"
Trái Tim Độc Ác
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Trái Tim Độc Ác
Ebooks
Nhóm Zalo
[ebook©vctvegroup]
TRÁI TIM ĐỘC ÁC
(Archie Sheridan & Gretchen Lowell #3)
—★—
Tác giả: Chelsea Cain
Người dịch: Đinh Quỳnh Anh
Phát hành: Phúc Minh Books
Nhà xuất bản Văn Học 2020
CHƯƠNG 1
T
rạm dừng chân trên đường 84 bên phía Oregon của sông Columbia thật kinh khủng, ngay cả với tiêu chuẩn tồi tàn của một trạm nghỉ. Những bức vẽ graffiti phủ kín bức tường trắng của đường tàu điện ngầm, hộc đựng giấy vệ sinh và khăn giấy trống hoác còn mớ giấy thì vương vãi khắp sàn bê tông. Hai cánh cửa ngăn bằng kim loại bị kéo ra khỏi bản lề, chỉ còn treo vắt vẻo ở đó. Không gian có mùi như hầm đậu xe chỗ dưới gầm cầu thang, quyện với mùi nước tiểu và xi măng.
Nhà vệ sinh gần nhất cách đây mười tám dặm và họ vừa tới một trạm dừng chân bị côn đồ phá hoại. Chẳng có cách nào khác. Amy chống tay lên hông và nhìn chằm chằm vào cô con gái mười một tuổi của mình. “Thôi nào, Dakota”, con bé nói.
Đôi mắt xanh của Dakota mở to. “Con không vào đó đâu”, con bé đáp. Suốt quãng đường, con bé luôn như thế. Hàng năm, vào mùa hè, họ sẽ lái xe từ Bakersfield đến gặp gia đình Erik ở Hood River, việc này đã bắt đầu từ khi Dakota còn là một đứa trẻ mới biết đi. Thế nhưng, năm nay nó đã dành cả chuyến đi để nhắn tin cho bạn bè và nghe nhạc trên chiếc iPod. Nếu Dakota không quá hư đốn như hai ngày qua thì có lẽ Amy sẽ dễ chịu hơn một chút.
“Con ngồi xổm trên bệ là được mà”, Amy nói.
Dakota cắn môi, để lại vệt son hồng trên răng cửa. “Mùi ghê lắm”, cô bé nói.
“Hay để mẹ xem phòng vệ sinh nam có sạch hơn không nhé?” Amy hỏi. Má của Dakota ửng hồng. “Không được đâu”, con bé trả lời. “Chính con đòi đi cơ mà”, Amy nói. Thực ra, sau khi bỏ qua nhà hàng
mà lẽ ra họ sẽ vào đó ăn tối, chẳng mấy chốc Dakota đã quả quyết rằng bàng quang của nó sẽ vỡ tung và nếu chuyện ấy xảy ra thì nó sẽ yêu cầu quyền tự do cho trẻ vị thành niên theo luật California. Amy thậm chí còn
ẳ
chẳng biết đó là cái gì, nhưng nghe có vẻ nghiêm trọng. Vì vậy họ ở đây, tại một trạm dừng chân giữa chốn đồng không mông quạnh. Có tiếng đập mạnh vào cửa. “Hai người đang làm gì trong đó vậy?” Erik gọi. Họ chỉ còn cách nhà chị gái anh hai mươi phút lái xe. Amy hiểu rằng nếu họ không đến đó sớm thì Erik sẽ bỏ lỡ chuyện kia. Suốt quãng đường mười dặm vừa rồi, anh ấy đã nắm chặt vô lăng đến trắng bệch cả tay. Cô đang đùa với ai vậy chứ? Người bỏ lỡ là cô mới phải. “Con bé không muốn dùng nhà vệ sinh ở đây”, Amy nói to cho chồng mình nghe thấy.
“Thế thì ra ngoài này và đi đằng sau cái cây ấy”, Erik đáp lại. “Bố!” Dakota kêu lên.
Amy đẩy cánh cửa buồng vệ sinh cuối cùng. Nó sạch hơn những gian khác, hoặc ít nhất cũng đỡ bẩn hơn. Trong hộc vẫn còn giấy. Không có chất thải của con người. Thế cũng tốt lắm rồi. “Còn phòng này thì sao?” Amy hỏi con gái.
Dakota bước vài bước ngập ngừng tới phía sau cô và nhìn vào bồn cầu. “Trong đó có cái gì ấy”, nó nói và chỉ vào thứ nước màu hồng nhạt trong bồn cầu.
Amy không còn thời gian để giải thích cho con bé về ảnh hưởng của củ cải đỏ đối với việc đi tiểu. “Con chỉ cần xả nước là được”, Amy nói. Cô xoay người đi tới dãy bồn rửa màu trắng rồi chờ đợi. Cô nghe thấy tiếng xả nước trong buồng vệ sinh và cảm thấy một chút căng thẳng gặm nhấm đôi vai. Họ sẽ lên đường sớm thôi. Chị gái của Erik sẽ uống rượu chờ họ. Chị ấy vẫn luôn làm thế.
“Mẹ!” Amy nghe thấy tiếng con gái gọi.
Lại chuyện gì nữa đây?
Amy quay lại và thấy con gái mình đang đứng trong buồng vệ sinh, cánh cửa kim loại bật mở. Khuôn mặt Dakota trắng bệch, hai tay siết chặt thành nắm đấm. Buồng vệ sinh bị tràn, nước dềnh qua nắp cống trên sàn tạo thành một vũng nước trông như thủy triều dâng. Trong nước có một thứ gì đó. Nó xoay giữa làn nước với những sợi nhỏ màu đỏ giống như máu. Và trong một giây, Amy nghĩ: Hay là Dakota đến tháng?
Dòng nước ấy chảy dọc ra ngoài bồn cầu trắng, lan xuống sàn, tràn dưới đôi giày thể thao của Dakota và hướng về nơi Amy đang đứng bất
động. Có cái gì đó trong bồn cầu, nó nổi lên và trôi dần đến miệng bồn cầu. Thịt sống. Tựa như những kẻ điên đã dìm chết một con chuột. Nó bám trên mép bồn cầu một lúc rồi trượt xuống sàn, trôi về phía trước, lướt qua đôi giày thể thao của Dakota và biến mất sau buồng vệ sinh tiếp theo.
Dakota thét lên, lao ra khỏi buồng vệ sinh, sà vào vòng tay của Amy, con bé thậm chí còn chẳng ngoái đầu lại khi chiếc iPod tuột khỏi tay, rồi rơi xuống chân bồn cầu với một tiếng tõm chết chóc.
Amy buộc phải nuốt xuống cơn lợm giọng đang dâng trong cổ họng, tự khiến mình không phải bụm miệng lại. Đó không phải là chuột. Chắc chắn không phải là chuột.
“Mẹ!”
“Ừ!” Amy thì thầm. Chiếc iPod vẫn đang chạy. Amy có thể nghe thấy tiếng nhạc pop khe khẽ phát ra từ chiếc tai nghe màu trắng nửa nổi nửa chìm. Sau đó nó cứ vậy tắt lịm.
“Con không cần đi vệ sinh nữa đâu”, Dakota nói.
CHƯƠNG 2
H
enry Sobol nhấc túi bằng chứng ra khỏi bồn rửa trong phòng vệ sinh của trạm dừng chân. Trong túi có bốn miếng thịt bằng nắm tay, ba trong số đó đã trượt ra khỏi bồn cầu, lấp loáng dưới lớp nhựa trong. Chúng nặng hơn so với bề ngoài, tối màu, gần như tím ngắt, còn thớ thịt có vẻ được cắt bằng dao có răng cưa. Máu và nước trong nhà vệ sinh tạo thành một tam giác nước màu hồng dồn ở góc túi.
“Nói lại xem nào, anh tìm thấy thứ này ở đâu?” Henry hỏi. Viên cảnh sát tiểu bang đã báo cho Henry đang đứng bên cạnh, tay cầm chiếc mũ vành. Ánh đèn huỳnh quang trong phòng tắm phủ lên làn da anh ta màu xanh bợt bạt. “Buồng vệ sinh đó”, viên cảnh sát đáp lời, nghiêng đầu về một cánh cửa đang mở. “Chúng tôi nhận được một cuộc gọi từ đường dây 911. Một gia đình báo rằng họ nhìn thấy máu trong nhà vệ sinh. Tôi là người nghe máy.” Anh ta nhún vai. “Móc thử bên trong thì thấy thứ này.” Henry nghĩ có lẽ không phải do ánh sáng. Có thể người này xanh mặt vì bị đau bụng. Viên cảnh sát nuốt nước bọt. “Pháp y cho rằng đó là lá lách.”
Nhân viên pháp y quận Hood River nhìn Henry chăm chú, khẽ gật đầu. Ông mặc áo phông DaKine và quần soóc kaki, làn da phong sương như hầu hết mọi người ở Hood River, mang vẻ dạn dày từ việc trượt tuyết, lướt ván và đủ trò mà họ làm ở đây.
Henry gãi đỉnh đầu trọc lóc bằng bàn tay còn rảnh.
“Tôi thấy không giống lá lách lắm”, Henry nói.
Claire Masland xuất hiện bên cạnh anh, huy hiệu vàng được treo trên một sợi dây buộc quanh cổ. Hai giờ trước, họ đã có mặt tại căn hộ của anh. Lúc ấy cô mặc ít quần áo hơn thế này.
Viên pháp y chống tay lên hông. “Tôi rất tiếc”, ông nói. “Để tôi làm rõ cho anh thấy.” Bàn tay ông làm thành động tác chặt. “Đây là một chiếc lá
lách đã bị cắt. Và mắc kẹt trong bồn cầu.”
Henry đặt cái túi đó trở vào bồn rửa.
Chuyện này đã diễn ra trong suốt hai tháng qua, kể từ khi Mỹ nhân đoạt mạng - Gretchen Lowell trốn thoát. Đội đặc nhiệm truy bắt Mỹ nhân đoạt mạng hoạt động suốt ngày đêm, theo dõi mọi dấu vết. Phải mất mười năm, họ mới lần ra ả. Cuối cùng, họ cũng biết ả trông như thế nào. Lực lượng đặc nhiệm đã được tăng gấp đôi nhân lực. Và Henry vẫn không chắc họ có bắt được ả hay không. Họ đã lãng phí quá nhiều thời gian sau những bước đi sai lầm. Một vụ tự tử dưới sông. Một vụ xả súng rồi bỏ chạy ở Bắc Portland. Dù có chuyện gì xảy ra, mọi người đều cho rằng Gretchen Lowell đứng đằng sau.
Henry biết đó là một sự cuồng loạn. Gretchen không có danh sách nạn nhân cụ thể. Ả tuyên bố bản thân đã giết chết rất nhiều người. Họ kết án ả sát hại hai mươi sáu người, thêm một số người nữa bị đưa vào danh sách khi ả ở trong tù. Đàn ông, phụ nữ, da đen, da trắng đều có thể là nạn nhân của ả. Gretchen là một kẻ giết người hàng loạt. Nhưng ả cũng là một kẻ mang bệnh vĩ cuồng, ả luôn để lại chữ ký của riêng mình.
Claire xem xét xung quanh còn Henry đã nghĩ đến việc trở về nhà. Bộ phim Co-ed Confingu được chiếu trên kênh Cinemax lúc 11 giờ và Claire nói rằng cô sẽ xem cùng anh. Henry hắng giọng. “Có lẽ mấy đứa trẻ ranh đã mua nội tạng ở một cửa hàng thịt”, anh nói. “Chúng nghĩ nó sẽ khiến người ta sợ chết khiếp”.
“Chắc vậy”, viên pháp y nói. “Chẳng thể chắc chắn cho đến khi tôi mang chúng về phòng thí nghiệm. Nhưng nhìn kích thước thì có vẻ tương tự của con người.”
Viên cảnh sát siết chặt chiếc mũ hơn một chút. “Chúng tôi nghĩ cần phải báo cho các vị”, anh ta nói.
Gretchen đã từng lấy đi lá lách của vài nạn nhân. Cả trước và sau khi chết. Nhưng cách ả thường làm là bỏ lại thi thể chứ không phải nội tạng. “Đây không phải là Gretchen Lowell”, Henry đáp. Chuyện này không hợp lý. Không có thi thể. Không có chữ ký. Đây không phải phong cách của ả.
“Henry”, Claire nói. “Nhìn này.”
Henry quay về phía Claire. Cô đang đối diện với bức tường trước mặt, qua những buồng vệ sinh. Nước bẩn rỉ ra, tràn xuống sàn bê tông và Henry
phải di chuyển qua đó, sự chú ý của anh buộc phải di chuyển qua lại giữa đôi giày cao bồi màu đen mới tinh và sự phản chiếu của bóng hình anh trong vũng nước. Khi đến chỗ Claire, anh mới nhìn lên.
Một hình graffiti mới vẽ. Những nét bút trầy xước mờ nhạt đã bị đè lên bởi những đường màu đỏ đậm nét và gọn gàng. Hình dạng tương tự, được lặp đi lặp lại nhiều lần. Tóc gáy Henry dựng đứng, đôi vai anh căng cứng. “Mẹ kiếp”, anh nói.
“Chúng ta cần gọi cho Archie”, Claire khẽ nói.
“Archie Sheridan?” Viên cảnh sát hỏi. Anh ta bước về phía trước, đôi giày đen giẫm vào vũng nước.
Archie là đội trưởng đội đặc nhiệm truy bắt Gretchen. Điều đó đã khiến anh trở thành viên cảnh sát nổi tiếng nhất bang. Cũng chẳng biết điều đó là tốt hay xấu.
“Tôi nghe nói anh ấy đang phải điều trị nội trú”, viên pháp y đứng ở chỗ bồn rửa nói với tới.
Điều trị nội trú. Henry nghĩ. Đó là một cách nói uyển chuyển dễ nghe với tình hình thực tế. “Chính xác là cậu ấy vẫn đang nghỉ ngơi như một công dân bình thường cho đến khi có thể giải tỏa tâm lý”, Henry nói. “Anh phải gọi cho anh ấy”, Claire nói thêm lần nữa.
Henry nhìn lên tường. Hàng trăm trái tim nhỏ xíu, được vẽ một cách hoàn hảo bằng bút dạ Sharpie màu đỏ. Chúng che đậy, xóa sạch mọi thứ. Trái tim là chữ ký của Gretchen. Ả khắc nó lên tất cả các nạn nhân của mình. Ả đã khắc nó lên người Archie.
Và bây giờ ả đã trở lại.
CHƯƠNG 3
T
hời gian thăm người bệnh tại viện tâm thần của Trung tâm Y tế Providence đã trôi qua từ lâu. Henry dùng thang máy phía sau đi lên một phòng chờ nhỏ bị khóa cửa, một chiếc điện thoại, hai cái ghế, trên bàn có một tờ đăng ký và một tập quảng cáo của Al-Anon[1]. Henry không ghi danh vào tờ đăng ký. Mà cũng chẳng ai làm thế cả.
Anh nhấc điện thoại lên. Nó tự động kết nối với phòng y tá trực bên trong, lập tức một giọng nữ cất lên.
“Tôi có thể giúp gì cho anh?” Người phụ nữ nói với giọng không tình nguyện cho lắm.
“Tôi muốn gặp Archie Sheridan”, Henry nói. Anh không nhận ra giọng nói của chị ta. Anh không quen các y tá làm ca đêm. “Tôi là Henry Sobol. Phía cảnh sát có việc cần hỏi.”
Một khoảng lặng đằng đẵng. “Giữ máy nhé”, giọng nói kia đáp lại. Sau vài phút, cánh cửa kêu “brừ” rồi bật mở, đằng sau là một người phụ nữ có vẻ mệt mỏi, chị ta mặc bộ đồ y tá cùng chiếc áo khoác dệt hoa văn kiểu Peru. “Tôi cho anh vào vì anh ấy nói muốn gặp anh”. Chị ta vừa mím môi cười vừa nói.
“Tôi biết đường rồi”, Henry đáp. “Tôi tới đây ba lần mỗi tuần.” “Dù sao tôi cũng sẽ đi cùng anh”, y tá đáp.
Trong phòng không có tivi, nhưng Henry có thể nghe thấy tiếng từ kênh Thế giới động vật vọng ra từ phòng nghỉ. Người ta luôn bật kênh này trong phòng nghỉ. Henry cũng chẳng hiểu tại sao.
Nơi này gây sốc ngay từ cái nhìn đầu tiên. Đèn huỳnh quang, sàn nhà lát gạch, bệnh nhân mặc những bộ đồ màu xanh. Nhìn vào đâu cũng gợi nhắc đến việc tự tử. Các bệnh nhân chỉ được đi tất để họ không thể thắt cổ bằng dây giày, túi đựng rác làm bằng giấy để bệnh nhân không thể tròng túi nilon lên đầu, dụng cụ bằng nhựa để bệnh nhân không thể tự đâm vào tĩnh
mạch cổ, gương trong phòng là những tấm kim loại để bệnh nhân không thể dùng mảnh vỡ khía vào cổ tay, các căn phòng không có ổ cắm để tránh điện giật và cũng chẳng có sợi dây điện nào để có thể thắt thành thòng lọng.
Archie đã hai lần đụng độ với Gretchen Lowell, lần nào cũng khiến anh suýt chết. Sau đó anh nghiện thuốc giảm đau. Ả làm ảnh hưởng đến tâm lý của anh. Hơn ai hết, Henry biết anh cần phục hồi, và cần trải qua cả đống xét nghiệm. Nhưng điều anh không ngờ tới là một khi Archie đã đặt chân vào đây, anh ấy không hề muốn thoát ra.
Cô y tá trực đêm đi theo Henry vào phòng của Archie.
Bạn cùng phòng của Archie đã chìm vào giấc ngủ. Gã ngáy to, tiếng nghèn nghẹn ướt át đó là kết quả của việc thừa cân và trầm cảm nặng. Những thứ như vậy có thể khiến bạn phát điên, nếu như trước đó bạn chưa điên hẳn.
Chiếc đèn treo trên giường Archie bật sáng và anh đang ngồi, phía đầu tấm vải trắng là chiếc gối mỏng kê sau mái tóc nâu xoăn xoăn của anh, một cuốn sách tranh dày mở ra trên đùi anh. Từ tháng trước, anh không còn phải mặc áo bệnh nhân nữa, bây giờ anh có thể mặc quần áo của riêng mình - một chiếc áo len và quần nhung, được đi dép thay vì chỉ xỏ tất. Anh đã giảm cân và từ xa trông giống như người bạn mà Henry gặp mười lăm năm trước - đẹp trai, khỏe mạnh. Hoàn toàn khỏe mạnh.
Thế nhưng khi đến gần, những nếp nhăn trên trán Archie và những tia lo lắng quanh mắt anh lại kể một câu chuyện khác.
Đôi mắt đen của Archie nhìn chằm chằm vào Henry, khiến anh cảm nhận được một sự khó chịu kỳ lạ. Khí chất của Archie đã thay đổi. Henry không biết có phải do thuốc mà họ cho anh uống không, hay thực tế là do anh đã uống thuốc giảm đau suốt hai năm và bây giờ không dùng nữa. Dường như anh đã già đi, trầm tĩnh hơn. Đôi khi Henry không thể tin rằng Archie chỉ mới bốn mươi tuổi.
“Chuyện gì đã xảy ra vậy?” Archie hỏi.
Henry liếc nhìn vào camera gắn ở góc trên cùng của căn phòng. Nó vẫn khiến anh cảm thấy lạ lẫm, giống như một tù nhân bị theo dõi. Anh kéo chiếc ghế dành cho khách đặt ở giữa phòng của Archie và ngồi xuống, chiếc ghế ấy được làm bằng nhựa mỏng để không làm ai bị thương nếu bạn ném nó đi.
“Có thể cho chúng tôi nói chuyện riêng một phút được không?” Henry hỏi người y tá.
“Đừng đánh thức Frank”, chị ta nói và bước ra khỏi phòng. Henry nhìn Frank. Một giọt nước bọt đọng trên khóe miệng gã.
Henry quay lại với Archie.
“Có một hiện trường vụ án”, Henry nói. Anh thò tay vào túi quần jean đen và rút ra một thanh kẹo cao su. “Họ tìm thấy một chiếc lá lách tại một trạm dừng chân phía đông đường 84. Trên tường vẽ rất nhiều trái tim. Tôi cần cậu xem thử.”
Archie chẳng phản ứng gì cả, chỉ ngồi nhìn Henry, không di chuyển, không chớp mắt, không nói gì. Frank phát ra âm thanh rin rít như một con gà sắp chết. Một ánh sáng nhỏ màu đỏ nhấp nháy trên camera giám sát. Henry rút ra một miếng kẹo cao su, bóc ra và bỏ vào miệng. Nó có vị cam thảo, ấm và mềm mại vì bị nhét trong túi quần. Anh chìa thanh kẹo về phía Archie.
Archie lên tiếng, “Không phải là cô ta.”
Henry nắm thanh kẹo cao su trong tay và nhét vào túi. Anh chưa bao giờ hiểu được những gì Gretchen đã nhồi nhét vào đầu Archie. Anh biết về hội chứng Stockholm[2]. Anh đã đọc nửa tá sách về nó kể từ khi Archie bị giam giữ. Anh hiểu nỗi ám ảnh của bạn mình. Họ săn lùng ả suốt một thập kỷ, sống và hít thở cùng ả, làm việc với những tội ác của ả. Chỉ để phát hiện ra rằng ả vốn ở ngay dưới mũi họ với tư cách là một bác sĩ tâm thần tư vấn về vụ án. Việc đó thật khó chấp nhận đối với tất cả bọn họ, đặc biệt là với Archie.
“Vậy có thể là gì?” Henry nói.
“Cô ta nói sẽ ngừng giết người”, Archie đáp. Khóe miệng anh vặn vẹo. “Cô ta đã hứa với tôi như vậy.”
“Có lẽ cô ta đã lật lọng”, Henry nói.
Đôi mắt của Archie lại rơi xuống cuốn sách, và rồi anh từ từ khép nó lại, đặt lên chiếc bàn cạnh giường. Anh nâng cằm. “Cô có ở đó không?” Anh nói lớn.
Khoảng hai giây im lặng, sau đó y tá trực đêm xuất hiện ở ngưỡng cửa. ẳ
“Họ chẳng bao giờ đi xa được”, Archie nói với nụ cười yếu ớt. Ánh mắt anh liếc nhìn cô y tá. “Tôi cần ra ngoài một ngày”, anh nói. Sau đó anh ngừng một chút như suy nghĩ lại, “Và một đôi giày nữa.” “Anh ấy cần phải đến hiện trường vụ án”, Henry nói.
“Anh không cần phải thuyết phục cô ấy”, Archie nói. “Tôi đã ở đây hai tháng. Họ muốn tôi ra khỏi đây. Tức là, nếu tôi hứa là không tự sát thì họ sẽ để tôi đi thôi. Hơn nữa, tôi cũng giữ được tình trạng sức khỏe tốt”.
