🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Triết Lý Hành Động Hồ Chí Minh
Ebooks
Nhóm Zalo
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Q. GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP PHẠM CHÍ THÀNH
Chịu trách nhiệm nội dung:
PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP ThS. PHẠM THỊ THINH
Biên tập nội dung:
Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Đọc sách mẫu:
ThS. BÙI THỊ ÁNH HỒNG TS. HOÀNG MẠNH THẮNG BÙI BỘI THU
NGUYỄN MẠNH HÙNG PHẠM THU HÀ
CAO THỊ LAN ANH
VIỆT HÀ
Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 4139-2020/CXBIPH/18-337/CTQG. Số quyết định xuất bản: 5369-QĐ/NXBCTQG, ngày 15/10/2020. Nộp lưu chiểu: tháng 10 năm 2020.
Mã số ISBN: 978-604-57-6113-7.
Biªn môc trªn xuÊt b¶n phÈm
cña Th viÖn Quèc gia ViÖt Nam
Yên Ngọc Trung
Triết lý hành động Hồ Chí Minh / Yên Ngọc Trung. - H. : Chính trị Quốc gia, 2020. - 280tr. ; 21cm
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh 2. Triết lí 3. Việt Nam 335.4346 - dc23
CTK0227p-CIP
C
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
hủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân của sự thâu thái, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa của văn hóa nhân loại,
các hệ tư tưởng, trường phái triết học trên thế giới, trên nền tảng của triết lý truyền thống dân tộc để hình thành tư tưởng cứu nước, giải phóng dân tộc và triết lý phát triển đất nước. Triết lý hành động Hồ Chí Minh biểu hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, chủ yếu là qua hành động thực tiễn, bài nói, bài viết, qua phong cách, lối sống, cách đối nhân xử thế, thái độ, cử chỉ của Người. Triết lý hành động Hồ Chí Minh mang đặc điểm riêng có của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toát lên triết lý uyên bác, tinh tế, sâu sắc riêng biệt của một con người có cốt cách truyền thống mà cũng rất hiện đại, cộng sản mà vô cùng yêu nước, bình dị mà vô cùng vĩ đại.
Vận dụng triết lý hành động Hồ Chí Minh, đi theo con đường do Người lựa chọn, lãnh đạo, định hướng, trong những năm qua, công cuộc đổi mới đất nước do Đảng lãnh đạo đã đạt được những thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử, đội ngũ cán bộ, đảng viên được rèn luyện, trưởng thành, có ý thức trách nhiệm,... Tuy nhiên, bên cạnh đó, một số cán bộ, đảng viên đã xuất hiện tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, làm ảnh hưởng đến uy tín, vai trò
5
lãnh đạo của Đảng. Do đó, triết lý hành động Hồ Chí Minh có ý nghĩa quan trọng, giúp cán bộ, đảng viên phấn đấu rèn luyện bản lĩnh chính trị vững vàng, có năng lực, động cơ và trách nhiệm đúng đắn, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân.
Nhằm cung cấp tài liệu cho bạn đọc, các nhà nghiên cứu tìm hiểu những vấn đề lý luận, giá trị dân tộc và thời đại của triết lý hành động Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Triết lý hành động Hồ Chí Minh của TS. Yên Ngọc Trung - Giảng viên Học viện Chính trị khu vực I.
Cuốn sách gồm 3 chương:
Chương I: Khái niệm, cơ sở hình thành, bản chất triết lý hành động Hồ Chí Minh.
Chương II: Nội dung cơ bản của triết lý hành động Hồ Chí Minh. Chương III: Giá trị dân tộc và thời đại của triết lý hành động Hồ Chí Minh.
Mặc dù đã cố gắng trong quá trình biên tập, xuất bản, song đây là đề tài nghiên cứu mới, do vậy nội dung cuốn sách khó tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để nội dung cuốn sách được hoàn thiện hơn trong lần xuất bản sau.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 01 năm 2020
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
6
T
LỜI NÓI ĐẦU
ư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản
của cách mạng Việt Nam. Nghiên cứu, vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ góp phần lý giải những vấn đề của thực tiễn đặt ra, đồng thời còn cung cấp cơ sở lý luận cho công cuộc đổi mới, phát triển đất nước. Tuy nhiên, ở góc độ Hồ Chí Minh học, nghiên cứu về triết lý Hồ Chí Minh còn chưa nhiều, mới chỉ dừng lại ở
việc nghiên cứu về triết lý phát triển Hồ Chí Minh. Vấn đề đặt ra là, phải chăng khi nghiên cứu về triết lý phát triển Hồ Chí Minh, các nhà khoa học nhận thấy lôgích phát triển của triết lý có một sợi chỉ đỏ xuyên suốt nội dung nghiên cứu? Sợi chỉ đó là tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, một nội dung xuyên suốt các vấn đề của cách mạng, của yêu cầu giải phóng và phát triển ở Việt Nam. Còn các triết lý khác của Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa có sự liên kết thành hệ thống? Có phải chăng các triết lý của Chủ tịch Hồ Chí Minh không có một mẫu số chung? Và như vậy, nghiên cứu các triết lý của Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có thể
7
làm rõ từng triết lý với những nội dung khác nhau, và mỗi triết lý chỉ có thể vận dụng vào một vấn đề cụ thể. Có khi nào, ở một người có tư tưởng và hành động thủy chung như nhất, với nhiều triết lý sâu sắc mà các triết lý lại rời rạc, không có sợi dây liên kết, không nằm trong một lôgích, sự thống nhất nào đó? Quả thật là có khó khăn, phức tạp hơn khi đi tìm một mẫu số chung cho tất cả những triết lý tưởng như rời rạc này. Nhưng không phải là không thể, bởi điều mà bất kỳ ai nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng thừa nhận: tư tưởng, phương pháp cũng như phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh thấm sâu trong từng hành động, việc làm của Người. Tất cả mọi hành động, việc làm của Người đều hướng tới một mục đích là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người.
Bằng hành động thực tiễn, trải qua rất nhiều gian khổ hy sinh, vô cùng cao thượng, trong sáng và đẹp đẽ, triết lý hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hình thành từ rất sớm, trở thành chủ đề nhất quán xuyên suốt đến tận cuối đời. Cùng với tư tưởng, đạo đức, phong cách, phương pháp cách mạng, triết lý hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thực hiện trên thực tế, đem lại những thắng lợi vĩ đại cho cách mạng Việt Nam. Những thắng lợi đó đưa nhân dân một nước nghèo nàn, lạc hậu, bị thực dân, đế quốc đô hộ trở thành người làm chủ, được tự do, hạnh phúc, đất nước độc lập, hòa bình.
8
Triết lý hành động Hồ Chí Minh được hình thành do nhu cầu lựa chọn con đường để giải phóng dân tộc. Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Triết lý hành động Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: độc lập dân tộc là thiêng liêng, bất khả xâm phạm và tự do, hạnh phúc cho nhân dân là mục tiêu của mọi hành động. Triết lý về mục tiêu hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nguyên giá trị, góp phần định hướng hành động cho Đảng, Nhân dân ta trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước hiện nay.
Nghiên cứu triết lý hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh để tìm ra câu trả lời cho những vấn đề đang đặt ra, tìm ra sợi dây liên kết cho những triết lý của Người là một việc làm có ý nghĩa, đặc biệt trong việc xác định một triết lý hành động chung cho đất nước trước những biến chuyển nhanh chóng của tình hình thế giới. Xác định một triết lý hành động trong xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên góp phần hình thành nên một đội ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có tài, có tâm.
Qua lăng kính chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ chọn lọc được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây mà còn nhận thấy và phát triển các động lực cho hành động cách mạng. Triết lý về sức mạnh của quần chúng, vai trò của quần chúng nhân dân được quán triệt trong hành động.
9
Dân là điểm mấu chốt, cốt lõi của mọi hành động, điều đó tạo nên sự nhất quán giữa lời nói và việc làm, giữa tư tưởng và hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh: tất cả đều hướng đến dân, vì quyền lợi của dân, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Tinh thần yêu nước của nhân dân được Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định như các thứ của quý. Bằng hành động cụ thể, thiết thực, Người đã khơi dậy và phát huy các thứ của quý đó để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. Lòng yêu nước được phát huy bằng thi đua, cùng tinh thần đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết dân tộc và quốc tế, tạo ra động lực hành động mạnh mẽ quyết định cho những thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Triết lý về động lực hành động thể hiện trong triết lý hành động Hồ Chí Minh có cơ sở lý luận khoa học, được những thắng lợi về nhiều mặt trong thực tiễn khẳng định.
Triết lý về phương pháp hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện trong sự nghiệp cách mạng phong phú và cao cả của Người. Triết lý “Dĩ bất biến ứng vạn biến” là phương pháp chỉ đạo hành động của Hồ Chí Minh. Quán triệt triết lý này trong hành động bảo đảm kiên định mục tiêu độc lập của dân tộc, tự do, hạnh phúc của nhân dân, đồng thời thể hiện tính linh hoạt, sáng tạo trong phương pháp hành động cụ thể nhằm đạt được các mục tiêu mà cách mạng đặt ra.
Trước thực trạng suy thoái về tư tưởng, đạo đức, nói không đi đôi với làm, nói một đằng, làm một nẻo,... của
10
một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay, các triết lý về phương pháp hành động miệng nói tay làm, đảng viên đi trước, làng nước theo sau, đảng viên là đầu tàu gương mẫu trong triết lý hành động Hồ Chí Minh càng khẳng định giá trị sâu sắc, cần được vận dụng, thực hành phát triển, trở thành các tiêu chí quan trọng trong đánh giá phẩm chất đạo đức, tư tưởng của cán bộ, đảng viên.
Với những kết quả đạt được trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, triết lý hành động Hồ Chí Minh đã góp phần bổ sung triết lý hành động có trong chủ nghĩa Mác - Lênin, phát triển triết lý hành động của dân tộc lên tầm cao mới. Triết lý hành động Hồ Chí Minh đã và đang định hướng cho hành động của Đảng trong quá trình xây dựng chủ trương, hoạch định chính sách; góp phần định hướng chuẩn mực hành động cho cán bộ, đảng viên; đồng thời cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng thế giới. Thực hiện triết lý hành động của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho thấy tấm gương của người chiến sĩ cộng sản trong sáng, thủy chung, đồng thời khẳng định triết lý hành động nhân văn của dân tộc Việt Nam.
Với ý nghĩa khoa học và thực tiễn, tác giả mong muốn góp phần nghiên cứu, làm sáng rõ những nội dung trong triết lý hành động Hồ Chí Minh cũng như sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay. Đây là một đề tài hấp dẫn, nhưng cũng rất khó trong việc
11
tìm ra những điểm mới, sáng tạo; trong cách tiếp cận vấn đề, cách nhìn nhận và đánh giá vấn đề, do vậy cuốn sách khó tránh khỏi hạn chế, thiếu sót. Tác giả mong muốn nhận được sự góp ý của các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu và đông đảo bạn đọc để cuốn sách được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn.
Hà Nội, tháng 12 năm 2019 TÁC GIẢ
12
Chương 1
KHÁI NIỆM, CƠ SỞ HÌNH THÀNH, BẢN CHẤT TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH
I- MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1. Khái niệm “triết học” , “triết lý”
“Triết học” là thuật ngữ có gốc xuất phát từ tiếng Hy Lạp, chữ “Philosophia” có nghĩa là “yêu mến sự thông thái, anh minh”. Theo truyền thuyết, Pythagoras là người đầu tiên sử dụng khái niệm “triết học”, nhưng ở thời kỳ này các nhà triết học không gọi học thuyết của mình là triết học mà gọi là sử học. Đến thế kỷ IV trước Công nguyên, các học trò của Socrates mới sử dụng danh từ “triết học”. Trong quá trình phát triển của khoa học triết học, ở phương Tây và phương Đông, triết học được dùng với nghĩa phổ biến là môn khoa học nghiên cứu những vấn đề chung nhất của tự nhiên, xã hội và con người, mối quan hệ của con người nói chung, của tư duy con người nói riêng với thế giới xung quanh. Triết học trang bị thế giới quan và phương pháp luận cho các khoa học khác.
13
Về hình thức, “triết học” là một dạng đặc biệt của ý thức và nhận thức, được thể hiện bằng một hệ thống các nguyên lý, quan điểm có tính trừu tượng, tính khái quát cao với lôgích nội tại tương đối chặt chẽ. Nó là hệ thống tri thức về cơ sở và nguyên tắc cơ bản của mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, xã hội và đời sống tinh thần, là sự biểu thị một kiểu nhận thức duy lý đặc biệt về hệ thống những vấn đề cơ bản của tồn tại người.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, “Triết học một trong những hình thái ý thức xã hội, hệ thống các quan điểm chung nhất của con người về thế giới và sự nhận thức thế giới ấy”1.
“Triết lý” sinh ra trong tư tưởng, trong sự suy ngẫm, đúc kết, tổng kết những điều cơ bản nhất về các mối quan hệ trong đời sống của cộng đồng xã hội. Do đó, nghiên cứu về triết học hay triết lý xét đến cùng là nghiên cứu về tư tưởng. Điểm khác biệt có chăng là ở phương cách tiếp cận, nhu cầu tìm hiểu vấn đề, cách thức biểu hiện của vấn đề và của chủ thể sản sinh ra nó.
Triết lý là một khái niệm được bàn luận nhiều trong các công trình nghiên cứu liên quan đến nhân sinh và xã hội. Nhưng cho đến nay, chưa có một công trình chuyên biệt nào nghiên cứu về khái niệm triết lý, từ góc
_______________
1. Xem Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam: Từ điển bách khoa Việt Nam, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2005, t.4.
