🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Trong động tuyết sơn
Ebooks
Nhóm Zalo
Vicki Mackenzie
Thích Nữ Minh Tâm việt dịch
TRONG ĐỘNG TUYẾT SƠN
VICKI MACKENZIE
Thích Nữ Minh Tâm việt dịch
TRONG ĐỘNG TUYẾT SƠN
Nguyên tác :
Cave in the Snow
Published September 15th 1998 by Bloomsbury USA (Bản dịch ngày 28/09/1999)
MỤC LỤC
Lời Giới Thiệu �����������������������������������������������������������������7 Chương I: Cuộc Gặp Gỡ ����������������������������������������������11 Chương II: Nơi Không Thích Hợp ��������������������������������18 Chương III: Buổi Bình Minh ������������������������������������������26 Chương IV: Bước Đầu Tiên ������������������������������������������33 Chương V: Vị Đạo Sư ���������������������������������������������������40 Chương VI: Cô Đơn Và Đau Khổ ����������������������������������49 Chương VII: Lahoul �������������������������������������������������������56 Chương VIII: Động Tuyết Sơn ��������������������������������������63 Chương IX: Đối Diện Tử Thần ��������������������������������������70 Chương X: Các Vị Đạo Sư Du Già �������������������������������79 Chương XI: Con Đường Của Người Phụ Nữ ��������������84 Chương XII: Xuất Động ������������������������������������������������92 Chương XIII: Thực Hiện Ước Mơ ������������������������������102 Chương XIV: Vị Đạo Sư ����������������������������������������������112
Chương XV: Những Cuộc Thách Đố ��������������������������123 Chương XVI: Một Hang Động Ẩn Tu Có Cần Thiết Không ? �����������������������������������������������������������������������134 Chương XVII: Bây Giờ ������������������������������������������������146
LỜI GIỚI THIỆU
TENZIN PALMO và
CUỘC SUY TẦM CHÂN LÝ
Dianne Perry, (sau này được biết đến qua pháp danh Tây Tạng của cô là Tenzin Palmo) là một vị ni cô người Anh đầu tiên, đã ẩn cư thiền định suốt 12 năm trong một hang động cao 12.300 bộ trên dãy Hy Mã Lạp Sơn, cách ngăn khỏi thế giới trần tục bởi những rặng núi phủ đầy tuyết trắng quanh năm.
Tenzin Palmo đã sống một mình và tu tập trong động tuyết này. Cô đã chạm trán với những thú rừng hoang dã, đã vượt qua những cơn lạnh khủng khiếp, những cái đói giết người, và những trận bão tuyết kinh hồn; cô tự trồng lấy thực phẩm và ngủ ngồi trong cái hộp gỗ rộng cỡ 3 bộ vuông (theo truyền thống Tây Tạng, các vị tu sĩ đều tọa thiền trong một cái hộp gỗ như vậy). Cô không bao giò ngủ nằm. Mục đích của Tenzin Palmo là chứng đạo trong hình tướng một người nữ.
7
Trong Động Tuyết Sơn
Sanh vào năm 1943, Tenzin Palmo lớn lên ở trung tâm khu London's East End. Cô là con gái một người bán cá. Khi còn bé, Tenzin Palmo đã thích sống lặng lẽ một mình. Cô đã tìm hiểu nghiên cứu các tôn giáo phương Đông và khát khao được giác ngộ chân lý.
Năm 20 tuổi, thể theo tiếng gọi tâm linh, Tenzin Palmo đã bỏ việc làm tại thư viện và đáp tàu đi Ấn Độ.
Năm 1964, sau ba tuần lễ diện kiến và học hỏi với một vị đạo sư, Tenzin Palmo đã trở thành vị ni cô Tây Phương đầu tiên xuất gia tại Ấn Độ. Cô sống trong một tu viện Phật Giáo Tây Tạng và cũng là người phụ nữ duy nhất trong số hàng trăm tăng sĩ. Do đó, cô đã kinh nghiệm sự đối xử cách biệt đối với hàng nữ tu. Cô đơn và đau khổ, cô đã thề nguyện sẽ chứng đạo trong hình tướng một người nữ, dù phải trải qua vô lượng số kiếp.
Với tư tưởng đó, năm 1970, cô bắt đầu cuộc sống độc cư tại một nơi tĩnh mịch vắng vẻ; và 3 năm sau, cô tìm đến một động tuyết cao chót vót trên dãy Hy Mã Lạp Sơn để ẩn cư thiền định.
Năm 1988, cô rời khỏi động Tuyết Sơn với ý định sẽ thành lập một nữ tu viện ở miền Bắc Ấn để giúp cho các phụ nữ khác đạt tới cảnh giới giác ngộ. Từ lúc bắt
8
Lời Giới Thiệu
đầu sống đời ẩn sĩ chỉ với 80 Anh kim một năm, Tenzin Palmo đã trở thành một người nổi tiếng với những cuộc du thuyết toàn cầu; và tổ chức quyên góp xây nữ tu viện của cô càng lúc càng hoạt động sôi nổi. Tenzin Palmo đã đến với cuộc đời này, rời bỏ nó, và rồi lại trở về một lần nữa để giúp đỡ mọi người.
Tenzin Palmo đã kể lại cuộc sống ẩn cư của cô cho Vickie Mackenzie với tất cả lòng nhiệt thành cởi mở. Cô nói về những trở ngại, gian nan cô đã vượt qua, những thôi thúc thử thách mãnh liệt, và những xúc cảm tâm linh mà cô đã chứng nghiệm. Cô cũng có đủ can đảm để trung thực diễn tả những dằng co khắc khoải mâu thuẫn giữa tình yêu trai gái và tiếng gọi nội tâm đầy ân sủng.
"Trong Động Tuyết Sơn" là một kiệt tác phẩm diễn tả sự can đảm, khí phách, và trí tuệ của một vị ni cô Tây Phương đầu tiên đầ đối phó và vượt qua một cách dũng mãnh những chướng ngại thiên nhiên; cũng như sinh lý và tâm lý để đạt tới cảnh giới giác ngộ giải thoát.
Qua những sự kiện và kinh nghiệm chứng đạt của cô, Tenzin Palmo đã chứng tỏ cho chúng ta thấy cô là một nữ anh hùng của thời đại chúng ta,một ngọn đuốc
9
Trong Động Tuyết Sơn
sáng đốt cháy hàng rào cản ngăn bước tiến của giới phụ nữ, và san bằng mọi ranh giới phân chia cách biệt giữa người và người, giữa nam và nữ từ ngàn xưa cho đến tận thế kỷ 20 này.
Vickie Mackenzie
10
CHƯƠNG I: CUỘC GẶP GỠ
Tôi nhớ lại lần hội ngộ đầu tiên với Tenzin Palmo tại Pomaia, một thành phố nhỏ của Ý nằm giữa những ngọn đồi hùng vĩ của Tuscany khoảng một giờ đường lái xe từ Pisa.
Đó là một buổi xế trưa mùa hè và không khí ngột ngạt hơi nóng và mùi nhựa thông. - đó, chúng ta thấy những tòa lâu đài một thời nguy nga tráng lệ với những bức tường chạm trổ tinh xảo, những cửa cái có vòm cao, mái nhà kiểu tháp nhọn lấp lánh phản chiếu ánh mặt trời tháng Tám, và chỉ có tiếng côn trùng rỉ rả phá tan bầu tĩnh lặng của buổi trưa hè. Nhưng chỉ độ vài giờ nữa thôi, cuộc sống dưới phố kia sẽ náo nhiệt ồn ào vào buổi tối. Những cửa tiệm bán thực phẩm, giầy dép, bánh ngọt, và bia rượu sẽ mở cửa đón khách; và bọn đàn ông sẽ tụm năm tụm ba tán dóc đủ mọi chuyện từ chính trị, kinh tế, đến những hoạt động của các tổ chức phe nhóm địa phương. Tuy nhiên, lần đó, nét lộng lẫy gợi cảm nồng nàn của xứ Ý, nơi mà thiên hạ đua chen
11
Trong Động Tuyết Sơn
nhau hưởng thụ dục lạc, đã phải nhường bước cho ánh sáng thế giới nội tâm của Tenzin Palmo.
Lần đầu tiên, tôi gặp Tenzin Palmo khi cô đang đứng dưới bóng các cây cổ thụ trong một tòa lâu đài. Đó là một phụ nữ mảnh khảnh vào độ tuổi trung niên, với làn da trắng và lưng hơi khòm. Cô mặc áo nữ tu Tây Tạng mầu đỏ xậm và tóc cạo sát đầu. Đứng vây quanh cô là một đám đông phụ nữ. Chúng ta có thể thấy đó là một buổi nói chuyện rất hào hứng, và bầu không khí rất thân mật, cởi mở. Đúng ra thì họ không được phép nói chuyện như vậy; tuy nhiên, sau cả một tháng trời tu học giáo lý và thực tập thiền định, thì buổi nói chuyện ngoại lệ đó cũng là điều tất yếu thôi.
Tôi và khoảng 50 người nữa cũng tham dự vào buổi nói chuyện đó. Những sinh hoạt hào hứng ngoại lệ như thế đã trở thành quen thuộc nhưng quan trọng đối với tôi, sau khi tôi gặp các vị Lạt Ma ở Nepal từ năm 1976 trở về trước và khám phá ra tính chất đặc biệt phong phú trong những thông điệp của các ngài. Vì thế, những buổi nói chuyện sống động như tôi đang chứng kiến đây, là một phương pháp thư giãn xả hơi sau những giờ dài ngồi kiết già thiền định hay lắng nghe các vị tu sĩ trùng tuyên lại lời dạy của Đức Phật.
12
Chương I: Cuộc Gặp Gỡ
Tối hôm đó, mọi người quây quần ăn uống ngoài trời. Một người đàn ông ngồi bên cạnh, thì thầm vào tai tôi, và chỉ vào Tenzin khiến tôi đặc biệt chú ý. Tenzin Palmo lúc đó đang ngồi ở bàn ăn bên kia và nói chuyện vui vẻ, hăng say với đám đông vây quanh cô.
- "Đó là Tenzin Palmo, một phụ nữ Anh Quốc đã sống 12 năm trong một hang động cao hơn 12.000 bộ trong dãy Hy Mã Lạp Sơn đó. Cô ta sống một mình ở đó và vừa mới rời khỏi động tuyết."
Bây giờ, sự chú ý của tôi đối với Tenzin Palmo không còn là một sự tò mò nữa, mà là một sự chú tâm đặc biệt.
Nhiều năm qua, tôi đã đọc, đã nghe về những nhân vật kỳ đặc - những bậc đạo sư du già ở Tây Tạng, Ấn Độ hay Trung Hoa. Những bậc đại nhân này đã lìa bỏ những tiện nghi sung mãn vật chất của đời sống con người để ẩn cư thiền định tại những núi rừng hoang vu tĩnh mịch hết năm này qua năm khác. Con đường của họ đi thật khó khăn và cô độc làm sao! Hoàn toàn cô đơn, trên người chỉ có một tấm vải thô hay một chiếc áo mỏng manh, họ dấn thân vào cuộc chiến đấu với bản thân và những cơn đói lạnh khủng khiếp ghê hồn. Thân họ chỉ còn da bọc xương, râu tóc họ mọc xồm xoàm rậm
13
Trong Động Tuyết Sơn
rạp đến tận lưng. Họ đối diện với thú rừng hung dữ và những tên cướp của giết người không gớm tay. Những tên cướp này không có lương tâm, không có một chút tình nhân loại. Chúng không cần biết đó chỉ là những vị đạo sĩ vô sản; khi không tìm thấy được một vật gì, chúng đánh đập dã man các vị đạo sĩ này không chút nương tay, có khi gần chết. Tuy nhiên, những khổ sở đau đớn của ngoại cảnh không làm cho các đạo sĩ này nao núng lùi bước; cũng không thể nào so sánh với những chướng ngại nội tâm mà các đạo sĩ cần phải vượt qua để đạt tới giác ngộ giải thoát. Những lớp sóng ngầm độc hại của nội tâm như sân hận, chấp thủ, tham luyến... v.v... sẵn sàng trổi dạy và trào dâng úp chụp lấy họ không biết lúc nào. Họ phải vượt qua tất cả - và ngay cả khi chiến thắng chúng thì các vị đạo sĩ này cũng phải dẹp tan sự phấn chấn hứng khởi đó thì mới có thể gọi là Vô Ngã được.
Cảnh giới giải thoát đó rộng rãi thênh thang, vượt qua biên giới nhị nguyên - không Ngã - không Nhân - Đó là cảnh giới thanh bình an lạc tối thượng, không có gì so sánh được. Đó là trạng thái tinh thần sung mãn cao nhứt mà con người có thể chứng được nếu muốn.
14
Chương I: Cuộc Gặp Gỡ
Tôi đã đọc, đã nghe; nhưng hôm nay, tại Pomaia Ý đại Lợi, tôi đã gặp, đã chứng kiến một con người thực sự chứ không phải trong huyền thoại truyền thuyết; một con người bằng xương bằng thịt đang ngồi trước mặt tôi - và hơn thế nữa, đó không phải là một đạo sĩ người Á Đông, mà là một phụ nữ Tây Phương tân tiến thời đại. Một phụ nữ Tây Phương thời đại !
