọn vẹn thì anh ta sẽ trở thành thanh niên, đẹp đẽ, tươi tắn, không bị vẩn đục bởi tuổi thơ. Anh ta sẽ lột bỏ tuổi thơ như con rắn lột bộ da cũ của nó. Anh ta sẽ đi ra từ đó tươi tắn. Anh ta sẽ có thông minh của thanh niên và anh ta sẽ không trông như người chậm tiến.
Sống tuổi thanh niên một cách trọn vẹn đi. Đừng nghe lời những người có thẩm quyền cao tuổi, vứt những lời đó ra khỏi con đường. Đừng nghe họ - bởi vì họ đã giết chết tuổi thanh niên, họ kìm nén tuổi thanh niên. Họ
chống lại dục và nếu xã hội nào đó chống lại dục thì dục sẽ lan toả khắp cuộc sống của bạn, nó sẽ trở thành chất độc. Sống nó! Tận hưởng nó!
Giữa mười bốn và hai mươi mốt tuổi con trai đạt đỉnh dục cao nhất. Thực tế gần độ tuổi mười bẩy hay mười tám nó đạt tới đỉnh dục. Nó sẽ chẳng bao giờ có năng lực như vậy nữa, và nếu những khoảnh khắc này bị bỏ lỡ nó sẽ chẳng bao giờ đạt tới cực thích đẹp đẽ mà nó có thể đã đạt được gần độ tuổi mười bẩy hay mười tám.
Tôi liên tục gặp khó khăn, vì xã hội buộc bạn phải vẫn còn vô dục ít nhất cho tới hai mươi mốt tuổi - điều đó nghĩa là khả năng lớn nhất cho việc đạt tới dục, học về dục, sẽ bị bỏ lỡ. Vào lúc bạn đạt tới hai mươi mốt, hai mươi hai, bạn đã già rồi khi có liên quan tới dục. Gần độ tuổi mười bẩy bạn còn ở đỉnh - nhiều năng lực, mạnh mẽ tới mức cực thích, cực thích dục, sẽ lan toả khắp các tế bào của bạn. Toàn thể thân thể bạn đã tắm trong phúc lạc vĩnh hằng. Và khi tôi nói dục có thể trở thành samadhi, siêu thức, tôi không nói điều đó cho những người bẩy mươi tuổi, nhớ lấy! Tôi đang nói điều đó cho những người mười bẩy tuổi. Về cuốn sách của tôi, Từ Dục tới Siêu tâm thức... người già tới tôi và họ nói, "Chúng tôi đã đọc cuốn sách của ông nhưng chúng tôi chẳng đạt được cái gì giống thế này cả." Làm sao bạn có thể đạt được? Bạn đã bỏ lỡ thời gian, và nó không thể được thay thế. Và tôi không chịu trách nhiệm; xã hội của bạn chịu trách nhiệm và bạn đã nghe theo nó.
Nếu giữa độ tuổi mười bốn và hai mươi mốt mà đứa trẻ được phép có dục tự do, dục tuyệt đối tự do, nó sẽ chẳng bao giờ bận tâm về dục nữa. Nó sẽ hoàn toàn tự do. Nó sẽ không xem các tạp chí Playboy và Playgirl. Nó sẽ không che giấu những bức tranh khiêu dâm, xấu xí trong tủ hay trong Kinh Thánh. Nó sẽ không đi ra khỏi con đường của mình để ném mọi thứ vào đàn bà, nó sẽ không trở thành thằng cha dâm dê. Những điều này là xấu, đơn giản xấu - nhưng bạn cứ tha thứ cho họ và không cảm thấy điều gì đang xảy ra, tại sao mọi người đều thần kinh.
Một khi bạn tìm ra cơ hội xoa bóp thân thể đàn bà, bạn chẳng bao giờ bỏ lỡ nó - xấu làm sao! Xoa bóp thân thể sao? - cái gì đó vẫn còn chưa được hoàn thành trong bạn. Và khi một lão già với con mắt thèm khát, thì chẳng cái gì so sánh được với điều đó; đó là điều xấu nhất trên thế giới khi một lão già nhìn với sự thèm khát trong đôi mắt mình. Mắt ông ấy bây giờ nên hồn nhiên, ông ấy phải kết thúc bây giờ rồi. Không phải dục là cái gì đó xấu, nhớ lấy - tôi không nói dục xấu. Dục là đẹp vào thời và mùa vụ của nó và
dục là xấu nếu không đúng mùa vụ, không đúng thời. Dục là bệnh hoạn khi nó có trong ông già chín mươi tuổi. Đó là lí do tại sao mọi người nói "lão già dơ dáy." Nó là dơ dáy.
Thanh niên là đẹp, có tính dục. Anh ta biểu lộ sức sống, cuộc sống. Lão già, dâm dê, biểu lộ một cuộc sống chưa được sống, một cuộc sống trống rỗng, không trưởng thành. Ông ta đã bỏ lỡ cơ hội và bây giờ ông ta không thể làm được gì, nhưng ông ta cứ nghĩ ngợi, huyên thuyên trong tâm trí về dục, cứ hư cấu.
Nhớ lấy, giữa mười bốn và hai mươi mốt tuổi một xã hội đúng sẽ cho phép tự do tuyệt đối về dục. Và thế thì xã hội đó sẽ tự nhiên trở nên ít tính dục; bên ngoài một thời gian nào đó sẽ không có dục. Căn bệnh này sẽ không có đó -sống dục khi thời gian chín muồi và quên nó đi khi khoảnh khắc đó đã qua. Nhưng điều đó bạn chỉ làm được nếu bạn đã sống; bằng không bạn không thể quên được và bạn không thể tha thứ được. Bạn sẽ níu bám, nó sẽ trở thành vết thương lòng.
Ở phương Đông bạn đừng nghe những người có quyền, bất kì điều gì họ nói. Lắng nghe tự nhiên - khi tự nhiên nói đấy là lúc yêu, thì yêu. Khi tự nhiên nói đấy là lúc từ bỏ, thì từ bỏ. Và đừng nghe các nhà phân tâm và các nhà tâm lí ngu xuẩn ở phương Tây. Dù họ có các dụng cụ tinh xảo đến đâu - Thầy và Johnson và những người khác - và dù họ đã kiểm nghiệm và kiểm tra bao nhiêu âm đạo, họ chẳng biết cuộc sống.
Thực tế tôi ngờ rằng các Thầy và Johnsons và Kinseys đều là những người nhìn lén. Bản thân họ ốm yếu về dục; bằng không ai bận tâm quan sát cả nghìn âm đạo bằng dụng dụ - quan sát điều gì đang xảy ra bên trong khi đàn bà làm tình? Ai bận tâm? Vô nghĩa làm sao! Nhưng khi mọi sự trở nên suy đồi, những kiểu việc này xảy ra. Bây giờ các Thầy và Johnsons đã trở thành các chuyên gia, những người có thẩm quyền cuối cùng. Nếu bạn có bất kì vấn đề dục nào, họ là những người có thẩm quyền cuối cùng cần tới hỏi. Và tôi ngờ họ đã bỏ lỡ tuổi thanh niên của mình, họ đã không sống cuộc sống dục của mình một cách đúng đắn. Ở đâu đó cái gì đó đang thiếu và họ đang hoàn thành nó qua những trò như vậy.
Và khi một thứ rơi vào sự nắm bắt của khoa học, bạn có thể làm bất kì cái gì. Bây giờ họ đã làm ra các dương vật điện, giả, và những dương vật điện đó cứ rung rung trong âm đạo thật, và họ cứ thử để tìm xem điều gì đang xảy ra bên trong, liệu cực thích là ở âm vật hay âm đạo, hay hoóc môn
nào đang chảy, hoóc môn nào không chảy, và đàn bà có thể làm tình bao lâu. Họ nói đến tận cùng - trên giường chết đàn bà vẫn có thể làm tình.
Thực tế gợi ý của họ là ở chỗ sau thời kì mãn kinh đàn bà có thể làm tình còn tốt hơn bao giờ hết - điều đó có nghĩa là sau tuổi bốn mươi chín. Sao họ lại nói điều đó? - bởi vì, họ nói, trước bốn mươi chín tuổi đàn bà bao giờ cũng sợ bị mang thai. Cho dù cô ấy có uống thuốc, chẳng thuốc nào công hiệu một trăm phần trăm; có nỗi sợ. Sau tuổi bốn mươi chín, khi mãn kinh tới và kinh nguyệt dừng lại, không có nỗi sợ; đàn bà hoàn toàn tự do. Nếu giáo lí của họ lan rộng thì đàn bà sẽ trở thành ma cà rồng, và bà già sẽ săn đuổi đàn ông bởi vì bây giờ họ không sợ và nhà cầm quyền thừa nhận điều đó. Thực tế họ nói rằng đấy là lúc để tận hưởng - không có trách nhiệm gì.
Và với đàn ông nữa, họ cũng cứ nói cùng điều đó. Họ đã bắt gặp những đàn ông - cho nên bây giờ họ nói không có số trung bình - họ đã bắt gặp một người vào độ tuổi sáu mươi vẫn có thể làm tình năm lần một ngày. Người này dường như là một quái nhân. Cái gì đó sai với hoóc môn của người đó và thân thể người đó. Vào độ tuổi sáu mươi! Người đó không tự nhiên, bởi vì như tôi thấy điều đó - và điều này tôi đang nói từ kinh nghiệm riêng của mình trong nhiều kiếp, tôi có thể nhớ chúng - sau bốn mươi chín tuổi đàn ông tự nhiên không quan tâm tới đàn bà; mối quan tâm ra đi. Như nó tới, nó ra đi.
Mọi thứ tới đều phải ra đi. Mọi thứ nảy sinh đều phải rụng xuống. Mọi con sóng nảy sinh đều phải biến mất, phải có thời điểm nó ra đi. Vào mười bốn tuổi nó tới; vào bốn mươi chín tuổi hay quãng thế nó ra đi. Nhưng một đàn ông làm tình năm lần một ngày vào độ tuổi sáu mươi - cái gì đó sai rồi. Cái gì đó rất, rất sai; thân thể người đó không hoạt động đúng. Đó là đầu bên kia của bất lực, cực đoan khác. Khi một đứa trẻ mười bốn tuổi không cảm thấy dục gì, một thanh niên mười tám tuổi không có ham muốn, điều gì đó sai rồi - người đó phải được chữa trị. Khi một người sáu mươi tuổi cần làm tình năm lần một ngày, điều gì đó sai rồi. Thân thể người đó đã trở thành nổi đoá; nó không hoạt động đúng, tự nhiên.
Nếu bạn sống trong khoảnh khắc một cách toàn bộ, không có nhu cầu lo lắng về tương lai. Tuổi thơ được sống đúng đắn sẽ đem bạn tới tuổi thanh niên chín muồi, đúng - tuôn chảy, sống động, đại dương năng lượng hoang dã. Tuổi thanh niên được sống đúng sẽ đem bạn tới cuộc sống yên tĩnh và bình thản, rất lắng đọng. Cuộc sống yên tĩnh và bình thản đem bạn tới cuộc
truy tìm tôn giáo: Cuộc sống là gì? Việc sống là không đủ, người ta phải thấm vào điều bí ẩn. Cuộc sống yên tĩnh và bình thản đem bạn tới những khoảnh khắc thiền. Thiền đem bạn tới việc từ bỏ mọi cái bây giờ vô dụng, chỉ là đồ đồng nát, rác rưởi. Toàn thể cuộc sống trở thành rác rưởi; chỉ mỗi một điều bao giờ cũng còn lại, có giá trị vĩnh hằng, và đó là nhận biết của bạn.
Vào lúc bẩy mươi tuổi, khi bạn sẵn sàng chết - nếu bạn sống mọi sự đúng đắn, vào khoảnh khắc đó, đừng bao giờ trì hoãn cho tương lai, đừng bao giờ mơ mộng về tương lai, bạn đã sống nó một cách toàn bộ trong khoảnh khắc dù nó là bất kì cái gì - chín tháng trước cái chết của mình bạn sẽ trở nên nhận biết. Bạn đã đạt tới nhiều nhận biết thế, bạn có thể thấy rằng bây giờ cái chết đang tới.
