"
Tổng Tư Lệnh Võ Nguyên Giáp Trong Những Năm Đế Quốc Mỹ Leo Thang Chiến Tranh (1965-1969)
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tổng Tư Lệnh Võ Nguyên Giáp Trong Những Năm Đế Quốc Mỹ Leo Thang Chiến Tranh (1965-1969)
Ebooks
Nhóm Zalo
LỜI GIỚI THIỆU
Sau nhiều năm nghiên cứu, đầu năm 2005, Đại tá Trần Trọng Trung, nhà nghiên cứu lịch sử chiến tranh có uy tín, gửi đến Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật bản thảo viết về quá trình Đại tướng - Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ đã chỉ huy quân đội ta đánh thắng đội quân xâm lược nhà nghề của thực dân Pháp (1945-1954). Tháng 8/2006, để mừng đại thọ tuổi 95 của Đại tướng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật lần đầu tiên xuất bản bản thảo trên thành sách dưới tiêu đề Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp. Cuốn sách đã đoạt giải cao về sách hay của Hội Xuất bản Việt Nam. Từ năm 2010 đến nay, cuốn sách được xuất bản nhiều lần với tiêu đề Võ Nguyên Giáp - danh tướng thời đại Hồ Chí Minh và được bạn đọc rất hoan nghênh. Tác giả xem cuốn sách này như tập 1 của bộ sách 2 tập viết về quá trình cầm quân của Đại tướng - Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp qua 30 năm chiến tranh cách mạng, trải qua hai cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945-1975).
Sau khi cuốn sách ra đời, một số tướng lĩnh, sĩ quan gồm Trung tướng Phạm Hồng Cư - nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Trung tướng Lê Hữu Đức - nguyên Cục trưởng Cục Tác chiến, Đại tá Hoàng Minh Phương - nguyên Phó Tư lệnh Quân khu 7 - người giúp việc nhiều năm của Đại tướng và Đại tá Trần Trọng Trung, với sự giúp đỡ của Văn phòng Đại tướng
5
Võ Nguyên Giáp, đã thống nhất phối hợp với nhau viết tập 2 của bộ sách Võ Nguyên Giáp - danh tướng thời đại Hồ Chí Minh, trình bày hoạt động lãnh đạo, chỉ huy quân đội của Đại tướng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975).
Đại tá Trần Trọng Trung được phân công viết về hoạt động lãnh đạo, chỉ huy của Đại tướng Võ Nguyên Giáp giai đoạn 1965-1969 - giai đoạn đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh, đưa quân chiến đấu Mỹ và quân các nước phụ thuộc trực tiếp tiến hành cuộc chiến tranh cục bộ xâm lược nước ta - đã hoàn thành xong bản sơ thảo và gửi đến Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật. Tác giả xem đây là quyển 2, tập 2 của bộ sách Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp - danh tướng thời đại Hồ Chí Minh (theo dự kiến, tập 2 gồm 3 quyển).
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật rất tiếc không được xuất bản toàn bộ tập sách viết về sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đại tướng - Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp với các lực lượng vũ trang trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) do bản thảo chưa được hoàn thành.
Để đáp ứng yêu cầu của bạn đọc, chúng tôi trao đổi với Đại tá Trần Trọng Trung cho công bố phần tác giả viết với tiêu đề Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp trong những năm đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh (1965-1969).
Với tinh thần khách quan, trung thực, trách nhiệm cao của một người trong cuộc, với tinh thần lao động khoa học cẩn trọng, kỹ lưỡng, dựa trên nguồn tư liệu phong phú, tin cậy ở trong nước và nước ngoài, tác giả cuốn sách trình bày quá trình đồng chí Võ Nguyên Giáp, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên cương vị của mình, đã cùng tập thể Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương chỉ đạo từng bước đi ở tầm chiến lược toàn cục, chỉ đạo các cơ quan Bộ Quốc phòng, các
6
quân chủng, binh chủng tăng cường xây dựng lực lượng, tổ chức chi viện, đáp ứng yêu cầu về người và cơ sở vật chất cho tiền tuyến lớn miền Nam; quá trình quân và dân ta chuẩn bị mọi mặt, sẵn sàng đối phó với âm mưu leo thang chiến tranh của đế quốc Mỹ; quá trình hình thành quyết tâm chiến lược "giành thắng lợi quyết định" - quá trình hình thành kế hoạch tiến công chiến lược Tết Mậu Thân 1968, đợt tiến công đông xuân 1968 - 1969, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ trên các chiến trường để
buộc đế quốc Mỹ xuống thang chiến tranh, v.v..
Để có được bản thảo cuốn sách như Nhà xuất bản cho ra mắt bạn đọc hôm nay, tác giả đã dành nhiều tâm sức, trăn trở sửa chữa nhiều lần và trong lần sửa chữa cuối cùng, tác giả đã qua đời. Do đó, quá trình biên tập - xuất bản cuốn sách, gặp một số khó khăn, hạn chế nhất định và khó tránh khỏi còn có những thiếu sót.
Trước khi xuất bản cuốn sách này, chúng tôi đã gửi bản thảo đến gia đình Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Ban Tổng kết - Lịch sử Bộ Tổng tham mưu đọc cho ý kiến về những nhận định, đánh giá, những tư liệu, sự kiện, nhân vật được đề cập trong cuốn sách.
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xin trân trọng cám ơn sự hợp tác đầy tinh thần trách nhiệm của gia đình Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Đại tá Trần Quốc Tuấn - Trưởng ban Tổng kết - Lịch sử Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam.
Cuốn sách đã được xuất bản lần đầu tiên vào năm 2015 nhân dịp kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2015) và được bạn đọc đánh giá rất cao.
7
Nhân dịp kỷ niệm 110 năm ngày sinh Đại tướng Võ Nguyên Giáp (25/8/1911 - 25/8/2021), đáp ứng nhu cầu của đông đảo bạn đọc, chúng tôi xuất bản lần thứ hai cuốn sách. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 5 năm 2021
NHj XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
8
Chương I
CHỈ ĐẠO CHUẨN BỊ MỌI MẶT, SẴN SjNG ĐỐI PHÓ VỚI ÂM MƯU LEO THANG CHIẾN TRANH
CỦA ĐẾ QUỐC MỸ
1
Sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm bị Mỹ lật đổ, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp và tập thể lãnh đạo của ta đã dự kiến đế quốc Mỹ sẽ đưa quân vào để cứu vãn tình thế ngày càng rối ren của chế độ Sài Gòn. Trong một bài viết nhân kỷ niệm 10 năm Hiệp định Genève được ký kết, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã dự kiến: "Trước nguy cơ bị thất bại nặng nề, bọn cầm quyền Mỹ đang ra sức tìm cách cứu vãn tình thế hiện nay của chúng ở miền Nam"1. Ông nhắc lại tuyên bố ngày 15/7/1964 của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa2 và kết luận: "Ngoài con đường ___________
1. Đại tướng Võ Nguyên Giáp với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005, tr.55.
2. Bản tuyên bố gồm ba điểm: 1) Chính phủ Mỹ phải tôn trọng chủ quyền độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, không can thiệp vào nội trị của Việt Nam; 2) Chính phủ Mỹ phải chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, rút hết quân đội và vũ khí của Mỹ khỏi miền Nam, để công việc nội bộ của miền Nam do nhân dân miền Nam tự giải quyết lấy theo chương trình của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam; 3) Vấn đề hòa bình thống nhất nước Việt Nam là công việc của dân tộc Việt Nam, vấn đề đó sẽ được giải quyết theo tinh thần của bản cương lĩnh của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và chương trình của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.
9
đó ra, không còn con đường nào khác. Nếu đế quốc Mỹ tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam, chúng nhất định sẽ bị nhân dân miền Nam đánh bại và cuối cùng sẽ bị đánh bại hoàn toàn. Nếu đế quốc Mỹ liều lĩnh mở rộng chiến tranh ra miền
Bắc, thì đó là một hành động tự sát đối với chúng"1. Sau này, việc nghiên cứu tài liệu của đối phương cho thấy phán đoán của lãnh đạo ta là đúng đắn và có cơ sở. Qua những trang hồi ký của Tổng thống Mỹ Lyndon B. Johnson viết những năm sau này2, người ta thấy tình hình Việt Nam khi cuộc chiến tranh sắp bước sang năm 1965, đã khiến cho nỗi lo ngại của ông ta và của những cố vấn thân cận tăng lên từng ngày. Giới cầm quyền Mỹ cho rằng, từ cuối năm 1964, quân chính quy Bắc Việt xuất hiện với quy mô tiểu đoàn đã qua hướng Lào để vào Nam. Vì vậy, từ cuối tháng 1/1965, Tướng Westmoreland yêu cầu, và được tổng thống cho phép, sử dụng máy bay phản lực Mỹ đánh vào đội hình tiến công của Việt cộng để yểm trợ cho quân đội Việt Nam Cộng hòa, khi Tổng chỉ huy quân Mỹ coi là cần thiết. Hành động yểm trợ đó diễn ra lần đầu tiên vào cuối tháng 2/1965, khi hai đại đội quân Sài Gòn và một đơn vị đặc biệt quân Mỹ rơi vào một ổ phục kích của bộ đội ta ở chiến trường Tây Nguyên. Vẫn theo Johnson, tinh thần của đồng minh Sài Gòn "đã được nâng lên đôi chút" khi máy bay Mỹ đánh phá Bắc Việt hồi tháng 8/1964, nhưng hiệu quả không được bao lâu. Nhà Trắng tiếp tục nhận được những tin tức không đáng khích lệ, ___________
1. Đại tướng Võ Nguyên Giáp với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Sđd, tr.59.
2. Xem L.B.Johnson: Lợi thế (The vantage point), Weidenfeld & Nicolson-London, 1972. Bản dịch của Thông tấn xã Việt Nam; lưu tại Thư viện Quân đội, ký hiệu TP.147, tr.48.
10
trong đó có báo cáo đầu tháng 1/1965 của Đại sứ Taylor, với lời kết luận rằng, hiện nay Mỹ đang đứng vào tình thế bất lợi ở Nam Việt Nam, một tình thế đòi hỏi phải đi một bước mạo hiểm mới mong tạo nên một sự thay đổi... Giờ đây, nếu không có một hành động tích cực, sẽ dẫn đến việc Mỹ buộc phải chấp nhận thất bại trong một tương lai gần... Johnson cho rằng, đó cũng là quan điểm của tất cả các cố vấn quân sự hữu trách ở Nam Việt Nam và cả ở Washington. Và người cầm đầu nước Mỹ thú nhận: Đau lòng và miễn cưỡng, các cố vấn dân sự của tôi cũng đã buộc phải chấp nhận kết luận như vậy trước những sự kiện không thể bác bỏ.
Trung tuần tháng 7/1964, sau khi nghe báo cáo tin Nhà Trắng đã cử Tướng Maxwell Taylor sang làm đại sứ ở miền Nam Việt Nam, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp lưu ý Cục Tình báo bám sát những triệu chứng mới của địch, cả ở Sài Gòn và Washington. Ông gợi ý: với việc cử viên tướng số một sang làm đại sứ ở Sài Gòn, cần theo dõi âm mưu mới của địch tăng quân và leo thang chiến tranh, và ông nhấn mạnh: cũng không loại trừ khả năng chúng mở rộng chiến tranh trên cả hai miền.
Cũng vào thời điểm trước và sau cuộc bầu cử tổng thống ở Mỹ1, theo chỉ thị của Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, cơ quan tình báo chiến lược của ta đặc biệt quan tâm theo dõi sát lời nói và việc làm thực tế của người cầm đầu Nhà Trắng. Nếu trước tháng 11, ông ta không công khai biểu thị thái độ "diều hâu" để hy vọng có thêm phiếu của những cử tri phản chiến, thì sau khi trúng cử tổng thống, Johnson sẽ làm gì.
___________
1. Phó Tổng thống Lyndon B. Johnson lên thay Tổng thống John F. Kennedy (bị ám sát) từ ngày 22/11/1963, tức là ngồi vào ghế tổng thống không qua bầu cử. Đây là lần đầu tiên Lyndon B. Johnson chính thức tranh cử.
11
Qua nhiều nguồn tin từ mạng tình báo chiến lược của ta và qua báo chí phương Tây, Cục Tình báo khẳng định với Tổng Tư lệnh rằng, diễn biến thực tế trên chiến trường cũng như tình hình chính trị không ổn định ở Sài Gòn đang tác động trực tiếp và rất mạnh đến Nhà Trắng và Lầu Năm Góc, khiến giới cầm quyền Mỹ phải hoạch định chủ trương chiến lược mới.
Báo cáo ngày 29/11/1964 của Cục Tình báo viết: Hiện nay Mỹ đang nghiên cứu lại chủ trương chiến tranh ở miền Nam Việt Nam. Có nhiều khả năng Mỹ vẫn duy trì đường lối "chiến tranh đặc biệt" như hiện nay, nhưng mức độ và tính chất có thể có những điểm mới. Do Mỹ chưa có kế hoạch lâu dài và toàn diện nhằm giải quyết cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, nên trước mắt địch sẽ vẫn tập trung lực lượng nhằm làm thất bại kế hoạch hoạt động mùa khô của ta, kết hợp với không quân đánh vào căn cứ bàn đạp và nơi tập trung chủ lực của ta; tiếp tục cô lập miền Nam bằng cách dùng không quân đánh phá hành lang, kết hợp với bộ binh lấn chiếm và biệt kích... Đối với miền Bắc, địch sẽ khôi phục và đẩy mạnh hoạt động biệt kích vào vùng Khu 4 và biên giới Việt - Trung, tập kích ven biển và cũng có khả năng chúng ném bom vào đường hành lang ở nội địa Khu 4 để hỗ trợ cho các cuộc đánh lớn ở miền Nam... Mọi cố gắng của địch trong thời gian trước mắt chỉ nhằm mục tiêu "không thắng - không thua", để tránh đột biến lớn về chính trị và chờ chủ trương mới, lâu dài hơn. Về vấn đề thương lượng để giải quyết cuộc chiến ở miền Nam, Mỹ có thể cũng đã nghiên cứu và thăm dò dư luận, nhưng chưa có cơ sở thực tế để xúc tiến1...
___________
1. Xem hồ sơ số 752, phông Cục Tác chiến, Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng.
12
Thực tế những khó khăn, lúng túng về chủ trương chiến lược của Washington và Sài Gòn mà Cục Tình báo báo cáo với Tổng Tư lệnh, sau này được cựu Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Robert S. McNamara nói rõ trong những trang hồi ký của ông ta1. McNamara tiết lộ rằng, trong năm 1964, giới cầm quyền Mỹ rất lo ngại vì phải đương đầu với tình hình chính trị và quân sự ở
miền Nam Việt Nam xấu đi nhanh chóng, dẫn đến tình trạng căng thẳng và tiến thoái lưỡng nan về đường lối đối với vùng Viễn Đông. Theo giải thích của McNamara, cái gọi là tình trạng tiến thoái lưỡng nan đó là sự giằng xé giữa một bên là cố tránh phải can thiệp quân sự trực tiếp vào Việt Nam với một bên là tham vọng không để mất Nam Việt Nam: "Trong suốt thời gian vận động bầu cử, chính quyền đã cố sức giữ cân bằng giữa hai mục tiêu về Việt Nam: tránh sử dụng lực lượng lính chiến của Mỹ đồng thời không để mất Nam Việt Nam vào tay cộng sản"2. McNamara nhận xét rằng, giới cầm quyền Mỹ vừa bất đồng sâu sắc vừa "bối rối" trong việc hoạch định chính sách đối với Nam Việt Nam. Họ không biết phải làm gì trước tình trạng suy sụp nhanh chóng của chính quyền Sài Gòn.
Theo McNamara thì tại các cuộc tranh luận trong giới có thẩm quyền, không ai sẵn sàng thảo luận vấn đề rút quân ra khỏi Việt Nam. Người ta cho rằng làm như vậy sẽ dẫn đến một lỗ hổng nghiêm trọng trên con đê ngăn chặn sự lan tràn của chủ
nghĩa cộng sản ở Đông Nam Á, và giới cầm quyền Mỹ không chấp nhận điều đó. Thì ra Nhà Trắng vẫn bám lấy thuyết domino được vạch ra từ thời Tổng thống Harry Truman!
___________
1. Xem Robert S. McNamara: Nhìn lại quá khứ: Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.151-159.
2. Robert S. McNamara: Nhìn lại quá khứ: Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Sđd, tr.156-157.
13
Trong khi đó, các tham mưu trưởng liên quân không giấu giếm suy nghĩ của họ trước thực trạng miền Nam Việt Nam. Giới quân sự ở Lầu Năm Góc nói thẳng ra rằng, nếu tổng thống không chủ trương tăng cường các biện pháp quân sự thì họ tin chắc chắn rằng Mỹ sẽ phải rút khỏi Nam Việt Nam. Và họ đề nghị một chương trình hoạt động quân sự mới và mạnh mẽ hơn nữa, bao gồm cả việc dùng không quân đánh phá miền Bắc Việt Nam. McNamara nói rằng, với những tướng lĩnh trong Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân, chủ trương rút quân khỏi miền Nam Việt Nam hoặc Đông Nam Á là một việc không thể chấp nhận được, thậm chí còn là một giải pháp khiến các tham mưu trưởng thấy giật mình.
Trước tình hình ngày càng rối loạn do tranh giành quyền lực trong nội bộ tướng lĩnh Sài Gòn, Tổng chỉ huy Westmoreland có những suy nghĩ khác với các Tham mưu trưởng liên quân. Ông ta không tin rằng biện pháp quân sự đơn thuần có thể
giải quyết được vấn đề, dù là có quân đội Mỹ trực tiếp tham chiến. Trong một bức điện gửi về cho Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Hoa Kỳ Earle G. Wheeler vào trung tuần tháng 10/1964, Westmoreland viết rằng trừ khi có những triển vọng về một chính quyền tương đối có hiệu quả ở
Nam Việt Nam trong thời gian ngắn trước mắt, nếu không thì không có một cuộc tiến công nào của Mỹ ở bên trong hay bên ngoài Nam Việt Nam có thể đảo ngược được tình hình đang xấu đi nghiêm trọng.
Sau này, cựu Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ McNamara đã nói rõ trong hồi ký của mình rằng, trong suốt thời gian vận động bầu cử, ông ta nhận thấy Tổng thống Johnson cố tỏ ra
14
là "một hình mẫu của con người ôn hòa và kiềm chế"1. Trong các bài diễn văn vận động tranh cử, Johnson đều nhắc lại một điệp khúc, nhằm vào đối thủ là Thượng nghị sĩ Barry M. Goldwater. Johnson nói: "Một số người đang thèm khát mở rộng cuộc xung đột. Họ muốn chúng ta gửi thanh niên Mỹ đi làm những việc mà thanh niên châu Á phải làm và chẳng đem lại giải pháp nào cho vấn đề Việt Nam"2. Và ông ta nhấn mạnh: "Người Nam Việt Nam có trách nhiệm cơ bản bảo vệ tự do của chính họ"3. Chính McNamara cũng không hề giấu giếm mà nói thẳng ra rằng, trong khi chiến dịch tranh cử tổng thống đang diễn ra quyết liệt, Lyndon B. Johnson muốn vẽ nên hình ảnh Thượng nghị sĩ Barry Goldwater - ứng cử viên của Đảng Cộng hòa - như một người hiếu chiến, còn bản thân ông ta là một chính trị gia biết lẽ phải và yêu hòa bình. McNamara đã từng đặt câu hỏi: Liệu Tổng thống Johnson có che giấu điều gì không? Và ông ta tự trả lời: "Tổng thống không hề tiết lộ một chút gì về thực tế đó (Việt Nam - TG.) cho công chúng (Mỹ - TG.). Nếu ông có tiết lộ, thì chắc ông phải thêm đôi lời như: "Chúng ta đang mắc trong đám bùng nhùng khủng khiếp mà không biết cái gì sẽ xảy ra". Nhưng ông đã không làm như vậy"4. Vẫn theo McNamara, riêng với những cố vấn thân cận đứng sau hậu trường của tổng thống (như Dean Rusk, Mac Bundy, McNamara...) thì lại khác - Johnson có thái độ rất rõ ràng trong mục tiêu đối với chiến tranh Việt Nam..., đó là: Phải thắng! Ông ta đã nói với họ như vậy ngay từ lần gặp đầu tiên với tư cách là tổng thống. McNamara nhấn mạnh rằng, người
___________
1, 2, 3, 4. Robert S. McNamara: Nhìn lại quá khứ: Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Sđd, tr.152, 153, 153, 154.