“Nếu chỉ ra ngoài một ngày thì không thành vấn đề, ông Sheridan”, y tá trực đêm đáp.
“Là Thanh tra Sheridan chứ”, Henry nói. Vị y tá trực đêm nhìn Henry, nhướng mày. “Là Thanh tra”, Henry tiếp lời. “Không phải là Ông.”
CHƯƠNG 4
T
rước đây, Archie đã từng đến điểm dừng chân đó. Anh nhớ những chiếc bàn dã ngoại màu nâu ở đằng trước, nơi anh và Debbie ngồi chậm rãi đắm mình giữa cơn mưa phùn, trong khi những đứa trẻ chạy vòng quanh trên bãi cỏ. Khi ấy họ đang trên đường lên Timberline Lodge[3] để đưa bọn trẻ đi ngắm tuyết. Đường 84 không phải là con đường nhanh nhất, nhưng lại có khung cảnh đẹp nhất. Khi Archie nhận tin báo về một nạn nhân khác là lúc họ đã đi khá xa khỏi Hood River. Một người đàn ông da đen sáu mươi hai tuổi được tìm thấy trong bãi đậu xe Target, bị hở từ xương ức đến xương chậu, cái miệng mở toang hoác. Cứ như thể Gretchen biết Archie sẽ rời khỏi thị trấn và muốn dạy cho anh một bài học.
“Được rồi”, Debbie nói khi họ kéo nhau về nhà. “Dù sao đây cũng là một chuyến đi vui vẻ.”
Dọc đường đến Gorge có nhiều trạm dừng chân tuyệt vời, những công trình công cộng ấy nhìn như những mái nhà nhỏ bằng đá nằm giữa những cánh rừng đầy mê hoặc. Nhưng cái trạm này không giống như thế. Nó là một khối hình chữ nhật sơn màu nâu kiểm lâm, có lối đi riêng dành cho nam và nữ ở hai phía khác nhau. Ở đây lại chẳng có cà phê miễn phí. Đằng trước có hai chiếc xe tuần tra, nhưng chúng không sáng đèn. Người ta đã đóng cửa phòng nghỉ của phụ nữ, chỉ có phòng nghỉ cho nam giới vẫn mở. Archie đếm thêm được bốn chiếc xe trong bãi đậu xe. Một người đàn ông đội mũ bóng chày tiến vào phòng nghỉ nam giới. Một người phụ nữ ném một quả bóng cho con chó của mình. Một phụ nữ khác còn khá trẻ với mái tóc vàng bước vào chiếc Ford Explorer tối om. Archie cảm thấy cơ thể mình cứng lại. Anh dặn lòng không được nhìn lại, tránh để Henry chú ý đến phản ứng của mình.
Đôi khi một cô gái tóc vàng chỉ là một cô nàng tóc vàng mà thôi. Vượt ra khỏi ranh giới của ánh sáng vàng mờ ảo từ đèn pha hắt ra từ trạm dừng chân là bóng tối mênh mông: không có mây che phủ, chẳng có
ánh sáng từ chốn phố thị. Bầu trời Gorge tràn ngập những ngôi sao. Một cơn gió khô khốc lướt qua những tán cây, và đám cỏ nâu úa lạo xạo dưới chân Archie. Tháng Tám ở Portland, người ta không cần cắt cỏ, trừ khi tưới nước lên chúng. Mới hai tháng trước, cỏ vẫn xanh mượt.
“Mọi thứ đều chết cả rồi”, Archie nói với Henry. Henry mặc quần jean đen, áo phông đen, giày cao bồi và áo khoác da màu đen. Nhưng Henry đã đi trước một bước và không nghe thấy anh nói gì. Archie cúi xuống dưới dây bảo vệ hiện trường và đi theo Henry vào nhà vệ sinh của trạm dừng chân.
Một ánh đèn flash nháy lên. Archie chớp mắt, mất thị lực trong giây lát. Khi ánh mắt tập trung trở lại, anh nhìn thấy một cậu lính trực thuộc bang đang cầm chiếc máy ảnh kỹ thuật số cỡ lớn. Archie đoán cậu ta mới tuổi đôi mươi, mái tóc sẫm màu chờm xuống hai bên thái dương, khuôn mặt trông hơi chảy xệ. Nhưng cậu ta còn đặc biệt hơn với hàm răng thẳng đều, vóc dáng có vẻ từng tập luyện chăm chỉ, huy hiệu sao năm cánh màu bạc ghim trên ngực được đánh bóng loáng. Bộ đồng phục lính bang vốn rất lố bịch với chiếc mũ rộng vành và chiếc quần dài có sọc xanh nhạt chạy dọc xuống hai bên; khiến cho đám lính nhìn giống mấy anh kiểm lâm - những kẻ đầu hàng trước mấy quả việt quất. Nhưng anh chàng này mặc đồng phục trông cũng ổn. Cậu ta trông khá giống một cảnh sát thực thụ. Cậu ta nhìn lên và nhướng đôi lông mày rậm về phía Archie. “Này”, cậu lính nói. “Này, chính là anh.”
Archie cố gắng nhếch miệng thành một nụ cười thân thiện. Nụ cười của anh đã như thế kể từ khi Gretchen giam cầm anh, chính bởi loại người nổi tiếng bệnh hoạn ấy. Đã có một cuốn sách kể về việc anh bị bắt cóc, nó tên là Nạn nhân cuối cùng, sách bán rất chạy và vụ việc còn bị đưa vào phim truyền hình. Việc Gretchen trốn khỏi nhà tù và cuộc chạm trán muộn màng của họ chỉ làm cho nó tồi tệ hơn.
“Hãy để anh ấy xem xét xung quanh”, Henry nói với cậu lính trẻ. Một người đàn ông gầy đét mặc quần áo đi bộ đứng cạnh bồn rửa. “Bây giờ tôi có thể đi được chưa?” Anh ta hỏi Henry.
“Mấy phút nữa nhé”, Henry đáp.
Archie thò tay vào túi để tìm hộp thuốc bằng đồng của Vicodin mà anh thường dùng. Đó là phản xạ. Anh biết nó không có ở đó. Lúc ở bệnh viện,
người ta đã mang nó đi cùng với điện thoại di động và chiếc thắt lưng Debbie tặng anh vào Giáng sinh cuối cùng họ bên nhau. Kể từ đó, anh không biết phải làm gì với đôi tay của mình. Anh quyết định nhét cả hai tay vào túi quần và tập trung vào hiện trường. Nhà vệ sinh này thật quen thuộc. Những tấm kim loại trầy xước. Những bức tường trắng quá sáng. Những bóng đèn huỳnh quang. Chúng không giống căn phòng của anh ở viện tâm thần, với ít nhất một sự khác biệt đáng chú ý. Phòng tắm đã bị bỏ hoang. “Bị phá hủy nghiêm trọng”, đó là từ mà người ta dùng để nói về nó và là thuật ngữ mà Archie luôn yêu thích. Có sáu buồng vệ sinh thì năm buồng đã bị cố tình làm tắc bằng giấy vệ sinh và phân, trông như một cái nồi nấu bùn nâu và giấy rã rượi. Cánh cửa kim loại treo lỏng lẻo bằng bản lề. Ai đó đã đi tiểu trên sàn nhà. Bê tông xốp đã hút gần hết nước nhưng vẫn còn vài vũng nước trên sàn, phản chiếu ánh sáng huỳnh quang màu trắng. Tiếng ồn từ ống nước vang vọng khắp nhà vệ sinh, tiếng nước ào ạt, tiếng bước chân, mọi thứ như bị phóng đại, méo mó. Archie nghiêng người lách qua chỗ nước tràn để vào buồng vệ sinh cuối cùng, nơi họ tìm thấy vật chứng. Đó là nơi sạch sẽ nhất trong các buồng, bệ toilet vẫn gắn liền, bản lề còn nguyên. Có kẻ muốn ai đó sử dụng buồng vệ sinh ấy, để xả nước, để tìm thấy sự bất ngờ. Chúng muốn thấy một vở diễn kịch tính.
Một chiếc iPod bọc ốp nhựa dẻo màu vàng nằm úp trên sàn, dưới chân Archie.
Ánh đèn flash lại lóe lên. Archie quay lại và thấy cậu lính hạ máy ảnh xuống. “Xin lỗi”, cậu ta nói.
Claire Masland bước vào. Anh đã không gặp cô suốt hai tháng qua nhưng cô chẳng bận tâm. Cô mỉm cười nhanh nhẹn, đưa tay vuốt mái tóc đen ngắn và nói, “Chào, Archie.”
Cô mặc quần jean và áo phông in hình gấu và đôi giày mô-tô màu đen. Archie tiến thêm một bước về phía cô và nhặt sợi lông mèo ra khỏi áo. Henry nuôi mèo. “Chào, Claire”, Archie đáp lại.
Claire vặn mở chai nước cầm trên tay và nốc một ngụm. “Anh đã xem bức tường chưa?” Cô hỏi.
“Cho tôi xem đi”, Archie nói.
Có vẻ tất cả những trái tim kia đều được vẽ bởi cùng một người. Hình dạng giống nhau, hai đường cong đầy đặn, một điểm chốt sắc nét. Phù hợp
với độ dày của bút nhớ dòng. Chúng khiến bất cứ ai làm điều này phải tốn kha khá thời gian, vì phải vẽ đến vài trăm trái tim. Cẩn thận, có phương pháp. Không phải cùng một người đã phá nát phòng tắm. Là một kẻ khác. Lại một ánh đèn flash lóe lên.
Nếu Gretchen ra tay thì phải nghiêm trọng hơn thế. Mục đích của ả không phải gây rối loạn. Mà là gây ra nỗi khiếp sợ. Miếng lá lách trong nhà vệ sinh công cộng bỏ hoang cũng gớm ghiếc. Nhưng nó chưa đạt đến đẳng cấp của Gretchen. “Đã ai kiểm tra đằng sau bồn cầu chưa?” Archie hỏi.
Những người khác nhìn nhau. Cậu lính nhún vai.
Archie quay lại buồng vệ sinh, bước qua chiếc iPod và băng qua vũng nước tràn để tới chỗ bồn cầu. Hầu hết các phòng vệ sinh công cộng ngày nay đều có bồn nước xây thẳng vào tường, bồn cầu bằng thép và cảm ứng, có thể biết khi nào bạn rời khỏi bệ xí để van xả nước tự động mở ra. Nhưng cuộc cách mạng nâng cấp nhà vệ sinh tuyệt vời vẫn chưa đến được trạm nghỉ chân trên đường cao tốc đặc biệt này. Nhà vệ sinh này có một cái bồn ở phía sau. Archie cầm cái nắp sứ nặng nề và đẩy nó trượt ra, đặt nó vuông góc với mặt sau của bồn nước.
Những gì anh nhìn thấy trong nước làm dạ dày anh đảo lộn. Henry, Claire, nhân viên pháp y và cậu lính chen chúc nhau gần nhất có thể để không bị ướt chân.
“Sao rồi?” Claire hỏi.
“Mang cho tôi một vật để đựng”, Archie nói. Giọng anh bình thản. Anh thấy mừng vì bản thân vẫn có thể làm được điều đó. Anh có thể nhìn thấy bất cứ một thứ gì khủng khiếp và không để nó hiện lên mặt mình. Từ lâu Archie đã học được rằng tình huống càng nguy hiểm thì việc kiểm soát càng quan trọng.
Nhân viên pháp y biến mất trong giây lát và trở lại với chiếc hộp nhựa trong suốt dài sáu inch, loại mà mấy cửa hàng đồ ăn nhanh hay dùng để đựng salad khoai tây. Archie duỗi một cánh tay trở lại bồn nước, sau đó hạ hộp nhựa vào trong bồn và múc ra.
Anh giơ lên cho những người khác xem.
Cậu lính bụm tay lên mặt, chuồn vội sang buồng bên cạnh và nôn mửa. “Chúa ơi”, Claire thốt lên.
Trong đó có chứa nhãn cầu.
Trên hộp nhựa có biểu tượng tái chế. Archie tự hỏi liệu nhân viên pháp y kia có rửa sạch nó và tái sử dụng sau khi mọi việc hoàn tất hay không. Anh đưa cái hộp cho nhân viên pháp y. “Tại sao anh không để mắt đến chuyện này?” Archie nói.
Cậu lính trở lại đứng quanh, lau cằm bằng chiếc khăn giấy vừa nhặt lên từ sàn nhà.
Archie trở lại chỗ bức tường vẽ trái tim. Mạch không đập nhanh, hơi thở anh vẫn bình thường. Hẳn là thuốc chống lo âu đã có tác dụng. Gretchen đang ở ngoài đó. Ả lại giết người. Và anh không sợ. Archie cười lớn.
Hai tháng trước, trên giường bệnh, với cổ họng bị cứa, anh và Gretchen đã thỏa thuận với nhau. Anh đã cố hy sinh thân mình để bắt ả. Nhưng một lần nữa, ả đã xoay xở để kéo anh trở lại từ bờ vực của bóng tối yên bình. Ả muốn anh còn sống. Vì vậy, anh đồng ý không tự nã súng vào đầu mình, còn ả chấp thuận việc không giết thêm bất cứ ai nữa.
Bây giờ thỏa thuận đã bị phá hủy.
Archie cảm thấy tay Henry đặt lên vai mình.
Không ai di chuyển. Âm thanh duy nhất là tiếng vang đều đều của một bồn cầu đang xả nước.
“Lẽ ra tôi không nên đưa cậu đến đây”, Henry nói.
Nhân viên pháp y giơ cái hộp nhựa lên ngang mắt dưới ánh sáng chập chờn.
“Vậy bây giờ chúng ta phải làm gì?” Cuối cùng cậu lính lên tiếng. “Giữ kín hiện trường”, Archie đáp. “Gọi cho đội đặc nhiệm.” Archie nhìn quanh phòng tắm. “Xem còn tìm thấy mảnh cơ thể nào không.” Khuôn mặt cậu lính sáng bừng. “Là cô ta”, cậu ta nói. Sau đó, “Gretchen-chết-tiệt-Lowell.” Cậu ta chầm chậm lắc đầu và cố gắng che giấu nụ cười nhếch mép.
Archie đã nhìn thấy nó trước đó. Những cậu cảnh sát trẻ mang sự hớn hở lồ lộ đến hiện trường vụ án Mỹ nhân đoạt mạng. Như thể họ đang có mặt ở chuyện gì đó đặc biệt. Như thể họ có thể là người bắt ả.
“Tôi không có ý…” Cậu lính ngại ngùng, đôi má như sắp đổi màu, “Tôi nghĩ là… hào hứng”. Cậu ta liếc xuống đôi giày của mình, rồi quay lại nhìn Archie. “Cô ta đã làm thế với cổ của anh à?”
“Ờ”, Archie đáp, không động đậy. “Cô ta đã làm vậy với cổ của tôi”. Ánh mắt cậu lính lại lảng đi, đặt đâu đó trên vai Archie. “Tôi rất tiếc”, cậu ta nói.
“Đừng như thế”, Archie nói. “Lúc đó tôi đã bất tỉnh rồi.” Tay cậu lính luồn qua nút thắt của chiếc cà vạt màu xanh, sờ lên cổ áo sơ mi của mình và Archie phát hiện ra một chiếc nhẫn đại diện trường trung học. “Anh may mắn đấy”, cậu lính nói. Và rồi, sau một hồi tạm dừng, cậu ta cố gắng nói rõ, “Vì vẫn còn sống.”
May mắn. Cậu lính này không muốn bắt Gretchen. Mà chỉ muốn gặp ả. “Cậu có thể hỏi tôi nếu muốn”, Archie nói.
“Archie, thôi nào”, Henry lên tiếng.
“Không”, Archie nói tiếp. Anh vẫy tay ra hiệu. “Tiếp tục đi. Cứ việc hỏi tôi.”
Ai đó xả nước trong nhà vệ sinh ở phía bên kia bức tường và tiếng nước chảy ào ào tràn ngập căn phòng. Archie có thể thấy Claire đứng ngoài tầm nhìn của mình ném cho Henry một cái nhìn. Henry không phản ứng.
Má của cậu lính đã đỏ ửng lên. Cậu ta nhìn xuống, rồi lại ngước lên, ánh mắt sáng bừng. Cậu ta là một cầu thủ bóng đá trung học - Archie xác định. Một tiền vệ. Bạn không cần phải có bằng đại học để tham gia lực lượng cảnh sát tiểu bang.
“Cô ta là người như thế nào?” Cậu lính hỏi.
Archie bước về phía trước, nắm bàn tay cậu lính và đưa lên cổ mình. “Cảm nhận thử xem”, Archie nhẹ nhàng nói, dẫn những ngón tay của cậu lính qua vết sẹo dày trên cổ. Cậu ta không rụt tay lại, không co rúm sợ hãi, thay vào đó, cậu ta nghiêng người về trước, đôi mắt dõi theo vết sẹo của Archie, vẫn còn mới và chưa liền hẳn, vẫn nhạy cảm khi chạm vào. Archie có thể cảm thấy mạch đập dồn dập. Anh di chuyển bàn tay của cậu lính thêm một inch. “Tĩnh mạch ở đây”, anh nói, rồi ấn ngón tay cậu ta vào cổ mình để có thể cảm nhận được động mạch đập bên dưới da thịt. “Gretchen biết phải cứa ở đâu”, Archie nói tiếp. “Không phải tôi gặp may. Nếu cô ta muốn tôi chết, tôi sẽ chết.” Archie buông tay và cậu lính từ từ rút tay ra.
“Cô ta là kẻ như thế nào ư?” Archie nhẹ nhàng lặp lại. Anh đặt tay lên vai cậu lính và cúi người về phía trước, để khuôn mặt mình cách cậu ta vài inch. Gretchen là một cô nàng xinh đẹp, gợi cảm, lôi cuốn, hấp dẫn, là đối tượng trong nỗi ám ảnh của Archie, là kẻ tra tấn anh và là người hiểu rõ anh nhất trên thế giới này. “Cô ta là kẻ giết người hàng loạt”, Archie nói. Anh mỉm cười và vỗ vai cậu lính. “Nếu cậu gặp cô ta, hãy bắn cô ta.”
Archie quay sang Henry. “Tôi đã sẵn sàng quay về viện tâm thần”, anh nói.
CHƯƠNG 5
S
usan Ward đi nhanh xuống hành lang bệnh viện. Lúc đó là 9 giờ sáng và cô đang trong tâm trạng tồi tệ. Có điều gì đó đang diễn ra ở Gorge và Ian đã cho Derek Rogers đi lo liệu chuyện đó thay vì chọn cô. Cô đã gọi Derek mười một lần. Đây là lần thứ mười hai.
“Bộ phận cơ thể là có ý gì?” Cô hỏi anh ta. Cô gặp khó khăn khi vừa phải đưa điện thoại lên tai, vừa giữ cho cốc cà phê giấy không bị đổ và lục túi tìm gói kẹo bạc hà để che giấu mùi thuốc lá mà cô vừa hút trong nhà để xe của bệnh viện.
“Họ không nói gì cả”, Derek đáp. Anh ta ở ngoài đó gần như cả đêm và có vẻ sự háo hức đang dần biến mất. “Tuy nhiên, họ đã điều động một nửa Đội đặc nhiệm truy bắt Mỹ nhân đoạt mạng tới đây, cùng FBI và các tình nguyện viên tìm kiếm trong rừng.”
Đây sẽ là tin sốt dẻo nếu làn sóng Gretchen Lowell không quá lan tràn. Mỗi ngày tờ Người đưa tin đều đăng trên trang nhất thông tin về Gretchen kể từ khi ả trốn thoát. Gretchen đã được phát hiện ở Ý, Florida, Thái Lan và Churchill, Manitoba. Tất cả những kẻ quái dị từng tuyên bố mình bị người ngoài hành tinh bắt cóc, giờ đây đều tuyên bố họ đã nhìn thấy Mỹ nhân đoạt mạng. Tội ác trên toàn thế giới giờ đây đều được quy cho ả. Nếu bạn tin vào các kênh tin tức hai mươi bốn giờ thì ả đã giết một gia đình ở Thái Lan, sau đó đến Anh để giết một người bán cá ngay khi mặt trời lặn.
“Để em đăng bài đó đi”, Susan nói. “Em đang ở bệnh viện.” “Bao giờ em mới chịu từ bỏ?” Derek đáp lại.
Susan kẹp chiếc điện thoại vào giữa tai và vai, cố gắng xác định vị trí chiếc hộp thiếc đựng kẹo bạc hà dưới một loạt các hóa đơn, bút, giấy gói kẹo cao su và khăn giấy đã sử dụng. “Có lẽ tuần này anh ấy sẽ chịu gặp em”, cô nói.
“Nếu Ian phát hiện ra em làm chui thì anh ta sẽ giật tung tóc đuôi ngựa của mình mất”, Derek nói.
Susan nhấn nút thang máy đi lên viện tâm thần. Ian đã cho giao cho Derek phụ trách chuyên mục săn đuổi tội ác sau khi người hướng dẫn của Susan là Quentin Parker bị giết hại. Susan tự dặn bản thân không quan tâm. Cô đã lận lưng một số con đường giúp mình thoát khỏi nghiệp báo chí một lần và mãi mãi. Mọi việc phải diễn ra càng sớm càng tốt. Cô chỉ cần tìm cách để Archie nói chuyện với mình thôi.
“Này!” Derek nói.
“Anh có biết không”, Susan tiếp lời, “kể từ năm 1958, đã có hơn bốn trăm người chết vì phản ứng dị ứng với tinh trùng!”
Im lặng một hồi. “Ừ, không”, Derek đáp.
Thang máy lao xuống và cánh cửa bạc trượt mở. “Em phải đi rồi”, Susan nói. Cô nhét một viên kẹo bạc hà vào miệng và bỏ chiếc hộp thiếc vào túi. “Tới nơi rồi.”
CHƯƠNG 6
H
ọ sẽ không cho Susan vào trong đó. Trước giờ họ chưa từng làm thế. Tên của cô không có trong danh sách khách thăm viếng của Archie. Nhưng Susan vẫn ấn chuông và nhờ y tá hỏi xem Archie có gặp cô không. Khi y tá quay lại thì vẫn như mọi lần, cô ta nói không, không phải hôm nay, nhưng anh ấy gửi lời chào tới cô. Susan chọn một chiếc ghế trong phòng chờ. Nếu cô đến thường xuyên và ngồi đủ lâu, cô hy vọng cuối cùng Archie sẽ mủi lòng.
Và nếu anh ấy không đồng ý? Tốt thôi, đó là một nơi khá yên tĩnh để cô hoàn thành công việc.
Ở đây có hai cái ghế nhựa đúc sơn màu và Susan luôn ngồi ở bên trái. “Phòng chờ” là một cái tên rất hào phóng dành cho nó. Nó giống phòng thay đồ hơn. Không có cửa sổ. Chỉ với năm feet vuông, trông chật kín bởi sự hiện diện của hai chiếc ghế và một chiếc bàn vuông nhỏ chất đầy tài liệu sức khỏe tâm thần. Susan vừa thưởng thức cốc cà phê dở dang, vừa rời mắt khỏi chiếc laptop để đọc một tờ rơi về chứng rối loạn tăng động giảm tập trung ở người lớn, cửa thang máy mở và Henry Sobol bước ra.