Đầu óc tôi quay mòng mòng với hàng trăm câu hỏi. Cái gì đã xui khiến người phụ nữ Anh này rời bỏ được những tiện nghi văn minh vật chất để rút vào độc cư thiền định nơi núi thẳm rừng sâu như vậy? Làm sao cô có thể sống sót qua những cơn gió lộng bão tuyết kinh hồn? Cô ăn gì, tắm làm sao, ngủ thế nào, và không có cả điện thoại nữa? (đời sống người Tây Phương gắn liền với máy điện thoại; không có nó, họ cảm thấy thiếu thốn, có thể chết đi được). Làm sao cô có thể tồn tại khi không có một chút hơi ấm của tình người, của một người bạn đồng hành qua nhiều năm như vậy? Cô đã chứng đạt được gì? Và, tò mò hơn nữa, làm sao cô có thể chịu đựng nổi sự cô đơn và im lặng tuyệt đối giữa cảnh núi tuyết lạnh lùng hoang vắng, khi chính cô xuất thân từ một hoàn cảnh tương đối tốt đẹp?
15
Trong Động Tuyết Sơn
Nhưng tất cả sự tò mò nóng nảy đó của tôi đã vội nhường bước cho lòng kính trọng pha lẫn sự ngạc nhiên đối với một người phụ nữ đã can đảm kiên trì phiêu lưu đến một nơi chốn mà tôi chưa hề biết và cũng không thể tưởng tượng ra được. Sự khao khát tìm cầu chân lý của cô, hoàn toàn khác tôi, đã đẩy cô vượt qua những khóa tu tập bình thường để dấn thân vào một cuộc chiến đầy cam go và thử thách, cốt làm sao vượt qua khỏi sanh tử luân hồi.
"Nhập Thất", theo kiến thức nông cạn của tôi, là một việc làm lâu dài đòi hỏi tánh bền bỉ chịu đựng ngày này qua ngày khác; những thời khóa tu tập, tụng kinh, ngồi thiền, niệm chú, v.v... cứ lập đi lập lại dài vô tận; hay đối phó với những khủng hoảng dao động tâm lý chợt đến, chợt đi, khuấy phá nội tâm hành giả - và hành giả phải kiên trì, tin tưởng, can đảm đi đến cuối con đường mình đã chọn.
Ngày hôm sau, tôi lại gặp cô ta ở ngoài vườn, và chỉ ngồi một mình. Thấy có cơ hội, tôi tiến lại gần. Không biết cô có chịu tiếp chuyện với tôi không? Nhưng nụ cười rộng mở, nét mặt khả ái của cô, và đôi mắt xanh trong sáng đã thúc giục tôi tiến bước. Từ người cô tỏa ra một sự bình an, hoan hỷ, tự tại, và thản nhiên; nhưng tính
16
Chương I: Cuộc Gặp Gỡ
chất nổi bật nhất của cô là sự tinh khiết trong sáng hoàn toàn không chút vẩn đục của thân tâm.
17
CHƯƠNG II: NƠI KHÔNG THÍCH HỢP
Tenzin Palmo sinh ra tại căn nhà truyền thống lịch sử Woolmers Park ở Hertfordshire. Đúng ra đó là một thư viện nổi tiếng. Không phải vì Tenzin thuộc dòng dõi qúy tộc nên cô được sanh ra ở đó; mà bởi vì đúng vào ngày sanh của cô 30 tháng 6 năm 1943, nhà độc tài Đức quốc xã Hitler Luftwaffe đã tấn công Luân Đôn trong trận Đệ Nhị Thế Chiến. Những bệnh viện đều trở thành hầm trú ẩn, cứu thương, và tạm cư.
Khi mới sanh ra, Tenzin trông rất xấu xí, không có tóc, không có lông mi, và cả móng tay nữa; nhưng người mẹ vẫn cưng yêu đứa bé gái và âu yếm đặt tên con là Diane.
Tenzin lớn lên trong cửa tiệm bán cá của gia đình số 72 đường Old Bethnal Green Road, khu London East End. Ngày nay, khu phố này không còn nữa; nhưng vào thập niên 40, khu phố này rất đông đúc, chật hẹp, và ám khói.
18
Chương Ii: Nơi Không Thích Hợp
Tenzin kể lại: "Từ bé, tôi đã có cảm giác rất mạnh mẽ là nơi này không thích hợp với tôi. Ngay bây giờ, tôi vẫn có các cảm giác là Anh Quốc không phải là đất sống của tôi."
Cha của Tenzin, ông George Perry, là chủ của cửa hàng bán cá. Ông là một người nhỏ con, và lớn hơn vợ ông đến 20 tuổi; vì thế, ông rất cưng chìu vợ con. Ông hay lui tới những trường đua ngựa, nuôi chó, và các nhà hát kịch.
Năm Đại Thế Chiến thứ I, ông gia nhập quân đội, và khi tàn chiến tranh, ông trở về với căn bịnh viêm phế quản nặng. Làm việc trong cửa hàng bán cá vừa ướt vừa lạnh, căn bệnh quái ác đó đã tàn phá cơ thể ông và ông đã chết lúc 57 tuổi khi Tenzin chỉ mới lên 2. Tenzin kể lại rằng:
- "Thật đau buồn vì tôi không biết gì về cha tôi; nhưng tôi nghe nói lại rằng ông là một người rất tử tế và dễ thương. Tôi nhớ là người ta nói rằng mẹ tôi trẻ hơn cha tôi đến 20 tuổi, và bà thường đi khiêu vũ với các bạn nhẩy của bà. Cha tôi luôn khuyến khích mẹ tôi vui hưởng tuổi xuân của bà. Ông thường dọn đồ ăn sẵn để dành cho bà mỗi lần bà đi chơi khuya về. Tôi biết là cha
19
Trong Động Tuyết Sơn
tôi rất muốn có đứa con gái vì ông đã có hai đứa con trai với người vợ trước. Nhưng đối với tôi, ông chỉ còn trong tấm ảnh mà thôi."
Khi cha của Tenzin mất, mẹ của Tenzin, bà Lee Perry, một người nội trợ, phải vất vả lắm mới nuôi nổi hai con, Tenzin và anh trai của cô, Mervyn lớn hơn cô 6 tuổi.
Mẹ của Tenzin là một phụ nữ vui tánh, lạc quan, phóng khoáng, và giúp đỡ Tenzin trong mọi hoàn cảnh suốt cả cuộc đời bà. Họ rất thương yêu và gần gũi nhau.
- "Mẹ tôi thật đáng yêu. Tôi vô cùng tôn trọng bà." Tenzin nói. "Mẹ tôi đã làm việc rất vất vả và luôn luôn để ý đến ý kiến hay tư tưởng mới lạ. Bà là người có đầu óc tân tiến, cởi mở. Khi bà gặp cha tôi, ông đã sống ly thân nhưng chưa ly dị. Mẹ tôi không cho điều đó là quan trọng và đã sống với cha tôi và có 2 con với ông.
Thời bấy giờ, việc một ngườI phụ nữ lấy một người đàn ông chưa ly dị vợ là một sự kiện khó chấp nhận. Nhưng đến khi cha tôi ly dị người vợ trước rồi, mẹ tôi cũng không công khai kết hôn với ông; vì bà thích tự do và độc lập của riêng mình."
20
Chương Ii: Nơi Không Thích Hợp
Gia đình Tenzin không sung túc cho lắm; vì sau khi cha cô qua đời, mẹ cô không biết quản lý cửa hàng cá nên bị người anh họ gạt sạch tiền. Nợ nần ngập lụt đầu, mẹ Tenzin phải làm việc cật lực ngày đêm mới xoay sở nổi qua ngày và trả nợ. Mặc dù mất cha và sống thiếu thốn như vậy, anh em Tenzin vẫn vui vẻ an ổn trong tình thương của mẹ và tuổi thơ anh em họ êm đềm trôi qua.
Cô học rất giỏi, nhất là về môn Anh văn, Lịch sử, và những môn trắc nghiệm tâm lý hay trí thông minh; nhưng cô kể lại rằng cô vẫn không thích thú các môn học này bởi vì cô biết chúng không ích lợi gì cho mục đích cô đã chọn.
Mẹ của Tenzin, bà Lee Perry, là một người sùng đạo và rất tin về thuyết linh hồn có thực sau khi chết.
Hàng tuần vào tối thứ tư, lúc 8 giờ, những người hàng xóm thưỡng tụ tập tại nhà của Tenzin để cầu cơ gọi hồn. Cô kể lại:
- "Chúng tôi thường ngồi quanh một cái bàn tròn bằng gỗ rất nặng, và người ngồi ở giữa sẽ là người cầm cơ để chuyển đạt lại những gì người chết nói. Tôi nhớ có một đêm nọ, mẹ tôi đùa nói là những người chết không có sức mạnh đâu và họ đánh cá với nhau xem ai thắng.
21
Trong Động Tuyết Sơn
Họ mời bà chủ tiệm tạp hóa rất nặng ký ngồi lên bàn và họ yêu cầu người chết nhấc bàn lên. Thật dễ sợ, cái bàn gỗ nặng nề và người phụ nữ mập mạp đó như được bàn tay vô hình nào đó nhấc bổng lên một cách nhẹ nhàng và từ từ di động xung quanh căn phòng."
Từ những buổi cầu cơ đó, mẹ con chúng tôi thường nói chuyện với nhau về thế giới vô hình bên kia. Có nhiều người sợ không dám nói, thâm chí không dám nghĩ đến cái "Chết"; nhưng đối với chúng tôi, "Chết" là một cái gì tự nhiên và tất yếu sẽ xảy đến cho mọi người.
Dù lớn lên trong một môi trường ồn ào, náo nhiệt của dân cư vùng đông Luân Đôn với bản tánh dí dỏm, khôi hài của họ; và dù ngay cả khu East End là một thị trấn đáng yêu, dễ sống, Tenzin Palmo, ngay từ hồi còn bé, đã là một cô bé thích sống yên tĩnh và đầy nội tâm. Tenzin cũng có bạn nhưng không hề dẫn bạn về nhà chơi. Cô nói: "Tôi không bao giờ quan tâm về chuyện bạn bè cả. Tôi biết có một cái gì khác mà tôi cần phải làm hơn. Tôi chỉ thích ngồi yên lặng và đọc sách. Tôi nhớ là các thầy giáo của tôi thường cho tôi mượn sách. Các bạn tôi thì không bao giờ được như vậy."
22
Chương Ii: Nơi Không Thích Hợp
Tenzin rất chú tâm đến những gì liên quan đến phương Đông, mặc dầu lúc bấy giờ, đối với người dân Anh và gia đình Tenzin, Đông Phương là một cái gì hoàn toàn xa lạ.
- "Tôi đã bỏ nhiều thì giờ một mình ngồi vẽ các cô gái Nhật Bản duyên dáng xinh tươi trong tà áo kimono. Tôi còn nhớ từng chi tiết nhỏ nhặt tôi đã vẽ họ. Khi người Trung Hoa đầu tiên đến khu vực West End mở tiệm ăn, tôi đã năn nỉ mẹ tôi dẫn tôi đến đó để xem mặt mũi người phương Đông thế nào." Và cô nói rằng: "Nhất là đối với giới nữ tu và tông phái Thiền, tôi cảm thấy có một cái gì hấp dẫn, lôi cuốn tôi không thể giải thích được.
"Tôi rất thích các dòng tu kín. Nếp sống khổ hạnh, giản dị, những buổi cầu nguyện không dứt, và lời thề dâng trọn đời cho hạnh phúc mọi người, thực sự làm tôi rung động và ngưỡng mộ. Có lần một người bán hàng thực phẩm đã hỏi tôi sau cùng muốn làm gì, tôi trả lời không do dự "Làm nữ tu". Bà ta phá lên cười và nói rằng tôi sẽ đổi ý khi tôi lớn lên. Tôi nghĩ thầm "Bà lầm rồi"; nhưng lúc đó, tôi không hiểu là tôi muốn trở thành nữ tu tôn giáo nào."
23
Trong Động Tuyết Sơn
Còn vài sự kiện khác thường nữa như Tenzin Palmo luôn luôn nghĩ là mình đã sanh lầm làm con gái. "Người lớn nói với tôi rằng thân thể con người sẽ thay đổi khi họ trưởng thành, và tôi rất thích thú khi suy tưởng tôi sẽ thành con trai khi tôi lớn lên."
Ngay từ tấm bé, Tenzin là một đứa trẻ yếu đuối, ốm đau luôn. Cô sanh ra đã bị dị dạng; xương sống bị vặn vẹo về phía trái và do đó, cả cơ thể lệch hẳn đi, không ngay thẳng. Năm cô độ vài tháng tuổi, cô bị viêm màng não, nằm bịnh viện chữa khỏi độ ít lâu, sau lại bị đau lại.
Cứ vài tháng, cô lại vào nhà thương chữa trị; một tuần độ 3, 4 lần đi điều trị dược liệu pháp.