15
cầm đầu Nhà Trắng không bao giờ sao nhãng khỏi mục tiêu đó. "Nhưng chúng tôi đã chẳng bao giờ có thể vạch ra được cho ông ta thấy thắng như thế nào với cái giá phải chăng và sự mạo hiểm chấp nhận được"1.
Do khéo sắm vai "chính trị gia biết lẽ phải và yêu hòa bình" (như cách mỉa mai của McNamara) nên đầu tháng 11/1964, Johnson trúng cử với số phiếu áp đảo. Để chuẩn bị bước vào nhiệm kỳ mới, mấy ngày trước đó, ông ta đã cho thành lập một "nhóm công tác" nhằm giúp tổng thống lựa chọn chính sách đối với vấn đề Việt Nam2. Ngày 1/12/1964, Tổng thống Johnson triệu tập một hội nghị quan trọng để thảo luận các khuyến nghị
của "nhóm công tác" làm cơ sở để quyết định chính sách đối với Nam Việt Nam. Ngoài các cố vấn thân cận, cuộc họp còn có Đại sứ Maxwell Taylor và Phó Tổng thống H. Humphrey. Tổng thống không chấp nhận cả ba phương án do "nhóm công tác" đưa ra (nhất là phương án gây sức ép quân sự mạnh, ném bom ồ ạt trên đường vận chuyển chiến lược) vì - như cách diễn đạt ___________
1. Robert S. McNamara: Nhìn lại quá khứ: Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Sđd, tr.153.
2. Ngoài nhóm trưởng là William Bundy (trợ lý Bộ trưởng Bộ Ngoại giao) nhóm công tác gồm những quan chức cao cấp của Lầu Năm Góc: Phó Đô đốc Lloyd M.Mustin, sĩ quan cao cấp của tham mưu liên quân và là người cho rằng "yếu tố quyết định ở Nam Việt Nam là vấn đề quân sự"; Harold Ford, chuyên viên cao cấp về Trung Quốc - châu Á của CIA; John McNaughton, trợ lý Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về các vấn đề an ninh quốc tế... Sau chừng ba tuần, nhóm công tác đề đạt với tổng thống ba phương án: 1) Giải pháp thông qua thương lượng trên bất cứ một cơ sở nào có thể có được; 2) Tăng mạnh sức ép quân sự với cả hai miền, nhất là với Bắc Việt Nam; 3) Chính sách xen kẽ giữa gây sức ép đối với Bắc Việt Nam đồng thời nỗ lực duy trì các kênh tiếp xúc trong trường hợp Hà Nội mong muốn có một giải pháp.
16
của Tổng thống Johnson - được McNamara nhắc lại trong hồi ký - nếu bảo Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Wheeler tát cho Bắc Việt một cái thì chúng ta cũng có thể nhận một cái tát trả lại. Hơn nữa, McNamara nói rõ thêm, Johnson chưa hề tin rằng Mỹ sẽ thắng trong cuộc chiến này bằng không quân... Điều cần hơn và hiệu quả hơn là phải có sức mạnh quân sự đủ mạnh trên mặt đất.
Theo McNamara, đó chính là nguồn gốc dẫn đến chủ trương triển khai quy mô lớn lực lượng bộ binh Mỹ tại miền Nam Việt Nam.
Sau cuộc họp quan trọng với tổng thống, giữa tháng 12, Tướng Taylor trở lại miền Nam Việt Nam, mang theo bản thông điệp của Nhà Trắng gửi các tướng lĩnh Nam Việt Nam nói rằng: để có được sự ủng hộ tiếp tục của Mỹ thì cần phải ổn định chính trị, (và điều này có nghĩa là) các tướng lĩnh phải chấm dứt việc chống đối lẫn nhau và chống chính phủ
của mình. Qua bản thông cáo chung Taylor - Trần Văn Hương, báo Nhân dân (ngày 13/12/1964) trích dẫn lời của hãng thông tấn Anh Reuter ngày 11/12, viết rằng: "Mỹ đã quyết định tăng viện trợ cho chính quyền Sài Gòn để tiến hành những hoạt động đánh vào các đường xâm nhập từ Bắc Việt Nam vào Nam Việt Nam. Tính chất những biện pháp quân sự mới này chưa được nêu ra "vì lý do an ninh" nhưng những biện pháp đang được thảo luận bao gồm những cuộc tiến công bằng đường không và đường bộ vào các vùng căn cứ của cộng sản ở vùng núi miền Nam nước Lào".
Bước sang đầu năm 1965, tin tức về việc Lầu Năm Góc chuẩn bị đưa quân vào miền Nam Việt Nam ngày càng được mạng lưới tình báo chiến lược của ta khẳng định.
17
2
Cùng với dự kiến địch leo thang chiến tranh ở miền Nam, Bộ Thống soái Việt Nam cũng dự kiến địch sẽ mở rộng chiến tranh đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân. Theo đề nghị của Quân ủy Trung ương, từ tháng 7/1963, Thủ tướng Chính phủ đã ra nghị định về việc tổ chức công tác phòng không nhân dân trên toàn miền Bắc, nhằm thực hiện chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Các lực lượng phòng không và không quân phải sẵn sàng cùng với các lực lượng vũ trang nhân dân đập tan mọi âm mưu của địch đối với miền Bắc... Phải kiên quyết bắn rơi máy bay địch nếu chúng liều lĩnh xâm phạm vùng trời miền Bắc nước ta.
Theo báo cáo của Cục Tình báo, từ tháng 1/1964, Mỹ bắt đầu giúp quân đội Sài Gòn mở các chiến dịch bí mật chống phá miền Bắc, mang mật danh Kế hoạch 34A. Nội dung hoạt động của Kế hoạch 34A gồm: sử dụng máy bay U-2 do thám miền Bắc; bắt cóc công dân miền Bắc để khai thác tin tức tình báo; bí mật thả
dù hoặc tung các toán biệt kích từ biển vào phá hoại cầu đường, kho tàng, gây phỉ và hoạt động "chiến tranh tâm lý". Trong khi đó, Mỹ tiếp tục dùng các tàu hải quân có trang bị đặc biệt tiến hành tuần tiễu, do thám và thu thập tin tức theo Kế hoạch DESOTO, nhằm phô trương lực lượng, gây sức ép về tâm lý, hỗ
trợ Kế hoạch 34A.
Để toàn quân, toàn dân sẵn sàng và chủ động đối phó với chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, Tổng Tư lệnh chỉ đạo các cơ quan quân sự Tổng hành dinh triển khai hàng loạt công tác chuẩn bị hết sức khẩn trương.
Hội nghị phòng không nhân dân toàn miền Bắc lần thứ nhất được triệu tập đầu tháng 1/1964, mở ra phương hướng triển khai rộng khắp hệ thống phòng không nhân dân của ba thứ
18
quân đánh trả máy bay địch đồng thời với các biện pháp phòng tránh, sơ tán nhân dân nhằm hạn chế những tổn thất và thiệt hại do máy bay địch gây nên.
Trong cuộc họp đầu tháng 2/1964, Bí thư Quân ủy Trung ương Võ Nguyên Giáp cùng Quân ủy Trung ương nhận định: Địch sẽ tăng cường hoạt động khiêu khích, phá hoại; chúng cũng có thể dùng không quân đánh phá một số mục tiêu ở miền Bắc. Ngày 26/3/1964, sau khi nghe Cục Tác chiến báo cáo khả
năng địch đánh phá miền Bắc, Bộ Tổng tham mưu theo chỉ thị của Tổng Tư lệnh phát lệnh báo động sẵn sàng chiến đấu trong toàn quân. Các đơn vị phòng không, hải quân, biên phòng và các binh đoàn dự bị chiến lược chuyển vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao. Quân và dân vùng ven biển và giới tuyến quân sự tạm thời triển khai các đơn vị pháo binh ba thứ quân ra ven biển sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vùng trời, vùng biển và vùng giới tuyến.
Ngày 27/3/1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt, kêu gọi toàn dân sẵn sàng chiến đấu bảo vệ miền Bắc, ra sức chi viện miền Nam, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Sau hội nghị, mọi công tác chuẩn bị chiến đấu bảo vệ miền Bắc được triển khai rộng khắp ở các cấp chính quyền, trong nhân dân và quân đội1.
___________
1. Ngày 2/4/1964, Phủ Thủ tướng ra Chỉ thị về công tác phòng không nhân dân và thành lập Hội đồng phòng không nhân dân thành phố Hà Nội; sau đó Bộ Tổng tham mưu hướng dẫn các cơ quan quân sự địa phương tổ chức thực tập vừa sản xuất vừa chiến đấu và phòng tránh. Ngày 24/6/1964, sau khi có Chỉ thị của Bộ Chính trị về tăng cường sẵn sàng chiến đấu bảo vệ miền Bắc, Hội đồng Chính phủ ra Nghị quyết về phòng không nhân dân và Nghị định thành lập Đội Thanh niên xung phong chống Mỹ, cứu nước. Hàng chục vạn thanh niên nam nữ lên đường làm nhiệm vụ chiến đấu, phục vụ chiến đấu, bảo đảm giao thông vận tải, tham gia làm đường vận chuyển chiến lược chi viện miền Nam...
19
Ngày 7/5/1964, nhân dịp kỷ niệm 10 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp xuống thăm một đơn vị pháo cao xạ. Sau khi nhắc lại truyền thống của đơn vị trên chiến trường Điện Biên Phủ 10 năm trước, liên hệ với nhiệm vụ trước mắt, đồng chí nói với cán bộ và chiến sĩ: “Lực lượng Phòng không - Không quân của ta sẽ phải chiến đấu với một kẻ thù mạnh hơn, tàn bạo và xảo quyệt hơn bọn giặc Pháp trước kia. Nhưng lực lượng chiến đấu bảo vệ bầu trời của ta đã phát triển hơn trước nhiều. Ngoài bộ đội cao xạ đã lớn mạnh và bộ đội rađa, ta còn có không quân và hàng chục vạn súng trường, súng máy của dân quân, tự vệ,... Nếu đế quốc Mỹ liều lĩnh xâm phạm bầu trời của Tổ quốc ta, các đồng chí phải thực hiện bằng được lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh "kiên quyết bắn rơi thật nhiều máy bay địch”...
Đầu tháng 6/1964, Thường trực Quân ủy Trung ương họp rà soát lại công tác chuẩn bị các mặt của công tác phòng không nhân dân. Cuộc họp dự kiến địch có thể đánh phá những thành phố lớn và các khu vực tập trung dân, các trung tâm kinh tế, đồng thời chỉ ra phương hướng tăng cường công tác chuẩn bị chiến đấu của lực lượng phòng không ba thứ quân đi đôi với kế hoạch phòng tránh của nhân dân. Sau cuộc họp, Bộ
Tổng tham mưu điện chỉ đạo các địa phương, đơn vị, truyền đạt nhận định của Quân ủy Trung ương và hướng dẫn các biện pháp tăng cường công tác chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu chống lại chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc.
Từ tháng 6/1964, một trong những hoạt động chủ yếu của Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp và Thường trực Quân ủy Trung ương là tập trung chỉ đạo các lực lượng phòng không toàn miền
20
Bắc triển khai chuẩn bị các biện pháp sẵn sàng đánh trả máy bay địch. Từ việc tổ chức các cuộc họp của Quân ủy Trung ương, chỉ đạo hội nghị liên tịch giữa các cơ quan chức năng của Tổng hành dinh với Bộ Tư lệnh Phòng không - Không quân và Bộ Tư
lệnh Hải quân, đến các bức điện chỉ đạo gửi xuống các địa phương, đơn vị... tất cả đều nhằm làm cho toàn quân, toàn dân thấy rõ âm mưu và thủ đoạn của địch, đề cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu và phòng tránh có hiệu quả.
Đêm 30/7/1964, theo Kế hoạch 34A, tàu tuần tiễu của quân đội Sài Gòn tiến công hai đảo trong vịnh Bắc Bộ. Sáng hôm sau, 31/7, tàu khu trục Maddox của Mỹ, theo kế hoạch DESOTO tiến vào vịnh Bắc Bộ.
Ngày 1/8/1964, sau khi được báo cáo tàu Maddox của địch tiến sâu vào vùng biển Quảng Bình, Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Hải quân ra lệnh sẵn sàng chiến đấu, đồng thời báo cáo lên trực ban tác chiến Bộ Tổng tham mưu. Sau khi nghe Cục Tác chiến báo cáo tàu địch xâm phạm hải phận của ta, vào hồi 21 giờ ngày 1/8/1964, đồng chí Phó Tổng tham mưu trưởng Trần Quý Hai (lúc này thường trực ở Sở chỉ huy của Bộ) đồng ý cho đánh. Cục Tác chiến truyền lệnh cho Hải quân lúc 21 giờ 15 phút cùng ngày.
Theo báo cáo ngày 6/8/1964 của Bộ Tư lệnh Hải quân thì 6 quả ngư lôi phóng đi nhưng ta không có điều kiện để xác minh có trúng tàu địch hay không; 4 đồng chí hy sinh, trong đó có một thuyền trưởng, 6 đồng chí bị thương; cả ba tàu phóng lôi đều bị trúng đạn địch, riêng tàu chỉ huy 333 bị thương nhẹ, có thể chiến đấu được ngay, 2 tàu còn lại phải sửa chữa.
Trận chiến đấu tỏ rõ ưu điểm về công tác chính trị tư tưởng, tinh thần chiến đấu dũng cảm, khắc phục khó khăn, đoàn kết
21
hiệp đồng của bộ đội trong chiến đấu. Tuy nhiên, ngoài những hạn chế về bảo đảm thông tin liên lạc trong chỉ huy từ Bộ Tư lệnh Hải quân đến cơ sở, điều quan trọng là tư tưởng chiến thuật chưa thông suốt từ trên xuống dưới. Cụ thể là: dùng tàu phóng lôi xuất kích đánh địch ban ngày trong điều kiện không cân sức và nhất là chưa có lệnh xuất kích của Bộ Tư lệnh Hải quân.
Tại cơ quan tham mưu Tổng hành dinh, cũng do thông tin không bảo đảm, hôm sau đồng chí Trần Quý Hai phải phái cán bộ tác chiến vào Thanh Hóa gặp phân đội tàu phóng lôi (khi đó đã về tới Sầm Sơn) để nắm tình hình. Ngày 3/8, Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng cùng Chính ủy Hải quân Tạ Xuân Thu dùng trực thăng xuống cảng Vạn Hoa để nghe báo cáo cụ
thể diễn biến trận đánh.
Trong cuộc họp ngày 5/8 để nghe báo cáo về trận đánh tàu Maddox, các đồng chí Võ Nguyên Giáp và Song Hào đã phê bình cơ quan tác chiến: Tại sao một việc quan trọng như thế mà các đồng chí không báo cáo Tổng tham mưu trưởng và cả Bộ trưởng cũng không biết, để Bác và các đồng chí Bộ Chính trị có ý kiến phê bình?
Cục phó Cục Tác chiến Trần Văn Nghiêm phân trần: Khi đó, chúng tôi đã báo cáo Thủ trưởng trực chỉ huy của Bộ Tổng tham mưu. Đêm đã khuya, sợ các đồng chí mất ngủ, định để sáng hôm sau sẽ báo cáo...
Rõ ràng là trong lần đầu đối phó với âm mưu và hành động của địch khiêu khích miền Bắc, từ cơ quan tham mưu Tổng hành dinh xuống đến đơn vị cơ sở đều xuất hiện một hiện tượng không bình thường trong chỉ đạo, chỉ huy, đó là
22
sự vi phạm điều lệnh chiến đấu, cụ thể là ý thức báo cáo, xin chỉ thị1.
Trong cuộc họp ngày 12/8, Thường trực Quân ủy Trung ương tự kiểm điểm, nhận thấy: việc nêu cao và quán triệt tinh thần tích cực tiêu diệt địch là đúng, nhưng việc để xảy ra đánh tàu Mỹ khiêu khích ngày 2/8, về quân sự thì không đúng với nguyên tắc tác chiến và tư tưởng chiến thuật của quân đội ta; về chính trị thì không có lợi trong tình hình hiện tại, sa vào âm mưu khiêu khích của địch. Nguyên nhân là do chưa có chủ
trương rõ ràng, cụ thể, nhằm đối phó với những hành động ___________
1. Cụ thể diễn biến trong quan hệ chỉ huy trận đánh ngày 2/8 như sau: Theo báo cáo của Cục Tác chiến thì ngày 1/8, sau khi được báo cáo tàu Maddox vào cách bờ biển nước ta 6 hải lý, Tham mưu phó Hải quân Đoàn Bá Khánh ra lệnh sẵn sàng chiến đấu, đồng thời báo cáo lên Bộ Tổng tham mưu. Trực chỉ huy ở Bộ Tổng tham mưu là Phó Tổng tham mưu trưởng Trần Quý Hai. 21 giờ ngày 1/8, sau khi được báo cáo tàu địch xâm phạm hải phận của ta, đồng chí Trần Quý Hai đồng ý cho đánh mà không báo cáo Tổng tham mưu trưởng và Tổng Tư lệnh. Lệnh của đồng chí Trần Quý Hai truyền xuống Bộ Tư lệnh Hải quân lúc 21 giờ 15 cùng ngày. Tiếp đó, báo cáo của tham mưu Hải quân cho biết: 22 giờ 55 ngày 1/8, mệnh lệnh xuất kích truyền đến Tiểu đoàn 135. 0 giờ 20 ngày 2/8, ba tàu phóng lôi xuất phát; 8 giờ 30 đến Hòn Nẹ. 9 giờ, tàu tuần tiễu 142 đến Hòn Nẹ thông báo lệnh của Bộ Tư lệnh Hải quân cho Tiểu đoàn 135 đi tiếp đến Hòn Mê, neo lại và chờ lệnh. 10 giờ 30, cả ba tàu phóng lôi 333, 336, 339 và hai tàu tuần tiễu 142, 146 đi tiếp đến Hòn Mê. Giữa lúc đó, tàu tuần tiễu 146 nhận được lệnh: "Hạm tàu xuất kích song song với địch ngay". Thế là trận đánh diễn ra từ 15 giờ. Sau khi phóng 6 quả ngư
lôi, trên đường về các tàu phải chiến đấu với máy bay của địch. Thương vong, tổn thất chủ yếu do máy bay địch gây nên. Theo nhận xét của Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng trong báo cáo gửi Bộ Chính trị ngày 7/8 thì chủ trương đánh đơn giản, sử dụng tàu phóng ngư lôi là sai, chỉ
huy tác chiến chưa tốt, thông tin liên lạc yếu kém.
23
khiêu khích của địch trong những tình huống phức tạp...; chủ trương sử dụng các lực lượng hải quân nói chung và trong từng tình huống cụ thể chưa được xác định rõ; việc ra lệnh tổ chức chiến đấu cho tàu phóng lôi thiếu cân nhắc thận trọng về chính trị và thiếu trao đổi bàn bạc chung.
Sau này, lịch sử Cục Tác chiến viết: Qua sự kiện này, về mặt nghiệp vụ tham mưu, trực ban tác chiến đã... ghi nguyên văn lệnh của Thủ trưởng trực chỉ huy của Bộ Tổng tham mưu... Tuy nhiên, đây là một bài học đáng ghi nhớ về công tác tham mưu chiến lược. Về mặt tư duy chiến lược, tính toán chiến lược, ta cần nghiên cứu tỉ mỉ, toàn diện, cân nhắc thận trọng các tình huống và cách xử lý trước ý định địch khiêu khích để lấy cớ gây ra vụ ngày 5/8/1964.
Sau này, tư liệu lịch sử của phía bên kia, nhất là hồi ký của nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ McNamara, đã ngày càng làm rõ âm mưu khiêu khích của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc nước ta. Lúc đó, Tổng thống Mỹ rất cần một cái cớ nói rằng Bắc Việt đánh trước để ép Quốc hội Mỹ chấp thuận đưa quân vào miền Nam và mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc. Thực hiện mưu đồ của Nhà Trắng, Lầu Năm Góc đã vin vào cuộc chạm súng ngày 2/8 để tạo dựng nên sự kiện ngày 5/8 và đặt trước Quốc hội Mỹ cái gọi là "sự kiện Vịnh Bắc Bộ".