Anh nhướng mày khi nhìn thấy cô. “Tím hả?” Anh hỏi.
“Người ta gọi là màu mận đậm”, Susan nói rồi chạm vào mái tóc tím của mình. Trước đây nó có màu ngọc lam. Trước nữa là màu hồng. Susan liếc nhìn cánh cửa viện tâm thần. Nếu Henry tới đây để nói chuyện với Archie, thì có lẽ chuyện xảy ra ở Gorge có liên quan đến Gretchen. “Anh tới đây vì chuyện ở trạm dừng chân phải không?” Cô hỏi.
“Chỉ là đến thăm một người bạn thôi”, Henry trả lời.
Henry vốn không hay đến thăm vào buổi sáng. Ít nhất anh sẽ không bao giờ đến khi cô ở đó.
“Anh có thể tin tưởng tôi”, Susan nói. Cô biết rằng Henry chẳng tin cô. Và có lẽ điều đó là không đúng. Nhưng Susan mong là vậy.
Henry bắt đầu với lấy nút gọi, nhưng rồi anh ngập ngừng và quay lại với cô. “Cô có biết nhà báo là gì không?”
“Là gì?” Susan hỏi.
Biểu cảm của Henry không mảy may thay đổi. “Một phóng viên chôn chân tại chỗ”.
“Ờ”, Susan đáp.
“Tôi chôm được câu này đấy”, Henry nói.
Susan nghiêng người về phía trước. “Anh đã bao giờ nghe chuyện một người phụ nữ bị bắt vì chạy quá tốc độ chưa?” Cô chẳng bao giờ nhớ mấy câu chuyện cười. Nhưng cô đã nghe mẹ cô kể nhiều đến nỗi nhớ như in. “Không tục thì đừng kể”, Henry nói.
Susan gạt một lọn tóc tím ra khỏi mắt mình. “Viên cảnh sát hỏi tại sao chị ta vội vàng như vậy”, cô kể tiếp, “và người phụ nữ giải thích rằng chị ta đi làm muộn. ‘Tôi nghĩ chị là một bác sĩ’, viên cảnh sát nói, ‘và có người đang ở trong tình trạng nghìn cân treo sợi tóc.’ ‘Không,’ người phụ nữ nói, ‘tôi là một người căng lỗ hậu’.” Susan cười khúc khích. Khuôn mặt của Henry mờ đi. Lúc này, Susan nhận ra rằng có lẽ Henry không thích trò đùa ấy, nhưng chẳng còn đường quay lại nữa rồi, vì vậy cô vẫn kể. “‘Một người căng lỗ hậu’, viên cảnh sát nói. ‘Tức là sao?’ ‘Thì ban đầu nhét một tay vào chỗ đấy’, người phụ nữ đáp”. Susan nhấc một ngón tay lên và vẩy vẩy để miêu tả. “‘Rồi nhanh chóng làm tiếp như thế cho đến khi nhét được toàn bộ bàn tay vào đó’.” Susan diễn tả như đang nhồi một con gà tây. “‘Cứ thế cứ thế, anh cứ kéo căng ra cho đến khi nó dài khoảng 6 feet’.” Cô vẫn diễn tiếp màn kịch này. “‘Chị làm gì với một cái lỗ hậu dài 6 feet?’ Viên cảnh sát hỏi.”
“Để tôi đoán nhé”, Henry nói. “Đưa cho nó một cái huy hiệu cảnh sát đúng không?”
Susan buông tay thả lỏng vào lòng. “Anh nghe chuyện này rồi”, cô nói. Henry bấm chuông. “Chuyện của tôi vẫn hay hơn”, anh nói. “Tôi có thể viết một cuốn sách hay về vụ này.” Susan tiếp lời, “Thậm
chí có thể là một thứ gây ảnh hưởng”. Cả hai đều biết câu này có nghĩa là gì. Không giống như Nạn nhân cuối cùng, “Gretchen là nhân vật nổi danh trong lòng một số người. Tôi muốn khám phá điều đó. Tôi quan tâm đến sự đam mê với bạo lực.”
“Thôi nào, Susan”, Henry nói, đưa tay ra sau gáy. “Để anh ấy sống tiếp đi.”
“Anh có biết bây giờ tôi đang viết cái gì không? Một quyển sách tào lao kể về một ngàn cách chết kỳ lạ của con người. Ví dụ một năm có bao nhiêu người chết vì dừa rơi.”
“Thế có bao nhiêu người?” Henry hỏi.
“Khoảng một trăm năm mươi”, Susan đáp. “Chúng thật sự nguy hiểm đấy.” Cô lại giơ ngón tay lên. “Trọng điểm là tôi chẳng thể viết sách về Gretchen mà không có anh ấy.” Cô nhìn Henry bằng ánh mắt khẩn khoản.
Một giọng nữ chập chờn vang lên trong hệ thống liên lạc. “Tôi có thể giúp gì cho bạn không?”
“Tới rồi”, Henry lẩm bẩm. “Henry Sobol đến gặp Archie Sheridan”, anh nói.
“Tôi sẽ ra ngay”, tiếng nói vang lên rõ ràng.
Susan chưa sẵn sàng từ bỏ. “Tôi đã chứng kiến cô ta cứa cổ anh ấy”, cô nói. Cô và Henry đều đã ở đó. Susan đã giữ một chiếc khăn trên cổ Archie, đã cảm thấy máu ấm của anh thấm ướt khăn. Cô tự trách mình vì Gretchen đã trốn thoát. Cô băn khoăn không biết Henry có đổ lỗi cho cô hay không. Sau tất cả, chính Susan là người rơi vào hoảng loạn, để Gretchen có cơ hội vớ được khẩu súng.
Henry nhìn cô từ đầu đến chân rồi cau mày. Susan nghĩ anh sẽ nói đôi câu cay nghiệt về mái tóc của cô. Nhưng thay vào đó, anh nheo mắt nhìn và nói, “Cô vẫn tự lo được cho bản thân phải không?”
“Tôi có uống vitamin”, Susan đáp.
Henry thở dài. “Tôi đang nói về việc thay đổi lộ trình đi làm của cô”, anh nói. “Khóa chặt cửa vào ban đêm. Những việc như thế ấy.” Lông tay Susan dựng đứng lên. Henry sẽ chỉ hỏi điều đó nếu anh nghĩ có khả năng cô sẽ gặp nguy hiểm. “Chúa ơi”, cô nói. “Anh nghĩ đó có thể thực sự là cô ta.”
“Cẩn thận đề phòng vẫn hơn”, Henry nói. “Cô có tự lo được không?” Nỗi lo lắng thít chặt lấy cổ họng của Susan. Cẩn thận đề phòng ư? Cô đã chuyển về ở với mẹ. Họ đã không khóa cửa trong khoảng thời gian lâu đến nỗi Susan không nhớ nổi, cho tới hai tháng trước. Kể từ đó, mẹ cô, bà
Bliss, đã mất tám chiếc chìa khóa. “Ngoài đó đã xảy ra chuyện gì?” Susan hỏi. “Có chuyện gì mà các anh không công bố ư?”
Cánh cửa mở ra và một y tá xuất hiện.
“Lẽ ra tôi không nên nói gì mới phải”, Henry nói với Susan. “Anh cho rằng suốt thời gian qua tôi không nghĩ tới cô ta ư?” Susan nói. “Tôi thấy khuôn mặt cô ta ở mọi nơi tôi đến. Nó xuất hiện trên các kênh truyền hình. Hôm qua tôi thấy một đứa trẻ trên phố bán áo phông có chữ Chạy đi, Gretchen đến. Họ bán những móc khóa điện tử hình trái tim đếm ngày kể từ khi cô ta trốn thoát. Ở L.A, anh có thể làm móng kiểu Gretchen Lowell. Màu hồng Pháp với đầu móng thẫm màu máu.” Y tá nhìn Susan chằm chằm. Susan không quan tâm.
“Nếu cô ta quay lại vùng này”, Susan nói, “thì người dân có quyền được biết. Anh phải công khai chuyện đó.”
Henry đi qua cánh cửa.
“Tôi sẽ đợi ở đây.” Cánh cửa đóng lại. Susan ngồi phịch xuống ghế. Nếu Gretchen trở lại thì ả sẽ xử từng người một, chỉ để cho vui. Cô lại gọi cho Derek.
Anh ta không nhận điện thoại.
Susan thọc tay vào túi, rút chìa khóa xe ra và kiểm tra con số điện tử trên móc khóa. Gretchen đã tự do bảy mươi sáu ngày và vẫn đang phải đếm tiếp.
Một quán bar ở trung tâm thành phố hứa sẽ phục vụ Bloody Mary miễn phí cho một trăm cô gái tóc vàng đầu tiên bước qua cửa, nếu Gretchen trốn được một trăm ngày.
Nếu bạn sắp bị giết thì say xỉn một chút vẫn tốt hơn.
CHƯƠNG 7
Đ
ất sét là thứ cuối cùng còn đọng lại trong tâm trí Archie, anh vẫn lăn nó dưới tay cho đến khi nó trở thành một quả bóng mịn. Thời gian làm thủ công buổi sáng đã bắt đầu được mười phút. Archie đang ngồi đối diện với anh bạn cùng phòng, Frank. Thời kì thủ công. Gretchen đang ở một nơi nào đó ngoài kia, giết người thêm lần nữa, còn anh đang chơi với đất sét trong trại để giải trí.
Archie không bận tâm đến mấy món đồ thủ công. Anh không ngại tiếng ngáy của Frank hay các buổi trị liệu theo nhóm, thậm chí là chuyện đi dép lê. Anh dần thích việc được nhắc nhở khi nào nên ăn, khi nào nên ngủ. Càng ít trách nhiệm, anh càng có ít cơ hội khiến họ thất vọng.
Anh bị nhốt. Và anh được tự do. Đội của anh, đội đặc nhiệm mà anh đã dẫn dắt trong quãng thời gian thành công của sự nghiệp đã ra ngoài tìm kiếm Gretchen Lowell mà không có anh. Và lần đầu tiên trong suốt khoảng thời gian dài, anh không còn quan tâm đến nó nữa. Nếu Gretchen muốn anh chết, ả sẽ giết anh. Dù anh ở đâu cũng thế thôi. Họ sẽ không bắt được ả. Không thể, trừ khi ả muốn bị bắt.
Rồi Henry bước vào. Và bất chấp bản thân, Archie vẫn cảm thấy nỗi ám ảnh cũ bị khuấy động.
Henry kéo chiếc ghế từ một cái bàn khác và ngồi xuống với Archie và Frank.
“Lá lách dê”, Henry nói. “Nhãn cầu.”
Hầu hết các bệnh nhân khác đều ở ngoài ban công hút thuốc, ngoại trừ tivi đang bật kênh Animal Planet oang oang thì phòng sinh hoạt chung thật yên tĩnh. Archie nhìn qua bàn sang phía Frank. Gã đang tập trung vào cục đất sét và không hề ngước lên.
Henry rướn người về phía trước và nghiêng đầu về phía Frank. “Tôi có thể nói chuyện trước mặt anh ta không?”
“Giữa Frank và tôi không có bí mật nào cả”, Archie nói. “Đúng không, Frank?”
“Đất sét cảm giác giống như em bé ấy”, Frank đáp.
Henry hắng giọng. “Được rồi, vậy…” Anh nói. Anh gãi tai và nhìn Archie. “Pháp y nói rằng chúng ta tìm được đôi mắt.”
“Thế là tốt. Đôi.” Anh mỉm cười với Henry. “Nếu không, chúng ta sẽ phải tìm những tên cướp biển.”
Henry nói tiếp. “Bên pháp y nghĩ rằng chúng được bảo quản bằng formaldehyde trước khi được bỏ vào đó.”
Archie tiếp tục xoay lòng bàn tay lên quả cầu đất sét ở trên bàn. “Có khớp với ai không?” Anh giữ khuôn mặt bình thản, còn đôi mắt thì nhìn chăm chú xuống tay mình, cố gắng tập trung vào cục đất sét.
“Không có trong kho dữ liệu của khu vực. Chúng tôi đang tìm kiếm rộng hơn. Cậu có nghĩ rằng chúng ta nên khai quật vài thi thể để đối sánh không?”
“Gretchen không bao giờ móc mắt ai.”
“Gretchen không bao giờ làm bất cứ điều gì”, Henry nói, “cho đến khi cô ta làm việc đó.”
Archie lấy tay dụi mắt. Họ đã cho anh uống thuốc an thần khi anh quay về đêm hôm trước, và anh vẫn cảm thấy choáng váng. “Tăng cường lực lượng bảo vệ Debbie”, anh thở dài nói. Anh không nghĩ Gretchen sẽ bám đuổi Debbie và lũ trẻ thêm lần nữa. Ả từng khủng bố anh bằng mánh khóe đó, ả không thích lặp lại chính mình. Nhưng sự bảo vệ có thể giúp gia đình anh yên tâm hơn.
“Đã lo xong rồi”, Henry đáp. “Cảnh sát Vancouver đã đặt xe theo dõi trước cửa nhà cô ấy. Bọn trẻ được hộ tống đến trường. Chúng tôi đã làm mọi thứ mà chúng ta từng nhắc tới.” Henry vuốt ria mép bằng ngón tay cái và ngón trỏ. “Tôi muốn cậu cân nhắc đến chuyện rời khỏi thành phố.”
“Boca Raton cũng đẹp đấy”, Frank lên tiếng.
“Gretchen sẽ tìm thấy tôi dù tôi đi tới đâu”, Archie nói một cách vô cảm. Nó chỉ đơn thuần là sự thật.
Henry khoanh cánh tay to lớn lên bàn và cúi người về phía trước. “Nhưng báo chí có thể không tìm thấy anh”, Henry nói. “Cậu không biết
ngoài kia như thế nào đâu. Hội đồng thành phố đang xem xét phát lệnh giới nghiêm. Có một công ty chuyên cung cấp mấy chuyến tham quan Gretchen Lowell chết tiệt.” Cổ anh đỏ ửng lên khi nói. “Họ vẽ khuôn mặt cô ta lên những chiếc xe bus. Tại sao cậu lại nghĩ Debbie sẽ chuyển đến Vancouver? Nhờ thuế tài sản sao?”
Trên Animal Planet, một bác sĩ thú y đang cố cứu một chú mèo bị xe đâm. Archie đã xem tập phim này tám lần. Cuối cùng chú mèo cũng chết. Việc giết chóc sẽ không dừng lại cho đến khi Gretchen muốn dừng. “Tôi muốn giúp”, Archie nói. “Tôi sẽ hỗ trợ ý kiến từ đây.” Ở bên kia bàn đối diện với Archie, Frank đang cúi đầu, nặn cục đất sét thành một cuộn dài hai feet bằng chiều rộng của ngón tay cái. “Rời khỏi thành phố đi. Tôi sẽ tìm một nhà thương khác cho anh nếu anh muốn. Ở New Hampshire. Hoặc một nơi nào đó thật xa.” Thật ra New Hampshire nghe có vẻ tốt. Xa xôi nghe có vẻ hay. Nhưng không ai nắm rõ hồ sơ vụ án Mỹ nhân đoạt mạng bằng Archie. Henry cần Archie. Và Archie biết điều đó. “Hãy gọi cho tôi nếu có bất cứ tiến triển gì mới”, Archie nói. “Tôi vẫn chờ.”
“Lần cuối cùng tôi gọi cho cậu”, Henry trả lời, “một người phụ nữ nói với tôi rằng cô ta sẽ bắt anh, sau đó đi lang bạt không bao giờ trở về nữa.” Chỉ có một chiếc điện thoại cho bệnh nhân được phép sử dụng. Chỉ nhận cuộc gọi đến. Khi nó reo lên, mọi người đều nhảy bổ vào nó. “Họ không nên để những người điên trả lời điện thoại”, Henry nói. Frank nhìn lên từ cuộn đất sét và mỉm cười.
“Loại người duy nhất có mặt ở đây là những kẻ điên”, Archie nói. Henry dựa lưng vào ghế, khoanh tay lại và tựa cằm lên ngực. “Cậu định trốn ở đây hết quãng đời còn lại à?”
Archie không trả lời.
Henry nhìn anh, quai hàm cử động, cơ bắp nhô lên dưới da. Archie gần như có thể thấy Henry đang cố tìm những lý lẽ khác nhau. “Không ai biết”, rốt cuộc Henry cũng lên tiếng. “Rằng cậu đã vượt qua bài kiểm tra tâm lý, cậu có thể trở lại làm việc. Với thế giới ngoài kia, cậu vẫn là một anh hùng. Một Philip Marlowe chết tiệt.”
Ở
Ánh mắt Frank giật giật, tia hoảng hốt bật lên sau cặp kính. “Ở đây không được nói tục.”
“Xin lỗi, Frank”, Henry nói. Anh cúi xuống, đảo hàm mấy cái trước khi nói tiếp. “Không được rời khỏi phòng bệnh”, Henry nói với Archie. “Tôi cần đảm bảo cậu vẫn an toàn.”
Archie nhận được đặc quyền của bệnh viện. Anh có thể lang thang tới bất cứ nơi nào anh muốn, miễn là đến tối lại quay về. Người ta gọi là Cấp độ Bốn. Archie đã ở cấp độ Một khi tự xin vào đây. Anh đã từ mức nguy cơ cao xuống mức chỉ bị xao động nhẹ.
“Không bao giờ”, Archie nói. “Tôi đi thì ai chơi với Frank?” Frank bắt đầu gấp con rắn đất sét mà gã tự chế, liên tục từ trước ra sau, từ sau ra trước.
Henry nhướng mày nhìn Frank. “Anh đang làm gì vậy, anh bạn?” Henry hỏi gã.
Đôi mắt của Frank lướt lên tivi, rồi gã mỉm cười với cục đất sét. “Ruột mèo”, gã đáp.
Henry liếc nhìn Archie. “Tốt thôi”, anh nói.
Cánh cửa ban công mở ra và mọi người bắt đầu quay lại, những ánh mắt trống rỗng của họ được nâng cao trong phút chốc bởi nicotine. Một buổi trị liệu nhóm sẽ bắt đầu trong vài phút tới. “Anh phải đi rồi”, Archie nói với Henry.
Henry đứng dậy, ngập ngừng. “Susan Ward đang ở ngoài kia”, anh nói. “Tôi biết”, Archie đáp. “Cô ấy thích dùng trộm Wi-fi.”
“Anh không muốn gặp cô ấy sao?” Henry nói.
Thật ra đã vài lần Archie suýt cho Susan vào. Nhưng anh luôn tự kiềm chế bản thân. Vướng vào Susan là điều cuối cùng ả cần. “Tôi muốn hoàn thành món đồ thủ công của mình”, Archie trả lời.
Henry đút tay vào túi và quay đi. “Hãy nghĩ về những điều tôi vừa nói”, anh nói với Archie, bắt đầu gợi ý. “Tôi nghe nói mùa thu ở New England rất đẹp.”
“Henry”, Archie lên tiếng chặn họng Henry. Giọng anh đanh như thép, cục đất sét bị bóp nghẹt trong tay. “Anh phải ra lệnh bắn ngay lập tức. Chúng ta không thể để cô ta thoát thêm lần nữa.”
“Đó là điều tuyệt vời nhất cậu từng nói trong suốt mấy tháng qua, bạn của tôi”, Henry nói.
Frank cười khẽ. Đó là lần đầu tiên Archie nghe thấy gã cười. Đó là một âm thanh đáng lo ngại, nghe như một đứa trẻ đang khóc.
CHƯƠNG 8
C
huyến tham quan Mỹ nhân đoạt mạng dừng bốn lần một ngày tại Pittock Mansion. Randy chạy xe buýt qua đây, sau đó, tất cả khách du lịch đi theo hướng dẫn viên mua vé vào biệt thự, rồi được dẫn qua ngôi nhà đến nơi Gretchen Lowell đã vứt xác một bác sĩ phẫu thuật tên là Matthew Fowler. Hướng dẫn viên sẽ chỉ vào vị trí trên bãi cỏ nơi họ tìm thấy cái xác và những kẻ điên sẽ chụp ảnh.
Randy đợi trong xe buýt.
Người Portland bắt đầu chụp những bức ảnh cưới tại cung điện bằng đá xây từ năm 1914 kể từ khi một trong những cháu trai của Pittock bán tòa nhà cho thành phố vào những năm 60.
Hắn tự hỏi dạo này có bao nhiêu bức ảnh cưới có sự hiện diện của cái áo chết giẫm Chạy đi, Gretchen đến lảng vảng trên phông nền. Bây giờ là 10 giờ. Điểm dừng chân tiếp theo là một nhà nghỉ ở Bắc Portland. Randy thích nơi này. Hắn thích nhìn khuôn mặt của đám khách du lịch khi hướng dẫn viên mở nắp máy làm đá và họ nhìn thấy mấy cái dương vật giả bằng cao su mà chủ nhà trọ đặt vào để gây cười. Gây cười.
Hắn cần một công việc khác.
Randy cởi chiếc áo phông Chuyến tham quan Mỹ nhân đoạt mạng, lộn trái rồi mặc lại và ra khỏi xe buýt để hút thuốc. Lẽ ra hắn không nên rời khỏi xe, nhưng kệ xác nó chứ. Họ định làm gì hắn nào?
Đám khách du lịch đã vào trong, hẳn là đang chiêm ngưỡng cầu thang cong cong làm bằng đá cẩm thạch ở tiệm đồng giá 7 đô, vì vậy Randy châm thuốc và đi bộ xung quanh mặt trước ngôi nhà. Người ta không tính phí khi đi quanh sân. Chuyến tham quan Mỹ nhân đoạt mạng có thể đưa khách du lịch đến đúng nơi Fowler đã chết, nhưng thay vào đó, họ khiến khách du lịch phải trả tiền để vào bên trong biệt thự. Điều này làm cho
người dân ở Pittock vui sướng và mọi người có cuộc sống sung túc hơn nhờ kẻ giết người hàng loạt được “yêu thích” của đất Portland. Tòa biệt thự nằm cách Portland một ngàn feet, vào một ngày đẹp trời như thế này thì quang cảnh nơi đây thật tuyệt vời. Hôm nay bạn không thể nhìn thấy mấy thứ xấu xí. Không phải núi Hood. Không phải núi Saint Helens. Chắc chắn không phải Adams. Chỉ thấy được những đám mây xám xịt trông dày cả dặm. Thế là tốt nhất. Họ cần một cơn mưa. Mấy tháng nay, cả thành phố đã khô quắt lại rồi.
Randy đi tới ngoài rìa, nhìn ra phía vách đá phủ tán cây rậm rạp dẫn xuống thành phố, rồi ném điếu thuốc qua hàng rào giăng bằng dây xích màu đen.