14
độ là đối tượng nghiên cứu riêng biệt. Khái niệm triết lý chỉ được luận bàn trong mối quan hệ với triết học, minh triết, hoặc có thể được nhắc đến trong các nghiên cứu liên quan đến một số triết lý cụ thể như: triết lý phát triển, triết lý giáo dục, triết lý nhân sinh,...
Nghiên cứu khái niệm triết lý, có thể kể đến tiểu luận bàn về Những dị biệt giữa hai nền triết lý Đông Tây của tác giả Kim Định, trong tiểu luận này, tác giả đã so sánh ba khái niệm triết lý, minh triết và triết học. Từ nghiên cứu, so sánh, ông đưa ra những kiến giải cho rằng, triết lý và minh triết giống nhau ở đối tượng phản ánh, cả hai lấy cứu cánh con người làm trọng tâm suy nghĩ, lấy sự thực hiện đến rốt ráo cái tính bản nhiên của con người làm mục tiêu. Triết lý và minh triết khác nhau ở phương pháp, minh triết nhìn thẳng trực nghiệm không đưa ra lý sự biện chứng, bàn giải như triết lý. Và kết luận, xét về nội tại triết lý thấp hơn minh triết, nhưng lại có giá trị hơn minh triết ở chỗ nó gần với quảng đại quần chúng nhân dân, phần nào giúp quần chúng nhân dân hiểu được minh triết.
So sánh triết lý và triết học, tác giả Kim Định đi đến kết luận, triết học khác triết lý ở ba điểm: Thứ nhất, triết học không lấy con người mà lấy thiên nhiên, sự vật làm trung tâm suy tư. Thứ hai, triết học theo lối khoa học phê phán và phân tích, cố gắng tìm ra những ý niệm độc đáo và tích lũy sự kiện để kết thành những
15
hệ thống mạch lạc chặt chẽ. Về mục tiêu, triết học lấy tri thức làm cùng đích, vì thế nó không nhằm thực hiện vào bản thân như triết lý mà nhằm tìm biết sự khách quan. Thứ ba, phương Đông thiên về minh triết và triết lý còn phương Tây thiên về triết học1.
Trong Từ điển Tiếng Việt, khái niệm “triết lý” được hiểu theo ba nghĩa: là “lý luận triết học”, “quan niệm chung của con người về những vấn đề nhân sinh và xã hội”, “thuyết lý về những vấn đề nhân sinh và xã hội”. Trong Từ điển từ và ngữ Việt Nam định nghĩa “triết lý” theo kiểu chiết tự: “triết” là sự sáng suốt, “lý” là lẽ, lý lẽ, ví dụ, lý luận về triết học. Như vậy, có thể hiểu “triết lý” là lý lẽ sáng suốt phù hợp với quy luật của tự nhiên, xã hội.
Trong Đại từ điển Tiếng Việt, “triết lý” cũng được coi là “lý luận triết học” và còn được hiểu là “quan niệm chung và sâu sắc nhất của con người về những vấn đề nhân sinh và xã hội”2,... Các cách định nghĩa này đúng về một khía cạnh nào đó của triết lý nhưng vẫn không làm thỏa mãn những đòi hỏi cần lý giải của các nhà nghiên cứu. Vì vậy, khi nghiên cứu về triết lý còn có
_______________
1. Xem Kim Định: Những dị biệt giữa hai nền triết lý Đông Tây, 1960 (http://www.vietnamvanhien.net/nhungdibietgiuahainentrietlydongtay.pdf). 2. Nguyễn Như Ý (Chủ biên): Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1999.
16
nhiều cách hiểu, cách lý giải không giống nhau ở các nhà khoa học.
Trong các công trình nghiên cứu có liên quan đến triết lý, các nhà khoa học có những cách lý giải khá phong phú xoay quanh khái niệm “triết lý”. Giáo sư Trần Văn Giàu cho rằng, triết học và triết lý không giống nhau, “triết học chủ yếu là lý luận về nhận thức... Còn triết lý chủ yếu hướng về đạo lý; hướng về đạo lý, chứ không chỉ là đạo lý”1. Triết lý chủ yếu đặt vấn đề tốt hay xấu, nên hay không nên chứ không đặt vấn đề đúng hay sai, phải hay không phải.
Giáo sư Vũ Khiêu cho rằng, “Triết lý là triết học khiêm tốn nói về mình. Triết lý không thể hiện tầm khái quát vũ trụ quan và nhân sinh quan mà thể hiện ý nghĩ và hành vi có ý nghĩa chỉ đạo cuộc sống con người”.
Như vậy, triết lý cũng giống như triết học, đều đề cập những vấn đề thuộc phạm trù tư tưởng, nhưng triết lý ở mức độ khiêm tốn hơn triết học về tầm khái quát. Triết lý không thể hiện là một hệ thống như triết học nhưng chứa đựng những giá trị quan trọng, cốt lõi của tư tưởng, của đạo lý làm người, trực tiếp chỉ đạo cuộc sống của con người.
_______________
1. Dẫn theo Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia - Phạm Xuân Nam (Chủ biên): Triết lý phát triển ở Việt Nam: Mấy vấn đề cốt yếu, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002, tr.20-21.
17
Cũng bàn về vấn đề này, Giáo sư Hoàng Trinh cho rằng, “Triết lý là những nguyên lý đầu tiên, những ý tưởng cơ bản được dùng làm nền tảng cho sự tìm tòi và suy lý của con người về cội nguồn, bản chất và các hình thái tự nhiên, xã hội và bản thân, làm phương châm cho sự xử thế và xử sự của con người trong các hành động sống hằng ngày,... Có những dân tộc đã có những triết lý từ lâu mặc dầu chưa có triết học với hệ thống các khái niệm của nó”1.
Trong bài viết Mấy suy nghĩ về triết học và triết lý , Giáo sư Hồ Sỹ Quý cho rằng triết lý và triết học là hai khái niệm khác nhau, “nếu có thể đem so sánh với triết học thì triết lý luôn luôn ở trình độ thấp hơn về tính hệ thống, độ toàn vẹn và khả năng nhất quán trong việc giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy”2. Quan điểm trên thống nhất với quan điểm của các nhà nghiên cứu khác khi so sánh về tính hệ thống, đặc điểm hình thức của triết học và triết lý. Tuy nhiên, khi chỉ ra trong “đa số các trường hợp, triết lý thường thiếu chặt chẽ hơn, phiến diện hơn và có nhiều khả năng chứa đựng mâu thuẫn hơn so với triết học”3, thì đã cho thấy
_______________
1. Hoàng Trinh: Bản sắc dân tộc và hiện đại hóa trong văn hóa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.8.
2, 3. Hồ Sỹ Quý: “Mấy suy nghĩ về triết học và triết lý”, Tạp chí Triết học, số 3/1998, tr.57.
18
một cách đánh giá vừa có sự thống nhất, vừa có sự khác biệt với quan điểm của Giáo sư Vũ Khiêu hay Giáo sư Hoàng Trinh.
Về mặt hình thức thể hiện của triết lý, Giáo sư Hồ Sỹ Quý cho rằng “triết lý có thể và nên được hiểu là những tư tưởng, quan điểm hay quan niệm,... mang tính khái quát cao; được phản ánh một cách cô đúc dưới dạng các mệnh đề hoặc các cách phán đoán thường là trau chuốt về mặt ngữ pháp”1. Triết lý có giá trị định hướng cho hoạt động của con người trong đời sống xã hội về mặt thế giới quan, phương pháp luận hoặc nhân sinh quan. Quan điểm này hoàn toàn đồng nhất với quan điểm của các nhà khoa học khi nghiên cứu về hình thức của triết lý.
Trong cuốn sách Triết lý phát triển ở Việt Nam: Mấy vấn đề cốt yếu, trên cơ sở kế thừa quan điểm của các nhà khoa học, các tác giả chỉ ra triết lý “là kết quả của sự suy ngẫm, chiêm nghiệm và đúc kết thành những quan điểm, luận điểm, phương châm cơ bản và cốt lõi nhất về cuộc sống cũng như về những hoạt động thực tiễn rất đa dạng của con người trong xã hội”2. Đưa
_______________
1. Hồ Sỹ Quý: “Mấy suy nghĩ về triết học và triết lý”, Tlđd, tr.57.
2. Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia - Phạm Xuân Nam (Chủ biên): Triết lý phát triển ở Việt Nam: Mấy vấn đề cốt yếu, Sđd, tr.31.
19
đến một cách hiểu về triết lý như vậy, các tác giả cũng cho thấy sự phù hợp trong quá trình phát triển của triết học và triết lý. Rõ ràng, dù triết học phát triển, được phổ biến sâu rộng nhưng không làm hạn chế hay đánh mất cơ hội ra đời của triết lý, các triết lý vẫn tiếp tục được đúc kết, ra đời và phát huy giá trị của nó trong đời sống xã hội.
Trong cuốn sách Triết lý phát triển Hồ Chí Minh - giá trị lý luận và thực tiễn do Phạm Ngọc Anh chủ biên, các tác giả vừa hệ thống và bổ sung các đánh giá, vừa đưa ra nhận định về triết lý: “Triết lý là kết quả của sự kết tinh trên cơ sở những nguyên lý triết học, hay cơ sở thực tiễn của con người, được thể hiện dưới dạng những luận điểm, những mệnh đề, những tư tưởng được coi là cốt lõi nhất về cuộc sống, về con người và về xã hội, được nhiều người thừa nhận, coi đó là nguyên tắc xử thế, phương châm sống và hành động”1.
Từ những quan điểm về triết lý, cùng với những luận giải của các nhà khoa học trong các công trình nghiên cứu, chúng ta có thể hiểu: Triết lý là những quan điểm, tư tưởng được cô đúc từ sự trải nghiệm, chiêm nghiệm của con người, thể hiện dưới dạng luận điểm, mệnh đề mang tính định hướng nhằm xử lý mối
_______________
1. Phạm Ngọc Anh (Chủ biên): Triết lý phát triển Hồ Chí Minh, giá trị lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr.27-28.
20
quan hệ giữa con người với con người, con người với tự nhiên, con người với xã hội, trở thành phương châm sống và hành động trong thực tiễn của con người.
Cách hiểu triết lý như vậy thể hiện mối quan hệ giữa triết lý với triết học được xem xét là những bộ phận, những cách thể hiện khác nhau của tư tưởng. Triết học ở mức độ nào đó thể hiện nội dung tư tưởng về thế giới quan theo cách có hệ thống, lớp lang, lôgích nội tại chặt chẽ. Ngược lại triết lý thể hiện nội dung tư tưởng về nhân sinh quan ở mức độ cô đúc, khái quát sâu sắc. Cách hiểu này lý giải cho việc nghiên cứu triết lý luôn đặt trong mối quan hệ với triết học. Mối quan hệ giữa triết lý và triết học cần phải được xem như hai mặt của một vấn đề, hai hình thức thể hiện của tư tưởng.
2. Khái niệm “triết lý hành động Hồ Chí Minh”
Chủ tịch Hồ Chí Minh là điển hình của sự thâu thái, nắm bắt tư tưởng các trường phái triết học trên thế giới và hình thành cho mình tư tưởng cứu nước, giải phóng và phát triển dân tộc một cách hết sức biện chứng, hợp quy luật thời đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hành triết học trong chính quá trình lãnh đạo Nhân dân đấu tranh giải phóng và phát triển đất nước, và cũng chính trên cơ sở ấy mà Người có
21
nhiều triết lý sâu sắc định hướng, chỉ đạo phong trào cách mạng.
Triết lý của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện không chỉ có nền tảng triết lý Việt Nam, phương Đông, phương Tây mà còn có cả những tinh túy của triết học thế giới, đặc biệt là triết học Mác - Lênin. Triết lý của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện sự thâu thái tất cả những gì hữu ích cho lý tưởng đấu tranh giành độc lập, tự do, những gì phù hợp cho phát triển xã hội Việt Nam trên nền tảng cơ bản và chủ đạo là phương pháp, tinh thần chủ nghĩa Mác - Lênin. Nghiên cứu triết lý của Chủ tịch Hồ Chí Minh hay nghiên cứu tư tưởng triết học của Chủ tịch Hồ Chí Minh là những cách tiếp cận cụ thể để làm sáng tỏ giá trị di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Khi nghiên cứu về tư tưởng, phương pháp, phong cách cũng như sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các nhà khoa học đều khẳng định tư duy Hồ Chí Minh là tư duy cách mạng, đổi mới. Trong hoạt động tìm đường cứu nước và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành nhà lý luận, mặc dù Người chưa bao giờ cho mình là nhà lý luận. Bởi lý luận cách mạng được Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong hành động, bằng hành động để nói lên lý luận, tuyên truyền lý luận sâu rộng vào quần chúng cách mạng, xây dựng lực lượng cách mạng nhằm giải phóng và phát triển đất nước. Lý luận cách mạng của
22
Chủ tịch Hồ Chí Minh không có mục đích tự thân, mà lý luận cốt để vận dụng vào thực tế, làm thay đổi thực tế, đạt được cái ham muốn vì dân, vì nước của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà lý luận hành động, nhà triết học ứng dụng, triết học hành động chính từ những hoạt động của mình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nghiên cứu triết học, lý luận cổ, kim, Đông, Tây nhằm mục đích vận dụng sáng tạo sao cho phù hợp với hoàn cảnh cách mạng Việt Nam, giành độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho Nhân dân, làm cho đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Mọi hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn ăn nhập với triết học. Cả cuộc đời hoạt động cách mạng hết sức phong phú là quá trình Người thực hành các nguyên lý, quy luật nhằm cải tạo và phát triển xã hội theo tinh thần triết học Mác - Lênin. Hành động của Người mang đặc điểm triết lý truyền thống dân tộc nhưng được bổ sung, phát triển bằng triết lý hành động của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận xét: “Nếu đưa một lý luận rất đúng ra nói, rồi xếp nó lại một xó, không đưa ra thực hành, thì lý luận ấy thành lý luận suông”1. Nghiên cứu lý luận không chỉ dừng lại ở nhận thức, chiêm ngưỡng mà điều cốt yếu là phải chuyển thành
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.7, tr.127.