Nhiều thánh nhân đã tuyên bố cái chết của họ trước thời điểm đó, nhưng tôi không gặp một ví dụ nào mà cái chết được công bố trước chín tháng. Đích xác chín tháng trước đó, con người của nhận biết, đã thông tỏ với quá khứ... bởi vì người chưa bao giờ nghĩ tới tương lai sẽ chẳng bao giờ nghĩ về quá khứ. Chúng là cùng nhau; quá khứ và tương lai là cùng nhau, gắn cùng nhau. Khi bạn nghĩ về tương lai đấy chẳng là gì ngoài phóng chiếu của quá khứ; khi bạn nghĩ về quá khứ đấy chẳng là gì ngoài cố gắng lập kế hoạch cho tương lai - chúng là cùng nhau. Hiện tại ở ngoài cả hai - người sống trong khoảnh khắc này bây giờ và ở đây không bị cản trở bởi quá khứ và không bị cản trở bởi tương lai, người đó vẫn còn không bị nặng gánh. Người đó không có gánh nặng phải mang, người đó đi vô trọng lượng. Lực trọng trường không tác động vào người đó. Thực tế, người đó không bước, người đó bay. Người đó có cánh. Trước khi chết, đích xác chín tháng trước đó, người đó sẽ trở nên nhận biết rằng cái chết đang tới.
Và người đó sẽ tận hưởng và người đó sẽ mở hội và người đó sẽ nói với mọi người, "Con tàu của tôi đang tới, và tôi chỉ còn lại chút thời gian trên bờ này. Chẳng mấy chốc tôi sẽ ra đi về nhà mình. Cuộc sống này đã là một kinh nghiệm tuyệt vời, kì lạ. Tôi đã yêu, đã học, đã sống nhiều, tôi được giầu có. Tôi đã tới đây chẳng có gì và tôi ra đi với nhiều kinh nghiệm, nhiều trưởng thành." Người đó sẽ cám ơn tất cả những gì đã xảy ra - cả tốt lẫn xấu, cả đúng lẫn sai, bởi vì từ mọi thứ người đó đã học. Không chỉ từ cái đúng, mà cả từ cái sai nữa - các hiền nhân mà người đó đã bắt gặp, người đó đã học từ họ và cả các tội nhân, vâng, cả từ họ nữa. Tất cả họ đều đã giúp đỡ. Những người trộm cắp người đó đã giúp đỡ, những người đã giúp
cho người đó cũng giúp đỡ. Những người là bạn đã giúp đỡ, những người là thù cũng giúp đỡ - mọi thứ đều giúp đỡ. Mùa hè và mùa đông, no nê và đói khát, mọi thứ đều giúp đỡ. Người ta có thể cám ơn tất cả.
Khi người ta cám ơn tất cả và sẵn sàng chết, mở hội cho cơ hội này mà người ta được trao cho, thì cái chết trở thành đẹp. Thế thì cái chết không phải là kẻ thù, nó là người bạn lớn nhất bởi vì nó là cao trào của cuộc sống. Nó là đỉnh cao nhất mà cuộc sống đạt tới. Nó không phải là kết thúc của cuộc sống, nó là cực đỉnh. Nó giống như chỗ kết thúc bởi vì bạn chưa bao giờ biết cuộc sống - với người đã biết cuộc sống nó dường như là chính cao trào, chính đỉnh cao, đỉnh cao nhất.
Cái chết là cực điểm, sự hoàn thành. Cuộc sống không kết thúc trong nó; thực tế cuộc sống nở hoa trong nó - nó là hoa. Nhưng để biết cái đẹp của cái chết người ta phải sẵn sàng cho nó, người ta phải học nghệ thuật.
Hội chứng
Người lạ trong phòng khách
Một bà già nói bà ấy đã để ý tới sự thay đổi trong cách cư xử của mình mà bà ấy thấy rối loạn. "Thỉnh thoảng tôi có nhận biết về cơn giận dữ lớn, chẳng mấy lí do. Nó trôi qua rất nhanh chóng, nhưng tôi lại không nhận biết về nó trước đây. Có lẽ tôi bao giờ cũng có nó rồi …?
Không, nhưng điều đó xảy ra sau một tuổi nào đó làm cho các cực thay đổi. Đó là một quá trình rất tinh tế.
Mọi đàn ông đều có một đàn bà trong vô thức, và mọi đàn bà đều có một đàn ông trong vô thức. Một cách có ý thức bạn là đàn bà cho nên bạn dùng khả năng nữ tính của mình - và bạn càng dùng chúng nhiều thì chúng càng chóng cạn kiệt đi. Nhưng vô thức không được dùng tới vẫn còn rất trẻ và tươi. Khi phần nữ tính đã bị dùng quá nhiều, dần dần nó trở nên yếu đi và thế rồi một khoảnh khắc tới khi nó yếu tới mức phần nam tính vô thức trở nên mạnh hơn phần nữ tính.
Lúc ban đầu nữ tính là phần mạnh hơn - đó là lí do tại sao bạn lại là đàn bà. Chẳng hạn bạn là đàn bà bẩy mươi phần trăm - ba mươi phần trăm bị kìm nén, bị ép buộc vào trong vô thức bởi bẩy mươi phần trăm đàn bà. Việc liên tục dùng đàn bà làm cho phần ý thức này cứ ngày một yếu đi, yếu đi và yếu đi. Một khoảnh khắc tới khi nó tụt xuống thấp hơn ba mươi phần trăm - thế thì bỗng nhiên bánh xe quay và phần mạnh hơn chiếm lĩnh. Nó trở thành rất mạnh, và bạn bị ngạc nhiên bởi vì bạn chưa bao giờ biết tới nó trước đây. Và cùng điều đó cũng xảy ra cho đàn ông - đàn ông trở thành mang nữ tính khi họ trở nên già hơn.
Đâu đó quãng bốn mươi chín tuổi, vào độ tuổi mãn kinh, cân bằng trong đàn bà bắt đầu thay đổi. Chu kì kinh nguyệt chấm dứt, cân bằng bắt đầu thay đổi. Chẳng chóng thì chầy người ta thấy một con người rất mới đang tới trong... sự kì lạ. Người ta bị phân vân, lẫn lộn, bởi vì người ta không biết sống thế nào với người lạ này. Người lạ này bao giờ cũng có đó rồi - nhưng bao giờ cũng ở tầng ngầm. Nó chưa bao giờ là một phần của chuyện gia đình của bạn; nó chưa bao giờ bước lên cầu thang. Bây giờ bỗng nhiên nó tới từ tầng ngầm - mà không chỉ có thế, nó ngồi ngay phòng khách và cố gắng sở hữu mọi thứ! Và nó lại mạnh mẽ.
Cho nên điều duy nhất là chấp nhận nó, quan sát nó. Đừng tranh đấu với nó, đừng cố kìm nén nó. Bạn không thể kìm nén nó bây giờ được. Ngày một trở nên nhận biết về nó và nhận biết này sẽ đem tới một thái độ hoàn toàn mới. Bạn sẽ biết rằng bạn chẳng là đàn ông chẳng là đàn bà. Nó cũng đã từng giữ vai trò là đàn bà - bây giờ nó bị thay thế bởi một vai trò khác; phần bị bác bỏ đã trồi lên. Kẻ bị khuất phục đã trở thành kẻ chinh phục bây giờ. Nhưng bạn không là cả hai - đó là lí do tại sao trò chơi này là có thể.
Nếu mà bạn hoàn toàn thực sự là đàn bà, thì năng lượng nam tính không thể chiếm quyền sở hữu bạn được. Bạn không là cả đàn bà lẫn đàn ông - hôm thì chính phần nữ tính mạnh hơn; nó đóng vai. Bây giờ phần kia lại đang cố gắng đóng vai. Mọi bà già đều trở nên nam tính nhiều hơn - đó là lí do tại sao mẹ chồng lại nguy hiểm thế! Đó là điều tự nhiên xảy ra, chẳng thể làm gì được về điều đó. Bạn chỉ phải nhận biết thôi. Bạn phải quan sát và đứng tách rời và nhìn toàn bộ trò chơi. Thế thì một thực thể thứ ba, không là cả hai, trở thành rõ ràng - bạn chỉ là bản thân việc chứng kiến, linh hồn chứng kiến.
Nam tính là trong thân thể, nữ tính là trong thân thể - tâm trí tuân theo như cái bóng, phản xạ lại. Sâu hơn bên trong cốt lõi của mình, trong chính cốt lõi của bản thể mình, bạn không là cả hai điều này - không đàn ông không đàn bà. Bây giờ sự kiện đó phải được hiểu - một khi nó được hiểu thì bạn có thể cười vào toàn bộ vấn đề. Và một khi nó được hiểu thì toàn thể sức mạnh của giận dữ, của hận thù, sẽ biến mất. Bạn sẽ không trở thành đàn bà lần nữa mà bạn sẽ không là cả đàn ông nữa. Bạn sẽ trở nên khác hoàn toàn.
Và đây là điều người ta thực sự đang là. Đây là điều các tôn giáo gọi là siêu việt, vượt lên - và con người là loài vật duy nhất có khả năng vượt lên trên bản thân mình. Đó là cái đẹp của con người - rằng người đó có thể vượt lên trên đàn ông, đàn bà, vai này, vai kia, tốt, xấu, đạo đức, vô đạo. Con người có thể vượt lên trên mọi thứ, và đi tới một điểm con người là tâm thức thuần khiết duy nhất, chỉ là người quan sát trên núi. Cho nên đừng lo nghĩ về điều đó - quan sát điều đó. Hạnh phúc đi!
Mãn kinh - Đó không chỉ là "thứ của con gái"
Một đàn ông bốn mươi tám tuổi nói anh ta có khối chắn dục, điều anh ta kinh nghiệm như sự không sẵn lòng nói ra điều anh ta thực sự muốn khi anh ấy ở cùng đàn bà. Anh ta cũng để ý tới điều đó nữa, rằng tính dục của anh ta dường như đang suy giảm.
Đây là lúc rồi sao, hừ? Ở đâu đó quanh tuổi bốn mươi chín mãn kinh sẽ tới cho cả đàn ông nữa, không chỉ cho đàn bà. Mãn kinh của đàn ông rất tinh tế nhưng nó có đó - bây giờ ngay cả nghiên cứu khoa học cũng nói như vậy. Điều này đã từng là sự kiện được biết tới đối với Mật tông từ hàng thế kỉ nay... bởi vì về cơ bản hoá chất của đàn ông và hoá chất của đàn bà không thể khác đến thế được. Nó có khác nhau, nhưng không thể khác đến thế được.
Khi đàn bà trở nên trưởng thành về dục quãng mười hai, mười ba, mười bốn tuổi, đàn ông trưởng thành cũng cùng quãng thời gian đó. Thế rồi sẽ rất không công bằng là đàn bà có mãn kinh quãng bốn chín và đàn ông lại không mãn kinh; điều đó sẽ đơn giản chứng tỏ rằng Thượng đế cũng là trọng nam! Đó là không công bằng và điều đó là không thể được.
Có khác biệt với đàn ông - đó là lí do tại sao điều đó chưa bao giờ được phát hiện ra cho tới nay - nhưng trong vòng vài năm qua nhiều nghiên cứu đã có đó và họ đã đi tới cảm nhận ra rằng có mãn kinh đàn ông. Và cũng như đàn bà có kinh nguyệt sau mỗi hai mươi tám ngày, đàn ông cũng có chu kì như vậy nữa. Trong ba hay bốn ngày đàn bà đi vào trạng thái suy giảm, vào trạng thái tiêu cực - thì đàn ông cũng vậy. Nhưng bởi vì máu đàn bà là thấy được nên không cần phải hỏi nhiều về điều đó - và đàn bà biết rằng chu kì của mình đã tới, và biết rằng sự suy giảm và tiêu cực và mọi thứ nảy sinh và cô ấy trở nên rất tối tăm, buồn nản bên trong.
Việc xuất tiết của đàn ông là không thấy được, nhưng một năng lượng nào đó vẫn xuất ra mỗi tháng - trong ba hay bốn ngày đàn ông cũng trở thành nạn nhân của sự suy giảm, tiêu cực. Nếu bạn ghi chép trong vài tháng bạn sẽ có khả năng thấy rằng đích xác sau hai mươi tám ngày bạn lại trở nên tiêu cực trong ba hay bốn ngày - từ trời xanh, chẳng bởi lí do nào cả. Cứ thử ghi nhật kí nhỏ và điều đó sẽ trở thành rõ ràng cho bạn. Và điều xảy ra quãng bốn chín tuổi là mãn kinh tới gần hơn - chẳng có gì phải lo nghĩ về
điều đó, nó là tự nhiên. Năng lượng dục suy giảm - nhưng với việc suy giảm của năng lượng dục, năng lượng tâm linh có thể tăng lên. Nếu người ta chọn bước đi đúng thì suy giảm năng lượng dục có thể trở thành việc dâng lên năng lượng tâm linh - bởi vì đấy là cùng năng lượng có thể đi lên. Và khi mối quan tâm dục kém đi, có khả năng lớn hơn cho việc thúc đẩy năng lượng của bạn.
