" Tôi Tin 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tôi Tin Ebooks Nhóm Zalo Nội dung VỀ TÁC GIẢ CHƯƠNG I. DẪN NHẬP CHƯƠNG II. ALGERNON TỰ TӰ CHƯƠNG III. LÀM QUEN VỚI THẾ GIỚI BÊN KIA CHƯƠNG IV. TỘI ÁC TỰ SÁT CHƯƠNG V. SỰ PHÁN XÉT CHƯƠNG VI. TÁI SINH CHƯƠNG VII. TRẢ QUẢ CHƯƠNG VIII. CON LẮC CUỘC ĐỜI CHƯƠNG IX. THƯӦNG ĐẾ VÀ CÁC THẾ GIỚI CHƯƠNG X. PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG PHỤ NỮ CHƯƠNG XI. LỜI KẾT VỀ TÁC GIẢ Tuesday Lobsang Rampa tự nhận mình là linh hồn một vị Lạt ma người Tây Tạng đã mượn tạm xác của một người Anh tên là Cyril Hoskin (8 tháng 4 năm 1910 - 25 tháng 1 năm 1981). Cái tên Tuesday (thứ Ba) liên quan đến lời ông kể rằng các quý tộc người Tây Tạng được đặt tên theo ngày mà họ sinh ra. Vào tháng 11 năm 1956, cuốn sách đầu tiên với tựa đề The Third Eye (Con mắt thứ ba hay Tây Tạng huyền bí) được xuất bản ở Anh. Cuốn sách kể lại những kinh nghiệm của ông khi lớn lên trong một tu viện ở Tây Tạng từ năm lên bảy tuổi. Tựa đề cuốn sách liên quan đến một cuộc phẫu thuật trên trán để mở ra con mắt thứ ba làm tăng cường khả năng nhìn hào quang của ông. Trong cuốn The Rampa story (Câu chuyện của Rampa) và Doctor from Lhasa (Bác sỹ từ Lhasa), ông kể rằng thân xác ông đã bị hủy hoại nặng nề vì những đòn tra tấn của phát xít Nhật nên đã mượn xác của Cyril Henry Hoskin để viết ra những cuốn sách ký tên là Lobsang Rampa. Ông Cyril là một người thợ sửa ống nước, sau khi hồn của Tu sĩ Bác sĩ Rampa nhập vào mới bắt đầu viết những cuốn sách về Tây Tạng. Theo lời nhà xuất bản Secker & Warburg, tác giả Lobsang Rampa đã cung cấp tài liệu chứng minh rằng ông có bằng y khoa của Đại học Trùng Khánh, và trong các văn bằng đó ông được mô tả là một vị Lạt Ma của tu viện Potala ở Lhasa. Nhiều cuộc trò chuyện cá nhân của NXB với ông đã chứng minh ông là một người có quyền năng và tri thức khác thường. Về cuộc sống cá nhân của mình, ông thể hiện sự dè dặt đôi khi khó hiểu; nhưng mọi người đều có quyền riêng tư và Lobsang Rampa có thái độ như vậy có lẽ để che giấu sự an toàn cho gia đình ông vẫn đang sống ở mảnh đất Tây Tạng hiện đang do Trung Quốc quản lý. Thật vậy, một số chi tiết, chẳng hạn như vị trí thực của cha ông ở Tây Tạng, đã được cố tình ngụy trang vì mục đích này. Vì những lý do trên, Tác giả buộc phải nhận và đã tự nguyện nhận trách nhiệm duy nhất về những về những gì ông viết trong sách. Ta có thể cảm thấy rằng đâu đó ông đã dành được sự tin tưởng của người phương Tây, dù cái nhìn của người phương Tây về vấn đề những cuốn sách nói tới rất khó để khẳng định. Các sách viết bởi tác giả T. Lobsang Rampa Con mắt thứ ba hay Tây Tạng Huyền bí - (The Third Eye - Lần đầu xuất bản năm 1956). Đây là cuốn sách đầu tiên, một cuốn tự truyện về cuộc hành trình của một thanh niên trẻ để trở thành một vị Lạt ma y tế và trải qua phẫu thuật để mở con mắt thứ ba. Chúng ta có được cái nhìn thoáng qua về cuộc sống trong tu viện lạt ma ở Tây Tạng và hiểu biết sâu sắc về kiến thức tâm linh. Cho đến thời điểm này cuộc sống trong các tu viện lạt ma ở Tây Tạng vẫn chưa được biết đến, ngay cả với một số ít người đã thực sự viếng thăm Tây Tạng. Lobsang đã vào tu viện Chakpori ở Tây Tạng và được học những điều bí mật nhất của khoa học Tây Tạng bí truyền và nhiều điều hơn nữa. Bác sĩ từ Lhasa - (Doctor from Lhasa - Lần đầu xuất bản năm 1959) câu chuyện tiếp tục với việc Lobsang rời Lhasa và sống ở Trùng Khánh, Trung Quốc. Ở đây, ông đẩy mạnh nghiên cứu y khoa, học lái máy bay và cuối cùng bị người Nhật bắt và tra tấn. Lobsang trải qua thời gian rất dài sống trong trại tập trung, làm việc như các nhân viên y tế chính thức cho đến ngày ông trốn thoát. Lobsang là một trong số rất ít người còn sống sót khi quả bom nguyên tử đầu tiên ném xuống Hiroshima. Trong cuốn sách ông cũng hướng dẫn làm thế nào để sử dụng một quả cầu pha lê cho khoa chiêm tinh và tập thở để cải thiện sức khỏe. Câu chuyện của Rampa - (The Rampa Story - Lần đầu xuất bản năm 1960), hành trình của Bác sĩ Rampa tiếp tục khi ông đi từ Hàn Quốc vào Nga, qua Châu Âu, đi thuyền sang Mỹ, cuối cùng kết thúc ở Anh. Lobsang bị bắt và tiếp tục chịu đựng sự tra tấn cho đến khi một lần nữa, ông trốn thoát bằng cách lái chiếc xe ô tô sang trọng. Trong cuốn sách này, Lobsang cho biết ông đã mượn tạm thân xác của một người đàn ông người Anh tên là Cyril Henry Hoskins, người mong muốn rời khỏi thế giới này, để tiếp tục nhiệm vụ đặc biệt của mình. Hang đá của người cổ đại - (The Cave of the Ancients – Lần đầu xuất bản năm 1963), cuốn sách cho ta một cái nhìn thoáng vào lịch sử đã qua của Trái đất và những cư dân của nó thời đó, những người đã giấu các thiết bị kỹ thuật cao mà cho đến ngày nay vẫn còn bí ẩn. Lobsang cùng với Thầy của ông, Đại Đức Lạt Ma Mingyar Dondup, đã đến thăm nơi mà công nghệ này được cất giấu và nhìn thấy tận mắt thiết bị tuyệt vời này. Công nghệ này vẫn đang chờ đợi những người có thể sử dụng nó cho lợi ích của nhân loại và thời gian đó đang đến gần. Sống với vị Lạt Ma - (Living with the Lama – Lần đầu xuất bản năm 1964), cuốn sách được một trong những con mèo của Bác sĩ Rampa, Fifi Greywhiskers, đọc cho ông viết bằng ngoại cảm,. Loài vật không câm như nhiều người nghĩ, chúng ta mới câm so với tất cả các loài động vật. Tất cả các loài động vật đều có thể giao tiếp thông qua thần giao cách cảm, con người cũng có khả năng này nhưng đã bị ngăn chặn do bản chất xấu xa của họ. Fifi nói về cuộc sống của mình trước khi gặp Bác sĩ Rampa và những cuộc hành trình họ đã cùng bên nhau. Bạn là mãi mãi - (You Forever – Lần đầu xuất bản năm 1965) là cuốn sách đầu tiên trong hai cuốn sách tự luyện tập siêu hình học. Cuối cùng, chân lý! Cuốn sách này giải thích bằng những thuật ngữ đơn giản rõ ràng làm thế nào để bắt đầu học một vài kỹ năng siêu hình và những điều có thể làm, những điều không được làm để đạt được mục tiêu đó. Các nội dung được nói tới gồm du hành bằng thể vía, thần giao cách cảm, thấu thị, hào quang và nhiều hơn nữa. Trí tuệ người xưa - (Wisdom of the Ancients – Lần đầu xuất bản năm 1965) là cuốn sách thứ hai trong hai cuốn sách tự luyện tập siêu hình học. Trong cuốn sách này Lobsang giải thích ý nghĩa hoặc nhiều từ huyền bí theo một dạng dễ hiểu cho người phương Tây. Nhiều bài tập về thở, về đá, về chế độ ăn kiêng và tại sao bạn không nên tập thể dục. Chiếc áo cà sa - (The Saffron Robe – Lần đầu xuất bản năm 1966) cuốn sách đưa ra nhìn sâu sắc hơn nữa vào cuộc sống của Bác sĩ Rampa trong Lạt ma viện với người Thầy cao quý của ông, Đại Đức Lạt Ma Mingyar Dondup. Nguồn gốc của Phật giáo, với những câu chuyện có thực về Thái tử Gautama, và làm thế nào Ngài trở thành Đức Phật với Tứ diệu đế. Các chương của cuộc đời - (Chapters of Life – Lần đầu xuất bản năm 1967) Bác sĩ Lobsang nói về các chiều, về các thế giới song song và những lời tiên tri, cung cấp cho người đọc một sự hiểu biết sâu sắc hơn. Tác giả cũng trả lời các câu hỏi về tôn giáo nói chung và Kitô giáo nói riêng. Tôn giáo phục vụ một mục đích mà nhiều người bỏ qua khi chúng ta có thể thấy rõ xã hội và cộng đồng đang ngày càng mục nát. Vượt lên chiều thứ mười - (Beyond the Tenth – Lần đầu xuất bản năm 1969) Cuốn sách gồm những câu hỏi và lời giải đáp đầu tiên này. Bác sĩ Rampa đưa ra lời tư vấn, giảng dạy để chăm sóc cho cơ thể vật chất và tinh thần của bạn, mục đích của cuộc sống, cái chết, tái sinh và UFO. Một vài liệu pháp thảo dược cho những căn bệnh thông thường. Bác