23
hành động. Lấy cái đích là hành động, thúc đẩy hành động, mọi kiến thức, kinh nghiệm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh thâu thái được, đúc rút ra đều được thực tiễn kiểm nghiệm, đánh giá. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Lý luận sở dĩ quan trọng là vì nó dạy ta hành động”1. Thông qua hành động, Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn lý luận với thực tiễn, thực tiễn hóa lý luận và lý luận hóa thực tiễn. Lấy kết quả của hành động trong thực tiễn là cái cuối cùng, duy nhất kiểm tra tính đúng đắn của tư tưởng, của lý luận. Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhận định: “Hồ Chủ tịch bao giờ cũng khái quát lý luận từ trong thực tiễn. Do đó, Người không chỉ vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin mà còn phát triển và làm phong phú chủ nghĩa Mác - Lênin một cách thiết thực”2.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thấm nhuần sâu sắc quan điểm lịch sử cụ thể và chú trọng hành động thực tiễn. Người luôn chủ trương hành động và bằng hành động cụ thể để cải tạo thực tiễn, nói luôn đi đôi với làm. Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng có sức thuyết phục, là người truyền lửa hành động, người đi thức tỉnh quần chúng công nông, thức tỉnh người nô
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.127.
2. Phạm Văn Đồng: Chủ tịch Hồ Chí Minh - Tinh hoa khí phách của dân tộc, lương tâm của thời đại, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1970, tr.23.
24
lệ bị áp bức, bóc lột. Làm cho quần chúng noi theo và hành động vì kết quả và tác dụng của những việc làm thiết thực mà “tấm gương sống” - Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện.
Trong hành động, Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện sự nhất quán giữa động cơ với hành động, từ việc lớn đến việc nhỏ, từ việc gần đến việc xa tất cả đều rõ ràng, cụ thể, thấu đáo với kế hoạch, chương trình, biện pháp, cách làm, bước đi hợp lý. Hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra trước mắt, những đòi hỏi bức thiết của cách mạng, mà còn trù tính cho tương lai phát triển của dân tộc. Thông qua hành động thực tiễn, Chủ tịch Hồ Chí Minh hoàn thiện lý luận, phát triển lý luận, đặt nền móng lý luận cho quá trình phát triển lâu dài của dân tộc.
Triết lý hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên mọi lĩnh vực luôn đặt vị trí của dân lên trên hết, xem lực lượng của dân là quan trọng nhất, quyết định sự tồn vong của đất nước. Dân là chủ của nước và là chủ xã hội, là chủ vận mệnh của chính mình. Từ đó, Đảng và Nhà nước trong mọi hành động phải được lòng dân, luôn yêu dân, tin dân, kính dân, đặt quyền lợi của dân lên trên hết, phải có tinh thần chí công vô tư, phải làm lợi cho dân, tránh việc có hại đối với dân.
Triết lý hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh được biểu hiện qua nhiều hình thức khác nhau, chủ yếu nhất
25
là qua những hoạt động thực tiễn, cùng các bài viết, bài nói, tác phẩm thơ ca, ký họa, qua tác phong, phong cách, lối sống, thái độ, cử chỉ, cách đối nhân xử thế của Người. Với những hình thức cụ thể của hành động đều toát lên triết lý uyên sâu, tinh tế rất riêng của một tâm hồn có cốt cách truyền thống mà hiện đại, yêu nước mà rất cộng sản, bình dị mà vô cùng vĩ đại - Hồ Chí Minh.
Triết lý hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh phát triển trên nền tảng triết lý của dân tộc, được bổ sung, hoàn thiện bằng triết lý hành động có trong chủ nghĩa Mác - Lênin. Triết lý hành động Hồ Chí Minh mang đặc điểm riêng có của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đặc thù nhưng không cá biệt.
Tóm lại, triết lý hành động Hồ Chí Minh là sự cô đúc, khái quát sâu sắc về mục tiêu, động lực, nguyên tắc, phương pháp hành động trong cuộc đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng và phát triển đất nước thể hiện dưới dạng mệnh đề có trong các bài viết, bài nói và thông qua hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Với cách hiểu khái niệm như trên, triết lý hành động Hồ Chí Minh được tiếp cận ở phạm vi rộng nhất, mang tính chỉnh thể, một đối tượng nghiên cứu độc lập và chỉ ra những nội dung cơ bản của triết lý hành động Hồ Chí Minh.
Thứ nhất, triết lý hành động Hồ Chí Minh là những mệnh đề được cô đúc, khái quát sâu sắc từ những hành động, việc làm của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện mục
26
tiêu, động lực, nguyên tắc, phương pháp hành động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thứ hai, triết lý hành động Hồ Chí Minh vì sự nghiệp giải phóng và phát triển của đất nước, sự nghiệp vĩ đại đó là duy nhất, sự thể hiện các mệnh đề, các khái quát của Chủ tịch Hồ Chí Minh xuyên suốt, thống nhất trong cả sự nghiệp, do đó có thể sắp xếp các mệnh đề triết lý thành hệ thống với những nội dung tương đối chỉnh thể để hiểu rõ hơn giá trị triết lý hành động Hồ Chí Minh.
Thứ ba, triết lý hành động Hồ Chí Minh thể hiện trong sự nghiệp cách mạng, trong thực tế dẫn dắt, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, vì thế để hiểu rõ triết lý cần khai thác toàn bộ di sản thành văn cũng như không thành văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng.
Thứ tư, nội dung triết lý thể hiện mục tiêu, động lực, nguyên tắc, phương pháp hành động Hồ Chí Minh vì thế không nằm ngoài việc thể hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, làm rõ tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ở mức độ là triết lý phản ánh cô đúc và khái quát sâu sắc giá trị tư tưởng trên những nội dung này. Từ những triết lý nhất định, có thể mở rộng nội dung để hiểu tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhưng không phải tư tưởng nào của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng được thể hiện thành triết lý. Triết lý hành động Hồ Chí Minh
27
thống nhất với tư tưởng, thuộc loại triết lý giải phóng và phát triển đất nước.
II- CƠ SỞ HÌNH THÀNH TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH
1. Cơ sở khách quan
a) Triết lý hành động trong tư tưởng, truyền thống văn hóa Việt Nam
Điều kiện ra đời, xuất hiện nền văn hóa, văn minh ở mỗi khu vực trên thế giới quyết định đến phong cách sống, lối tư duy, phương thức tổ chức xã hội của chính những con người sinh ra trên mảnh đất đó. Mỗi nền văn hóa, văn minh khác nhau yêu cầu con người phải có phương pháp hành động riêng, phù hợp với điều kiện tự nhiên, phù hợp với lối sống và cách tư duy của cộng đồng xã hội nơi đó.
Về cơ bản, cư dân Việt định cư ở lưu vực các con sông lớn, có đồng bằng rộng, phì nhiêu, điều kiện khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, thuận tiện cho cây trồng, vật nuôi phát triển. Với sự ưu đãi của thiên nhiên, đất đai phì nhiêu, canh tác thuận lợi, cư dân Việt thường sống tập trung, hình thành các xóm, làng, cộng đồng đông người để cùng nhau sản xuất, đắp đê, làm thủy lợi, chinh phục thiên nhiên. Các sản phẩm của tư duy vì thế cũng mang tính quần chúng, tập thể, còn vai trò
28
của cá nhân thường mờ nhạt. Tư duy cá nhân, vai trò của cá nhân không được đánh giá cao và thường không xuất hiện nhiều như những sản phẩm của tư duy cộng đồng, tập thể.
Trong điều kiện sinh tồn của mình, tư duy truyền thống của người Việt Nam thường thiên về thể hiện kinh nghiệm, sự chiêm nghiệm về một vấn đề cụ thể, được đúc kết lại dưới dạng ca dao, tục ngữ, châm ngôn,... mang tính sản phẩm tập thể, có tác dụng định hướng hành động của con người, nổi trội là các vấn đề về đạo đức, nhân sinh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp nhận và ảnh hưởng từ truyền thống tư tưởng, triết lý, văn hóa của dân tộc đến việc hình thành những triết lý của mình trên cả hai chiều cạnh. Một là, ảnh hưởng từ những yếu tố tự nhiên, xã hội tác động đến hình thành lối sống, cách tư duy, phương thức tổ chức xã hội của người Việt có từ ngàn đời, ảnh hưởng này ẩn sâu trong tiềm thức của cộng đồng, của con người nhưng vẫn biểu hiện ra ngoài qua các hành động, ứng xử của con người. Hai là, ảnh hưởng có tính trực tiếp từ những triết lý, triết lý hành động có trong truyền thống tư tưởng - văn hóa Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh được lĩnh hội thông qua các quan điểm, luận điểm, mệnh đề về triết lý sống cũng như hành động của cha, anh, những danh nhân văn hóa, anh hùng dân tộc và quần chúng nhân dân.
29
Và những triết lý, triết lý hành động có trong truyền thống tư tưởng - văn hóa Việt Nam tác động đến sự hình thành triết lý hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh theo hai tầng nấc cơ bản:
Thứ nhất, ảnh hưởng triết lý hành động ở tầng dân gian, là những triết lý được lưu truyền trong dân gian. Triết lý về ở đời và làm người là điều nhân lõi nhất của triết lý nhân sinh truyền thống Việt Nam đã trở thành nền tảng cho mọi quan điểm và hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Điều này thể hiện, tư tưởng - văn hóa Việt Nam, luân lý, đạo lý Việt Nam có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự hình thành triết lý hành động Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh chiêm nghiệm: “Nghĩ cho cùng, mọi vấn đề... là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức”1. Điều này hoàn toàn không xa lạ với những triết lý sống được thể hiện dưới dạng những câu tục ngữ, ca dao mà ông cha lưu truyền từ đời này sang đời khác như: “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”; “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”; “Thương người như thể thương thân”, “Thuận vợ thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn”,...
Lấy yêu nước, thương dân làm lẽ sống, trước cảnh “nước mất, nhà tan”, Nhân dân lầm than dưới sách đô
_______________
1. Hồ Chí Minh: Nhà nước và pháp luật Việt Nam, Nxb. Pháp lý, Hà Nội, 1990, tr.174.
30
hộ của thực dân Pháp, Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Trong quá trình đó, Người kiên trì học hỏi, thâu thái kiến thức, tích lũy hiểu biết, kinh nghiệm, lao động và đấu tranh không mệt mỏi để tìm đường, lựa chọn con đường và thực hiện mục tiêu đất nước được độc lập, nhân dân được tự do, hạnh phúc. Mọi hành động, từ việc nhỏ đến việc lớn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều hướng tới lợi ích của nhân dân, tận tụy, trung thành với nhân dân.
Thứ hai, ảnh hưởng từ triết lý hành động của các nhà tư tưởng lớn trong lịch sử dân tộc. Từ những triết lý về chủ nghĩa yêu nước, độc lập, tinh thần tự tôn dân tộc của cha ông như Lý Thường Kiệt với Nam quốc sơn hà, Trần Quốc Tuấn với Hịch tướng sĩ đã trở thành quyết tâm hành động thể hiện trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Lời kêu gọi chống Mỹ, cứu nước của Chủ tịch Chủ tịch Hồ Chí Minh với tinh thần: Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ; bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc; dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập; không có gì quý hơn độc lập, tự do.
31
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi được thể hiện trong Đại cáo bình Ngô với triết lý “việc nhân nghĩa cốt ở an dân”, “đánh kẻ có tội, cứu vớt dân, là thánh nhân làm việc đại nghĩa”. Những giá trị của tư tưởng này ở mức độ nhất định thể hiện sự vượt trước, mang tính định hướng cho đường lối và nguyên tắc trong việc quản lý, lãnh đạo đất nước. Tư tưởng nhân nghĩa, vì dân mà còn thể hiện ở đường lối chính trị, ngoại giao nhằm gìn giữ hòa bình, không những “mở đức hiếu sinh” khi kẻ thù thất bại mà còn cấp phương tiện, lương thực cho quân địch rút lui. Đây không chỉ là vấn đề của đạo đức mà trở thành một triết lý hành động, triết lý chính trị. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng nhân nghĩa thể hiện ở việc Người coi nhân dân là gốc của cách mạng, sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân hay trong cách Người nói chuyện, xưng hô, đối xử với hàng binh, tù binh, hay trong cách luôn nỗ lực hết sức để cứu vãn một cuộc chiến tranh nhằm tránh những hy sinh và xương máu của nhân dân.
Tư tưởng lập thế, chờ thời của Nguyễn Trãi cũng thấy trong hành động của Hồ Chí Minh. Người phân tích thời, thế để lựa chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc đúng đắn, phù hợp với thời đại, với quy luật phát triển của lịch sử loài người. Người hiểu thời thế, phân tích thời thế một cách khách quan, khoa học
32
để xác định và lựa chọn những phương pháp hành động phù hợp, đánh giá đúng vai trò, vị trí của các lực lượng tham gia vào phong trào cách mạng. Tư tưởng thời thế của Nguyễn Trãi được Hồ Chí Minh phát triển thông qua việc Người không thụ động, chờ thời mà tích cực, chủ động chuẩn bị lực lượng, xây dựng lực lượng, rèn luyện qua từng thử thách, từng cao trào cách mạng để khi thời cơ đến thì tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền, giải phóng dân tộc.