Ngay lập tức, hắn nhận ra mình vừa làm chuyện gì. Những bụi cây trên sườn đồi như củi khô. Sau cùng chỉ cần một mồi lửa của hắn mà thôi. Hắn đứng ở hàng rào, quét mắt qua sườn đồi để chắc chắn rằng đầu mẩu thuốc đã được dập tắt - và đó là khi hắn nhìn thấy thứ ấy. Ban đầu hắn nghĩ nó là một quả bóng rổ cũ xì hơi. Nó nằm trong bụi cây, giống như có người đã ném nó từ chính nơi Randy đang đứng. Nhưng khi hắn cúi xuống để nhìn rõ hơn, hắn nhận ra với sự rõ ràng bất thường rằng, đó là một cái đầu lâu.
Hắn bủn rủn cả người, phải chật vật vừa bò vừa chống tay để không bị ngã. Khi đứng dậy, hắn dùng hết sức bình sinh chạy về biệt thự. Hắn chỉ mơ hồ nhận ra làn khói bốc lên từ sườn đồi phía sau.
CHƯƠNG 9
S
usan liếc xuống mớ bình xịt tự vệ đặt trên ghế phụ trong xe của mình. Bình xịt hơi cay của hãng Mace. Một số loại thảo dược có độc mà mẹ cô đã làm từ hạt nhục đậu khấu. Cô quăng chúng vào chiếc túi để mở, khởi động xe và rời khỏi nhà xe bệnh viện.
Bộ phận cơ thể.
Cô ngước nhìn bầu trời. Trời không mưa từ đầu tháng 7, nhưng hôm nay tầm mắt chẳng thấy trời xanh nữa. Trạm dừng chân của Gorge nằm cách đây bốn mươi lăm phút lái xe. Cô có thể tới đó trong ba mươi phút, trừ khi trời bắt đầu mưa.
Cô bỏ CD nhạc của Jimi Hendrix vào dàn âm thanh trên xe và ra khỏi khuôn viên bệnh viện, đột nhiên chiếc điện thoại nhét trong lòng cô rung lên và suýt nữa khiến cô va vào chiếc Ford Explorer. Susan đạp mạnh phanh, khiến đồ trong túi đổ rơi xuống sàn xe. Người phụ nữ ngồi sau tay lái chiếc Explorer có mái tóc vàng. Đầu cô ta quay ra chỗ khác nên Susan không thể nhìn thấy khuôn mặt cô ta. Nhưng mái tóc đó gợi nhắc đến vài chuyện.
Cơ thể Susan lạnh đi.
Gretchen.
Susan đờ người trong giây lát. Chiếc xe của cô bị chết máy, cô vội chộp lấy còi xe và bấm với hy vọng việc ấy sẽ khiến người phụ nữ kia nhìn lên, nhưng cô ta vẫn tiếp tục đi tới.
Susan liếc qua đường, bên đó có một tấm biển quảng cáo in khuôn mặt của Gretchen, nó quảng cáo cho chương trình Những kẻ giết người hàng loạt quyến rũ nhất nước Mỹ phiên bản đặc biệt. Một cô gái tóc vàng khác lái xe qua.
Susan lắc đầu, khởi động lại động cơ của chiếc Saab và lái lên phố Glisan.
Thật nực cười làm sao!
Gretchen đã rời khỏi đây từ lâu rồi. Và nếu không phải thế thì cũng chẳng thể bắt gặp Gretchen Lowell chết trong một chiếc Ford Explorer được.
Điện thoại lại rung lên và Susan lưỡng lự.
Cô nhắm mắt lại. Điều này không thể tiếp diễn. Với tốc độ này, cô sẽ chết vì vỡ mạch vành trước khi bước sang tuổi ba mươi mất. Điện thoại. Cô thò tay xuống cầm nó lên và trả lời. Cô gần như không thể nghe rõ giọng nói ở đầu bên kia trong tiếng rít của guitar điện phát ra từ chiếc loa bật lớn tiếng. “Gì cơ?” Cô nói.
Giọng nói trở nên to hơn. “A lô?” Đây là giọng của một người đàn ông. Cô không nhận ra giọng nói này. Anh ta có vẻ ngượng ngập. “Xin chào?” Susan tắt nhạc trên xe. “Xin lỗi”, cô lên tiếng. “Là Mày đã biết tay chưa.”
“Tôi làm sao cơ?” Anh ta hỏi lại.
“Không phải nói anh”, Susan đáp. “Là album nhạc. Mày đã biết tay chưa của Hendrix.” Có lẽ lúc này đang là giờ nghỉ trưa tại bệnh viện, xe cộ chạy chậm rì. “Tôi có thể giúp gì cho anh?”
“Cô Susan Ward phải không?” Người đàn ông nói.
Đây là tên đầy đủ của cô. Những ngón tay của Susan siết chặt vỏ bọc vô lăng bằng da cừu. Cô biết chuyện này đang đi đến đâu. “Hôm qua tôi đã gửi thanh toán khoản vay sinh viên rồi mà.” Cô đang nói dối. “Tôi thề đấy.”
Đầu bên kia im lặng một hồi. “Gì cơ?” Người đàn ông hỏi lại. Đoạn này trên phố Glisan chỉ toàn tiệm hoa và quán bar. “Anh không phải ở bên Sallie Mae sao?” Susan hỏi.
“Không”, người đàn ông đáp.
Susan thầm liệt kê đống hóa đơn xếp cạnh tạp chí Vogue trên bàn cà phê của mình. “Visa à?” Susan đoán.
“Tôi không phải bọn thu nợ đâu”, người đàn ông nói.
“Ồ, thế thì tốt”, Susan đáp. Ngã tư phía trước sắp chuyển đèn đỏ và Susan dừng lại phía sau hàng dài ô tô. Trời bắt đầu mưa khiến cô bật cần
gạt nước, nhưng chiếc cần gạt đó đã đến lúc phải thay rồi, nó chỉ làm cho tầm nhìn kém đi thôi.
“Tôi muốn trao đổi với cô một chuyện”, người đàn ông nói tiếp. Những ngón tay của Susan lại siết chặt. Một độc giả phiền phức. Hay thật. Tại sao mọi người cứ chọc tức cô mỗi khi cô khó chịu nhỉ? “Nếu anh thấy có vấn đề với những gì tôi đã viết, vậy tốt hơn hết anh nên viết một lá thư cho biên tập viên”, cô nói.
“Cô đã gửi tin nhắn trên trang web của tôi”, anh ta nói. “Cô nói rằng cô rất muốn viết về nhóm của chúng tôi.”
Mấy tuần qua Susan đã viết thư cho hàng trăm trang web hâm mộ Gretchen Lowell để xin phỏng vấn và lấy thông tin. “Anh là ai?” Cô hỏi. “Trang web nào?”
“Có một thi thể ở số 397 Bắc Fargo”, người đàn ông nói.
Không vui đâu nhé. “Anh là ai hả?” Susan hỏi.
“Một kẻ biết thưởng thức cái đẹp”, anh ta nói.
Có điều gì đó cực kỳ nghiêm trọng ẩn trong giọng nói của người đàn ông này khiến cô ớn lạnh.
“Anh nói thật chứ?” Susan hỏi tiếp.
Ai đó phía sau xe cô bấm còi, cô ngước lên, thấy đèn đã chuyển màu. Cô quay lại và thấy một người đàn ông trong chiếc SUV màu đen đang giơ ngón tay về phía mình. Cô nhấn ga. “A lô”, cô nói vào điện thoại. Cô nhìn vào màn hình LCD của chiếc điện thoại. Đã ngắt kết nối. Trái tim Susan đập dồn dập. Cô tấp vào lề đường, để anh chàng trong chiếc SUV lao vụt qua mình mà không hề liếc nhìn. “Cái quái gì vậy?” Susan khẽ nói. Cô chọn số gọi đến và gọi lại.
Không ai trả lời. Không có hộp thư thoại. Đó là một mã vùng địa phương. Nhưng cô không nhận ra đầu số.
Nếu có một thi thể ở đó thì tại sao hắn lại nói với cô? Tại sao không gọi cảnh sát? Cô có nên báo cho cảnh sát không? Điều đó thật ngơ ngẩn. Làm phiền họ chỉ vì dăm ba cuộc gọi kỳ lạ. Henry sẽ nghĩ đó là một trò đùa khác.
Nhưng nếu đó là sự thật và anh chàng đó đến từ một trong những câu lạc bộ người hâm mộ Mỹ nhân đoạt mạng, thì cô thực sự có thể viết một
cuốn sách. Cô sẽ chọn được nơi xuất bản nó. Archie thậm chí có thể chấp nhận phỏng vấn. Và cô sẽ có một chương mở đầu tuyệt vời… Địa chỉ là gì nhỉ? Khốn kiếp. Ba cái gì? 397? Susan nhìn xung quanh để tìm bút và thấy mấy cái trên sàn xe dưới ghế phụ. Cô rút một chiếc vỏ kẹo ra khỏi nơi mình nhét nó - một khe hở ở góc cửa xe và lật nó ra ngoài. Fargo. Cô viết lên mặt màu trắng bên trong vỏ. Ở Bắc Fargo. 397 Bắc Fargo. Cô gần như quả quyết.
Gorge đành phải chờ ở đó thôi.
CHƯƠNG 10
M
ỗi ngày có tám buổi trị liệu tại viện tâm thần Providence. Archie tham gia bốn trong số đó. Hai buổi trị liệu sức khỏe tâm thần theo nhóm. Hai buổi còn lại là nhóm điều trị lạm dụng chất gây nghiện. Archie chẳng rõ tại sao người ta lại chia nhóm như vậy. Người tham gia đều như nhau. Hầu hết bọn họ đều tham gia tất cả các buổi trị liệu. Bởi họ cần có việc để làm trong giờ nghỉ giữa các tập phim Phòng cấp cứu thú y.
“Anh có muốn ở lại không?” Sarah Rosenberg hỏi anh.
“Không”, Archie đáp. Anh giúp chị đẩy những chiếc bàn sang một bên, sau đó sắp xếp những chiếc ghế thành một vòng tròn ở giữa phòng. “Đây là buổi thảo luận về tâm thần phân liệt và rối loạn lưỡng cực. 2 giờ mới là lúc người trầm cảm họp mặt.”
“Khiếu hài hước của anh đang quay trở lại”, chị nói.
“Đây là một dấu hiệu tốt chứ?” Archie hỏi.
Anh theo người phụ nữ đi qua hội trường, tới một trong những phòng tư vấn cá nhân. Anh gặp Rosenberg hai lăm phút mỗi ngày. Anh không biết tại sao lại là hai mươi lăm mà không phải ba mươi. Nhưng anh đoán chuyện đó có liên quan đến vấn đề bảo hiểm.
“Debbie sao rồi?” Người phụ nữ hỏi.
Archie ngồi xuống một trong hai chiếc ghế bọc da màu nâu đặt đối diện nhau trong phòng. Một con mưa nhẹ va vào cửa sổ. “Chắc là hoi căng một chút”, anh đáp.
Rosenberg ngồi ở ghế đối diện và đặt tách cà phê lên tay vịn. “Đã xảy ra chuyện gì vậy?”
Archie không biết Henry đã công bố bao nhiêu chuyện. “Tôi chỉ nghĩ cuộc sống của cô ấy hẳn rất mệt mỏi. Cô ấy phải sống ngoài kia trong khi biết rằng Gretchen có thể xuất hiện bất cứ lúc nào.”
“Cô ấy có thích Vancouver không?” Rosenberg hỏi tiếp.
“Sống ở nơi khác khiến cô ấy cảm thấy an toàn hơn”, Archie nói. Thực ra họ không nói nhiều với nhau. Debbie đưa bọn trẻ đến thăm anh mỗi tuần một lần, nhưng cô không ở lại. Cô đã bắt đầu gặp gỡ một nhà thâu trong ngành năng lượng thay thế hay cái quái gì đó. Họ sẽ thả bọn trẻ ở đây và đi ăn ở trung tâm thành phố. “Tôi cố gắng không gây rắc rối cho cô ấy.”
Rosenberg nghiêng đầu nhìn Archie. “Sự an toàn của cô ấy rất quan trọng với anh”, chị nói.
Archie tựa đầu lên ghế và nhìn lên trần nhà. Trên đầu anh là một vòi phun nước. Để đề phòng anh bùng cháy. “Đúng vậy.”
Họ im lặng một lúc.
Archie có thể nghe thấy ai đó hét toáng lên ở phòng bên cạnh. “Anh có cảm thấy an toàn không?” Rosenberg hỏi.
Archie ngẩng đầu lên và vẫy ngón tay về phía chị. “Tôi nghĩ tôi biết chị định dẫn dụ chuyện này tới đâu”, anh nói.
Rosenberg nghiêng người về phía trước, đặt khuỷu tay lên đùi. “Anh đã dừng uống thuốc giảm đau. Sức khỏe của anh đã ổn định. Anh cần được kiểm tra để rời khỏi đây. Họ có chương trình ngoại trú tuyệt vời. Anh sẽ được hỗ trợ rất nhiều.”
Archie lắc đầu. Ngay cả khi anh muốn ra ngoài thì anh cũng chẳng có nơi nào để đi. “Men gan của tôi vẫn cao lắm”, anh nói.
“Nói thật, với số lượng Vicodin anh đã dùng, tôi rất ngạc nhiên khi anh không có tên trong danh sách cấy ghép gan.” Rosenberg nói tiếp. “Nếu anh muốn tôi cho phép anh ở lại, anh phải nỗ lực hơn nữa. Anh cần đi thực hành chức năng bên ngoài bệnh viện. Anh đang ở cấp độ bốn rồi. Đi dạo một vòng đi.”
Mưa đã tạnh. Archie nhìn ra cửa sổ. Mặt đất quá khô. Nhưng sẽ ngập thôi. “Cô ta đang ở ngoài kia”, anh nói. Anh có thể cảm nhận được ả. Đó là một ý nghĩ thật ngư ngốc. Mọi người không thể cảm thấy sự hiện diện của nhau. Anh cũng không phải là nhà ngoại cảm. Anh không tin vào hào quang, linh hồn hay kết nối vũ trụ. Nhưng anh vẫn hiểu hơn bất cứ điều gì trên đời, rằng Gretchen không bao giờ ở xa anh.
Rosenberg đặt tay lên tay Archie, nhìn thẳng vào mắt anh. “Ngoài kia luôn có những kẻ giết người hàng loạt”, chị nói. “Cũng như trong rừng
luôn có gấu.” Chị nắm lấy tay anh. “Điều tồi tệ vẫn xảy ra. Người vẫn sẽ chết.”
Archie không thể tập trung. Tiếng la hét từ bên kia hội trường càng lúc càng to hơn. Đó là giọng của một phụ nữ, nhưng Archie không nhận ra là giọng ai.
Anh tự hỏi kênh Thế giới động vật đang chiếu cái gì.
Rosenberg ngồi nhìn anh chằm chằm. Đang chờ đợi. Đó là những gì diễn ra trong phòng tâm lý, mọi người luôn dõi theo bạn, xem bạn có bị co giật hoặc la hét, hay nói rằng bạn đã ổn hơn, cảm ơn vì tất cả.
Archie rất giỏi chờ đợi. Đó là một kĩ năng hữu ích khi phỏng vấn các nhân chứng. Sự yên lặng nhẹ nhàng. Hầu như tất cả mọi người đều cảm thấy cần phải lấp đầy nó, và đó là khi các tình tiết nổi lên. Mọi người sẽ nói với bạn bất cứ điều gì chỉ để tránh việc ngồi trong im lặng.
Nhưng Archie vẫn chưa quen với vị trí là người thổ lộ. Anh rút tay khỏi tay người phụ nữ. “Chị cứ hỏi tiếp đi”, anh nói. Hỏi xong là anh có thể đi. Các buổi trao đổi với Rosenberg luôn kết thúc bằng ba câu hỏi tương tự nhau. Từ hôm qua đến giờ có gì thay đổi không? Tâm trạng của anh thế nào? Hiện giờ có mối quan tâm nào không?
“Nếu rời khỏi đây”, Rosenberg nói, “anh vẫn có một cuộc sống đang chờ.”
Cuộc sống nào? Anh đã đẩy gia đình mình đi. Công việc của anh thật vất vả. Anh không có nơi nào để sống. Thứ duy nhất anh có là Gretchen. Anh sẽ phải rời đi, tất nhiên. Anh biết rõ. Nhưng chưa phải lúc này. Anh chưa sẵn sàng rời đi.
Anh vẫn còn một con át chủ bài và anh quyết định dùng nó. Anh nhìn thẳng vào mắt người phụ nữ. “Tôi vẫn có thể gây nguy hiểm cho chính mình”, anh nói. Anh biết rằng chừng nào anh còn nói điều đó, họ không thể buộc anh rời khỏi đây. Nhưng đây là lần đầu tiên sau hai tháng, đó là một lời nói dối. Anh không muốn chết. Thỏa thuận với Gretchen đã bị hủy. Ả dọa sẽ tiếp tục giết chóc nếu anh tự sát, nhưng dù sao bây giờ ả cũng đã bắt đầu trở lại con đường giết người. Anh được tự do làm điều đó, với đôi tay chỉ nhuốm máu bản thân.
Và anh không muốn chết.
Anh muốn giết chết ả. Anh muốn giết Gretchen. Đó là lý do tại sao anh phải ở lại đây. Bởi vì nếu anh trở lại thế giới ngoài kia, anh sẽ săn lùng và làm tổn thương ả.
Rosenberg cau mày khiến lông mày nhíu lại. “Đôi lúc anh phải tha thứ cho chính mình.”
Tha thứ cho chính mình ư? Đúng. Archie đưa một tay xoa gáy và cười méo mó. “Sarah”, anh nói. “Tôi đã quan hệ với một kẻ giết người hàng loạt.”
Rosenberg không bỏ lỡ dù chỉ một nhịp. “Anh ghét bản thân hơn ở phần nào trong chuyện này?” Chị hỏi.
Chị chờ đợi.
Nhưng việc trị liệu bằng im lặng đã không có tác dụng.
Có quá nhiều tiếng hét vọng tới từ bên kia hội trường.
Archie ngước nhìn về phía cửa.
“Họ có thể lo được”, Rosenberg nói.
Một tiếng đổ vỡ vang vọng qua các bức tường. Cả hai đều biết nó là gì. Một chiếc ghế nhựa đập vỡ kính.
Archie đứng dậy.
Tiếng hét càng to hơn.
“Gọi bảo vệ đi”, một người thét lên.
Archie đi qua cửa và bước vào hội trường. Rosenberg đi theo sau, hai y tá đang đi quanh góc phòng. Hệ thống tự động đã hoạt động. Qua cánh cửa kia. Ba người tranh nhau chạy qua anh khi anh bước vào. Có năm người trong phòng. Người tư vấn, đang cúi người, chảy máu, đằng sau một cái bàn bị lật. Hai người phụ nữ đứng đờ người bên tường. Frank, vẫn ngồi trên ghế nhựa, hai đầu gối tách ra, treo một nụ cười choáng váng trên mặt. Và người phụ nữ đứng giữa phòng, gù lưng, khóc lóc, nắm lấy mảnh vỡ của thứ gì đó cứng và đẫm máu.
“Ôi, Chúa ơi”, Archie thốt lên.
Tên của người phụ nữ là Courtenay Taggart. Cô vừa được chuyển lên từ phòng cấp cứu với cổ tay bị băng bó, sau đó đã tìm cách bóc một mảnh Formica khỏi chiếc bàn liền giường ngủ và cố gắng kết liễu đời mình. Trước giờ cô luôn bị theo dõi để tránh tự tử. Họ đã lấy mọi thứ ra khỏi
phòng, chỉ để lại cái nệm. Cánh cửa phòng cô không bao giờ đóng. Có một nhân viên ngồi ngoài cửa canh chừng 24/7. Archie đã nhìn thấy cô vài lần qua ô cửa khi anh đi ngang qua hội trường, khi ấy cô nằm trên giường như một đứa trẻ.
Bây giờ cô quay về phía anh và đặt mảnh vỡ lên da thịt mềm mại trên cổ. Rõ ràng cô đã tìm thấy một mảnh Formica khác.
“Cô đang làm gì vậy, Courtenay?” Archie hỏi.
Anh đoán cô khoảng hai mươi tuổi. Cô có thể trông trẻ hơn nếu mặc quần áo bình thường thay cho bộ đồ màu xanh lá cây của bệnh viện. Mái tóc nhuộm vàng được vén ra sau. Khuôn mặt ửng hồng. Cô có gương mặt đẹp, đôi má bầu bĩnh và làn da chưa bao giờ thấy khuyết điểm.
Cô mở miệng định nói gì đó và rồi Archie thấy đôi mắt cô phóng ra sau lưng anh. Anh quay đầu lại, thấy người bảo vệ đang di chuyển thận trọng từ cửa đi vào. Cậu ta là một chàng trai trẻ, người góc cạnh, mạnh mẽ và khỏe khoắn với mái tóc ngắn, cùng khuôn mặt vuông. Archie từng nhìn thấy cậu ta trong hội trường, khi ấy đang đẩy một cây lau nhà hoặc lái đẩy một chiếc xe đồ ăn.
“Bỏ nó xuống”, cậu bảo vệ nói.
Courtenay nhìn thẳng vào cậu ta và gí mảnh Formica vào cổ mình. Một trong những người phụ nữ co cụm bên tường thở hổn hển. “Cút ra”, Courtenay hét vào mặt cậu bảo vệ, khuôn mặt xinh đẹp của cô vặn vẹo, phun đầy nước bọt và nước mũi.
“Không sao đâu”, cậu ta nói. “Tên tôi là George. Còn cô tên là gì?” Archie nép mình lại. Đừng thừa nhận rằng cậu không biết tên cô ấy. Khuôn mặt cậu bảo vệ tỏ vẻ nghiêm túc, lòng bàn tay giơ lên, tư thế trung lập. Có lẽ cậu ta đã tham gia hội thảo về các tình huống bắt giữ con tin. Giới thiệu bản thân. Thiết lập mối quan hệ. Đánh trống lảng. “Courtenay”, Archie lên tiếng, cố gắng đánh lạc hướng cô khỏi cậu bảo vệ. “Tôi có thể giúp gì cho cô?”
Cô hất đầu về phía người bảo vệ. “Tôi không muốn anh ta có mặt ở đây”, cô nói. Một giọt máu chảy xuống cổ cô.
“Ra ngoài đi”, Archie nói với cậu bảo vệ bằng tất cả uy tín của mình. Archie nhìn xung quanh phòng. “Mọi người ra ngoài hết đi”, anh nói.