Sau khi Tổng thống L.B. Johnson và Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Hoa Kỳ dàn dựng sự kiện hai tàu Maddox và Turner Joy bị Hải quân Bắc Việt Nam tiến công lần thứ hai ở vùng biển quốc tế trong đêm 4/8/1964, 11 giờ 30 phút ngày 5/8 (giờ Hà Nội), Nhà Trắng hạ lệnh cho Tư lệnh lực lượng Mỹ ở Thái Bình Dương dùng không quân đánh "trả đũa" vào miền Bắc nước ta. Sáu mươi tư lần chiếc máy bay cất cánh từ hai tàu
24
Constellation và Ticonderoga ném bom bốn căn cứ hải quân của ta ở sông Gianh, Cửa Hội, Lạch Trường và Bãi Cháy. Về phía ta, 11 giờ 50 cùng ngày, theo lệnh của Tổng tham mưu trưởng, cơ quan tác chiến điện cho Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân thông báo: "Tổng thống Mỹ Johnson đã lệnh cho không quân đánh trả đũa vào một số mục tiêu ở miền Bắc"1.
Trong trận đầu đối mặt với máy bay chiến đấu hiện đại của đế quốc Mỹ, các lực lượng vũ trang của ta, từ hải quân đến các đơn vị pháo cao xạ, công an nhân dân vũ trang, dân quân, tự vệ và nhân dân các địa bàn nói trên đã hiệp đồng chặt chẽ, chiến đấu dũng cảm, hạ 8 máy bay địch, bắn bị thương một số chiếc khác, bắt tên phi công Mỹ đầu tiên.
___________
1. Đợt 1, từ 12 giờ 25 ngày 5/8/1964, máy bay Mỹ ném bom bắn phá thành phố Vinh; 12 giờ 28 đánh phá đảo Hòn Ngư; 12 giờ 30 đánh phá ở vùng cảng Gianh (Quảng Bình) và Vinh (lần thứ hai). Đợt 2, từ 14 giờ 30 ở Lạch Trường (Thanh Hóa); 14 giờ 35 ở Hòn Gai (Quảng Ninh). Đợt 3, từ 16 giờ 30 đến 17 giờ đánh phá khu vực Vinh - Bến Thủy và cảng Gianh lần thứ hai. Các lực lượng phòng không đánh trả quyết liệt và có hiệu quả. Về tổn thất, hải quân hy sinh 27 đồng chí, bị thương 129, 1 tàu bị chìm, 5 tàu bị thương nặng; lực lượng phòng không hy sinh 5, bị thương 7, hỏng 4 pháo, 2 máy nổ.
Một điều đặc biệt đáng chú ý là trong chỉ đạo, chỉ huy của Tổng hành dinh trong trận đánh ngày 5/8, vẫn tồn tại những hiện tượng không phù hợp với điều lệnh chiến đấu chính quy. Cụ thể là, theo lệnh của Tổng Tham mưu trưởng, cơ quan tác chiến chỉ thông báo cho Sở chỉ huy Phòng không - Không quân rằng Tổng thống Mỹ cho không quân đánh trả đũa chứ không ra lệnh chiến đấu rõ ràng. Trước đó, ngày 1/8, cơ quan tham mưu Tổng hành dinh cũng không báo cáo Tổng Tư lệnh trước khi ra lệnh cho tàu hải quân xuất kích (Dựa theo cuốn Lịch sử Quân chủng Phòng không - Không quân, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1991, t.1, tr.191).
25
Ngay cuối buổi chiều ngày 5/8/1964, trận đánh kết thúc, Bộ Chính trị họp nghe báo cáo diễn biến cuộc chiến đấu vừa qua của quân và dân miền Bắc. Bộ Chính trị nhận định: Việc địch đánh phá miền Bắc là nằm trong kế hoạch đã chuẩn bị từ trước. Có nhiều khả năng địch sẽ ngừng, nhưng ta cần đề phòng đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc nước ta... Cần tăng cường lực lượng phòng không, tăng cường tinh thần sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng vũ trang và công tác phòng không nhân dân... Tại cuộc họp, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu: Cần chuẩn bị mọi mặt để chuyển miền Bắc sang đối phó với thời chiến; phải có kế hoạch đề phòng địch đánh nhiều mặt; phải chấn chỉnh thông tin (vừa qua rất kém); phải thống nhất chỉ đạo các lực lượng vũ trang và công tác phòng không nhân dân ở các cấp; làm tốt công tác phòng gian và công tác tư tưởng trong nhân dân; bố trí nơi làm việc của cơ quan phải bảo đảm an toàn.
Dựa vào nhận xét bước đầu của Bộ Chính trị, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp chỉ thị cơ quan tham mưu điện cho Bộ Tư lệnh Hải quân quán triệt mấy điểm chủ yếu sau đây: 1) Về trận đánh ngày 2/8, cần rút kinh nghiệm về tổ chức chỉ huy, chiến thuật, thời cơ đánh: xác định đối tượng đánh chưa đúng, trận đầu ra quân không thắng, về chính trị có lợi cho địch; 2) Đối tượng tác chiến chủ yếu của hải quân là tàu địch vào lãnh hải của ta để đánh phá; 3) Chiến thuật của hải quân là phải chủ động, bất ngờ, phục kích, bao vây, đánh đêm, sử dụng lực lượng tập trung.
Hôm sau, ngày 6/8, trung đoàn không quân tiêm kích đầu tiên của ta từ căn cứ huấn luyện ở Mông Tự (Trung Quốc) về đến sân bay Nội Bài, bí mật, an toàn và sẵn sàng đợi lệnh. Nhân dịp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị: địch còn tiếp tục hành động từ nay đến tổng tuyển cử ở Mỹ nên ta phải chuẩn bị
26
"tinh thần trong thời chiến"; trung đoàn không quân tiêm kích của ta lực lượng ít, sân bay ít, cần nghiên cứu sử dụng sao cho phù hợp; cần quan tâm hơn nữa đến vấn đề dân quân, tự vệ; phải giáo dục nhân dân nâng cao cảnh giác, nhưng không dao động; báo chí và đài phát thanh phải cân nhắc thận trọng khi đưa tin.
Trong cuộc họp của Thường trực Quân ủy Trung ương ngày 12/8, sau khi đánh giá mấy trận chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của địch vừa qua, Bí thư Quân ủy Trung ương Võ Nguyên Giáp phân tích những yếu kém cần khắc phục: Trong việc chuẩn bị đối phó với địch tập kích ven biển, bắn phá các đảo, ném bom bắn phá vùng biên giới, tuy ta đã có chủ trương và biện pháp nhưng thực hiện chưa tốt, đặc biệt là chưa có dự
kiến đầy đủ đối phó với các trường hợp địch khiêu khích. Trong chiến thuật đánh địch, có phần chưa quán triệt đầy đủ tư tưởng lấy yếu đánh mạnh, không nắm vững nguyên tắc bí mật, bất ngờ, đánh chắc thắng, đánh thắng trận đầu; hệ thống tổ chức chỉ huy kém, thông tin liên lạc không thông suốt, không bảo đảm được việc truyền đạt và theo dõi mệnh lệnh một cách kịp thời, chu đáo. Cấp trên không nắm vững được hành động của cấp dưới.
Cũng tại cuộc họp này, Bí thư Quân ủy Trung ương Võ Nguyên Giáp chỉ thị Bộ Tổng tham mưu cần nghiên cứu các hoạt động khiêu khích và chiến tranh phá hoại miền Bắc của địch trong thời gian tới để chủ động đối phó một cách có hiệu quả. Chấp hành chỉ thị đó, Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng bước đầu dự kiến một số vấn đề cần đi sâu nghiên cứu: 1) Chiến tranh phá hoại miền Bắc là chiến lược của địch, đi đôi với "chiến tranh đặc biệt" ở miền Nam; muốn giành thắng lợi bằng "chiến tranh đặc biệt", địch phải đẩy mạnh chiến tranh
27
phá hoại miền Bắc; 2) Chiến tranh phá hoại của địch ở miền Bắc không tách rời chiến lược "chiến tranh đặc biệt" ở miền Nam. Phá hoại miền Bắc kéo dài và kết thúc cùng với "chiến tranh đặc biệt" ở miền Nam; 3) Chiến tranh phá hoại miền Bắc là một hình thức chiến tranh hạn chế ở miền Bắc, phối hợp với "chiến tranh đặc biệt" ở miền Nam, nó có mục đích, phạm vi, mức độ hạn chế; 4) Phương tiện tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc là không quân, hải quân, đó là hai mặt ưu thế của địch hơn là dùng lục quân; 5) Phương châm và biện pháp của ta đối phó với chiến tranh phá hoại của địch là phải toàn diện và lâu dài. Vấn đề đặt ra là không để chiến tranh phá hoại của địch lan rộng thành "chiến tranh cục bộ".
Bước sang năm 1965, theo dự kiến của Cục Tình báo, có khả năng đế quốc Mỹ sẽ đẩy "chiến tranh đặc biệt" lên đỉnh cao ở miền Nam đồng thời với việc mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc, từ những hoạt động phá hoại lẻ tẻ thành cuộc chiến tranh phá hoại quy mô lớn bằng cả không quân và hải quân. Nhà Trắng và Lầu Năm Góc vẫn coi chiến tranh phá hoại chỉ là một biện pháp chiến lược bổ sung chứ không phải là biện pháp thay thế cho cuộc chiến tranh trên bộ ở miền Nam.
Trong hai ngày 7 và 11/2/1965, lấy cớ quân ta tiến công các đơn vị Mỹ ở Plâyku và Quy Nhơn, Mỹ cho máy bay đánh phá "trả đũa" một số nơi ở Khu 4, sau đó từ ngày 13/2, Johnson quyết định mở rộng đánh phá miền Bắc hòng gây sức ép buộc ta phải giảm cường độ tiến công ở miền Nam.
Sau khi nghe cơ quan tham mưu báo cáo kết quả các trận đánh trả máy bay địch ở Đồng Hới, Vĩnh Linh trong hai ngày 10 và 12/2/1965, Bí thư Quân ủy Trung ương Võ Nguyên Giáp triệu tập cuộc họp của Thường trực Quân ủy Trung ương kiểm điểm việc chỉ đạo đánh địch tập kích bằng không quân và rút
28
kinh nghiệm về chỉ đạo đối phó với máy bay địch trên địa bàn Quân khu 4.
Tại cuộc họp, Bí thư Quân ủy Trung ương Võ Nguyên Giáp được báo cáo rằng khẩu lệnh: "Nhằm thẳng quân thù mà bắn!" của Chính trị viên Nguyễn Viết Xuân trên trận địa cao xạ tây Quảng Bình hai tháng trước đã trở thành khẩu hiệu tiến công của các lực lượng vũ trang phòng không, mở đầu phong trào thi đua đánh máy bay địch trong các lực lượng vũ trang miền Bắc. Ông biểu dương quân và dân các địa phương trong đợt chiến đấu vừa qua bắn rơi hơn hai chục máy bay, bắt sống phi công Mỹ, đã có nhiều ưu điểm trong việc đối phó với máy bay địch. Tuy nhiên, qua thảo luận, đồng chí Võ Nguyên Giáp cùng Thường trực Quân ủy Trung ương thống nhất đánh giá: tư tưởng chủ quan còn khá nghiêm trọng (nhất là ngày 8/2 ở Vĩnh Linh) và ở Sư đoàn 341; bảo đảm thông tin còn nhiều thiếu sót. Nhìn chung, công tác phòng không nhân dân chưa được đẩy mạnh và chưa thành nền nếp.
Sau khi nêu lên những mặt yếu kém về tổ chức chỉ huy và thực hành chiến đấu mà các đơn vị và địa phương cần tập trung rút kinh nghiệm, Thường trực Quân ủy Trung ương nhấn mạnh: Trước những hành động của địch đẩy dần nhịp độ và quy mô phá hoại, khiêu khích, xâm lược đối với miền Bắc nhằm đưa thêm lực lượng Mỹ vào miền Nam, ta phải hết sức đề cao cảnh giác, tăng cường sẵn sàng chiến đấu, nhất là Quân khu 4.
Theo quyết nghị của Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng tham mưu giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh Phòng không - Không quân tổ chức thêm một tiểu đoàn và ba đại đội cao xạ 37 ly để tăng cường lực lượng làm nhiệm vụ phòng không và chuyển Trung đoàn cao xạ 280 vào Quân khu 4, chuyển Trung đoàn 217 (thuộc Bộ Tư lệnh Phòng không - Không quân) về Quân khu Đông Bắc.
29
3
Trên cơ sở dự kiến khả năng Nhà Trắng và Lầu Năm Góc có thể đưa quân đội Mỹ vào tham chiến ở miền Nam, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã chỉ đạo các cơ quan quân sự Tổng hành dinh, các quân khu và các chiến trường chuẩn bị nhằm sẵn sàng đối phó với tình huống chiến tranh mở rộng.
Trong hai ngày 21 và 22/10/1964, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp triệu tập cuộc họp mở rộng của Thường trực Quân ủy Trung ương bàn chuyên đề về công tác huấn luyện quân sự và xác định phương án hoạt động trên chiến trường Tây Nguyên, chiến trường mà Tổng Tư lệnh dự kiến sẽ là một trong những địa bàn quan trọng đầu tiên đối với quân viễn chinh Mỹ.
Sau khi chỉ ra những thiếu sót và khuyết điểm trong công tác huấn luyện trong những năm qua, Thường trực Quân ủy Trung ương xác định phương hướng chung về huấn luyện quân sự trong thời gian tới là: Phải nắm vững đường lối quân sự của Đảng, phải từ kinh nghiệm thực tế của ta mà học tập có chọn lọc kinh nghiệm của bạn; phải chú trọng huấn luyện bộ đội chủ
lực trên cơ sở làm tốt công tác huấn luyện cả ba thứ quân, chú trọng bồi dưỡng và đào tạo cả cán bộ bộ binh và các binh chủng kỹ thuật nhằm phục vụ cho cả ba chiến trường miền Bắc, miền Nam và Lào. Thường trực Quân ủy Trung ương thảo luận và nhất trí một số vấn đề cơ bản về nội dung huấn luyện, thống nhất định nghĩa các hình thức chiến tranh du kích và chính quy, các hình thức tác chiến cơ bản (tiến công và phòng ngự) trong đánh du kích, đánh vận động, đánh trận địa; bước đầu trao đổi ý kiến về các nguyên tắc chỉ đạo tác chiến của bộ đội chủ lực...
Riêng trên mặt trận Tây Nguyên, Thường trực Quân ủy Trung ương nhận định rằng do địch rút hai tiểu đoàn (của các
30
trung đoàn 41 và 42) xuống đồng bằng nên đã tạo ra những sơ hở có lợi cho ta. Để chuẩn bị điều kiện và tranh thủ thời cơ đẩy mạnh hoạt động trên chiến trường quan trọng này, Thường trực Quân ủy Trung ương nhất trí với chủ trương do Bí thư Quân ủy Trung ương Võ Nguyên Giáp nêu lên là đưa hai trung đoàn bộ binh vào Tây Nguyên (một xuống đồng bằng, một trên đường 14) chuẩn bị hoạt động vào tháng 1/1965. Tùy tình hình cụ thể, có thể đưa một trung đoàn của Sư đoàn 325 vào hoạt động, đồng thời chuẩn bị phương án cơ động nhằm tăng cường hoạt động của ta cả ở đồng bằng và vùng rừng núi (không loại trừ khả năng đưa cả hai trung đoàn xuống đồng bằng). Thường trực Quân ủy Trung ương nhấn mạnh công tác bảo đảm hậu cần cho đợt hoạt động sắp tới ở Tây Nguyên và kế hoạch hoạt động phối hợp của các chiến trường khác toàn miền Nam.
Ngày 26/10/1964, các đồng chí Lê Duẩn và Phạm Hùng đã nhất trí với kế hoạch hoạt động mà Thường trực Quân ủy Trung ương đã bàn và quyết định đối với chiến trường Tây Nguyên.
Tiếp đó, trong các ngày từ 29/10 đến 3/11/1964, đồng chí Võ Nguyên Giáp chủ trì cuộc họp toàn thể Quân ủy Trung ương, nhằm kiểm điểm công tác quân sự 10 năm (1954-1964), thảo luận và ra quyết nghị về tình hình và nhiệm vụ quân sự sắp tới trên cả hai miền. Đây là một cuộc họp quan trọng nhằm đánh giá lại toàn bộ tình hình và xác định phương hướng, biện pháp chiến lược để triển khai nghị quyết tháng 9/1964 của Bộ Chính trị1.
___________
1. Tháng 9/1964, Bộ Chính trị họp và quyết định động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, tập trung mọi khả năng, tạo nên một chuyển biến mạnh mẽ trong việc phát triển bộ đội chủ lực trên chiến trường, đẩy mạnh tác chiến tập trung quy mô chiến dịch, giành thắng lợi quyết định trong một vài năm tới.
31
Bí thư Quân ủy Trung ương Võ Nguyên Giáp trình bày bản báo cáo của Thường trực Quân ủy Trung ương nhan đề Tình hình và nhiệm vụ quân sự của Đảng làm cơ sở để tập thể Quân ủy Trung ương thảo luận và ra nghị quyết1. Trong bản báo cáo, đồng chí Võ Nguyên Giáp nói về thành tích, ưu điểm và thiếu sót trong công tác quân sự 10 năm qua, dự kiến tình hình sắp tới và nêu lên nhiệm vụ, phương châm chiến lược, phương hướng những công tác lớn trong những năm tới.
Sau khi nêu lên thành tích cả về tác chiến và xây dựng lực lượng, bản báo cáo phân tích bốn ưu điểm nổi bật trong việc thực hiện chủ trương chiến lược của Đảng trong 10 năm qua.
Một là, trong quá trình xây dựng thành công một lực lượng vũ trang nhân dân lớn mạnh và tăng cường nền quốc phòng toàn dân trên miền Bắc, Quân ủy Trung ương hết sức coi trọng việc giáo dục nhằm quán triệt đường lối và quan điểm quân sự
của Đảng, coi trọng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong các lực lượng vũ trang nhân dân, chú trọng việc giáo dục nhằm nâng cao giác ngộ chính trị, coi đó là điều kiện bảo đảm cơ bản nhất để ba thứ quân hoàn thành nhiệm vụ.
Hai là, các lực lượng vũ trang nhân dân đã làm tròn nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ công cuộc lao động hòa bình của nhân dân. Cả ba thứ quân đều vừa tích cực tham gia xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc ___________
1. Xem hồ sơ số 328, phông Quân ủy Trung ương, Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng. Báo cáo của Thường trực Quân ủy Trung ương được cuộc họp Quân ủy Trung ương nhất trí, sau đó hoàn chỉnh thành nghị quyết và được Bộ Chính trị thông qua trong cuộc họp ngày 9/1/1965. Nghị quyết của Quân ủy Trung ương lần này là những định hướng lớn, cơ bản về công tác quân sự trong giai đoạn mới của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân hai miền Nam - Bắc.
32
vừa rèn luyện sẵn sàng chiến đấu, nhất là trên các địa bàn xung yếu.
Ba là, trong những năm gần đây, khi nhiệm vụ chiến lược đã được xác định ngày càng rõ ràng và cụ thể, Quân ủy Trung ương đã tăng cường chỉ đạo công tác quân sự ở miền Nam cả về tác chiến và xây dựng lực lượng; đã có những chủ trương kịp thời và chính xác góp phần vào việc chỉ đạo phá kế hoạch chiến lược Staley - Taylor và phá kế hoạch xây dựng ấp chiến lược của địch và chỉ đạo hoạt động sau hai vụ đảo chính tháng 11/1963 và tháng 1/1964.
Bốn là, đã tích cực chỉ đạo công tác chi viện cho cuộc đấu tranh của nhân dân Lào, thông qua việc giúp đỡ về chuyên gia, đào tạo cán bộ, xây dựng lực lượng vũ trang và về chỉ đạo tác chiến... Thông qua việc giới thiệu kinh nghiệm về chủ trương chiến lược quân sự và phương thức triển khai tổ chức thực hiện, sự giúp đỡ của các chuyên gia Việt Nam đã tạo nên một trong những yếu tố cơ bản góp phần quan trọng vào thắng lợi to lớn của cách mạng Lào.
Quân ủy Trung ương thảo luận và nhất trí với thành tích trên đây đồng thời cũng phân tích những nhược điểm, khuyết điểm nêu lên trong báo cáo của Bí thư Quân ủy Trung ương Võ Nguyên Giáp như sau:
1. Nhận thức và quán triệt nhiệm vụ chiến lược của Đảng chưa được sâu sắc. Năm năm sau khi hòa bình được lập lại, nhiệm vụ chiến lược quân sự về cơ bản hầu như bị thu hẹp vào công cuộc bảo vệ miền Bắc; nhiệm vụ làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ
trong cả nước thiếu nội dung rõ ràng và cụ thể.