Hồ Chí Minh tiếp nhận tư tưởng duy tân, cải cách, phong trào đòi dân sinh, dân chủ, khai dân trí,… của các trí thức nho học như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, nhưng không phải là tiền đề đấu tranh giành lại độc lập mà là trong công cuộc củng cố, bảo vệ nền độc lập của đất nước khi đã giành được chính quyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc rằng dân trí, dân quyền, dân sinh là nền tảng để giữ vững nền độc lập, nhưng điều đó cũng chỉ có thể thực hiện được khi cách mạng đã giành thắng lợi, giành được chính quyền về tay nhân dân. Nếu như Phan Bội Châu quan niệm: “Người dân ta; của dân ta; Dân là dân nước, nước là nước dân”, vai trò, vị trí của nhân dân được đặt ngang hàng với nước thì Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng hiểu rất rõ: đất nước được độc lập rồi mà nhân dân vẫn chết đói, chết rét thì nền độc lập ấy cũng chẳng có nghĩa lý gì; dân chỉ hiểu rõ giá trị của độc lập, tự do khi họ có cơm ăn, áo mặc, được học hành.
33
Phan Bội Châu với tinh thần “đồng lòng”, “đồng tâm”, “đồng chí hướng”, “đồng văn”, “đồng chủng”,... để xác định “mười hạng người đồng tâm” trong xã hội. Tiếp thu quan điểm này, Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng lý luận mácxít đã mở ra những nhận thức quan trọng trong tư tưởng và hành động. Hồ Chí Minh thấy rõ vai trò của những người cùng khổ nhất trong xã hội, từ đó tập hợp họ, đoàn kết họ thành một khối thống nhất, thành lực lượng để mưu hành động giành chính quyền, giành độc lập, tự do cho nhân dân, cho đất nước.
Tóm lại, trước khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã có thời gian quan sát, phân tích về xu hướng và nguyên nhân dẫn đến thất bại của các phong trào yêu nước, đấu tranh chống thực dân Pháp. Từ thực tế đó, Người nhận thấy không thể cứu nước, giải phóng dân tộc bằng các con đường cũ, phương pháp cũ, lực lượng lãnh đạo cách mạng cũ mà phải tìm một con đường mới, một phương pháp cách mạng mới. Trên hành trình tìm đường cứu nước, Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm thấy con đường cứu nước giải phóng dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh mang trong mình chủ nghĩa yêu nước, là sản phẩm tinh thần cao quý nhất của dân tộc, thứ tình cảm thiêng liêng, thứ chuẩn mực đạo đức cao nhất để đánh giá về một con người. Lòng yêu nước hay chủ nghĩa yêu nước ở Người không phải sinh ra đã có, vốn có mà qua thực tiễn hoạt động, chứng kiến sự áp
34
bức, bóc lột, sự dã man, tàn bạo của thực dân, đế quốc, lòng yêu nước ở Người ngày càng thể hiện mạnh mẽ và sâu sắc, cùng với sự thấm nhuần lý luận cách mạng khoa học đã biến lòng yêu nước trở thành chủ nghĩa yêu nước và cách mạng. Chủ nghĩa yêu nước trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một sản phẩm của lịch sử, được hun đúc trong tiến trình cách mạng, gắn liền với hoạt động cách mạng, quá trình hình thành nhân cách Hồ Chí Minh.
b) Triết lý phương Đông và phương Tây
* Triết lý phương Đông:
Thứ nhất, những tác động từ triết lý Khổng giáo và triết lý phát triển trên nền tảng Khổng giáo ở Trung Quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, Người có am hiểu sâu sắc về những triết lý Nho giáo, triết lý về nguồn gốc, bản chất, sức mạnh của con người và về vai trò của những triết lý trong việc tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Trong lãnh đạo, giáo dục cán bộ, đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên sử dụng những phạm trù đạo đức Nho giáo như: trung, hiếu, nhân, nghĩa,... tuy nhiên, tên gọi những phạm trù đạo đức được giữ nguyên nhưng phổ nghĩa của nó được Hồ Chí Minh mở rộng, bổ sung thêm nội dung, hoặc nêu ra quan điểm thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh mới, yêu cầu mới. Bởi theo Hồ Chí Minh, quan niệm đạo đức của Khổng
35
Tử “là hoàn hảo, nhưng nó không thể dung hợp được với các trào lưu tư tưởng hiện đại, giống như một cái nắp tròn làm thế nào để có thể đậy kín được cái hộp vuông?”1. Vì thế, Người đã thay đổi nó để khai thác cho được những giá trị tích cực nhất, vận dụng vào trong giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên. Người thấy rằng đạo đức cũ, đạo đức phong kiến như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời, còn đạo đức mới, đạo đức cách mạng mà Người dày công vun đắp như “người hai chân đứng vững dưới đất, đầu ngửng lên trời”2. Chẳng hạn, chuẩn mực “ngũ thường” của Nho giáo là “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín” được Chủ tịch Hồ Chí Minh phát triển thành “Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm”. Người thường nói: Người đảng viên, người cách mạng thực hành được chí công vô tư thì ngày càng có các đức tính tốt và các tính tốt ấy gồm năm điều: Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm.
Theo Hồ Chí Minh, chữ Nhân không chỉ là tình yêu thương với Tổ quốc, đồng bào, những lao động, với các dân tộc thuộc địa bị áp bức,... nhân không chỉ là phạm trù đạo đức thuần túy, thể hiện bằng lời nói mà chủ yếu thể hiện ở việc làm, ở hành động cụ thể, thiết thực. Người thể hiện tình yêu, lòng nhân ái bằng những hành động, việc làm cụ thể, đem tài trí và sức lực lãnh đạo sự _______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.562.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.220.
36
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, vì độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho tất cả mọi người dân, người “cùng khổ” không chỉ ở Việt Nam mà trên khắp thế giới.
Nếu trong quan niệm Nho giáo, Nghĩa được hiểu một cách chung chung là lời nên nói, việc nên làm,... thì nghĩa được Chủ tịch Hồ Chí Minh khai thác ở góc độ là việc mà con người nên làm trong từng trường hợp, hoàn cảnh với các hành động cụ thể. Người nói: “NGHĨA là ngay thẳng, không có tâm tư, không làm việc bậy, không có việc gì phải giấu Đảng. Ngoài lợi ích của Đảng, không có lợi ích riêng phải lo toan. Lúc Đảng giao việc, bất kì to nhỏ, đều ra sức làm cẩn thận. Thấy việc phải thì làm, thấy việc phải thì nói. Không sợ người ta phê bình mình, mà phê bình người khác cũng luôn luôn đúng đắn”1.
Nếu như Nho giáo cho rằng, tín là lòng tin tuyệt đối vào chính đạo, vào đạo lý thánh hiền,... thì Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, tín là “không lừa dối, thưởng phạt công bình, tài chính phân minh”2, “Nói cái gì phải cho tin - nói và làm cho nhất trí - làm thế nào cho dân tin - cho bộ đội tin ở mình”3.
Ngay cả đối với đức trung và hiếu - những chuẩn mực cơ bản đạo đức Nho giáo, trong quan niệm của
_______________
1, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.292, 260.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.259.
37
Hồ Chí Minh cũng có nhiều thay đổi cho phù hợp với thời đại. Nếu như với lễ giáo đạo Nho, trung, hiếu phản ánh bổn phận, trách nhiệm của dân đối với vua, con cái đối với cha mẹ thì Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng những khái niệm này với nội dung mới phù hợp với tinh thần đạo đức cách mạng. Trung, hiếu không phải chỉ với những cá nhân cụ thể như đạo đức cũ mà được Người mở rộng ra thành “trung với nước, hiếu với dân”. Trung với nước là đòi hỏi đầu tiên, lớn nhất ở mỗi công dân; trung ở đây còn phải là trung với Đảng, “quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng”1.
Người cách mạng cần phải biết mở rộng lòng hiếu của mình đối với cha mẹ thành hiếu với nhân dân, tôn trọng nhân dân, vì nhân dân mà phục vụ. Người khẳng định: “Người kiên quyết cách mạng nhất lại là người đa tình, chí hiếu nhất. Vì sao? Nếu không làm cách mạng thì chẳng những bố mẹ mình mà hàng chục triệu bố mẹ người khác cũng bị đế quốc phong kiến giày vò. Mình không những cứu bố mẹ mình mà còn cứu bố mẹ người khác, bố mẹ của cả nước nữa. Phải hiểu chữ hiếu của cách mạng rộng rãi như vậy”2.
Không chỉ tiếp thu câu chữ đạo Nho mà Hồ Chí Minh còn tiếp thu cả tinh thần của đạo. Người viết ít, chú trọng
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.603.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.99.
38
hành động để thực hiện tư tưởng, quan điểm cũng như triết lý sống. Đa số các triết gia Trung Quốc không cho tự thân tri thức là tốt, cho nên không vì tri thức mà cầu tri thức, mà những tri thức có thể làm con người tăng thêm hạnh phúc thì họ cũng muốn đem ra thực hành để con người tăng thêm hạnh phúc chứ không muốn thảo luận suông, vì thế, người Trung Quốc không xem trọng việc viết sách, lập thuyết... coi việc viết sách và lập thuyết là chuyện bất đắc dĩ1.
Mặc Tử xem “ích nước lợi dân” là tiêu chuẩn để đánh giá mọi việc. Mọi sự vật đều phải hữu dụng. Lời nói mà thực hiện được thì mới có giá trị. Sách Mặc Tử chép: “Lời nói có thực hành được thì hãy nói; không thực hành được thì đừng nói. Không thực hành được mà cứ nói hoài thì chỉ mỏi miệng thôi”2.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cả đời hành động, lời nói gắn với việc làm, lý luận gắn với thực tiễn, thiết thực vì dân, vì nước chính bởi một phần từ sự thấm nhuần sâu sắc các quan điểm này.
Trong quá trình phát triển của văn hóa Trung Quốc, quan điểm nói đi đôi với làm còn được Tôn Dật Tiên phát triển thêm nhiều ý nghĩa, giá trị mới. Triết lý Tôn Dật Tiên về tri hành hợp nhất có ảnh hưởng
_______________
1, 2. Xem Phùng Hữu Lan: Lịch sử triết học Trung Quốc, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2013, tập 1: Thời đại Tử học, tr.30, 136.
39
mạnh mẽ đến sự hình thành triết lý hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Vấn đề tri và hành là cống hiến quan trọng trong lý luận nhận thức của Tôn Dật Tiên. Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp nhận thuyết tri hành hợp nhất và thể hiện sâu sắc trong triết lý hành động của mình. Cốt lõi của thuyết tri hành hợp nhất là biết (tri) và thực hành (hành), phải thực hành rồi mới biết, chỉ qua thực hành thì cái biết mới trở nên đầy đủ. Tôn Dật Tiên cho rằng: chưa từng có tri mà không hành; tri mà chưa hành thì không phải là tri. Tri là chủ ý của hành; hành công phu của tri. Tri là khởi đầu của hành; hành là kết quả của tri. Trong quan hệ đó, tuy người ta chỉ nói một chữ tri thôi nhưng tự trong đó đã có hành; chỉ nói một chữ hành thôi nhưng tự trong đó đã có tri1.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là làm việc gì học việc ấy, việc gì cũng phải làm từ việc dễ đến việc khó, bởi thực hành sinh ra hiểu biết, hiểu biết tiến lên lý luận, lý luận lãnh đạo thực hành, về phương pháp thống nhất tư tưởng - hành động trong triết lý hành động Hồ Chí Minh, có phần cơ sở từ chính những triết lý này.
Chủ nghĩa tam dân của Tôn Dật Tiên với nội dung Dân tộc độc lập - Dân quyền tự do - Dân sinh hạnh _______________
1. Xem Phùng Hữu Lan: Lịch sử triết học Trung Quốc, Sđd, tập 2: Thời đại Kinh học, tr.664.
40
phúc là một cống hiến mang tính triết lý, ảnh hưởng không chỉ đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh mà còn với nhiều nhà cách mạng Việt Nam trước Hồ Chí Minh. Trong đó, dân tộc độc lập là vấn đề mà cả dân tộc Việt Nam đang theo đuổi, là động lực để Hồ Chí Minh bôn ba khắp năm châu bốn biển đi tìm con đường, phương pháp để thực hiện, là mục tiêu, trở thành cái bất biến trong tư tưởng và hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Các giá trị dân quyền, dân sinh là những giá trị phổ quát của nhân loại mà triết lý của người Pháp nêu ra trong khẩu hiệu Tự do - Bình đẳng - Bác ái. Đây là những giá trị mà Chủ tịch Hồ Chí Minh theo đuổi, thực hiện, từ đó hình thành nên triết lý hành động của Người. Bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc với thông điệp Độc lập - Tự do - Hạnh phúc là sự cụ thể hóa những giá trị thu nhận được và thể hiện trong triết lý hành động Hồ Chí Minh.
Thứ hai, những tác động từ triết lý của Phật giáo. Từ thuở thiếu thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh sống trong không gian văn hóa Phật giáo, được tiếp xúc tự nhiên với giáo lý Phật giáo qua những lần cùng bà ngoại đi lễ chùa, vãn cảnh chùa. Qua những chiêm nghiệm thấm đẫm triết lý Phật giáo của cụ Nguyễn Sinh Sắc trước hoàn cảnh của thân phận nô lệ dưới sách cai trị thực dân đã đặt ra cho Hồ Chí Minh những câu hỏi, những suy nghĩ về thế sự, vận nước. Quan niệm thứ nhất tu tại gia,
41
thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa hay tu đâu cho bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ mới là chân tu là kết quả của những kinh nghiệm, của sự tiếp biến triết lý Phật giáo của người Việt Nam. Bản thân cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc dù là một nhà nho nhưng có đời sống gần gũi với những người lao động, sau này Cụ cũng tích cực tham gia vào phong trào chấn hưng Phật giáo1. Điều đó có ảnh hưởng không nhỏ đến Hồ Chí Minh.