Tenzin ốm yếu bịnh hoạn luôn đến nỗi nhà trường tài trợ cho cô bé được đi dưỡng bịnh ở một vùng ven biển để dưỡng sức.
- "Không một ai có thể tìm ra nguyên do xác đáng, nhưng cứ một năm độ 2, 3 lần, tôi lại bị những cơn sốt cao độ quật ngã và chứng bịnh đau đầu kinh khủng lại hành hạ tôi kịch liệt. Sau này, khi lớn lên, tôi tự biết đó là quả báo của những kiếp trước của tôi, bởi vì những
24
Chương Ii: Nơi Không Thích Hợp
căn bịnh đó từ từ biến mất theo thời gian và nhất là tôi không hề bị bịnh nặng lúc tôi ở trong động tuyết."
25
CHƯƠNG III: BUỔI BÌNH MINH
Tenzin kể:
- "Khi tôi tìm hiểu về Ấn Độ giáo, tôi nhận thấy đạo giáo nầy chủ trương về "Thần Ngã" (Atman) nhiều quá. Phật giáo, trái lạí chủ trương "Vô Ngã". Đối với tôi, danh từ Vô Ngã đó hàm chứa một sự tự do tuyệt đối vô cùng. Cuối cùng, tôi đã tìm được cho tôi một tôn giáo, một con đường tâm linh tuyệt vời để đi theo."
Quyển sách "The Mind Unshaken" đã thay đổi đời tôi hoàn toàn. Tôi nhớ lại ba ngày sau khi đọc xong quyển sách; vừa đi đến sở làm, tôi vừa suy nghĩ "Tôi đã là Phật tử được bao lâu rồi. Ba ngày thôi sao? Không, tôi đã là Phật tử từ vô lượng kiếp rồi vậy.
"Một khi đã thấy con đường mình phải đi, Tenzin Palmo không bỏ lỡ cơ hội để đi đến đích. Cô nói "Khi bạn muốn làm gì, bạn phải làm ngay, đừng phí phạm thì giờ." Đó là tiêu chuẩn sống của Tenzin.
26
Chương Iii: Buổi Bình Minh
Nhưng đó không phải là chuyện dễ dàng thực hiện ở Anh quốc, nhất là vào thập niên 60.
Ngày nay, Phật giáo đã lan rộng khắp năm châu; hàng trăm thiền viện mọc lên như nấm và tài liệu nhan nhãn khắp nơi; người ta tìm hiểu Phật giáo dễ dàng - nhưng vào những năm 60, thì quả là một việc rất khó khăn.
- "Tôi luôn luôn nhớ trong lòng là Đạo Phật dạy con người phải nên diệt dục - nghĩa là diệt trừ bớt những ham muốn thô thiển, thấp hèn - vì thế, tôi đã dẹp bỏ hết quần áo và chỉ mặc một lọai áo dài mầu vàng, một chiếc thắt lưng và mang vớ đen. Tôi không trang điểm, và không hẹn hò với đám thanh niên nữa. Tôi cố gắng hết sức để diệt trừ những ham muốn bình thường của một con người."
Ít lâu sau, Tenzin khám phá được một hiệp hội Phật giáo ở Eccleston Square, do ngài Chánh Án Christmas Humphreys sáng lập vào năm 1924.
Humphreys là người đầu tiên giới thiệu tư tưởng triết lý phương Đông đến người Tây Phương. Ông đã làm quen, và học hỏi với những triết gia nổi tiếng thời đại như Carl Jung, học giả thiền sư Suzuki và các hoàng
27
Trong Động Tuyết Sơn
thân Thái Lan; ông cũng là một trong những người ngoại quốc đầu tiên đến tham vấn Đức Đạt Lai Lạt Ma khi Ngài vừa lưu vong ra khỏi Tây Tạng. Nhưng, mặc dù Hiệp Hội Phật giáo này đã thành lập lâu năm, nó cũng vẫn chỉ là một căn nhà nhỏ với số thành viên rất hạn chế.
"Khi bước vào căn phòng chính của Hiệp Hội này, tôi rất ngạc nhiên vì không có ai mặc áo dài màu vàng cả. Có lẽ tôi đã sai lầm khi vứt bỏ hết quần áo của tôi."
"Tôi nói chuyện với mẹ tôi và bà lặng lẽ đưa chìa khóa tủ quần áo cho tôi. Bà không vứt đi một cái nào hết. Bà cũng chẳng hỏi tại sao, bà chỉ thản nhiên chờ đợi. Mẹ tôi rất nhạy bén và hiểu tôi rất nhiều."
- Eccleston Square, Tenzin Palmo đắm mình vào kho tàng giáo lý Nguyên Thủy Phật giáo. Tông phái nầy đang phát triển tại Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Việt Nam, và Cam Bốt. Cô học Tứ Diệu Đế và thấu suốt được nguyên nhân đau khổ của con người và phương pháp diệt trừ đau khổ.
Cô tìm hiểu Bát Chánh Đạo và Thiền học. Cô cũng tập trì niệm 6 chữ "Án Ma Ni Bát Di Hồng", mặc dù cô chẳng hiểu thần chú ấy có ý nghĩa gì - nhưng với lòng
28
Chương Iii: Buổi Bình Minh
nhiệt thành và niềm tin sắt đá, Tenzin nói là đã cảm thấy có hiệu lực kết quả khi cô luôn thầm niệm "Án Ma Ni Bát Di Hồng."
Tuy nhiên, giáo lý Nguyên Thủy Phật giáo vẫn chưa thỏa mãn được Tenzin. Cô vẫn thấy có một cái gì thiêu thiếu như một lỗ hổng trong giáo lý Nguyên Thủy với sự tu chứng của các vị A La Hán.
"Tôi rất ngưỡng mộ sùng kính Đức Phật; những gì Ngài dạy đều hoàn toàn minh bạch và tùy duyên, căn cơ của chúng sanh. Đối với tôi, quả vị A La Hán không phải là con đường tôi muốn theo. Với trình độ hiểu biết của tôi lúc đó, tôi chỉ nhận thấy giáo lý Nguyên Thủy không thích hợp với tôi."
Vài tháng sau, tình cờ cô đọc được một quyển sách của ngài Long Thọ, vị hiền thánh và triết nhân Phật giáo nổi tiếng ở thê kỷ thứ 2. Trong sách, Ngài Long Thọ luận giải về quả vị Bồ Tát. Lý tưởng hành "Bồ Tát Đạo" cứu giúp chúng sinh đã hấp dẫn Tenzin Palmo và cô nhận thức ngay rằng đây mới chính là con đường cô muốn đi.
Đại thừa Phật giáo và lý tưởng Bồ Tát do ngài Long Thọ khai phá và luận giải, đã phát triển nhanh chóng,
29
Trong Động Tuyết Sơn
thu hút nhiều tín đồ; nhất là ở Tây Tạng. Nhưng Phật giáo Tây Tạng vào những năm 60 thì hầu như không có ai biết đến và cũng khác hẳn những gì người ta biết về Phật giáo.
Những huyền thoại hay chuyện hoang đường bao phủ xứ Tây Tạng và được thêu dệt thêm lên do những tay du hành tìm cách len lỏi vào vùng "Đất Cấm" này.
Những câu chuyện đầy thần bí đó càng lúc càng hấp dần người nghe hơn - "những vị Lạt Ma có thể bay trên hư không, tùy ý biến hóa đồ vật hay hóa thân ra đủ mọi loài, hoặc vượt qua những khoảng cách, chướng ngại một cách tự tại." Họ kể lại rằng "- Tây Tạng, người ta thờ rất nhiều vị thần; có những ngẫu tượng có nhiều tay nhiều chân, răng nanh và mắt lồi ra thật hung dữ." Tuy nhiên, theo đa số các học giả trong hội London Buddhist Society, thì Phật giáo Tây Tạng là một cái gì huyền bí và không có sự truyền thừa; khác với truyền thống chính phái Thiền và Nguyên Thủy Phật giáo. Lúc đó, không một ai nghĩ rằng Phật giáo Tây Tạng có thể phát triển mạnh được. - điểm này, Tenzin Palmo, một thành viên mới của hội, lại nghĩ khác và thiên về Phật giáo Tây Tạng nhiều hơn. Cô bắt đầu tìm hiểu kỹ thêm về Phật giáo Tây Tạng và một hôm, tình cờ cô đọc một quyển
30
Chương Iii: Buổi Bình Minh
sách nói về 4 trường phái cổ của Phật giáo Tây Tạng : 1) phái Nyingmapa: thế kỷ thứ 8 trước Công Nguyên là trường phái cổ về Mật Tông bí thuật, 2) phái Sakya thế kỷ thứ 11 trước Công Nguyên là phái pha lẫn cả hai dòng mới và cổ về Mật Tông, 3) phái Geluppa vào thế kỷ thứ 14 trước Công Nguyên là trường phái triết học, và 4) phái Kargyupa vào khoảng thế kỷ thứ 8 trước Công Nguyên là phái ẩn sĩ ở núi cao hang thẳm.
"Khi tôi đọc đến chữ "Kargyupa", hình như có một giọng nói vô hình nói với tôi rằng "Con là Kargyu". Tôi hỏi "Kargyu là gì?" "Điều đó không quan trọng" "Con chỉ biết đích thực con là Kargyupa." Tim tôi cơ hồ như ngưng đập trong giây lát. Trở thành một tín đồ Phật giáo Tây Tạng là ước muốn cuối cùng của tôi."
Theo sự chỉ dẫn của Tiếng Nói Nội Tâm vô hình, Tenzin Palmo tìm gặp một người duy nhất ở Luân Đôn mà cô biết là ông ta rất am tường về Phật giáo Tây Tạng. Ông ta đưa cho cô ta đọc một quyển sách viết về Milarepa, một vị cao tăng ẩn sĩ của Tây Tạng. Ngài là một bậc thi nhân hiền triết nổi tiếng đồng thời cũng là người sáng lập ra tông phái Kargyupa.
31
Trong Động Tuyết Sơn
Milarepa là một hiện tượng phi phàm, là một biểu tượng về trí tuệ xuất chúng ở thế kỷ thứ 11.
Khi còn trẻ, Milarepa đã tu luyện tà thuật và đã giết một số người. Sau khi nhận rõ sự sai lầm của mình, Milarepa đi tìm một vị đạo sư và tỏ ý cầu đạo.
Trải qua những cuộc thử thách kịch liệt, có lần suýt mất mạng, Milarepa được Thầy thâu nhận và truyền dạy bí mật chân truyền.
32
CHƯƠNG IV: BƯỚC ĐẦU TIÊN
Tenzin không khóc khi chuyến xe lửa lăn bánh, bỏ lại sau lưng mẹ cô, quê hương cô, và cũng không biết bao giờ cô mới trở lại; còn hai người bạn gái của cô là Ruth Tarling và Christine Morris thì lệ rơi đầm đìa. Cả ba cô gái đều trực chỉ tới tu viện của bà Freda Bedi.
- "Tôi cũng không hiểu tại sao tôi không cảm thấy buồn gì khi xa gia đình, xa đất nước tôi như vậy. Tôi chỉ cảm thấy vô cùng sung sướng. Đây là giây phút tôi đã mong đợi từ bao năm qua."
Con tàu "Le Vietnam" là con tàu cũ từ thời Pháp thuộc. Thủy thủ đoàn gồm có người xứ Ethiopie, Việt Nam, Sudan, và Algérie. Vì là tàu cũ nên giá vé đi Ấn Độ rất rẻ.
Trên tàu chẳng có quầy rượu hay hồ bơi gì cả; chỉ có một dúm hành khách mà thôi.
33
Trong Động Tuyết Sơn
Chuyến đi mất hai tuần, dừng lại Barcelona, Port Said Aden, và Bombay trước khi dong buồm thẳng về hướng đông.
Trên tàu, Tenzin quen với một thanh niên người Nhật. Chàng thanh niên này vừa thấy Tenzin đã choáng váng và yêu ngay người thiếu nữ duyên dáng, xinh đẹp này; và Tenzin cũng có cảm tình với anh chàng Phật tử người Á Đông nầy.
Một đêm đẹp trời, Tenzin đang ngồi hóng mát trên boong thì anh ta tiến đến gần và ngỏ lời cầu hôn cô.
Tenzin cười phá lên và cho anh ta đùa cợt. Nhưng không, anh ta có vẻ đứng đắn thật sự.
- "Tôi không hề nghĩ tới chuyện bất ngờ đó cả. Nhưng tôi cảm thấy hơi phân vân nghĩ ngợi. Thực ra anh ta rất đẹp trai và nồng hậu vô cùng. Các bạn tôi đều nói, nếu tôi không lấy anh ta thì có lẽ không bao giờ tôi kiếm được một người chồng tử tế đáng yêu như vậy. Tuy nhiên, tôi đã cân nhắc thật kỹ trước khi quyết định. Đức Phật đã dạy "Đời là bể khổ" - một ngày nào đó, anh ta sẽ chán tôi, và cuộc sống gia đình thực tế cũng chẳng có gì hay ho thơ mộng cả. Tôi sẽ là một ni cô - Cuộc đời xuất gia mới đúng là cuộc đời của tôi."