Cho nên đừng nhìn điều đó theo cách tiêu cực - nó có thể chứng tỏ là phúc lành lớn lao; chấp nhận nó đi. Và không có nhu cầu làm việc với nó, chỉ chấp nhận nó. Để nó là vậy và đừng nghĩ dưới dạng "khối chắn" - điều đó sẽ sai đấy. Nếu một thanh niên hai mươi, hai mươi nhăm tuổi cảm thấy sút giảm trong năng lượng dục thì có khối chắn, thì cái gì đó phải được làm. Nếu một người sau bốn mươi chín không cảm thấy sự sút giảm dục thì cái gì đó bị sai. Cái gì đó cần phải được làm - điều đó nghĩa là người đó không đi lên, người đó bị mắc kẹt.
Và ở phương Tây điều đó đã trở thành vấn đề, bởi vì ở phương Tây dục dường như là cuộc sống duy nhất. Cho nên khoảnh khắc năng lượng dục bắt đầu sút giảm con người gần như cảm thấy mình sắp chết. Ở phương Đông chúng ta cảm thấy rất hạnh phúc khi năng lượng sút giảm, cực kì hạnh phúc, bởi vì người ta được chấm dứt sự rối loạn đó và cơn ác mộng đó.
Chẳng có gì phải lo cả - không có khối chắn ở đó. Trong vòng một năm mọi sự sẽ lắng đọng và bạn sẽ đi lên bình diện cao hơn: bạn sẽ có khả năng nhìn cuộc sống theo ánh sáng khác và theo màu sắc khác. Đàn ông sẽ không giống nhiều như đàn ông thế và đàn bà sẽ không giống nhiều đàn bà thế. Sẽ có nhiều con người trong thế giới hơn là đàn ông và đàn bà... và đó là một thế giới hoàn toàn khác - của con người. Thực tế nhìn vào đàn bà như đàn bà, nhìn vào đàn ông như đàn ông, là không đúng - nhưng dục tạo ra phân chia đó. Khi dục không còn là lực phân chia nữa, bạn thấy con người.
Lão già dơ dáy
Chính bởi vì lịch sử dài, dài lâu của kìm nén trong xã hội mà lão già dơ dáy mới tồn tại. Chính bởi vì các thánh nhân của bạn, các tu sĩ của bạn mà lão già dơ dáy mới tồn tại.
Nếu mọi người được phép sống cuộc sống dục của mình một cách vui sướng, đến lúc họ gần tới bốn mươi hai - nhớ lấy, tôi đang nói bốn mươi hai, không phải tám mươi tư - ngay khi họ gần bốn mươi hai, dục sẽ bắt đầu mất đi sự nắm giữ vào họ. Cũng như dục phát sinh và trở thành rất mạnh vào lúc người ta mười bốn tuổi, đích xác theo cùng cách đó vào lúc người ta bốn mươi hai nó bắt đầu biến mất. Đó là tiến trình tự nhiên. Và khi dục biến mất, người già có tình yêu, có từ bi, thuộc vào một loại hoàn toàn khác. Không có thèm khát trong tình yêu của người đó, không ham muốn; người đó không lấy gì từ đó cả. Tình yêu của người đó có thuần khiết, hồn nhiên; tình yêu của người đó là niềm vui.
Dục cho bạn hoan lạc. Và dục cho bạn hoan lạc chỉ khi bạn đã đi vào trong dục; thế thì hoan lạc là kết quả cuối cùng. Nếu dục trở thành không liên quan - không bị kìm nén, nhưng bởi vì bạn đã kinh nghiệm nó sâu sắc tới mức nó không còn giá trị gì nữa... Bạn đã biết nó, và tri thức bao giờ cũng đem tới tự do. Bạn đã biết nó một cách toàn bộ, và bởi vì bạn đã biết nó, nên bí ẩn này chấm dứt, không có gì hơn để khám phá nữa. Trong việc biết đó, toàn thể năng lượng, năng lượng dục, được chuyển hoá thành tình yêu, từ bi. Người ta cho từ niềm vui. Thế thì người già là người đẹp nhất trên thế giới, người sạch nhất trên thế giới.
Không có cách diễn đạt trong bất kì ngôn ngữ nào kiểu như "ông già sạch." Tôi chưa bao giờ nghe thấy điều đó. Nhưng cách diễn đạt này, lão già dơ dáy, lại tồn tại trong gần như mọi ngôn ngữ. Lí do là ở chỗ thân thể trở nên già nua, thân thể trở nên mệt mỏi, thân thể muốn gạt bỏ mọi hoạt động dục - nhưng tâm trí, bởi vì những ham muốn bị kìm nén, vẫn thèm khát. Khi thân thể không có khả năng còn tâm trí lại liên tục ám ảnh bạn vì cái gì đó mà thân thể không có khả năng làm được, thực sự ông già này thành đống lộn xộn. Mắt ông ta đầy dục tình, thèm khát; thân thể ông ta chết và đờ đẫn. Còn tâm trí ông ta thì cứ dằn vặt ông ta. Ông ta bắt đầu có cái nhìn dơ dáy, khuôn mặt dơ dáy; ông ta bắt đầu có cái gì đó xấu xí bên trong mình.
Điều đó nhắc tôi nhớ tới câu chuyện về một người nghe lỏm chuyện vợ mình và em vợ mình đang thảo luận về những chuyến kinh doanh ra ngoài thành phố thường xuyên của anh ta. Cô em gợi ý chị vợ nên lo lắng về việc chồng mình không có người đi kèm tại các khách sạn lịch sự nơi đông người lui tới với nhiều đàn bà nhà nghề không chồng lại xinh xắn hấp dẫn thế.
"Chị mà phải lo sao?" người vợ nói. "Tại sao, anh ấy chưa bao giờ lừa chị cả. Anh ấy quá trung thành, quá đứng đắn... quá già rồi."
Thân thể chẳng chóng thì chầy sẽ trở nên già lão; nó nhất định trở nên già lão. Nhưng nếu bạn mà chưa sống các ham muốn của mình, chúng sẽ la hét quanh bạn, chúng nhất định sẽ tạo ra cái gì đó xấu xí trong bạn. Hoặc là ông già này trở thành người đẹp nhất thế giới, bởi vì ông ấy đạt tới hồn nhiên hệt như đứa trẻ, hoặc thậm chí còn sâu hơn hồn nhiên của đứa trẻ… ông ấy trở thành hiền nhân. Nhưng nếu ham muốn vẫn còn đó, chạy như dòng nước ngầm, thì ông ấy bị kéo vào sự hỗn loạn.
Một người rất già bị bắt khi định quấy rầy tình dục một nữ thanh niên. Thấy một ông già như vậy, tám mươi tư tuổi rồi, trong toà án, quan toà giảm lời buộc tội từ hãm hiếp sang tấn công bằng vũ khí chết người.
Nếu bạn trở nên già, nhớ rằng tuổi già là cực đỉnh của cuộc sống. Nhớ rằng tuổi già có thể là kinh nghiệm đẹp nhất - bởi vì trẻ con có hi vọng vào tương lai, nó sống trong tương lai, nó có ham muốn lớn lao để làm điều này, làm điều nọ. Mọi đứa trẻ đều nghĩ rằng nó sẽ là ai đó đặc biệt - Alexander Đại đế, Josef Stalin, Mao Trạch Đông - nó sống trong ham muốn và trong tương lai. Thanh niên bị ám ảnh quá nhiều bởi bản năng, đủ mọi bản năng bùng nổ trong người đó. Dục có đó - nghiên cứu hiện đại nói rằng mọi đàn ông đều nghĩ về dục ít nhất cứ ba phút một lần. Đàn bà có chút ít khá hơn, họ nghĩ tới dục cứ sáu phút một lần. Đó là khác biệt lớn lao, gần như gấp đôi; đó có thể là nguyên nhân của nhiều rạn nứt giữa chồng và vợ!
Cứ ba phút một lần dục bằng cách nào đó lại loé lên trong tâm trí - thanh niên bị ám ảnh bởi những lực tự nhiên lớn lao đến nỗi người đó không thể được tự do. Tham vọng có đó, và thời gian chạy nhanh, còn người đó phải làm cái gì đó và người đó phải là cái gì đó. Tất cả những hi vọng và ham muốn và tưởng tượng của thời thơ ấu phải được hoàn thành; người đó đang trong cuộc xô đẩy lớn, vội lắm.
Người già biết rằng những ham muốn trẻ con này thực sự là ngây thơ. Người già biết rằng tất cả những ngày này của tuổi thanh niên và sự rối loạn đều sẽ qua thôi. Người già đã ở cùng trạng thái đó khi cơn bão đã qua và im lặng ngự trị - im lặng đó có thể là cái đẹp vô cùng, là chiều sâu, sự phong phú. Nếu người già này thực sự trưởng thành, vẫn là trường hợp rất hiếm hoi, thế thì người đó sẽ đẹp. Nhưng mọi người chỉ lớn lên về tuổi tác, họ không trưởng thành. Do đó mới thành vấn đề.
Trưởng thành, trở nên trưởng thành, trở nên ngày một tỉnh táo và nhận biết đi. Và tuổi già là cơ hội cuối cùng được trao cho bạn: trước khi cái chết tới, hãy chuẩn bị. Và làm sao người ta chuẩn bị cho cái chết được? Bằng việc trở nên mang tính thiền nhiều hơn.
Nếu ham muốn thèm khát nào đó vẫn có đó, và thân thể đang già đi và thân thể không có khả năng hoàn thành những ham muốn đó, đừng lo. Thiền về những ham muốn này, quan sát, nhận biết. Chỉ bằng nhận biết và quan sát và tỉnh táo, những ham muốn đó và năng lượng được chứa trong chúng có thể được chuyển hoá. Nhưng trước khi cái chết tới, hãy tự do với mọi ham muốn.
Khi tôi nói tự do với mọi ham muốn tôi đơn giản ngụ ý tự do với mọi đối thể của ham muốn. Thế thì có khao khát thuần khiết - khao khát thuần khiết đó là điều thiêng liêng, khao khát thuần khiết đó là Thượng đế. Thế thì có tính sáng tạo thuần khiết không có đối thể, không có địa chỉ, không có chiều hướng, không có đích tới - chỉ là năng lượng thuần khiết, một vũng năng lượng không đi đâu cả. Đó chính là phật tính.
Cay đắng
Chúng ta cay đắng bởi vì chúng ta không phải là điều chúng ta đáng phải là. Mọi người đều cảm thấy cay đắng bởi vì mọi người đều cảm thấy đây không phải là điều cuộc sống đáng phải vậy; nếu điều này là tất cả thì cuộc sống chẳng là gì cả. Phải có cái gì đó hơn nó chứ, và chừng nào cái gì đó hơn còn chưa được tìm thấy, người ta không thể vứt bỏ được cay đắng của mình. Từ sự cay đắng này mà giận dữ, ghen tị, bạo hành, hận thù kéo tới - đủ mọi loại tiêu cực. Người ta liên tục phàn nàn nhưng điều phàn nàn thực sự lại ở đâu đó khác sâu bên dưới. Đó chính là phàn nàn chống lại sự tồn tại: "Mình đang làm gì ở đây thế này? Sao mình lại ở đây? - chẳng có gì xảy ra cả. Sao mình lại bị buộc phải sống, bởi vì chẳng cái gì xảy ra cả." Thời gian cứ trôi qua và cuộc sống vẫn còn chẳng có phúc lạc nào. Điều đó tạo ra cay đắng.
Không phải ngẫu nhiên mà người già trở nên rất cay đắng. Rất khó sống với người già, cho dù họ là bố mẹ của riêng bạn. Điều đó là rất khó bởi một lẽ đơn giản là toàn bộ cuộc sống của họ đã bị kiệt quệ và họ cảm thấy cay đắng. Họ nhảy vào mọi thứ để ném ra những cái tiêu cực của mình; họ bắt đầu tẩy rửa và vung vít lên mọi thứ. Họ không thể tha thứ được cho trẻ con đang hạnh phúc, nhảy múa, ca hát, hò hét vui vẻ - họ không thể dung thứ được cho điều đó. Đó là nỗi phiền muộn cho họ bởi vì họ đã bỏ lỡ mất cuộc sống của mình. Và thực tế khi họ nói "Đừng làm cho chúng tôi phiền muội nữa " họ đơn giản nói, "Sao chúng mày lại dám vui vẻ thế!" Họ chống lại thanh niên, và bất kì cái gì mà thanh niên đang làm, người già bao giờ cũng nghĩ thanh niên sai.