Người phụ nữ thở hổn hển bắt đầu khóc và ôm người phụ nữ còn lại. Người tư vấn cúi mình cứng ngắc trên sàn. Frank ngồi trên ghế, mỉm cười. Archie muốn căn phòng trống trải hơn. Ở đây có quá nhiều người. Anh cần khiến cho Courtenay bình tĩnh lại. Con người khi quá tức giận hay vui mừng thường đưa ra những quyết định không đúng đắn. Có quá nhiều yếu tố không thể đoán trước. Con tin quá tệ không thể quản lý được. Con tin
không ổn định về tinh thần khiến mọi thứ trở nên rất nguy hiểm. Archie quay sang cậu bảo vệ. “Tin tôi đi”, anh hạ giọng nói. “Tôi biết làm thế nào để xử lý chuyện này. Hãy ra ngoài đi.” Cậu bảo vệ liếc sang Courtenay. Rồi cậu ta quay lại với Archie, gật đầu và lùi lại. Hành động đó tựa như phá vỡ dấu niêm phong. Người tư vấn chạy ra cửa, nắm chặt cánh tay đang chảy máu, còn hai người phụ nữ theo ngay sau anh ta. Frank thì chẳng hề di chuyển.
Điện thoại bắt đầu đổ chuông.
“Nhân viên an ninh sẽ có mặt ở đây trong vài phút nữa”, một y tá từ chỗ cánh cửa nói vọng tới chỗ Archie.
Trong phòng chỉ còn lại ba người: Archie, Courtenay và Frank. Mũi của Courtenay phập phồng theo từng hơi thở và các đốt ngón tay trắng bệch của cô nắm chặt lấy mảnh vỡ Formica.
“Mọi thứ sẽ ổn thôi”, Archie nhẹ nhàng nói. Anh từ từ đưa tay ra. “Hãy đưa nó cho tôi.”
Courtenay nhìn thẳng vào mắt anh và gí mảnh Formica sâu hơn vào cổ, máu chảy dần xuống ngực cô.
“Cô không cần phải làm thế”, Archie nói.
Cô buông mảnh Formica, bàn tay trở nên hồng hào hơn. Nước mắt chảy dài trên má. “Tôi béo”, cô nói.
Cô không béo. Thậm chí cô chẳng mũm mĩm chút nào. Bộ đồ ngủ quá lớn khiến cô trông béo thôi. Đây là điều đã thúc đẩy cô tấn công một người tư vấn và cứa một mảnh bàn lên cổ hay sao?
“Đấy là Liti[4]”, Frank đang ngồi trên ghế, lên tiếng.
“Cô đâu có béo”, Archie nói. “Nếu đó là lý do khiến cô tự lấy mảnh bàn cứa cổ mình thì thật quá khờ dại.”
Điện thoại vẫn đổ chuông.
Archie có thể nghe thấy sự hỗn loạn trong hội trường. Mọi người la hét. Có người khóc. Các viện tâm thần như những vườn trẻ, nơi cơn giận dữ lan tràn.
Courtenay hất mặt về phía Archie. “Anh đã làm như thế nào?” Archie không biết cô nhìn thấy nó bằng cách nào, giống như anh có thể thấy cổ tay băng bó của cô. “Dùng thuốc”, anh nói.
“Anh có con chưa?” Cô hỏi.
“Hai đứa”, Archie đáp. “Sáu và tám tuổi.”
Điện thoại tiếp tục vang lên một cách kiên trì. Chỉ đến thế mà thôi, vì Archie không thể giật nó ra khỏi tường được.
Frank đứng dậy và di chuyển tới chỗ điện thoại.
“Frank, ngồi xuống”, Archie nói.
Frank ngước lên, giật mình bởi giọng điệu của Archie, rồi nhấc một ngón tay chỉ vào điện thoại. “Gọi cho tôi đấy”, gã nói. “Em gái tôi đang gọi.”
“Không quan trọng”, Archie nói qua hàm răng nghiến chặt. Courtenay dùng cẳng tay lau nước mũi. “Tôi tự cứa cổ tay mình”, cô nói. “Nhưng tôi đã làm sai cách. Tôi cắt theo chiều ngang. Lẽ ra phải cứa theo chiều dọc. Anh có hiểu không?”
“Ừ”, Archie nói.
Frank cười toe toét. “Nhớ này, bé con”, gã nói với giọng ê a, “bước xuống đường thôi chứ đừng chạy qua đường.”
“Frank”, Archie cảnh cáo.
Courtenay lắc đầu buồn bã. “Tôi không biết.”
Các đốt ngón tay của cô lại trắng bệch và khuỷu tay cô nhấc lên, Archie biết mình chỉ còn một giây để ngăn cô khỏi tự làm đau mình thêm lần nữa. “Cô không thể cắt động mạch cổ bằng thứ đó đâu”, anh nói nhanh. “Nó không đủ sắc.”
Anh bước tới vạch cổ áo ra, để lộ vết sẹo trên cổ. “Nhìn này”, anh nói, vừa nâng cằm vừa bước thêm một bước để cô có thể nhìn thấy đường sẹo xấu xí mà Gretchen để lại. Courtenay muốn trở nên xinh đẹp cơ mà. “Chỉ cần cô dừng việc tự làm đau chính mình thôi”, Archie nói.
Miệng của Courtenay mở ra trong khi ánh mắt cô di chuyển xuống cổ anh. Cô chớp mắt thật nhanh, sau đó buông miếng Formica rơi xuống sàn rồi gõ nhẹ ngón tay vào vết thương mình tự gây ra. “Tôi sẽ có một vết sẹo sao?” Cô hỏi, trán nhăn lại vì mất tinh thần.
Archie bước tới và dịu dàng ôm lấy vai cô gái. Đó vừa là cử chỉ an ủi, vừa để đảm bảo rằng cô sẽ không chộp lấy miếng Formica thêm lần nữa. “Tôi nghĩ vết thương này thậm chí còn chẳng cần khâu”, anh nói.
Ba nhân viên an ninh mặc đồng phục vội vã bước vào cùng cậu bảo vệ và Rosenberg theo sát phía sau. Họ túm lấy hai cánh tay của Courtenay và dẫn cô đi trong im lặng.
Archie đến bên chiếc điện thoại, nó vẫn đổ chuông trên chiếc bàn cuối cùng cạnh chiếc ghế dài. Anh nhấc máy lên.
“A lô?” Anh nói.
Nhưng ở đầu bên kia chỉ có sự im lặng.
Archie cúp máy.
“Tôi sẽ về phòng mình”, Archie nói với Rosenberg. “Tôi cần một chiếc áo len.” Điều này là thật. Anh bỗng cảm thấy rất lạnh. Có lẽ do adrenaline vừa chảy xuống. Bệnh viện luôn được giữ lạnh hơn mười độ so với mức nhiệt khiến người ta thoải mái. Archie không biết tại sao lại thế. Có thể đó là cách để làm cho những bệnh nhân như anh khỏi lưu luyến sự tiếp đãi của họ.
Anh có hai chiếc áo len: một áo khoác len màu xanh lá cây và một áo chui màu xanh nước biển. Chúng nằm trong ngăn kéo dưới cùng của chiếc tủ quần áo dựa vào bức tường đối diện chân giường. Anh vừa mở ngăn kéo ra thì bỗng cảm thấy chút rung nhẹ. Ban đầu anh nghĩ đó là do thuốc. Họ đang điều chỉnh liều Prozac cho anh và đôi khi anh cảm thấy điện truyền xuống cánh tay mình, hoặc làm bộ não anh bừng tỉnh thông suốt lúc nửa đêm. “Những cơn sốt não”, nhóm y tá gọi chúng bằng cái tên ấy, như thể chúng là một tác dụng phụ hoàn toàn bình thường, giống như chứng đầy hơi vậy.
Nhưng sự rung động này không phải do thuốc.
Mà đó là một chiếc điện thoại.
Archie thừ người ra. Đã hai tháng kể từ lần cuối anh nghe thấy tiếng điện thoại rung, tiếng vo vo tần số thấp kỳ lạ đó, cả âm thanh và cảm giác
đó. Suốt mười lăm năm, anh luôn mang một chiếc điện thoại trong túi. Và trong hai tháng qua, anh đã quên nó.
Nó ở trong tủ quần áo của anh.
Anh đưa ngón tay lần mò dọc theo ngăn kéo tủ, cảm nhận sự rung động của điện thoại. Tiếng vo vo dừng lại.
Anh mở ngăn kéo thứ hai ra.
Chiếc điện thoại bị quần che mất một nửa, nhưng nó ở đó, rõ như ban ngày. Archie liếc nhìn camera gắn ở góc phòng. Camera ở góc khuất nên không thể nhìn thấy nó.
Anh thò tay vào ngăn kéo, giả vờ bị mê hoặc bởi một vết bẩn tưởng tượng trên chiếc quần nhung kẻ, còn bàn tay kia mò mẫm chạm tới chiếc điện thoại. Anh không lấy nó ra khỏi ngăn kéo. Năm trăm ba mươi tám cuộc gọi nhỡ. Một tin nhắn. Archie nhấp vào nó.
“Anh yêu”, nó nói. “Cảm thấy tốt hơn chưa?”
Cơ thể Archie cứng đờ. Gretchen.
Ả đã nhờ ai đó đặt chiếc điện thoại ở đó, một số nhân viên bệnh viện có lẽ đã nghĩ rằng nó sẽ giúp Archie giữ liên lạc với người thân. Đây là chiếc điện thoại thứ hai mà ả tìm cách chuyển tới chỗ anh. Anh đã phát hiện ra chiếc đầu tiên trong tuần thứ hai ở viện. Nó được gắn dưới bồn rửa trong phòng tắm. Anh vứt nó vào thùng rác trong nhà tắm, nhét dưới nửa cuộn giấy vệ sinh để nhân viên trông coi không nhìn thấy. Lần này Archie lấy điện thoại khỏi ngăn kéo và bỏ vào túi. Anh đang ở Cấp độ Bốn. Rosenberg đã bảo anh nên đi dạo một vòng.
CHƯƠNG 11
S
ố 397 Bắc Fargo là ngôi nhà đáng sợ nhất trong số những ngôi nhà trước mắt. Ngôi nhà gỗ cũ kĩ ấy bị bỏ hoang trên một lô đất trống từ lâu đã chuyển thành đồng cỏ giữa chốn đô thị. Mặt amiăng được sơn một màu nâu mà ngay cả khi còn mới cũng làm những người hàng xóm cảm thấy hổ thẹn và mái nhà lợp bằng tấm nhựa đường còn loang lổ rêu phong hơn cả bệnh zona. Tấm gỗ dán kín các cửa sổ. Dòng chữ Tránh xa được phun trên tấm gỗ che kín cửa trước. Nếu Susan muốn tìm kiếm địa điểm cho một bộ phim kinh dị thì cô chẳng cần tìm đâu xa xôi.
Đây hẳn là một trò đùa. Nó quá hoàn hảo.
Susan đậu xe bên lề đường, ngồi trong xe và nghểnh đầu nhìn khắp phố. Bây giờ đã gần trưa, xung quanh chẳng có ai. Trên lô đất đó không còn ngôi nhà nào khác, bãi đậu xe của nhà thờ bên kia đường vắng tanh. Cô suy xét các khả năng. Nếu có một thi thể trong đó thì sao? Cũng có khả năng lắm chứ. Chẳng hạn như mấy đứa sinh viên thừa hơi lẻn vào để tiệc tùng hoặc đọc thơ của Longfellow… thế rồi họ nhìn thấy một gã nghiện hay một kẻ vô gia cư đã chết. Sau đó họ không muốn báo cáo vì tránh gặp rắc rối do xâm phạm trái phép.
Chắc chắn rồi. Điều đó hợp lý đến hoàn hảo.
Hoặc có thể đó là một cái bẫy. Một tít báo Người đưa tín lóe lên trong tâm trí Susan: Một phóng viên dũng cảm bị sát hại sau khi lọt bẫy của Mỹ nhân đoạt mạng. Nhà báo - Susan tự sửa lại vì nhớ tới câu chuyện đùa của Henry.
Susan rút một điếu thuốc ra, châm lửa và nhìn chăm chú căn nhà thêm chút nữa.
Điều này thật nực cười. Cô lo lắng quá rồi. Bỏ qua chuyện này đi, Nancy Drew[5].
Cô ném điếu thuốc vào làn mưa, vớ lấy cái túi đựng bình xịt hơi cay và ra khỏi xe.
Giả vờ như bạn đang có việc ở đây. Quentin Parker đã dạy cô điều đó. Giả vờ như bạn có việc ở đây và sẽ chẳng ai hỏi bạn đang làm gì. Ông ta luôn mang theo một bảng tài liệu trong xe. Không ai đi hỏi một người đàn ông tay cầm bảng tài liệu, ông ta đã nói vậy.
Susan lục tung cái hộp - nơi cô cất bộ báo động khẩn cấp, rồi lấy ra một chiếc đèn pin cùng sổ ghi chép, cô nhét chúng vào trong túi và mang theo một bảng tài liệu cũ. Nếu có ai đó ở nhà thờ bên kia đường ngó sang thì họ sẽ thấy cô giống một người đang vận động bỏ phiếu, hoặc có thể là người đang thực hiện một cuộc khảo sát. Thưa ngài, trong nhà có bao nhiêu xác chết vậy?
Cô mặc quần jean đen, áo ba lỗ màu đen và đi bốt đế bằng màu đen. Cộng thêm mái tóc tím và bờ môi thoa son đỏ, cô trông giống một người làm việc lại quầy mỹ phẩm MAC hơn là người thực hiện các cuộc khảo sát trực tiếp.
Liệu bây giờ mọi người còn dùng bảng tài liệu khảo sát nữa không nhỉ?
Sải bước tự tin. Đó là một điều khác mà Parker dạy cô. Susan cố gắng sải bước thật tự tin, nhưng đó là một thử thách vì trời mưa khá nặng hạt và cô phải đi qua rất nhiều cỏ dại để tiến về phía trước.
Nhìn gần, ngôi nhà thậm chí còn tồi tệ hơn so với nhìn từ dưới phố. Hiên nhà cùng với cầu thang dẫn lên đó hơi nghiêng sang phải, trong khi cả ngôi nhà lại như hơi nghiêng sang trái. Susan đi vòng một bên qua bãi cỏ cao đến đầu gối. Cô kẹp bảng tài liệu dưới cánh tay. Thật vô nghĩa. Chẳng ai có thể nhìn thấy cô. Phía sau ngôi nhà, cô nhìn thấy thứ mình tìm kiếm - một miếng gỗ dán nằm trên mặt đất trước cửa sổ tầng hầm đã bị vỡ. Bạn không thể ngăn mọi người ra vào những ngôi nhà bỏ hoang. Đặc biệt là ở vùng này.
Susan lấy đèn pin ra khỏi túi, bật nó lên và ngồi xổm xuống gần cửa sổ. Mặt kính bị đập vỡ tan, vì vậy khung cửa không có mảnh vỡ nào nữa. Ánh sáng tự nhiên chiếu qua cửa sổ làm bên dưới hiện ra một mảng sáng hình chữ nhật chứa đầy bê tông và kính vỡ. Susan thò đầu vào, treo mình trên cửa sổ bằng một tay, tay còn lại đưa đèn pin ra xa hết mức có thể. Cô
không thấy được nhiều. Ống nước. Ống dẫn. Bê tông. Trông nó rất giống… một tầng hầm.
“Xin chào?” Cô nói với vào bóng tối. “Ở đây có người gọi pizza phải không?”
Âm thanh duy nhất cô nghe thấy là tiếng một chiếc xe buýt đi qua ngã tư kế tiếp. Nếu cửa đã bị vỡ từ trước thì có bị tính là phá hoại và xâm nhập trái phép không nhỉ? Hay chỉ bị coi là xâm nhập thôi? Nếu cô vào đó mà chẳng tìm thấy gì thì cứ thế mà đi thẳng, chẳng bao giờ tiết lộ chuyện này với ai. Susan không thể tin rằng bản thân mình lại thực sự suy xét đến điều này. Và cùng lúc đó, cô cảm thấy rùng mình vì sung sướng. Sáu tháng trước, cô vẫn đang viết những câu chuyện làm cảm động lòng người về động vật trong vườn thú. Nhưng chuyện này thú vị hơn rất nhiều.
“Tôi vào đây”, Susan nói. Cô nhét đèn pin vào túi, đưa hai chân qua cửa sổ và nhảy xuống sàn nhà bên dưới. Những mảnh kính vỡ vụn dưới đôi bốt của cô.
Ngôi nhà thật vắng lặng. Yên tĩnh lạ thường. Không có máy điều hòa trung tâm, không có máy nước nóng, không có tiếng tủ lạnh, không có âm thanh từ những ngôi nhà xung quanh.
Cô lại lấy đèn pin ra và bật nó lên. Đèn pin chiếu sáng vô số bụi bay trong không khí khiến chùm sáng trông như đông đặc lại. Một góc của tầng hầm bị ngập trong vũng nước ngầm thấm qua nền móng. Lon bia, tàn thuốc cùng chai rượu vỡ rơi vãi trên sàn nhà. Thoang thoảng đâu đó mùi nước tiểu.
Susan rùng mình. Đột nhiên cô cảm thấy bữa tiệc sinh nhật của một con voi có vẻ cũng không tệ lắm. Cô khao khát nhìn lên ô cửa sổ mình vừa nhảy qua. Bậu cửa cao ngang cằm. Cô gầy, nhưng không khỏe. Chẳng có cách nào giúp cô tự nhấc mình lên để trèo ra ngoài. Cô đảm bảo là vậy.
Cô bước vài bước do dự và rọi đèn pin lên cầu thang. Có rất nhiều thứ có thể giết chết bạn trong một ngôi nhà: radon, amiăng, nấm mốc độc hại, formaldehyde, carbon monoxide, chì, bọt polyurethane, sợi thủy tinh cách nhiệt. Ngôi nhà này chẳng nguy hiểm hơn những ngôi nhà khác là bao.
“Có ai ở nhà không?” Cô hô lớn. “Tôi đang thu thập chữ ký”, cô nói tiếp. Giọng cô nghe có vẻ giả dối và lo lắng. “Để hợp pháp hóa việc cá độ?”
Không có gì cả.
Cô thấy cái gì đó di chuyển. Chỉ là một ánh sáng lóe lên. Cô giật mình rọi đèn pin sang trái ngay khi thấy bóng lưng của một con chuột chạy vụt qua một lon bia.
Cô đi hết nửa cầu thang chỉ với hai bước chân. Không phải vì cô sợ chuột - cô tự nhủ, chỉ là đột nhiên cô rất vội mà thôi. Cầu thang dẫn lên bếp. Tất cả các cửa sổ đã được che kín, tầng một thậm chí còn tối hơn tầng hầm. Cô biết đó là nhà bếp vì thảm trải sàn rách rưới lỗ chỗ. Có những dấu chân trong lớp bụi phủ trên sàn nhà, có tới hàng chục dấu chân phân bố ngẫu nhiên, như thể đã có một vụ ẩu đả hoặc có người tổ chức nhảy nhót tập thể tại đây.
Trong bếp chẳng còn đồ đạc gì, chỉ còn những ngăn tủ bằng gỗ trống rỗng và những hốc gắn ống dẫn khí hiện rõ trên tường, nơi ấy trước đây từng có một lò nướng. Các bồn rửa chứa đầy lon bia. Không có xác chết nào hết.
Susan kẹp đèn pin vào nách, lấy sổ tay và bút ra khỏi túi. Cô phải giữ đèn pin dưới cằm để nhìn rõ những gì mình đang viết, mặc dù vậy, cô vẫn có thể xoay xở để ghi lại một vài ghi chú. Dấu chân. Lon Miller High Life. Sự ma quái vô cùng. Và cả chuột.
Cô cất cuốn sổ và cây bút, lại cầm đèn pin trong tay rồi đi theo ánh đèn rời khỏi bếp, tiến vào một hành lang tối tăm và đi về phía trước cho đến khi cô bị một tấm ga trải giường chặn lối vào phòng bên cạnh. Tấm vải đã được đóng đinh lên trần nhà và thả xuống sàn như một cánh cửa tạm thời. Thật xuất sắc.
Bệnh do chuột gây ra đã giết chết gần 13.000 người mỗi năm. Susan nghe thấy tiếng một chiếc xe buýt khác sầm sập lao qua. Cô cảm thấy bình tĩnh lạ lùng. Tựa như cô đang thấy chính mình trong
một bộ phim. Tựa như cô là một trong những cô gái một mình đi vào ngôi nhà ma quái trong khi khán giả che mặt lại và hét lớn để cô đừng làm điều đó. Ngôi nhà trống rỗng. Cô đã làm việc đó. Cô đã bò qua cửa sổ tầng hầm chết tiệt. Cô đã chiến đấu với một con chuột. Đó là một việc làm quả cảm thực sự. Cô sẽ kể chuyện này vào bữa tối trong nhiều tháng nữa.
Cô chỉ cần tìm đường ra mà thôi.
Ánh đèn pin của cô vẽ một vòng tròn vàng trên tấm vải. “Xin chào?” Cô nói. Cô lắng nghe, không mong nghe thấy gì, và rồi, cô từ từ kéo tấm rèm sang một bên và bước vào phòng.
Điều đầu tiên cô nhận thấy là nó sạch sẽ. Không phải sạch sẽ như bình thường. Mà là sạch đến kỳ lạ. Sạch đến phát điên. Ánh đèn pin chiếu xuống sàn gỗ cứng. Những bức tường và trần nhà mang màu trắng mới sơn. Nó có mùi khác lạ. Mùi như chất khử trùng. Giống như ở bệnh viện.
Dạ dày của Susan cuộn nhào khi cô cầm đèn pin soi xung quanh. Không có đồ đạc. Không có bụi bặm. Không có mạng nhện. Kẻ nào từng ngồi xổm ở đó cũng phải là một tên mắc chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế thực sự. Cô lia đèn pin qua cánh cửa trượt mở sang một phòng khác, và dừng lại. Ai đó đã treo một tấm nhựa trong suốt giữa hai phòng. Của hãng Visqueen. Mẹ cô cũng phủ một tấm như vậy trên đống phân ủ.
Cô quên mất mình đang làm gì. Cô quên mất rằng mình đang tìm một lối thoát. Cô di chuyển về phía tấm nhựa, đèn pin trong tay cô nhưng tấm nhựa dày đến mức tia sáng không thể xuyên qua để giúp cô nhìn thấy phía bên kia. Cô cố gắng kéo nó sang một bên nhưng nó được đóng đinh chắc chắn hơn tấm vải trong phòng lớn, cô phải cúi xuống và chui qua khe hở bên dưới chỗ bị đóng chặt.
Cô xoay người, đứng thẳng dậy rồi nhấc đèn pin lên nhìn xung quanh. Trong này có thứ gì đó.
Nút thắt trong bụng Susan siết lại. “Xin chào?” Cô nói.
Nó nằm dưới một tấm vải che. Có lẽ là một thứ đồ nội thất nào đó. Mọi người thường phủ một tấm vải trắng lên đồ đạc để bảo vệ nó nếu họ đi xa trong thời gian dài. Như những kẻ lắm tiền có tới hai căn nhà trong những năm 20 vậy. Đó không phải là đồ nội thất. Hay là quần áo cũ? Một cái gì đó mà kẻ ngồi xổm kia bỏ lại và có ý định quay trở lại?