Trong gần ba thập kỷ bôn ba qua nhiều châu lục, Người đi qua nhiều nước, tiếp xúc với nhiều hạng người nhưng nhiều nhất vẫn là những người bị áp bức, bóc lột, hạng cùng đinh trong xã hội. Người lấy cái mong muốn của nhân dân làm mong muốn của mình, cái tâm của Người hòa với tâm của chúng sinh.
Trong triết lý Phật giáo Ấn Độ, triết lý “tuỳ duyên nhi bất biến” hay nói ngắn gọn là triết lý tuỳ duyên. Đức Phật dạy trong kinh tạng Nikàya đại ý rằng: Phật đến một hội chúng nào thì ứng xử theo cung cách, ngôn ngữ của hội chúng đó. Nói chuyện với bác tiều phu, đức Phật sử dụng ngôn ngữ thường nhật gần gũi với bác tiều phu, không phải vì thế mà đức Phật đánh mất mình. Bởi bản chất của việc làm đó là để phổ biến cho mọi người, mọi đối tượng trong xã hội về con đường giải thoát khỏi nỗi
_______________
1. Xem thêm: https://thuvienhoasen.org/a17455/pho-bang nguyen-sinh-sac-trong-phong-trao-chan-hung-phat-giao-tt-thich hue-thong.
42
khổ. Và như vậy, phải chăng tất cả những hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với nhân dân, với cách mạng, đất nước đều là sự hành thiền giáo lý Phật giáo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh học được đức tính thường giữ im lặng, ít nói, ít bàn đến những vấn đề không thiết thực của Đức Phật. Nếu giáo lý của Đức Phật thể hiện trong một chữ là “giải thoát” thì mọi hành động, triết lý, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ tập trung trong một chữ “Dân”, vì Dân. “Đức Phật cũng không dạy tất cả những điều ông biết, mà chỉ dạy những điều cần thiết, có lợi cho việc tu luyện đạo đức và trí tuệ để giác ngộ, giải thoát”1. Chủ tịch Hồ Chí Minh với gần ba thập kỷ bôn ba đi qua nhiều nơi trên thế giới, thông thạo nhiều ngoại ngữ, có kho kinh nghiệm và khối tri thức học vấn đồ sộ nhưng Người chỉ nhằm một mục tiêu cao nhất là giải phóng nhân dân và phát triển đất nước.
Nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh, đặc biệt là nghiên cứu về triết lý hành động Hồ Chí Minh, cần có những khái quát từ hoạt động thực tiễn của Người, bởi “Cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh là một bộ phận cấu thành học thuyết của ông. Bộ phận cấu thành chứ không phải là hiện tượng độc lập để minh họa”2. Trong
_______________
1. Doãn Chính: Lịch sử tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.274.
2. Vũ Ngọc Khánh: Minh triết Hồ Chí Minh, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1999, tr.117.
43
nghiên cứu văn bản học cũng cần có sự mở rộng liên hệ, so sánh để thấy được những giá trị văn hóa, tư tưởng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh lĩnh hội được nhưng chưa có điều kiện thể hiện rõ ràng hơn. Những gì Chủ tịch Hồ Chí Minh viết chỉ là những điều cần thiết, hữu ích, giải đáp ngay cho những vấn đề cách mạng đang đặt ra, một tình thế chính trị, một vấn đề xã hội cần giải quyết. Có nhiều vấn đề Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ nói, viết một lần duy nhất nhưng đang là vấn đề mà chúng ta phải quan tâm, giải quyết. Điều đó hẳn là từ vốn tri thức, kinh nghiệm phong phú Chủ tịch Hồ Chí Minh có được trong gần ba thập kỷ bôn ba nhưng chưa có điều kiện thể hiện.
Muốn hiểu hết được những tầng nghĩa, lớp nghĩa sâu xa của triết lý hành động Hồ Chí Minh, muốn hiểu được Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi người cần phải ra sức thực hành theo những điều Người đã chỉ bảo, thực hiện theo để đi đến hoàn thiện mình. Muốn hiểu được những triết lý của Hồ Chí Minh, có con đường nào khác con đường thực hành những điều Người đã dạy, đã tự mình làm gương. Đó cũng là con đường mà Đức Phật đã làm và dạy cho chúng sinh.
Thứ ba, những giá trị triết lý của Lão giáo. Triết lý của đạo Lão chủ yếu chứa đựng trong hai cuốn sách Đạo đức kinh và Trang Tử, nội dung cơ bản là tư tưởng sống hài hòa với tự nhiên, không quá coi trọng vật chất, không màng danh lợi, địa vị.
44
Kế thừa, phát triển tư tưởng gắn bó với thiên nhiên, hòa đồng với thiên nhiên, thoát mọi ràng buộc danh lợi của Lão Tử, quan điểm sống của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng tuyệt nhiên không ham muốn vật chất hay công danh phú quý. Người làm Chủ tịch vì đồng bào ủy thác, “như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui”1. Về phần mình chỉ mong muốn “làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi”2. Điều này được thể hiện thống nhất, xuyên suốt trong hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đặc biệt rõ khi Người gặp muôn vàn khó khăn nơi chốn lao tù, nhưng luôn vững niềm tin, niềm lạc quan yêu đời, Người rèn luyện đạt đến trạng thái tự nhiên, thanh thoát trong tâm hồn, trạng thái của một thiền sư, để có những vần thơ bất hủ, để có những tứ thơ chỉ có thể thấy trong Nhật ký trong tù. Trong những giờ phút quan trọng của cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn giữ được trạng thái tinh thần chủ động, tích cực, sẵn sàng đối phó với những tình huống khó khăn xảy ra. Khi giữ những cương vị, trách nhiệm quan trọng của Đảng và Nhà nước, Người vẫn luôn giữ nếp sống thanh bạch, giản dị, _______________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.187.
45
hòa đồng với nhân dân, với mọi người xung quanh, gần gũi thiên nhiên, hòa mình với thiên nhiên. * Triết lý phương Tây
Trong quá trình bôn ba sống và làm việc ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt Người có thời gian sống ở những trung tâm văn hóa, khoa học, chính trị, văn minh bậc nhất của thế giới phương Tây như Pari, Luân Đôn, Niu Oóc, Mátxcơva,... tiếp xúc với những nhà cách mạng, chính khách, nhà văn, nhà báo,... những con người xuất sắc của phương Tây, Chủ tịch Hồ Chí Minh học hỏi, tích lũy được vốn kinh nghiệm, tri thức thực tiễn phong phú, làm cho vốn sống, vốn hiểu biết trở nên sâu sắc về nhiều mặt. Trong gần ba thập kỷ sống và làm việc trong môi trường văn hóa phương Tây, qua tiếp xúc hằng ngày lối sống, cách tư duy, phong cách làm việc, không gian văn hóa tác động đến phong cách, triết lý sống, triết lý hành động của Người. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tranh đấu vì sự nghiệp giải phóng con người, luôn tư duy về sự vật, hiện tượng ở tận cùng ý nghĩa của nó để phân tích, so sánh, lựa chọn, kế thừa và phát triển vốn tri thức, kinh nghiệm của nhân loại. Vốn hiểu biết thực tiễn của Người thu nhận được từ phương Tây góp phần làm cho tư tưởng của Người hình thành và phát triển ngày càng sâu sắc, toàn diện. Những giá trị tốt đẹp của văn hóa phương Tây góp phần hình thành nên tư duy, phong cách, phương pháp làm việc, triết lý hành động Hồ Chí Minh.
46
Hồ Chí Minh là người ham hiểu biết, tích cực học hỏi, lấy thực tiễn làm điểm tựa và cơ sở cho sự sáng tạo. Nếu như khẩu hiệu Tự do - Bình đẳng - Bác ái thúc đẩy Người hướng sang phương Tây, đến với nước Pháp, thì chính trên đất Pháp, Người có được nhiều bài học sâu sắc. Người nhận thấy đằng sau khẩu hiệu Tự do - Bình đẳng - Bác ái đời sống nhân dân lao động Pháp vẫn cực khổ, khẩu hiệu đó chỉ dành cho một số ít người ở tầng lớp trên. Qua các tác phẩm thời kỳ Phục hưng, thế kỷ Ánh sáng, của các đại văn hào nổi tiếng như Vônte, Môngtétxkiơ, Điđơrô, J.J. Rútxô,... Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rõ hơn về những tư tưởng mới mẻ, giá trị thực sự của tư tưởng Tự do - Bình đẳng - Bác ái. Để rồi với bản lĩnh, với nền tảng văn hóa tích lũy được trước đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn tiếp nhận, và chỉ tiếp nhận những gì là hữu ích, là khoa học, tốt đẹp cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân, phát triển của đất nước.
Trong quá trình làm việc ở phương Tây, tư duy phân tích của Hồ Chí Minh được củng cố qua những bài học từ những người bạn, người đồng chí, những đảng viên Đảng Xã hội, đảng viên Đảng Cộng sản Pháp. Trong các buổi thảo luận, tham dự các buổi nói chuyện của các nhà hoạt động chính trị hay học viết báo, Người được rèn luyện và học được lối phân tích sắc sảo, cách diễn đạt, cách viết làm cho khả năng phân tích, lựa chọn ý tưởng, khả năng lập luận lôgích của Hồ Chí
47
Minh được nâng cao. Người có thể diễn đạt ý hết sức cô đọng, ngắn gọn, súc tích, cũng có thể phát triển ý tưởng và trình bày cụ thể, mạch lạc, chi tiết những khi cần thiết, phù hợp với từng đối tượng giao tiếp. Thậm chí, trong những tác phẩm kịch, truyện ngắn được viết trên đất Pháp, Hồ Chí Minh còn sử dụng lối châm biếm, ẩn dụ đúng như văn phong của người Pháp.
Tư duy lý tính đặt mọi suy nghĩ và hành động của con người trong mạch lôgích, sự kết nối giữa các sự vật, hiện tượng, sự kiện để hiểu rõ bản chất của nó. Hồ Chí Minh có được tư duy phân tích, cách lập luận sắc sảo, đanh thép một phần là những ảnh hưởng từ phương Tây. Lối tư duy đó đưa đến nhận định của Hồ Chí Minh về những giá trị tích cực, tiến bộ của cách mạng dân chủ tư sản ở phương Tây. Giá trị nhân văn của các cuộc cách mạng tư sản khi giải phóng con người khỏi sự thống trị của thần quyền và quan hệ phong kiến được ghi nhận, được đánh giá tích cực, nhưng đồng thời Người cũng phân tích và chỉ ra những hạn chế của các cuộc cách mạng đó. Người nhận định, cách mạng Mỹ tuy đã thành công hơn 150 năm “nhưng công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính cách mệnh lần thứ hai. Ấy là vì cách mệnh Mỹ là cách mệnh tư bản, mà cách mệnh tư bản là chưa phải cách mệnh đến nơi”1. Hay cách mạng Pháp cũng như
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.291-292.
48
cách mạng Mỹ, cũng là cách mạng tư bản nhưng “cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”1. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”2. Với tư duy duy lý, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt tất cả mọi việc, trong suy nghĩ cũng như trong hành động trên những quy luật khách quan để xem xét và đánh giá, từ đó hiểu rõ bản chất của vấn đề và chọn ra phương thức hành động phù hợp nhằm đạt được mục tiêu cách mạng đã định.
Triết lý sống của người phương Tây luôn lấy “con người là trung tâm” của vũ trụ, luôn tìm cách để khẳng định, đề cao vai trò cá nhân; cá nhân luôn tìm mọi cách để khẳng định mình. Khoa học kỹ thuật cũng vì thế mà phát triển hơn so với các nền văn minh khác.
Sự phát triển của khoa học - kỹ thuật làm xuất hiện một nền văn minh công nghiệp và lối sống công nghiệp ở phương Tây với đặc điểm rõ nhất là mọi hoạt động xã hội được quy định theo giờ giấc, làm việc có kế hoạch, chi tiết, cụ thể. Kế hoạch đến từng chi tiết và cụ thể đến từng thao tác trong lao động, sản xuất trở
_______________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.296, 292.
49
thành một đặc điểm của phong cách công nghiệp, trở thành nếp sống của người phương Tây. Tư duy và phong cách này ảnh hưởng rất rõ đối với Hồ Chí Minh. Trong thực tiễn cách mạng, Người làm việc gì cũng có chương trình, kế hoạch cụ thể, sắp xếp khoa học, giải quyết vấn đề trước mắt cũng như lâu dài. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi trọng thời gian, Người đã thẳng thắn góp ý khi đến dự lễ tốt nghiệp khóa V Trường Huấn luyện cán bộ Việt Nam: “Trong giấy mời tới đây nói 8 giờ bắt đầu, bây giờ 8 giờ 10 phút rồi mà nhiều người chưa đến. Cách tôi làm việc đúng giờ. Tôi khuyên anh em làm việc phải cho đúng giờ, vì thời gian quý báu lắm”1.
Một đặc điểm nổi bật của phong cách, triết lý của phương Tây có ảnh hưởng mạnh mẽ đến Hồ Chí Minh đó là tôn trọng phụ nữ, trẻ em. Văn hóa truyền thống Việt Nam, ảnh hưởng của Nho giáo nên có tư tưởng trọng nam, khinh nữ, coi thường phụ nữ, ngược với văn hóa phương Tây, đặc biệt văn hóa Pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ “Phải kính trọng phụ nữ. Chúng ta làm cách mạng là để tranh lấy bình quyền bình đẳng, trai gái đều ngang quyền như nhau”2. Người khẳng định: Phụ nữ là một nửa thế giới, chưa giải phóng được phụ nữ là chưa giải phóng được một nửa thế giới. Người luôn dành tình cảm đặc biệt, sự tiếp đón nồng hậu nhất có
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.115.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,t.15, tr.260.