2. Do quán triệt đường lối quân sự của Đảng không được đầy đủ cho nên việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, việc
33
chuẩn bị chiến tranh nhân dân, việc nắm vững chiến lược, chiến thuật của chiến tranh nhân dân đã phạm một số khuyết điểm. 3. Kết hợp kinh tế với quốc phòng, kết hợp yêu cầu thời bình với thời chiến làm không tốt. Công tác chuẩn bị đề phòng chiến tranh, chuẩn bị để chuyển nền kinh tế thời bình sang thời chiến tiến hành chậm.
Phân tích âm mưu địch và phán đoán sự phát triển của tình hình Đông Dương, Quân ủy Trung ương dự kiến có hai khả năng: khả năng thứ nhất: địch vẫn tiếp tục chủ trương như hiện nay nhưng với những cố gắng mới, những thủ đoạn mới nhằm khắc phục và hạn chế những khó khăn ở miền Nam Việt Nam và Lào; chưa mở rộng chiến tranh ra miền Bắc; khả năng thứ hai: đế quốc Mỹ và tay sai sẽ thay đổi chủ trương, gây chiến tranh cục bộ quy mô lớn hơn, bao gồm cả tiến công ra miền Bắc... Trong hai khả năng trên đây, Quân ủy Trung ương cho rằng tình hình chiến sự ở bán đảo Đông Dương trong những năm tới còn nằm trong khả năng thứ nhất, trước mắt khả năng thứ hai chưa nhiều.
Từ nhận định trên đây, Quân ủy Trung ương xác định hai nhiệm vụ chiến lược quân sự: một là, bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, bảo vệ an ninh và toàn vẹn lãnh thổ, giữ gìn trật tự trị an ở miền Bắc; hai là, đẩy mạnh cuộc chiến tranh giải phóng, tiêu diệt và làm tan rã lực lượng quân sự của địch, đánh đổ chế độ thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, giải phóng miền Nam. Trong nhiệm vụ giúp đỡ về quân sự cho cách mạng các nước bạn, Quân ủy Trung ương xác định phải đặc biệt coi trọng việc chi viện về quân sự cho cách mạng Lào.
Trong các nhiệm vụ quân sự trên đây, Quân ủy Trung ương xác định bảo vệ miền Bắc là nhiệm vụ chiến lược quân sự quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ sự nghiệp cách
34
mạng Việt Nam, đồng thời có tác động lớn đối với cách mạng các nước trên bán đảo Đông Dương; nhiệm vụ giải phóng miền Nam là nhiệm vụ cấp thiết nhất của nhân dân cả nước; việc chi viện cho cách mạng Lào luôn mang một ý nghĩa chiến lược lớn.
Cùng với việc xác định phương châm chiến lược ở miền Bắc là phòng ngự tích cực, Quân ủy Trung ương xác định phương châm chiến lược của cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam là tiến hành chiến tranh toàn dân, toàn diện, đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị đi đôi; đánh lâu dài, đồng thời tranh thủ thời cơ để thắng địch trong thời gian tương đối ngắn; thắng địch trong "chiến tranh đặc biệt", đồng thời chuẩn bị để thắng địch trong trường hợp chúng biến "chiến tranh đặc biệt" thành "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam; lấy tự lực cánh sinh làm chính, sự chi viện là rất quan trọng. Nếu xảy ra khả năng thứ hai, phương châm chiến lược của Đảng trong cả nước là tiến hành chiến tranh toàn dân, toàn diện, lâu dài, lấy tự lực cánh sinh làm chính, đồng thời ra sức tranh thủ sự giúp đỡ của các nước anh em và tích cực chi viện các nước láng giềng bị địch xâm lược.
Về phương châm hoạt động của từng vùng ở miền Nam, Quân ủy Trung ương xác định: vùng rừng núi lấy đấu tranh vũ trang làm chính; vùng đồng bằng, nông thôn lấy đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang đi đôi, vùng đô thị lấy đấu tranh chính trị làm chính.
Sau khi nhấn mạnh nhiệm vụ quân sự ở miền Bắc là tích cực tăng cường công tác phòng không của các lực lượng vũ trang và phòng không nhân dân, đẩy mạnh công tác chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng vũ trang và trong nhân dân ở
những vùng xung yếu, Quân ủy Trung ương xác định nhiệm vụ quân sự và công tác cấp bách của miền Nam là:
1. Tích cực tiêu diệt, tiêu hao và làm tan rã quân đội địch, đẩy mạnh công tác địch vận;
35
2. Làm chủ nông thôn đồng bằng, phá "ấp chiến lược", động viên nhân tài vật lực ở đồng bằng để xây dựng lực lượng, tạo điều kiện làm thay đổi lực lượng so sánh có lợi cho ta;
3. Đẩy mạnh công tác đô thị, giành quyền lãnh đạo đô thị; 4. Gấp rút tăng cường xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, đặc biệt là bộ đội chủ lực;
5. Tăng cường công tác mặt trận, vận dụng các khẩu hiệu và các chính sách một cách khôn khéo để nắm vững công nông, tranh thủ các tầng lớp trung gian.
Cũng trong cuộc họp này, Quân ủy Trung ương chính thức thông qua 11 nguyên tắc chỉ đạo tác chiến. Đây là kết quả nghiên cứu bước đầu của Ban Tổng kết chiến lược (trực thuộc Quân ủy Trung ương), rút ra từ kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đã được Thường trực Quân ủy Trung ương cho ý kiến bổ sung, sửa chữa. Khi đưa vào báo cáo, Bí thư Quân ủy Trung ương Võ Nguyên Giáp nhấn mạnh: đây vừa là nguyên tắc tác chiến vừa là tư tưởng chỉ đạo mọi hành động tác chiến và chỉ huy của các lực lượng vũ trang nhân dân, chủ yếu là cho các bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương trong tác chiến tập trung1.
___________
1. Mười một nguyên tắc chỉ đạo tác chiến gồm: 1) Tích cực tiêu diệt sinh lực địch, giữ gìn và bồi dưỡng lực lượng ta; 2) Đánh chắc thắng, đánh có tổ chức, có chuẩn bị, đánh thắng trận đầu; 3) Phối hợp chặt chẽ hoạt động tác chiến của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ; 4) Tập trung lực lượng ưu thế tiêu diệt quân địch từng bộ phận; 5) Tiến công kiên quyết, liên tục; phòng ngự tích cực, ngoan cường; 6) Bố trí binh lực có trọng điểm, nắm lực lượng dự bị mạnh; 7) Độc lập tác chiến, chủ động phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ; 8) Phát huy sở trường đánh gần, đánh đêm, đánh liên tục; 9) Kết hợp chặt chẽ quân sự với chính trị, tác chiến với địch vận; 10) Phát huy ưu thế chính trị, tinh thần chiến đấu anh dũng, chiến thắng quân địch có ưu thế trang bị kỹ thuật; 11) Tích cực chủ động, cơ động linh hoạt, mưu trí, sáng tạo, bí mật, bất ngờ.
36
Ngày 5/12/1964, Thường trực Quân ủy Trung ương họp tiếp, bàn việc củng cố và chấn chỉnh tổ chức. Thường trực Quân ủy Trung ương xác định: Chức trách của Quân ủy Trung ương là cơ quan quân sự của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được ủy quyền thay mặt Trung ương lãnh đạo các lực lượng vũ trang trong cả nước về xây dựng và chiến đấu, lãnh đạo toàn thể cấp bộ Đảng trong quân đội, theo chỉ thị của Trung ương mà giúp các nước bạn về mặt quân sự. Trong tình hình hiện nay, Quân ủy Trung ương cần đặc biệt chú trọng vấn đề quân sự ở cả ba chiến trường miền Bắc, miền Nam và Lào, bao gồm những hoạt động trước mắt và nghiên cứu chuẩn bị kế hoạch lâu dài, vấn đề
xây dựng lý luận quân sự và chỉ đạo huấn luyện quân sự. Về mặt tổ chức, Thường trực Quân ủy Trung ương đề nghị Bộ Chính trị bổ sung hai đồng chí Lê Quang Đạo và Trần Văn Quang vào Thường trực Quân ủy Trung ương1; quyết định tách Văn phòng Quân ủy hiện nay thành hai cơ quan riêng là Văn phòng Quân ủy (gồm Văn phòng Bộ Quốc phòng và Văn phòng Hội đồng Quốc phòng tối cao) và Văn phòng Bộ Tổng tham mưu. Đồng thời Thường trực Quân ủy cũng đề nghị Bộ Chính trị bổ nhiệm một số cán bộ cao cấp nhằm tăng cường cơ quan quân sự Tổng hành dinh và các quân khu, quân chủng2. ___________
1. Ngày 17/12/1964, Bộ Chính trị phê chuẩn đề nghị này của Thường trực Quân ủy Trung ương.
2. Đồng chí Trần Sâm (vẫn là Chủ nhiệm Hậu cần) được tăng cường về kiêm chức Phó Tổng tham mưu trưởng; đồng chí Lê Ngọc Hiền: Cục trưởng Cục Tác chiến; đồng chí Phạm Hồng Sơn: Cục trưởng Cục Quân huấn; đồng chí Vũ Lăng: Cục phó Cục Nghiên cứu khoa học quân sự; đồng chí Nam Thắng: Tư lệnh Bộ Tư lệnh Hà Nội; đồng chí Đỗ Đức Kiên: Phó Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân; đồng chí Lê Thanh: Tư lệnh Sư
đoàn 312; đồng chí Đồng Sỹ Nguyên: Chính ủy Quân khu 4.
37
Để triển khai nghị quyết cuộc họp từ ngày 29/10 đến ngày 3/11/1964 của Quân ủy Trung ương về nhiệm vụ chiến lược quân sự và trên cơ sở đã thống nhất trong Thường trực Quân ủy Trung ương về phương hướng tác chiến chiến lược, trong hai ngày 4 và 5/11, Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng họp cơ
quan tham mưu bàn kế hoạch tác chiến năm 1965 của toàn chiến trường miền Nam và kế hoạch riêng trên hướng chiến lược Tây Nguyên1. Tiếp đó, ngày 6/11, đồng chí Nguyễn Hữu An - Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên cùng Bộ chỉ huy nhẹ lên đường vào Tây Nguyên trước. Lực lượng dự kiến đưa vào Tây Nguyên gồm các trung đoàn 95, 101 và 18 của Sư đoàn 325.
4
Về nhiệm vụ bảo vệ hậu phương lớn, đề phòng địch mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, tại cuộc họp trong hai ngày 10 và 11/12/1964, Bí thư Quân ủy Võ Nguyên Giáp cùng Thường trực Quân ủy Trung ương nhất trí bổ sung một số nội dung quyết tâm và kế hoạch phòng thủ miền Bắc và thông qua quyết tâm phòng thủ cơ bản của các quân khu.
Về chiến trường, Thường trực Quân ủy Trung ương nhận định: nếu đế quốc Mỹ và tay sai liều lĩnh tiến công ra miền Bắc thì phạm vi chiến trường Nam - Bắc sẽ là một, Việt Nam - Lào là một. Quan điểm đó ngay từ bây giờ đã thể hiện rõ: Tây Bắc
___________
1. Phương hướng tác chiến của bộ đội chủ lực tập trung vào bốn địa bàn chính là Khu 9, Khu 7, Quảng Nam - Bình Định và đường 14. Riêng Mặt trận Tây Nguyên (thành lập từ tháng 9/1964), Bộ Tổng Tham mưu dự kiến hai phương án: Phương án 1: điểm ở đường 14, diện gồm Quảng Nam - Bình Định; Phương án 2: điểm ở Quảng Nam - Bình Định, diện là đường 14.
38
phải gắn với chiến trường Thượng Lào, Quân khu 4 gắn với chiến trường Trung Lào và Trị Thiên. Giới tuyến hiện nay chỉ có ý nghĩa về chính trị. Ngay từ bây giờ, ta đã phải tích cực chủ động giúp Pathét Lào chuẩn bị sẵn sàng đối phó với trường hợp xảy ra chiến tranh lớn.
Đánh giá khả năng của địch, Thường trực Quân ủy Trung ương cho rằng, nếu không có quân đội Mỹ trực tiếp tham chiến thì quân đội Sài Gòn không có khả năng phát động chiến tranh xâm lược miền Bắc; khả năng địch đánh chiếm Quân khu 4 rất hạn chế, khả năng địch đánh chiếm Quảng Bình trong điều kiện hiện nay cũng không có cơ sở. Ngoài đối tượng tác chiến là quân đội Mỹ và Sài Gòn, quân đội phái hữu Lào và Thái Lan, còn phải dự kiến và nghiên cứu khả năng tham chiến của các quân đội chư hầu khác của Mỹ.
Về quyết tâm chiến lược, trong mọi trường hợp đều phải giữ vững vùng rừng núi miền Bắc, bao gồm dãy núi Trường Sơn đến Quảng Bình; về phía Lào, phải cùng với bạn giữ vững các vị trí quan trọng ở Sầm Nưa, Cánh Đồng Chum, đường hành lang Trung Lào và các điểm khác phụ cận biên giới của ta.
Về quyết tâm tác chiến cơ bản của các quân khu, Thường trực Quân ủy Trung ương quyết nghị những vấn đề chính về phạm vi chiến trường, phán đoán âm mưu chiến lược của địch, quyết tâm tác chiến, tổ chức và sử dụng lực lượng của từng quân khu.
Về lực lượng, Thường trực Quân ủy Trung ương chủ trương tính chung các lực lượng trên chiến trường Bắc - Nam, tính cả ba thứ quân trên cơ sở quần chúng được phát động rộng rãi và nhấn mạnh phải quán triệt sâu sắc tư tưởng chiến tranh nhân dân, lực lượng vũ trang nhân dân. Trên miền Bắc, khi chưa nổ ra chiến tranh, trong mọi công tác chuẩn bị, xây dựng phải quán triệt sâu sắc phương châm thời bình kết hợp chặt chẽ với
39
thời chiến. Thường trực Quân ủy Trung ương đồng ý đề nghị của Bộ Tổng tham mưu tổ chức 17 sư đoàn và nhấn mạnh: trong khi nghiên cứu tổ chức biên chế phải quán triệt tư tưởng chỉ đạo chủ lực cơ động mạnh, bộ đội địa phương mạnh, dân quân du kích rộng rãi, vững chắc. Thường trực Quân ủy Trung ương giao cho Bộ Tổng tham mưu nghiên cứu kế hoạch phòng thủ trung du, đồng bằng, Thủ đô Hà Nội, nghiên cứu các mặt bảo đảm tác chiến.
Ngày 16/2/1965, Bí thư Quân ủy Trung ương Võ Nguyên Giáp cùng Thường trực Quân ủy Trung ương nghe Bộ Tổng tham mưu báo cáo tổng hợp tình hình sẵn sàng chiến đấu ở miền Bắc.
Sau khi nhắc lại hành động khiêu khích và phá hoại của địch trong năm 1964 đối với miền Bắc, bản báo cáo của Bộ Tổng tham mưu nêu lên những vấn đề lớn, về âm mưu sắp tới của địch (trên không phận, hải phận, biệt kích, gây bạo loạn nội địa...), về công tác chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng vũ trang miền Bắc và về yêu cầu tăng cường sự chỉ đạo chung của Bộ Tổng tư lệnh.
Về nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc, ta đã có kế hoạch cụ thể và toàn diện, đã tích cực tăng cường mọi mặt và đối phó có hiệu quả, căn bản đã làm thất bại âm mưu biệt kích, thám báo gây bạo loạn... của địch. Báo cáo của Bộ Tổng tham mưu cũng nêu lên những yếu kém và tồn tại cần tiếp tục nghiên cứu giải quyết nhằm đối phó có hiệu quả hơn và đề phòng địch phá hoại với quy mô lớn hơn. Về công tác chuẩn bị đề phòng chiến tranh lớn đối với miền Bắc, Kế hoạch A của Bộ căn bản đã hoàn thành, các quân khu và quân chủng, binh chủng đã xác định xong quyết tâm và đang làm kế hoạch tác chiến cụ thể. Riêng việc xây dựng kế hoạch di chuyển các cơ quan Trung ương, di chuyển Bộ Tổng tư lệnh và kế hoạch chuyển đất nước từ thời
40
bình sang thời chiến, còn chậm. Việc chuẩn bị kho tàng, dự trữ vật chất còn thiếu, đường sá và phương tiện cơ động còn yếu kém.
Bí thư Quân ủy Trung ương Võ Nguyên Giáp cùng tập thể Quân ủy Trung ương đã cho ý kiến chỉ đạo giải quyết kịp thời những tồn tại trên đây, với tinh thần đề cao hơn nữa ý thức cảnh giác sẵn sàng chiến đấu của cả ba thứ quân, trước hết là lực lượng phòng không - không quân.
Để sự chỉ đạo chuẩn bị được cụ thể và có chiều sâu hơn, ngày 19/2/1965, Thường trực Quân ủy Trung ương tiếp tục họp dưới sự chủ trì của Bí thư Quân ủy Trung ương Võ Nguyên Giáp. Cuộc họp nghe báo cáo, cho ý kiến bổ sung và thông qua kế hoạch tăng cường và chấn chỉnh lực lượng vũ trang ở miền Bắc (bao gồm cả lục quân, lực lượng phòng không - không quân, hải quân và lực lượng vũ trang địa phương), nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Nội dung kế hoạch bao gồm cả kiện toàn, củng cố các đơn vị chủ lực cũ, tổ chức thêm những đơn vị mới, đồng thời chuẩn bị từ 1 đến 2 Bộ Tư lệnh quân đoàn để tiến hành các cuộc diễn tập chiến dịch trong thời bình và phụ trách chỉ huy các hướng có từ 2 đến 3 sư đoàn tác chiến tập trung trong thời chiến. Đồng chí Bí thư Quân ủy Trung ương Võ Nguyên Giáp đã cùng Thường trực Quân ủy Trung ương thảo luận và đồng ý đề nghị của Bộ Tổng tham mưu cải tiến một số chính sách và chế độ nghĩa vụ quân sự cho phù hợp với điều kiện thời chiến1. Thường trực Quân ủy Trung ương cũng cho ý ___________
1. Đề nghị điều chỉnh thời hạn phục vụ tại ngũ của quân nhân, đề nghị nâng quyền hạn của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng có thể kéo dài thời hạn phục vụ của quân nhân; nghiên cứu lại chính sách đãi ngộ đối với quân nhân và công nhân viên quốc phòng. Ngày 10/4/1965, Quốc hội đã thông qua nội dung sửa đổi và bổ sung Luật nghĩa vụ quân sự do Bộ Quốc phòng đề nghị.
41
kiến về việc chấn chỉnh và tăng cường công tác chuẩn bị khôi phục và mở rộng lực lượng khi địch mở rộng chiến tranh ra miền Bắc; chấn chỉnh tổ chức biên chế, trang bị cho phù hợp với nhiệm vụ tác chiến (trước hết là lục quân), nghiên cứu bổ sung nội dung chương trình đào tạo, bổ túc trong các nhà trường quân đội, chấn chỉnh tổ chức hậu phương quân đội, chấn chỉnh và kiện toàn cơ quan chỉ huy các cấp... Riêng với Bộ Tư lệnh Phòng không - Không quân, cần chỉ đạo nghiên cứu kế hoạch chấn chỉnh và tăng cường lực lượng Phòng không - Không quân, sẵn sàng đối phó khi địch mở rộng chiến tranh phá hoại ở miền Bắc. Trước mắt, cần tổ chức tổng kết diễn tập chiến dịch một cấp của Quân khu 3, nghiên cứu phương hướng xây dựng hậu phương quốc gia theo nghị quyết tháng 11/1964 của Quân ủy Trung ương.
Dự kiến trong điều kiện quân Mỹ kéo vào Việt Nam, sự phối hợp chiến lược giữa hai chiến trường Việt Nam và Lào sẽ có tầm quan trọng đặc biệt, nên từ đầu năm 1964, Thường trực Quân ủy Trung ương đã đề nghị Bộ Chính trị cử đồng chí Nguyễn Trọng Vĩnh thay mặt Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh sang hoạt động bên Bộ Tư lệnh Quân đội giải phóng Lào. Cuối tháng 2/1964, đồng chí Nguyễn Trọng Vĩnh lên đường nhận nhiệm vụ mới.