Đó không phải là quần áo cũ.
Ai là người đã gọi điện cho cô? Và tại sao hắn lại làm thế? Gọi cảnh sát đi! Một giọng nói khẽ vang lên trong lòng cô. Nhưng thay vào đó, cô lại lục túi tìm sổ tay và cây bút.
Cô dùng đèn pin soi quanh vật trên sàn nhà. Bao quanh nó là tám đến mười chiếc đèn pin nhựa lớn màu đỏ trông như những món lễ vật, không có cái nào được bật lên.
Có lẽ chỉ là đồ sửa chữa gì đó.
Đó không phải là đồ sửa chữa.
“Được rồi”, Susan nói. Cô di chuyển về phía trước, cuốn sổ tay và cây bút được kẹp trong một tay, tay kia cầm đèn pin. “Mình sẽ xem thử.” Khi cô đến gần nó, cô bèn quỳ xuống và đầu gối quần jean đè lên cái gì đó ẩm ướt. Cô ngồi tựa lên gót chân và chiếu đèn pin xuống chân. Là máu.
Cô bật dậy. Máu ở mọi nơi. Thứ gì đó được ngâm trong máu. Máu đọng trên sàn nhà, nhớp nháp, sáng bóng dưới ánh đèn pin. Cô mở túi ra, chộp lấy bình xịt thảo dược rồi giơ nó lên, dùng ngón tay trỏ đặt trên vòi phun.
“Ổn chứ hả?” Cô hỏi với giọng nhỏ xíu.
Câu này thật ngu ngốc ngay cả khi chính cô là người nói ra. Chẳng ai chảy máu nhiều như vậy mà vẫn sống được. Đừng nhìn dưới tấm vải. Nhưng cô không kìm được. Cô phải biết. Cô giơ đèn pin lên quá đầu, dùng nó như một cái dùi cui tạm thời, sau đó mang khuôn mặt nhăn nhó, sử dụng bình xịt Mace để gạt tấm vải che kia ra.
Cô quan sát khuôn mặt anh ta, đôi lông mày và đám sẹo mụn bắt mắt, mũi thon, mặt tròn và cằm nhẵn nhụi, tất cả các chi tiết ấy sắp xếp trong não cô tạo thành một khuôn mặt, đó là một chàng trai trạc tuổi cô. Trong tích tắc, cô nghĩ anh ta vẫn ổn, rằng anh ta sẽ bắt đầu cười, rằng đó chỉ là một trò đùa ngu ngốc. Anh ta đang đội một chiếc mũ đồng phục bệnh viện ngớ ngẩn, vì Chúa, một chiếc mũ màu tím có hình con voi hoạt hình, trông như thể anh ta đang mặc một loại trang phục nào đó. Và đôi mắt anh ta mở to. Cô buông hơi thở nén chặt ra thành một luồng thở gấp. Và rồi trí não đã bắt kịp cô.
Đôi mắt không ổn. Mi mắt bị kéo ra quá xa, ánh nhìn bất động của anh ta hầu như khó có thể nhận ra dưới sự đờ đẫn trắng mờ như bị đục thủy tinh thể.
Cô giật lùi lại, ánh đèn pin lập tức dựng lên, xẻ một đường đến bức tường đối diện. Trong một giây, Susan nghĩ rằng cô thấy thứ gì đó. Cô lại cầm đèn pin lên, tia sáng run rẩy cùng tay cô. Quả cầu ánh sáng màu vàng trượt qua tường, và Susan muốn tắt nó đi, muốn nó trở nên tối đen, bởi vì màu đen đặc quánh đáng sợ còn tốt hơn thế này.
Bức tường được sơn màu trắng. Nhưng nó đã được trang trí. Gần như trên mỗi inch của nó đều được ai đó che phủ bằng hàng trăm trái tim màu đỏ vẽ tay.
Rời khỏi ngôi nhà này đi. Giọng nói trong lòng cô hét lên. Nhưng Susan không di chuyển. Cô sẽ không bao giờ quay lại tầng hầm đó. Cô thò tay vào túi và lần mò tìm điện thoại.
Cô gọi cho tòa soạn trước rồi mới gọi 911.
CHƯƠNG 12
H
enry đứng dưới mưa trên sườn đồi cùng với thám tử Martin Ngyun, đôi mắt nhìn chằm chằm xuống cái đầu da dẻ bùng nhùng nằm trong bùn. Những bụi cây và cây dương xỉ xung quanh cái đầu đã bị thiêu cháy và toàn bộ khu vực xung quanh bị dính bọt từ bình chữa cháy. Henry có thể nhìn thấy một điếu thuốc đen muội đã bị dấn sâu xuống đất.
Henry ngó lên sườn đồi. Toàn bộ lực lượng đặc nhiệm đã nhận lệnh tới đây. Một xe buýt chở du khách trong chuyến thăm quan Mỹ nhân đoạt mạng đang đứng trên đỉnh đồi và chụp ảnh từ đằng sau dải dây bảo vệ hiện trường. Họ không hề che giấu chuyện này chút nào. Có lẽ họ còn đăng lên Twitter trong khi anh đứng đó. “Ai là người đã dập lửa?” Henry hỏi Ngyun.
Ngyun đã ở trong đội đặc nhiệm được bảy năm. Lần duy nhất anh ta nghỉ việc là khi đội bóng rổ Blazers vào chung kết. Và chuyện đó chẳng mang lại điều gì tốt đẹp.
“Giảng viên nào đó chạy ra từ trong biệt thự kia”, Ngyun vừa đáp vừa chỉnh lại chiếc mũ lưỡi trai Blazers để che mưa. Bảy mươi hai tuổi. Nhảy qua hàng rào và trèo xuống sườn đồi cùng bình chữa cháy.
Henry đưa tay ra, lòng bàn tay lật lên. “Trời mưa rồi”, anh nói. “Vẫn chưa bắt đầu đâu”, Ngyun nói.
Cơn mưa làm tan bọt chữa cháy và Henry có thể thấy những chỗ xương sọ lộ ra, mái tóc còn lại mỏng manh và bị phủ đầy bùn đất. Nó đang úp xuống, dựa vào gốc cỏ dại. Henry lại nhìn lên sườn đồi. “Tôi đoán rằng ai đó đã ném nó qua hàng rào”, anh nói, đôi mắt dõi theo sườn dốc. “Và nó lăn xuống đây.”
“May là nó không lăn quá xa”, Ngyun nói. “Nếu không sẽ chẳng ai tìm được.” Anh ta cau mày nhìn những bụi mâm xôi bên dưới. “Tôi sẽ nói chuyện với Thị trưởng về việc ban hành giờ giới nghiêm”, Henry nói. Đây là Thị trưởng mới. Ông ấy bắt đầu nhận công việc này từ
hai tháng trước, sau khi vị thị trưởng cũ tự nã súng vào đầu ngay trước mặt Archie.
“Ừ”, Ngyun đáp. “Vì ban ngày sẽ chẳng ai bị giết.”
“Nó sẽ giúp xoa dịu người dân”, Henry nói. Anh ngồi xổm xuống, cố gắng nhìn rõ hơn những đặc điểm của cái đầu, nhưng khuôn mặt úp xuống bùn khiến việc này trở nên khó khăn. “Pháp y đâu rồi?”
“Đang tới”, Ngyun nói. Anh ta liếc nhìn đồng hồ. “Bây giờ là 11 giờ. Họ nói 11 giờ 15 sẽ đến nơi.”
Henry do dự. Anh biết mình sẽ bị Robbins quở trách nặng nề vì đã di chuyển thi thể. Nhưng kệ xác nó. Anh đẩy thứ đó bằng mũi giày, cho đến khi nó lật lại.
Những cái lỗ từng là mũi, mắt và miệng đang nhung nhúc những con dòi màu vàng. Không biết cái đầu này bị móc mắt hay đôi mắt đã trong bụng dòi.
Claire gọi tên anh, Henry ngước lên và thấy cô đang vừa đứng chống hông vừa nhìn xuống chỗ bọn họ. Bên cạnh cô, trong bộ đồ bảo hộ kín mít màu trắng, là Lorenzo Robbins thuộc cơ quan Pháp y.
“Anh vừa đá cái đầu đấy à?” Robbins nói bằng giọng khó tin. Điện thoại của Henry reo vang. Đời anh chưa bao giờ hạnh phúc khi nhận được một cuộc điện thoại đến vậy. Anh mỉm cười với Robbins, giơ ngón tay ra vẻ “chờ một chút” rồi bắt máy.
Người gọi đến là một trung sĩ thuộc khu vực Bắc Portland. “Chúng tôi có một thứ mà lực lượng đặc nhiệm của anh có thể sẽ quan tâm”, vị trung sĩ nói. “Một phóng viên của Người đưa tin đã tìm thấy một thi thể có lẽ do Mỹ nhân đoạt mạng gây ra.”
Một phóng viên Người đưa tin. Hãy đề phòng đấy, anh đã nói với cô như vậy. Hãy giữ an toàn. Đừng làm điều gì ngu ngốc. “Để tôi đoán”, Henry nói. “Là Susan Ward phải không?”
CHƯƠNG 13
A
rchie ngồi trên sàn nhà, dựa lưng vào bức tường màu hoa cà trong phòng tắm ở tầng một của bệnh viện.
Anh đặt điện thoại trên đùi, đọc lại tin nhắn.
“Anh yêu, cảm thấy tốt hơn chưa?”
Archie gục đầu vào tay mình. Hai năm đã trôi qua và những dẻ xương sườn của anh vẫn đau nhói ở nơi ả làm gãy chúng. Có lẽ chúng sẽ luôn đau đớn như vậy. Anh đưa tay lên cổ và cảm nhận chiều dài của vết sẹo, vết sẹo mới nhất của anh, nó đã được hai tháng và đến giờ chạm vào vẫn thấy mềm mại. Sau đó, anh thò tay xuống thắt lưng rồi đặt tay lên những vết sẹo cũ hơn: vết sẹo chạy dọc giữa bụng, vết sẹo nhỏ hơn trên sườn, và cuối cùng là lời nhắc hình trái tim trên ngực.
Tâm trí anh chạy tới vụ tàn sát ở trạm nghỉ.
Ả sẽ không ngừng giết chóc.
Archie nhấc điện thoại lên và áp phần đỉnh của nó vào trán mình, dụi sâu vào da cho đến khi cảm thấy nó như muốn tách ra, và rồi anh tỉnh táo trở lại. Mẹ kiếp.
Anh ngồi dậy và mạnh tay soạn một tin nhắn. “Cô đang ở đâu?” Anh nhấn gửi và chờ đợi.
Bồn cầu màu be với bệ màu trắng trông thật lệch lạc. Bên cạnh còn có một thanh bám dành cho người tàn tật, một cái móc để treo túi và một thùng đựng chất thải vệ sinh phụ nữ. Archie nhìn lên trần nhà. Những tấm ván trắng. Một máy dò khói. Một van phun nước. Hai lỗ thông hơi màu trắng bị bụi bẩn phủ kín nhiều năm. Không ai bận tâm đến việc làm sạch nơi này.
Anh liếc nhìn điện thoại, vẫn chẳng có gì.
Sàn gạch hoa hồng sáng bóng dù vữa đã chuyển màu nâu. Giữa sàn nhà có một nắp cống tròn màu bạc.
Có người gõ lên tay nắm trên cửa phòng tắm.
Archie ngước lên, giật mình. “Có người rồi”, anh lớn tiếng đáp. Điện thoại rung lên. Anh nhìn vào màn hình. “Anh có nhớ em không?” Archie nhìn chằm chằm vào chiếc điện thoại, suy tính cách trả lời.
Hàng ngàn lựa chọn bay qua tâm trí anh. Anh cần ả lộ diện. Anh muốn ả nghĩ rằng anh vẫn chịu sự điều khiển của ả.
Có tiếng gõ cửa. “Chờ một chút”, Archie nói.
Một con nhện nhỏ màu nâu bò khỏi nắp cống trên sàn nhà và chạy nhanh trên nền gạch về phía bồn rửa.
Archie bấm “Tôi muốn gặp cô”, và nhấn nút gửi.
Một chiếc đồng hồ cát xoay trên màn hình điện thoại. Sau đó biến mất nhanh chóng. Tin nhắn đã được gửi đi.
Anh nhìn lên cánh cửa, đứng dậy, xả nước bồn cầu rồi đưa hai tay xuống dưới vòi cảm biến để mở nước. Mặt bàn bọc bằng Formica màu đen điểm những đốm hồng đào, cùng màu sắc và hoa văn với mảnh Formica mà Courtenay dùng để cứa vào cổ mình. Có thể chúng vốn cùng một cuộn với nhau.
Archie kiểm tra điện thoại. Thứ duy nhất hiện lên trên màn hình là thời gian: 11:23, 11:24, 11:25. Anh lau khô tay bằng khăn giấy và ném giấy vào thùng rác hình chữ nhật màu xám. Một chú chồn cái được vẽ biếm họa đang nhìn Archie chăm chú từ chiếc điều hòa không khí Air-Master.
Ai đó cố gõ cửa lần nữa. “Một chút nữa thôi”, Archie nói vọng ra, lần này lớn tiếng hơn.
Tay nắm cửa rung lên một cách vô dụng hòng chống chọi lại với chốt khóa.
Lần này Archie lờ đi. Đây là bệnh viện. Nó có hàng tá buồng vệ sinh công cộng.
Anh đặt điện thoại lên mặt bàn Formica lốm đốm và dán mắt vào màn hình, chờ Gretchen trả lời. “Thôi nào”, anh nói khẽ, nắm chặt mép bàn. “Đến với tôi đi.”
Điện thoại rung lên trong tay anh và một dòng chữ mới hiện lên. “Cốc cốc.”
Ả
Archie nghiền ngẫm từng chữ, và rồi, anh từ từ nhìn lên cánh cửa. Ả đang ở trong bệnh viện. Lúc này ả đang dõi theo anh. Anh bỏ điện thoại vào túi và quay người bước về phía cửa.
“Gretchen?” Archie cất tiếng.
Không có tiếng đáp lại. Archie mở rộng cánh tay, đưa tay ra và cẩn thận xoay chốt cửa. Rồi bàn tay anh bao lấy tay nắm cửa, anh hít một hơi thật sâu và đẩy cửa ra.
Không có ai ở phía bên kia. Anh quay đầu lại. Hành lang vắng tanh. Anh đưa tay sờ lên trán. Anh toát mồ hôi. Anh đang để ả đến bên mình thêm lần nữa. Đó chỉ là một lời phỏng đoán mà thôi. Ả đoán rằng anh sẽ gọi cho ả từ một căn phòng bị khóa. Chứ không phải ả ở ngoài cửa. Kẻ đứng chờ ở đó đã mất kiên nhẫn và rời đi rồi.
Anh đã có nhiều vấn đề đến nỗi không cần thêm bệnh hoang tưởng vào danh sách.
Archie có thể thấy một cửa hàng quà tặng ở cuối hành lang. Anh nheo mắt nhìn nó và nhận ra cuốn sách được trưng bày trong tủ kính - Nạn nhân cuối cùng. Đã hai tháng kể từ lần cuối cùng Archie đọc báo. Nếu anh có cơ hội tìm thấy ả thì anh cần phải cập nhật tin tức. Anh bắt đầu bước đi. Đi được nửa đường, anh dừng lại và nhìn xung quanh. Quanh đây chẳng có ai để ý, nhưng anh không thể thoát khỏi cảm giác khó chịu như đang bị theo dõi.
CHƯƠNG 14
H
ình ảnh của Gretchen xuất hiện trên trang nhất của mỗi tờ báo được bán trong cửa hàng quà tặng ở bệnh viện.
Archie cầm một tờ Người đưa tin lên. Ngày thứ sáu mươi sáu, tiêu đề rất to bên dưới bức ảnh của ả trên trang nhất. Archie lướt qua nó. Không có bài báo nào về vụ việc ở trạm dừng chân. Nó sẽ xuất hiện trong ấn bản ngày mai. Có bốn bài báo về Gretchen. Nhưng không có gì mới. Chỉ là các chi tiết bình mới rượu cũ với cùng một trích dẫn.
Archie gấp tờ báo lại và nhìn vào bức hình của ả trên trang nhất thêm lần nữa. Đó là hình chân dung được chụp từ hai năm trước. Ả mặc bộ quần áo giống hệt hình ảnh đọng lại trong ký ức cuối cùng của anh về chuyện bị tra tấn. Khi ả ôm anh, vuốt ve đầu anh, khi anh nghĩ rằng cuối cùng mình cũng sắp chết và rất biết ơn ả vì đã để anh làm việc đó.
Mái tóc vàng của ả được chải thành một kiểu đuôi ngựa mượt mà, không phải mái tóc buông xõa.
Gretchen đã có một bức hình chân dung tuyệt đẹp.
Trong cửa hàng quà tặng có thứ gì đó lọt vào mắt Archie. Lại là hình ảnh của ả, được nhân lên nhiều lần. Anh đặt tờ báo xuống và bước vào trong, đi qua những quả bóng Mylar lấp lánh, những con thú nhồi bông, kẹo và những tấm thiệp đầy tình cảm, đi qua người phụ nữ tóc bạc ngồi xem tivi sau quầy thu ngân chật chội, và rồi anh dừng lại phía trước giá trưng bày tạp chí.
Hai mươi tạp chí khác nhau đã được bày trong túi nhựa treo trên tường. Gần như tất cả đều có hình Gretchen trên trang bìa.
Báo chí luôn “yêu mến” Gretchen. Ả trở thành tiêu đề trên khắp thế giới. Nhưng anh chưa bao giờ thấy bất cứ điều gì giống thế này. Tạp chí tin mới hứa hẹn những câu chuyện về tội ác của ả và cập nhật về cuộc săn lùng. Tạp chí thời trang hứa sẽ giúp phụ nữ tạo kiểu tóc giống
ả. Tạp chí văn hóa đặt câu hỏi về tầm ảnh hưởng của ả. Tạp chí giải trí tập trung vào buổi tuyển chọn các nhân vật tiềm năng cho một tác phẩm sắp ra mắt về ả.
Ảnh bìa của Nguyệt san Portland in hình một chiếc xe buýt du lịch có dán mặt Gretchen trên đó. Tiêu đề viết: Gretchen Lowell, điểm thu hút du khách tiếp theo của Portland?
Nhưng tờ tạp chí lọt vào mắt anh là một ấn bản vừa phát hành của tờ Tuần báo. Thứ khiến anh chú ý không phải bức hình với gương mặt của ả trên trang bìa, một hình ảnh khiến ruột anh xoắn lại. Mà là tiêu đề in đậm rõ to một từ duy nhất:
Vô tội?
CHƯƠNG 15
N
gười lấy dấu vân tay lăn ngón trỏ tay phải của Susan từ trái sang phải trên miếng bọt biển màu tím sẫm. Anh ta bắt đầu từ ngón tay cái của cô và đang lần lượt làm tiếp đến ngón tay út. “Sàng lọc dấu vân tay”, họ gọi công việc này bằng cụm từ đó. Lần sau, khi đột nhập vào một ngôi nhà khác, chắc chắn cô sẽ đeo găng tay.
“Mong là mực sẽ sớm phai đi”, Susan nói.
Cô ngồi trên một chiếc xe cảnh sát, cánh cửa đôi của chiếc xe mở ra ở hai bên chặn tầm nhìn của những người bán hàng rong dàn hàng bên vòng dây bảo vệ hiện trường vừa được giăng lên nửa tiếng trước. Mưa đã tạnh, nhưng nó không tạnh trước khi tóc của Susan xù hết cả lên. Bộ đàm cảnh sát kêu rè rè, đèn báo hiệu lấp lóa. Mọi người hối hả bước đến vị trí đã định. Máu trên quần jean của Susan đã bắt đầu khô, làm lớp vải jean trên đầu gối trở nên cứng lại. Cô đành cố gắng phớt lờ nó.
Người lấy dấu vân tay ngồi cạnh cô, một thẻ lấy dấu vân tay của cảnh sát được đặt trên chiếc giường ở giữa bọn họ. Đôi mắt sùm sụp của anh ta không hề dao động trong lúc làm việc, còn cái đầu hói thì cúi xuống bàn tay cô đang đặt bên cạnh. “Giữ yên”, anh ta nói với Susan.
Henry hắng giọng và dùng bút gõ lên chiếc laptop của mình. Mười phút trước, anh rời khỏi căn biệt thự, há hốc mồm, đôi mắt giấu sau cặp kính râm như nướng chín cô từ bao giờ.
“Sao tên đó lại có được số điện thoại của cô?” Henry hỏi. “Ai cũng có thể lấy được”, Susan đáp. “Nó nằm trong chữ ký email của tôi. Tôi là phóng viên. Tôi cần phải giữ liên lạc với mọi người.” Cô cúi người về phía trước, cố gắng liếc nhìn những ghi chú của anh. Cô nên là người đặt câu hỏi cho anh mới phải. Đối với một phóng viên mà nói, cô đã dành quá nhiều thời gian cho việc bị phỏng vấn rồi. “Tôi nghe nói anh tìm thấy đầu của một thi thể”, cô nói.
Henry ép cuốn sổ vào ngực. “Tôi nên bắt giữ cô vì tội xâm nhập trái phép”, anh nói. “Cô đang nghĩ cái quái gì vậy?”
“Tôi muốn đánh cược một lần”, Susan đáp. Cô nhìn xuống đôi giày của mình. Chúng bị bùn vấy bẩn. Có lẽ cô đã để lại dấu chân khắp căn nhà. “Chàng trai đã chết là ai?” Cô hỏi.
Henry xoa sau gáy như thể nó bị đau.
Susan có thể nghe thấy nhiều tiếng còi báo động từ xa. Người lấy dấu vân tay chuyển sang ngón tay tiếp theo. Cô liếc nhìn, sau đó dành hết sự chú ý vào đầu ngón tay màu tím. “Nghiêm túc mà nói”, cô lên tiếng, “loại mực này chỉ cần rửa nước là sạch, đúng không?”
“Nạn nhân không mang theo thẻ căn cước”, Henry nói và Susan nhìn lên. “Pháp y nói chàng trai này độ tuổi đôi mươi. Chỉ mới tử vong trong khoảng từ 2 đến 6 giờ.” Henry nghiêng người về phía cô. Đó là một chuyển động nhỏ, thay đổi trong tư thế chỉ một inch, dù để ý cũng khó có thể nhận ra, nhưng Henry to lớn như một ngọn núi, và tất cả những gì Susan có thể làm là cố gắng không co rúm lại. “Kể cho tôi nghe về kẻ gọi điện thoại kia đi”, Henry nói.
“Vậy anh kể cho tôi nghe về cái đầu trước đã”, cô đáp.
“Chúng tôi tìm thấy nó”, Henry nói. “Ở biệt thự Pittock. Chúng tôi phải đóng cửa một phần sân sau, nhưng cô vẫn có thể tham quan ngôi nhà. Tôi nghĩ họ sẽ tính thêm tiền.”