50
thể cho các chiến sĩ nữ, các bạn bè quốc tế thuộc phái nữ. Người trân trọng phụ nữ và bằng nhiều cách khác nhau như thường xuyên viết thư động viên, nói chuyện với phụ nữ các địa phương, thăm hỏi, tặng quà,... đề ra các chủ trương, chính sách riêng đối với phụ nữ để động viên, khuyến khích phát triển, chăm lo cho “những phụ nữ khuyên chồng con đi tòng quân mà mình thì xung phong giúp việc vận tải, cho đến các bà mẹ chiến sĩ săn sóc yêu thương bộ đội như con đẻ của mình”1. Những người vợ, những người mẹ hăng hái sản xuất và chiến đấu, xây dựng hậu phương vững mạnh để người chồng, người cha ngoài mặt trận luôn chắc tay súng bảo vệ độc lập của Tổ quốc.
Có thể thấy những nét phương Tây trong triết lý hành động Hồ Chí Minh, đó là phong cách làm việc khoa học, có kế hoạch và biện pháp thực hiện cụ thể. Một triết lý hành động mà con người - nhân dân được đặt vào vị trí trung tâm, quyền con người - nhân dân được quan tâm và khẳng định.
Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đứng vững trên lập trường, quan điểm, nắm được tinh thần Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn lọc tinh hoa của các học thuyết tư tưởng, giáo lý, đạo lý của các bậc thánh hiền, vĩ nhân ở cả hai nền văn hóa Đông, Tây nhằm mục đích giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân, như Đại tướng Võ Nguyên _______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.38.
51
Giáp nhận xét: “Phải chăng, phương pháp tư duy, phương pháp xem xét và hành động của Người đã kết hợp tính cách nặng về lý tính và sự phân tích khoa học của tư duy phương Tây và tính cách nặng về cảm tính, trực giác, tổng hợp của tư duy phương Đông và Việt Nam”.
c) Chủ nghĩa Mác - Lênin
Chủ nghĩa Mác - Lênin đóng vai trò quyết định trong việc hình thành tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Triết học mácxít đã chỉ đạo, hướng dẫn hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hình thành triết lý hành động của Người.
Xuất phát từ nhận thức vai trò cải tạo thế giới của chủ nghĩa Mác, xây dựng một xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa, tiến bộ và công bằng, Hồ Chí Minh lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm kim chỉ nam cho hành động của mình, của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đúng với tinh thần của C. Mác, Hồ Chí Minh không đề ra một học thuyết về xây dựng xã hội mới nhưng dành cả đời hành động, cả đời làm theo triết lý của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trên cơ sở của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm thấy con đường dẫn dắt hành động cho mình, cho dân tộc. Người thực hành, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh, điều kiện Việt Nam, nhằm giành lại độc lập, tự do, lãnh đạo nhân dân xây dựng một xã hội mới tiến bộ
52
và công bằng hơn. Thông qua hành động cụ thể, quá trình vận dụng lý luận, phát triển lý luận phù hợp điều kiện thực tiễn, Hồ Chí Minh đặt nền móng cho xây dựng, phát triển đất nước.
Triết học Mác - Lênin chỉ ra tiêu chuẩn cao nhất của tính khoa học, tính đúng đắn là sự phù hợp của lý luận với các quá trình thực tế của sự phát triển lịch sử. V.I. Lênin khẳng định: “một trong những thiếu sót chính của chủ nghĩa duy vật cũ là không hiểu được những điều kiện và cũng không đánh giá được ý nghĩa của hoạt động thực tiễn cách mạng”1. Và “Chúng ta đã thực tế bắt tay vào giải quyết những nhiệm vụ mà trước kia người ta đã đặt ra một cách trừu tượng và trên lý luận”2. Nhiều đóng góp to lớn cho cách mạng Việt Nam của Người xuất phát từ những hoạt động, những hành động thực tế và thiết thực để đưa cách mạng Việt Nam vào quỹ đạo chung của phong trào cách mạng thế giới. V.I. Lênin chỉ ra rằng chủ nghĩa Mác đề ra các vấn đề “cũng chính trên cơ sở lịch sử ấy,... không phải chỉ để giải thích quá khứ, mà còn để dự kiến tương lai một cách mạnh dạn và thực hiện dự kiến ấy bằng một hành động dũng cảm”3. Thấm nhuần
_______________
1, 3. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.26, tr.91, 88.
2. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.36, tr.473.
53
triết lý ấy: “Sự cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh được cả thế giới công nhận, một phần không nhỏ là do Người đã đạt được sự thống nhất trong nhận thức về thời đại và hành động theo xu thế chung, hợp quy luật của thời đại”1.
Sự hiểu biết về thời đại, bao hàm những tri thức về các sự kiện, hiện tượng đang xảy ra, là một nhân tố quan trọng trực tiếp ảnh hưởng đến tư tưởng và hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh. V.I. Lênin chỉ ra: “Chỉ có dựa trên cơ sở hiểu biết những đặc điểm cơ bản của một thời đại, chúng ta mới có thể tính đến những đặc điểm chi tiết của nước này nước nọ”2. Thấm nhuần điều đó, Hồ Chí Minh khẳng định: “Lý luận cách mạng không phải là giáo điều, nó là kim chỉ nam cho hành động cách mạng; và lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính chất sáng tạo; lý luận luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động”3.
Nhận thức về sự tác động của hoàn cảnh khách quan đối với con người, Hồ Chí Minh nhận thấy cần phải phán xét con người không chỉ theo tuyên ngôn, lời
_______________
1. Phan Ngọc Liên: Hồ Chí Minh từ nhận thức lịch sử đến hành động cách mạng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr.62. 2. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.26, tr.174.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.95.
54
nói mà phải theo hành động, việc làm. Chỉ có hành động mới nói lên được chân thực nhất, là minh chứng cho lời nói của con người. Khi đánh giá về một con người không chỉ căn cứ vào người đó nói và viết như thế nào mà chủ yếu là xem người đó làm như thế nào. Và cũng không chỉ đánh giá con người trong một việc, xem xét trong một mối quan hệ mà cần đánh giá trong nhiều việc với nhiều mối quan hệ đan xen cả trong hiện tại, cũng như trong quá khứ.
Suốt cuộc đời, trong nhận thức cũng như trong hành động, Hồ Chí Minh luôn quán triệt nguyên tắc lý luận gắn liền với thực tiễn, lý luận liên hệ với thực tiễn, nói đi đôi với làm và thường xuyên tổng kết rút kinh nghiệm từ thực tiễn để bổ sung, phát triển, làm phong phú lý luận. Người cũng xem lý luận gắn liền với thực tiễn, nói đi đôi với làm là phương pháp, cách thức để đạt được thống nhất trong nhận thức, trong tư tưởng và trong hành động của Đảng, cũng như trong đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng.
Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin hướng con người đến những hành động, cụ thể và thiết thực để giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Chủ nghĩa Mác - Lênin hóa giải cho Chủ tịch Hồ Chí Minh những vấn đề đặt ra đối với cách mạng Việt Nam. Người tìm thấy ở đây những chỉ dẫn - như cuốn cẩm nang thần kỳ, để tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân lao động. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra “Lênin
55
dạy chúng ta đối với mọi việc phải xem xét kỹ lưỡng mọi mặt, không nóng nảy, hấp tấp. Song khi đã định kế hoạch hẳn hoi rồi thì phải quả quyết thực hiện cho kỳ được. Lênin dạy chúng ta giản đơn và khiêm tốn, trong sạch và chính trực”1. “Đối với nhân dân, phải yêu kính quần chúng, gần gũi quần chúng, tin tưởng lực lượng vĩ đại và đầu óc thông minh của quần chúng, học hỏi quần chúng,... Đối với kẻ địch..., thì phải kiên quyết, dũng cảm chống lại,... Đối với công việc, phải thấy trước, lo trước, tính trước”2. Những chỉ dẫn đó là cơ sở lý luận, là nền tảng quan trọng hình thành nên triết lý hành động Hồ Chí Minh.
Tóm lại, Hồ Chí Minh tiếp thu, chọn lọc triết lý nhân loại qua lăng kính lập trường, quan điểm Mác - Lênin, cùng tư duy phân tích sắc sảo của mình hình thành nên lý luận cách mạng, hình thành triết lý hành động nhằm giải phóng và phát triển đất nước. Thực hiện triết lý hành động Hồ Chí Minh là hiện thực hóa chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào cách mạng Việt Nam, mở ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc cho Nhân dân Việt Nam. Những thắng lợi của triết lý trên thực tế đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, đưa Nhân dân Việt Nam từ tăm tối tù đày, đói nghèo, lạc hậu tiến lên làm chủ, xây dựng và
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.288.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.12.
56
phát triển đất nước, từng bước sánh vai với các quốc gia giàu mạnh trên thế giới.
2. Nhân tố chủ quan
Thời đại sinh ra anh hùng và anh hùng là hiện thân của thời đại. Mỗi cá nhân đều là sản phẩm của một hoàn cảnh lịch sử, một quá trình lịch sử nhất định. Do nhân tố chủ quan nên mức độ chiếm lĩnh các giá trị xã hội, làm chủ các giá trị xã hội ở mỗi người là khác nhau. Chỉ có những người dự kiến được một tương lai mà lịch sử sẽ trải qua, tìm được phương pháp để vượt qua những thử thách của lịch sử, mới làm nên lịch sử, trở thành anh hùng của thời đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ nhận thức đúng hiện thực, quy luật khách quan, lựa chọn được con đường cứu nước, giải phóng dân tộc mà còn có được triết lý hành động để thay đổi hoàn cảnh khách quan. Trên cơ sở triết lý ấy mà lựa chọn hình thức, biện pháp phù hợp, từng bước vận dụng lý luận cách mạng, lý luận mácxít vào thực tiễn Việt Nam.
Là vĩ nhân, anh hùng giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện những phẩm chất cá nhân đặc biệt trong suốt quá trình từ khi ra đi tìm đường cứu nước, lựa chọn con đường cứu nước, truyền bá lý luận mácxít về trong nước, thúc đẩy phong trào cách mạng, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam để lãnh đạo Nhân
57
dân đứng lên đấu tranh giành độc lập, đi đến thống nhất đất nước.
Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi quan điểm tư tưởng, mỗi hành động đều thể hiện rõ phẩm chất cá nhân đặc biệt của mình. Phẩm chất ấy làm cho hành động, quan điểm của Người vừa dễ hiểu, vừa gần gũi mộc mạc nhưng cũng cực kỳ sâu sắc, cách mạng và hiện đại.
a) Hồ Chí Minh có lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, có hoài bão cứu nước, cứu dân và luôn tin tưởng vào sức mạnh của Nhân dân
Sinh ra trong cảnh nước mất, Nhân dân chịu cảnh một cổ hai tròng của thực dân, phong kiến, Hồ Chí Minh chứng kiến ách áp bức, bóc lột, sự dã man, tàn bạo của thực dân đối với Nhân dân Việt Nam. Đồng thời, Người thấy các phong trào yêu nước, đấu tranh chống thực dân Pháp theo các khuynh hướng khác nhau của cha ông lần lượt thất bại. Câu hỏi được Người trăn trở là “phải làm gì để cứu nước, cứu dân?”. Để trả lời câu hỏi đó, Người đi sang phương Tây với mục tiêu “Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”1. Khát vọng, hoài bão giải phóng dân tộc trở
_______________
1. Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, t.1, tr.28.
58
nên cháy bỏng hơn bất cứ điều gì khác thúc đẩy Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Đặt chân đến nước Pháp, nơi sinh ra khẩu hiệu “Tự do - Bình đẳng - Bác ái”, một khẩu hiệu đồng thời là một triết lý sống đề cao giá trị làm người, giá trị nhân văn, nhân ái và quyền con người, Hồ Chí Minh mong muốn tìm ra cái thật sự đằng sau khẩu hiệu đó, tìm ra nguyên nhân để giải thích, tìm ra cách thức, con đường để giải phóng cho dân tộc Việt Nam, giải phóng con người khỏi kiếp nô lệ, được tự do, hạnh phúc thực sự. Và sự thật đằng sau khẩu hiệu đó được Hồ Chí Minh nhận ra qua một thời gian sống, học tập, hoạt động ở Pháp. Người thấy: Nhân dân Pháp cũng có nhiều người tốt, không giống với những người Pháp ở Đông Dương. Nước Pháp tuy đề ra khẩu hiệu rất hay, nhưng chỉ những người Pháp ở tầng lớp trên, có học vấn mới có được quyền này còn những người cùng khổ, những người lao động nghèo cũng bị khinh rẻ. Hơn thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy cũng không chỉ ở nước Pháp còn có sự bất công, mà là ở khắp nơi trên thế giới, kể cả ở các nước được cho là tiến bộ, văn minh khác. Tại những vùng đất mà thực dân xâm chiếm khắp châu Á, châu Phi, Mĩ Latinh, Người tận mắt thấy sự “tàn bạo không thể tưởng tượng” của bọn thực dân, lũ cướp nước. Bôn ba qua nhiều nơi, Người nhận thấy “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống
59
người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột”1. Cuộc đấu tranh của người bị bóc lột chống lại bọn đi bóc lột phải dựa trên cơ sở đoàn kết giai cấp, đại đoàn kết dân tộc, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, đồng thời phải đoàn kết dân tộc với quốc tế mới có thể mang đến tự do, bình đẳng, bác ái, ấm no trên quả đất.