Tiếp đó, ba ngày sau khi đế quốc Mỹ giật dây bọn tay sai làm đảo chính lật đổ chính phủ liên hiệp ba phái ở Lào, ngày 22/4/1964, Bí thư Quân ủy Trung ương Võ Nguyên Giáp đã cùng Thường trực Quân ủy Trung ương thông qua đề án dài hạn giúp bạn về
các mặt xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố vùng giải phóng và kế hoạch tăng cường chuyên gia và quân tình nguyện Việt Nam hoạt động trên đất Lào trong điều kiện Mỹ và lực lượng tay sai âm mưu vô hiệu hóa Hiệp định Genève về Lào.
42
Để tạo điều kiện thuận lợi giúp bạn sẵn sàng bước vào mùa khô 1964, sau cuộc họp của Thường trực Quân ủy Trung ương (hai ngày 13 và 14/10) đánh giá kết quả hoạt động mùa mưa và bàn kế hoạch mùa khô trên chiến trường Lào, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã chỉ thị Phó Tổng tham mưu trưởng Trần Quý Hai lưu ý mấy vấn đề sau đây trong cuộc hội đàm với đoàn đại biểu của bạn (diễn ra trong hai ngày 17 và 18/10/1964): 1) Chuẩn bị sẵn sàng đánh bại cuộc tiến công của địch có thể xảy ra ở Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng; 2) Đẩy mạnh chiến tranh du kích trong vùng sau lưng địch, trọng điểm là khu vực Viêng Chăn; 3) Chống càn quét và tiễu phỉ, trọng điểm là Sầm Nưa - Xiêng Khoảng; 4) Nghiên cứu ý kiến của bạn đề nghị thời hạn hoạt động của quân tình nguyện sao cho phù hợp với khả
năng củng cố của bạn sau khi quân ta rút đi.
Ngay sau cuộc hội đàm với bạn, Bộ Tổng tham mưu soạn thảo phương hướng, nhiệm vụ giúp bạn trong mùa khô, trong đó có vấn đề tăng cường và điều chỉnh chuyên gia quân sự trong những vùng trọng điểm theo tinh thần và nội dung đã được ta và bạn thỏa thuận trong cuộc hội đàm.
Sang năm 1965, báo cáo của Cục Tình báo cho thấy, trong dự kiến Mỹ leo thang chiến tranh ở Việt Nam, không loại trừ khả năng chúng tiến hành một hình thức chiến tranh toàn diện không tuyên bố trên đất Lào đi đôi với huy động lực lượng quân đội Sài Gòn và Thái Lan cắt đường vận chuyển chiến lược của ta, đồng thời tăng cường khiêu khích bằng không quân và biệt kích từ Lào vào Bắc Việt Nam.
Để chủ động đối phó với âm mưu mới của địch, cuối tháng 3/1965, Bộ Chính trị quyết định phân công đồng chí Võ Nguyên Giáp trực tiếp phụ trách chỉ đạo Ban công tác Lào của Trung ương Đảng (mang mật danh CP.31).
43
5
Trong những tháng cuối năm 1964, quá trình cơ quan Tổng hành dinh chỉ đạo triển khai mọi công tác chuẩn bị đối phó với khả năng đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ở miền Nam và leo thang chiến tranh ra miền Bắc thì cũng là lúc Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp được Cục Tác chiến báo cáo cục diện chiến trường có những chuyển biến mới, nói lên bước trưởng thành của quân và dân miền Nam. Đó là kết quả triển khai đợt hoạt động đông xuân 1964-1965 theo chỉ thị tháng 10/1964 của Quân ủy Trung ương nhằm tiêu diệt một bộ phận quân đội Sài Gòn, mở rộng vùng giải phóng. Lúc này, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, được Bộ Chính trị cử vào trực tiếp chỉ đạo chiến trường Nam Bộ. Cùng vào chiến trường trong dịp cuối năm 1964 đầu năm 1965, có một số cán bộ cao cấp đã trưởng thành trong xây dựng bộ đội chủ lực và tác chiến tập trung, như các đồng chí Thiếu tướng Trần Độ và Lê Trọng Tấn, Đại tá Hoàng Cầm...
Theo báo cáo của Cục Tác chiến, trong đợt hoạt động vừa qua, các chiến dịch của bộ đội chủ lực mở ra trên nhiều hướng, từ miền Đông và miền Trung Nam Bộ đến Tây Nguyên1. Nổi bật trong đợt hoạt động này là thắng lợi của chiến dịch Bình Giã
(huyện Đất Đỏ - Bà Rịa, từ ngày 2/12/1964 đến ngày 3/1/1965). Bình Giã là chiến dịch đầu tiên của bộ đội chủ lực trên chiến trường Nam Bộ, thể hiện một bước nhảy vọt mới của chủ lực ta ở miền Nam, sau trận Ấp Bắc. Sau khi nghe báo cáo về chiến ___________
1. Bắt đầu là các trận đánh của bộ đội chủ lực Miền trên các địa bàn Bà Rịa - Long Khánh và Bình Long - Phước Long. Bộ đội chủ lực Khu 5 và Tây Nguyên tiến công địch trên hướng nam Quảng Ngãi, bắc Bình Định và phía tây đường 14 thuộc Kon Tum và Gia Lai.
44
dịch Bình Giã, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp kết luận: Chiến dịch Bình Giã đánh dấu sự thất bại căn bản của chiến lược "chiến tranh đặc biệt". Bí thư thứ nhất Lê Duẩn cũng nói: Kể từ trận Ấp Bắc, Mỹ đã thấy không thể thắng ta được. Đến trận Bình Giã thì Mỹ thấy sẽ thua ta trong "chiến tranh đặc biệt".
Chiến thắng Bình Giã đã đặt cấp lãnh đạo chiến trường Nam Bộ đứng trước những vấn đề mới về xây dựng và sử dụng lực lượng. Trong cuộc họp đầu năm 1965 (sau trận Bình Giã), đồng chí Nguyễn Chí Thanh và Bộ Chỉ huy Miền đã nhận định: Địch đang phát triển "chiến tranh đặc biệt" đến mức cao, vậy mà chủ lực của ta tuy về mặt tổ chức đã phát triển lên tới trung đoàn, nhưng trên thực tế (trước Bình Giã) ta chưa tác chiến đến quy mô trung đoàn. Ngay trong chiến dịch Bình Giã, ta mới đánh 5 trận cấp trung đoàn, 2 trận cấp tiểu đoàn, còn phổ biến là cấp đại đội. Từ thực tế đó, trong cuộc họp này đồng chí Nguyễn Chí Thanh nêu lên một vấn đề mang tính hình tượng được mọi người đồng tình: Chúng ta không thể cho địch "nhai mãi kẹo cao su du kích" trong khi các sư đoàn quân đội Sài Gòn còn nguyên vẹn chưa bị đánh và quân Mỹ đang kéo vào. Như vậy thì buộc địch thua làm sao được?
Sau đó, hội nghị tổng kết chiến dịch Bình Giã cũng thống nhất khẳng định rằng chiến thắng Bình Giã có tầm chiến lược, là một mốc lịch sử. Nhưng nguyên nhân dẫn đến hạn chế thắng lợi là do chủ lực của ta chưa đủ mạnh. Nếu chúng ta có điều kiện đánh quy mô trung đoàn và sư đoàn thì thắng lợi của Bình Giã còn to lớn hơn, tạo được thế chiến lược tốt hơn. Từ nhận định trên đây, Trung ương Cục và Quân ủy Miền quyết định lấy miền Đông Nam Bộ làm địa bàn xây dựng và phát triển bộ đội chủ lực cho chiến trường Nam Bộ nói chung, vì nơi đây địa bàn thuận lợi, có điều kiện cơ động, lại nối thông với Tây Nguyên và Khu 5.
45
Như vậy là phải trải qua 9 năm đánh thực dân Pháp, 10 năm thử sức với đế quốc Mỹ và quân đội Sài Gòn qua các trận Ấp Bắc, Đường Long, Bến Cát (1963), Vĩnh Thuận (1964) và đến Bình Giã (1965), chiến trường Nam Bộ mới tìm được hướng đi cho mũi tiến công của bộ đội chủ lực. Tuy nhiên, mãi đến đầu tháng 9/1965, sư đoàn chủ lực đầu tiên (Sư đoàn 9) mới chính thức được thành lập, sau chiến thắng Phước Long - Đồng Xoài.
Thực tế cho thấy quyết định của Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy Miền về phương hướng xây dựng và chiến đấu của bộ đội chủ lực phù hợp với đánh giá của Tổng hành dinh. Báo cáo tổng hợp cuối năm 1964 của Bộ Tổng tham mưu gửi lên Quân ủy Trung ương cũng nhận xét rằng sự trưởng thành của bộ đội chủ lực Miền chỉ mới thể hiện ở những trận đánh tập trung cỡ tiểu đoàn, trung đoàn, vừa chống càn, diệt đồn bốt, vừa hỗ trợ cho quần chúng phá ấp chiến lược1. Chủ lực Khu 5, bằng tác chiến tập trung cấp tiểu đoàn, trung đoàn, cũng chỉ đủ trình độ tiêu diệt đại đội và bước đầu tiêu diệt tiểu đoàn quân đội Sài Gòn.
Đầu năm 1965, trước yêu cầu phát triển của chiến trường miền Nam cả về xây dựng lực lượng và tác chiến quy mô ngày càng lớn, sẵn sàng và chủ động đối phó với âm mưu địch mở rộng chiến tranh, Bí thư Quân ủy Trung ương Võ Nguyên Giáp đã đề nghị và được Bộ Chính trị chấp thuận cử thêm một số cán
___________
1. Đến cuối năm 1964, quân và dân Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ đã phá tan, phá rã hơn 3.000 ấp chiến lược của địch. Nhiều vùng giải phóng và vùng quần chúng làm chủ đã mở rộng tới sát các thị xã, thị trấn, riêng Đức Huệ (Long An) và Bác Ái (Ninh Thuận) là hai huyện giải phóng. Ở
nhiều huyện đồng bằng, địch chỉ còn giữ được thị trấn, một số xã vùng ven và các nút giao thông quan trọng.
46
bộ trung, cao cấp vào tăng cường cho chiến trường miền Nam, đồng thời bổ sung một số cán bộ quân sự cấp cao tăng cường cho cơ quan Tổng hành dinh và Quân khu 41.
Ngày 11/1, đồng chí Bí thư Quân ủy Trung ương Võ Nguyên Giáp chủ trì hội nghị của Thường trực Quân ủy Trung ương, bàn cụ thể thêm về phương hướng xây dựng lực lượng và tác chiến sắp tới trên chiến trường miền Nam2. Trước hết, hội nghị
nghe báo cáo của Cục Tác chiến, đánh giá tình hình mọi mặt ở miền Nam.
Theo Cục Tác chiến, trong năm qua, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã cố gắng lớn cả về quân sự và chính trị, cả tác chiến và bình định ở trong Nam và đánh phá miền Bắc. Trước hết, quyết tâm của địch là tập trung vào kế hoạch bình định trọng điểm tám tỉnh miền Đông Nam Bộ, đồng thời mở rộng quy mô đánh phá ngày càng mạnh hành lang chi viện Bắc - Nam. Đi đôi với việc tăng cường bình định hòng đánh phá quyết liệt phong trào cách mạng miền Nam, địch ra sức mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc. Mặc dù về mặt quân sự, địch không thu được thắng lợi nào đáng kể nhưng hành động đánh phá quyết liệt
___________
1. Ngoài những cán bộ quân sự cao cấp lần lượt được điều vào chiến trường những năm đầu thập kỷ 60 (như các đồng chí: Hoàng Văn Thái, Chu Huy Mân, Lê Trọng Tấn, Trần Độ, Hoàng Cầm, Nguyễn Hòa, v.v.), các cán bộ được điều về tăng cường cho cơ quan Tổng hành dinh và Khu 4 đầu năm 1965 gồm các đồng chí: Vương Thừa Vũ (Giám đốc Học viện Quân chính) giữ chức Phó Tổng tham mưu trưởng; Lê Quang Đạo và Trần Văn Quang được bổ sung vào Ban Thường trực Quân ủy Trung ương; Đồng Sĩ Nguyên (Phó Tổng tham mưu trưởng) giữ chức Chính ủy Khu 4.
2. Dự hội nghị có các đồng chí: Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Song Hào, Trần Văn Quang.
47
của địch cũng đã gây cho ta những thiệt hại và những khó khăn nhất định. Tuy nhiên, do thất bại về quân sự trên chiến trường nên quân số bổ sung của địch không đủ bù đắp số bị hao hụt. Về chính trị, mâu thuẫn nội bộ (giữa chính quyền với tôn giáo và giữa các tướng lĩnh...) ngày càng sâu sắc đã đẩy cuộc khủng hoảng chính trị ở miền Nam lên mức nghiêm trọng hơn trước. Chính quyền trung ương Sài Gòn không ổn định khiến cho chính quyền cơ sở ở nhiều địa phương cũng hết sức lỏng lẻo. Tình hình thực tế ở miền Nam trong năm qua khiến cho giới cầm quyền Washington không chỉ lo lắng về cục diện quân sự trên chiến trường mà còn đặc biệt quan tâm đến môi trường chính trị bất ổn, nhất là tình trạng lục đục kéo dài trong giới tướng lĩnh Sài Gòn.
Về phía ta, do kết quả cả về xây dựng lực lượng và tác chiến trong năm qua cho nên tương quan lực lượng đã chuyển hóa dần dần có lợi cho ta1. Thực tế đó có ý nghĩa chiến lược quan trọng, vì lực lượng vũ trang ta đã chiến đấu và trưởng thành ngay trong điều kiện địch dựa vào ưu thế cả về quân số và trang bị kỹ thuật hòng tiêu hao, tiêu diệt ta. Một điểm nổi bật trong năm qua về phong trào đấu tranh của quân và dân miền Nam là diện hoạt động mở rộng và tương đối đều, liên tục, bắt đầu có sự phối hợp giữa các đợt, các hướng trên toàn chiến trường. Đáng chú ý là ta đã tiêu diệt gọn nhiều đơn vị của địch đồng thời thọc sâu đánh vào các thị xã, thị trấn, vùng sát ngay các đô thị. Tuy nhiên, lúc này lãnh đạo các cấp trong Nam đang ra sức khắc phục một số khó khăn thực tế là lực lượng vũ trang
___________
1. So sánh lực lượng vũ trang tập trung: năm 1963, địch 5/ ta 1; năm 1964, địch 2,5/ ta 1. Lực lượng vũ trang địa phương: ta và địch tương đương.
48
địa phương và chiến tranh du kích đều phát triển chậm, chưa đủ mạnh để căng kéo giam chân chủ lực cơ động của địch. Trong khi đó bộ đội chủ lực phát triển chưa đủ về số lượng, chưa mạnh về chất lượng, nên còn hạn chế về khả năng tranh thủ mọi thời cơ có lợi để đánh nhiều trận tiêu diệt lớn, làm tan rã địch nhiều hơn nữa. Rõ ràng nhược điểm của hoạt động vũ
trang là chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình và thời cơ. Trong lúc địch suy yếu và khủng hoảng nghiêm trọng triền miên, nhưng khả năng của ta cũng có hạn, chưa đủ sức chớp thời cơ giành được thắng lợi lớn hơn. Việc chỉ đạo phối hợp giữa ba thứ quân tuy có nhiều tiến bộ trong 6 tháng cuối năm, nhưng từng nơi, từng lúc chưa thật tốt.
Sau khi cho ý kiến bổ sung để Cục Tác chiến hoàn chỉnh bản báo cáo, Hội nghị Thường trực Quân ủy Trung ương bàn về phương hướng lãnh đạo sắp tới.
Đánh giá về khả năng và âm mưu của địch, hội nghị cho rằng trước mắt Mỹ không dám mở rộng chiến tranh quy mô lớn nhưng sẽ vẫn tăng cường viện trợ cho chính quyền và quân đội Sài Gòn, duy trì lực lượng vũ trang và tập hợp lực lượng chính trị phản động ở miền Nam để bảo đảm khi cần thiết thì Mỹ rút ra ngoài cuộc chiến và giữ cho miền Nam trung lập thân phương Tây. Hội nghị dự kiến phương hướng tiến lên của cách mạng miền Nam theo ba bước: bước 1: Làm tan rã đại bộ phận lực lượng vũ trang tay sai của Mỹ, mở rộng khu giải phóng của ta, buộc địch phải ngồi vào bàn đàm phán; bước 2: Vừa đánh vừa đàm, tiến tới tổng công kích - tổng khởi nghĩa; bước 3: Khuếch trương và củng cố thắng lợi, thực hiện dân tộc, dân chủ và thống nhất đất nước.
Để cách mạng miền Nam tiến lên theo phương hướng đó, phải tiến hành ba biện pháp lớn: một là, tập trung tiêu diệt từng bộ phận quân chủ lực của địch; hai là, mở rộng khởi nghĩa
49
ở nông thôn (huyện, tỉnh), đấu tranh chính trị ở vùng đô thị; ba là, tạo điều kiện ly khai quân đội ngụy, tiến hành các cuộc đảo chính lật đổ chính quyền của địch ở địa phương hoặc ở các trung tâm lớn.
Hội nghị tập trung bàn về biện pháp thực hiện bước 1. Yêu cầu tác chiến trong đợt này là đánh tiêu diệt có trọng điểm và mở rộng đánh tiêu hao quân địch. Để chọn hướng chiến dịch có tác dụng chiến lược phải đáp ứng các điều kiện sau đây: địch sơ
hở; bảo đảm cho ta đánh liên tục và bất ngờ; giải phóng được đất đai, có lợi cho việc chi viện chiến trường và có lợi cho ta về chính trị. Quá trình ta thực hiện bước 1, có thể Mỹ đưa quân vào miền Nam đóng chốt ở một số nơi; chúng có thể vào Hạ Lào, tăng cường đánh phá miền Bắc mạnh hơn, nhưng cũng không loại trừ khả năng địch rút chạy khỏi Kon Tum.
Sau hội nghị, Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng chỉ đạo cơ quan tham mưu hoàn chỉnh dự thảo nhiệm vụ quân sự ở miền Nam năm 1965 và 6 tháng đầu năm 1966, hướng vào thực hiện nghị quyết cuối tháng 9/1964 của Bộ Chính trị và nghị quyết tháng 11/1964 và tháng 1/1965 của Thường trực Quân ủy Trung ương. Ngày 27/1, bản dự thảo được báo cáo trong cuộc họp của Tổ năm đồng chí Bộ Chính trị và Thường trực Quân ủy Trung ương1.
Bản dự thảo của Bộ Tổng tham mưu nhận định rằng: Để làm mất chỗ dựa chủ yếu của chế độ Sài Gòn là đội quân chủ lực, làm cho địch rối loạn thêm về chiến lược, suy sụp về chính trị, thất bại về quân sự, tạo điều kiện giành thắng lợi quyết ___________
1. Tổ năm đồng chí Bộ Chính trị và Thường trực Quân ủy Trung ương gồm: Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng. Khi đồng chí Nguyễn Chí Thanh vào Nam, đồng chí Phạm Hùng thay.
50
định trong thời gian tương đối ngắn (như Nghị quyết của Bộ Chính trị tháng 9/1964), nhiệm vụ chiến lược quân sự ở miền Nam trong giai đoạn tới là: 1) Tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực tinh nhuệ của địch, làm tan rã quân đội địch; 2) Làm chủ toàn bộ nông thôn và rừng núi; kết hợp đấu tranh chính trị với binh vận, giải phóng những thị xã, thị trấn có điều kiện; bao vây cô lập và chuẩn bị mọi điều kiện để giành thắng lợi ở các thành phố lớn và căn cứ quân sự; chia cắt, cô lập địch khắp nơi, tiêu hao và làm rối loạn hậu phương địch; 3) Mở rộng, củng cố các khu căn cứ và địa bàn chiến lược của ta, vùng giải phóng của bạn, bảo đảm hành lang vận chuyển chiến lược; 4) Chuẩn bị mọi điều kiện thuận lợi và tạo thời cơ kết hợp đấu tranh chính trị của quần chúng ở đô thị với phong trào binh biến trong hàng ngũ địch, nhất là ở các thành phố lớn có ý nghĩa chiến lược là Đà Nẵng, Huế, Cần Thơ.