Susan kéo chiếc áo ẩm ướt của mình. “Giọng anh ta nghe không còn trẻ”, cô nói về kẻ gọi điện thoại. “Nghe cũng không già cả gì. Anh ta nói mình thuộc một nhóm người hâm mộ Gretchen Lowell.” Sau đó cô tự sửa lại lời mình. “Ý tôi là không phải hội nhóm cụ thể nào. Anh ta nói tôi đã để lại tin nhắn trên trang web của anh ta, rằng tôi muốn viết về nhóm của anh ta.” Henry đặt bút trên cuốn sổ, dường như vẫn đang chờ cô nói điều gì đó đáng để ghi lại. Cô quấn một lọn tóc tím quanh ngón tay và cố nhớ xem mình còn liên lạc với hội nhóm nào nữa không, cô sử dụng internet triền miên, nhưng chỉ tìm đến những câu chuyện về Gretchen. “Tôi đã liên lạc với các trang web của những người hâm mộ Mỹ nhân đoạt mạng.” Cô bỏ qua chuyện kẻ kia không nhận ra nhạc của Jimi Hendrix. Cô không nghĩ Henry sẽ quan tâm.
Henry ghi lại một điều gì đó. Susan nâng cằm lên để đọc nó. “PM PC.” Anh khoanh tròn nó lại. “Nó có nghĩa là gì vậy?” Cô hỏi.
“Tôi muốn lấy ổ cứng của cô”, anh nói.
Anh đùa đấy à. “Không”, Susan đáp. Và cô cảm thấy cần phải nói thêm, “Tôi dùng laptop hiệu Mac chứ không phải PC.”
Henry chỉnh lại kính râm, ấn cho nó vào đúng vị trí. Trời không nắng. Nhưng Susan không chắc đây là lúc để chỉ ra điều đó. “Chúng tôi cần theo dõi lịch sử truy cập internet của cô”, anh nói.
Susan lắc đầu. “Anh có biết tôi tự tìm kiếm tên mình trên Google bao nhiêu lần không?” Cô đáp. “Không đời nào.”
Henry cúi đầu và ngước nhìn cô từ dưới đôi kính râm, và cô biết tại sao anh lại đeo chúng. “Đây là một cuộc điều tra kẻ giết người”, anh nói. “Cô đang cản trở công lý.” Anh nghiến răng. “Và làm tôi bực mình.”
“Tôi là một nhà báo”, cô nói rồi đứng thẳng lên. “Tôi sẽ không giao máy tính của mình cho cảnh sát.” Khi cảnh sát vừa đến, cô đã nói rằng mình sẽ không cho họ xem nhật kí cuộc gọi. Cô đang bảo vệ nguồn tin. Đó là luật. Một khi từ bỏ nguồn tin của mình thì bạn có thể quên tất cả những người đã từng trao đổi với mình. Parker đã dạy cô điều đó. Ông ta đã đi tù để bảo vệ một nguồn tin. “Chúc anh may mắn lấy được lệnh khám”, cô nói thêm. Người lấy dấu vân tay lăn ngón tay đeo nhẫn của cô trên bảng mực. Có vết bẩn dưới móng tay. “Anh có thể phân biệt dấu tay của vượn người với dấu vân tay người thường không?” Cô hỏi anh ta.
Người lấy dấu vân tay không ngẩng đầu lên. Anh ta nhấc ngón tay của cô ra khỏi bảng mực và ấn nó vào giữa hình vuông trên thẻ vân tay. Susan ngưỡng mộ sự tập trung của anh ta. “Có”, anh ta đáp.
Henry lại ghi chép gì đó. “Cô có nghĩ mình nhận ra được giọng người đó không?” Anh hỏi.
Susan cố gắng nhớ lại giọng nói người kia, nhưng nó tránh né khỏi tâm trí cô. “Chắc là có”, cô nói rồi nhìn xuống chiếc quần jean dính máu. Cảm ơn Chúa vì nó là quần jean đen. Nó có thể che giấu mọi thứ.
“Chàng trai mà tôi tìm thấy”, cô nói, khuôn mặt cậu ta vẫn hiện lên trước mắt cô với đôi mắt trắng như hai quả trứng, “đã chết như thế nào?” “Tôi nghĩ rằng chúng ta có thể loại trừ các nguyên nhân tự nhiên”, Henry đáp.
Susan đã quỳ gối bên cạnh thi thể đó và khiến cho máu dính lên quần. Tấm vải phủ đã bị thấm máu. Chàng trai ấy đã chảy rất nhiều máu. Không, cô nghĩ, trí não bắt đầu hoạt động. Những hình trái tim trên tường, chữ ký của Gretchen, trang web của người hâm mộ. Đột nhiên cô hiểu ra. “Lá lách của cậu ta đã biến mất phải không?” Phản ứng của Henry gần như không thể phát hiện được. Nhưng anh đã nao núng.
Ai đó đã lấy đi lá lách của cậu ta. Giống như Gretchen từng làm với những nạn nhân khác, giống như ả đã làm với Archie. Ả đã làm thế với Archie mà không cần gây mê. Sau đó ả gửi nó cho Henry. Cổ họng của Susan thắt lại và cô phải nuốt vài lần trước khi có thể nói. “Tôi có cần được bảo vệ không?” Cô hỏi.
Henry tháo kính râm ra và nhìn cô. Cái đầu cạo trọc của anh vẫn sáng bóng dưới trời mưa. “Rời khỏi thành phố này đi”, anh nói. Đó là một ý hay. Tới Mexico vài tháng. Nhận vài công việc viết lách. Có lẽ mấy tháng trước cô đã có thể làm điều đó, trước khi gặp Archie. “Tôi không thể”, cô nói. “Tôi là một nhà báo. Tôi không thể.”
Mạch đập của Susan đang chạy dồn dập. Người lấy dấu vân tay hẳn đã cảm nhận được điều đó, vì anh ta ngước lên nhìn cô lần đầu tiên kể từ khi anh ta đến đây. “Koala”, anh ta nói. “Dấu tay của một con koala gần như không thể phân biệt với dấu vân tay của con người.”
“Thật sao?” Susan nói.
Anh ta ấn ngón tay cái của cô lên tấm thẻ. “Lần nào cũng lừa được chúng tôi”, anh ta nói.
“Anh có biết”, Susan nói, “trong hai mươi năm qua đã có chín đứa trẻ bị những cái bàn ăn ở trường đè đến chết hay không?”
Người lấy dấu vân tay liếc lên với ánh mắt lo lắng. “Không”, anh ta đáp.
Susan cảm thấy nhẹ nhõm hơn một chút, và não cô bắt đầu khoanh tròn các chi tiết. Ai đã gọi điện cho cô? “Anh có cho rằng cô ta có một đồng phạm mới không?” Susan hỏi Henry. Anh không trả lời. Thế rồi có một cái gì đó nảy ra trong đầu cô. “Những đồng phạm?” Cô hỏi lại, nhấn mạnh vào số nhiều. Hiện trường vụ án lóe lên trong tâm trí cô. Có mười chiếc đèn pin.
“Một người cũng có thể sắp xếp chỗ đèn pin đó”, Henry vừa nói vừa đeo kính râm. “Chúng tôi không muốn tiết lộ chuyện những chiếc đèn pin với truyền thông, được chứ?”
“Có lẽ cô ta có chín đồng phạm”, Susan nói. “Giống như một đội bóng chày giết người hàng loạt. Hoặc có lẽ cô ta đang thử thách bọn họ. Anh biết đấy, sau mỗi lần giết người, cô ta sẽ loại một trong số họ ra khỏi đội. Người cuối cùng còn sống sót sẽ trở thành bạn sát nhân với cô ta.”
Henry tỏ vẻ không thích thú gì. “Kể tôi nghe về những trang web hâm mộ đi”, anh nói.
“Người ta vẽ những bức tranh của cô ta và đăng chúng lên”, Susan trả lời. “Họ viết thơ, viết truyện hư cấu về cô ta. Mấy tuần trước tôi đã viết một bài về chuyện này.” Không có phản ứng. Susan thở dài bực tức. “Anh còn chẳng thèm đọc tờ Người đưa tin phải không?”
“Tôi nhận được tất cả tin tức từ hệ thống Trao đổi tin tức tự động”, Henry nói.
Người lấy dấu vân tay đưa cho Susan một chiếc khăn ẩm. Cô chà xát ngón tay vào chiếc khăn đó và mực trôi đi ngay. Thứ thấm trong chiếc khăn đó hẳn phải độc hại lắm. “Tôi phải làm việc”, Susan nói rồi đứng dậy. Người lấy vân tay giơ một chiếc túi nhựa ra và cô thả chiếc khăn lông màu đen vào đó.
Henry khoanh tay lại. “Tôi không thể thuyết phục cô giữ kín về những điều cô đã thấy phải không? Thế nên, cô biết đấy, tránh xa khỏi những chuyện ồn ào chết giẫm đi, được chứ?”
“Không thể”, Susan nói. “Vả lại anh đã tìm thấy một cái đầu. Anh không nghĩ người dân sẽ hốt hoảng vì nó hay sao?”
Henry lầm bầm. “Cô đang trở thành một phóng viên giỏi hơn rồi đấy”, anh nói.
“Nhà báo chứ”, cô sửa lại. Rồi cô vẫy tay với anh và bước ra khỏi xe. “Chờ chút”, Henry gọi với theo, cô quay lại. Anh nhìn cô chằm chằm, đảo hàm, một tay đặt sau cổ. Rồi anh buông tay xuống và bước về phía cô. “Tôi chỉ nói với cô điều này vì nó sẽ được tiết lộ ra ngoài”, anh nói. “Thà để cô công bố còn hơn.” Anh thở dài. “Có một số chuyện ở trạm nghỉ chân mà chúng tôi chưa công khai.”
CHƯƠNG 16
A
rchie ngồi trên sàn của cửa hàng quà tặng, xung quanh là những tờ tạp chí, tờ Tuần san để mở trên đùi anh. Hình ảnh Gretchen mỉm cười trải khắp trên thảm, quây lấy anh. Anh đã tìm thấy tất cả hai mươi bảy bài báo về ả. Anh đọc Tuần san trước. Nó đưa ra rất nhiều lời bào chữa. Rằng không thể trách ả được. Đó là do xã hội. Chúng ta đều phải có trách nhiệm.
Archie không nhớ việc xã hội ấn một con dao mổ vào ngực anh. Cũng có những bức ảnh của anh. Đứng tại hiện trường vụ án. Rời khỏi bệnh viện. Người đàn ông mà ả đã cố giết hại hai lần. Họ miêu tả anh như một người hùng. Họ đã tạo ra một phiên bản tốt đẹp hơn, Archie nghĩ thế cũng còn hơn là sự thật. Các chi tiết về lần trốn chạy gần đây nhất của ả được kể rất sơ sài. Henry đã kiểm soát để không tiết lộ những chi tiết cụ thể về chuyện Archie lại nhận ra mình nhận được sự thương hại của Gretchen. Anh đã hồi phục sau chấn thương. Còn ả thì đang nhởn nhơ bên ngoài.
Hiện thực rất ảm đạm.
Archie chạm vào bức ảnh của ả trên tờ Tuần san. Nó được chụp bên ngoài tòa án. Trong ảnh, ả đang quay đi, hai cổ tay đeo còng, mặc áo tù màu xanh, tóc buông xõa, hoàn hảo như hình ảnh trên một đồng xu. Anh nhấc tay ra, để lại dấu vân tay trên trang tạp chí.
Archie lật tay lại và nhìn lòng bàn tay mình. Anh lại đổ mồ hôi. Chúa ơi, anh cần một liều Vicodin[6].
Anh lau tay vào quần và cảm nhận được chiếc điện thoại trong túi. Anh rút nó ra. Không có tin nhắn mới.
“Nếu anh có hứng thú với cô ấy thì chúng tôi vừa mới nhập sách về đấy”, người phụ nữ đứng sau quầy nói. Archie ngước lên. Bà vừa gỡ mấy bức tượng thiên thần ra khỏi hộp và xếp chúng lên quầy trước mặt mình, lúc này bà đang nhìn qua chúng.
Sau đó Archie liền nhìn lại mình, anh ngồi đó, bao quanh là những cuốn tạp chí mở ngay các bài viết về Mỹ nhân đoạt mạng, anh phải tỏ thái độ gì đây. Anh bèn cất điện thoại vào túi.
Người phụ nữ lớn tuổi nghiêng đầu về phía gian trưng bày nơi có một chồng sách Nạn nhân cuối cùng được xếp cạnh khoảng chục cuốn Năm người bạn gặp trên thiên đường.
Archie khép tờ Tuần san lại, đứng dậy và đặt nó trở lại chiếc kệ phía sau lưng. “Tôi đã có một cuốn rồi”, anh đáp.
Anh cúi xuống thu thập mớ tạp chí trên sàn để cất đi, thoáng liếc nhìn bà lão kia. Chiếc tivi nhỏ sau lưng bà vẫn chạy và trong một giây, Archie nghĩ rằng anh đã nhìn thấy khuôn mặt của Gretchen trên màn hình. Anh đứng đó, như đông cứng trong tư thế ngồi xổm, đôi mắt vẫn bị hút vào chiếc tivi hòng kiểm chứng lại thứ anh đang thấy, màn hình hiện lên dòng chữ: Mỹ nhân đoạt mạng vẫn tự do: ngày thứ bảy mươi sáu.
Rồi dòng chữ bùng cháy.
Archie đứng thẳng dậy. “To tiếng lên”, anh nói.
Bà lão hoài nghi nhìn anh. Bà từ từ quay sang liếc nhìn màn hình tivi, rồi quay lại nhìn anh, và nhìn xuống đống tạp chí dưới chân anh. “Bà mở to tiếng lên đi”, Archie nhắc lại. Anh tiến về phía trước, tới chỗ quầy thu ngân và tivi.
Bà lão nhướng mày, ngừng tay một chút, sau đó nhấc một thiên thần khác ra khỏi hộp và đặt nó lên quầy, rồi rút cái điều khiển từ trong túi áo vest bằng vải polyester và nhấn nút.
Một phát thanh viên xuất hiện trong chiếc áo mưa màu xanh neon in chữ KGW, tay cầm mic và sau lưng có hàng chữ Pittock Mansion. Một cái đầu đã được tìm thấy trên lùm cỏ. Hình ảnh chuyển đến một phát thanh viên khác cũng mặc áo mưa KGW màu xanh đang đứng trước một căn nhà bị niêm phong. Một thi thể đã được tìm thấy trong căn nhà này. Cảnh sát không tiết lộ thêm bất cứ chi tiết nào.
Trong một cảnh quay rộng hơn, Archie thoáng thấy Henry bước vào nhà.
Archie chạm tới chiếc điện thoại di động thường được kẹp ở thắt lưng mình, những ngón tay lướt qua chiếc quần nhung kẻ nhưng không tìm thấy gì. Điện thoại của anh đã bị giữ ở viện tâm thần.
Nhưng anh đã có một cái khác.
Anh đút tay vào túi và tìm chiếc điện thoại kia. Nhưng anh không lôi nó ra.
Bà lão đang xem tivi, lông mày nhíu lại, một tay vẫn nắm lấy chân bức tượng thiên thần, bức tượng trong tư thế quỳ gối cầu nguyện, một quầng sáng mắc trên đỉnh đầu.
“Tôi có thể sử dụng điện thoại của bà không?” Archie hỏi. Bà không có lý do gì để đồng ý, nhưng vẫn với tay và nhấc ống nghe ra khỏi chiếc điện thoại để bàn màu be rồi đặt nó vào tay Archie. “Đường dây số 9”, bà nói.
Archie bấm số 9, rồi số điện thoại di động của Henry. Henry bắt máy sau hồi chuông thứ ba.
“Chuyện gì đang xảy ra vậy?” Archie hỏi.
“Cậu đang gọi từ đâu đấy?” Henry hỏi lại.
“Cửa hàng quà tặng trong bệnh viện”, Archie trả lời. “Tôi muốn trao đổi mấy câu.”
Anh có thể cảm nhận được rào cản từ phía Henry. Archie đang nghỉ phép. Anh không có quyền biết bất cứ điều gì về cuộc điều tra của cảnh sát. “Susan Ward nhận được lời chỉ dẫn, sau đó tìm thấy một thi thể trong ngôi nhà bỏ hoang ở Bắc Fargo”, Henry nói. “Và một kẻ nào đó đã ném một cái đầu lâu vào bãi cỏ ở Biệt thự Pittock.”
Họ đã tìm thấy một trong những nạn nhân của Gretchen trong bãi cỏ tại Biệt thự Pittock chỉ vài tháng trước khi ả bị bắt. Trước đây ả chưa từng lặp lại hành động của mình. Nhưng chuyện này không thể là sự trùng hợp. “Còn nhãn cầu thì sao?” Archie hỏi.
“Cái đầu bị phân hủy mạnh nên không thể xác định rõ ràng”, Henry đáp. “Robbins đang xem xét nó. Còn thi thể trong nhà thì vẫn còn đầy đủ mắt. Mới tử vong thôi. Bị giết vào đêm hôm trước.”
Archie liếc lại màn hình tivi nơi Charlene Wood - phát thanh viên của KGW đang đứng tại hiện trường phỏng vấn một người qua đường. “Liệu có phải là Gretchen không?” Archie hỏi.
Henry đành trả lời. “Bên cạnh thi thể có những trái tim vẽ trên tường”, anh nói. “Giống như ở trạm nghỉ chân. Susan đã gọi cho tòa báo. Tình hình
đang ngàn cân treo sợi tóc. Phóng viên thì ở khắp mọi nơi.” Archie cảm thấy ngực mình thắt lại. “Susan vẫn ổn chứ?” Anh hỏi. “Cô ta thì đau đớn quái gì”, Henry nói. “Quyết không chịu tiết lộ người chỉ dẫn cho mình.”
Archie không thể nhịn cười. “Parker hẳn sẽ tự hào lắm đấy.” “Ờ ừ, đường làm báo của cô ta mà thụt lùi thì cũng vui đấy, nhưng điều đó chẳng giúp gì nhiều cho tôi trong cuộc chiến chống tội phạm”, Henry nói. “Có vẻ như nạn nhân đã mất lá lách. Điều đó chưa được công khai”, anh nói thêm. “Nhưng sẽ được công bố thôi.”
Bà lão lại bóc một hộp thiên thần khác.
“Tôi có thể điều xe đến cho cậu”, Henry nói.
Archie quay lại và liếc ra phía sau, nhìn về hội trường. Anh nghĩ đến việc nói với Henry, nhưng anh không thể không từ bỏ chiếc điện thoại kia. Anh phải nói gì đây? “Tôi nghĩ cô ta có tay trong ở trong bệnh viện theo dõi tôi? Chỉ là tôi cảm thấy thế thôi”?
Nghe như một kẻ mất trí vậy.
“Tôi không muốn vậy”, Archie nói. Anh không cần tìm cô ta. Chính cô ta sẽ tìm đến anh. Anh tin chắc điều đó.
“Tối nay gia đình cậu vẫn tới chứ?” Henry hỏi.
Debbie luôn đưa bọn trẻ đến vào thứ tư hàng tuần. Đó là điều Archie thường mong chờ, nhưng với tất cả những chuyện đang xảy ra, anh đã quên mất hôm nay là thứ mấy. “Họ vẫn đang trên đường đến”, Archie nói, dụi mắt.
“Gửi lời chào hộ tôi nhé”, Henry nói. Anh ngập ngừng, sau đó với giọng điệu khiến Archie băn khoăn chẳng biết Henry có cảm thấy có gì đó không ổn hay không, anh nói thêm, “Tôi sẽ tới sau.”
“Được rồi”, Archie nói. Anh thả ống nghe trở lại cái hốc của nó rồi liếc lên tivi. Màn hình đã quay lại phần của Perry Mason. “Anh là anh ta, phải không?” Bà lão lại nghiêng đầu về gian trưng bày. “Không”, Archie đáp.
Bà lão gật đầu. “Anh chính là vị thanh tra đó.”
Bà cầm lấy một trong những thiên thần kia và đưa nó cho anh. Có một tấm đồng thau dưới chân thiên thần với một dòng chữ xinh đẹp. Bốn từ.
Để mắt đến tôi.
Bà đặt nó vào tay anh.
CHƯƠNG 17
M
ột bảng báo hiệu treo trong thang máy lên phòng tâm thần học ghi: Cửa thang máy chạy xuống để mở ra không phải vấn đề báo động. Sẽ có một chút nguy hiểm nếu hết không khí hoặc thang máy rơi tự do. “Trông yên tâm thật đấy”, Archie nói với tình nguyện viên trực thang máy bên cạnh anh.
Đôi mắt cô mở to.
“Đây là giải pháp dành cho những người điên”, Archie giải thích. “Họ rất dễ hoảng loạn.”
Anh không làm cô thấy thoải mái hơn. Anh quyết định ngừng nói. Sau đó, anh nhận thấy cô đang cầm một phong bì có tên anh trên đó. Chiếc phong bì trông lớn, vuông, màu hồng và khó tránh được ánh mắt người khác. Cô tình nguyện viên đang dùng nó để quạt quanh mặt mình. Bây giờ người ta không gọi những người này là tình nguyện viên bệnh viện nữa. Archie cũng chẳng biết họ được gọi là gì.
“Nó là của tôi đấy”, Archie nói.
Cô gái không phải là một thiếu niên. Có lẽ đang học Đại học. Cô đáp lại Archie bằng một nụ cười phản xạ. “Tôi phải giao nó cho viện”, cô nói. “Trước khi tôi có thể đi ăn trưa.”
Cửa thang máy mở ra và cả hai bước tới hành lang nhỏ. Cô gái hơi lưỡng lự.
“Trước đây cô chưa từng tới đây à?” Archie nói.
“Ở đây có những người tâm thần phải không?” Cô gái thì thầm. “Cả tấn”, Archie nói. Anh bấm chuông gọi cửa. “Archie Sheridan đây”, anh nói.
“Chờ một phút, ông Sheridan”, giọng một y tá trả lời.
Cô gái nhìn xuống cái tên trên thẻ. “Tôi đoán anh chính là anh.”
“Tôi khá chắc rằng tôi vẫn là tôi”, Archie nói. Rồi anh để ý móng tay cô gái. Màu hồng Pháp với đầu móng tay đỏ sắc máu. Phụ nữ sẽ thích khi bạn khen họ. Archie không hiểu nhiều về phụ nữ, nhưng anh biết điều đó. “Tôi thích móng tay của cô”, anh nói.
Má cô gái hiện lên lúm đồng tiền, cô nàng xem xét lại bàn tay run nhè nhẹ. “Mẫu móng này được gọi là Mỹ nhân đoạt mạng”, cô nói. “Thợ làm móng nói với tôi rằng những người nổi tiếng đều làm mẫu này.”
Archie suýt sặc. Làm móng tay theo mẫu Mỹ nhân đoạt mạng? Mọi người mất trí cả rồi.
“Anh ổn chứ?” Cô gái hỏi.