34
Chương Iv: Bước Đầu Tiên
Tenzin ước hẹn với chàng thanh niên Nhật Bản là Tenzin sẽ ở lại Ấn Độ một năm thử thách, và nếu cô không tu được, cô sẽ đi Nhật để gặp anh ta.
Tenzin và hai người bạn gái đến Dalhousie, Bắc Ấn vào tháng 3.
- "Khi tôi đến Dalhousie, tôi gặp cả ngàn vị tăng sĩ Tây Tạng đang ở đó; và tuyết , tuyết rơi trắng xóa phủ khắp nơi, nổi bật trong nền trời xanh lơ. Tuyệt vời quá! Đẹp quá !
Cô kể tiếp tục :
- "Chúng tôi thấy bà Bedi đang nấu ăn trong bếp. Bedi là một phụ nữ to lớn, đẫy đà, với đôi mắt xanh to, mũi cao thẳng, và tóc đã hoa râm. Trông bà độ khỏang 50 tuổi. Trong chiếc áo cổ truyền Tây Tạng mầu đỏ xậm, bà Bedi trông còn to lớn kinh khủng hơn; nhưng bà ấy rất cởi mở và thân thiện."
Cuộc đời bà Bedi kể ra cũng rất lý thú. Bà thuộc dòng dõi quý tộc Anh quốc; và cuộc tình giữa bà và người sinh viên gốc Ấn tại đại học Oxford (sau này là chồng bà) đã chấn động cả thành phố bà đang ở với gia đình. Bà quyết định lấy người bà yêu và chống lại thành kiến phân biệt giai cấp và chủng tộc của chế độ phong
35
Trong Động Tuyết Sơn
kiến Anh quốc. Bà và người chồng rời khỏi xứ Anh, nơi đã đem lại cho bà nhiều đau khổ hơn là sung sướng.
Năm 1959, khi dân Tây Tạng lưu vong theo chân Đức Đạt Lai Lạt Ma chạy trốn qua Ấn, bà Bedi xin xuất gia và được Ngài cho pháp danh là Khechock Palmo.
Bà đã giúp đỡ người Tây Tạng thật nhiều và ngay cả Trungpa cũng đã theo học Anh văn cơ bản tại học viện do bà sáng lập. Tuy nhiên, bà Bedi không biết nắm lấy thời cơ; khi thị trường đất đai tại Ấn sụt giá, bà lại đi mua những thứ không cần thiết - vì thế, khi giá cả thay đổi, bà Bedi đã mất sạch tiền. Nhưng dù sao đi nữa, Bedi vẫn là người cống hiến rất nhiều cho Phật giáo Tây Tạng trong những năm đầu lưu vong tại Ấn.
Dalhousie là vùng đồi núi đẹp phủ đầy thông xanh. Hàng ngàn con khỉ đủ loại đang chen chúc nhau ở tại đó. Khi Tenzin đến Dalhousie, cô thấy vẫn còn những ngôi nhà thờ Chính Thống giáo Anh quốc, vài trụ sở, và những căn nhà cổ kiểu Anh với trần nhà cao, hành lang rộng và vườn hoa đầy hoa hồng, hoa thược dược. Khi ta leo lên tới độ cao 7.000 bộ, Dalhousie không những cống hiến cho ta một cảm giác sảng khoái lâng lâng tuyệt đỉnh của tâm hồn, mà còn phơi bầy trước mắt ta một
36
Chương Iv: Bước Đầu Tiên
phong cảnh thần tiên diễm lệ tuyệt vời của những cánh đồng xanh mướt chân trời xứ Ấn và dãy Hy Mã Lạp Sơn hoành tráng sừng sững như một vị thần linh đầy uy quyền đang dang tay che chở toàn dân Tây Tạng. Đứng trước quang cảnh hùng vĩ đó, Tenzin cảm thấy con người thật nhỏ bé, quá yếu đuối trước thiên nhiên.
Qua bà Bedi, Tenzin biết rằng Dalhousie là trạm dừng chân đầu tiên của 5.000 dân lưu vong Tây Tạng. Sau đó họ di chuyển xuống vùng Dharamsala, đi Nam Ấn và vài vùng định cư khác; nhưng năm 1963, khi dân số lưu vong Tây Tạng đã lớn rộng, các vị Lạt Ma cao cấp đã quyết định dựng tu viện như các tu viện lớn Sera và Drepung tại Tây Tạng, và họ cố gắng tái tạo và gìn giữ những di tích cổ truyền hay phong tục Tây Tạng tại xứ người. Tenzin nhớ lại :
- "Dalhousie là nơi tu học lý tưởng, tuyệt vời. - đó, không có xe hơi và bụi bặm dơ bẩn. Không khí trong lành, mát mẻ. Sáng và chiều, mọi người đều ra đồng làm việc, các vị Lạt Ma tụng đọc kinh điển. Ai nấy đều vui vẻ tự do, ca hát sảng khoái."
37
Trong Động Tuyết Sơn
Là một phụ nữ Tây Phương đầu tiên trong số rất ít người ngoại quốc đến Dalhousie, Tenzin được sự lưu ý đặc biệt của dân Tây Tạng cũng như các vị Lạt Ma.
Lần đầu tiên được gọi đến chào hỏi ngài Karmapa, vị Lạt Ma cao cấp nhất của tông phái Kargyu, Tenzin thấy run sợ trước vẻ nghiêm khắc của Ngài. Ngài Karmapa được tôn sùng không kém Đức Đạt Lai lạt Ma.
Ba tháng sau ngày Tenzin đến Dalhousie, cô được diện kiến Đức Đạt Lai Lạt Ma, "Phật Sống" của dân Tây Tạng. Tenzin mặc quốc phục của người nữ Tây Tạng để vào đảnh lễ Đức Đạt Lai Lạt Ma.
Vừa thấy cô, Ngài nói :
- "Ồ, trông cô giống như người ở vùng Lhasa. Thế nào, ni cô, sự tu tập của cô có tiến bộ chút nào không?"
Câu hỏi của Đức Đạt Lai Lạt Ma làm Tenzin sửng sốt.
- "Tôi không hiểu sao Ngài lại gọi tôi là "Ani-la" (ni cô) giống như cách của hai vị tu sĩ gặp nhau và chào hỏi nhau. Không lẽ Đức Đạt Lai Lạt Ma thấy được quá khứ và tương lai của tôi?"
38
Chương Iv: Bước Đầu Tiên
Tenzin nhìn Đức Đạt Lai Lạt Ma và tự nhiên cô buột miệng nói :"Không, tôi không phải đến từ Lhasa. Tôi là Khampa, người xứ Kham." (Khampa là một sắc dân thuộc miền Đông Tây Tạng)
- "Cô có những kế hoạch, phương án như thế nào?" Đức Đạt Lai Lạt Ma hỏi tiếp.
- "Những chương trình dự án, dù vĩ đại đến đâu, cũng đều tan thành tro bụi. Ngài biết rõ như vậy."
Tenzin bướng bỉnh trả lời. Cô biết là Đức Đạt Lai Lạt Ma chỉ hỏi đố vậy thôi. Vạn vật đều vô thường. Cô không có một chương trình dự án gì cả; ngoài sự nỗ lực đi tìm chân lý.
Một tuần lễ sau, Tenzin gặp được người quan trọng nhất đời cô - người mà cô đã bỏ xứ sở để qua Ấn Độ tìm kiếm.
39
CHƯƠNG V: VỊ ĐẠO SƯ
Khamtrul Rinpoche là một vị Lạt Ma hóa thân đời thứ 8. Ngài đã đến Ấn Độ sau những ngày vượt biên giới đầy gian nan khổ sở. Một đêm, Ngài đã rời bỏ tu viện của Ngài ở Kham, miền Đông Tây Tạng, cải trang thành một người lái buôn cùng một số ít đệ tử và tùy tùng, vượt biên giới Tây Tạng để trốn khỏi sự áp bức của Cộng Sản Trung Quốc.
Khampagar là một tu viện đồ sộ nguy nga như một tòa lâu đài với những bức tường màu vàng và mái nhà dát vàng thật lấp lánh chiếu dưới ánh mặt trời xứ Tây Tạng. Khampagar là thế giới của ngài Khamtrul Rinpoche gần suốt 30 năm. Nếu chúng ta đi ngược dòng thời gian 450 năm trước, từ năm 1548, suốt 8 đời hóa thân trước của đức Khamtrul Rinpoche, thì có thể nói, Khampagar là mái ấm, là hơi thở, là sự sống của Khamtrul Rinpoche.
40
Chương V: Vị Đạo Sư
Khi ngài Khamtrul Rinpoche ra đời khoảng vào năm 1930, tu viện Khampagar đã là một trung tâm Phật học sầm uất và ảnh hưởng rộng lớn trên 200 tu viện lớn nhỏ khác, đã đào tạo hàng trăm ngàn tăng sĩ, và cả một dòng truyền thừa những vị đạo sư nổi tiếng khắp Tây Tạng. Ngoài ra Khampagar còn là trung tâm nghệ thuật nổi tiếng Tây Tạng và vũ thuật cổ truyền của các vị Lạt Ma.
Khi Cộng Sản Trung Quốc xâm chiếm Tây Tạng, họ đã phá hủy biết bao chùa chiền, tu viện, và các di tích lịch sử của xứ này cùng giam cầm tra tấn hàng ngàn vị sư và dân chúng. Ngài Khamtrul Rinpoche bắt buộc phải rời bỏ tu viện dấu yêu và gạt nước mắt ra đi lưu vong qua Ấn Độ. Chuyến vượt biên của Khamtrul Rinpoche và đoàn tùy tùng thật vô cùng gian nan và nguy hiểm. Họ phải vượt qua những dòng sông đóng băng hay những con thác khổng lồ sẵn sàng cuốn phăng người ta trôi về biển cả. Nghe nói lại là, Ngài Khamtrul Rinpoche phải chú nguyện thần linh cầu xin giúp đỡ và tung cát vào những ngọn sóng nước kinh khủng đó mới trấn áp nổi tốc độ của sóng. Và huyền dịu thay, không có một ai bị chết và chút đỉnh đồ đạc đem theo cũng không bị mất.
41
Trong Động Tuyết Sơn
Sau trận hãi hùng đó, đoàn người của Khamtrul Rinpoche còn kinh hồn bạt vía vì chạm trán phải đoàn công-voa của lính Trung Quốc đang vận tải vũ khí trên đường.
Nhưng một lần nữa, như có chư thiên hộ vệ, lại không có một ai bị bắt gặp. Sau cùng và có lẽ cũng là chướng ngại gian nan nhất là vượt qua dãy Hy Mã Lạp Sơn, dãy núi cao nhất thế giới. Khamtrul Rinpoche, với niềm tin sắt đá và nghị lực kiên cường, cuối cùng đã hướng dẫn đoàn người đến được Ấn Độ an toàn.
Trong vài năm đầu, Khamtrul Rinpoche đi đi về về Dalhousie, quy tụ lại những tăng sĩ từ từ trốn khỏi Tây Tạng và tái lập lại tu viện theo đường lối của tu viện Khampagar ở Tây Tạng.
Ngày 30 tháng 6 năm 1964, Khamtrul Rinpoche đến học viện "Young Lama" viếng thăm Freda Bedi.
Trong thời gian ở Dalhousie, Tenzin Palmo tạm làm thư ký cho trường học và nhiệm vụ của cô là kiểm soát đơn từ, thư tín các nơi gửi đến.
Một lần, cô thấy có một bức thơ đề tên Khamtrul Rinpoche. Cô không biết Khamtrul Rinpoche là ai, nhưng khi cô đọc tên Khamtrul Rinpoche đến lần thứ
42
Chương V: Vị Đạo Sư
hai, thì cô cảm thấy có một cái gì đó như là niềm tin dâng lên trong lòng cô.
Cô hỏi bà Bedi, và sau khi nghe xong câu chuyện về ngài Khamtrul, cô mong mỏi được gặp ngài:
- "Càng nghe về Lạt Ma Khamtrul, tôi càng nao nức được gặp Ngài. Tôi cảm thấy đó là một vị đạo sư mà tôi sẽ quy y và tu học theo."
Khamtrul Rinpoche đến thăm học viện của bà Bedi đúng vào ngày Tenzin Palmo được 21 tuổi, ngày 30 tháng 6 năm 1964.
Khi được bà Bedi báo cho biết, Tenzin quýnh quáng chạy vội vào phòng thay áo Tây Tạng và quàng mảnh vải trắng để dâng cúng Ngài Khamtrul theo nghi thức của Tây Tạng.
Khamtrul Rinpoche ngồi trên ghế bành cao, với hai vị Lạt Ma trẻ tuổi (người ta nói hai vi Lạt Ma này là hóa thân của hai vị Bồ Tát). Tenzin kể lại :
- "Tôi sợ quá nên không dám ngẩng đầu lên xem Khamtrul Rinpoche mập ốm, cao lùn thế nào. Tôi chỉ nhìn gấu áo và đôi giầy nâu của Ngài."