Để hoàn thành nhiệm vụ chiến lược trên đây, báo cáo của Bộ Tổng tham mưu nêu lên những nhiệm vụ chủ yếu và phương châm hoạt động cần nắm vững. Riêng về phương hướng sử dụng bộ đội chủ lực, Bộ Tổng tham mưu đề nghị: Tập trung hoạt động trên hai chiến trường chính là Tây Nguyên, vùng giáp ranh đồng bằng Khu 5 (nơi địch sơ hở nhất) và miền Đông Nam Bộ (nơi có quân địch tập trung cao). Trên các chiến trường khác, kể cả Trung và Hạ Lào, bộ đội địa phương và dân quân, du kích hoạt động là chủ yếu. Cần chuẩn bị mọi mặt để từ tháng 6/1965 đến mùa xuân năm 1966 mở được ba đợt hoạt động của bộ đội tập trung. Dự kiến đợt 1: từ tháng 6 đến tháng 8/1965; đợt 2: từ tháng 11/1965 đến tháng 1/1966; đợt 3: từ tháng 3 đến tháng 4/1966.
Bản dự thảo của Bộ Tổng tham mưu dự kiến khi ta đánh mạnh ở miền Nam, địch sẽ tăng cường hoạt động đánh phá hành lang Trung - Hạ Lào mạnh hơn. Vì vậy, phải tích cực chống lấn chiếm và đẩy lùi địch trên Đường 9, buộc địch bỏ
51
tuyến Sê Công, lui về ít nhất tuyến Pha Lan, đồng thời phải tích cực mở rộng phần lớn nông thôn Trung - Hạ Lào. Bản dự thảo cũng đề cập đến các tình huống Mỹ phản ứng bằng biện pháp tăng cường lực lượng mở rộng chiến tranh và đánh phá miền Bắc. Từ đó đề ra yêu cầu đối với Bộ Tổng tư lệnh là tăng cường lãnh đạo chiến tranh, đẩy mạnh chi viện cho miền Nam, đồng thời chỉ đạo tăng cường hơn nữa trình độ sẵn sàng chiến đấu của lực lượng hiện có và tổ chức thêm một số đơn vị binh chủng hợp thành sẵn sàng chiến đấu bảo vệ miền Bắc. Bộ Tổng tham mưu cũng dự kiến khả năng xảy ra đột biến ở miền Nam trong những tình huống cơ bản sau đây: một là, bị thất bại nặng cả về quân sự và chính trị, hàng ngũ địch rối loạn, dẫn đến đảo chính, binh biến, quần chúng đô thị có thể lợi dụng cơ hội vùng dậy làm cho địch tan rã, suy sụp bất ngờ mà cả địch và ta đều không dự kiến trước; hai là, tuy bị thất bại nặng cả về quân sự và chính trị nhưng địch vẫn còn giữ được lực lượng và các thành phố lớn, chủ động đưa ra vấn đề đàm phán; ba là, phải đề phòng trường hợp Mỹ đưa thêm quân vào miền Nam, đóng chốt trên một số địa bàn quan trọng và mở rộng chiến tranh ở miền Nam.
Cuộc họp thảo luận chung quanh mấy ý kiến của Bí thư thứ nhất Lê Duẩn về thời cơ cụ thể của cách mạng miền Nam, về so sánh lực lượng, về thời điểm có thể giành thắng lợi quyết định1.
___________
1. Đồng chí Lê Duẩn cho rằng đặt vấn đề giành thắng lợi quyết định trong năm 1966 là chậm, mà phải đặt ra trong năm 1965, vì đột biến ở miền Nam là không thể tránh khỏi. Năm 1965 phải chuẩn bị tổng khởi nghĩa, lập Mặt trận hòa bình trung lập ở Sài Gòn và các đô thị để chuẩn bị cho quần chúng khởi nghĩa ở miền Nam. Phương thức tác chiến phải phục vụ cho việc chuẩn bị tổng khởi nghĩa (xem hồ sơ số 866, phông Bộ Tổng tham mưu; hồ sơ số 448, phông Cục Tác chiến, Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng).
52
Biên bản cuộc họp ghi: Cuộc họp nhất trí với ý kiến của đồng chí Lê Duẩn: Trong năm 1965, về chính trị chuẩn bị tiến lên tổng khởi nghĩa, về quân sự tiến lên tổng công kích.
Trước yêu cầu phát triển lý luận quân sự trong bối cảnh chiến tranh mở rộng và tác chiến quy mô lớn, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp nhắc đồng chí Phó Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái về một nội dung của nghị quyết tháng 11/1964 của Quân ủy Trung ương đang được triển khai, đó là đẩy nhanh công tác tổng kết kinh nghiệm chỉ đạo chiến lược, chiến dịch và chiến thuật của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đồng thời phát triển công tác nghiên cứu khoa học quân sự nhằm xây dựng một nền nghệ thuật quân sự Việt Nam. Về dự kiến phương thức tác chiến với đối tượng mới là quân đội Mỹ, sau khi nghe nhắc lại những trận đánh Mỹ từ đầu năm1, đồng chí Võ Nguyên Giáp nói: phải từ những trận đánh Mỹ đầu tiên này, cùng với các cấp chỉ đạo, chỉ huy trên chiến trường sớm rút ra kết luận về phương thức tổ chức lực lượng và phương thức tác chiến của ta để giải đáp một câu hỏi đặt ra lúc này là đánh Mỹ thế nào? Những trận đánh trong năm qua thường chỉ là những trận tập kích, nhằm vào bọn cố vấn và nhân viên kỹ thuật của chúng trong các thành phố. Sắp tới, nếu địch ồ ạt đem quân vào trực tiếp tham chiến, chiến trường đòi hỏi ta phải có cách đánh ___________
1. Trong năm 1964, quân ta đã đánh Mỹ nhiều trận, chủ yếu bằng tập kích của đặc công, pháo kích, đánh mìn... Trong đó có các trận đánh vào rạp chiếu bóng Kinh Đô (ngày 16/2), tàu sân bay Card trọng tải 15.000 tấn ngay trên sông Sài Gòn (ngày 2/5), đồn Plâyme (ngày 3/7), khách sạn Caravelle (ngày 25/8), 3 tàu chở dầu trên sông Nhà Bè (ngày 25/8), sân bay Biên Hòa (ngày 1/11), Câu lạc bộ hàng không trong sân bay Tân Sơn Nhất (ngày 18/11), khách sạn Brink, nơi trú ngụ của hàng trăm sĩ quan Mỹ (ngày 25/12).
53
mới ngay từ những ngày đầu địch đưa quân trên bộ vào hòng mở rộng chiến tranh.
Ngày 3/3/1965, Bộ Tổng tham mưu báo cáo với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp bản đề cương tổng kết và nghiên cứu khoa học quân sự trong 5 năm (1965-1970). Về công tác tổng kết, hai nhiệm vụ chính là tổng kết các vấn đề thuộc đường lối quân sự, đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng từ năm 1930 đến năm 1954 và các vấn đề về nghệ thuật quân sự, bao gồm cả chiến lược, chiến dịch, chiến thuật và kỹ thuật. Về công tác nghiên cứu khoa học quân sự, Bộ Tổng tham mưu xác định nhiệm vụ chính là nghiên cứu những vấn đề về đường lối và nghệ thuật quân sự. Cụ thể là, về chỉ đạo chiến lược: nghiên cứu lý luận chiến lược tiến công và chiến lược phòng ngự trong điều kiện Việt Nam; về nghệ thuật chiến dịch: hoàn thành biên soạn hệ thống tài liệu giáo khoa về nghệ thuật chiến dịch Việt Nam, nghiên cứu một số chuyên đề về nghệ thuật chiến dịch; về chiến thuật: hoàn thành biên soạn toàn bộ điều lệnh, các chuyên đề về chiến thuật: đánh vận động, đánh trận địa, đánh du kích; về kỹ thuật quân sự: nghiên cứu vấn đề bảo đảm cơ động, các kỹ thuật phòng vũ khí nguyên tử, hóa học, vi trùng, kỹ thuật bảo quản và sửa chữa vũ khí phục vụ chiến trường miền Nam.
Trong các nhiệm vụ trên, việc hoàn thành hệ thống tài liệu về đường lối quân sự và các vấn đề chiến lược là nhiệm vụ cơ bản, có tính chất quyết định, hệ thống tài liệu chiến dịch là quan trọng, biên soạn các điều lệnh chiến đấu là nhiệm vụ trung tâm.
Theo tinh thần chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Võ Nguyên Giáp, ngày 15/3, Bộ Tổng tham mưu ra chỉ thị về công tác nghiên cứu khoa học quân sự năm 1965 cho toàn quân.
54
Chỉ thị nhấn mạnh: phải quán triệt chỉ thị của Quân ủy Trung ương, coi việc nghiên cứu về các vấn đề về nhiệm vụ và phương châm chiến lược, hình thức chiến tranh, hình thức tác chiến và nguyên tắc chỉ đạo tác chiến, là nhiệm vụ trung tâm. Trên cơ sở
những vấn đề cơ bản về đường lối quân sự của Đảng đã được xác định mà sửa chữa và biên soạn thêm một số tài liệu về nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật cho phù hợp với yêu cầu mới, nhằm bảo đảm nội dung huấn luyện quân sự năm 1965.
55
Chương II
TRONG NĂM ĐẦU ĐẾ QUỐC MỸ
LEO THANG CHIẾN TRANH
Theo sự chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, từ cuối năm 1964, Cục Tình báo đi sâu nghiên cứu tình hình miền Nam trong bối cảnh chính trị không ổn định sau khi Tổng thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ và trên cơ sở dự kiến đế quốc Mỹ chuyển hướng chiến lược. Tổng Tư lệnh lưu ý Cục Tình báo: cần đặc biệt chú trọng theo dõi những chuyển biến rất khẩn trương của tình hình và chủ trương chiến lược mới của địch. Thực tế tình hình miền Nam trong những năm 1964 - 1965 đã phản ánh đúng dự kiến của Quân ủy Trung ương.
Sau cuộc đảo chính giết anh em Diệm - Nhu, tình hình chính trị nội bộ giới cầm quyền ở Sài Gòn rối loạn kéo dài. Theo đánh giá của McNaughton - Trợ lý an ninh của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng McNamara - thì từ giữa năm 1964, tại miền Nam Việt Nam, cuộc khủng hoảng trước kéo theo cuộc khủng hoảng sau, đó là những cuộc khủng hoảng triền miên. CIA đánh giá miền Nam Việt Nam là một bức tranh chính trị đen tối và dự kiến khoảng giữa năm 1965 sẽ là thời điểm có khả năng nhất để miền Nam Việt Nam sụp đổ và cộng sản sẽ lên nắm chính quyền. Về phía ta, từ mùa thu năm 1964, CIA liên tiếp báo cáo phát hiện nhiều đơn vị Bắc Việt vận chuyển dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh, xuyên qua các vùng rừng núi giữa biên giới
56
Việt - Lào. Trong báo cáo, CIA nhận định: Các cuộc chuyển quân ấy chỉ rõ: nếu trước đây cộng sản chỉ đưa cán bộ và chiến sĩ tập kết ra Bắc trở về để xây dựng lực lượng chính trị ở nông thôn miền Nam thì giờ đây miền Nam đã được bổ sung những đơn vị chiến đấu chính quy Bắc Việt. CIA cho rằng, trước mắt, Bắc Việt có thể gặp những khó khăn về củng cố lực lượng và triển khai các cơ sở hậu cần mới để có thể mở các cuộc tiến công, nhưng cần đánh giá đúng quyết tâm của cộng sản.
Theo Daniel Ellsberg1 thì từ mùa xuân năm 1964, giới tướng lĩnh Lầu Năm Góc đều cho rằng hiệu quả quá trình thực hiện chính sách của Mỹ ở Việt Nam đang suy giảm một cách nhanh chóng. Nếu Mỹ không mở rộng vai trò của mình, bao gồm cả
việc đưa các đơn vị bộ binh vào trực tiếp chiến đấu trên chiến trường miền Nam và mở các cuộc tiến công bằng không quân và hải quân ra miền Bắc thì các lực lượng do cộng sản lãnh đạo sẽ nắm quyền kiểm soát miền Nam chỉ trong vòng vài tháng. Thế nhưng, vẫn theo D. Ellsberg, đến giữa năm 1964, sự lựa chọn của Tổng thống Mỹ vẫn chưa dứt khoát, không những vì đang trong quá trình vận động bầu cử mà chủ yếu là Johnson cho rằng tình trạng hỗn loạn ở miền Nam Việt Nam là do sự tranh giành giữa các viên tướng cầm quyền. Sự can thiệp (quân sự) đơn thuần của Hoa Kỳ sẽ chẳng giải quyết được gì hết, cả sự hỗn độn ở Sài Gòn lẫn sự đe dọa của cộng sản.
Trong khi đó, Đại sứ Maxwell Taylor và giới dân sự, kể cả Bộ trưởng Bộ Quốc phòng McNamara và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
___________
1. Daniel Ellsberg là một quan chức trong Bộ Quốc phòng Mỹ, tác giả cuốn sách Những bí mật về chiến tranh Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2006; ông cũng là người đã đưa ra ánh sáng tập Tài liệu mật Lầu Năm Góc.
57
Dean Rusk luôn lên tiếng phản đối việc đưa lực lượng chiến đấu trên bộ vào miền Nam Việt Nam, trước hết vì sợ nổ ra cuộc xung đột với Trung Quốc1. Sau khi được cử sang Sài Gòn làm đại sứ, Tướng Taylor vẫn chủ trương "tiếp cận từ từ" với hy vọng tình hình chính trị miền Nam sẽ sớm ổn định trước đã. Trong Hội nghị Honolulu đầu tháng 6/1964, Taylor phản đối cả
việc đánh phá miền Bắc, vì triển vọng thực tế là các cuộc tiến công bằng không quân vào miền Bắc sẽ kéo theo các lực lượng bộ binh của Trung Quốc vào Việt Nam.
Trước sự chống đối của phe dân sự, giới tướng lĩnh Lầu Năm Góc đành phải chờ thời cơ để gây áp lực với tổng thống. Từ tháng 9/1964, theo Kế hoạch DESOTO, hải quân Mỹ vẫn tiếp tục tiến hành các cuộc tuần tiễu sát bờ biển miền Bắc Việt Nam, các máy bay tầm thấp vẫn xâm nhập bầu trời miền Bắc. Giới quân sự Mỹ chờ đợi một sự phản ứng mới của Bắc Việt để có cớ trở lại các cuộc không kích. Sau khi Quân giải phóng miền Nam tiến công căn cứ Biên Hòa ngày 31/10/1964, các tham mưu ___________
1. Trong buổi làm việc với Đại sứ Cabot Lodge ở Sài Gòn giữa tháng 4/1964, Ngoại trưởng Dean Rusk nói: Chúng ta sẽ không đọ sức với Trung Hoa đỏ bằng nguồn nhân lực hạn hẹp của chúng ta trong một cuộc chiến tranh thông thường. Ý kiến đó được ngoại trưởng nhắc lại với Thủ tướng Sài Gòn Nguyễn Khánh ngày 30/5/1964 (tức là trước Hội nghị Honolulu). Rusk nói: Mỹ sẽ không bao giờ lặp lại sự can thiệp vào một cuộc chiến tranh trên bộ ở châu Á mà bị hạn chế các lực lượng chính quy... Sau khi nêu lên tương quan dân số (Mỹ 190 triệu - Trung Hoa 700 triệu), Rusk nói: Mỹ không cho phép chính mình bị đổ máu khi chiến đấu với Trung Hoa đỏ bằng những loại vũ khí thông thường... Điều này có nghĩa là, nếu việc leo thang dẫn tới một cuộc tiến công lớn của Trung Quốc thì cũng sẽ liên quan tới việc sử dụng các vũ khí hạt nhân... Mỗi quốc gia phải sử dụng nguồn sức mạnh mà mình có; nếu Trung Quốc sử dụng biện pháp tràn ngập lãnh thổ, chúng ta sẽ sử dụng sức mạnh hỏa lực ưu việt.
58
trưởng liên quân lên tiếng đòi trả đũa vì "nếu không đáp lại sẽ tỏ rõ sự yếu kém". Lầu Năm Góc báo cáo rằng các tham mưu trưởng đã dự kiến nhiều kế hoạch tiến công hỗ trợ lẫn nhau nhằm trừng phạt các cuộc tiến công của Việt cộng vào quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Mọi đề nghị của Lầu Năm Góc đều không được Tổng thống Johnson chấp nhận. Mọi hành động lúc
này đều rất không thuận lợi vì đã sát ngày bầu cử. Bước sang mùa xuân 1965, tình hình đã thay đổi và giọng điệu của người cầm đầu Nhà Trắng cũng thay đổi. Sau khi trúng cử với khẩu hiệu lừa bịp: "Chúng ta không chủ trương mở rộng chiến tranh Việt Nam", Johnson trở lại nguyên hình là một tổng thống chủ chiến. Daniel Ellsberg, tác giả Hồi ức về Tài liệu mật Lầu Năm Góc, tiết lộ rằng chỉ hai ngày trước khi nhậm chức (nhiệm kỳ 1965-1968), Tổng thống Johnson tuyên bố rằng ông ta kiên quyết không chấp nhận thất bại ở Việt Nam, cũng không trở thành vị tổng thống "đứng nhìn Đông Nam Á đi theo con đường của Trung Quốc". Trong cuộc họp với các cố vấn thân cận, khi Johnson hỏi: "Thế biện pháp của anh là gì?", không một ai dám nói với tổng thống rằng sự lựa chọn của mình là rút quân, vì như thế có nghĩa là chấp nhận thất bại. Còn theo nhận xét của Giám đốc CIA William Colby thì, trước tình hình cộng sản tỏ ra ngày càng mạnh và táo tợn, dù với tính khí kiên trì của người Texas, Tổng thống Johnson cũng không thể chịu nổi ý nghĩ thất bại, ông ta kiên quyết không để mất Việt Nam. Đến lúc này, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao (Dean Rusk), Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (McNamara) và Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân (Tướng Wheeler) đều chung một cam kết, quyết tâm không kém gì tổng thống. McNamara vẫn còn tin rằng, đối với một nước giàu mạnh như Mỹ, thành công của cuộc chiến tranh là dựa vào khả năng tung ra một sức
59
mạnh ghê gớm để nhanh chóng đè bẹp cái xứ Bắc Việt Nam nhỏ bé và nghèo nàn. Còn Ngoại trưởng Rusk thì cho rằng Hoa Kỳ có nghĩa vụ và lợi ích trong việc chống chủ nghĩa cộng sản lan tràn ở Đông Nam Á. Cả hai vị bộ trưởng đều hết sức tin tưởng rằng, chỉ cần Mỹ làm cho những người cộng sản hiểu được sự thật hiển nhiên là họ không thể thắng được sức mạnh siêu cường của Hoa Kỳ và nếu họ cứ cố cưỡng lại thì nhất định họ sẽ bị trừng phạt. Chỉ cần như thế là đủ.
Thống nhất về chủ trương dùng sức mạnh, nhưng vấn đề đặt ra là sử dụng sức mạnh đó như thế nào? Theo Ellsberg, trong các buổi họp định kỳ ở Nhà Trắng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng McNamara và Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Wheeler nói đến kiến nghị của các tham mưu trưởng về Kế hoạch Một đòn chí mạng1. Người ta muốn thuyết phục, đồng ___________
1. Theo Kế hoạch Một đòn chí mạng (Finishing stroke), mục tiêu đánh phá do các tham mưu trưởng kiến nghị bao gồm việc đánh mìn cảng Hải Phòng và các tuyến đường thủy ở miền Bắc Việt Nam, phong tỏa đường biển từ Việt Nam sang Trung Quốc, ném bom các tuyến đường giao thông thủy bộ và đường sắt giữa Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam, phá hủy mọi nguồn tiếp tế bằng đường không từ Trung Quốc sang, đồng thời với các cuộc tiến công bằng đường không hạn chế vào các mục tiêu quân sự
và công nghiệp trên toàn miền Bắc tới tận biên giới Việt - Trung. Yêu cầu của các tham mưu trưởng là cắt đứt mọi khả năng tiếp tế từ khối Trung - Xô bằng đường biển qua Trung Quốc, vì chỉ có như thế mới cô lập được miền Bắc Việt Nam và Mặt trận Dân tộc giải phóng ở miền Nam khỏi các nguồn tiếp tế của cộng sản và mới buộc các nhà lãnh đạo miền Bắc Việt Nam chịu phục tùng. Cụ thể, các tham mưu trưởng đề nghị tiến công đồng thời 94 mục tiêu để tạo ra một cú sốc và một sự bất ngờ lớn nhất. Nhưng tuân thủ chiến lược leo thang từng bước của tổng thống, McNamara chọn các mục tiêu tiến công đầu tiên là căn cứ máy bay MIG ở Phúc Yên, ngoại ô Hà Nội và các kho dầu trong khu vực đông dân cư.