Thực tế, họ đơn giản cảm thấy cay đắng về toàn thể mọi thứ được gọi là cuộc đời, và họ cứ tìm ra đủ mọi cớ. Rất hiếm khi tìm được một người già không cay đắng - điều đó nghĩa là người đó đã sống thực sự đẹp, người đó thực sự là người trưởng thành. Thế thì người già có cái đẹp vô cùng, không thanh niên nào có thể có được. Họ có chín chắn nào đó, sự trưởng thành, họ dày dạn. Họ đã thấy nhiều và đã sống nhiều đến mức họ cực kì biết ơn Thượng đế.
Nhưng rất khó tìm thấy kiểu người già đó, bởi vì điều đó có nghĩa người đó là vị Phật, một Christ. Chỉ người đã thức tỉnh mới có thể không cay đắng
trong thời già lão - bởi vì cái chết đang tới gần, cuộc sống sắp mất, cái gì có đó cho người ta hạnh phúc? Người ta đơn giản giận dữ.
Bạn đã nghe nói về thanh niên giận dữ, nhưng thực sự không thanh niên nào có thể giận dữ được như người già. Không ai nói về người già giận dữ nhưng kinh nghiệm riêng của tôi - tôi đã quan sát thanh niên, người già - là ở chỗ không ai có thể giận dữ như người già.
Cay đắng là trạng thái của dốt nát. Bạn phải vượt ra ngoài nó, bạn phải học nhận biết, điều trở thành cây cầu đưa bạn vượt ra ngoài. Và chính việc vượt ra đó là cuộc cách mạng. Khoảnh khắc bạn đã thực sự vượt ra ngoài mọi phàn nàn, tất cả những cái không, thì cái có vô cùng phát sinh ra - chỉ có, có, có - có hương thơm lớn lao. Cùng năng lượng đã là cay đắng nay trở thành hương thơm.
Quan hệ trưởng thành
Phụ thuộc, Độc lập, Liên thuộc
Tình yêu có thể có ba chiều hướng. Một là chiều hướng phụ thuộc. Đó là điều xảy ra cho đại đa số mọi người. Chồng phụ thuộc vào vợ, vợ phụ thuộc vào chồng; họ khai thác lẫn nhau, họ chi phối lẫn nhau, họ sở hữu lẫn nhau, họ biến nhau thành món hàng hoá. Chín mươi chín phần trăm trường hợp, đó là điều đang xảy ra trên thế giới này. Đó là lí do tại sao tình yêu, điều có thể mở cửa cõi trời, chỉ mở ra cửa địa ngục.
Khả năng thứ hai là tình yêu giữa những người độc lập. Điều đó nữa cũng thỉnh thoảng mới xảy ra. Nhưng điều đó nữa cũng đem tới khổ, bởi vì có xung đột thường xuyên. Không việc điều chỉnh nào là có thể; cả hai đều độc lập thế và không ai sẵn sàng thoả hiệp, điều chỉnh với người kia.
Nhà thơ, nghệ sĩ, nhà tư tưởng, nhà khoa học, những người sống trong một loại độc lập nào đó, ít nhất trong tâm trí họ, đều là những người không thể sống cùng được; họ là những người lập dị nếu sống cùng. Họ cho người khác tự do, nhưng tự do của họ có vẻ như dửng dưng hơn là giống tự do, cứ dường như họ chẳng quan tâm, cứ dường như chẳng thành vấn đề gì với họ cả. Họ để cho người khác có không gian riêng của mình. Mối quan hệ dường như là ở bề ngoài; họ sợ đi sâu hơn vào lẫn nhau, bởi vì họ bị gắn bó với tự do của mình nhiều hơn là với tình yêu, và họ không muốn thoả hiệp.
Và khả năng thứ ba là của sự liên thuộc. Điều đó xảy ra rất hiếm hoi, nhưng bất kì khi nào nó xảy ra thì một phần của thiên đường lại rớt xuống đất. Hai người, không độc lập cũng không phụ thuộc nhưng trong sự đồng bộ vô cùng, cứ dường như thở cho nhau, một linh hồn trong hai thân thể - bất kì khi nào điều đó xảy ra, tình yêu đã xảy ra. Chỉ gọi được điều này là tình yêu thôi. Hai chiều hướng kia không thực sự là tình yêu, chúng chỉ là sự sắp đặt - xã hội, tâm lí, sinh học, nhưng là những sắp đặt. Loại thứ ba mới có cái gì đó tâm linh.
Nhu cầu và việc cho, yêu và có
C.S. Lewis đã chia tình yêu thành hai loại này: 'tình yêu-nhu cầu' và 'tình yêu-ban tặng'. Abraham Maslow cũng chia tình yêu thành hai loại. Loại thứ nhất ông ấy gọi là 'tình yêu-khiếm khuyết' và loại thứ hai ông ấy gọi là 'tình yêu-hiện hữu'. Phân biệt này là có ý nghĩa và cần phải được hiểu.
'Tình yêu-nhu cầu' hay 'tình yêu-khiếm khuyết' tuỳ thuộc vào người khác; nó là tình yêu chưa trưởng thành. Thực tế nó không phải là tình yêu thực - nó là nhu cầu. Bạn dùng người khác, bạn dùng người khác làm phương tiện. Bạn khai thác, bạn thao túng, bạn chi phối. Nhưng người kia bị thu lại, người kia gần như bị phá huӹ. Và đích xác cùng điều đó được người kia thực hiện. Người đó đang cố gắng thao túng bạn, chi phối bạn, sở hữu bạn, dùng bạn. Dùng người khác là điều rất không có tình. Cho nên điều đó chỉ dường như là yêu thôi; nó là đồng tiền giả. Nhưng đây là điều xảy ra cho gần chín mươi chín phần trăm mọi người bởi vì bài học đầu tiên về tình yêu mà bạn đã học là từ thời thơ ấu của mình.
Đứa trẻ được sinh ra, nó phụ thuộc vào người mẹ. Tình yêu của nó hướng tới mẹ là 'tình yêu-khiếm khuyết' - nó cần mẹ, nó không thể sống sót nếu không có mẹ. Nó yêu mẹ bởi vì mẹ là cuộc sống của nó. Thực tế đấy không phải là tình yêu thực - nó sẽ yêu bất kì người đàn bà nào, bất kì ai sẽ bảo vệ nó, bất kì ai sẽ giúp nó sống sót, bất kì ai sẽ đáp ứng nhu cầu của nó. Người mẹ là một loại thức ăn mà đứa bé ăn. Không chỉ sữa nó lấy từ mẹ, nó lấy cả tình yêu nữa - và điều đó nữa cũng là nhu cầu. Hàng triệu người vẫn còn là đứa trẻ cả đời mình; họ chẳng bao giờ trưởng thành. Họ lớn về tuổi tác nhưng họ chẳng bao giờ trưởng thành trong tâm trí mình; tâm lí của họ vẫn còn vị thành niên, chưa trưởng thành. Họ bao giờ cũng cần tình yêu, họ khao khát nó như thức ăn.
Con người trở nên trưởng thành vào lúc người đó bắt đầu yêu thay vì cần. Người đó bắt đầu tuôn chảy, chia sẻ; người đó bắt đầu cho. Sự nhấn mạnh là khác biệt hoàn toàn. Với loại thứ nhất, nhấn mạnh là vào cách lấy được nhiều hơn. Với loại thứ hai, nhấn mạnh là vào cách cho, cách cho nhiều hơn và cách cho vô điều kiện. Đây là trưởng thành, chín chắn, xảy tới cho bạn. Người trưởng thành cho. Chỉ người trưởng thành mới có thể cho,
bởi vì chỉ người trưởng thành mới có điều đó. Thế thì tình yêu là không phụ thuộc. Thế thì bạn có thể yêu cho dù người kia có hay không. Thế thì tình yêu không phải là mối quan hệ, nó là trạng thái.
Điều gì xảy ra khi một hoa nở trong rừng sâu mà chẳng ai ca ngợi nó, chẳng ai biết tới hương thơm của nó, chẳng ai đi ngang qua và nói "đẹp đấy," chẳng ai thưởng thức cái đẹp của nó, niềm vui của nó - chẳng ai chia sẻ, điều gì xảy ra cho hoa này? Nó có chết không? Nó có đau khổ không? Nó có trở nên hoang mang sợ hãi không? Nó có tự tử không? Nó cứ nở hoa, nó đơn giản cứ nở hoa. Chẳng có gì khác biệt việc liệu có ai đó đi qua hay không; điều đó là không liên quan. Nó cứ toả mãi hương thơm của mình theo gió. Nó cứ cúng dường niềm vui của mình cho Thượng đế, cho cái toàn thể. Nếu tôi một mình, thì thế nữa tôi cũng sẽ yêu như khi tôi đang ở cùng các bạn. Các bạn không phải là người tạo ra tình yêu của tôi. Nếu như các bạn tạo ra tình yêu của tôi, thì tự nhiên, khi các bạn ra đi tình yêu của tôi sẽ mất đi. Các bạn không kéo tình yêu của tôi ra, tôi đang mưa rào nó lên các bạn - đây là tình yêu-ban tặng, đây là tình yêu-hiện hữu.
Và tôi không thực sự đồng ý với C.S. Lewis và Abraham Maslow. Tình yêu thứ nhất mà họ gọi là 'tình yêu' thì không phải là tình yêu, nó chỉ là nhu cầu. Làm sao nhu cầu có thể là tình yêu được? Tình yêu là điều xa hoa. Nó là dư thừa. Nó có nhiều cuộc sống tới mức bạn không biết phải làm gì với nó, cho nên bạn chia sẻ. Nó có nhiều bài ca trong tim bạn tới mức bạn phải hát chúng lên - dù có ai nghe hay không, cũng chẳng liên quan gì. Nếu không ai nghe bạn cũng vẫn phải hát bài ca của mình, bạn sẽ phải nhảy điệu vũ của mình. Người khác có thể được nó, người khác có thể lỡ nó - nhưng khi có liên quan tới bạn nó vẫn tuôn chảy; nó là việc tuôn tràn.
Dòng sông không chảy vì bạn; chúng chảy dù bạn có đó hay không. Chúng không chảy vì cơn khát của bạn, chúng không chảy vì những cánh đồng khát khô của bạn; chúng đơn giản tuôn chảy ở đó. Bạn có thể làm dịu cơn khát của mình, bạn có thể bỏ lỡ - điều đó là tùy bạn thôi. Dòng sông không thực sự chảy vì bạn, dòng sông chỉ chảy. Ngẫu nhiên mà bạn có thể lấy được nước cho cánh đồng của mình, ngẫu nhiên mà bạn có thể lấy được nước cho nhu cầu của mình.
Khi bạn phụ thuộc vào người khác, bao giờ cũng có khổ. Khoảnh khắc bạn phụ thuộc, bạn bắt đầu cảm thấy khổ bởi vì phụ thuộc là nô lệ. Thế thì bạn bắt đầu báo thù theo những cách tinh vi, bởi vì người mà bạn phải phụ thuộc vào trở thành có quyền lực trên bạn. Không ai thích bất kì ai có quyền
trên mình, không ai thích bị phụ thuộc bởi vì phụ thuộc giết chết tự do. Và tình yêu không thể nở hoa trong phụ thuộc được - tình yêu là bông hoa của tự do; nó cần không gian, nó cần không gian tuyệt đối. Người kia phải không can thiệp vào nó. Điều đó là rất tinh tế.
Khi bạn phụ thuộc, người khác chắc chắn sẽ chi phối bạn, và bạn sẽ cố gắng chi phối người khác. Đó là cuộc đấu tranh cứ diễn ra giữa cái gọi là những người yêu nhau. Họ là những kẻ thù thân thiết, liên tục tranh đấu. Chồng và vợ - họ đang làm gì? Yêu thương là rất hãn hữu; đấu tranh là qui tắc, yêu là ngoại lệ. Và theo đủ mọi cách họ cố gắng chi phối - ngay cả qua tình yêu họ cũng cố gắng chi phối. Nếu chồng yêu cầu vợ, vợ từ chối, cô ấy không tự nguyện. Cô ấy rất khổ: cô ấy cho nhưng rất miễn cưỡng, cô ấy muốn bạn vẫy đuôi quanh cô ấy. Và đấy cũng là trường hợp với anh chồng. Khi cô vợ thấy cần và đề nghị anh ta, chồng nói rằng anh ta mệt. Trong văn phòng có quá nhiều công việc, anh ta thực sự bị quá tải, và anh ta muốn đi ngủ.