43
Trong Động Tuyết Sơn
Bà Bedi giới thiệu Tenzin lên ngài Khamtrul và kể sơ về mục đích cô đến đây cốt yếu chỉ tìm một vị đạo sư để dẫn dắt cô tu học. Tự nhiên Tenzin buột miệng nói lớn :"Thưa với Ngài rằng, tôi muốn xuất gia."
- "Ồ, lẽ dĩ nhiên là được." Khamtrul Rinpoche ôn tồn trả lời.
Ngay lúc ấy, Tenzin ngước mắt nhìn lên Khamtrul Rinpoche. Ngài là một người đàn ông cao lớn với khuôn mặt tròn nhưng rắn rỏi và mái tóc búi cao trên đầu như Đức Phật. Ngài lớn hơn Tenzin độ hơn mươi tuổi. Khi nhìn thấy Khamtrul Rinpoche, Tenzin cảm thấy như gặp lại một hình bóng thân thiết đã xa cách bao nhiêu lâu nay.
Ba tuần lễ sau, Khamtrul Rinpoche chủ trì buổi lễ xuất gia của Tenzin vào ngày 24 tháng 7 năm 1964.
Tenzin gửi tấm hình cô cạo đầu, mặc áo nữ tu Tây Tạng cho bà Lee Perry, mẹ cô, và viết :"Mẹ xem con trông rất khoẻ mạnh và gọn ghẽ hay không? Con rất sung sướng được xuất gia."
- "Tôi biết mẹ tôi không muốn tôi đi tu và sống xa bà ấy; nhưng riêng tôi, tôi cảm thấy giải thoát nhẹ nhàng khi cạo sạch đầu, và mặc chiếc áo tu sĩ này."
44
Chương V: Vị Đạo Sư
Cô được thầy cô, Khamtrul Rinpoche, ban cho pháp danh Drubgyu Tenzin Palmo (có nghĩa là "vị nữ tu sẽ làm rạng danh giáo pháp truyền thừa").
Cô là người nữ Tây Phương thứ nhì sau Freda Bedi xuất gia theo tông phái Phật giáo Tây Tạng.
Sau này, có rất nhiều phụ nữ từ các nước Âu Châu, Nam Mỹ, Úc đại Lợi, và Tân Tây Lan đã theo Tenzin Palmo xuất gia cầu đạo.
Tình thầy trò giữa Khamtrul Rinpoche và Tenzin Palmo thật sâu đậm. Cô luôn luôn được sư phụ trìu mến gọi "Tenzin, đệ tử của ta !", và cô cảm thấy được che chở bao bọc trong tình thương của Sư Phụ.
Khamtrul Rinpoche là một vị đại sư không những nổi tiếng về thần lực mà còn về tác phong đạo hạnh. Ngài luôn luôn được mọi người sùng bái kính mến; cả những người theo đạo Hồi và Ấn Độ giáo cũng rất tôn trọng kính sợ Ngài.
Tenzin Palmo đã từ giã quê hương, rời xa gia đình, và ngay cả những đam mê ước vọng của tuổi trẻ để xuất gia tìm đạo; nhưng còn một vấn đề uẩn khúc trong tâm mà cô chưa hoàn toàn dứt khoát được. Đó là vấn đề tình cảm giữa cô và người thanh niên Nhật Bản.
45
Trong Động Tuyết Sơn
Không bao lâu sau ngày Tenzin xuất gia, cô nhận được thơ của John Blofeld, một văn sĩ người Anh nổi tiếng, mời cô viếng thăm gia đình ông ta ở Thái Lan. Tenzin nghĩ đó là một đề nghị hấp dẫn. Thái Lan là một quốc gia Phật giáo; hơn nữa John Blofeld và vợ ông ta rất hiếu khách, và tiện nghi nhà ông ta ở Thái Lan thì quả hết chê vào đâu được. Cô xin phép Khamtrul Rinpoche và được Ngài cho phép đi với lời nhắn nhủ "Con nhớ trở về sớm."
Khi Tenzin Palmo đến Thái Lan thì một sự tình cờ xảy ra quá sự tưởng tượng của cô.
Tenzin gặp lại anh chàng si tình người Nhật Bản mà cô đã gặp trên chuyến tàu qua Ấn. Cô đã viết thơ nói rõ với anh ta là cô đã xuất gia và lời ước hẹn giữa họ ngày nào coi như chấm dứt - nhưng anh ta nghe các bạn cô nói lại rằng Tenzin sẽ qua Thái Lan nên anh ta tìm cách qua Thái mong Tenzin sẽ hồi tâm chuyển ý nhận lời cầu hôn của anh ta.
Thực sự, Tenzin Palmo cũng do dự xiêu lòng khi thấy sự thành khẩn của anh ta. Cô mới xuất gia và Khamtrul Rinpoche chỉ mới cho cô thọ có một giới là "Cấm Sát Sanh". Người thanh niên Nhật Bản này thật
46
Chương V: Vị Đạo Sư
có sức hấp dẫn cuốn hút, Tenzin thấy bối rối pha lẫn thích thú mê đắm mỗi lần gặp anh ta.
- "Chúng tôi trò chuyện thật tâm đầu ý hợp. Anh ta đề nghị tôi đi Hồng Kông và ở đó vài tháng chờ cho tóc mọc ra trở lại; sau đó chúng tôi sẽ làm đám cưới ở Nhật. Bố mẹ anh ta rất giàu có và tân tiến. Nếu tôi bằng kết hôn với anh ta, họ sẽ xếp đặt mọi việc chu đáo và ổn thỏa.
"Tôi nhớ lại những ngày ở Dalhousie. Nếp sống ở đó thật cơ cực. Ngày đó, những tu viện Tây Tạng chưa được xây dựng hay tái lập lại. Những tăng sĩ đều sống trong những túp lều ngoài đồng trống hay núi. Họ không có cả vòi nước máy, và có chỗ thì bùn sình ngập đến đầu gối - còn nhà cửa của bố mẹ anh chàng Nhật Bản thì thật tiện nghi và sang trọng , hết chỗ nói. Đời sống sẽ đáng yêu hạnh phúc biết chừng nào bên cạnh người yêu và vật chất sung mãn!"
Tenzin bị dằng co mâu thuẫn giữa lý trí và con tim. Tiếng gọi tâm linh trong cô vẫn có một mãnh lực khiến cô không thể nào quay lưng để chạy theo tình yêu được. Cô lo sợ, đau khổ, dằn vặt; và một đêm, trong nước mắt
47
Trong Động Tuyết Sơn
nghẹn ngào, cô chắp tay cầu cứu Sư Phụ hãy giúp cô sáng suốt chọn đúng cho mình một hướng đi nhất định.
Kỳ diệu thay, ngài Khamtrul Rinpoche đã nghe được tiếng kêu cầu cứu của đệ tử mình.
Tenzin thấy như có một luồng ánh sáng mầu vàng soi sáng toàn thân và giọng nói của Khamtrul Rinpoche, Sư Phụ cô, rõ ràng bên tai :"Hãy trở về Ấn Độ lập tức !"
- "Tôi vô cùng sung sướng. Tôi đã được che chở, đã được cứu độ. Tôi chắc chắn sẽ dứt khoát được sự sa lầy vào vòng luân hồi đau khổ."
Sáng mai, Tenzin mua vé về Ấn Độ lập tức, và từ đó cô không bao giờ gặp lại người thanh niên Nhật Bản đó nữa.
48
CHƯƠNG VI: CÔ ĐƠN VÀ ĐAU KHỔ
Sự can đảm và lòng trung thực thiết tha cầu đạo của Tenzin đã giúp cô vượt qua biển tình để tiếp tục hoàn thành tâm nguyện của mình.
Nhưng bây giờ mới chính là giai đoạn thử thách cay đắng nhất của Tenzin khi cô bắt đầu thực tập đời sống xuất gia tại các thiền viện Tây Tạng. Nên nhớ, Tenzin là người nữ duy nhất trong số hàng trăm tăng sĩ tại thiền viện của ngài Khamtrul Rinpoche.
Nếu người ta nói Kim Tự Tháp chỉ có ở Ai Cập, thì sự khắc nghiệt phân biệt nam nữ phải nói là ở Tu viện Tây Tạng. Mặc dù Tenzin là đệ tử của Lạt Ma Khamtrul, nhưng Ngài không thể phá lệ để ưu đãi cô.
Trong mắt của các tăng sĩ ở tu viện, Tenzin là một phụ nữ, hơn nữa, lại là một phụ nữ Tây Phương với mắt xanh tóc nâu và ngôn ngữ khác biệt.
49
Trong Động Tuyết Sơn
Vai trò người phụ nữ Á Đông thật yếu kém và phụ thuộc - trong tự viện, người nữ tu sĩ còn bị đối xử khác biệt hơn nữa.
Trong lúc các tăng sĩ được học giáo lý, thực tập thiền định hay học hỏi các môn pháp thuật, vũ thuật; thì Tenzin chỉ loanh quanh lẩn quẩn bên ngoài nhìn vào.
Các tăng sĩ có vẻ tử tế, nhưng luôn luôn họ cách xa Tenzin, vì họ đã được giáo huấn rằng người nữ là đầu mối của sa đọa và cạm bẫỵ
"Tôi thật cô đơn và lạc lõng ngay giữa chốn đông người. Cái cảm giác yêu thương mọi người nhưng không được phép tới gần là một cảm giác đau đớn trong lòng nhất.
Bạn sống giữa loài người nhưng bạn không thuộc về một ai cả, không thuộc về một cái gì cả. Bạn cũng là con người như họ nhưng họ tạo cho bạn có cảm giác bạn là một loài chúng sinh nào khác họ hoàn toàn.
Cô đơn và cô đơn kinh khủng. Người duy nhất tới gần tôi là Sư Phụ tôi, Khamtrul Rinpoche. Nhưng Ngài rất bận việc, và thỉnh thoảng mới tới thăm hỏi tôi. Hằng đêm, tôi khóc thầm vì cô đơn và lạc lõng."
50
Chương Vi: Cô Đơn Và Đau Khổ
Tenzin bị sống cách biệt với mọi người. Cô không thuộc về Tăng đoàn mà cũng chẳng phải là cư sĩ. Cô thuê một căn phòng nhỏ xíu chỉ kê đủ một cái giường và một cái bàn. Cô tắm ở cái vòi nước lạnh và đại tiểu tiện trong một cái thùng gỗ. Cô tự nấu ăn lấy và sắp xếp mọi thứ, không được ai chỉ bảo.
Ban ngày, cô tới văn phòng của Khamtrul Rinpoche phụ Ngài về giấy tờ sổ sách; ban đêm cô rúc về căn phòng trống lạnh của cô.
-"Sau này, có người hỏi tôi là có cô đơn khi ở trong động tuyết không? Tôi trả lời là không bao giờ. Nhưng chính thời gian ở tu viện mới đúng là chuỗi ngày sầu khổ và cô đơn nhất của tôi."
Nhưng, khôi hài thay, chính sự cô đơn, đau khổ, lạc lõng trong tu viện đó của Tenzin Palmo lại giúp cho cô nhìn rõ được nội tâm mình một cách sâu sắc hơn. Cô giải thích :
- "Một ngày kia, tôi ngồi thiền quán chiếu tự tâm mình và tư duy về những thao thức, khắc khoải, mâu thuẫn, cũng như những ham muốn của bản ngã con người tôi. Tôi đã nhìn rõ được sợi dây ràng buộc bấu víu của khát ái đang trói ghì lại tôi. Tôi nhìn thật rõ, thật
51
Trong Động Tuyết Sơn
thẩm thấu; và từ giây phút đó, tôi đã khám phá được nguyên nhân của Khát Ái và Đau Khổ."
Tenzin Palmo đã học được bài học "Ly Dục" và "Xả Ngã" (rời bỏ sự bám víu dục lạc, danh lợi và xả được cái "Ta"). Đó là nền tảng của giáo lý Phật giáo; là thềm thang bước lên quả vị giải thoát hoàn toàn.
Làm sao con người có thể có lòng từ bi đối với mọi loài chúng sanh khi chính tâm họ còn quan niệm, phân chia về "bạn hay thù, quen hay lạ." Xả bỏ đưọc dục lạc hay bản ngã không phải là điều dễ làm; con người luôn khát khao, bám víu, đòi hỏi, và thỏa mãn cho bằng được những dục vọng vật chất hay xác thịt, và họ không bao giờ bằng lòng với hiện tại. Họ cảm thấy xa lạ với quan niệm bình đẳng giữa người và người, giữa người và vật, hay giữa nam và nữ.
Tenzin Palmo nhận xét khá khôi hài rằng người ta thường hỏi cô là làm sao dứt trừ được sân hận; nhưng không ai hỏi cô là làm sao dứt trừ được ham muốn?
Hoàn cảnh sống của Tenzin Palmo tại Dalhousie càng ngày càng tệ hơn. Trong tất cả sự bạc đãi phân biệt mà Tenzin phải chịu đựng thì sự việc "không được phép học giáo lý và các nghi lễ" khiến Tenzin đau khổ
52
Chương Vi: Cô Đơn Và Đau Khổ
nhứt. Lý do duy nhất chỉ vì Tenzin là "phái nữ". Họ cho rằng "phụ nữ không đủ trình độ và tiêu chuẩn để học Phật pháp và các nghi lễ trang trọng."