Ở khắp các thuộc địa, nơi Người đi qua, hình ảnh của “con người biết mùi hun khói”, người bị chôn đến cổ và phơi nắng cho đến chết, người “phải hiến thân cho chó”, những người phải chịu trò quái ác mà một tên thực dân da trắng đi “khai hóa văn minh” nghĩ ra được; những người lao động bị áp bức, bóc lột bởi “chính sách ăn cướp và bóc lột” tàn bạo,... cho đến cảnh người dân sống trong những khu ổ chuột ngay dưới chân Nữ thần Tự do hay bên trong Pari hoa lệ đã luôn nhắc Người về nỗi khổ đau của đồng bào nơi quê nhà.
Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh được soi sáng bởi quan điểm, lập trường khoa học cách mạng. Người tìm thấy con đường để thực hiện lý tưởng cứu nước, cứu dân của mình - một con đường luôn xem cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng và vì quần chúng. Cùng với những kiến thức lịch sử tích
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.287.
60
lũy được từ khi còn ở trong nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luận giải về sức mạnh vô địch của quần chúng nhân dân trong đấu tranh cách mạng, đồng thời Người nghiên cứu sức mạnh của quần chúng nhân dân trong các cuộc cách mạng ở phương Tây. Càng chứng kiến, càng nghiên cứu, Chủ tịch Hồ Chí Minh càng hiểu rõ về vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân, về sức mạnh của quần chúng nhân dân trong đấu tranh cách mạng. Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh thực hành triệt để mọi cách thức, phương pháp nhằm phát huy vai trò quần chúng nhân dân, để quần chúng nhân dân ý thức về vị trí của mình trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do. Kết hợp giá trị dân tộc với giá trị thời đại, triết lý dân tộc với triết lý Mác, Lênin Người chỉ ra: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người chung giai cấp phải thương nhau cùng!”1.
Thấm nhuần triết lý hành động Mác - Lênin, Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến quyền, lợi ích của số đông quần chúng, những người lao động. Người thấy rõ sự bất công giữa quyền và lợi ích của số đông người lao động với số ít bọn đi bóc lột. Lòng thương yêu con người khiến Hồ Chí Minh “không chỉ đấu tranh cho một lá cờ, cho một sự giải phóng ở bề mặt bên ngoài,
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.192.
61
Người muốn tiến hành một cuộc chiến đấu cho phẩm giá con người, cho sự giải phóng và phúc lợi toàn dân”1. Hồ Chí Minh hướng đến việc làm cho con người tự đứng lên giải phóng bằng chính sự phát triển và hoàn thiện của mình. Quần chúng đứng lên tự giải phóng bằng chính sức mạnh của họ, vươn lên hoàn thiện mình qua đấu tranh, học tập và lao động là chiều sâu triết lý hành động Hồ Chí Minh, mục tiêu hành động Hồ Chí Minh.
Trong chủ trương và hành động, Chủ tịch Hồ Chí Minh không ngừng giáo dục quần chúng, lãnh đạo quần chúng, đưa quần chúng nhân dân đến với con đường cách mạng, con đường của độc lập, tự do, hạnh phúc. Nhưng không phải là giáo dục một cách khó hiểu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh học hỏi từ quần chúng, lắng nghe ý kiến quần chúng, sẵn sàng tiếp thu phê bình của quần chúng; nói tiếng nói của quần chúng để giáo dục, lãnh đạo quần chúng. Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh trong hành động luôn mực thước, nêu gương để quần chúng tin cậy, làm theo và để xứng đáng với sự tin cậy của quần chúng. Phong cách, hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với quần chúng không đứng trên quần _______________
1. Chương trình KX.02 “Tư tưởng Hồ Chí Minh”, Đề tài KX.02.09: “Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay (Qua sách báo nước ngoài)”, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Viện Thông tin khoa học xã hội - Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội, 1993, tr.112.
62
chúng mà luôn đứng trong quần chúng, đứng cùng quần chúng, tôn cao vị thế, vai trò của quần chúng, hướng quần chúng đến tự giải phóng.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, những khó khăn, thách thức còn nhiều, đế quốc, thực dân vẫn xem Việt Nam là miếng mồi béo bở, có vị trí địa chính trị quan trọng trong âm mưu thống trị thế giới của chúng. Đất nước giành được độc lập trong thời gian ngắn ngủi, lại phải đối mặt với hai cuộc chiến tranh do thực dân, đế quốc gây ra với vô vàn khó khăn thách thức đối với sự nghiệp cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các hoạt động ngoại giao cấp nhà nước, cũng như trong việc thiết lập mối quan hệ hữu nghị vô sản giữa cá nhân các lãnh tụ cách mạng, Người luôn tìm kiếm sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè, đồng chí, của những con người, dân tộc yêu chuộng hòa bình, ủng hộ hòa bình về cả vật chất và tinh thần cho cuộc đấu tranh cứu nước của Nhân dân Việt Nam. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, lựa chọn hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng thể hiện tấm lòng yêu nước, thương dân, hoài bão, lý tưởng cứu nước, cứu dân của mình.
Đất nước giành được độc lập, triết lý chỉ đạo hành động đổi mới, phát triển của Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà
63
dân được ăn no, mặc đủ”1. “Dân dĩ thực vi thiên” dân lấy ăn làm trời, nếu không có ăn là không có trời. Người chỉ ra loài người ai cũng “dĩ thực vi tiên”, “Có thực mới vực được đạo” không có ăn thì chẳng làm được việc gì cả, dân “bụng no thì lo học”. Vì thế, “hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân” là vấn đề được quan tâm nhất, xuyên suốt trong quá trình đổi mới và phát triển đất nước.
Giáo dục, giác ngộ Nhân dân đứng lên làm cách mạng, tổ chức lại đời sống cho Nhân dân trở thành vấn đề trung tâm trong mục tiêu hành động Hồ Chí Minh. Lời Người căn dặn trước lúc đi xa: “Công việc đầu tiên là công việc đối với con người” chính là sự tổng kết, là đúc rút từ sự nghiệp cách mạng của Người. Lời căn dặn đó đã và đang là kim chỉ nam cho hành động của Đảng và Nhân dân ta trong sự nghiệp đổi mới, hội nhập và phát triển của đất nước.
b) Hồ Chí Minh có trí tuệ siêu việt, tư duy phân tích sắc sảo, độc lập, sáng tạo, tiếp thu nhanh nhạy cái mới, tích cực cải tạo cái cũ
Từ thực tiễn các phong trào cách mạng ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm có nhận định về xu hướng phát triển của các
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.175.
64
khuynh hướng cứu nước, giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của các lực lượng cách mạng cũ. Khi phong trào Đông du sôi nổi nhất, Người từ chối không sang Nhật như một số thanh niên Việt Nam yêu nước khác. Bởi theo Người, dựa vào Nhật để đánh Pháp, chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước rước beo cửa sau”, điều đó rất nguy hiểm. Với trí tuệ siêu việt, sự phân tích sắc sảo, nhạy bén chính trị, Hồ Chí Minh nhận thấy không thể cứu nước bằng con đường theo ý thức hệ phong kiến, tư sản mà phải tìm một con đường khác. Người quyết định lựa chọn cho mình một hướng đi khác, tìm con đường đúng với quy luật phát triển, thuận với lòng dân, hợp với thời đại nhằm giải phóng và phát triển đất nước.
Đi sang phương Tây, Hồ Chí Minh nhận rõ bộ mặt thật ẩn giấu đằng sau khẩu hiệu “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” của giai cấp tư sản, nhưng không vì thế mà Người không tìm hiểu tư tưởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Người tìm đọc các tác phẩm của Vônte, Môngtétxkiơ, Điđơrô, J.J. Rútxô,...; nghiên cứu Cách mạng tư sản Pháp năm 1789, cũng như những nội dung thể hiện trong Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền, Người lựa chọn, tiếp thu các giá trị tích cực, hữu ích, nhân văn, bổ sung và phát triển hoàn chỉnh cho nhận thức của mình, biến thành tư tưởng, thành hành động trong sự nghiệp giải phóng và phát triển dân tộc.
Chỉ trên cơ sở sự hiểu biết về thời đại, bao hàm những tri thức về các sự kiện, hiện tượng đã và đang
65
xảy ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh mới có thể đánh giá và lựa chọn được cho mình, cho dân tộc mình một con đường, một phương hướng đúng đắn để giải phóng, đổi mới và phát triển. Hồ Chí Minh vận dụng lý luận cách mạng của Mác và Lênin không giáo điều, cứng nhắc, mà cso sự sáng tạo, phát triển. Lấy tinh thần, phương pháp Mác - Lênin làm kim chỉ nam cho hành động trong thực tiễn, Người thường xuyên tổng kết rút kinh nghiệm để bổ sung, làm phong phú lý luận cách mạng trong thời đại mới. Đây là vấn đề mang ý nghĩa quyết định cho những thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Với tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, điều quan trọng nhất ở Chủ tịch Hồ Chí Minh là trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin ở chỗ Người nắm vững lập trường, quan điểm, phương pháp, tinh thần Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin đối với Người không phải là kinh thánh mà là kim chỉ nam hành động. Người thấy rõ các yếu tố tích cực trong các học thuyết tư tưởng, sử dụng nó, bổ sung làm phong phú lý luận Mác - Lênin. Cũng từ sự phân tích sắc sảo, nhanh nhạy tiếp thu cái mới, cải tạo cái cũ mà những điểm hạn chế của các học thuyết tư tưởng được nhận thức rõ. Những nhận thức đó tác động mạnh mẽ đến tư tưởng và hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thực tiễn cách mạng. Nếu hạn chế lớn nhất của tư tưởng Nho giáo coi thường lao động chân tay, khinh miệt phụ nữ,... thì trên cơ sở quan điểm Mác - Lênin và sự bổ sung từ các
66
học thuyết tư tưởng tiến bộ khác, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng hành động trong thực tiễn, nói đi đôi với làm và Người cũng luôn giành những tình cảm trân quý đối với phụ nữ. Người chỉ ra, “Nói phụ nữ là nói phân nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người”1. Không chỉ lĩnh hội được các giá trị tiến bộ, những điều tốt đẹp đúng đắn, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhận thức rõ những học thuyết bịp bợm, hay những quan điểm tư tưởng “đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời”, rút ra bài học từ thất bại của những cuộc “cách mệnh không đến nơi” để hành động cho đúng đắn, đến nơi và giành thắng lợi cho sự nghiệp giải phóng đất nước.
Trong ba thập niên đầu thế kỷ XX, hàng loạt các Đảng Cộng sản được thành lập ở khu vực châu Á như: Đảng Cộng sản Inđônêxia (1920), Đảng Cộng sản Trung Quốc (1921), Đảng Cộng sản Nhật Bản (1922), Đảng Cộng sản Triều Tiên (1925), Đảng Cộng sản Ấn Độ (1928),... cho thấy con đường cách mạng vô sản đã trở thành xu hướng của thời đại, khẳng định sự lựa chọn đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về con đường cách mạng giải phóng dân tộc.
Quán triệt nguyên tắc lý luận gắn liền với thực tiễn, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định: “lý luận cách mạng không phải là giáo điều, nó là kim chỉ nam cho _______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.300.
67
hành động cách mạng; và lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính chất sáng tạo, lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động”1. Và điều này được minh chứng rõ ràng nhất thông qua quá trình hoạt động, chuẩn bị các điều kiện cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
V.I. Lênin khẳng định: “Tất cả các nước đều đã trải qua một thời kỳ trong đó phong trào công nhân và chủ nghĩa xã hội tách rời nhau, mỗi bên đi theo một ngả, và trong tất cả các nước, sự tách rời này đã làm suy yếu chủ nghĩa xã hội và phong trào công nhân; trong tất cả các nước, chỉ có sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội với phong trào công nhân mới xây dựng được một cơ sở vững chắc cho cả hai. Nhưng trong mỗi nước, sự kết hợp ấy lại là một sản phẩm của lịch sử, lại được thực hiện bằng những con đường đặc biệt, tùy theo điều kiện không gian và thời gian”2. Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, sự kết hợp này tạo sự vững chắc cho cả ba, đặc biệt cho phong trào yêu nước. Vì chủ nghĩa Mác - Lênin là vũ khí của giai cấp công nhân, qua sự kết hợp của Chủ tịch Hồ Chí Minh nó trở thành vũ khí của cả dân tộc.
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.95.
2. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.470-471.
68
Nếu không được chủ nghĩa Mác - Lênin soi sáng thì phong trào yêu nước vẫn còn trong bế tắc. Ngược lại thiếu phong trào yêu nước thì chủ nghĩa Mác - Lênin sẽ thiếu một mảng rất lớn về nhận thức và lực lượng. Bằng sự kết hợp này Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa chủ nghĩa yêu nước phát triển lên một tầm cao mới.
Tiếp thu, vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện thực tiễn Việt Nam, Hồ Chí Minh tập hợp lực lượng cách mạng, tổ chức các lớp huấn luyện cho thanh niên Việt Nam yêu nước, giác ngộ họ thấm nhuần lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học, lý luận về vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Để sau khi huấn luyện, họ được đưa về nước, đi sâu trong phong trào công nhân, hướng dẫn, tổ chức phong trào, làm cho tư tưởng cách mạng tiến bộ được phổ biến rộng rãi ở Việt Nam, tạo điều kiện cần thiết, đầy đủ cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự ra đời của Đảng thể hiện rõ nhất tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Hồ Chí Minh - một tư duy có được từ trí tuệ mẫn tiệp, khả năng phân tích sâu sắc tình hình thực tiễn trên nền tảng tri thức, kinh nghiệm được trang bị qua thực tiễn và quá trình hành động phong phú, đa dạng của Người.