Đây là những cách thao túng, bỏ đói người khác, làm cho người đó mỗi lúc một đói hơn để cho người đó trở nên ngày một phụ thuộc hơn. Một cách tự nhiên, đàn bà có tính ngoại giao về điều đó hơn là đàn ông bởi vì đàn ông đã có quyền lực rồi. Anh ta không cần tìm các cách thức tinh tế và tinh ranh để có quyền lực, anh ta có quyền lực rồi. Anh ta quản lí tiền - đó là quyền lực của anh ta. Về cơ bắp, anh ta mạnh hơn. Trong nhiều thế kỉ anh ta đã huấn luyện cho tâm trí của đàn bà rằng anh ta có quyền hơn còn cô ấy không có quyền.
Đàn ông bao giờ cũng cố gắng tìm đàn bà theo đủ mọi cách kém hơn anh ta. Đàn ông không muốn cưới đàn bà có giáo dục hơn mình, bởi vì thế thì quyền lực bị nguy khốn. Anh ta không muốn cưới đàn bà cao hơn mình, bởi vì đàn bà cao hơn trông cao sang. Anh ta không muốn cưới đàn bà quá nhiều trí tuệ, bởi vì thế thì cô ấy tranh cãi, và luận cứ có thể phá huӹ quyền lực. Đàn ông không muốn đàn bà rất nổi tiếng, bởi vì thế thì anh ta trở thành thứ yếu. Và trong nhiều thế kỉ đàn ông đã hỏi vợ là đàn bà trẻ hơn mình. Tại sao vợ không thể già hơn chồng? Cái gì sai? Nhưng đàn bà già kinh nghiệm hơn - điều đó phá huӹ quyền lực.
Cho nên đàn ông bao giờ cũng hỏi vợ với những đàn bà kém hơn - đó là lí do tại sao đàn bà đã mất chiều cao. Chẳng có lí do nào cho họ thấp hơn đàn ông cả, không có lí do chút nào; họ đã mất chiều cao bởi vì đàn bà nhỏ nhắn hơn bao giờ cũng được chọn. Dần dần điều này đã đi vào trong tâm trí
họ sâu tới mức họ đã mất chiều cao của mình. Họ đã mất thông minh bởi vì đàn bà thông minh không được cần tới; đàn bà thông minh là quái nhân. Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng ngay trong thế kỉ này chiều cao của họ đang tăng lên trở lại. Ngay cả xương của họ cũng trở nên lớn hơn, khung xương trở nên lớn hơn. Chỉ mới trong vòng năm mươi năm nay thôi... đặc biệt là ở Mĩ. Và não họ cũng phát triển và trở nên lớn hơn là chúng vẫn thường vậy, sọ cũng đang trở nên lớn hơn.
Với ý tưởng này về tự do cho đàn bà, những huấn luyện sâu sắc nào đó đã bị phá bỏ. Đàn ông đã có quyền lực cho nên anh ta không cần rất láu lỉnh, không cần rất gián tiếp. Đàn bà không có quyền lực. Khi bạn không có quyền lực bạn phải có tính ngoại giao hơn - đó là cái thay thế. Cách duy nhất họ có thể cảm thấy có quyền là ở chỗ họ được cần tới, ở chỗ đàn ông liên tục cần tới họ. Đây không phải là tình yêu, đây là mặc cả, và họ liên tục mặc cả về giá. Đó là cuộc vật lộn thường xuyên.
C.S. Lewis và Abraham Maslow chia tình yêu ra làm đôi. Tôi không chia thành hai. Tôi nói rằng loại tình yêu thứ nhất chỉ là danh nghĩa thôi, là đồng tiền giả; điều đó không đúng. Duy nhất loại tình yêu thứ hai mới là tình yêu.
Tình yêu xảy ra chỉ khi bạn trưởng thành. Bạn trở nên có khả năng yêu chỉ khi bạn là người trưởng thành. Khi bạn biết rằng tình yêu không phải là nhu cầu mà là sự tuôn tràn - tình yêu-hiện hữu hay tình yêu-ban tặng - thế thì bạn cho mà không có điều kiện nào.
Loại thứ nhất, cái gọi là tình yêu, được bắt nguồn từ nhu cầu sâu sắc của con người cần tới người khác, trong khi "tình yêu-ban tặng" hay "tình yêu hiện hữu" tuôn trào từ người trưởng thành sang người khác do sự thừa thãi. Người ta bị tràn ngập bởi nó. Bạn có nó và nó bắt đầu di chuyển quanh bạn, cũng như khi bạn thắp lên ngọn đèn, tia sáng bắt đầu lan toả vào trong bóng tối. Tình yêu là sản phẩm phụ của sự hiện hữu. Khi bạn hiện hữu, bạn có vầng hào quang của tình yêu quanh mình. Khi bạn không hiện hữu, bạn không có vầng hào quang đó quanh mình. Và khi bạn không có vầng hào quang đó quanh mình, bạn hỏi xin người khác cho bạn tình yêu. Để tôi nhắc lại điều đó: Khi bạn không có tình yêu, bạn hỏi xin người khác cho bạn tình yêu; bạn là kẻ ăn xin. Và người khác cũng đang hỏi xin bạn đem tình yêu cho người đó. Bây giờ, hai kẻ ăn xin này chìa tay ra cho nhau, và cả hai đều hi vọng rằng người kia có nó... Một cách tự nhiên cuối cùng cả hai đều cảm thấy thất bại, và cả hai đều cảm thấy bị lừa.
Bạn có thể hỏi bất kì người chồng và người vợ nào, bạn có thể hỏi bất kì người yêu nào - họ cả hai đều cảm thấy bị lừa. Đó là phóng chiếu của bạn rằng người kia có nó - nếu bạn có phóng chiếu sai, người kia có thể làm gì về điều đó được? Phóng chiếu của bạn đã bị tan vỡ; người kia đã tỏ ra không hợp với phóng chiếu của bạn, có vậy thôi. Nhưng người kia không có nghĩa vụ gì phải chứng tỏ bản thân mình tương ứng với trông đợi của bạn.
Và bạn đã lừa người kia... đó là cảm giác của người kia, bởi vì người kia đã hi vọng rằng tình yêu sẽ tuôn chảy từ bạn. Các bạn cả hai đều hi vọng tình yêu sẽ tuôn chảy từ người kia, và cả hai đều trống rỗng - làm sao tình yêu có thể xảy ra được? Nhiều nhất các bạn có thể khổ cùng nhau. Trước đó, bạn quen khổ một mình, riêng biệt; bây giờ bạn có thể khổ cùng nhau. Và nhớ, bất kì khi nào hai người khổ cùng nhau thì đấy không phải là phép cộng đơn giản, đấy là phép nhân.
Một mình bạn đã cảm thấy thất vọng, bây giờ ở cùng nhau bạn lại cảm thấy thất vọng. Một điều tốt về nó, bây giờ bạn có thể đổ trách nhiệm lên đầu người kia - người kia gây cho bạn khổ, đó là điểm tốt. Bạn có thể cảm thấy thoải mái. "Chẳng cái gì sai với mình cả, tại người kia chứ... Phải làm gì với mụ vợ như vậy - cáu kỉnh, cằn nhằn? Người ta phải khổ thế. Phải làm gì với lão chồng như vậy? - xấu xí, keo kiệt." Bây giờ bạn có thể đổ trách nhiệm lên đầu người khác; bạn đã tìm ra người chịu báng. Nhưng khổ vẫn còn đó, lại còn được nhân lên.
Bây giờ đây là nghịch lí: những người rơi vào tình yêu chẳng có tình yêu nào, đó là lí do tại sao họ lại rơi vào tình yêu. Và bởi vì họ không có tình yêu gì, nên họ không thể cho được. Và một điều nữa - người chưa trưởng thành bao giờ cũng rơi vào tình yêu với người chưa trưởng thành khác, bởi vì chỉ họ mới có thể hiểu ngôn ngữ của nhau. Người trưởng thành yêu người trưởng thành. Người chưa trưởng thành yêu người chưa trưởng thành.
Bạn có thể cứ đổi chồng hay đổi vợ cả nghìn lẻ một lần, bạn sẽ lại tìm thấy cùng kiểu đàn bà và cùng khổ được lặp lại - dưới các dạng khác nhau, nhưng cùng khổ được lặp lại, nó gần như là một. Bạn có thể thay đổi vợ mình, nhưng bạn lại không đổi - bây giờ ai sẽ chọn vợ mới? Bạn sẽ chọn. Việc chọn lựa sẽ lại tới từ sự chưa trưởng thành của bạn. Bạn sẽ lại chọn một kiểu đàn bà tương tự.
Vấn đề cơ sở của tình yêu là trước hết người ta phải trở nên trưởng thành. Thế thì bạn sẽ tìm ra bạn tình trưởng thành; thế thì người chưa trưởng thành sẽ không hấp dẫn bạn chút nào. Điều đó giống hệt thế này. Nếu bạn hai mươi nhăm tuổi, bạn không rơi vào tình yêu với đứa bé hai tuổi. Đích xác giống như thế, khi bạn là người trưởng thành về mặt tâm lí, tâm linh, bạn không rơi vào tình yêu với đứa bé. Điều đó không xảy ra. Điều đó không thể xảy ra được, bạn có thể thấy rằng điều đó sẽ là vô nghĩa.
Thực tế người trưởng thành không rơi vào tình yêu, người đó vươn lên trong tình yêu. Từ 'rơi' là không đúng. Chỉ người chưa trưởng thành mới rơi; họ loạng choạng và rơi vào tình yêu. Bằng cách nào đó họ xoay xở và đứng dậy. Bây giờ họ không thể xoay xở được và họ không thể đứng dậy được - họ tìm thấy người đàn bà và người này ra đi, họ tìm thấy người đàn ông và người này ra đi. Họ bao giờ cũng sẵn sàng ngã ra đất và bò. Họ không có xương sống, cột sống; họ không có tính toàn vẹn để đứng một mình.
Người trưởng thành có tính toàn vẹn để ở một mình. Và khi người trưởng thành cho tình yêu, người đó cho mà không có dây nào gắn với điều đó - người đó đơn giản cho. Khi người trưởng thành cho tình yêu người đó cảm thấy biết ơn rằng bạn đã chấp nhận tình yêu của người đó, không phải điều ngược lại. Người đó không trông đợi bạn cám ơn vì điều đó - không, không chút nào, người đó thậm chí không cần lời cám ơn của bạn. Người đó cám ơn bạn vì việc chấp nhận tình yêu của người đó. Và khi hai người trưởng thành ở trong tình yêu, một trong những nghịch lí lớn lao nhất của cuộc sống xảy ra, một trong những hiện tượng đẹp đẽ nhất: họ ở cùng nhau ấy vậy mà lại cực kì một mình. Họ ở cùng nhau nhiều tới mức họ gần như là một, nhưng tính một của họ không phá huӹ tính cá nhân của họ - thực tế, nó tôn cao tính cá nhân, họ trở thành mang tính cá nhân nhiều hơn. Hai người trưởng thành sống trong tình yêu thì giúp đỡ lẫn nhau trở nên tự do hơn. Không có chính trị tham dự vào, không ngoại giao, không nỗ lực chi phối.
Làm sao bạn có thể chi phối được người bạn yêu? Nghĩ kĩ về điều đó - chi phối là một loại hận thù, giận dữ, thù địch. Làm sao bạn có thể nghĩ tới việc chi phối người bạn yêu? Bạn sẽ thích thấy người này tự do toàn bộ, độc lập; bạn sẽ cho người đó nhiều tính cá nhân hơn. Đó là lí do tại sao tôi gọi nó là nghịch lí lớn lao nhất: họ ở cùng nhau nhiều tới mức họ gần như là một, nhưng vẫn trong cái một đó họ là các cá nhân. Tính cá nhân của họ
không bị xoá đi - chúng đã trở nên được nâng cao lên. Người kia đã làm giầu thêm chúng khi có liên quan tới tự do của họ.
Người chưa trưởng thành rơi vào tình yêu thì phá huӹ tự do của người khác, tạo ra tù túng, làm ra nhà tù. Người trưởng thành trong tình yêu thì giúp đỡ lẫn nhau để được tự do; họ giúp lẫn nhau để phá bỏ mọi loại tù túng. Và khi tình yêu tuôn chảy cùng tự do, có cái đẹp. Khi tình yêu tuôn chảy cùng phụ thuộc thì sẽ có xấu xí.