Khi chư tăng hành lễ trong chánh điện, Tenzin chỉ ngồi ở ngoài nhìn vào và không được phép tham dự. Khi cô tỏ ý muốn học kinh điển và các nghi thức, cô bị từ chối một cách phũ phàng và quyết liệt.
Cô chỉ được Choegyal Rinpoche, đệ tử thân tín nhất của Khamtrul Rinpoche, kể cho cô nghe những mẫu truyện Phật giáo đơn giản, không chứa đựng giáo lý cao siêu gì. Đó là đăc ân mà họ nghĩ một phụ nữ, nhất là phụ nữ Tây Phương, nên bắt đầu học hỏi.
Nỗi chán chường buồn tủi trong Tenzin càng ngày càng lớn dần ra. Cô nói:"Tôi cảm thấy mình như là một kẻ thừa thãi trong hội chúng. Nếu tôi là đàn ông, thì chắc chắn sự việc sẽ khác hẳn ngay. Tôi sẽ có thể học hỏi và gia nhập Tăng đoàn. Thực sự, đây là thế giới trị vì của đàn ông.
Họ là những người có quyền hành nhất trong tay. Tôi như lọt vào một thế giới lạ lùng, không có chỗ đứng của mình. Các vị tăng sĩ rất hòa nhã tử tế với tôi - nhưng tôi biết trong tâm họ, người phụ nữ chỉ là một vật thừa,
53
Trong Động Tuyết Sơn
không giá trị; và họ cảm thấy sự có mặt của một phụ nữ trong Tăng đoàn như là một sự thách thức đố kỵ !"
Tenzin Palmo đã chạm phải bức tường ngăn cách rắn chắc nhất. Đã bao thế kỷ trôi qua, trong khi các tăng sĩ được học cao, hiểu rộng, và được sự ủng hộ tôn trọng của tín đồ; thì người nữ tu Tây Tạng không được đọc hay viết, không được tìm hiểu học hỏi giáo lý.
Họ ở trong những tu viện nhỏ bé, nghèo nàn, đơn sơ, và tụng kinh làm lễ cho một số ít các cộng đồng địa phương hay tệ hơn nữa, là phục vụ hầu hạ cơm nước cho các Tăng sĩ.
Đó là lý do vì sao không có những vị Lạt Ma nữ, không có những vị nữ đạo sư, giảng sư. Không có địa vị, cấp bực hay học thức, giới nữ tu Tây Tạng chẳng có một thế đứng hiện hữu trong xã hội, trong Tăng đoàn.
Không riêng gì ở Tây Tạng mà giới nữ tu ở Thái Lan hay ở các nước Á Đông khác cũng không tốt đẹp gì hơn.
Ở Thái Lan, vị trí các nữ tu sĩ rất thấp kém - thậm chí họ không được quyền chạm tay đến các chiếu trải tọa cụ của các vị Tăng. (Các ni cô nào lỡ có bộ ngực quá khổ thì phải bó cho thật sát, thật chặt, để không một ai để ý đến bộ phận nữ của mình).
54
Chương Vi: Cô Đơn Và Đau Khổ
Căn nguyên của vấn đề "trọng Tăng khinh Ni" này bắt nguồn từ thời Đức Phật còn tại thế (hay còn trước đó nữa); khi người nữ không có được một quyền lợi hay vị thế nào trong gia đình và ngoài xã hội.
Trong một môi trường xã hội quá phân biệt về giới tính và giai cấp như vậy, ngay chính Đức Phật cũng đã từ chối không muốn cho người nữ gia nhập vào Tăng đoàn, bởi vì, có thể Đức Phật nghĩ rằng "đời sống một du tăng rày đây, mai đó không thích hợp và nguy hiểm đối với phái nữ"; và còn nhiều chướng ngại nữa như : thân nữ có nhiều nghiệp chướng không thể đắc đạo được, hay thành Ma Vương cũng không xong. Ngay như ngài Xá Lợi Phất, đại đệ tử của Phật, khi nghe Long Nữ 8 tuổi đắc quả vị giải thoát, đã thốt lên rằng :"Chuyện đó khó tin, quả thực khó tin, vì thân nữ nhiều nghiệp chướng, không thể thành Phật được !" (Kinh Pháp Hoa, phẩm Đề Bà Đạt Đa thứ 12).
55
CHƯƠNG VII: LAHOUL
Đường về Bảo Sở (Phật tánh, Chơn Như) thật khó khăn, nhiều thử thách. Nó đòi hỏi người hành giả phải có sự quyết tâm và can đảm để đương đầu với mọi gian nan nguy hiểm.
Con đường dẫn về Lahoul cũng vậy; thật cheo leo hiểm nghèo và gập ghềnh khó đi. Dãy Hy Mã Lạp Sơn hoang vu cách biệt hẳn thế giới loài người bởi hàng rào dầy đặc tuyết và đá. Suốt cả 8 tháng trời trong năm, rặng Trường Sơn nầy luôn luôn bị tuyết đá bao phủ. Nhìn đâu đâu cũng thấy một mầu trắng xóa đến rợn người. Thời gian mùa hè ở Hy Mã Lạp Sơn rất ngắn. Hơn nữa, con đường dẫn tới vùng đất bí mật này lại còn được bảo vệ bởi đường đèo rùng rợn Rhotang Pass. Vì thế, ở độ cao 3.978 mét, vùng đất này đã được mệnh danh là "Cánh Đồng Xác Chết". Hình như đường lên Lahoul đã được các thần linh xếp đặt thật hiểm trở khó khăn để thử thách tâm người cầu đạo.
56
Chương Vii: Lahoul
Ngày đó, người ta chưa khai quang con đường và rất ít, rất ít người biết đến Lahoul : không có xe và chẳng có một phương tiện gì để leo lên tới Lahoul ngoài đi bộ; chứ không phải như ngày nay, du khách đã biết nhiều đến Tây Tạng và Lahoul cũng đã trở thanh một địa điểm du lịch hấp dẫn. Vì vậy, Tenzin phải tính toán thật kỹ nếu cô muốn leo lên Lahoul.
Cô bắt đầu khởi hành trước bình minh. Cô phải làm sao vượt qua đèo Rhotang Pass trước buổi trưa, bởi vì độ nửa ngày thì những cơn cuồng phong sẽ bất thần bốc lên dữ dội thổi tung tuyết và đá khiến người ta mất phương hướng và bị lạc đường. Bị lạc đường ở đèo Rhotang Pass thì chỉ có nước giáp mặt Tử Thần mà thôi!
Do đó, các cơ quan hữu trách bắt buộc Tenzin phải viết đơn cam kết chịu hoàn toàn trách nhiệm về an ninh bản thân trước khi cô khởi hành. Tenzin rất vui vẻ làm theo ý họ.
Tenzin cắm cúi leo, leo mãi; bỏ lại sau lưng những cánh đồng xanh bát ngát, những vườn hoa hồng, hoa cúc tươi thắm, và khói bếp nồng ấm tỏa ra từ những căn nhà vang rộn tiếng cười trẻ thơ. Cô trực chỉ đèo Rhotang Pass, leo vượt qua rặng cây dày đặc; đất dưới chân càng
57
Trong Động Tuyết Sơn
lúc càng gồ ghề, lồi lõm, khó đi; chung quanh vắng ngắt không có một bóng người qua lại. Thỉnh thoảng, đó đây, Tenzin chỉ thấy thấp thoáng một vài con trâu "yak", vài chú ngựa hoang, và một con kên kên khổng lồ đậu trên mỏm đá. - độ cao nầy, những dốc núi phủ đầy tuyết trông thật hung hãn, gớm ghiếc như một tử thù sẵn sàng xô ngã bất cứ kẻ nào xâm phạm đến nó. Gió hú lên từng cơn, đem theo cơn lạnh giết người; dù thời tiết đang ở vào đỉnh cao mùa hè, gió vẫn lồng lộng buốt giá. Đường đi trơn trợt vì có chỗ tuyết tan chảy dọc theo sườn núi; có chỗ thì đóng băng cứng ngắc. Tenzin vẫn cắm cúi leo từng bước một, từng bước một. Cuối cùng cô đã leo tới đỉnh núi; và như để trọng thưởng sự kiên nhẫn và can đảm của cô, một quang cảnh hùng vĩ tráng lệ trải dài ra trước mắt Tenzin.
- "Thật tuyệt vời. Trước mắt tôi là một vùng đất bằng phẳng rộng độ khoảng một dặm, bao bọc chung quanh là những ngọn núi tuyết trằng xóa nổi bật trên nền trời xanh thẳm. Thiên nhiên thật quá ưu đãi con người. Cảnh trời cao núi biếc làm tâm hồn người ta thanh tịnh, lâng lâng một niềm thoát tục.
Tôi gặp một vị Lạt Ma trên đỉnh núi. Vị ấy đeo một cái trống cơm nhỏ và một khúc xương người. Vị Lạt Ma
58
Chương Vii: Lahoul
cho tôi biết khúc xương ấy là biểu tượng để quán tưởng về cái chết của vị ấy. Chúng tôi trèo qua rặng đèo và để người trượt xuống theo sườn núi qua phía bên kia." Khi Tenzin chạm tới chân núi thì cô lại như lọt vào một thế giới khác.
- "Ở đây giống như ở Shangri-la."
Từ văn hóa tập tục Ấn Độ, tôi bước vào thế giới văn hóa phong tục người Tây Tạng. Những mái nhà ở đây thì bằng phẳng; rải rác dọc theo các sườn núi là những tu viện Phật giáo, những bánh xe cầu nguyện, và những bảo tháp.
Người Tây Tạng ở vùng Lahoul này sống lam lũ hơn, nhưng họ có vẻ rắn chắc và thoải mái hơn các cư dân vùng khác vì họ sống gần với đất trời, rừng núi, cỏ cây. Người Tây Tạng hao hao giống như người Trung Hoa, nhưng đôi gò má họ cao hơn, và đôi mắt thuôn đẹp như trái hạnh đào."
Từ nhiều thế kỷ trước, khi đạo quân Hồi giáo tràn sang xâm chiếm Tây Tạng và Ấn, và tàn phá hủy diệt hàng ngàn ngôi chùa, tự viện, người dân Tây Tạng đã phải bồng bế nhau chạy đến vùng Lahoul này để lánh nạn; Phật giáo cũng đã theo gót chân người Tây Tạng
59
Trong Động Tuyết Sơn
đến mảnh đất hoang vu xa xôi hẻo lánh nầy, và bắt đầu nẩy mầm mọc rễ tại đây, do sự nỗ lực tinh cần của các vị đạo sư sau nầy, sống ẩn dật tại các hang động trong núi tuyết.
Năm tháng trôi qua, người ta thêu dệt nhiều huyền thoại về các vị Lạt Ma ẩn sĩ đó và quyền năng của họ; vì thế, quang cảnh ở Lahoul cũng bao phủ một màu huyễn hoặc.
Năm 1970, khi Tenzin đến Lahoul, thì dân chúng ở Lahoul vẫn còn kém, chưa hiểu biết gì nhiều về thế giới bên ngoài. Đời sống họ mộc mạc giản dị, ngày ngày ra đồng trồng khoai trồng lúa, hay chăn nuôi súc vật.
Nếp sống đơn thuần đó ảnh hưởng đến tính tình bản chất con người nên người dân Tây Tạng rất hiền hòa chất phác và niềm tin Phật giáo của họ rất thuần khiết dung dị.
Những sáng kiến phát minh khoa học kỹ thuật của thế kỷ 20 này như điện lực, máy truyền hình, truyền thanh, xe hơi, v.v... chưa xâm nhập vào Lahoul, cũng như những bộ mặt da trắng của người Tây Phương vẫn còn xa lạ với dân Tây Tạng vùng đất Lahoul này.
60
Chương Vii: Lahoul
Sự có mặt của Tenzin Palmo, với chiếc áo nữ tu Tây Tạng mầu đỏ xậm, đã làm cho dân Lahoul xôn xao và hiếu kỳ. Người đàn bà đó là ai vậy? Làm sao mà một phụ nữ Tây Phương lại dám bỏ hết vật chất để đi tu vậy?
Có phải cô ta tu thiệt không đó, hay là gián điệp gì đây? Cô ta muốn gì ở người Tây Tạng chúng ta? v.v.. và v.v... Nhưng Tenzin đã chinh phục được cảm tình của dân Lahoul, và đè bẹp được làn sóng dư luận xầm xì, nghi kỵ đó bằng chính sự nhiệt tâm, cởi mở, và chân thành của cô.
Cô được họ đặt cho tên gọi là "Saab Chomo" (Ni cô Tây Phương), và sau này khi Tenzin ẩn cư trong động tuyết, thì họ đã kính trọng cô như một vị Thánh.