Sự chuẩn bị toàn diện và kỹ lưỡng về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt là những hoạt động tạo sự chuyển biến trong nhận thức về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
69
nhân Việt Nam đã đảm bảo đầy đủ điều kiện để giai cấp công nhân Việt Nam có thể lĩnh hội được chủ nghĩa Mác - Lênin, giác ngộ sâu sắc sứ mệnh giai cấp, sứ mệnh lịch sử của mình. Chỉ có thể với sự định hướng của một triết lý hành động đúng đắn khi đã xác định rõ mục tiêu, động lực, phương pháp hành động mới khiến Chủ tịch Hồ Chí Minh không nóng vội để thành lập Đảng, thay vào đó là những hành động cụ thể nhằm chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi mặt cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam khi điều kiện chín muồi. Nhờ vậy, dù ra đời muộn hơn các Đảng Cộng sản anh em nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo Nhân dân Việt Nam làm nên những thắng lợi vĩ đại, đồng thời góp phần thúc đẩy sự nghiệp cách mạng của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc trên thế giới trong thế kỷ XX.
Có thể thấy, bằng trí tuệ và tư duy phân tích sắc sảo, ý chí độc lập, tự chủ, sáng tạo, Hồ Chí Minh mới có thể vượt lên tầm trí tuệ và nhận thức cũng như xu thế đương thời để tìm thấy con đường cách mạng đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Và cũng chính trí tuệ đó, tư duy đó đưa lý tưởng cách mạng, mục tiêu cách mạng của Hồ Chí Minh vượt qua thử thách, vượt qua những tình huống hiểm nghèo để giành thắng lợi. Trí tuệ sáng suốt, tự chủ, sáng tạo trong hành động cách mạng đã biến lý tưởng, hoài bão thành hiện thực, đất nước có độc lập, tự do, Nhân dân được ấm no, hạnh phúc.
70
c) Hồ Chí Minh là con người có ý chí, nghị lực, bản lĩnh kiên cường
Ý chí, nghị lực, bản lĩnh của Hồ Chí Minh không chỉ có được qua thực tế rèn luyện, qua tích lũy tri thức, kinh nghiệm từ bản thân và kinh nghiệm thế giới mà còn xuất phát từ tấm lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, từ lòng tin mãnh liệt vào sức mạnh vô địch, khả năng vô tận của quần chúng nhân dân.
Hồ Chí Minh tiếp thu, làm chủ được khối lượng tri thức văn hóa nhân loại đồ sộ, kinh nghiệm ứng xử phong phú, nhờ đó Người luôn nắm bắt, hiểu sâu được cảm xúc, chiều sâu văn hóa của nhiều hạng người với nhiều màu da và quốc tịch, niềm tin tôn giáo khác nhau để có những hành động, ứng xử khôn khéo, hiệu quả. Khi giao tiếp với các chính khách, nhà báo, nhà ngoại giao trên khắp thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thể hiện bản lĩnh, sự tự tin, ý chí và quyết tâm hành động vì Nhân dân, vì đất nước của mình. Đôi mắt của Người luôn ngời sáng, tràn đầy tự tin, với phong thái hấp dẫn, đầy lôi cuốn. Còn khi tiếp xúc với đồng bào, với nông dân, với các cháu thiếu niên, nhi đồng,... Người lại trìu mến, thân thương, gần gũi như người trong gia đình. Còn với những người trước đó họ đã từng là kẻ thù của Nhân dân Việt Nam, nay ăn năn hối cải, Người lại đối xử bằng tấm lòng nhân hậu, ánh mắt bao dung, “đánh kẻ chạy đi, không đánh người chạy lại”. Bản lĩnh kiên cường của Hồ Chí Minh còn được thể hiện ngay cả khi
71
Người trong chốn lao tù, tay chân bị gông cùm, xiềng xích, bị mất tự do, nhưng vẫn toát lên phong thái ung dung, tự tại, niềm lạc quan, tin tưởng ở mục tiêu, con đường mình đã lựa chọn:
“Hôm nay xiềng sắt thay dây trói,
Mỗi bước leng keng tiếng ngọc rung;
Tuy bị tình nghi là gián điệp,
Mà như khanh tướng vẻ ung dung”1.
Là một chiến sĩ cách mạng, Người cũng là một thi sĩ, yêu cái đẹp của thiên nhiên cảnh vật và vượt lên trên tất cả là của một người có bản lĩnh, có nghị lực, biết chờ thời, lập thế để hành động:
“Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ;
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”2.
Hay:
“Phải nhìn cho rộng, suy cho kỹ,
Kiên quyết, không ngừng thế tấn công;
Lạc nước, hai xe đành bỏ phí,
Gặp thời, một tốt cũng thành công”3.
Trong cả khi gặp tình huống khó khăn nhất, đối diện với cả sự an nguy về tính mạng, Hồ Chí Minh vẫn luôn thể hiện triết lý sống, triết lý hành động, niềm tin mãnh liệt vào ngày mai tươi sáng của sự nghiệp cách mạng:
_______________
1, 2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.364, 327, 326.
72
“Ví không có cảnh đông tàn,
Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân;
Nghĩ mình trong bước gian truân,
Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng”1. Nắm giá trị cốt lõi, tri thức tiến bộ của nhân loại, cùng vốn kinh nghiệm văn hóa phong phú, đa dạng có được từ sự trải nghiệm rộng lớn tạo nên bản lĩnh của Hồ Chí Minh. Đồng thời, Người không ngừng học hỏi, nắm bắt những kiến thức mới; tổng kết thực tiễn, rút ra kinh nghiệm, bài học từ thực tiễn để định hướng cho hành động, bảo đảm cho hành động luôn khoa học, đúng đắn. Đó là bản lĩnh của người nắm được quy luật vận động và quy luật phát triển của lịch sử, niềm tin mãnh liệt vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, tin tưởng vững chắc vào khoa học cách mạng, tin vào lý luận, bảo vệ và phát triển lý luận.
Ý chí, nghị lực, bản lĩnh có được còn do Chủ tịch Hồ Chí Minh không tìm lợi ích cho cá nhân mà là đi tìm và tạo ra lợi ích cho Nhân dân, cho đất nước. Cho đến những phút cuối đời, Người cũng “không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”2. Tất cả vì nhân dân, vì dân tộc tạo nên ý chí, bản lĩnh, nghị lực kiên cường trong hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.326.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.615.
73
d) Khả năng tổ chức và hoạt động thực tiễn đa dạng
Những hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình tìm đường cứu nước, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước, chuẩn bị mọi điều kiện cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã cho thấy quyết tâm cao độ trong thực hiện lời nói đi đôi với việc làm, đưa lý luận vào thực tiễn phong trào, từ đó triết lý hành động Hồ Chí Minh trở nên sâu sắc hơn, phát huy giá trị trong thực tiễn.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam ghi nhận công lao to lớn và khắc sâu dấu ấn cá nhân của Hồ Chí Minh. Ngay khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành được nhiều thắng lợi, từng bước đưa Nhân dân Việt Nam từ địa vị nô lệ, bị áp bức, bóc lột trở thành người tự do, thành người chủ của đất nước, chủ vận mệnh của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh trên cương vị là Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước đã hướng dẫn, rèn luyện, xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng, của Chính phủ ngày càng lớn mạnh, đáp ứng được yêu cầu mới, nhiệm vụ mới, lãnh đạo Nhân dân đấu tranh, kháng chiến đảm bảo quyền độc lập, tự do, hướng tới thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ.
Những hoạt động thực tiễn phong phú, đa dạng là cơ sở để Chủ tịch Hồ Chí Minh tích lũy cho triết lý hành động thêm sâu sắc. Đặc biệt trong bối cảnh,
74
điều kiện của nước ta lúc bấy giờ “một ngày bằng 20 năm”1 lại càng làm cho triết lý hành động Chủ tịch Hồ Chí Minh trở nên rõ ràng, sâu sắc hơn, phát huy giá trị tức thời.
Thực tiễn là cơ sở cho sự trưởng thành mọi mặt, để rồi đến một mức độ nhất định đạt được sự nhảy vọt, thăng hoa. Ở vị trí là người đứng đầu Đảng và Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ hoạt động thực tiễn nhiều mà còn viết nhiều để hướng dẫn, rèn luyện cán bộ, để chỉ ra cách thức xây dựng đất nước, phát triển xã hội. Trải qua thực tiễn lãnh đạo, xây dựng và bảo vệ đất nước mà tư tưởng, phương pháp, phong cách, triết lý hành động Hồ Chí Minh được định hình rõ ràng và sâu sắc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh phê phán các loại nghị quyết để trong tủ kính, bởi Người cho rằng “trăm bài diễn văn tuyên truyền” không bằng một tấm gương sống. Người nhận thức rõ, lời nói chỉ có tác dụng mạnh mẽ khi nó được quán triệt trong hành động thực tế, bằng những việc làm, hành động cụ thể. Chủ thể của lời nói phải bằng những hành động, những việc làm thật sự cần mẫn và siêng năng, hiệu quả mới chứng tỏ, thuyết phục được cho người khác về lời nói của mình: “Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn _______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.288.
75
hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”1.
Người dặn: “chớ đặt những chương trình, kế hoạch mênh mông, đọc nghe sướng tai nhưng không thực hiện được. Việc gì cũng cần phải thiết thực, nói được, làm được. Việc gì cũng phải từ nhỏ dần dần đến to, từ dễ dần dần đến khó, từ thấp dần dần đến cao. Một chương trình nhỏ mà thực hành được hẳn hoi, hơn là một trăm chương trình to tát mà làm không được”2.
Xem xét mục đích và hành động trên cơ sở thực tiễn, làm từ việc nhỏ tiến dần dần đến việc to, làm từ việc dễ tiến dần dần đến việc khó là phương pháp mà Chủ tịch Hồ Chí Minh được học, được rèn luyện từ rất sớm ngay trong quá trình tìm đường cứu nước. Việc học làm báo, viết báo của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng bắt đầu từ dễ đến khó, từ viết dài đến viết ngắn, gọn, dễ hiểu. Việc chuẩn bị các điều kiện, tiền đề cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam từ lý luận dẫn đường, đến xây dựng tổ chức, hợp nhất các tổ chức, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm từng bước một, rất cẩn trọng, chu đáo, kỹ lưỡng với kế hoạch rõ ràng để ngay khi ra đời Đảng lãnh đạo và lãnh đạo thắng lợi các phong trào, cao trào cách mạng, đi đến giành độc lập tự do cho dân tộc, giải phóng cho Nhân dân. Sau khi giành độc lập, trong kế _______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.16.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.217.
76
hoạch xây dựng, phát triển đất nước, Người chỉ ra: “Việc gì cũng phải từ việc dễ đến việc khó, từ việc gấp đến việc hoãn, từ việc ít tốn tiền đến việc tốn nhiều tiền. Nói tóm lại: kế hoạch phải thiết thực, phải làm được. Chớ làm kế hoạch đẹp mặt, to tát, kể hàng triệu nhưng không thực hiện được”1.
Trong hành động, Hồ Chí Minh luôn chú trọng đến cách làm, đến biện pháp thực hiện để làm sao cho dân chúng hiểu đúng và làm ngay. Người chú trọng làm mẫu và yêu cầu cán bộ, đảng viên phải làm việc thực tế, và gương mẫu thực hiện trước, làm “mực thước” cho nhân dân. Người chú trọng sự thiết thực, hiệu quả, nhiều chỉ dẫn mang tính chất “cầm tay chỉ việc” chi tiết, cụ thể. Người chỉ bảo rất rõ ràng: Muốn làm dân vận tốt thì phải làm như thế nào? Muốn thực hành đoàn kết, tự phê bình và phê bình phải gì? Muốn đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm thì phải bắt đầu ra sao? Muốn xây dựng hợp tác xã thì phải bắt đầu từ đâu? Muốn xây dựng tổ đổi công, hay làm mương dẫn nước chống hạn thì phải vận động nhân dân như thế nào? v.v.. Và khẩu hiệu hành động mà Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu là “làm việc gì học việc ấy” để tạo ra hiệu quả thiết thực phục vụ Nhân dân, phục vụ đất nước.
Khi thăm hỏi nông dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh ít đề cập các vấn đề chính trị, xã hội mà nói với bà con về _______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.81.
77
cách thức, phương pháp để xây dựng đời sống mới, hay làm sao để đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm,... Người nói về những vấn đề hết sức cụ thể, chi tiết, thiết thực và gắn liền với cuộc sống của nông nông như làm phân bón, cách gieo trồng và chăm bón, hướng dẫn kỹ thuật canh tác. Người hướng dẫn, chỉ bảo cụ thể về cách để bảo vệ rừng, phát triển rừng, hướng khai thác gỗ để đổi lấy máy móc, phương tiện sản xuất thay thế sức con người,... Nhiều lần Người còn cùng thực hành sản xuất với nông dân, thử dùng máy cấy, cùng đạp cọn lấy nước, phát động trồng cây gây rừng và tự tay Người trồng cây đều đặn hằng năm. Khi làm việc với công nhân, Người không chỉ giác ngộ ý thức giai cấp, tinh thần làm việc tập thể, hăng hái lao động sản xuất mà Người còn chỉ ra phương pháp thi đua, thi đua giữa các cá nhân với cá nhân, giữa các tổ sản xuất với nhau.
Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi việc làm cần phải có một phương pháp nhất định, cụ thể để tác động làm biến đổi nó theo hướng đã định. Từ nhiều việc nhỏ, hành động nhỏ với vô vàn các cách thức và phương pháp hành động thực tiễn thì mới có thể đi đến một kết quả to lớn, mới có thể làm cho đất nước, con người đều đổi mới, phát triển.
Ở Hồ Chí Minh, bất kỳ một hành động, một việc làm nào, từ những hành động, việc làm cần kíp cho trước mắt cho tới những hành động, việc làm mà Người
78