Nhớ lấy, tự do có giá trị cao hơn tình yêu. Đó là lí do tại sao ở Ấn Độ, điều tối thượng chúng ta lại gọi là moksha; moksha nghĩa là tự do. Tự do có giá trị cao hơn tình yêu. Cho nên nếu tình yêu đang phá huӹ tự do, thì nó là không xứng đáng. Tình yêu có thể bị bỏ đi, tự do phải được giữ lấy - tự do có giá trị cao hơn. Và không có tự do bạn chẳng bao giờ có thể hạnh phúc được, điều đó là không thể được. Tự do là ham muốn bản chất của từng đàn ông, từng đàn bà - tự do hoàn toàn, tự do tuyệt đối. Cho nên bất kì cái gì trở thành việc phá huӹ tự do, người ta đều bắt đầu ghét nó.
Bạn không ghét người đàn ông bạn yêu sao? Bạn không ghét người đàn bà bạn yêu sao? Bạn ghét đấy! Đó là điều ác cần thiết, bạn phải dung thứ nó. Bởi vì bạn không thể một mình được nên bạn phải xoay xở để ở cùng ai đó, và bạn phải điều chỉnh theo đòi hỏi của người khác. Bạn phải dung thứ, bạn phải chịu đựng họ.
Tình yêu, tình yêu thực sự, phải là tình yêu-hiện hữu, tình yêu-ban tặng. Tình yêu-hiện hữu ngụ ý trạng thái yêu - khi bạn đã về nhà, khi bạn đã biết mình là ai, thế thì tình yêu phát sinh trong sự hiện hữu của bạn. Thế thì hương thơm lan toả và bạn có thể đem nó cho người khác được. Làm sao bạn có thể cho cái gì mà bạn không có? Để cho nó, yêu cầu đầu tiên là phải có nó.
Tình yêu và hôn nhân
Gợi ý của tôi là ở chỗ hôn nhân nên xảy ra sau tuần trăng mật, đừng bao giờ trước nó. Chỉ nếu mọi sự đi đúng, chỉ thế thì hôn nhân mới nên xảy ra.
Tuần trăng mật sau hôn nhân là rất nguy hiểm. Như tôi biết, chín mươi chín phần trăm hôn nhân đều kết thúc ngay sau lúc tuần trăng mật kết thúc. Nhưng thế thì bạn bị bắt giữ rồi, thế thì bạn chẳng còn đường thoát nào nữa. Thế thì cả xã hội - luật pháp, toà án, mọi người đều chống lại bạn nếu bạn bỏ vợ hay vợ bỏ bạn. Thế thì toàn thể nền đạo đức, tôn giáo, tu sĩ, mọi người đều chống lại bạn.
Trong thực tế xã hội đáng phải tạo ra mọi rào chắn có thể cho hôn nhân và không rào chắn nào cho li dị. Xã hội đáng phải không cho phép mọi người cưới nhau dễ dàng thế. Toà án đáng phải tạo ra các rào chắn - sống với người đàn bà ít nhất trong hai năm, thế rồi toà án có thể cho phép bạn được cưới nhau. Ngay bây giờ họ đang làm chính điều ngược lại. Nếu bạn muốn cưới nhau, chẳng ai hỏi liệu bạn có sẵn sàng không hay liệu nó chỉ là một ý thích chợt nảy ra, chỉ bởi vì bạn thích cái mũi của người đàn bà này. Ngu ngốc làm sao! Người ta không thể sống chỉ bởi vì cái mũi đẹp. Sau hai ngày cái mũi sẽ bị quên mất - ai nhìn vào mũi vợ mình mãi? Vợ chẳng bao giờ trông đẹp cả, chồng chẳng bao giờ trông đẹp cả; một khi các bạn quen nhau rồi, cái đẹp biến mất.
Hai người nên được phép sống cùng nhau đủ lâu để trở nên quen thuộc, bén mùi lẫn nhau. Trước điều đó, cho dù họ muốn cưới nhau, họ cũng không nên được phép. Thế thì li dị sẽ biến mất khỏi thế giới. Li dị tồn tại bởi vì hôn nhân sai và bị ép buộc. Li dị tồn tại bởi vì hôn nhân được thực hiện trong tâm trạng lãng mạn.
Tâm trạng lãng mạn là tốt nếu bạn là nhà thơ - và nhà thơ chưa bao giờ được biết là người chồng tốt hay người vợ tốt. Thực tế nhà thơ hầu như là người chưa vợ, họ làm những chuyện ngớ ngẩn dại dột nhưng họ lại chưa hề bị bắt, và do đó lãng mạn của họ vẫn còn sống động. Họ cứ viết thơ ca, những bài thơ hay... Người ta không nên cưới người đàn bà hay đàn ông trong tâm trạng thơ ca. Cứ để cho tâm trạng văn xuôi tới, rồi lắng đọng lại. Bởi vì cuộc sống thường ngày giống với văn xuôi nhiều hơn là giống thơ ca.
Người ta phải trở nên đủ trưởng thành. Trưởng thành nghĩa là người ta không còn là kẻ ngốc lãng mạn nữa. Người ta hiểu cuộc sống, người ta hiểu trách nhiệm của cuộc sống, người ta hiểu các vấn đề của việc ở cùng với một người. Người ta chấp nhận tất cả những khó khăn và vậy mà vẫn quyết định sống với người đó. Người ta không hi vọng rằng sẽ có cõi trời, toàn hoa hồng. Người ta không hi vọng vào điều vô nghĩa; người ta biết thực tế là nghiệt ngã, nó là khắc nghiệt. Có hoa hồng nhưng lại ở xa và chỉ có vài bông ở giữa; nhưng có nhiều gai.
Khi bạn đã trở nên tỉnh táo với tất cả những vấn đề này và bạn vẫn quyết định rằng đáng mạo hiểm và sống cùng với một người thay vì sống một mình, thì cưới nhau. Thế thì hôn nhân sẽ không bao giờ giết chết tình yêu, bởi vì tình yêu này là hiện thực. Hôn nhân có thể giết chết mỗi tình yêu lãng mạn. Và tình yêu lãng mạn là điều mọi người gọi là mối tình ngây thơ. Người ta phải không nên phụ thuộc vào nó. Người ta không nên nghĩ về nó như sự nuôi dưỡng. Nó có thể giống như kem - thỉnh thoảng bạn có thể ăn nó, nhưng đừng phụ thuộc vào nó. Cuộc sống phải hiện thực hơn, văn xuôi hơn.
Và hôn nhân bản thân nó chẳng bao giờ phá huӹ cái gì. Hôn nhân đơn giản lôi ra bất kì cái gì vẫn được giấu kín bên trong bạn - nó đem cái đó ra. Nếu tình yêu được giấu kín bên trong bạn, hôn nhân lôi nó ra. Nếu tình yêu chỉ là sự giả vờ, chỉ là miếng mồi nhử, chẳng chóng thì chầy nó phải biến mất. Và thế thì thực tại của bạn, cá tính xấu xí của bạn lòi ra. Hôn nhân đơn giản là cơ hội, cho nên bất kì điều gì bạn có bên trong bạn sẽ cho ra.
Tình yêu không bị hôn nhân phá huӹ. Tình yêu bị phá huӹ bởi những người không biết cách yêu. Tình yêu bị phá huӹ bởi vì ngay chỗ đầu tiên tình yêu đã không có, bạn đã sống trong mơ. Thực tại phá huӹ giấc mơ đó. Bằng không thì tình yêu là cái gì đó vĩnh hằng, một phần của cái vĩnh hằng. Nếu bạn trưởng thành, nếu bạn biết nghệ thuật này và bạn chấp nhận các thực tại của cuộc sống tình yêu, thế thì nó cứ phát triển mọi ngày. Hôn nhân trở thành cơ hội vô cùng cho việc trưởng thành trong tình yêu.
Chẳng cái gì có thể phá huӹ được tình yêu. Nếu nó có đó, nó cứ phát triển mãi. Nhưng cảm giác của tôi là ở chỗ trong hầu hết các trường hợp ngay chỗ đầu tiên nó đã không có rồi. Bạn tự hiểu lầm mình, cái gì đó khác đã có đó - có thể dục có đó, sự hấp dẫn dục có đó. Thế thì nó sẽ bị phá huӹ bởi vì một khi bạn đã làm tình với người đàn bà thì hấp dẫn dục biến mất. Hấp dẫn dục chỉ là với cái không biết - một khi bạn đã nếm trải thân thể của
đàn bà hay đàn ông, hấp dẫn dục biến mất. Nếu tình yêu của bạn chỉ là hấp dẫn dục, nó nhất định biến mất.
Cho nên đừng bao giờ hiểu lầm yêu là cái gì đó khác. Nếu yêu là yêu thực... Tôi ngụ ý gì khi tôi nói "yêu thực"? Tôi ngụ ý rằng chỉ trong sự hiện diện của người khác bạn cảm thấy niềm hạnh phúc đột nhiên, chỉ ở cùng nhau bạn cảm thấy cực lạc, chính sự hiện diện của người khác đáp ứng cái gì đó sâu xa trong tim bạn... cái gì đó bắt đầu ca hát trong tim bạn, bạn rơi vào hài hoà. Chính hiện diện của người khác giúp cho bạn ở cùng; bạn trở thành nhiều tính cá nhân hơn, định tâm hơn, tiếp đất hơn. Thế thì đó là tình yêu.
Tình yêu không phải là đam mê, tình yêu không phải là xúc động. Tình yêu là hiểu biết rất sâu sắc rằng ai đó bằng cách nào đó làm hoàn chỉnh bạn. Ai đó làm cho bạn thành vòng tròn đầy đủ. Sự hiện diện của người khác tôn cao thêm sự hiện diện của bạn. Tình yêu cho tự do được là chính bản thân mình; nó không mang tính sở hữu.
Cho nên, quan sát - đừng bao giờ coi dục là tình yêu, bằng không bạn sẽ bị lừa. Tỉnh táo, và khi bạn bắt đầu cảm thấy với ai đó rằng chỉ sự hiện diện, sự hiện diện thuần khiết - không gì khác, không gì khác là cần cả; bạn không hỏi gì cả, chỉ sự hiện diện, chỉ mỗi điều người khác hiện hữu - là đủ làm cho bạn hạnh phúc... Cái gì đó bắt đầu nở hoa bên trong bạn, hoa sen nghìn lẻ một cánh nở ra, thế thì bạn đang trong tình yêu. Và thế thì bạn có thể đi qua tất cả các khó khăn mà thực tại tạo ra. Nhiều phiền não, nhiều lo âu - bạn sẽ có thể trải qua tất cả chúng và tình yêu của bạn sẽ nở hoa ngày một nhiều hơn, bởi vì tất cả những tình huống này sẽ trở thành thách thức. Và tình yêu của bạn, bằng việc vượt qua chúng, sẽ phát triển ngày một mạnh mẽ hơn.
Tình yêu là vĩnh hằng. Nó có đó, thế rồi nó cứ phát triển và phát triển và phát triển. Tình yêu biết chỗ bắt đầu nhưng không biết chỗ kết thúc.
Bố mẹ và con cái
Nếu bố mẹ mang tính thiền, nếu con được sinh ra không chỉ qua giao hợp dục vật lí mà còn qua tình yêu mang tính thiền sâu sắc... Tình yêu mang tính thiền ngụ ý sự tan chảy vào bản thể của nhau, không chỉ là hai thân thể. Nó ngụ ý gạt bản ngã của bạn ra, gạt tôn giáo của bạn ra, gạt các ý thức hệ của bạn ra - trở thành đơn giản và hồn nhiên. Trong trạng thái vô điều kiện đó của bố mẹ, nếu con được thụ thai thì có mọi sự chắc chắn, không chỉ khả năng, là đứa con sẽ không bị qui định chút nào.
Có vài điều bạn phải hiểu - tôi không thể đưa ra bằng chứng nào về chúng được, chúng ở bên ngoài bằng chứng. Chỉ kinh nghiệm của bạn mới cho bạn bằng chứng.