Tiếng hô khàn khàn vang vọng từ sau cánh cửa. Archie nhận ra sự hiếu chiến của người bạn cùng phòng với mình, Frank.
Cô gái thở hắt ra một hơi.
“Anh ta vô hại thôi”, Archie bảo đảm với cô.
Cô gái gõ nhịp một chân và cắn môi dưới. “Sao họ mất thời gian quá vậy?”
“Vì họ đang rối trí mà.” Archie nói. Phải mất vài phút và vài nhân viên để khuất phục một trong những cơn thịnh nộ của Frank. Anh trao cho cô gái điều mà anh hy vọng là một nụ cười ôn hòa. Từ trong phòng bệnh, Frank hú lên câu gì đó về quỷ. Cô gái cứng người. “Sao cô không đưa tấm thiệp cho tôi nhỉ?” Archie đề nghị.
Cô gái cân nhắc trong giây lát, rồi đẩy tấm thiệp vào tay Archie. “Được rồi”, cô gái nhấn nút thang máy. Cánh cửa mở ra ngay lập tức và cô nhảy vào trong. “Tượng thiên thần xinh đấy”, cô nói khi cánh cửa đóng lại.
Archie đặt tượng thiên thần xuống chiếc bàn đầy tờ rơi của Al-Anon và kiểm tra phong bì.
Không có dấu bưu điện, điều đó có nghĩa là nó không được gửi qua thư mà ai đó đã bỏ nó ở bệnh viện. Địa chỉ trả lại là 397 Bắc Fargo. Không có tên. Có thi thể được tìm thấy ở Fargo. Địa chỉ không có trong chữ viết tay của Gretchen, nhưng sẽ không khó để ả tìm người khác viết nó. Archie lướt ngón tay dưới nắp phong bì và dọc theo đường keo, sau đó rút tấm thiệp ra.
Tấm thiệp này kiểu dáng xưa cũ, giấy mềm dần theo thời gian. Hai trái tim màu đỏ được nối với nhau bằng một sợi dây chuyền vàng. Bên dưới trái tim là một dải ruy băng trắng được viết dòng chữ: Một lời nhắn tình yêu. Archie mở thiệp ra. Được in bên trong là một bài thơ khá khó hiểu:
“Có thể dây chuyền này sẽ là sợi dây ngọt ngào
Gắn kết trái tim đôi mình với nhau.”
Ả có thể đến bên anh dù ở bất cứ đâu. Vấn đề chỉ là thời gian mà thôi. Tiếng la hét của Frank lặng đi, thế rồi một y tá tới và mở cửa. Archie bước vào trong.
Anh bỏ lại bức tượng thiên thần trên bàn.
CHƯƠNG 18
S
usan ngồi trong tòa soạn Người đưa tin, dán mắt vào chiếc máy tính. Bản thảo của cô phải nhắm vào hai vấn đề. Và nó đã hoàn thiện khoảng một phần tư.
Nhãn cầu trong thùng nước bồn cầu. Susan tự hỏi không biết Gretchen đã lấy chúng ra khi nạn nhân vẫn còn sống hay đợi cho đến khi ả giết họ xong. Dù bằng cách nào đi chăng nữa, nó vẫn khiến mắt Susan đau nhói khi nghĩ tới.
“Cái đầu ở Biệt thự Pittock” - người ta gọi nó bằng cái tên ấy, đã được đưa lên chương trình thời sự quốc gia. CNN dẫn lời một nguồn tin tại văn phòng pháp y, nói rằng đôi mắt đã bị lấy đi. Họ đang thực hiện một cuộc thăm dò trực tuyến xem người ta đoán màu của đôi mắt ấy là gì. Màu nâu đã chiến thắng trong kết quả chung cuộc hai chọn một.
Tòa soạn Người đưa tin ngập tràn tiếng xì xầm. Tất cả các tivi gắn trên trần nhà đều được chuyển đến chương trình đưa tin trực tiếp từ ngôi nhà ở Fargo, từ Gorge, từ Pittock. Họ đã bàn đến chuyện làm một bản tin đặc biệt. Susan đang làm việc với tư cách là người đầu tiên tìm thấy thi thể; Derek làm việc ở góc độ tin tức và Ian đã gửi hai phóng viên khác đến biệt thự. Nhờ Henry, Susan đã tiết lộ các chi tiết bổ sung về sự việc diễn ra tại trạm nghỉ trên trang web của Người đưa tin. Nhãn cầu. Những trái tim vẽ trên tường. Lá lách. Họ sẽ tiếp tục phát triển trong ấn bản ngày mai, ngay trên trang nhất. Henry đã hứa sẽ cung cấp bản phác thảo về nạn nhân chết trong nhà trước hạn chót nộp bài, để họ có thể đăng nó lên và xem có ai nhận ra nạn nhân không.
Cảnh sát có Đội đặc nhiệm truy bắt Mỹ nhân đoạt mạng; còn Người đưa tin cũng có phiên bản của riêng mình - Susan và Derek, cùng với hai phóng viên khác, hai biên tập viên, hai nhiếp ảnh gia, biên tập viên nội dung và một thực tập sinh. Họ đã điều tra về gia đình của các nạn nhân. Họ theo dõi những người tuyên bố đã nhìn thấy Gretchen Lowell kể từ khi ả
trốn thoát. Họ đã phỏng vấn bất cứ ai và tất cả những ai từng tiếp xúc với ả mà vẫn còn sống. Điều duy nhất họ chưa biết là lai lịch của ả. Không ai biết Gretchen Lowell đến từ đâu. Chỉ có một hồ sơ về việc ả bị bắt vì viết một tấm séc không thể thanh toán ở thành phố Salt Lake khi ả 19 tuổi. Thế thôi. Không có hồ sơ trường học. Không có giấy khai sinh.
Có rất nhiều thi thể và một vài nét tiểu sử được Gretchen khai trong tù, có lẽ hầu hết trong số đó đều là nói dối. Việc thiếu thông tin đã khiến các phóng viên đưa tin về cuộc săn lùng này với rất ít sự lựa chọn, họ chẳng làm được gì hơn ngoài việc sử dụng thông tin ở các bài phỏng vấn cũ, các chuyên gia cũ, cứ lặp đi lặp lại như vậy.
Sự hồi hộp của cuộc săn đuổi đã trở nên tẻ nhạt và bắt đầu dấy lên những trò đùa đen tối. Một bức ảnh của Gretchen Lowell cắm đầy phi tiêu treo trên tường. Ian đã đưa cho tất cả mọi người trong nhóm những chiếc cốc có khuôn mặt của Gretchen Lowell kèm dòng chữ Tôi giết người vì mấy cốc cà phê.
“Gretchen Lowell đã tặng gì cho Archie Sheridan vào ngày lễ tình nhân?” Cậu thực tập sinh đã hỏi như vậy. Cô không bao giờ nhớ tên cậu ta. Cô chỉ nhớ cậu ta là một “thực tập sinh” mà thôi.
“Không có tâm trạng trả lời”, Susan đáp, mắt vẫn nhìn vào màn hình. “Trái tim của anh ấy”, cậu thực tập sinh nói. “Ha!” Cậu ta mặc một chiếc áo phông Chạy đi, Gretchen đến và đeo kính Kissinger cực kỳ tẻ nhạt hoặc thiếu ngầu gì đó. Susan chẳng bận tâm phân biệt hai điều đó. Cô lườm cậu ta và cậu ta đành quay lại với máy tính của mình. “Tôi vẫn đang làm tiếp đây”, cậu ta nói.
“Cậu làm đi”, Susan đáp.
Cô quay lại nhồi nhét kinh nghiệm suýt chết của mình vào trang giấy ba mươi inch. Quảng cáo chật cứng, phải cần nhiều hơn một xác chết và một kẻ giết người hàng loạt để sắp xếp không gian cho một câu chuyện để người ta không thể đọc nó chỉ trong một lần ngồi ở trong nhà vệ sinh.
Cô kéo nhật ký cuộc gọi một lần nữa và tìm thấy số người đàn ông đã gọi điện để báo địa chỉ.
Parker nói với cô rằng, vào thời kỳ hoàng kim của báo chí, các phóng viên đã phải sử dụng danh bạ điện thoại tra ngược để tìm địa chỉ từ số điện thoại. Chúng là những cuốn sách đồ sộ được công ty viễn thông cung cấp
và bị khóa chặt trong chiếc tủ ở phòng họp. Bạn phải nhờ một biên tập viên mở khóa tủ, sau đó bạn phải tìm kiếm những gì mình muốn ngay lúc đó vì bạn không thể mang sách trở lại bàn của mình. Mỗi năm công ty viễn thông sẽ gửi tới các danh bạ mới, vì vậy không có gì đảm bảo rằng thông tin vẫn được cập nhật kịp thời. Nhưng nó vẫn là một mẹo hay. Một thứ có thể chỉ dẫn cho người lạc lối. Cho tôi biết số điện thoại của bạn và tôi sẽ cho bạn biết địa chỉ của bạn ở đâu. Trước khi có Google thì nó giống như một phép màu.
Bây giờ bất cứ ai có số điện thoại đều có thể gõ các chữ số vào công cụ tìm kiếm internet miễn phí và có địa chỉ tương ứng trực tuyến ngay lập tức. Nhập địa chỉ vào Google Earth là bạn có thể thấy chế độ xem ảnh chụp 360 độ của ngôi nhà.
Chuyện này lấy đi niềm vui trong việc tìm kiếm.
Susan tìm thử số điện thoại trong danh sách cuộc gọi nhưng không dẫn đến địa chỉ nào cả. Nó chỉ dẫn tới một số điện thoại công cộng ở Bắc Portland.
Vào năm 1998, ở Mỹ đã có tới 2,1 triệu bốt điện thoại công cộng. Bây giờ chỉ còn dưới 840.000. (Có lẽ thậm chí ít hơn, vì đã vài tháng trôi qua kể từ lần cuối cùng Susan chi tiền cho việc gọi điện thoại công cộng.) Điện thoại di động không thực sự tốt cho Superman. Nhưng Oregon đã đi tắt đón đầu và khi điện thoại công cộng bắt đầu đi theo lối mòn của Big Mouth Billy Bass và đĩa laser, Oregon đã thông qua luật bảo tồn lợi ích chung của điện thoại công cộng tại các khu vực mà không phải ai cũng có di động BlackBerry đời mới nhất. Những nơi như ở Bắc Portland.
Susan nhập một địa chỉ gần đó vào Google Earth và tốn thời gian tìm kiếm xung quanh cho đến khi cô tìm thấy một hình ảnh có chiếc điện thoại công cộng ở phía sau. Không có bốt điện thoại, chỉ có vòm hình vỏ sò với một cuốn sổ điện thoại lớn màu đen bọc bìa cứng treo lủng lẳng trên một sợi dây bạc.
Sau đó, cô nảy ra ý định nhập địa chỉ ngôi nhà: 397 Bắc Fargo. Cô ngạc nhiên trước những gì xảy ra.
Chẳng có gì cả.
Không có địa chỉ như vậy.
“Bản thảo của tôi đâu rồi?” Ian hỏi.
Hai giờ.
Susan nhìn lên để thấy đồng nghiệp của mình, Ian Harper đang dựa cái hông gầy còm vào cạnh bàn. Anh ta buộc tóc đuôi ngựa, một thói quen mà Susan từng thấy đáng yêu nhưng bây giờ nó chỉ khiến cô bực mình. Có những biên tập viên không làm phiền bạn cho đến hạn nộp bài, và có những biên tập viên cứ lởn vởn xung quanh. Ian lượn như một chiếc máy bay trực thăng vậy.
Cô cởi giày ra và co hai chân lên thành tư thế bắt tréo trên ghế. “Vợ anh sao rồi?”
Khóe miệng của Ian căng ra. Anh ta nhìn xung quanh. Không ai ngẩng lên. Không ai quan tâm. Thực tập sinh đang bận đăng câu đùa cợt mới nhất về Gretchen Lowell lên Twitter. Hầu hết các nhân viên của Người đưa tin đều nghe iPod trong khi làm việc. Trải khắp tầng năm rộng lớn là một trại đầy những ngăn làm việc vuông vức với những người ngồi im lặng, nhìn chằm chằm vào màn hình phát sáng.
“Tôi muốn có bài viết dài ba mươi inch trong nửa giờ nữa”, anh ta nói. Ian đưa tay vun một lọn tóc nâu vào cái đuôi ngựa của mình. “Tôi đang làm đây”, Susan nói.
Anh ta bắt đầu đọc qua vai cô. Susan ở giữa anh ta và màn hình. “Đừng quên đoạn mở đầu”, Ian nói, rồi gõ nhẹ vào không trung thẳng về phía màn hình. “Đó là cái cần câu của cô. Hãy tận dụng tối đa hai inch đó.”
Susan mỉm cười ngọt ngào. “Anh sẽ thấy”, cô nói.
Các thực tập sinh bật cười.
Ian rời khỏi bàn của cô và đi về văn phòng của mình. “Tôi muốn thấy cô đánh máy”, anh ta nói mà không nhìn lại.
Susan quay lại màn hình, tự hỏi không biết tại sao mình lại ngủ với anh ta. “Bây giờ người ta gọi là gõ phím rồi nhé”, cô nói.
Một inch cột báo có khoảng ba mươi lăm từ. Ba mươi inch là 1.050 từ. Susan luôn phải tính toán. Cô đặt một chiếc máy tính năng lượng mặt trời trên bàn cho mục đích đó. Năm trăm từ dẫn chuyện, năm trăm năm mươi từ giải quyết chuyện đó.
Một chồng phong bì đập xuống bàn cô. Derek. Anh chàng cười toe toét với cô. Anh ta có một đường chẻ ở cằm. Một đường chẻ thật sự. Giống như Kirk Douglas. Susan chưa thấy bất cứ ai có đường cằm chẻ thực sự cho đến khi cô gặp Derek.
Một sáng nọ, cô còn trông thấy anh ta đứng trong phòng tắm của cô, làm sạch cái cằm chẻ bằng một que tăm bông.
“Em có thư này”, anh ta nói.
Cô liếc xuống đống phong bì. Có mấy chiếc trông rõ ràng là thông cáo báo chí, một vài phong bì màu trắng nhỏ cỡ cái lót cốc với chữ viết tay của một bà cụ nhỏ thó, và một phong bì màu hồng sáng trông giống như một tấm thiệp. “Anh kiểm tra hộp thư của em đấy à?”
“Anh tiện kiểm tra hộp thư của anh thôi”, anh ta nhún vai nói. “Hộp thư của chúng ta đặt ngay cạnh nhau mà.” Anh ta dừng lại và chăm chú nhìn cô đầy ẩn ý, giống như sự gần gũi của những hộp thư có thể là một điềm báo nào đó.
Susan ném ánh mắt vào hộp thư đầy tràn của mình. “Anh cứ bỏ vào đống này là được”, cô nói.
Derek nhíu mày. “Em cần phải trả lời độc giả”, anh ta nói. “Đây là một phần trong việc quảng bá đấy.”
“Em sẽ làm”, Susan nói, “nhưng em hết giấy viết thư in hình mèo Garfield rồi.”
Derek vuốt phẳng nếp nhăn trên chiếc quần kaki của mình. “Em ghét Garfield mà”, anh ta nói.
Susan giơ tay. “Nhưng em yêu Lasagna”, cô nói. “Thế mới châm biếm chứ.” Cô đẩy mình ra khỏi bàn và ngả người ra sau ghế. “Em cần phải làm việc, Derek. Em đến hạn nộp bài rồi.”
Ánh mắt anh ta rơi xuống chiếc quần jean của cô. “Trên quần em có dính máu”, anh ta nói.
Cô nhìn xuống cẳng chân của mình. Máu đã cứng lại thành một vết màu gỉ sét trơn bóng. Susan duỗi hai chân ra và hạ chúng xuống sàn. “Cảm ơn”, cô nói.
“Bên bàn anh có một ít OxyClean đấy”, Derek nói.
“Nó tẩy vết bẩn tốt lắm”, cậu thực tập sinh nói đế vào.
ẳ
Susan quay sang cậu ta. “Chẳng phải cậu cần viết một bài bên lề về vụ lá lách sao?” Cô hỏi.
“Xin lỗi”, cậu thực tập sinh đáp lời.
“Anh có nhận được gì từ NTC không?” Susan hỏi Derek. Một trong những điều tuyệt vời trong việc che giấu tin tức thực tế là sử dụng các từ viết tắt tiện lợi thay cho những thứ như “nhân viên thông tin của cảnh sát”.
“Chẳng gì hơn ngoài những thứ em nhận được từ Sobol. Họ chưa xác định được lai lịch thi thể. Anh đã điều tra một chút và phát hiện ra rằng ngôi nhà thuộc sở hữu của một bà cụ. Bà ấy đã ở trong nhà dưỡng lão hơn mười lăm năm nay. Nơi đó đã bị bỏ hoang kể từ khi bà ấy rời đi. Vì trong nhà có thùng dầu ngầm và radon trong tầng hầm nên bà ấy không thể bán nó.” Anh ta gãi gãi vết nứt trên cằm. “Anh có thể đi phỏng vấn bà ấy dưới góc nhìn nhân cảm. Điều thú vị là bà ấy nói rằng mình đã nhận được hai lời đề nghị về ngôi nhà kể từ khi tin này được tung ta. Anh đoán mọi người muốn sở hữu hiện trường vụ án Mỹ nhân đoạt mạng của riêng mình.”
“Chắc chắn rồi”, Susan nói. “Để còn mở chỗ ăn uống ngủ nghỉ chứ.” Derek nhún vai. “Đấy là em muốn làm thế thôi.” Anh ta xoay người rời đi và ngồi xuống bàn làm việc được thừa hưởng từ Parker mấy tháng trước.
Derek ngồi đó trông không hề thoải mái chút nào. Nó quá lớn đối với anh ta.
CHƯƠNG 19
N
gười ta đã dọn sạch máu vương vãi trên sàn trong phòng nghỉ. Archie vẫn có thể ngửi thấy mùi thuốc tẩy. Trên viện thông báo là người cố vấn cần khâu vết thương còn Courtenay thì không. Cô đã trở lại phòng mình, bị khóa lại. Cả buổi chiều cô chỉ hát một bài. Ước vọng xa vời. Bạn có thể nghe thấy tiếng hát vang khắp con đường dẫn xuống hội trường.
Có những hy vọng xa vời… mơ về chồng bánh táo thật cao, những ước vọng bay trên bầu trời.
Archie hy vọng bài hát này là để gây cười.
“Em gái tôi sắp đến thăm”, Frank ngồi trên sofa lên tiếng. “Ừ, Frank”, Archie đáp lại.
Archie đã đi tắm, thay quần áo sạch và đánh răng sau bữa tối. Họ ăn lúc 5 giờ, như người già vậy. Bây giờ anh đang uống cà phê từ chiếc cốc in hình hoạt họa chữ Thứ hai được đặt trên ghế bành của bác sĩ. Trong khung thoại tròn, chữ Thứ hai nói, “Mọi người đều ghét tôi”.
Archie nhấp ngụm cà phê và liếc nhìn đồng hồ, 6 giờ 30. Debbie luôn đúng giờ. Anh nhìn những chiếc kim gặp nhau ở điểm dưới cùng của đồng hồ, rồi nhìn qua cánh cửa vào phòng nghỉ. Debbie đứng đó, dựa vào khung cửa, mỉm cười với anh. Làn da rám nắng vì làm vườn dưới nắng hè của cô đã nhạt đi. Căn hộ an toàn của cô ở Vancouver không có vườn. Dù vậy cô vẫn xinh đẹp hơn bao giờ hết. Mái tóc ngắn tối màu, mặc chiếc váy lửng màu đen, khoanh tay, trên cổ tay đeo vòng bạc. Cô trông trẻ hơn, có vẻ hạnh phúc.
Ben và Sara xông vào bên cạnh cô và chạy đến chỗ Archie. Thời gian trôi qua, bọn trẻ ngày càng giống cô. Giống từ những đốm tàn nhang. Giống mái tóc thẳng mượt của cô. Tay chân cũng dài giống mẹ. Việc này làm Archie thấy mừng khi thấy rất ít hình ảnh của bản thân trong chúng, như thể điều đó sẽ giúp chúng thoát được những nỗi đau nhất định sẽ tới.
Anh ôm cả hai đứa, hít mùi dầu gội ngọt ngào trên mái tóc đen của chúng, ôm chúng lâu hơn một giây so với cái ôm mà lũ trẻ mong muốn. Chúng đã chuyển trường từ mùa thu. Nhưng ngay cả khi Debbie không chuyển đi, cô cũng không bao giờ cho phép chúng quay lại trường tiểu học cũ. Nhất là sau những gì đã xảy ra ở đó. Đó là nơi đầu tiên Gretchen tới sau khi trốn thoát.
“Để bố mẹ nói chuyện riêng một phút nhé”, Debbie nói. Bọn trẻ quay lại nhìn cô, Archie gật đầu và hôn lên tóc cả hai lần nữa rồi dõi theo khi bọn trẻ rời đi ra ngồi trên chiếc ghế dài trước tivi.
Sara tuột đôi giày thể thao ra rồi đẩy hai chân xuống dưới ghế và ngồi cạnh Frank. Bây giờ là sau bữa tối, trừ Frank và Archie, tất cả mọi người đều ra ngoài hút thuốc. Khoảng thời gian này họ được tự do đi lại.
Chương trình Phòng cấp cứu thú y vẫn đang bật. Hẳn là nó được chiếu liên tục.
“Đây có phải tập phim có con mèo chết không?” Sara hỏi Frank. “Là tập về chồn sương”, Frank đáp.
“Tốt”, Sara nói.
Debbie đợi một lát, cho đến khi bọn trẻ mải mê với chương trình, rồi cô đi đến chỗ Archie đang ngồi. “Chuyện gì đang xảy ra vậy?” Cô hỏi anh. Hai tay cô vẫn khoanh lại. Anh có thể ngửi thấy mùi hương từ cô. Cùng một loại dầu gội như bọn trẻ, nhưng còn có những mùi hương khác, đó là sự giao hòa của một loại kem dưỡng da và loại nước hoa mà anh không nhận ra.
Họ đã yêu nhau từ hồi đại học, gần hai mươi năm trước. Anh vẫn khó có thể tưởng tượng về một cuộc sống không có cô. Nhưng anh nhận ra cô không thấy được điều đó. Anh không muốn làm mọi chuyện khó khăn hơn.
“Gì cơ?” Anh nói mà vẫn nghĩ về chiếc điện thoại trong túi. “Cô ta đã quay lại”, Debbie nói.
“Cô ta là kẻ giết người hàng loạt”, Archie nói. “Việc trở lại chỉ là vấn đề thời gian.”
“Em cứ nghĩ cô ta đã bỏ chạy”, Debbie nói tiếp. “Rằng cô ta đã ở một nơi rất xa.” Cô làm một cử chỉ bất lực bằng đôi tay. “Trên một tảng băng
ẳ
"""