60
thời gây sức ép với tổng thống về sự cần thiết của chiến dịch đánh phá miền Bắc quy mô lớn để thuyết phục các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam hãy ngừng những hành động tiến công trước khi họ phải chịu những tổn thất không thể khắc phục được. Các tham mưu trưởng lập luận rằng, chỉ có đánh mạnh bằng các chiến dịch ném bom miền Bắc mới tránh được thất bại trên chiến trường miền Nam. Sau thắng lợi trong cuộc bầu cử, tổng thống cùng các cố vấn đi đến một sự "nhất trí nội bộ" là làm thế nào để ngăn chặn thắng lợi của cộng sản ở miền Nam Việt Nam, việc đó dường như là điều rất cấp bách. Nhưng tổng thống không chấp nhận "một đòn chí mạng" mà chủ trương leo thang từng bước, bắt đầu bằng chiến dịch Mũi lao lửa (Flamming dart) 1 và 2 vào đầu tháng 2 rồi chiến dịch Sấm rền (Rolling thunder) vào đầu tháng 3/1965, nói là để trả đũa Quân giải phóng tiến công căn cứ Plâyku và Quy Nhơn.
Giám đốc CIA W. Colby kết luận rằng từ đây (đầu năm 1965) ra đời một chiến lược cơ bản được Hoa Kỳ theo đuổi suốt cuộc chiến, đó là chính sách leo thang từng bước bằng các cuộc tiến công vào quân cộng sản ở miền Nam, đồng thời dùng không quân đánh vào các căn cứ hậu cần và sở chỉ huy của họ ở
miền Bắc. Sau hai sự kiện ở Plâyku và Quy Nhơn, các tham mưu trưởng càng thúc giục Bộ trưởng McNamara thuyết phục tổng thống rằng đã đến lúc tiến hành các chiến dịch ném bom có hệ thống, vượt qua giới hạn trả đũa "ăn miếng trả miếng" ("tit for tat").
Là một quan chức trong Lầu Năm Góc, D. Ellsberg hiểu vì sao tổng thống chủ trương leo thang từng bước, gây áp lực từng bước đối với miền Bắc Việt Nam, vì sao Johnson phản đối "kế hoạch một đòn chí mạng" của các tham mưu trưởng. Thời điểm đánh phá và sự mạnh dần lên của các chiến dịch ném bom
61
miền Bắc tùy thuộc vào sự chỉ đạo của Nhà Trắng, với kịch bản có thể thay đổi bất cứ lúc nào. Kịch bản này sẽ cho phép Mỹ quyền tự do lựa chọn bất cứ thời điểm nào để có thể tiếp tục chiến tranh hay không, leo thang hay không, tăng tốc hay không.
Chủ trương của tổng thống đã tạo thêm sự rạn nứt trong các quan chức Nhà Trắng và Lầu Năm Góc, cụ thể nhất là giữa Bộ trưởng Bộ Quốc phòng McNamara - người tán thành chủ trương leo thang từng bước đánh phá miền Bắc - với trợ lý của ông ta là John McNaughton. Mc Namara trực tiếp tham gia và đưa ra những chỉ dẫn cho các chiến dịch ném bom nên dư luận lên án ông ta là tác nhân chủ yếu khuyến khích các chiến dịch đánh phá miền Bắc. Trong khi đó và đã từ lâu McNaughton kiên trì ý kiến cho rằng việc ném bom đánh phá miền Bắc là hết sức phi lý và nguy hiểm. Việc làm đó không đem lại bất cứ điều gì có lợi mà sẽ chỉ đưa nước Mỹ dấn sâu vào một cuộc chiến tranh với chiều hướng ngày càng khó khăn hơn. Tình hình sẽ trở nên tồi tệ nếu nước Mỹ cố gắng tiếp tục một nỗ lực đen tối và sẽ còn tồi tệ hơn nữa nếu tiếp tục leo thang. Việt Nam không phải là nơi để cắm lá cờ của nước Mỹ.
Nếu Đại sứ Taylor và Bộ trưởng McNamara không phản đối việc dùng không quân đánh phá miền Bắc thì hai người lại quyết ngăn chặn việc quân Mỹ trực tiếp tham chiến trên chiến trường. Họ lên án mạnh mẽ việc Tổng thống Johnson đưa lực lượng chiến đấu bộ binh vào miền Nam Việt Nam. Nhưng cuối cùng họ cũng buộc phải chấp nhận triển khai hai tiểu đoàn lính thủy đánh bộ do Tổng thống - Tổng Tư lệnh cho đổ bộ vào Đà Nẵng ngày 8/3/1965. Để tránh sự phản ứng tạo thêm sự rạn nứt giữa tổng thống và các cố vấn thân cận nhất (Đại sứ Taylor, Bộ trưởng McNamara và cả Ngoại trưởng Dean Rusk), Tổng thống Johnson nhấn mạnh trong chỉ lệnh là hai tiểu đoàn vừa đổ bộ
chỉ hạn chế trong nhiệm vụ bảo vệ căn cứ không quân Đà Nẵng.
62
Chỉ lệnh nói rõ: Lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ sẽ không - nhắc lại là không - tham gia vào các hoạt động hằng ngày chống lại Việt cộng. Nhưng rồi sự hạn chế đó chỉ duy trì được ba tuần. Theo yêu cầu của Tổng chỉ huy Westmoreland, ngày 1/4/1965, tổng thống cho phép lính thủy đánh bộ mở rộng nhiệm vụ, được phép tiến hành "các cuộc tiến công có giới hạn".
D. Ellsberg bình luận: Để tránh phản ứng của dư luận trong và ngoài nước Mỹ, cách làm của tổng thống đã khiến cho vai trò chiến đấu của bộ binh Mỹ ở miền Nam Việt Nam trong vòng 8 năm cũng bắt đầu một cách êm ắng giống như các chiến dịch ném bom miền Bắc.
Nhưng rồi những bức điện từ Sài Gòn gửi về Nhà Trắng cho thấy tình hình chiến sự mùa xuân 1965 vẫn ngày càng xấu đi và Tổng chỉ huy Westmoreland lại đề nghị tăng quân. Ông ta báo động rằng với các cuộc tiến công (của Quân giải phóng) từ
các vùng cao nguyên ra đến biển, miền Nam Việt Nam đứng trước nguy cơ bị cắt làm hai. Mặc dù việc triển khai lực lượng bộ binh quy mô lớn luôn bị Đại sứ Taylor và Bộ trưởng McNamara phản đối, ngày 20/4/1965, Tổng thống Johnson vẫn thể theo yêu cầu của Tổng chỉ huy Westmoreland và các tham mưu trưởng liên quân, lệnh cho Sư đoàn không vận 173 lên đường; nâng lực lượng trên bộ của Mỹ ở miền Nam Việt Nam từ 35.000 lên hơn 80.000, đồng thời chấp nhận đề nghị của Hội đồng tham mưu liên quân mở rộng các chiến dịch không kích miền Bắc, trừ các khu vực Hà Nội - Hải Phòng - Phúc Yên, ít nhất trong vòng nửa năm.
Từ nhiều nguồn của mạng tình báo chiến lược, những tin tức trên đây dần dần giúp cho cơ quan tham mưu Tổng hành dinh của ta nhận thức ngày càng rõ quá trình chuyển hướng chiến lược của đế quốc Mỹ.
63
Đúng trong dịp này, để chuẩn bị cho Hội nghị Trung ương sắp họp bàn về tình hình và nhiệm vụ sắp tới của cách mạng miền Nam, ngày 19/3/1965, Bí thư Quân ủy Trung ương Võ Nguyên Giáp triệu tập hội nghị Thường trực Quân ủy Trung ương sơ kết đợt 1 hoạt động quân sự ở chiến trường miền Nam (cuối năm 1964 - đầu năm 1965) và dự kiến phương hướng hoạt động đợt tiếp theo của năm 1965.
Thường trực Quân ủy Trung ương nhận định rằng đợt 1 vừa qua là đợt phối hợp chung toàn Miền, các chiến trường đánh tiêu diệt lớn rất tốt. Bộ đội chủ lực Miền tác chiến trội hơn cả, trong khi đó, riêng Khu 9 tác chiến có phần yếu hơn trước. Về
trình độ tác chiến cụ thể của bộ đội chủ lực, hội nghị Thường trực Quân ủy Trung ương nhận xét: Khả năng đánh tiêu diệt chủ lực địch ngoài công sự bằng vận động tiến công đã có tiến bộ. Cụ thể là đã tiêu diệt gọn từng tiểu đoàn, có trận diệt gần hai tiểu đoàn, như trận Phú Mỹ. Nhưng trình độ đánh công kiên còn kém, có trận thất bại, như trận đánh vào Kon Nách.
Về đợt 2, Thường trực Quân ủy Trung ương dự kiến bắt đầu vào tháng 5, lấy Khu 5 làm chiến trường chính, trọng điểm là Tây Nguyên, nhằm mục đích tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực của địch, giải phóng một phần Tây Nguyên, phối hợp với vùng duyên hải Khu 5, Quảng Trị, Thừa Thiên, Nam Bộ và với phong trào đấu tranh chính trị ở các đô thị. Ngoài phương hướng đợt 2, Bí thư Quân ủy Võ Nguyên Giáp cùng Thường trực Quân ủy đề xuất hai vấn đề cần nghiên cứu, đó là nếu địch chuyển từ "chiến tranh đặc biệt" sang "chiến tranh cục bộ" hoặc nếu địch co lại, quân Mỹ vào chốt ở Tây Nguyên thì ta xử trí như thế nào về mặt chiến lược.
Trước những tin tức về tình hình chuyển biến trên cả hai miền (nhất là sau khi những đơn vị quân Mỹ đầu tiên vào tham chiến),
64
từ ngày 25 đến ngày 27/3/1965, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị (đặc biệt) lần thứ 11, bàn về tình hình và nhiệm vụ cấp bách trước mắt của cách mạng miền Nam.
Sau khi nghe báo cáo tình hình chiến sự trên cả hai miền Nam - Bắc do Bí thư Quân ủy Trung ương Võ Nguyên Giáp trình bày và các báo cáo bổ sung của các ngành, hội nghị nhận định: Cuộc "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ ở miền Nam đã được đẩy tới mức độ cao, bao gồm một số yếu tố của "chiến tranh cục bộ". Chiến tranh đã vượt khỏi phạm vi miền Nam, lan ra miền Bắc, trước mắt dưới hình thức ném bom bắn phá bằng không quân... Rồi đây, địch có thể đưa thêm những đơn vị chiến đấu của Mỹ và một số nước chư hầu vào miền Nam ngày càng nhiều hơn, điều ấy sẽ làm cho tính chất "đặc biệt" của cuộc chiến tranh của chúng ở miền Nam từng bước có thể thay đổi... Chúng có thể tăng cường hoạt động ném bom bắn phá miền Bắc thường xuyên hơn, bằng những lực lượng không quân lớn hơn, trên phạm vi rộng hơn và nhằm nhiều mục tiêu hơn và chúng cũng còn có thể dùng tàu chiến để phong tỏa đường biển và tập kích một số vùng ở bờ biển miền Bắc.
Hội nghị Trung ương xác định: Nhiệm vụ cơ bản của ta là tích cực kiềm chế và thắng địch trong cuộc "chiến tranh đặc biệt" ở mức cao nhất ở miền Nam, ra sức tranh thủ thời cơ, tập trung lực lượng của cả nước giành thắng lợi quyết định ở miền Nam trong thời gian tương đối ngắn, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng đối phó và quyết thắng cuộc "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam nếu địch gây ra... Kiên quyết bảo vệ miền Bắc, đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại và phong tỏa bằng không quân và hải quân của địch, chuẩn bị sẵn sàng để đánh bại địch trong trường hợp chúng đưa cuộc chiến tranh phá hoại hiện nay đến một trình độ ác liệt gấp bội, hoặc chuyển nó thành một cuộc "chiến
65
tranh cục bộ" ở cả miền Nam lẫn miền Bắc; ra sức động viên lực lượng của miền Bắc chi viện cho miền Nam, ra sức giúp đỡ cách mạng Lào...
Để phù hợp với tình hình mới và để bảo đảm phát huy vai trò của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam, Ban Chấp hành Trung ương xác định nhiệm vụ cấp bách trước mắt của miền Bắc là:
1. Kịp thời chuyển hướng nền kinh tế và tăng cường lực lượng quốc phòng cho kịp với sự phát triển của tình hình; 2. Ra sức tăng cường công tác phòng thủ, trị an, bảo vệ miền Bắc;
3. Ra sức chi viện miền Nam, tích cực giúp đỡ cách mạng Lào; 4. Cùng với chuyển hướng nền kinh tế và tăng cường quốc phòng ở miền Bắc, cần phải kịp thời chuyển hướng tư tưởng và tổ chức nhằm đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ đã thay đổi; 5. Đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao cho phù hợp với tình hình mới.
Theo tinh thần Hội nghị Trung ương 11 và trước khả năng đế quốc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc quy mô lớn, nhất là trên địa bàn Quân khu 4, ngày 31/3/1965, Bí thư Quân ủy Trung ương Võ Nguyên Giáp triệu tập hội nghị Thường trực Quân ủy Trung ương bàn chuyển hướng công tác lãnh đạo và tổ chức lực lượng vũ trang miền Bắc. Hội nghị quyết định đặt nhiệm vụ
trọng tâm của Quân ủy Trung ương là lãnh đạo chiến tranh và đặt các lực lượng vũ trang vào trạng thái thời chiến. Cụ thể là: 1. Đặt lực lượng vũ trang miền Bắc vào tình thế "khôi phục lực lượng thời chiến về cơ bản";
2. Để khôi phục lực lượng vũ trang thời chiến phải tập trung vào việc tổ chức chặt chẽ, nâng cao chất lượng, bảo đảm cho lực
66
lượng vũ trang miền Bắc thật mạnh và sẵn sàng chiến đấu đồng thời đáp ứng yêu cầu chi viện miền Nam;
3. Lực lượng khôi phục gồm 10 sư đoàn bộ binh đầy đủ quân số, Lữ đoàn 305, 6 trung đoàn độc lập, 5 trung đoàn không quân, 3 trung đoàn xe tăng1;
4. Nâng tổng quân số lên 30 - 35 vạn;
5. Nghiên cứu chuyển ra ngoài quân đội lực lượng thuộc công nghiệp quốc phòng (hiện có 4.500 người).
Ngay sau đó, ngày 2/4, Bí thư Quân ủy Trung ương Võ Nguyên Giáp triệu tập hội nghị Quân ủy Trung ương bàn và xác định một số vấn đề về nhiệm vụ và phương hướng công tác sắp tới đối với chiến trường miền Nam, theo tinh thần Hội nghị 11 của Ban Chấp hành Trung ương.
Đánh giá đợt hoạt động đông - xuân 1964-1965, Quân ủy Trung ương khẳng định quân và dân miền Nam đã giành được những thắng lợi to lớn cả về quân sự và chính trị, cả ở nông thôn, rừng núi và đô thị, đã bước đầu khắc phục được tình trạng không đồng đều giữa các chiến trường, đã làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch có lợi cho ta, đẩy địch vào thế bị động, lúng túng và đặt chúng trước nguy cơ sụp đổ hoàn toàn. Trước tình thế khó khăn của quân đội và chính quyền Sài Gòn, đế quốc Mỹ đã đưa một số đơn vị thủy quân lục chiến và đưa thêm không quân vào miền Nam, tăng thêm viện trợ và cố vấn cho quân đội ngụy, tăng cường đánh phá miền Bắc bằng không quân, làm cho cuộc "chiến tranh đặc biệt" ở miền Nam lên đến
___________
1. Mười sư đoàn bộ binh gồm: 304, 308, 312, 316, 320, 324, 325, 330, 338, 341; 6 trung đoàn độc lập gồm: 3 trung đoàn của Quân khu 4, Trung đoàn 335 của Tây Bắc, Trung đoàn 57 của Quân khu 3 và Trung đoàn 246 của Việt Bắc.
67
mức độ cao, bao gồm một số nhân tố của "chiến tranh cục bộ", đã vượt ra khỏi phạm vi miền Nam, lan ra miền Bắc dưới hình thức đánh phá bằng không quân.
Về âm mưu sắp tới của địch, Quân ủy Trung ương nhận định: Mỹ rất mong ổn định tình hình chính trị ở Sài Gòn và cải thiện tình hình quân sự, thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho chúng và khi cần thiết thì mở rộng "chiến tranh cục bộ". Trước mắt, chúng sẽ tìm mọi cách bảo tồn lực lượng quân đội Sài Gòn, giữ vững các vị trí chiến lược và trung tâm chính trị, tăng cường phi pháo và các thủ đoạn thâm độc khác để tiêu hao lực lượng của ta và ngăn chặn quân ta đánh lớn, phong tỏa đường biển, đánh phá hành lang và vùng giải phóng Trung - Hạ Lào; đánh phá miền Bắc bằng không quân, đồng thời chuẩn bị các vị trí chiến lược để có thể từng bước đưa thêm quân chiến đấu trên bộ của Mỹ và một số nước chư hầu vào chiến trường miền Nam.
Theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị 11 của Ban Chấp hành Trung ương, Quân ủy Trung ương xác định nhiệm vụ sắp tới của miền Nam là: Nắm vững và tận dụng thời cơ thuận lợi, kịp thời và mạnh bạo tập trung lực lượng đẩy mạnh đấu tranh vũ trang, đấu tranh chính trị và vận động binh lính địch, nhằm tiêu diệt và làm tan rã một bộ phận quan trọng chủ lực ngụy, làm cho địch rối loạn cao độ về chiến lược, suy sụp hoàn toàn về chính trị, tạo điều kiện chín muồi để thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa giành thắng lợi quyết định trong một thời gian ngắn, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng để đối phó và quyết thắng cuộc "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam nếu địch gây ra.
Quân ủy Trung ương khẳng định: Tích cực tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận quân đội ngụy và chính quyền tay sai, tăng
68
cường thế và lực của ta về mọi mặt, nhất là lực lượng vũ trang, củng cố, mở rộng căn cứ cách mạng, tạo điều kiện chín muồi để thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa thành công là phương hướng để đánh bại cuộc "chiến tranh đặc biệt" của địch, đồng thời cũng là sự chuẩn bị tốt để đối phó có hiệu quả và đánh bại
địch nếu chúng chuyển thành "chiến tranh cục bộ". Về phương hướng, nhiệm vụ của quân và dân miền Nam trong thời gian tới, Quân ủy Trung ương xác định: 1. Điều kiện cơ bản nhất để giành thắng lợi quyết định là gấp rút tăng cường lực lượng của ta, nhất là lực lượng vũ trang, ra sức tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận quân đội tay sai của địch; 2. Kiên quyết tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân chủ lực ngụy, làm tan rã đại bộ phận quân đội Sài Gòn;
3. Ra sức phát triển lực lượng chính trị, lực lượng nửa vũ trang ở đô thị, tích cực chuẩn bị tổng khởi nghĩa; 4. Ra sức củng cố và mở rộng vùng giải phóng, xây dựng hậu phương vững mạnh phục vụ tiền tuyến;
5. Tích cực bảo đảm vật chất cho bộ đội chiến đấu, củng cố, mở rộng và bảo đảm đường vận tải, các bến, các hành lang vận chuyển;
6. Tăng cường công tác lãnh đạo tư tưởng, động viên chính trị, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng.
Riêng với chiến trường Trung Trung Bộ, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp bàn và thống nhất với các đồng chí Văn Tiến Dũng và Trần Văn Quang về nhiệm vụ của Quân khu 5 để thảo luận trong Quân ủy Trung ương tại hội nghị sắp tới như sau: Khẩn trương, mạnh bạo tiến công diệt từng tiểu đoàn, trung đoàn địch, giải phóng Tây Nguyên; bao vây cô lập, chốt địch ở
đồng bằng; mở rộng căn cứ, tiến tới giải phóng đồng bằng; đẩy
69
mạnh hoạt động ở đô thị. Các đồng chí nhấn mạnh phương châm hoạt động lúc này ở Khu 5 là kết hợp chính trị với quân sự, tập trung lực lượng tiêu diệt tiểu đoàn, trung đoàn địch, đánh liên tục nhiều nơi; diệt sinh lực địch ngoài công sự là chính, cần thiết thì đánh địch trong công sự; tạo thời cơ và tranh thủ thời cơ giành thắng lợi trong "chiến tranh đặc biệt" đồng thời chuẩn bị sẵn sàng đối phó với "chiến tranh cục bộ". Phấn đấu trong mùa khô 1965-1966 diệt khoảng 15 tiểu đoàn địch, giải phóng Tây Nguyên và giải phóng căn bản một số tỉnh đồng bằng.