Chẳng hạn, tổ chức sinh học có khả năng vượt hơn bản thân nó. Nó vượt hơn trong những khoảnh khắc nào đó. Đó là những khoảnh khắc được ấp ủ nhất trong tâm trí con người, bởi vì trong những khoảnh khắc đó bạn đã biết tự do, cái ta mở rộng, và im lặng và an bình hoàn toàn; yêu không có cái tương ứng, ghét, đi theo nó. Khoảnh khắc đó chúng ta gọi là cực thích. Sinh học cho bạn cực thích; đó là món quà quí giá nhất từ sinh học mù quáng. Bạn có thể dùng những khoảnh khắc đó của tự do, tan chảy, biến mất, cho thiền. Không có chỗ nào tốt hơn để từ đó nhảy vào trong thiền bằng cực thích. Hai người yêu nhau cảm thấy một linh hồn trong hai thân thể... mọi thứ đã dừng lại cho khoảnh khắc này, ngay cả thời gian cũng đã dừng lại. Không có ý nghĩ, tâm trí đã dừng lại. Bạn trong cái 'đây' đơn giản của mình. Đó là những chỗ nhỏ bé từ đó bạn có thể vượt ra ngoài sinh học.
Mọi điều bạn phải biết rằng đây là điều thiền là gì: vô thời gian, vô ngã, im lặng, phúc lạc, và vui vẻ tràn ngập tất cả, cực lạc dâng trào.
Điều này xảy ra qua sinh học giữa hai người. Một khi bạn biết rằng điều đó cũng có thể xảy ra trong sự một mình của bạn, bạn chỉ phải hoàn thành những điều kiện đó. Hiểu biết của riêng tôi là ở chỗ con người đi tới biết về thiền qua cực thích dục, bởi vì trong cuộc sống không có khoảnh khắc nào khác tới gần tính thiền như vậy.
Nhưng mọi tôn giáo đều chống lại dục. Họ ủng hộ thiền nhưng họ không ủng hộ cái đầu tiên, kinh nghiệm cơ sở sẽ đưa bạn tới thiền. Cho nên họ đã tạo ra một nhân loại nghèo nàn - không chỉ nghèo nàn về vật chất mà
nghèo nàn cả về tâm linh nữa. Họ đã huấn luyện tâm trí bạn chống lại dục nhiều tới mức dưới sức ép sinh học bạn mới đi vào trong nó. Nhưng trong sức ép đó bạn không thể kinh nghiệm được tự do cực thích, cái vô hạn bỗng nhiên trở thành sẵn có cho bạn - cái vĩnh hằng trong khoảnh khắc đó, chiều sâu, chiều sâu vực thẳm của kinh nghiệm này.
Bởi vì con người đã bị tước mất niềm phúc lạc cực thích nên con người đã trở nên không có khả năng biết thiền là gì. Và đó là điều tất cả các tôn giáo đều muốn, rằng bạn không bao giờ trở nên mang tính thiền - nói về nó, đọc về nó, làm nghiên cứu về nó, nghe bài giảng về nó... Mọi điều đó sẽ tạo ra nhiều thất vọng trong bạn bởi vì bạn hiểu mọi thứ về thiền một cách trí tuệ, nhưng bạn không có kinh nghiệm sống nào có thể minh chứng rằng nếu giọt sương có đó, đại dương cũng phải có ở đâu đó.
Giọt sương là bằng chứng tồn tại của đại dương. Sinh học còn từ bi nhiều lắm so với nhà thờ, giáo đường, đền chùa của bạn. Mặc dầu sinh học mù quáng, nó không mù quáng đến mức như Moses, Krishna, Jesus, Mohammed của bạn. Sinh học là bản chất của bạn, nó chẳng có gì ngoài sự từ bi cho bạn. Nó đã trao cho bạn mọi thứ có thể có cần để đi lên cao hơn, để đạt tới trạng thái siêu tự nhiên.
Cả đời mình tôi đã tranh đấu chống lại những kẻ ngốc. Họ không thể trả lời được cho tôi, luận cứ của tôi, về một điều đơn giản: bạn nói về thiền nhưng bạn sẽ phải đưa ra bằng chứng sống nào đó trong cuộc sống con người; bằng không, mọi người sẽ hiểu chỉ lời thôi. Bạn sẽ phải cho họ cái gì đó có thể làm cho họ nhận biết về điều có thể - tình yêu được tạo ra không có mặc cảm gì, không vội vã gì, không nghĩ rằng bạn đang làm điều gì đó sai. Bạn sẽ làm điều tốt nhất và điều đúng nhất trên thế giới.
Cũng kì lạ mà thấy rằng người ta có thể giết người mà không có mặc cảm gì - không phải giết một mà hàng triệu người - nhưng họ không thể tạo ra được trẻ con không mặc cảm. Tất cả các tôn giáo đều chẳng là gì ngoài tai hoạ.
Làm tình chỉ khi bạn sẵn sàng ở trong không gian thiền. Và tạo ra bầu không khí thiền trong khi bạn làm tình. Bạn nên coi chỗ đó là linh thiêng. Việc tạo ra cuộc sống... cái gì có thể linh thiêng hơn được? Làm điều đó một cách đẹp đẽ, thẩm mĩ, vui sướng nhất có thể được. Không nên vội vã. Và nếu hai người yêu nhau gặp gỡ trong bầu không khí bên ngoài như vậy,
và một không gian im lặng như vậy bên trong, họ sẽ hấp dẫn linh hồn cao nhất sẵn có đấy.
Bạn cho sinh ra đứa trẻ tương ứng theo trạng thái yêu đương của mình. Nếu mọi bố mẹ bị thất vọng, người đó nên nghĩ về điều đó, rằng đây là đứa trẻ xứng với người đó. Bố mẹ không bao giờ tạo ra khả năng cho linh hồn cao hơn và tiến hoá hơn vào trong bụng mẹ - bởi vì tinh trùng đàn ông và trứng đàn bà chỉ tạo ra cơ hội cho linh hồn đi vào. Họ tạo ra cơ hội cho thân thể để cho linh hồn có thể được hiện thân. Nhưng bạn sẽ hấp dẫn chỉ loại người mà hoạt động dục của bạn tạo ra khả năng.
Nếu thế giới đầy những kẻ ngốc và người tầm thường, bạn chịu trách nhiệm - tôi ngụ ý, bố mẹ chịu trách nhiệm. Họ chẳng bao giờ nghĩ về điều đó cả, con họ mang tính ngẫu nhiên. Không thể có tội nào lớn hơn việc tạo ra cuộc sống một cách ngẫu nhiên.
Chuẩn bị cho điều đó. Và điều bản chất nhất là hiểu khoảnh khắc cực thích: vô ý nghĩ, vô thời gian, vô trí, chỉ là nhận biết thuần khiết. Trong nhận biết thuần khiết đó bạn có thể hấp dẫn vị Phật Gautam. Cách bạn làm tình, điều kì lạ là nhiều Adolf Hitlers, Mussolinis, Stalins, Nadirshahs, Tamerlanes, Genghis Khans, lại không bị hấp dẫn. Bạn hấp dẫn chỉ những người tầm thường. Bạn không hấp dẫn cả những linh hồn thấp nhất, bởi vì với linh hồn thấp nhất tình yêu của bạn phải gần như là cưỡng hiếp. Với linh hồn cao nhất, tình yêu của bạn phải là việc thiền.
Cuộc sống của trẻ con bắt đầu từ khoảnh khắc linh hồn đi vào trong bụng mẹ. Nếu nó tới vào không gian thiền, thì có thể có con mà không cần huấn luyện cho nó. Thực tế, đứa trẻ được sinh ra từ thiền không thể bị huấn luyện; nó sẽ nổi dậy chống lại điều đó. Chỉ người tầm thường mới có thể được huấn luyện.
Và một đôi có khả năng mang tính thiền trong khi làm tình thì không phải là đôi tầm thường. Họ sẽ kính trọng đứa trẻ. Đứa trẻ là vị khách từ cái không biết, và bạn phải kính trọng vị khách này. Những bố mẹ không kính trọng con mình nhất định sẽ phá hoại các kiếp sống của chúng. Kính trọng của bạn, tình yêu của bạn, lòng biết ơn của bạn rằng, "Bạn đã chọn chúng tôi làm bố mẹ bạn," sẽ được đáp ứng bằng sự kính trọng sâu sắc hơn, biết ơn nhiều hơn, tình yêu nhiều hơn.
Và khi bạn yêu một người, bạn không thể huấn luyện được người đó. Khi bạn yêu một người bạn cho người đó tự do, bạn cho người đó sự bảo
vệ. Khi bạn yêu một người bạn sẽ không muốn người đó là bản sao của bản thân mình, bạn sẽ muốn người đó là cá nhân duy nhất. Và để làm cho người đó thành duy nhất bạn sẽ thu xếp mọi điều kiện, mọi thách thức khêu gợi ra tiềm năng của người đó.
Bạn sẽ không làm người đó nặng gánh với thông thái, bởi vì bạn sẽ muốn người đó tự mình biết chân lí. Mọi chân lí vay mượn đều là dối trá. Chừng nào điều đó còn chưa được bạn kinh nghiệm, nó không bao giờ là chân lí.
Bạn sẽ giúp cho đứa trẻ kinh nghiệm ngày càng nhiều điều hơn. Bạn sẽ không nói điều dối trá với nó, rằng có Thượng đế - đó là điều dối trá, bởi vì bạn chưa từng thấy Thượng đế. Bố mẹ bạn đã nói dối với bạn và đến lượt mình bạn lặp lại điều đó cho con mình. Bố mẹ bạn đã huấn luyện bạn, và cuộc sống của bạn là gì? - khổ dài từ cái nôi tới nấm mồ. Bạn có muốn cuộc sống con bạn cũng chỉ là khổ, đầy những đau khổ, lo âu, thất vọng không?
Chỉ có một phát biểu trong toàn thể Kinh Thánh thiêng liêng mà tôi không chống lại. Phát biểu đó là, "Thượng đế có thể tha thứ cho mọi điều, chỉ trừ thất vọng." Bất kì ai đã viết ra điều đó đều phải đã là con người của hiểu biết mênh mông. Thượng đế không thể tha thứ cho một điều duy nhất, và đó là thất vọng. Nhưng mọi người đều đang sống trong thất vọng - có Thượng đế hay không Thượng đế, thất vọng là thực tại. Đó là sự tự huӹ diệt. Nếu bạn yêu con mình, bạn sẽ giúp nó vui sướng, cười, thích thú, nhảy múa. Nhưng chính điều đối lập lại đang được thực hiện.
Trong nhà tôi vào thời thơ ấu, đã thành quen là khi có khách nào đó tới, họ hay loại tôi ra bằng việc đưa tôi đi đâu đó. Và khoảnh khắc họ bắt đầu nói chuyện về việc đưa tôi đi đâu đó - rằng tôi phải tới bác sĩ vì tôi bị cảm bao nhiêu ngày rồi, tôi sẽ nói, "Chẳng việc gì phải làm cả. Con biết bệnh cảm của con và con biết bác sĩ này; con sẽ chọn lúc để đi. Ít nhất lần này con không thể đi được - cảm hay ung thư, điều đó cũng chẳng khác biệt gì."
Họ nói, "Nhưng tại sao?"
Tôi nói, "Con biết ai đó đang tới nhà và bố mẹ sợ." Và họ tự nhiên sợ, bởi vì tôi đã làm cho họ lúng túng. Vị khách có thể là người quan trọng nào đó, và tôi có thể làm điều gì đó sẽ làm hỏng toàn bộ mối quan hệ của họ.
Một lần, đang ăn, bỗng nhiên tôi bắt đầu cười. Cả gia đình biết rằng cái gì đó nhất định xảy ra, bởi vì nhà có khách. Nhưng vị khách lại bị sốc. Ông ta nói, "Sao cháu cười?"
Tôi nói, "Cười không cần nguyên nhân. Thực tế, cháu phải hỏi bác, 'Sao tất cả các bác lại ngồi với mặt dài ra thế?' Tiếng cười có giá trị cố hữu; mặt dài chẳng có giá trị chút nào. Và vì bác đã tới, thậm chí mọi người trong gia đình cháu đều trông rất buồn, nghiêm trang. Cháu không hiểu có gì sai với bác. Bác có tạo ra bầu không khí này mọi nơi bác tới không?"
Tôi có thể bất thần bắt đầu nhảy múa. Cuộc đối thoại giữa vị khách và bố mẹ tôi bỗng nhiên dừng lại, bởi vì tôi nhảy múa ở giữa họ. Họ sẽ nói, "Cháu ra ngoài chơi đi."
Tôi nói, "Cháu biết đích xác chỗ để nhảy múa. Nếu các bác chọn đi ra ngoài, các bác có thể đi và nói chuyện ngu xuẩn của mình - điều chẳng ngụ ý gì cả! Nói về thời tiết và mùa vụ... tất cả các bác đều biết, ngay cả cháu cũng biết. Phỏng có ích gì?"