Lúc đó, Tenzin muốn tới Tayul Gompa, có nghĩa là "vùng đất chọn". Đó là một toà nhà cổ nguy nga độ 300 năm, tọa lạc giữa rừng cây cách thủ đô Keylong độ vài dặm. - nơi đó, có một thư viện lý tưởng, những bộ sưu tập tranh lụa tôn giáo và một bức tượng rất lớn của ngài Padmasambhava, vị Thánh Đạo Sư đầu tiên truyền bá đạo Phật từ Ấn vào Tây Tạng. Người dân Tây Tạng tôn sùng ngài như là một vị Phật. Bây giờ Tenzin đã có thể sống yên ổn thoải mái ở Lahoul rồi.
61
Trong Động Tuyết Sơn
Mấy năm qua, cô trôi dạt từ phòng thuê này đến nhà trọ khác; giờ đây cô đã có một căn nhà nhỏ xây bằng đá và bùn cho riêng cô đằng sau ngôi chùa, nơi mà các vị tăng sĩ hay các ni cô thường ở riêng biệt.
Tenzin sống vui vẻ, thân mật, hòa đồng với tất cả mọi người. Ai ai cũng qúi mến cô cả. Tenzin thân nhất với Tshering Dorje, người mà cô thường thân mật gọi là "Anh trai người Lahoul của tôi".
62
CHƯƠNG VIII: ĐỘNG TUYẾT SƠN
Tenzin Palmo và nhóm bạn đồng hành bắt đầu trèo lên ngọn núi sau tu viện Tayul Gompa, hướng tới hang động trong dãy Tuyết Sơn. Họ bám vào đá, rướn người leo lên từng bước, từng bước một; họ leo cao, cao mãi, bỏ lại sau lưng thế giới loài người. Họ kiên trì cẩn thận leo lên cao, cao hơn nữa. Hơi thở họ đã khó nhọc, nặng nề; buồng phổi họ như bị sức ép không khí trên độ cao hơn 1000 bộ này ở rặng núi tuyết nén chặt lại muốn vỡ tung.
Cuộc leo núi này thực sự không phải trò đùa hay một trò chơi mạo hiểm. Những người bị yếu tim hay người có máu xây xẩm không thể lên tới độ cao này được. Đường dốc núi thật cheo leo, nguy hiểm đến rợn người. Các tảng đá lớn nhỏ chất chồng lên nhau, có hòn thì sần sùi lởm chởm, có hòn thì sắc bén cứa đứt cả tay, có hòn thì chênh vênh nhô tận ra ngoài, chỉ cần sơ ý một chút hay sẩy nhẹ chân cũng đủ toi mạng. Tuy nhiên, không dễ bị khuất phục, đoàn người Tenzin Palmo vẫn bám chặt leo lên từng bước. Sau hai giờ leo núi vất vả,
63
Trong Động Tuyết Sơn
họ bất thần nhìn thấy động núi. Hang động này nằm tọt trong hốc núi, và như là có bàn tay "ngụy trang" khéo đến nỗi họ suýt không nhận ra được. Động tuyết này không giống như các vòm cửa hang động trong các cuốn phim tưởng tượng của Hollywood. Nó cũng không có lỗ sâu đen ngòm, bụi bặm, dơ dáy như các hang động của các người thời cổ đại. Động tuyết này chỉ là một vách đá nhô ra lơ lửng trên sườn núi, và 3 phía đều toang hoác. Trần động thấp chủm nên người ta không thể nào đứng thẳng người lên được nếu chui vào bên trong. Mái động là một vách đá lởm chởm nhô ra ngoài, lưng động nghiêng nghiêng cheo leo theo sườn núi, và bên ngoài dưới gò vách đá là một dốc nhọn hình chữ V chạy dài xuống thung lũng Lahouli.
Suy cho cùng, đây là một nơi trú ẩn mong manh, không kiên cố và có thể dễ bị sụp bất ngờ. Nó chỉ là một lỗ hổng nhỏ tụt vào trong hốc núi, rộng độ 10 bộ bề ngang và 6 bộ chiều sâu; trông nó giống như một cái tủ áo vậy. Có thể nói, động tuyết này như một cái lò giam cô đơn.
Tenzin Palmo đứng sát mép vực và quan sát quang cảnh chung quanh. Cảnh trí thật thanh tịnh, hùng vĩ, và cô liêu. Trước mặt cô, theo hình vòng cung 180 độ là
64
Chương Viii: Động Tuyết Sơn
dãy Hy Mã Lạp Sơn phủ tuyết trắng xóa, bao la đến nỗi Tenzin có cảm tưởng như mặt chạm mặt với núi vậy.
Nhìn đâu cũng thấy núi và núi, tuyết và tuyết. Bây giờ là mùa hè nên chỉ có đỉnh núi phủ tuyết; nhưng vào 8 tháng mùa đông thì tuyết đổ xuống dầy đặc tạo thành một bức thành trì trắng toát khổng lồ, nổi bật trên nền trời xanh lơ, không gợn một chút mây. Ánh sáng mặt trời chiếu xuống núi trong suốt như pha lê, chan hòa trên mọi vật khiến cảnh sắc thêm lung linh tươi đẹp. Không khí thì dễ chịu, trong lành. Sự yên tĩnh ở đây thật sâu lắng. Người ta chỉ nghe tiếng róc rách nhè nhẹ của dòng sông Bhaga ở dưới thung lũng, tiếng gió rì rào, và lâu lâu vài cánh chim vỗ bay phá tan bầu tĩnh mịch chốn núi đồi. Bên tay phải của Tenzin là một cánh rừng nhỏ có thể cung cấp nhiên liệu. Bên trái của cô, độ một phần tư dặm là một con suối nhỏ chảy ngang qua các khe đá giúp cho cô có được nước uống thiên nhiên trong mát, sạch sẽ; và đằng sau cô là một ngọn núi cao nhọn như tháp canh bảo vệ cho cô. Với tất cả cảnh trí thiên nhiên tuyệt vời chung quanh, và sự tuyệt đối yên tĩnh cô đơn, động tuyết sơn này sẽ tạo cho Tenzin một cảm giác thanh bình êm ả vô cùng lý tưởng, và những ngọn núi hùng vĩ hoành tráng của dãy Hy Mã Lạp Sơn,
65
Trong Động Tuyết Sơn
như một bà mẹ hiền, dang rộng đôi tay che chở bảo vệ Tenzin. Cô đang đứng ở độ cao 13,000 bộ trên mực nước biển - một độ cao chóng mặt rợn người. Tung độ này thấp hơn đỉnh núi Mount Whiney và Mont Blanc không bao nhiêu. Nếu so sánh động tuyết này với ngọn núi cao nhất nước Anh Ben Nevis cao 4,402 bộ, thì Ben Nevis thấp lè tè như chú bé con và anh chàng khổng lồ. Nơi đây, cheo leo một mình như cánh chim đại bàng cô đơn trên đầu vũ trụ, Tenzin sẽ nhập thất yên ổn không bị quấy rầy phiền nhiễu bởi tiếng động trần gian.
Cô sẽ được tận hưởng sự yên tĩnh tuyệt đối mà cô cần có. Sự yên tĩnh của ngoại cảnh quan trọng và cũng rất cần thiết cho sự tu tập của vị hành giả trong công cuộc khám phá tâm linh. Trong cảnh giới hoàn toàn yên lặng, tiếng nói Tuyệt Đối Vô Cùng sẽ được tiếp nhận một cách trọn vẹn. Ngoài ra, còn có một vài sự trùng hợp ngẫu nhiên thật lý thú. Trên đỉnh núi đối diện hang động Tuyết Sơn là một phiến đá đen thật ngộ nghĩnh mà dân địa phương đặt tên là "Tượng Nữ Thần Keylong". Dù ngay giữa mùa đông, phiến đá này cũng không bao giờ bị phủ tuyết cả. Hình tượng nó đó đen sì nổi bật trên nền tuyết trắng của đỉnh núi. Càng nhìn gần, người ta càng thấy rõ hình thù đặc trưng của phiến đá đen đó.
66
Chương Viii: Động Tuyết Sơn
Rõ ràng đó là hình dáng của một phụ nữ bồng con sát vào ngực và tay kia của nàng đang cho chim ăn. Theo mắt người phương Tây, hình tượng đó rất giống tượng Mẹ Madoona đang bồng con, và người dân Lahoul thì tin tưởng đó là Đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Cách phiến đá đen đó xa xa, lại có một bức tượng đá màu vàng và xanh nhạt của một nữ thần khác.
Vài thế kỷ trước, hình như người ta cũng đã thấy một bức tượng đá giống như vậy ở thung lũng bên kia đồi, nên dân Lahoul càng truyền miệng kháo nhau rằng "Tượng Nữ Thần" đã di chuyển từ bên nầy đồi lên đỉnh núi tuyết". Và dọc xuống sườn núi, không cách xa động tuyết bao nhiêu là một lỗ hổng lớn tụt hẳn vào trong vách núi. Có người nói lại rằng "xưa kia, đó là nơi cư ngụ của nữ thần Phật giáo Tây Tạng Palden Lhamo. Vị Nữ Thần này bảo vệ toàn dân Tây Tạng. Ngài cỡi trên lưng một con la (loại thú giống như lừa).
Vài năm sau, khi Tenzin lên động tuyết cư trú, chính mắt cô nhìn thấy những dấu chân la ấn lõm trên tuyết chung quanh lỗ hổng này. Lạ lùng nhất là cô không tài nào tìm thấy một dấu chân nào khác dẫn lên lối này. Tất cả những gì Tenzin đang nhìn trước mắt đây thật viên mãn hoàn hảo. Cô nghĩ rằng: " động Tuyết Sơn, cô
67
Trong Động Tuyết Sơn
có thể dành hết thì giờ và năng lực cho sự tham thiền nhập định thật miên mật; để từ đó, cô có thể vén bức màn bí mật của thế giới tâm linh - đó là một thế giới đầy kỳ hoa dị thảo; một thế giới bao la, vô cùng vô tận, mà mọi người tu đều muốn khám phá; một thế giới không có sự "bắt đầu" (vô thỉ) cũng không có sự "kết thúc" (vô chung). Thật đúng như câu:
"Càn khôn tận thị mao đầu thượng
Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung."
tạm dịch:
"Vũ trụ nằm trên đầu lông xíu
Thế giới lọt trong hạt cải mòng."
Tenzin quá hài lòng và quyết định sẽ cư trú tại hang động này; nhưng các vị đồng tu phạm hạnh khác lại thấy bức rức, áy náy cho cô.
- "Cái động này cao quá ! Không ai có thể để một phụ nữ sống một mình ở đây như vậy. Cô sẽ chết cóng ở độ cao này !"
- "Ồ, qúi vị không biết chứ, hang động luôn luôn ấm áp hơn nhà. Các hang động như điều hòa được thời tiết.
68
Chương Viii: Động Tuyết Sơn
Khi tôi ở Tayul, tôi đã rét cóng trong căn nhà vào mùa đông; nhưng ở động này thì ấm áp vô cùng."
- "Nhưng mà vẫn còn nhiều thứ bất tiện và nguy hiểm. Cô ở đây thì cứ như con vịt già bị trói chờ bọn cướp đến bẻ cổ và cướp sạch."
69
CHƯƠNG IX: ĐỐI DIỆN TỬ THẦN
Cuộc sống của Tenzin tại hang động Tuyết Sơn không quá thơ mộng và lý tưởng như cô đã kể cho chúng ta nghe, mà những bịnh tật, thiên tai, đói khát đã thay phiên nhau tấn công cô một cách khắc nghiệt vô cùng.
Tenzin đã đối phó chịu đựng những hiểm nghèo tật bịnh đó chỉ một mình và một mình lẻ loi; không có bác sĩ, không có bạn bè, không có thân nhân, không có điện thọai hay cũng chẳng có một cơ sở y tế cứu giúp nào.
- "Khi bạn nhập thất, bạn phải phát nguyện sẽ ở trong thất bao lâu và bạn phải giữ đúng lời nguyện đó. Ngay cả khi bạn mắc phải bịnh nan y, bạn cũng không được ra khỏi thất - Nếu chết, bạn chết trong thất."
Ngạn ngữ Tây Tạng có câu "Nếu phải bịnh, thì bạn đã bịnh - Nếu phải chết, thì bạn phải chết." Vậy thì bạn đừng thắc mắc gì cả, chỉ an nhiên chờ đợi mọi sự việc đến."
70
Chương Ix: Đối Diện Tử Thần
Thật lạ lùng, Tenzin không hề bị bịnh nặng kinh khủng như ngày cô còn bé; tuy nhiên cô vẫn thường đau ốm luôn.
Trong động, cô thường bị sốt rét hay đau nhức mình mẩy thấu xương. Có lần, cô khám phá thấy có một cục bướu nhỏ dưới cánh tay, nhưng cô phớt lờ đi, không quan tâm tới; và khi cô hết hạn nhập thất ở động Tuyết Sơn, cô chợt nhớ tới cục bướu đó và rờ cánh tay thì nó đã biến đi tự lúc nào không hay nữa.
- "Trong thời gian tôi nhập thất, có lần tôi bị bịnh đau mắt; vì không có thuốc mắt tôi đã sưng húp lên thật to và đau đớn đến nỗi tôi không thể nháy mắt được. Tôi cũng không chịu được ánh sáng chói vào mắt nên tôi sống trong bóng tối hoàn toàn. Tôi không thể nhóm bếp được vì hơi nóng và ánh sáng chói vào mắt khiến tôi đau đớn kinh khủng, vì thế tôi nhịn ăn luôn.