Ngày 7/4/1965, Thường trực Quân ủy Trung ương họp tiếp, thảo luận nhiệm vụ và phương hướng công tác sắp tới của chiến trường Trung Trung Bộ. Hội nghị xác định một trong những nhiệm vụ chủ yếu mà chiến trường Trung Trung Bộ phải kiên quyết thực hiện là: Kịp thời, mạnh bạo tăng cường và tập trung lực lượng vũ trang thành những khối chủ lực mạnh, tổ chức những đợt tiến công liên tục, ra sức tiêu diệt từng tiểu đoàn, trung đoàn địch, làm tan rã một bộ phận quan trọng quân chủ lực ngụy, căn bản giải phóng Tây Nguyên và vùng giáp ranh các tỉnh, chia cắt, bao vây cô lập địch, tạo điều kiện không những cho đồng bằng và đô thị Trung Trung Bộ mà cho cả miền Nam tiến tới tổng công kích, tổng khởi nghĩa.
Về phương hướng các công tác lớn của chiến trường Trung Trung Bộ, Thường trực Quân ủy Trung ương dự kiến: Từ cuối năm 1965 đến giữa năm 1966, căn bản giải phóng Tây Nguyên và đại bộ phận nông thôn đồng bằng các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, tạo thành một căn cứ tương đối hoàn chỉnh từ biên giới đến bờ biển. Về yêu cầu nhiệm vụ, Thường trực Quân ủy Trung ương xác định: bước 1, căn bản giải
70
phóng tỉnh Kon Tum và tây Quảng Ngãi, Bình Định; bước 2, căn bản giải phóng các tỉnh Gia Lai, Phú Bổn và đại bộ phận đồng bằng Phú Yên, nam Bình Định và bắc Quảng Nam.
Để bảo đảm việc vận chuyển thông suốt trên đường chiến lược 559, ngày 3/4/1965, Thường trực Quân ủy Trung ương giao cho Bộ Tư lệnh Đoàn 559 nhiệm vụ mở đường và tổ chức vận chuyển chi viện cho các chiến trường Khu 5 và Hạ Lào. Ngoài ra, Bộ Tư lệnh Đoàn 559 còn có nhiệm vụ bảo vệ hành lang, đánh máy bay và chống biệt kích địch phá hoại, bảo đảm vật chất và an toàn cho các lực lượng hành quân.
Lúc này, dưới sự chỉ huy và lãnh đạo thống nhất của Bộ Tư lệnh và Đảng ủy Đoàn 559, trên đường vận chuyển chiến lược đã hình thành ba lực lượng chính: lực lượng mở đường mới, giữ gìn và sửa chữa đường cũ; lực lượng vận chuyển, giữ kho; lực lượng bảo vệ. Để bảo đảm cho Đoàn 559 hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ hành lang, bảo vệ hàng hóa và các lực lượng hành quân, Bộ Tổng tham mưu quyết định cho tổ chức thêm 3 tiểu đoàn cao xạ hỗn hợp 37 ly và 14 ly 5, 6 đại đội trọng liên 12 ly 7, đồng thời điều thêm 2 tiểu đoàn cao xạ của Quân khu 4 về trực thuộc Đoàn 559.
Cũng trong dịp này, Bộ Chính trị quyết định điều đồng chí Dương Quốc Chính thay đồng chí Đồng Sỹ Nguyên làm Chính ủy Khu 4; đồng chí Đồng Sỹ Nguyên vào làm Tư lệnh Đoàn 559.
Để bảo đảm tuyển binh đủ quân số triển khai kế hoạch khôi phục lực lượng vũ trang thời chiến, tăng cường lực lượng bảo vệ miền Bắc và chuẩn bị đợt chi viện sắp tới cho miền Nam, đầu tháng 4/1965, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Võ Nguyên Giáp làm tờ trình, đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra quyết định động viên (cục bộ) một bộ phận sĩ quan dự bị, một bộ phận hạ sĩ quan
71
và binh sĩ dự bị loại 1 và loại 2, cán bộ, nhân viên kỹ thuật, sinh viên theo nhu cầu, tỷ lệ thích đáng1.
Cuối tháng 3, Tổng Tư lệnh triệu tập hội nghị, gồm một số thủ trưởng các Tổng cục nghe Bộ Tổng tham mưu báo cáo kết quả tổng kết công tác huấn luyện năm 1964 và bàn kế hoạch huấn luyện năm sau. Báo cáo của Bộ Tổng tham mưu chỉ rõ: công tác huấn luyện cán bộ chỉ huy và cơ quan trong năm qua đã cố gắng xoay quanh nhiệm vụ chiến đấu của từng đơn vị, từng binh chủng, quân chủng và địa phương. Ưu điểm nổi lên trong năm qua là do cải tiến phương pháp và đưa dần vào nền nếp nên công tác huấn luyện cán bộ chỉ huy và cơ quan tiến bộ
rõ rệt, có điều kiện để bảo đảm nhiệm vụ chiến đấu. Điểm yếu là chưa quán triệt quan điểm quân sự của Đảng, trình độ hiểu biết về địch còn chung chung, chưa đủ cơ sở để vận dụng các hình thức và thủ đoạn tác chiến thích hợp. Về huấn luyện bộ
đội, nhiều đơn vị đã cố gắng huấn luyện sát thực tế chiến đấu hơn trước, đặc biệt là biết vận dụng những kinh nghiệm thực tế chiến đấu vào công tác huấn luyện, nhất là huấn luyện kỹ thuật và rèn luyện sức cơ động. Tuy nhiên, qua kiểm nghiệm trong thực tế những trận đánh địch khiêu khích phá hoại miền Bắc cũng như trong chiến đấu trên chiến trường miền Nam và Lào, nhận thấy mặt hạn chế là động tác chiến đấu của cá nhân và ___________
1. Ngày 21/4/1965, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định động viên một bộ phận sĩ quan, hạ sĩ quan và công dân thuộc ngạch dự bị. Ngày 5/5/1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Lệnh động viên số 47/LCT, động viên một bộ phận sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ dự bị và một bộ phận công dân thuộc ngạch dự bị của quân đội, nhưng chưa phục vụ tại ngũ. Tiếp đó, ngày 11/5/1965, Thủ tướng ra chỉ thị động viên một bộ phận thanh niên, học sinh, cán bộ khoa học kỹ thuật, công nhân kỹ thuật và quân nhân đã xuất ngũ.
72
phân đội chưa thật thuần thục, sức cơ động đã tiến bộ nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ chiến đấu; việc huấn luyện chiến thuật, kỹ thuật chưa kết hợp chặt chẽ với rèn luyện về tư tưởng và tác phong chiến đấu.
Do tình hình khẩn trương, bộ đội phải sẵn sàng chiến đấu nên Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp chỉ thị Bộ Tổng tham mưu không tập trung cán bộ toàn quân về dự Hội nghị tổng kết huấn luyện năm 1964 và phổ biến chỉ thị huấn luyện năm 1965 như
mọi năm mà tổ chức các đoàn cán bộ xuống các quân khu, quân binh chủng truyền đạt các văn kiện tổng kết huấn luyện của Bộ. Việc truyền đạt phải thực hiện khẩn trương và hoàn thành sớm, tạo điều kiện thuận lợi để các đơn vị có thêm thời gian triển khai huấn luyện sớm. Về phương hướng huấn luyện năm tới, Tổng Tư lệnh chỉ thị Bộ Tổng tham mưu quan tâm chỉ đạo khắc phục những hạn chế trên đây, coi trọng việc quán triệt đường lối quân sự của Đảng, tiếp tục cải tiến nội dung và phương pháp huấn luyện, nhanh chóng thống nhất các hình thức chiến thuật trong toàn quân, sao cho bộ đội sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ chiến đấu trên các chiến trường.
Bước sang năm 1965, việc chỉ đạo cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên miền Bắc là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Tổng hành dinh được Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp hết sức coi trọng. Trước âm mưu mới của địch, đồng chí cùng các cơ quan Bộ Quốc phòng tập trung chỉ đạo triển khai các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương và của Quân ủy Trung ương về phòng không nhân dân bảo vệ miền Bắc. Trong lực lượng vũ trang phòng không miền Bắc lúc này, Quân chủng Phòng không - Không quân là lực lượng phòng không chủ yếu của quân đội, là lực lượng nòng cốt của chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của
73
đế quốc Mỹ, trong đó pháo cao xạ là lực lượng chủ yếu, không quân là lực lượng quan trọng.
Đúng như phán đoán của ta, để triển khai lực lượng đánh phá miền Bắc, trong hai tháng 2 và 3/1965, hai hàng không mẫu hạm Mỹ cùng với 130 - 140 máy bay chiến đấu - thường xuyên có mặt ở khu vực vĩ tuyến 17, cách bờ biển chừng 200 kilômét. Ngoài ra, địch còn huy động các máy bay từ các căn cứ Đà Nẵng, Biên Hòa, Cò Rạt (Thái Lan). Trong tháng 3, chiến tranh phá hoại của địch đã lan ra bắc Khu 4, khu vực đảo Bạch Long Vĩ, nhằm chủ yếu vào các mục tiêu quân sự. Quy mô lực lượng tăng dần so với trước. Trong 12 trận đánh phá trong tháng 3, có 5 trận địch dùng từ 80 đến 120 máy bay (F.100, F.105, B.57,...) còn lại là từ 8 đến 70 chiếc. Theo dự kiến của Cục Tình báo thì sắp tới số trận đánh huy động hàng trăm máy bay có thể nhiều hơn nhưng chúng không thể tiến hành liên tục kéo dài.
Về kế hoạch tăng cường bảo vệ miền Bắc theo tinh thần Hội nghị Trung ương 11, cùng với việc quyết định thành lập Trung đoàn Công binh công trình và làm đường (trước mắt là phục vụ kế hoạch làm đường chiến lược 912) và việc chỉ thị cho các cơ quan Bộ Quốc phòng chuẩn bị kế hoạch sơ tán một số cơ quan Bộ ra vùng ngoại thành, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp cùng Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng bàn và quyết định việc tổ chức, triển khai lực lượng phòng không - không quân sẵn sàng đối phó với âm mưu địch mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc. Tiếp đó, ngày 29/3/1965, Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng triệu tập hội nghị, gồm các đồng chí Trần Sâm, Trần Quý Hai và Bộ Tư lệnh Phòng không - Không quân (các đồng chí Phùng Thế Tài và Đặng Tính) bàn và quyết định việc triển khai lực lượng. Tình hình đòi hỏi phải đặt lực lượng phòng không - không quân vào thời chiến, trong điều kiện địch tiến
74
hành chiến tranh phá hoại đánh phá miền Bắc quy mô lớn để phối hợp với ý đồ chiến lược chuyển sang "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam. Hội nghị duyệt lại các mục tiêu quan trọng cần được bảo vệ ở miền Bắc. Cụ thể là sắp xếp theo thứ tự mục tiêu chiến lược, mục tiêu chiến dịch và các mục tiêu nhỏ hơn, làm cơ sở để triển khai cho phù hợp với khả năng từng binh chủng không quân, tên lửa, pháo cao xạ và súng máy phòng không của lực lượng vũ trang địa phương. Hội nghị không loại trừ khả năng địch tập kích vào Hà Nội và Hải Phòng. Tình huống này xảy ra sẽ được đánh giá là đỉnh cao nhất của chiến tranh phá hoại vì đó sẽ là những trận tập kích đường không mang tính chiến lược của địch.
Hội nghị nhấn mạnh mấy vấn đề cần nắm vững trong bố trí lực lượng hiện có là: nắm vững trọng điểm và có lực lượng cơ động; phối hợp thống nhất và có phân công rõ ràng giữa các lực lượng; đảm bảo sự vững chắc, linh hoạt, cơ động, bí mật, ngụy trang chu đáo. Về tổ chức và chỉ huy, hội nghị quyết định tổ chức thêm Bộ Tư lệnh Phòng không Hà Nội, Hải Phòng; lực lượng phòng không dã chiến nên tổ chức thành sư đoàn, nhưng lực lượng không quân và bộ đội rađa chưa nên tổ chức thành sư đoàn. Riêng trên địa bàn Quân khu 4, do địch tăng cường đánh phá nhiều mục tiêu từ đầu năm 1965, hội nghị quyết định tăng cường cho Quân khu 4 sáu tiểu đoàn cao xạ. Yêu cầu đặt ra cho Bộ Tư lệnh Phòng không - Không quân là sau khi bàn giao cho quân khu, phải chỉ đạo các đơn vị trên nhanh chóng kiện toàn về các mặt tổ chức biên chế để sẵn sàng chiến đấu trước ngày 30/4/1965.
Ngày 5/4/1965, các đồng chí Võ Nguyên Giáp và Văn Tiến Dũng xuống thăm Bộ Tư lệnh Phòng không - Không quân và Trung đoàn không quân 921. Sau khi nghe Đại tá Phùng Thế Tài,
75
Tư lệnh Quân chủng báo cáo về hai trận chiến đấu đầu tiên của không quân trong các ngày 3 và 4/4/1965, Tổng Tư lệnh đánh giá: Không quân ta trẻ tuổi nhưng rất anh hùng. Đây là trận thắng toàn diện của Không quân nhân dân Việt Nam. Từ thực tế trận đầu ra quân thắng lợi của bộ đội không quân, Tổng Tư
lệnh và Tổng tham mưu trưởng nhắc nhở Bộ Tư lệnh phải thường xuyên quán triệt tư tưởng tích cực, chủ động, liên tục tiến công tiêu diệt địch, bảo vệ mục tiêu đi đôi với bồi dưỡng lực lượng ta để càng đánh càng mạnh. Các đồng chí cũng gợi ý Bộ
Tư lệnh Phòng không - Không quân, từ thực tế hoạt động vừa qua của không quân địch, chuẩn bị ý kiến đề đạt thêm về triển khai lực lượng phòng không bảo vệ miền Bắc trong hội nghị chuyên đề sắp tới.
Ngày 15/4, Thủ trưởng Bộ Tổng tham mưu triệu tập cuộc họp thủ trưởng Bộ Tư lệnh Quân khu 3, Bộ Tư lệnh Phòng không - Không quân, Cục Tình báo và Cục Tác chiến, tập trung bàn biện pháp đối phó với tình huống địch mở rộng chiến tranh phá hoại. Theo báo cáo của Cục Tình báo, trong thời gian tới địch sẽ đưa thêm vào miền Nam khoảng 6 vạn quân, tập trung vào các Vùng chiến thuật 1 và 3; tăng thêm 60 máy bay (F.105 và F.4); từ cuối tháng 4 - đầu tháng 5 sẽ đánh phá bốn tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình, nhằm vào các cầu trên đường quốc lộ và các mục tiêu quân sự ven biển. Tại vùng cán xoong, địch dự định đánh phá hai, ba đợt mỗi tháng, tập trung vào Cồn Cỏ, đèo Ngang, phà sông Gianh, các cầu trên đường 7, đường 8.
Sau khi thảo luận, hội nghị thống nhất về phương hướng điều chỉnh bố trí lực lượng phòng không trên miền Bắc, tăng cường hỏa lực cho Quân khu 3, bàn phương án triển khai thêm hai sân bay, sử dụng không quân tập kích hàng không mẫu hạm địch và một số biện pháp nhằm bảo đảm đánh địch được
76
liên tục, bảo vệ được trọng điểm đồng thời giữ gìn được lực lượng ta.
Theo chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Võ Nguyên Giáp, để chủ động đề phòng địch mở rộng "chiến tranh cục bộ" ra miền Bắc, từ ngày 6 đến ngày 8/4/1965, các thủ trưởng Bộ Tổng tham mưu đã họp với Cục Tác chiến bàn chuyên đề về kế hoạch bảo vệ hậu phương lớn. Hội nghị nhận định: Cùng với việc tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân, trong thời gian tới địch có thể kết hợp chiến tranh phá hoại với tiến công cục bộ ra Khu 4 từ phía Lào; hoặc tiến hành "chiến tranh cục bộ" toàn miền Bắc, thậm chí chúng có thể làm từng bước, phát triển rộng ra cả một số nước ở Đông Nam Á. Cũng có thể địch mở rộng "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam, rồi từ đó tiến hành "chiến tranh cục bộ" đối với miền Bắc (cục bộ trong cục bộ) và cũng tiến hành từ thấp, hẹp lên cao, rộng.
Hội nghị xác định: để không bị động về chiến lược, ta cần khẩn trương xây dựng kế hoạch và triển khai lực lượng chiến lược nhằm sẵn sàng đối phó với các tình huống có thể xảy ra. Một kế hoạch tác chiến chiến lược cùng với những dự kiến triển khai lực lượng trên các hướng trên toàn miền Bắc đã được dự
thảo để báo cáo Quân ủy Trung ương1.
___________
1. Quân khu 4: 3 sư đoàn và 3 trung đoàn; Quân khu 3: 3 sư đoàn và 1 trung đoàn; Quân khu Việt Bắc: 4 trung đoàn bộ binh và một số đơn vị hỏa lực; Quân khu Tây Bắc: 1 sư đoàn và 1 trung đoàn; Quân khu Đông Bắc: 1 trung đoàn, 4 tiểu đoàn và một số đơn vị hỏa lực trên các khu vực phòng thủ (Cát Bà, Do La, Cát Hải, Bãi Cháy, Vạn Hoa, Tiên Yên, Cô Tô). Nói chung không bố trí chủ lực trong khu vực Hà Nội, có thể chỉ bố trí một số đơn vị hỏa lực pháo binh hoặc thiết giáp; lực lượng chiến đấu trong thành phố là tự vệ (có thể tổ chức thành tiểu đoàn, trung đoàn ở từng khu vực). Về tác chiến, khi có chiến tranh, Hà Nội thuộc Quân khu 3. Lực lượng dự bị chiến lược của Bộ gồm 3 sư đoàn bộ binh, 2 lữ đoàn lựu pháo, 4 trung đoàn pháo nòng dài, 1 lữ đoàn dù, 2 trung đoàn xe tăng.
77
Sau Hội nghị 11 của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị quyết định giao cho đồng chí Võ Nguyên Giáp phụ trách thêm Ban công tác Lào (tức cơ quan CP31 của Trung ương Đảng). Từ đầu tháng 4, Tổng Tư lệnh dành thời gian cùng Thường trực Quân ủy Trung ương trao đổi thêm về tình hình Lào trong thời gian qua.
Theo báo cáo của Cục Tình báo, từ sau cuộc đảo chính ngày 19/4/1964, mâu thuẫn trong nội bộ tay sai của Mỹ ở Lào ngày càng phức tạp, gay gắt. Càng về cuối năm 1964, đặc điểm các hoạt động của Mỹ trên chiến trường Lào cho thấy rõ chúng không chỉ nhằm mục tiêu chống phá Pathét Lào mà còn nhằm chống phá miền Bắc nhằm đỡ đòn cho thất bại của chúng ở
miền Nam. Mỹ tìm mọi cách hạn chế mâu thuẫn trong lực lượng thân Mỹ ở Lào, đồng thời hết sức né tránh Hội nghị Genève nhằm giải quyết vấn đề Lào bằng thương lượng.
Cục Tình báo dự đoán có nhiều khả năng trong thời gian tới, Mỹ vẫn duy trì đường lối chiến lược trong trạng thái nhùng nhằng cả về chính trị lẫn quân sự như hiện nay. Chúng không dám xóa bỏ hẳn Hiệp định Genève về Lào. Chính phủ liên hiệp vẫn được duy trì (dù chỉ là hình thức) trong khi những hoạt động quân sự có thể sẽ tăng dần lên, đáng chú ý là vùng hành lang vận chuyển chiến lược, các khu vực Sầm Nưa, Xiêng Khoảng, Cánh Đồng Chum...
Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp tranh thủ nghe thêm Phó Tổng tham mưu trưởng Vương Thừa Vũ (vừa đi kiểm tra tình hình Tây Bắc về) báo cáo tình hình Trung đoàn 335 trong và sau chiến dịch Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng. Bộ đội đã hoàn thành được một số nhiệm vụ, đánh một số trận, nhưng tồn tại nhiều vấn đề về tư tưởng, tổ chức biên chế và trình độ chiến thuật, kỹ thuật. Bộ Tổng tham mưu đã chỉ đạo Quân khu
78
"""