Trong cuộc nói chuyện lịch sự người ta không bao giờ thảo luận các chủ đề đang được tranh cãi vì điều đó có thể tạo ra đối kháng nào đó. Họ chỉ thảo luận về các chủ đề không tranh cãi - thời tiết... Một cách tự nhiên, không có tranh luận về nó. Nếu trời lạnh, thì trời lạnh; nếu trời nóng, thì trời nóng.
"Và cháu đang nhảy múa ở đây chỉ để làm cho các bác nhận ra rằng các bác đang làm phí thời gian của mình. Tốt hơn cả là cùng tham gia nhảy múa với cháu!"
Đứa trẻ không được huấn luyện gây lúng túng cho bố mẹ theo nhiều cách. Nhưng nếu họ yêu, họ sẽ sẵn sàng làm bất kì điều gì. Cho dù nó có đem tới lúng túng, cũng chẳng có hại gì. Con của họ đang lớn thành sinh linh duy nhất. Họ sẽ giúp chúng vẫn còn tự do, còn cởi mở, còn sẵn có cho tương lai không biết.
Họ sẽ giúp nó là người tìm kiếm, không phải là người tin. Họ sẽ không làm nó thành người Ki tô giáo, hay người Do Thái, hay người Hindu, hay người Mô ha mét giáo, bởi vì tất cả các tôn giáo này đã làm hại nhiều quá - quá mức đủ. Đây là lúc cho tất cả các tôn giáo biến khỏi hành tinh này. Trẻ con không bị huấn luyện có thể làm cho phép màu đó xảy ra bởi vì ngày mai chúng sẽ là những thanh niên, trưởng thành, và chúng sẽ không là người Ki tô giáo và người Hindu giáo và người Mô ha mét giáo. Chúng sẽ chỉ là người tìm kiếm; việc tìm kiếm sẽ là tôn giáo của chúng. Đó là định nghĩa của tôi về sannyasin: tìm, kiếm, truy tìm là tôn giáo của người đó. Niềm tin chấm dứt mọi cuộc truy tìm.
Chia sẻ với đứa trẻ mọi kinh nghiệm của bạn. Làm cho nó nhận biết rằng nó được thai nghén trong một khoảnh khắc cực thích rất đáng yêu, rằng tình yêu là món quà lớn lao của sự tồn tại. Và bạn phải làm cho tình yêu thành điểm trung tâm của cuộc sống của mình, bởi vì chỉ qua tình yêu bạn mới có thể bước ra ngoài tự nhiên mù quáng để vào thế giới của siêu tự nhiên nơi không mù quáng nào tồn tại, nơi bạn trở thành nhà tiên tri.
Vâng, có thể có đứa trẻ không bị huấn luyện và tự do, nhưng không thể qua một mình sinh học được. Điều đó là có thể nếu bạn đủ dũng cảm để làm cho tình yêu của mình thành ngôi đền của mình, chỗ thiền của mình. Thế thì bạn sẽ hấp dẫn linh hồn đã có tiềm năng mang tính duy nhất. Và thế rồi cho nó mọi khả năng được tự do, cho dù điều đó chống lại bạn. Tự do của con bạn còn có giá trị hơn, bởi vì con bạn là tương lai của nhân loại.
Thời của bạn là quá khứ - có thành vấn đề gì nếu tương lai chống lại bạn? Bạn thu được gì bằng quá khứ? Bạn trống rỗng, bạn là kẻ ăn xin. Bạn có muốn con mình cũng trống rỗng và ăn xin không? Đó là điều mọi bố mẹ đang cố gắng làm - sản sinh ra các bản sao, bản sao y chang. Và nhớ, sự tồn tại chỉ chấp nhận nguyên bản. Bản sao y chang là không được chấp nhận trong sự tồn tại.
Để con bạn có khuôn mặt nguyên thuӹ của nó.
Điều đó có thể tạo ra nỗi sợ trong bạn, nó có thể tạo ra quan ngại trong bạn, nhưng đấy là vấn đề của bạn. Đừng cấm đoán trẻ con theo bất kì cách nào. Và đứa trẻ được trao cho tự do - cho dù chống lại bố mẹ mình - sẽ kính trọng bạn mãi mãi, sẽ vẫn còn biết ơn bạn mãi mãi. Ngay bây giờ, chính điều đối lập mới là hoàn cảnh: mọi đứa trẻ đều đầy những giận dữ, cuồng nộ, hận thù với bố mẹ, bởi vì điều họ đã làm cho nó là không thể tha thứ được.
Cho nên bằng việc trao tự do, bằng việc cho phép đứa trẻ được là chính nó dù điều đó có nghĩa là bất kì cái gì, chấp nhận nó trong cái ta tự nhiên của nó dù điều đó dẫn tới bất kì đâu, bạn đang tạo ra đứa trẻ sẽ yêu và kính trọng bạn. Bạn đã không chỉ là người bố và người mẹ bình thường, bạn đã là người cho cuộc sống, tự do, tính duy nhất. Nó sẽ mang kí ức đẹp trong tim nó mãi mãi, và lòng biết ơn của nó hướng tới bạn sẽ làm cho nó tuyệt đối chắc chắn rằng điều đã được làm cho nó, nó phải làm cho các thế hệ tương lai.
Nếu mọi thế hệ đều cư xử với trẻ em bằng tình yêu và kính trọng, và cho chúng tự do trưởng thành, thì tất cả những điều vô nghĩa này về lỗ hổng thế hệ sẽ biến mất. Nếu bạn kính trọng con trẻ, nếu bạn là bạn với con mình, thì lỗ hổng thế hệ sẽ không thể có được.
BAO GIỜ CŨNG LÀ ĐIỀU TỐT ĐỂ ĐI TỚI HIỂU BIẾT CÙNG BỐ MẸ. Đó là một trong những điều cơ bản. Gurdjieff thường nói, "Chừng nào bạn còn chưa trong giao cảm tốt với bố mẹ mình, bạn đã bỏ lỡ cuộc sống của mình." Bởi vì điều gì đó bắt rễ rất sâu sắc... Nếu giận dữ nào đó còn dai dẳng giữa bạn và bố mẹ bạn, bạn sẽ không bao giờ cảm thấy thoải mái. Dù bạn ở bất kì đâu, bạn sẽ vẫn cảm thấy chút ít mặc cảm. Bạn sẽ không bao giờ có khả năng quên được điều đó và tha thứ cho điều đó. Bố mẹ không chỉ là mối quan hệ xã hội. Chính từ họ mà bạn đã tới - bạn là một phần của họ, một cành của cái cây của họ. Bạn vẫn được bắt rễ vào họ.
Khi bố mẹ chết, cái gì đó bắt rễ rất sâu cũng chết đi bên trong bạn. Khi bố mẹ chết, lần đầu tiên bạn cảm thấy một mình, mất gốc. Cho nên trong khi họ còn sống, mọi thứ có thể được làm thì nên được làm để cho hiểu biết có thể nảy sinh và bạn có thể trao đổi với họ và họ có thể trao đổi với bạn. Thế thì mọi sự được giải quyết và vấn đề được khép lại. Thế thì khi họ rời bỏ thế giới này - họ sẽ ra đi một ngày nào đó - bạn sẽ không cảm thấy mặc cảm, bạn sẽ không hối hận; bạn sẽ biết rằng mọi sự đã được giải quyết. Họ đã hạnh phúc với bạn; bạn đã hạnh phúc với họ.
Mối quan hệ yêu đương bắt đầu với bố mẹ và nó cũng chấm dứt với họ. Nó đi tới một vòng tròn đầy đủ. Nếu ở đâu đó vòng tròn này bị phá vỡ, toàn thể bản thể bạn sẽ vẫn còn không thoải mái. Người ta cảm thấy cực kì hạnh phúc khi người ta có thể trao đổi với bố mẹ riêng của mình. Đó là điều thực hiện khó khăn nhất trên thế giới bởi vì lỗ hổng lớn thế. Bố mẹ không bao giờ nghĩ rằng bạn đã lớn cho nên họ chẳng bao giờ trao đổi trực tiếp với bạn. Họ đơn giản ra lệnh cho bạn: "Làm cái này " hay "Đừng làm cái kia." Họ chẳng bao giờ tính tới tự do của bạn và tâm linh của bạn, bản thể bạn... không kính trọng. Họ cứ đương nhiên coi rằng bạn đã nghe theo họ.
Đứa trẻ cảm thấy rất tức ngay từ đầu, bởi vì bất kì khi nào bố mẹ nói "Làm cái này"… "Đừng làm cái kia " - nó lại cảm thấy rằng tự do của mình bị cắt xén. Nó bị kìm nén. Nó kháng cự, phẫn nộ, và kháng cự đó liên tục như vết thương. Lỗ hổng trở thành ngày một lớn hơn và lớn hơn. Điều đó phải được bắc cầu qua. Nếu bạn có thể bắc cầu mối quan hệ của mình với mẹ bạn, bỗng nhiên bạn sẽ cảm thấy rằng cả trái đất được bắc cầu. Bạn
được bắt rễ hơn vào đất. Nếu bạn có thể bắc cầu mối quan hệ của mình với bố bạn, bạn ở nhà với cả trời. Họ là biểu tượng, đại diện của đất và trời. Và con người giống như cái cây, cần cả đất và trời.
Tình yêu cộng với nhận biết bằng hiện hữu
Tình yêu là điều phải có cho sự phát triển tâm linh. Và hơn nữa, tình yêu hoạt động như tấm gương. Rất khó biết được bản thân mình chừng nào bạn còn chưa nhìn vào khuôn mặt của mình trong con mắt của ai đó yêu bạn. Cũng như bạn phải nhìn vào gương để thấy khuôn mặt vật lí của mình, bạn phải nhìn vào tấm gương của tình yêu để thấy khuôn mặt tâm linh của mình. Tình yêu là tấm gương tâm linh. Nó nuôi dưỡng bạn, nó tích hợp bạn, nó làm cho bạn sẵn sàng cho cuộc hành trình nội tâm, nó nhắc nhở bạn về khuôn mặt nguyên thuӹ của mình.
Trong những khoảnh khắc của tình yêu sâu sắc có những thoáng nhìn về khuôn mặt nguyên thuӹ, mặc dầu những thoáng nhìn đó tới như sự phản xạ. Cũng như vào những đêm trăng tròn bạn thấy trăng được phản xạ trong hồ, trong hồ tĩnh lặng, thì tình yêu cũng hoạt động như cái hồ. Trăng được phản xạ trong hồ là bắt đầu của việc tìm kiếm trăng thực. Nếu bạn chưa bao giờ thấy trăng được phản xạ trong hồ, bạn có thể chưa bao giờ đi tìm trăng thật cả. Bạn sẽ cứ đi đi lại lại vào hồ để tìm trăng bởi vì ban đầu bạn nghĩ đấy là chỗ có trăng thực, đâu đó sâu dưới đáy hồ. Bạn sẽ đào mãi và bạn sẽ tới với đôi bàn tay trắng; bạn sẽ chẳng tìm thấy trăng ở đó.
Thế rồi một hôm sẽ bừng lên trong bạn rằng có thể trăng này chỉ là phản xạ thôi. Đó là sáng suốt lớn lao - thế thì bạn có thể nhìn lên trời. Thế thì mặt trăng ở đâu nếu đây là phản xạ? Nếu nó là phản xạ bạn phải nhìn vào hướng đối diện. Phản xạ có đó, sâu trong hồ - trăng thực phải ở đâu đó trên hồ. Lần đầu tiên bạn nhìn lên và cuộc hành trình đã bắt đầu.
Tình yêu cho bạn những thoáng nhìn về thiền, phản xạ của trăng trong hồ - mặc dầu chúng là phản xạ, không thật. Cho nên tình yêu không bao giờ có thể thoả mãn được bạn. Thực tế, tình yêu sẽ làm cho bạn ngày một bất mãn hơn, không bằng lòng hơn. Tình yêu sẽ làm cho bạn ngày một nhận biết hơn về cái là có thể, nhưng nó sẽ không chuyển giao hàng hoá. Nó sẽ làm bạn thất vọng - và chỉ trong thất vọng sâu sắc mới có khả năng quay lưng trở về với bản thể riêng của bạn. Chỉ những người yêu nhau mới biết tới niềm vui của thiền. Những người chưa bao giờ yêu và chưa bao giờ bị thất vọng trong tình yêu, những người chưa bao giờ lao vào cái hồ của tình