- "Tôi không thể làm gì cả. Tôi cũng không tập trung ngồi thiền được vì mắt tôi cứ sụp xuống, không dỡ lên được. Cuối cùng tôi chỉ ngồi yên, chờ đợi, và quán sát từng cơn đau hoành hành cơ thể tôi. Tôi chỉ ngồi yên, dù muốn nằm xuống một chút cũng không được, vì hễ nằm xuống là mắt tôi nhức buốt kinh khủng, đau
71
Trong Động Tuyết Sơn
nhói lên tận màng óc. Do đó, tôi chỉ ngồi yên chịu đựng. Càng quan sát cơn đau, tôi lại càng thấy kỳ diệu. Từng cơn đau trổi dậy như từng nốt nhạc của cung đàn, nhịp trống của một bản nhạc tấu. Giai điệu âm tiết khác nhau của bản nhạc "Khổ Đau" chập chùng nhảy múa trong mắt tôi.
Khi tôi bắt đầu tính nhẩm lại thời gian cơn đau mắt nầy thì nó đã hành hạ tôi đúng 49 ngày. Thật thú vị vì 49 ngày là giai đọan của trung ấm thân (Bardo) - giai đoạn tiếp nối giữa Cái Chết và Sự Tái Sanh của một kiếp chúng sinh - Cơn đau mắt của tôi cũng giống giống như vậy."
"Qua sự quán chiếu tư duy, tôi cảm nhận được một điều là sự đau đớn có mặt trong chúng ta, hành hạ chúng ta, bởi vì chúng ta khăng khăng chống trả lại nó."
"Sự phản ứng đó tạo thành một luồng đối kháng mãnh liệt công kích toàn bộ con người, và đưa đến khổ đau phiền não triền miên.
"Điều quan trọng là chúng ta nên tập làm bạn với khổ đau, sánh vai với nó, dạo chơi với nó, nhẫn nhục uyển chuyển theo nó. Lúc đó, sự dày vò và đau đớn của bịnh tật sẽ thuyên giảm, bớt công kích chúng ta.
72
Chương Ix: Đối Diện Tử Thần
Làm sao chúng ta có thể day tay, mắm miệng đánh trả lại "bịnh tật" (một sự cố đương nhiên phải xảy đến cho một kiếp chúng sinh?).
Vì thế, tốt hơn hết là chúng ta nằm dài trườn mình ra như loài rắn, uyển chuyển bò nhịp nhàng theo nghiệp quả và tìm cách chuyển hóa nghiệp lực theo chiều hướng tốt đẹp nhất mà chúng ta có thể làm được."
Tenzin cũng đã suýt bị chết đói trong động.
Có một lần Tenzin nhập thất hoàn toàn trong động và chỉ nhờ vào Tshering Dorje cung cấp thực phẩm lên động cho cô; nhưng Tshering Dorje đã quên hay vì lý do nào đó, không mang thực phẩm lên cho Tenzin được.
Cô đợi và đợi mãi, thức ăn dự trữ trong động cạn dần, cạn dần. Cô đã nhịn đói và duy trì sự sống qua tư duy thiền định.
Đến khi Tshering Dorje mang thực phẩm lên, Tenzin sắp tàn hơi kiệt sức vì thời gian nhịn ăn quá lâu.
Tuy nhiên, cô cũng không hỏi vì sao Tshering Dorje chậm trễ giúp cô; cô nghĩ là ông ta có những lý do cá nhân của ông.
73
Trong Động Tuyết Sơn
Một thảm kịch gây ấn tượng mạnh nhất xảy ra cho Tenzin khi cô ở trong động khiến cô nhớ mãi không quên.
Đó là vào tháng 3 năm 1979 khi Tenzin đang tọa thiền như thường lệ trong hộp gỗ. Bỗng đâu bên ngoài, một trận bão tuyết dữ dội nổi lên, và kéo dài suốt 7 ngày 7 đêm.
Âm thanh của gió lốc và bão tuyết xoáy rít trong không trung như tiếng gầm thét của loài mãnh thú khi tử chiến. Tenzin đã quen với những cơn lốc tuyết, nhưng thực sự trận bão tuyết này vô cùng kinh khủng và dữ dội.
Tuyết đổ xuống như thác, chất chồng lên cao, cao mãi, cao qua khỏi cửa cái, qua khỏi cửa sổ căn động và phủ lấp luôn. Tenzin chợt rùng mình hãi sợ. "Cô đang bị CHÔN SỐNG DƯỚI TUYẾT". Cảm giác kinh hoàng đó vẫn còn đậm nét trong ký ức cô khi cô kể lại.
- "Thình lình tất cả bị đắm chìm trong tối đen và lạnh giá. Tôi không thể nhóm lò được vì ống thông hơi đã bị tuyết dập nát trên vòm động. Không có cách gì để nấu ăn hay sưởi ấm gì cả. Tôi cũng không dám thắp đèn cầy vì sợ thiếu dưỡng khí. Khi tôi nhìn ra phía cửa sổ, tôi chẳng thấy gì ngoài một tấm màn trắng toát đến
74
Chương Ix: Đối Diện Tử Thần
rùng rợn của tuyết. Khi tôi cố gắng đẩy cửa cái ra thì một màu tối đen như mực phủ kín tất cả.
"Không hy vọng gì được cứu hay có một lỗ thủng thông hơi để tôi thở được một chút, trong hang động lạnh giá tối om như cái huyệt này, tôi biết là tôi đang đối diện với cái chết đang từ từ nuốt lấy tôi.
"Tôi nhớ lời dạy của Đức Phật "Cái chết chắc chắn sẽ đến với chúng ta, nhưng thời gian đợi chờ cái Chết mới vô tận."
"Tôi đã quán tưởng về đề mục Cái Chết từ lâu, tôi quán tưởng khi xác thân tứ đại này tan rã đi trong lòng đất hay thiêu rụi đi trong hỏa lò; tôi sẽ không còn gì sót lại trên cõi đời này, ngay cả cái tên gọi "Tenzin" rồi cũng quên lãng đi; những người thân, bè bạn bỏ lại sau lưng.
"Đến từ HƯ KHÔNG và trở về HƯ KHÔNG", nhưng đó chỉ là quán tưởng; còn lúc đó thực sự tôi chạm mặt với Tử Thần đang từ từ tiến tới.
"Là một hành giả tu tập Mật tông, tôi biết đó là giai đoạn quan trọng nhất trong quá trình tu tập của một hành giả.
Qua những tầng lớp tư duy về diễn tiến của quá trình Cái Chết, nếu tôi đầy đủ công phu, tôi sẽ chứng
75
Trong Động Tuyết Sơn
đạt đưọc cảnh giới tối thượng, vượt qua sống chết. Do đó, đối với một đạo sư, cái chết không có gì đáng sợ cả mà chính nó là một cơ hội hiếm có, một cơ hội bằng vàng để giúp họ giải thoát.
"Tôi không lo sợ. Tôi có nhiều thời gian để suy tư về Cái Chết đang thực sự giáp mặt tôi. Tôi nghĩ "Nếu tôi chết, tôi sẽ chết".
Từ bé, tôi đã nhận thức được thân xác tứ đại nầy của con người thật tạm bợ, vô thường rồi, và con người cứ tái sanh đi, tái sanh lại bao nhiêu kiếp trong vòng tròn Luân Hồi vô tận.
"Tôi đã có trong tay "Những Viên Thuốc Cứu Độ Giải Thoát" sẵn sàng khi nào và nếu cái chết xảy đến cho tôi. (Những viên thuốc Giải Thoát này là đặc chế của ngành Y Dược Tây Tạng. Được bào chế bằng nhiều nguyên liệu đặc biệt, cỏ thuốc, đất thiêng và những bộ phận của các hài cốt, những viên thuốc này càng được tăng thêm hiệu lực và nhiệm mầu do sự nguyện cầu nhiều tháng của các tăng sĩ và huyền lực của các mạn đà la. Khi cái chết xảy ra cho một người nào, với sự trợ giúp của các viên thần dược này, người sắp chết sẽ
76
Chương Ix: Đối Diện Tử Thần
dễ dàng chuyển hóa dòng ý thức đến cảnh giới an lạc cao hơn).
"Tôi hồi tưởng lại quá khứ và suy nghĩ xem tôi dã làm những gì, tốt hay xấu. Tôi nghĩ là tôi vô cùng may mắn. Tôi đã gặp nhiều vị Lạt Ma và đã tiếp nhận nhiều đặc ân giáo dưỡng. Thật vô cùng hạnh phúc được xuất gia thành ni cô!"
"Tôi rất ngưỡng mộ và tin tưởng Sư Phụ tôi, ngài Khamtrul Rinpoche. Tôi luôn luôn cầu nguyện sẽ được ngài lo cho phần trung ấm thân (Bardo) và kiếp sau của tôi. Tôi biết chắc chắn Ngài là nơi nương tựa duy nhất của tôi."
Tenzin cũng quán chiếu về thế giới Tịnh Độ, nơi Đức Phật Di Đà là tọa chủ. Cô nói: "Nếu chúng sanh nào vãng sanh được về thế giới Cực Lạc của Đức Phật Di Đà thì sẽ được vô lượng lợi lạc, vì đó là cảnh giới An Lạc Tối Thượng của Niết Bàn."
"Mặc dù vậy, chúng sanh cũng không nên chấp trước về bất cứ một cảnh giới nào, vì còn chấp trước là còn tham cầu, còn tham cầu là còn rơi rớt vào vòng sanh tử luân hồi vô tận. Các vị Lạt Ma cao cấp đã vãng sanh
77
Trong Động Tuyết Sơn
về thế giới Cực Lạc đó, nhưng các ngài lại phát nguyện trở về thế giới Sa Bà này để cứu độ chúng sanh.
Hơn nữa, cũng rất cần thiết là chúng ta nên phát nguyện trở về thế giới nầy và ngụp lặn trong khổ đau để thấu hiểu nỗi khổ của chúng sinh, bởi vì chỉ khi nào chúng ta hiểu được thì chúng ta mới thương; và khi tình thương phát khởi thì chúng ta sẽ dễ dàng xả bỏ được Ngã Chấp và Tham Ái được.
Chư Phật, và chư Bồ Tát đã hóa hiện thân khắp nơi, ngay cả địa ngục để cứu chúng sinh thoát khỏi khổ đau. Đó chính là đại nguyện của chư Phật và Bồ Tát vậy."
78
CHƯƠNG X: CÁC VỊ ĐẠO SƯ DU GIÀ
Quang cảnh bên ngoài động Tuyết Sơn thì vô cùng tráng lệ và hùng vĩ, nhưng còn thế giới nội tâm của Tenzin thì ra sao? Cô đã chứng nghiệm được gì trong quãng thời gian dài 12 năm sống ẩn cư trong động núi? Cuộc hành trình đi về nội tâm của cô thế nào, có kết quả gì không? Cô đã thấy những gì xuyên qua quá trình thiền định công phu? Cô có được thấm nhuần ân sủng hay cô có nghe thấy những tiếng gọi thiêng liêng không? Cô có kinh nghiệm được những đợt sóng chuyển hoá tâm thức không?
Những gì chúng ta thắc mắc cũng là ưu tư khắc khoải của Tenzin khiến cô đã phát đại hùng tâm ẩn cư đơn độc trên động núi cách xa loài người hơn 12,000 bộ cao.
Theo huyền thoại của các thiền sư ẩn sĩ, đó cũng là một nan đề, một công án cần phải giải đáp. Tít tận trên hang động giá băng hoang sơ, vị Đại hiền giả đạo
79
Trong Động Tuyết Sơn
sư du già Milarepa, người sáng lập ra tông phái ẩn sĩ Karmapa, sau nhiều năm khổ hạnh, đã chứng đạt tới một cảnh giới huy hoàng kỳ lạ.
Những bức vách và nền căn động nơi Milarepa ở đều chảy tan ra nước bởi những dấu ấn tay chân của ngài và chỗ ngồi tham thiền của ngài thì lõm sâu vào trong đá.
Trong thời gian Milarepa tham thiền nhập định, các vị nữ thần đã xuất hiện và cung cấp thức ăn cho Milarepa đỡ đói. Nhưng dù thân hình của Milarepa chỉ còn xương bọc da và đã đổi màu, biến thành xanh rêu vì Ngài chỉ ăn có một loại lá cây ban (cây dại mọc trên núi), Milarepa vẫn an nhiên tham thiền nhập định, không hề biến động vì ngoại cảnh.
Trong khi thiền quán, Milarepa có thể tùy ý biến hoá ra bất cứ hình dạng nào, hay phiêu du tự tại trong vũ trụ càn khôn không hề bị trở ngại. Khi ngài xả thiền, thì có khi Milarepa đã dùng khinh công để vượt qua những dãy núi đồi đám dân làng đang cày bừa ở các thung lũng phía dưới chân núi.
Liệu cô gái Tenzin Palmo, con người bán cá ở Bethnal Green, có chứng đạt được như Milarepa không?
80