sĩ Rampa cũng hướng dẫn cách bắt đầu cho những người thực sự muốn biết làm thế nào để nhìn thấy hình ảnh hào quang. Nuôi dưỡng ngọn lửa - (Feeding the Flame – Lần đầu xuất bản năm 1971) mười cuốn sách đầu tiên đã cố gắng để thắp sáng ngọn nến, nhưng bây giờ chúng ta phải nuôi dưӥng ngọn lửa đó, ngọn lửa của cuộc đời. Nhiều câu trả lời cho những câu hỏi của người đọc. Bằng chứng xác thực về luân hồi bằng cách trích dẫn một ví dụ trong lịch sử và giải thích sự kiện đó một cách chi tiết. Ẩn sĩ - (The Hermit – Lần đầu xuất bản năm 1971), Bác sĩ Lobsang gặp một ẩn sĩ mù để tiếp tục việc học của mình và phát hiện về những người đầu tiên sống trên trái đất, những người này được gọi là Người Làm Vườn của Trái Đất. Chúng ta không phải là hành tinh duy nhất có người ở trong thái dương hệ này mà cả trong bất kỳ hệ mặt trời và thiên hà nào khác. Một cái nhìn chân thực sâu sắc về nhà tiên tri Moses và Đức Chúa Giêsu Kitô. Ngọn nến thứ mười ba - (The Thirteenth Candle – Lần đầu xuất bản năm 1972), cuốn sách kể thêm về hành trình trong cuộc đời của Bác sĩ Lobsang. Ông cũng trao đổi chi tiết về vấn đề đồng tính luyến ái, và cũng đưa vào ý kiến của một người đồng tính. Kỹ thuật thở và Chân Ngã được giải thích chi tiết hơn và một vài quan niệm sai lầm về Thầy hướng dẫn Tâm linh. Một lần nữa, ông lại đi sâu hơn vào cách du hành bằng thể vía. Ánh sáng ngọn nến - (Candlelight – Lần đầu xuất bản năm 1973) trong cuốn sách này Bác sĩ Lobsang cho chúng ta biết về con lắc và làm thế nào để sử dụng chúng. Những biểu đồ hoàng đạo và chiêm tinh học. Ông cũng đưa vào nội dung một cuộc họp trước đó với báo chí – được người bạn thân của ông, ông Alain Stanke, sắp xếp. Trả lời các câu hỏi của người đọc và tập trung nhiều về bí ẩn của cuộc sống. Hoàng hôn - (Twilight – Lần đầu xuất bản năm 1975) Lobsang giải thích việc du hành bằng thể vía và các cấp độ của nó. Ông chuyển đến ở Calgary và trả lời nhiều hơn về những bí ẩn của cuộc sống và bí ẩn lớn nhất của Trái đất rỗng của chúng ta một cách chi tiết hơn. Bác sĩ Rampa giải thích sử dụng con lắc một cách đúng đắn như thế nào, sức mạnh của lời cầu nguyện, hôn nhân và ly dị, phù thủy và sở hữu, và nhiều, nhiều vấn đề khác. Như là đã xảy ra - (As it Was – Lần đầu xuất bản năm 1976) Cuốn sách này tiếp tục câu chuyện về cuộc đời của Bác sĩ Rampa, từ khi ông sống ở Tây Tạng đến những chuyến phiêu lưu trên toàn cầu. Cũng là CÂU CHUYỆN CÓ THẬT - trực tiếp từ phía bên kia - về cuộc đời của Cyril Henry Hoskins trước khi Bác sĩ Rampa mượn xác Cyril, để giải thích những nhận xét thô thiển rằng ông chỉ là một người thợ sửa ống nước. Tôi tin - (I Believe – Lần đầu xuất bản năm 1977) trong cuốn sách này Bác sĩ Rampa nói về một người tự sát, chính xác những gì sẽ xảy ra, và họ sẽ phải trả như thế nào món nợ mà nó có thể trải dài qua nhiều kiếp sống – mỗi một lần điều kiện sẽ trở nên càng khó khăn hơn nếu họ không học hỏi từ những sai lầm của họ. Bất cứ ai dự tính tự tử nên đọc điều này trước khi hành động quyết liệt như vậy. Bên cạnh đó, ông cũng đưa ra cái nhìn về Thượng Đế từ những quan điểm khác nhau, về Phong trào Giải phóng Phụ nữ, nơi phụ nữ bắt đầu đi sai đường. Ba đời sống - (Three Lives – Lần đầu xuất bản năm 1977), cuốn sách kể về những kiếp sống của ba người rất khác nhau và những gì họ cảm nhận được khi chết tuỳ theo niềm tin nơi họ. Chúng ta sẽ được dẫn theo từng con đường và thấy cuộc hành trình đưa họ đến đâu, cách tất cả chấm dứt tại cùng một nơi. Trước hết là một người vô thần, thứ hai là một Người Do Thái cải sang những giáo phái khác, cuối cùng một tu sĩ Thiên chúa giáo. Nhà thông thái người Tây Tạng - (Tibetan Sage - Lần đầu xuất bản năm 1980) cuốn sách cuối cùng của Bác sĩ Rampa. Ông nhớ lại những trải nghiệm với Thầy của mình trong ngôi đền bên trong hang động của người xưa. Thế giới được bắt đầu như thế nào bởi vụ nổ lớn và Big Bang là gì. Giải thích thêm nó diễn ra như thế nào và các tác hại của dầu khí không phải là nhiên liệu hóa thạch. Đây là những lời cuối cùng của Bác sĩ Lobsang trước khi rời trái đất này để không bao giờ quay trở lại vào tháng 1 năm 1981, ở độ tuổi khoảng từ 271 và 306 tuổi. Tổng hợp bởi Emil Group Email: emilgroup.net@gmail.com Nguồn: http://www.lobsangrampa.org CHƯƠNG I. DẪN NHẬP Cô Mathilda Hockersnickler ngồi bên khung cửa sổ hé mở. Quyển sách cô đang đọc thu hút hết tâm trí của cô. Một đoàn rước đám tang đi qua trong lúc bóng cô đổ lên tấm rèm cửa bằng đăng ten trang trí cho khung cửa sổ. Một cuộc cãi nhau của hai người hàng xóm bên ngoài bị che khuất bởi chậu măng tây rung ring bên dưới cửa sổ. Cô Mathilda đang đọc sách. Đặt quyển sách vào lòng một lát, cô đẩy cặp kính gọng thép lên trán và lấy tay dụi mắt. Sau đó cô lại đẩy cặp kính xuống sống mũi có phần nổi bật của mình, cầm quyển sách lên và đọc tiếp. Ở trong lồng một chú vẹt lông màu xanh và vàng với đôi mắt nhỏ và sang đang nhìn xuống một cách tò mò. Và rồi nó kêu lên quang quác với giọng khàn khàn ‘Polly muốn ra, Polly muốn ra!’ Nó làm cho cô Mathilda Hockersnickler giật mình. ‘Ôi lạy chúa tôi,’ cô kêu lên, ‘chị xin lỗi cục cưng bé bỏng thân yêu của chị, chị quên mát không chuyển em sang cái cành của em.’ Một cách cẩn thận cô mở cánh cửa của cái lồng chim mạ vàng và đưa tay vào trong, cô nâng chú vẹt già nua tả tơi lên và nhẹ nhàng đưa chú qua cánh cửa lồng. ‘Polly muốn ra, Polly muốn ra!’ chú vẹt lại kêu lên lần nữa. ‘Ôi chú vẹt ngốc nghếch,’ cô Mathilda trả lời. ‘Em đã ở bên ngoài rồi còn gì, chị sẽ để em lên cái cành của em.’ Nói vậy, cô để chú vẹt lên một thanh ngang cӥ một mét rưӥi một đầu có gắn khay. Cô buộc cẩn thận một sợi dây quanh chân chú vẹt, rồi đổ đầy nước và hạt thức ăn vào trong bát của chú. Chú vẹt xù long ra và rúc đầu vào dưới cánh, phát ra một tiếng chiêm chiếp. ‘Polly ạ,’ cô Mathilda nói, ‘em nên đến đọc cuốn sách này cùng chị. Nó nói về chúng ta là gì khi mà chúng ta không ở đây. Chị ước chị có thể biết được những điều mà tác giả thật sự tin.’ Cô vừa nói vừa ngồi xuống và rất cẩn thận cô sửa lại cái váy để đầu gối không bị lộ ra. Cô lại cầm quyển sách lên và ngần ngừ giữa việc để sách lên đùi hay cầm lên đọc. Cô để quyển sách xuống, với tay lấy một chiếc kim đan dài. Và với sự hăng hái đáng ngạc nhiên ở một phụ nữ đã luống tuổi, cô thích thú gãi sống lưng chỗ giữa hai bả vai. ‘Ah!’, cô kêu lên, ‘ thật dễ chịu làm sao. Chắc hẳn là áo bên trong của mình có vấn đề. Hoặc là chỗ đó lông đang mọc. Mình sẽ gãi tiếp, thật dễ chịu làm sao.’ Cô tiếp tục gãi bằng cái kim đan một cách hăng hái, gương mặt tỏ rõ sự thích thú. Bằng cách đó cơn ngứa đӥ đi một chút, cô đặt cái kim đan xuống và cầm quyển sách lên. ‘Cái chết,’ cô tự nói với mình, hoặc là với chú vẹt chằng có hứng thú gì với chuyện cô đang nói, ‘giá mà mình có thể biết được tác giả THỰC SỰ tin vào điều gì sau khi chết.’ Cô dừng đọc lại một lúc, với tay lấy vài cái kẹo cô để ở sau chậu măng tây. Và rồi thở dài, cô đứng lên đưa cho chú vẹt đang nhìn cô một cách giận dỗi một cái kẹo. Chú vẹt mổ lấy cái kẹo và giữ nó trong mỏ. Cô Mathilda một tay cầm kim đan, mồm ngậm kẹo, tay kia cầm quyển sách lại ngồi xuống và tiếp tục đọc. Cô đọc thêm được vài dòng rồi lại dừng lại. ‘Vì sao đức cha luôn nói rằng nếu ai đó không phải là một con chiên ngoan đạo – một người ngoan đạo và theo đạo Thiên Chúa – người đó sẽ không thể nào đến được nước thiên đàng. Mình không biết liệu có phải đức cha đã sai và liệu có phải tín đồ của những tôn giáo khác cũng sẽ đến được thiên đàng hay không.’ Cô lại chìm vào yên lặng, ngoại trừ một vài tiếng lẩm bẩm nhỏ cô phát ra khi cô cố hình dung ra những khái niệm xa lạ. Kí ức của vũ trụ, di chuyển bằng thể vía, các cảnh giới cao ... Mặt trời đã đi qua mái nhà và cô Mathilda vẫn đang ngồi đọc sách. Chú vẹt với cái đầu rúc vào sau cánh đã ngủ yên. Chỉ có một vài cử động nhỏ không đủ để phá đi sự yên lặng. Bỗng một tiếng chuông nhà thờ xa xa vọng lại khiến cô Mathilda giật mình. ‘Ôi chúa ơi – ôi chúa ơi,’ cô kêu lên, ‘mình quên mất cả việc pha trà và việc mình phải đi dự buổi họp của hội phụ nữ nhà thờ.’ Cô vội vàng đứng lên, cận thận đặt một cái hình thêu vào trong quyển sách bìa giấy rồi giấu quyển sách vào bên dưới cái bàn may. Cô đi pha trà và lẩm bẩm một mình trong lúc pha. ‘Ôi, mình thực sự muốn biết những điều mà tác giả thực sự tin – mình thực sự muốn được nói chuyện với người này. Chắc hẳn sẽ thú vị lắm!’ Cách xa đó tại một hòn đảo nắng rực rӥ không tên, mặc dù đáng lẽ nó phải được đặt tên, một người đàn ông da màu đang vươn vai một cách uể oải bên dưới tán cây um tùm của một cái cây cổ thụ. Một cách lười biếng anh ta đặt quyển sách đang đọc xuống và đưa tay lên với một trái cây chín ngọt đang đung đưa đầy quyến rũ gần đó. Anh hái nó một cách lơ đãng, kiểm tra xem có côn trùng không rồi cho vào miệng. ‘Được,’ anh ta lẩm bẩm trong lúc nhai nhồm nhoàm. ‘Được, mình chắc chắn không biết tác giả đang hướng đến điều gì. Nhưng mà mình thực sự muốn biết những điều mà ông ta tin.’ Anh ta lại vươn vai và ngồi lại thoải mái hơn, lưng dựa vào thân cây. Anh ta lơ đãng đưa tay đập một con ruồi bay ngang qua nhưng đập trượt. Anh ta phẩy tay thêm vài cái nữa rồi lại cầm quyển sách lên đọc. ‘Cuộc sống sau cái chết, di chuyển bằng thể vía, kí ức của vũ trụ.’ Người đàn ông da màu lật lướt qua vài trang sách. Anh ta muốn đến được phần cuối cùng mà không phải đọc hết từng từ của quyển sách. Anh ta đọc một đoạn ở đây, một câu ở kia, rồi lại vu vơ lật sang trang khác. ‘Haiz,’ anh ta lặp lai, ‘giá mà mình biết được điều tác giả tin.’ Dần dần đầu người đàn ông da màu gục xuống ngực. Những ngón tay sậm màu từ từ thả lỏng ra và cuốn sách bìa giấy tuột dần từ bàn tay anh ta xuống cát mịn. Người đàn ông da màu lịch thiệp bắt đầu ngáy, và không còn biết gì về mọi thứ đang diễn ra xung quanh mình. Một cậu bé đi ngang qua nhìn thấy Negro đang ngủ và nhìn xuống quyển sách. Vừa để mắt đến người đàn ông đang ngủ cậu bé vừa dùng chân khều lấy quyển sách rồi nhanh nhẹn đưa lên tay. Cầm quyển sách theo mình, cậu bé bỏ đi trông như rất vô tội. Cậu bé đi băng qua bụi rậm đến một bờ cát trắng sáng chói lòa. Cậu nghe thấy tiếng một con sóng lớn vỗ bờ nhưng cậu không để ý đến nó vì nó là cuộc sống của cậu, tiếng những con sóng đập vào mỏm đá xung quang cái phá đối với cậu là một âm thanh quen thuộc hàng ngày. Cậu bé tiếp tục đi, vừa đi vừa lấy ngón chân bới cát với hy vọng tìm được một kho báu hay một vài đồng xu bị chôn vùi. Chẳng phải một người bạn của cậu đã từng nhặt được một đồng xu vàng bằng cách này? Một rạch nước hẹp ngăn cách cậu vời một dải đất nơi có ba cái cây đơn độc. Cậu lội qua rạch nước và đi đến chỗ giữa ba cái cây. Cậu cẩn thận nằm xuống và chầm chậm đào một cái hõm nhỏ để đặt mông. Rồi cậu gối đầu một cách thoải mái vào rễ cây và xem quyển sách cậu mới trộm được của người đàn ông ngủ quên. Cậu cẩn thận nhìn xung quanh để chắc là không ai thấy mình và không ai đuổi theo mình. Hài lòng vì mọi thứ đều an toàn, cậu đặt lưng xuống, một tay để lên chà mái tóc quăn tít, một tay vu vơ lật quyển sách, đầu tiên là mặt sau của cuốn sách để đọc lời giới thiệu của nhà xuất bản, sau đó cậu lật quyển sách lại và nghiên cứu hình vẽ với đôi mắt díu lại, vầng trán nhăn tít còn miệng thì tự lẩm bẩm những điều khó hiểu. Cậu bé gãi đũng quần và kéo quần lên cho thoải mái hơn. Rồi nằm nghiêng người sang bên trái, chống khuỷu tay trái xuống, cậu lật trang sách và bắt đầu đọc. Các hình tư tưởng, thần chú, man-oh-man, chẳng phải quá tuyệt sao! Nếu như vậy mình có thể tạo ra một dạng ý nghĩ và Abigail sẽ làm bất cứ điều gì mình muốn cô bé ý làm. Yeah, mình sẽ làm thế.’ Cậu bé trở mình và gõ gõ lên mũi mình một lúc, rồi cậu nói, ‘Không biết mình có thể tin được những điều trong quyển sách này không.’ Góc tối của căn phòng mang trong nó một bầu không khí của sự linh thiêng. Mọi thứ đều yên ắng ngoại trừ tiếng thanh củi cháy lép bép trong lò sưởi bằng đá. Cứ một chốc một luồng hơi nước lại phụt ra ngoài và trong cơn giận bay vào ngọn lửa, hơi nước được tạo ra bởi hơi ẩm lưu lại bên trong những thanh củi chưa khô hoàn toàn. Thỉnh thoảng củi lại cháy vӥ vụn và bắn ra những tàn lửa. Ánh sáng rập rình càng khiến căn phòng mang một cảm giác lạ lùng, huyền bí. Tại một góc của lò sưởi có một cái ghé bành rất sâu quay lưng ra cửa phòng. Đằng sao cái ghế bành là một cây đèn cổ làm bằng đồng thau. Cây đèn sử dụng một cái bóng vừa phải trong một cái chụp đèn màu xanh, từ cây đèn tỏa ra một ánh sáng dịu và chỉ đủ để chiếu sáng xung quanh lưng ghế. Từ chiếc ghế vang lên một tiếng ho khan và tiếng lật giấy xột xoạt. Và rồi tất cả lại trở lại im ắng ngoại trừ tiếng lép bép của lửa cháy và tiếng lật giấy đều đặn. Ở xa xăm bên ngoài bỗng vang lên một tiếng chuông, một âm thanh ngân nga và lát sau đó là tiếng chân đi xăng đan và một vài tiếng nói xì xầm nhẹ nhàng. Có tiếng cửa mở và một phút sau là một tiếng thịch khi cửa đóng lại. Tiếng đàn organ vang lên cùng với tiếng hát của một người đàn ông. Bài hát tiếp tục trong một lúc, và rồi lại là tiếng sột xoạt và im lặng, và rồi im lặng lại bị phá vӥ bởi những tiếng xì xầm khi ai đó đang kể lại một câu chuyện rất khó hiểu Trong phòng, một quyển sách rơi xuống đất gây ra một tiếng động khiến người ta giật mình. Và rồi một bóng người đứng lên. ‘Ôi Chúa ơi, chắc hẳn là mình đã ngủ quên. Một điều đáng ngạc nhiên làm sao!’ Người mặc áo choàng đó cúi xuống nhặt quyển sách và cẩn thận lật lại đúng trang. Một cách cẩn trọng ông ta đặt vào trong đó một cái đánh dấu trang, và thành kính đặt quyển sách lên trên cái bàn thấp bên cạnh. Ông ngồi đó trong một lúc, tay đan vào nhau và vầng trán nhăn lại, sau đó ông đứng lên khỏi ghế và quì xuống trước cây thánh giá trên tường. Trong tư thế quì, chắp tay, đầu cúi xuống, ông cầu nguyện để mong một sự hướng dẫn. Khi đã xong, ông đứng lên đi về phía lò sưởi và thêm vài thanh củi vào đống than hồng đang cháy rực. Và cứ thế ông thu mình ngồi bên cạnh cái lò sưởi bằng đá, hai tay ôm lấy đầu. Đột nhiên ông vỗ đùi và đứng bật dậy. Ông nhanh nhẹn đi băng qua căn phòng tối đến bàn làm việc nằm trong một góc tối. Ông vội vàng kéo một sợi dây và ánh sáng ấm áp ngay lập tức lan tỏa ra khắp góc phòng. Ông ngồi xuống ghế và trong một lúc ông nhìn chằm chằm vào tờ giấy để trước mặt. Rồi ông đưa tay phải ra định lấy quyển sách ở bên cạnh nhưng nhận ra là quyển sách không có ở đó, ông lẩm bẩm một vài từ không hài lòng rồi đứng lên và đến bên cái bàn thấp cạnh ghế bành để lấy quyển sách. Ông quay lại ngồi xuống ghế và lật nhanh qua những trang sách cho đến khi tìm thấy cái mình cần – một địa chỉ. Ông nhanh nhẹn ghi địa chỉ lên phong bì, sau đó ông lại ngồi ngẫm nghĩ, sắp xếp lại những ý tưởng của mình, băn khoăn không biết nên làm gì, nên diễn đạt thế nào những điều ông muốn nói. Rồi ông bắt đầu viết trong một không gian yên lặng, chỉ có tiếng sột soạt của ngòi bút và tiếng tíc tắc của chiếc đồng hồ đằng xa. ‘Thưa bác sĩ Rampa,’ bức thư bắt đầu, ‘tôi là một linh mục thiên chúa giáo và đồng thời cũng là một giảng viên về Nhân văn tại trường đại học của chúng tôi. Tôi đã đọc các cuốn sách của ngài với một sự quan tâm lớn.’ ‘Tôi tin rằng chỉ những ai đi theo tôn giáo của chúng tôi mới nhận được sự cứu rỗi thông qua máu của đức Jesus Christ. Tôi tin điều đó khi tôi dạy sinh viên của mình. Tôi tin điều đó khi tôi ở bên trong nhà thờ. Nhưng lúc chỉ còn lại một mình khi đêm đã khuya, khi mà không có ai ở đó để theo dõi hành động và phân tích suy nghĩ của tôi thì tôi lại băn khoăn. Liệu đức tin của tôi có là đúng đắn? Có phải sẽ không một ai ngoại trừ những người thiên chúa giáo sẽ được cứu rỗi? Thế còn những tôn giáo khác thì sao? Chẳng nhẽ họ đều sai và đều làm việc cho quỉ dữ? Liệu có phải tôi và những người cùng có đức tin như tôi đã bị lừa dối? Các cuốn sách của ngài đã khai sáng cho tôi rất nhiều và đã giúp tôi giải đáp những nghi ngờ về lĩnh vực tâm linh mà tôi có liên quan. Thưa ngài, liệu ngài có thể trả lời một vài câu hỏi của tôi. Câu trả lời của ngài có thể khai sáng thêm cho tôi hoặc làm cho niềm tin của tôi thêm mạnh mẽ.’ Một cách cẩn thận ông ghi tên mình lên bức thư. Trong lúc ông gấp bức thư lại và để nó vào phong bì, một ý nghĩ chợt đến với ông. Ông nhanh chóng lấy bức thư ra, có phần xấu hổ ông mở nó ra và ghi thêm vào : ‘Tôi xin ngài, vì danh dự một người đã cống hiến hết mình cho đức tin của mình, hãy không tiết lộ tên của tôi cũng như việc tôi đã viết thư cho ngài, vì việc đó là trái với các luật lệ của Bề trên.’ Ông kí tên, làm khô mực, nhanh chóng nhét bức thư vào trong phong bì và niêm phong nó. Ông lục tìm trong đống giấy tờ cho đến khi tìm thấy một quyển sách, ông viết vào trong đó một cái điện tín gửi đến Canada. Ông lục tìm trong các ngăn kéo và hộc tủ và cuối cũng cũng tìm thấy một con tem để dán lên phong bì. Vị linh mục cẩn thận đặt bức thư vào túi trong của áo choàng, đứng dậy tắt đèn và rời căn phòng. ‘A thưa Đức Cha,’ một giọng nói vọng ra ngoài hành lang, ‘có phải cha định đi ra phố? Con có thể làm gì giúp cha không? Con phải đi làm vài công chuyện vặt và con xin sẵn lòng giúp việc cho cha.’ ‘Không, cám ơn người anh em,’ vị giáo sư già trả lời cấp dưới của mình, ‘Cha định đi ra phố, tập một vài động tác thể dục cần thiết. Vậy nên cha nghĩ cha sẽ đi dạo xuống con phố chính.’ Hai người cúi chào nhau trịnh trọng và mỗi người đi một đường riêng, vị giáo sư già đi ra khỏi tòa nhà cũ bằng đá xám đã nhuốm màu thời gian và bị che phủ một nửa bởi những cây thường xuân leo trên tường. Một cách chậm rãi ông đi bộ dọc theo con phố chính, tay cầm chặt cây thánh giá, miệng lẩm nhẩm một mình như thói quen của những người trong Giáo Hội của ông. Trên con phố chính ngay bên ngoài cổng lớn, mọi người kính cẩn cúi chào khi trông thấy ông và nhiều người làm dấu thánh giá. Vị giáo sư già chậm rãi đi xuống phố đến chỗ thùng thư bên ngoài bưu điện. Ông nhìn quanh một cách xấu hổ, lén lút xem có ai ở trong Giáo Hội đang ở gần đó không. Hài lòng vì mọi thứ đều an toàn, ông lấy bức thư ra khỏi áo choàng và thả nó vào hòm thư. Rồi với một trái tim nhẹ nhõm, ông trở lại con đường vừa nãy. Quay lại với công việc nghiên cứu riêng, bên cạnh ngọn lửa cháy rực rӥ và ngọn đèn chiếu ánh sáng mờ lên trang sách, ông tiếp tục đọc trong nhiều giờ khi đêm đã khuya. Cuối cùng ông đóng cuốn sách lại, khóa nó trong ngăn kéo và đi về phòng mình. Ông vừa đi vừa lẩm bẩm một mình, ‘Mình nên tin vào điều gì đây, mình nên tin vào điều gì đây?’ Bầu trời đầy mây mù nặng nề che phủ màn đêm ở Luân Đôn. Cơn mưa dày quét qua những con phố sứt mẻ với những người đi đường vội vã tay nắm chặt chiếc ô đang oằn lại vì gió. Luân Đôn, ánh sáng của Luân Đôn, và những con người đang hối hả đi về nhà sau một ngày làm việc. Những chiếc xe buýt khổng lồ màu đỏ phi nhanh bắn tung nước lên vỉa hè và lên những nhóm người đang run rẩy tránh những tia nước bẩn. Ở đằng trước cửa hàng, mọi người túm tụm đợi xe buýt đến, vội vàng lao ra ngoài khi có một chiếc xe bus tiến lại và rồi lại thất vọng quay vào khi thấy con số xe chỉ sang tuyến khác. Luân Đôn, một nửa thành phố đã về nhà, và nửa còn lại vẫn đang làm việc. Tại phố Harley, trung tâm y khoa của Luân Đôn, một người đàn ông tóc màu xám đi đi lại lại trên tấm thảm bằng da gấu trước mặt một ngọn lửa đang cháy phập phùng. Ông ta đi lại, chắp tay sau lưng còn đầu thì cúi. Rồi bất thình lình ông quăng người vào trong cái ghế bành bằng da êm ái và lấy từ túi áo ra một quyển sách. Ông ta lật nhanh các trang sách cho đến khi ông tìm được đoạn ông ta cần, một đoạn nói về hào quang của con người. Ông đọc nó, và sau khi đã đọc xong lại đọc thêm một lần nữa. Rồi ông ngồi đó và nhìn chăm chăm vào ngọn lửa, cuối cùng khi đã tìm được lời giải ông ta gật gật đầu và đứng dậy. Ông nhanh chóng rời khỏi căn phòng và đi sang một phòng khác. Một cách cẩn thận ông khóa cánh cửa sau lưng mình lại và tiến đến bàn làm việc. Gạt sang một bên rất nhiều báo cáo y khoa và các chứng chỉ cần phải được kí, ông ngồi xuống và lấy ra từ ngăn kéo một tập giấy cá nhân. Thưa bác sĩ Rampa,’ ông ta viết bằng một chữ viết tay gần như không thể đọc nổi. ‘Tôi đã đọc cuốn sách của ngài với một niềm đam mê tuyệt đối, một niềm đam mê được tăng thêm bởi niềm tin và bởi kinh nghiệm của chính bản thân tôi – rằng những điều ngài viết là sự thật.’ Ông ta ngồi lại và đọc những gì vừa viết, và để hoàn toàn chắc chắn ông ta lại đọc thêm một lần nữa trước khi gút lại, ‘Tôi có một đứa con trai, một đứa bé rất thông minh và nó vừa trải qua một cuộc phẫu thuật não. Từ sau khi phẫu thuât, nó nói với chúng tôi rằng nó có thể nhìn thấy những màu sắc kì lạ xung quanh cơ thể con người, nó có thể nhìn thấy ánh sáng bên trên đầu mỗi người, và không chỉ đầu con người, không chỉ cơ thể con người mà cả động vật nữa. Trong một thời gian chúng tôi đã nghĩ rất nhiều về vấn đề này, băn khoăn không biết liệu có phải chúng tôi đã làm gì sai trong cuộc phẫu thuật, nghĩ rằng có thể là chúng tôi đã làm xáo trộn thần kinh nhãn quang của thằng bé. Nhưng sau khi đọc xong cuốn sách của ngài chúng tôi đã hiểu rõ hơn; con trai tôi có thể nhìn thấy hào quang của con người, chính vì thế tôi biết rằng những điều ngài viết đều là sự thật.’ ‘Tôi rất mong được gặp ngài nếu ngài đến Luân Đôn vì tôi tin rằng ngài có thể đem lại một sự hỗ trợ rất lớn cho con trai tôi. Thân ái.’ Ông ta đọc lại lần nữa những gì vừa viết, và rồi, giống như vị linh mục kia, khi đang chuẩn bị gấp thư lại cho vào trong phong bì, mắt ông dừng lại trên một nhóm hướng đạo sinh y khoa. Vị bác sĩ chuyên khoa giật mình như thể bị ong đốt và nhanh chóng ông ta cầm bút lên thêm vài dòng vào bức thư. ‘Tôi tin tưởng rằng ngài sẽ không tiết lộ tên của tôi hoặc nội dung của bức thư này cho bất kì ai vì nó có thể làm hại đến uy tín của tôi trong mắt các đồng nghiệp.’ Ông ta cẩn thận kí tên, gấp bức thư lại và cho nó vào trong phong bì, sau đó tắt đèn và ra khỏi căn phòng. Bên ngoài, chiếc xe đắt tiền của ông ta đang đợi sẵn. Người tài tỏ ra chú ý khi vị bác sĩ chuyên khoa nói, ‘lái xe tới bưu điện ở quảng trường Leicester.’ Chiếc xe lăn bánh, chẳng mấy chốc bức thư sẽ được thả vào bên trong thùng thư và cuối cũng sẽ đến được đích. Và cứ như vậy tôi nhận được những bức thư từ nơi này đến nơi khác, từ mọi nơi, từ Bắc tới Nam, từ Đông sang Tây – vô vàn những bức thư tất cả đều yêu cầu câu trả lời, tất cả đều khẳng định rằng vấn đề họ gặp phải là duy nhất và chưa từng có ai bao giờ đã gặp phải một vấn đề tương tự. Những bức thư chỉ trích, những bức thư khen ngợi, những bức thư khẩn cầu. Tôi nhận được một bức thư từ Trinidad được viết trên một tờ giấy của học sinh loại rẻ tiền nhất và bằng một chữ viết tay của một người hoàn toàn thất học; ‘Tôi là một nhà truyền giáo, tôi làm việc vì lợi ích của Chúa. Hãy gửi cho tôi mười nghìn đô la và một cỗ xe mới. À phải rồi, và nếu ông gửi cho tôi loạt sách của ông miễn phí thì khi đó tôi sẽ tin những điều ông viết.’ Một bức thư khác đến từ Singapore của hai chàng trai Trung Quốc trẻ tuổi: ‘Chúng tôi muốn trở thành bác sĩ. Chũng tôi không có tiền. Chúng tôi muốn ông hãy trả tiền cho chuyến bay hạng nhất của chúng tôi để đi từ Singapore đến nơi ông ở, rồi sau đó chúng ta sẽ nói chuyện. Chúng tôi sẽ nói cho ông làm thế nào ông có thể cho chúng tôi tiền để chúng tôi được đào tạo thành bác sĩ và giúp ích cho nhân loại. Ông cũng có thể gửi thêm cho chúng tôi một ít tiền để chúng tôi có thể đi gặp bạn ở New York, Mỹ. Làm như vậy cho chúng tôi là ông sẽ làm được việc tốt cho người khác, và khi đó chúng tôi sẽ tin.’ Tôi nhận được hàng trăm hàng nghìn bức thư, tất cả đều yêu cầu câu trả lời. Chỉ một vài, vô cùng ít ỏi, nghĩ tới chi phí của việc viết, giấy bút và tiền gửi thư. Họ viết, ‘Hãy kể cho chúng tôi nhiều hơn về sau cái chết. Nói cho chúng tôi nhiều hơn về cái chết thực sự là gì. Chúng tôi không hiểu về cái chết, ông không nói đủ cho chúng tôi biết, ông không nói rõ ràng. Hãy nói cho chúng tôi biết mọi thứ.’ Những người khác viết, ‘Hãy nói cho chúng tôi về tôn giáo, liệu chúng tôi có hy vọng sau kiếp sống này không khi mà chúng tôi không phải là người theo đạo thiên chúa?’ Còn một người khác thì viết, ‘Hãy cho tôi một câu thần chú để tôi có thể thắng trong Sweepstake Ai len. Và nếu tôi được giải nhất một triệu trong Sweepstake Ai len tôi sẽ cho ông mười phần trăm.’ Và một người khác thì viết, ‘Tôi sống ở New Mexico, có một cái mỏ bị thất lạc ở đây. Hãy nói cho tôi cái mỏ bị thất lạc ở đâu – ông có thể đi vào thể vía để tìm nó – và nếu ông nói được cho tôi biết nó ở đâu để tôi tìm ra và chiếm được nó, tôi sẽ tặng ông một khoản tiền thù lao.’ Mọi người viết rằng tôi nên kể thêm cho họ, kể hết cho họ, kể không thiếu gì cho họ để họ có thể biết được nên tin vào điều gì. Bà Sheelagh Rouse ngồi nghiêm nghị tại bàn làm việc, gọng kính bằng vàng treo lỏng lẻo trên sống mũi và cứ chốc chốc bà lại phải đưa ngón tay lên đẩy nó về đúng chỗ. Bà nhìn ra một chiếc xe lăn đi ngang qua cửa và nói, có phần quyết liệt ‘Ông đã viết mười sáu quyển sách rồi, tại sao ông không viết thêm quyển thứ mười bảy để nói cho mọi người biết họ CÓ THỂ tin điều gì? Hãy nhìn tất cả những bức thư yêu cầu một cuốn sách khác, yêu cầu ông nói cho họ điều họ có thể tin xem – tôi sẽ đánh máy nó cho ông!’ bà vui vẻ kết luận. Cô mèo Tadalinka và cô mèo Cleopatra Rampa ngồi ở ngoài hành lang đằng trước cái xe đẩy với vẻ mãn nguyện. Cô mèo Taddy thì mải suy nghĩ, gãi tai trái bằng chân trái khi đang tập trung vào một cuốn sách khác. Thỏa mãn, cô đứng lên và khệnh khạng đi về cái ghế yêu thích của mình. Mẹ San Ra'ab Rampa ngước nhìn lên với một vẻ mặt có phần nhợt nhạt và kinh ngạc. Không nói gì – có thể bà không nói nên lời! – bà đưa cho tôi một mảnh giấy màu xanh dương với đầu đề ‘Mẹ San Ra'ab Rampa, cây liễu mềm’, ở giữa trang tôi thấy khuôn mặt tím bầm của mình như thể tôi đã chết quá lâu và không được chôn cất kip thời. Và bên dưới là cái mặt rất kì cục của con mèo Siamese mà tôi chưa thấy bao giờ. Tôi không thôt nên lời mất một lúc, nhưng tôi cho là thật tốt được thấy cái bìa cuốn sách đầu tay của ai đó. Tôi lưӥng lự vì đây là quyển sách thứ mười bảy và không còn gì mới lạ nữa. Nhưng, ‘Mẹ San,’ tôi nói, ‘thế bà, BÀ nghĩ gì về một cuốn sách khác? Liệu có đáng để cố gắng không khi mà tôi bị mắc kẹt trên giường như một kẻ ngốc, hay là tôi nên từ bỏ?’ Mẹ San vẫn còn xúc động vì cái bìa sách đầu tiên của mình, chợt tỉnh ra và nói, ‘Ồ vâng, tất nhiên là ông nên viết một cuốn sách rồi. Tôi còn đang định viết cuốn thứ hai đây!’ Cô Cleo Rampa và cô Taddy Rampa hít hà cái bìa sách và quay đi với cái đuôi nghoe nguẩy trong không khí. Có vẻ như cái bìa sách đã được chúng chấp thuận. Đúng lúc đó thì chuông điện thoại vang lên. Người gọi là John Henderson lúc đó đang ở trong một miền đấy hoang dã của nước Mỹ, nơi hợp lưu của rất nhiều dòng nước. Cậu ta nói, ‘Chào ông chủ. Cháu đã đọc được rất nhiều bài báo khen ngợi ông. Có một bài rất hay ở trong một tạp chí mà cháu đã gửi cho ông.’ ‘John à,’ tôi trả lời. ‘tôi không thể để ý nổi tới hai tiếng la ó, hay thậm chí là một tiếng la ó trong các tạp chí và bài báo viết về tôi. Tôi không đọc chúng bất luận chúng là những bài viết hay hay dở. Có điều, thế cậu, CẬU nghĩ gì về một cuốn sách khác, cuốn sách thứ mười bảy?’ ‘Được, thưa ông,’ John H. nói, ‘đó là điều cháu mong đợi được nghe! Đã đến lúc ông viết một cuốn sách khác, mọi người đều thấp thỏm, và cháu được biết là những người bán sách đã được hỏi thăm rất nhiều.’ Điều đó làm tôi khá choáng váng; mọi người có vẻ như đang về cùng một phe, ai cũng muốn một cuốn sách khác. Nhưng liệu một ông già tội nghiệp có thể làm được gì khi mà ông đã đi về phía cuối của cuộc đời, và ông bị yêu cầu đóng một khoản thuế khổng lồ cho một đất nước không có một chút mảy may thương xót – phải làm một cái gì đó thì mới giữ được lửa cháy trong lò sưởi, hoặc là giữ cho lũ chó săn thuế không đến gần cửa chính. Một trong những điều tôi cảm thấy cay đắng – thuế thu nhập. Tôi là một người tàn tật và phần lớn thời gian của tôi là ở trên giường. Tôi không phải là một gánh nặng của đất nước, thay vào đó tôi phải trả một thứ thuế luẩn quẩn mà không có một chút trợ cấp nào vì tôi là một người sáng tác làm việc tại nhà. Thế nhưng một vài công ty dầu lửa ở đây lại không phải trả một chút thuế nào vì họ tham gia vào « nghiên cứu » (những nghiên cứu hoàn toàn hoang đường) và vì thế họ được miễn thuế. Và rồi tôi nghĩ đến những tín đồ lập dị tự lập nên một tổ chức phi lợi nhuận, trả tiền lương rất cao cho chính họ, họ hàng và bạn bè của họ, thế nhưng họ không phải đóng thuế vì họ là một tổ chức phi lợi nhuận. Vì vậy mặc dù không muốn nhưng tôi cần thiết phải viết cuốn sách thứ mười bảy, và sau khi đã đọc hết bức thư này đến bức thư khác, mọi ý kiến trong những bức thư đều hướng tôi đến một cuốn sách có tiêu đề là ‘Tôi tin’. Cuốn sách này sẽ nói về cuộc sống trước khi ra đời, cuộc sống trên Trái đất và sự chuyển từ Trái đất sang cuộc sống Bên trên. Tôi đặt tên cho cuốn sách là ‘Tôi tin’ nhưng nó hoàn toàn không chính xác; đó không phải là vấn đề về niềm tin, đó là TRI THỨC. Tôi có thể làm mọi điều tôi viết. Tôi có thể đi vào thể vía dễ dàng như một người đi từ phòng này sang phòng khác – thật ra thì đó là điều mà tôi không thể làm, đi vào một căn phòng mà không cần tới nạng hay xe lăn hay những cái tương tự. Nhưng trong thể vía người ta không cần tới nạng, xe lăn hay thuốc men. Vì thế những điều tôi viết trong cuốn sách này là sự thật. Tôi không nói lên một ý kiến mà chỉ kể lại mọi thứ như nó THẬT SỰ là như vậy. Còn bây giờ là lúc bắt tay vào việc. Chúng ta cùng đến với Chương II. CHƯƠNG II. ALGERNON TỰ TỬ ALGERNON REGINALD ST. CLAIR DE BONKERS ngã xuống sàn phòng tắm, người sũng nước. Algernon nằm trên sàn, và từ người anh ta phát ra tiếng lọc bọc, rên rỉ. Ở bên ngoài hành lang một cô hầu gái đi ngang qua bỗng dừng lại, và cảm thấy như thể có những ngón tay lạnh buốt của sự sợ hãi trườn trên sống lưng cô. Cô gọi qua cánh cửa, giọng run run, ‘Ngài có sao không, thưa ngài Algernon? Ngài Algernon, ngài có sao không?’ Không thấy có tiếng trả lời, cô xoay núm cửa và đi vào phòng tắm. Ngay lập tức, cô kinh hoàng hét lên, trong suốt đời đi làm của mình cô chưa bao giờ hét như vậy, và cô tiếp tục hét, tiếng hét càng ngày càng cao. Khi không còn hơi nữa, cô khuӷu xuống nằm bất tỉnh trên sàn bên cạnh Algernon. Rồi có tiếng người vọng lại, theo sau là tiếng chân bước vội lên cầu thang và dọc hành lang. Những người đến đầu tiên khựng lại đột ngột đến nỗi họ làm toạc tấm thảm ra khỏi móc, rồi túm tụm lại như thể việc đó sẽ khiến họ tự tin hơn họ nhìn chăm chăm qua cánh của mở. Algernon Reginald St. Clair de Bonkers nằm sấp trên sàn, máu chảy ra xối xả từ một vết thương dài trên họng thấm đẫm cơ thể bất tỉnh của cô hầu gái nằm bên cạnh. Đột nhiên cô hầu gái thở hắt ra, người giật mạnh và mở mắt. Trong mấy giây cô nhìn vào vũng máu cạnh mình, rùng mình, và sau một tiếng hét rùng rợn làm hoảng hồn hết thảy những người xung quanh cô lại ngất đi, lần này khuôn mặt cô ngập trong máu của chủ cô, dòng máu được cho là quí tộc. Algermon nằm trên sàn. Anh ta cảm thấy mọi thứ đang quay, mọi thứ đều không thực một cách không tưởng. Anh ta nghe thấy một tiếng kêu bi thảm, một âm thanh rên rỉ và rồi là tiếng lọc bọc ghê rợn khi máu chảy ra khỏi cơ thể tàn phế của anh ta. Algernon cảm thấy những chuyển động rất lạ trong mình. Rồi có một tiếng kêu thất thanh rất kinh khủng và cô hầu gái ngã xuống cạnh anh ta, va vào cơ thể đang biến đổi của anh ta. Với một chấn động đột ngột, ngài Algernon bị kéo ra khỏi cơ thể mình và bay thẳng lên như một quả bóng bay buộc vào đầu một sợi dây. Trong một vài giây anh ta nhìn ra xung quanh, kinh ngạc trước khung cảnh hết sức lạ lùng. Anh ta giống như là một gương mặt đang trôi trên trần nhà, rồi anh ta nhìn xuống hai cơ thể bên dưới và thấy một sợi dây bạc nối giữa cơ thể mới của anh ta và cơ thể cũ đang nằm bất động. Anh ra nhìn sợi dây và thấy nó dần chuyển thành màu xám, những đốm nhỏ gớm guốc xuất hiện tại chỗ nối với cơ thể dưới đất, và rồi sợi dây teo nhỏ dần và đứt lìa đi như cái cuống rốn. Nhưng còn Algernon thì vẫn ở đó như thể bị dán lên trần nhà. Anh ta kêu lên để cầu cứu, không nhận ra rằng anh ta đã ra khỏi cơ thể đã chết của mình và ở trong thể vía. Anh ta ở đó, dính chặt lên cái trần nhà đầy hoa văn trong căn nhà của tổ tiên. Anh ta ở đó, vô hình với tất cả những gương mặt đang sững sờ nhìn vào trong phòng tắm, hết người này đến người khác. Anh ta nhìn thấy cô hầu gái bất tỉnh, nhìn vào vũng máu cô ta ngã vào, hét lên thất thanh và lại bất tỉnh. Giọng nói nặng nề của người quản gia cất lên phá vӥ sự im lặng. ‘Bây giờ,’ ông ta nói, ‘chúng ta không được hoảng loạn. Anh, Bert,’ ông ta chỉ anh đầy tớ, ‘anh đi gọi cảnh sát, gọi bác sĩ Mackintosh và tôi nghĩ là anh nên gọi cả người lo việc đám ma nữa.’ Nói xong, ông ta ra hiệu cho anh đầy tớ đi nhanh và quay lại nhìn hai cơ thể. Kéo ống quần lên cao quá đầu gối, ông cúi xuống và thận trọng cẩm cổ tay của cô hầu gái, ông ta kêu lên một cách ghê tởm khi tay ông ta chạm phải máu. Ông ta nhanh chóng thu tay lại và chùi máu bằng chiếc váy của cô hầu gái. Và rồi ông ta cầm một chân – một mắt cá chân – cô hầu gái và kéo cô ra khỏi phòng tắm. Cố tiếng cười khúc khích khi váy của cô hầu gái bị mắc và bị kéo lên tới hồng và tận vai, tiếng cười khúc khích nhanh chóng xụi đi trước cái lườm của người quản gia. Bà vú nuôi bước lên trước, thẹn thùng cúi xuống và sửa lại váy cho cô hầu gái. Sau đó hai người hầu nam nâng cô hầu gái lên và mang cô đi xuống hành lang, chiếc váy thẫm máu cô mặc rỏ xuống nhuốm suốt dọc đường đi. Người quản gia đi sâu vào trong phòng tắm và cảnh giác nhìn xung quanh. ‘À, đúng rồi,’ ông ta nói, ‘đây là thứ mà ngài Algernon đã dùng để kết liễu đời mình.’ Ông ta chỉ vào một cái dao cạo nhuốm máu đã trượt trên sàn đến tận góc bồn tắm. Ông ta đứng im như tượng ở cửa buồng tắm cho đến khi bên ngoài có tiếng chân ngựa phi nước đại. Rồi anh hầu đi vào và nói, ‘Cảnh sát đã đến, thưa ông Harris, còn bác sĩ thì đang trên đường tới đây.’ Có tiếng người nói sôi nổi ở sảnh ra vào, rồi một dáng người rất nặng nề và đường bệ xuất hiện trên cầu thang và đi dọc hành lang. ‘Xem nào, xem nào, chúng ta có gì ở đây thế này?’ giọng nói thô ráp vang lên, ‘Theo tôi hiểu thì đã có một vụ tự tử, nhưng ông không chắc chắn rằng đây không phải là một vụ giết người?’ Người vừa nói, một cảnh sát trong bộ đồng phục màu xanh dương, thò đầu vào trong phòng tắm, máy móc tìm cuốn sổ ghi chép luôn luôm sẵn sàng ở trong túi ngực. Ông ta cầm lấy mẩu bút chì, liếm đầu bút môt cái rồi cẩn thận mở quyển sổ ghi chép ra. Rồi có tiếng vó ngựa phi nước kiệu nhanh, có thêm nhiều tiếng huyên náo ở cửa ra vào, rồi sau đó một bóng người nhỏ nhắn hơn nhiều và cũng nhanh nhẹn hơn nhiều xuất hiện trên cầu thang. Một người đàn ông trẻ mảnh khảnh mang theo một cái túi đen đi tới : ‘À, ông Harris,’ người đàn ông trẻ, chính là một bác sĩ, nói ‘Tôi được biết là ông có một người bệnh ở đây, có phải là bệnh nguy kịch?’ ‘Bác sĩ,’ viên cảnh sát mặt đỏ nói, ‘chúng tôi vẫn chưa điều tra xong. Chúng tôi phai tìm ra nguyên nhân của cái chết - ’ ‘Nhưng thưa ngài cảnh sát,’ vị bác sĩ nói, ‘ngài có chắc là anh ta đã chết rồi không? Chúng ta nên kiểm tra trước đã chứ?’ Im lặng, viên cảnh sát chỉ tay vào cái xác và vào việc đầu của cái xác đã gần như bị cắt lìa khỏi cổ. Vết thương há to miệng và toàn bộ máu đã chảy ra khỏi cái xác, thấm ra hết cả sàn phòng tắm và ra cả tấm thảm ngoài hành lang. Viên cảnh sát nói, ‘Bây giờ, ông Harris, chúng ta hãy nghe ý kiến của ông. Ai đã làm viêc này?’ Người quản gia liếm môi lo lắng vì ông ta không vui chút nào khi mà mọi thứ lại xoay chuyển theo chiều hướng này. Ông ta cảm thấy như thể ông ta bị kết tội giết người, mặc dù ngay cả người không được học hành cũng có thể thấy là vết thương trên cái xác là do tự gây ra. Tuy nhiên ông ta biết rằng ông ta phải thi hành theo pháp luật, vì thế ông ta bắt đầu: ‘Như các ngài biết rõ, tên tôi là George Harris. Tôi là quản gia trưởng của ngôi nhà này. Gia nhân trong nhà và tôi đều giật mình khi nghe thấy tiếng hét của cô hầu gái – Alice White – giọng cô ta càng ngày càng cao đến mức chúng tôi cảm thấy dây thần kinh như căng ra muốn vӥ, rồi có một tiếng ngã uӷch và không còn gì nữa. Vì thế chúng tôi chạy vội lên đây và chúng tôi thấy - ’ ông ta dừng lại vì xúc động, rồi ông ta đưa tay chỉ về phía buồng tắm và nói, ‘cái này!’ Viên cảnh sát lẩm bẩm một mình và mân mê chòm râu quai nón. Rồi ông nói, ‘Hãy gọi cô Alice White lên đây. Tôi cần thẩm vấn cô ta bây giờ.’ Bà vú nuôi vội vàng đi dọc hành lang và nói, ‘Ôi không xin đừng, thưa ngài cảnh sát, chúng tôi phải tắm cho cô ý, người cô ý toàn máu và cô ý đang bị kích động mạnh. Linh hồn tội nghiệp, tôi hoàn toàn hiểu được. Liệu ông có thấy rằng ông đang làm khó cho chúng tôi vì chúng tôi không hề gây nên chuyện này, và tôi phải nhắc ông nhớ những lúc ông đến phòng ăn phía sau của tôi để có một bữa tối ngon miệng!’ Vị bác sĩ rụt rè lên tiếng, ‘Tôi nghĩ chúng ta nên xem xét cái xác, có vẻ chúng ta đang lãng phí thời gian mà không đi đến đâu cả.’ Nói vậy, anh ta liền bước vài bước lên phía trước, tháo cái khuy giả cài ống tay áo ra, cho nó vào túi và xắn tay áo lên cao sau khi đã đưa áo khoác cho người quản gia cầm hộ. Vị bác sĩ cú người xuống cẩn thận quan sát cái xác mà không chạm vào nó. Rồi với một cái đá chân nhanh nhẹn, anh ta lật ngửa cái xác lên. Cái xác bây giở nằm ngửa mặt lên trần, đôi mắt nhìn trân trân lên trần nhà. Ngài Algernon ở trên trần nhà nhìn xuống và thấy tất cả với một sự kinh ngạc vô cùng. Anh ta cảm thất rất kì lạ về chuyện này, trong một lúc anh ta không thể hiểu chuyện gì đang diễn ra. Nhưng có một lực giữ anh ta gắn chặt lên trần nhà đối diện, và linh hồn của Algernon nhìn chăm chăm vào đôi mắt mở trừng trừng, đầy máu của cơ thể đã chết của mình. ‘Ngài Algernon đáng thương đây đã từng là một đại úy trong cuộc chiến tranh Boer. Ngài đã chiến đấu một cách cao thượng chống lại người Boer và đã bị thương rất nặng. Không may ngài đã bị thương ở một chỗ nhạy cảm nhất mà tôi không thể giải thích một cách rõ ràng hơn trước mặt các quí cô ở đây, và càng ngày sự bất lực trong việc – à – làm việc đó đã khiến ngài trở nên suy sụp, và trong nhiều dịp chúng tôi và những người khác đã nghe ngài nói rằng cuộc sống này không còn đáng sống nữa và ngài dọa rằng sẽ kết thúc tất cả. Bà vú nuôi sụt sịt vì thương cảm, và một cô hầu gái khác cũng sụt sịt theo. Anh đầy tớ lúc nãy thì khẽ khẳng định rằng anh ta cũng đã từng nghe thấy điều tương tự. Rồi vị bác sĩ nhìn vào chồng khăn tắm được xếp rất ngay ngắn trên giá và, với một động tác nhanh nhẹn anh ta gạt chúng xuống dưới đất. Anh ta dùng chân chùi vũng máu trên sàn đã bắt đầu đông lại. Sau đó anh ta nhìn vào cái tay vịn buồng tắm và thấy một cái một cái thảm dùng cho phòng tắm khá daỳ. Anh ta liền đặt nó lên sàn bên cạnh cái xác và quì xuống. Anh ta lấy cái ống nghe bằng gỗ, cởi cúc áo của người chết, đặt một đầu ống nghe lên ngực người chết và đặt tai mình lên đầu kia để nghe. Mọi người đều im lặng, nín thở, và rồi cuối cũng vị bác sĩ lắc đầu và nói, ‘Không còn dấu hiệu của sự sống nữa, ông ta đã chết.’ Rồi vị bác sĩ cất cái ống nghe đi, để nó vào bên trong một cái bao trong một cái túi đặc biệt và đứng lên, chùi tay vào một mảnh vải mà bà vú nuôi đưa cho. Viên cảnh sát chỉ tay vào cái dao cạo và nói, ‘Bác sĩ, đây có phải là vật đã lấy mạng người chết?’ Vị bác sĩ nhìn xuống, dùng chân gạt cái dao cạo và cầm một mảnh vải nhặt nó lên. ‘Đúng,’ anh ta nói, ‘vật này đã cắt từ động mạch chủ qua tĩnh mach chủ và lại vào động mạch chủ. Cái chết gần như đến ngay lập tức. Tôi cho là chỉ mất khoảng bảy phút.’ Viên cảnh sát Murdock bận rộn liếm đầu cái bút chì và ghi chép lia lịa vào quyển sổ tay. Một cỗ xe ngựa nặng nề đi đến. Một lần nữa tiếng chuông gọi cửa lại vang lên trong nhà bếp, tiếng người lại vang lên trong sảnh, và rồi một người đàn ông hoạt bát thấp bé đi lên cầu thang. Ông ta cúi đầu kiểu cách chào người quản gia, vị bác sĩ và viên cảnh sát theo thứ tự. ‘A, đó có phải là cái xác cần tôi xử lí?’ ông ta hỏi. ‘Người ta bảo tôi đến đây để nhận một xác chết, xác của một người tự tử.’ Viên cảnh sát nhìn vị bác sĩ, vị bác sĩ nhìn viên cảnh sát, rồi cả hai cùng nhìn ông Harris. ‘Ông có gì để nói không, ông Harris? Ông có biết liệu có người họ hàng nào của người chết cũng đang đến đây không?’ viên cảnh sát hỏi. ‘Không, thưa ngài cảnh sát, họ không thể đến đây nhanh như vậy được. Tôi tin là người họ hàng ở gần nhất cũng sống cách đây một nửa ngày đi ngựa nếu con ngựa đó đi nhanh, và tôi cũng đã gửi một người đưa tin đi rồi. Tôi nghĩ sẽ là hợp lý nếu để người thầu việc đám ma mang cái xác về chỗ ông ta, bởi vì hiển nhiên là chúng ta không thể để người thân của ngài Algernon nhìn thấy ngài trong tình trạng bi thảm như thế này phải không?’ Viên cảnh sát đưa mắt nhìn vị bác sĩ, vị bác sĩ nhìn viên cảnh sát, rồi cả hai cùng nói. ‘Đúng vậy.’ Viên cảnh sát với tư cách là người đại diện pháp luật nói, ‘Được rồi, hãy mang cái xác đi, nhưng các ông hãy làm một bản tường trình đầy đủ gửi cho đồn cảnh sát sớm nhất có thể. Ngài Đồn trưởng muốn có báo cáo trước sáng mai.’ Vị bác sĩ nói, ‘tôi sẽ thông báo cho điều tra viên về vụ việc này, có thể là ông ta sẽ muốn tiến hành một cuộc khám nghiệm tử thi.’ Vị bác sĩ và viên cảnh sát đi ra ngoài. Người thầu việc đám ma yêu cầu ông quản gia, anh đầy tớ, bà vú nuôi và cô hầu gái đi chỗ khác, sau đó hai người trợ tá của ông ta đi lên cầu thang mang theo một cái quan tài nhẹ. Họ để chiếc quan tài trên sàn bên ngoài buồng tắm và bỏ nắp quan tài ra. Bên trong quan tài là mạt cưa chiếm đến một phần tư. Rồi họ đi vào phòng tắm, nâng cái xác lên, và không một chút kiểu cách họ thả cái xác vào trong đống mạt cưa rồi đặt cái nắp quan tài về đúng chỗ. Họ rửa tay lấy lệ dươi vòi nước và không tìm thấy một cái khăn sạch nào hết, họ chùi bàn tay rỉ nước của mình lên tấm rèm cửa. Rồi họ đi ra hành lang, dấu chân dính đầy máu đang đông lại của họ trải dài suốt tấm thảm ngoài hành lang. Với nhiều tiếng càu nhàu, họ nhấc cái quan tài lên và khiêng nó xuống cầu thang. ‘Để một tay ở đây, anh kia,’ ông chủ nói với hai người trợ tá, ‘Giữ lấy phía đầu thấp hơn, đừng có để cho ông ta rơi ra ngoài.’ Hai người đàn ông sải chân, cẩn thận đưa chiếc quan tài xuống cầu thang và ra bên ngoài, rồi đẩy nó vào trong cái thùng xe màu đen. Người chủ thầu đám ma chui vào bên trong xe, hai người trợ tá thì ngồi lên trên thùng, dây cương ngựa căng lên và những con ngừa bắt đầu chầm chậm đi nước kiệu. Viên cảnh sát Murdock lại leo lên cầu thang một cách vất vả rồi ông ta đi vào phòng tắm. Ông ta dùng một miếng vải nhặt cái dao cạo lên và để nó sang một bên. Sau đó ông ta tiếp tục khám nghiệm hiện trường để tìm bất cứ thứ gì có thể dùng làm bằng chứng. Linh hồn của ngài Algernon bị dính chặt vào trần nhà và nhìn xuống với một sự kinh ngạc hoàn toàn. Và rồi, vì một lí do nào đó, viên cảnh sát Murdock ngẩng đầu nhìn lên trần nhà, ông ta kêu lên một tiếng đầy sợ hãi và ngồi sụp xuống làm lung lay cả cái toilet. Cùng với việc đó linh hồn của ngài Algernon biến mất, và anh ta không còn nhận thức được nữa. Anh ta chỉ cảm nhận thấy một vài tiếng vo ve rất lạ, một luồng xoáy kì cục, những đám mây đen cuộn lại giống như khói bay ra từ cái đèn đọc sách dùng dầu hỏa mà lửa quá to, và rồi anh ta thấy như mình bị bỏ lại một mình trong một căn phòng. Và rồi bóng tối bao phủ lấy anh ta, linh hồn của ngài Algernon không còn có chút hứng thú nào với việc tiếp tục nữa, chí ít là lúc này. Algernon Reginald St. Clair de Bonkers cựa mình một cách không dễ dàng trong một thứ như là một giấc ngủ sâu do dùng thuốc. Những ý nghĩ kì lạ đến rồi đi trong nhận thức mơ hồ của anh ta. Có tiếng nhạc của thiên đàng và cả âm thanh của địa ngục. Algernon cựa mình một cách bực bội, và khi đã nhận thức được rõ hơn, anh ta cựa quậy và nhận ra trong sự kinh ngạc rằng cử động của anh ta dật dờ, lờ đờ giống như anh ta đang ở trong một đống bầy nhầy khổng lồ. Algernon Reginald St. Clair de Bonkers giật mình tỉnh dậy, anh ta cố ngồi thẳng dậy nhưng nhận ra rằng làm thế là chẳng ích gì, anh ta chỉ có thể cử động một cách rất chậm. Hoảng sợ, anh ta cố gắng vùng vẫy khổ sở nhưng nhận ra rằng động tác của mình rất chậm chạp, lờ đờ, và điều đó làm anh ta bình tĩnh lại khá nhiều. Anh ta cố xem xem mắt mình đang nhắm hay mở, bởi vì anh ta không thấy một chút ánh sáng nào. Vấn đề không phải là ở chỗ mắt anh ta nhắm hay mở, anh ta không cảm giác thấy ánh sáng. Anh ta đặt tay xuống để cảm nhận chất liệu của chiếc giường, nhưng rồi anh ta thét lên kinh hãi bởi vì không có chiếc giường nào bên dưới anh ta cả, anh ta đang lơ lửng - đúng như anh ta nghĩ – ‘giống như một con cá mắc kẹt trong nước xi rô trong bể cá.’ Trong môt lúc anh ta cố gắng đập tay một cách yếu ớt như là một người đang bơi, cố gắng đẩy một cái gì đó lên phía trước để anh ta có được sự thỏa mãn là mình đã di chuyển được một chút. Nhưng anh ta càng cố gắng để đẩy với bàn tay xòe rộng, với cánh tay và đôi bàn chân ấn mạnh xuống, thì ‘cái gì đó’ lại càng kéo anh ta lại. Anh ta kinh ngạc thấy rằng những nỗ lực đó không làm anh ta thở dốc, không làm anh ta mệt mỏi, vì vậy, nhìn thấy sự vô dụng của những nỗ lực dùng cơ bắp, anh ta nằm xuống bất động và suy nghĩ. ‘Mình đang ở đây thế này?’ anh ta tự hỏi. ‘À phải, mình nhớ ra rồi, mình đã quyết định tự sát, mình đã quyết định rằng có tiếp tục sống như mình vẫn đang sống, bị cách li khỏi phụ nữ vì chứng bất lực, thì cũng là sống vô ích. Không may làm sao,’ anh ta tự lẩm bẩm với mình, ‘là những tên Boer bẩn thỉu lại bắn mình ngay đúng CHỖ ĐÓ!’ Trong một lúc anh ta nằm đó nghĩ về qua khứ, nghĩ về tên Boer râu quai nón, kẻ đã giương súng lên và chủ tâm, hoàn toàn chủ tâm, nhắm vào anh ta không với mục đích giết anh ta, mà với mục đích mà người ta có thể gọi một cách lịch sự là cướp đi sự nam tính của anh ta. Anh ta nghĩ về ‘Vicar thân mến’ kẻ đã tiến cử nhà của anh ta như một chỗ trú thân an toàn cho những cô hầu gái cần mưu sinh kiếm sống. Anh ta cũng nghĩ về bố anh ta, người đã nói khi chàng trai trẻ vẫn còn đang đi học, rằng ‘Algernon à, con phải học một vài thực tế của cuộc sống, con phải thực hành trên một vài người hầu gái chúng ta có ở đây, con sẽ thấy bọn chúng khá là hữu dụng để vui đùa nhưng hãy chắc chắn rằng con không có ý định gì nghiêm túc. Những tầng lớp hạ lưu này chỉ là để phục vụ cho con thôi, phải không nào?’ ‘Đúng vậy’, anh ta nghĩ, ‘ngay cả bà vú nuôi cũng cười đầy ý nhị khi một cô hầu gái đặc biệt xinh đẹp đến xin làm việc. Bà vú nuôi nói, ‘Cô sẽ hoàn toàn an toàn ở đây, cô gái thân mến, cậu chủ sẽ không làm phiền cô chút nào đâu, cậu ý như một trong những con ngựa ngoài đồng kia, cô biết đấy, chúng đã được đi gặp bác sĩ. Đúng vậy, cố sẽ an toàn tuyệt đối ở đây,’ và bà vú nuôi quay đi với một cái cười khúc khích tinh quái. Algernon nhìn lại từng chi tiết của cuộc đời mình. Viên đạn đã làm cho mọi thứ đảo lộn, anh ta đã ngã quị và nôn mửa trong đau đớn. Tai anh ta vẫn còn nghe thấy tiếng cười khàn khàn của người nông dân già người Boer khi ông ta nói ‘Không còn gì cho mày nữa, mày sẽ không có người nối dõi. Bây giờ mày sẽ như những tên hoạn quan mà chúng ta đã từng nghe đến.’ Algernon cảm thấy toàn thân nóng ran vì nhục nhã, và nó làm anh ta nhớ tới kế hoạch tự sát mà anh ta đã dày công chuẩn bị, sau khi quyết định là anh ta không thể tiếp tục sống với tình trạng này. Anh ta không thể tha thứ được việc Vicar đã cạnh khóe về bệnh tật của anh khi hắn ta đề nghị anh, nói rằng hắn ta vui làm sao khi có một người đàn ông trẻ tuổi, an toàn giúp cho buổi họp mặt phụ nữ, buổi học may chiểu chủ nhật và tất cả những thứ kiểu đó bởi vì – như Vicar nói – ‘Cẩn thận không bao giờ thừa đúng không? Chúng ta không được phép để cho danh tiếng của Nhà thờ chúng ta bị nghi ngờ.’ Và rồi cả lão bác sĩ gia đình già, bác sĩ Mortimer Davis, kẻ đã cưӥi con ngựa già Wellington của ông ta đến viếng thăm vào một buổi tối. Bác sĩ Davis đáng lẽ đã có thể ngồi trong phòng làm việc của anh ta và cả hai cùng thoải mái uống rượu, nhưng ông ta đã làm hỏng đi sự thoải mái khi ông ta nói, ‘Ngài Algernon à, tôi nghĩ là tôi nên khám cho ngài, chũng ta nên chắc chắn là ngài không đang phát triển một vài đặc tính nữ, bởi vì trừ phi chúng ta kiểm soát một cách chặt chẽ nhất có thể, ngài có thể sẽ thấy râu ngài rụng đi và ngài sẽ phát triển – e hèm – một bộ ngực của phụ nữ. Một trong những điều chúng ta có thể nhận ngay thấy, đó là bất kì thay đổi nào trong giọng nói của ngài, bởi vì giờ đây khi trong người ngài đã không còn một số tuyến, hooc môn trong cơ thể ngài cũng thay đổi theo.’ Lão bác sĩ nhìn anh bằng một cái nhìn chế nhạo để xem phản ứng của anh, rồi nói, ‘Nào, tôi nghĩ là tôi có thể uống thêm một cốc rượu nữa, ngài có những loại rượu đắt tiền nhất ở đây, người cha thân yêu của ngài là một người rất sành sỏi về của ngon vật lạ trên đời, đặc biệt là phụ nữ, hê hê hê!’ Algernon tội nghiệp đạt đến mức không thể chịu đựng được nữa khi một ngày anh ta nghe thấy ông quản gia nói với bà vú nuôi, ‘Thật là một chuyện khủng khiếp, bà biết đấy, chuyện đã xảy ra với ngài Algernoon, một chàng trai trẻ sôi nổi, nam tính làm sao, cậu ta đã làm vẻ vang cho cả giới quí tộc. Tôi biết rất rõ về việc, trước khi bà đến đây và trước khi cậu ấy tham gia chiến tranh, cậu ấy đã từng đi săn chó sói và tạo được một ấn tượng rất tốt đẹp trong mắt các mệnh phụ trong vùng. Họ luôn mời cậu Algernon đến các buổi tiệc, họ luôn nhìn cậu ấy như một chàng rể thích hợp nhất và đáng thèm muốn nhất cho con gái họ. Còn bây giờ - những bà mẹ trong vùng nhìn cậu ấy bằng vẻ thương cảm, nhưng ít nhất họ biết là cậu ta không cần có một người đi kèm khi cậu đi chơi với con gái họ. Một chàng trai rất an toàn, thật sự là một chàng trai rất an toàn.’ ‘Phải,’ Algernon nghĩ, ‘thật sự là một chàng trai rất an toàn. Minh tự hỏi là họ sẽ làm gì ở địa vị của mình, nằm đó trên chiến trường với cái quần ống túm của bộ quân phục nhuộm một màu đỏ, rồi bác sĩ phẫu thuật tới nơi, cắt quần áo của anh ta ra, và với một con dao sắc lẹm ông ta cắt đi phần còn sót lại của của cái khiến anh ta khác với một người đàn bà. Ôi! Sự đau đớn của việc đó. Ngày nay có một thứ người ta gọi là thuốc mê được kê để giảm đau, để khiến một người không còn cảm thấy cơn đau trong khi phẫu thuật, nhưng lúc đó trên chiến trường, không, không có gì hết ngoài một con dao sắc và một viên đạn cắn giữa hai hàm răng để anh ta khỏi hét lên. Và nỗi nhục nhã của việc đó, của việc bị mất đi CÁI ĐÓ. Những kể cấp dưới nhìn anh ta xấu hổ, và cùng lúc đó thì thốt ra những câu chuyện tục tĩu sau lưng anh ta. ‘Đúng vậy, thật là nhục nhã. Thành viên cuối cùng của một gia tộc lâu đời, dòng họ De Bonker, những người đã tham gia vào cuộc chinh phạt của người Norman, định cư tại một vùng vô cùng trù phú của nước Anh, xây dựng nên một lãnh địa lớn và có nông dân làm thuê. Giờ đây anh ta, người cuối cùng của dòng họ, vì phục vụ cho tổ quốc mà trở nên bị bất lực, bị bất lực và bị chế nhạo bởi những kẻ ngang hàng với anh ta. Và có gì để mà chế nhạo’ anh ta nghĩ, ‘ở một người đàn ông bị thương vì lợi ích của những người khác cơ chứ? Anh ta nghĩ tới việc vì đã chiến đấu cho đất nước mà giờ đây dòng họ của anh ta đã tuyệt tự.’ Algernon nằm đó, không phải trong không khí, không phải trên mặt đất. Anh ta không thể đoán chắc được anh ta đang ở đâu hay anh ta đang là gì. Anh ta nằm đó bập bềnh như một con cá và nghĩ, ‘Minh đã chết chưa nhỉ? Cái chết là gì? Mình đã thấy mình chết, vậy thì làm thế nào mà mình lại đang ở đây?’ Suy nghĩ của anh ta không tránh khỏi quay về những sự kiện kể từ khi anh ta quay lại Luân Đôn. Anh ta thấy lại hình ảnh mình đi lại một cách khó khăn, và việc anh ta chăm chú để ý tới lời nói và hành động của những người hàng xóm, của gia đình và những người giúp việc trong nhà. Ý nghĩ đó càng ngày càng lớn, ý nghĩ về việc anh ta nên tự kết liễu đời mình, kết thúc cái cuộc sống vô ích này. Có một lần anh ta đã tự khóa mình trong phòng làm việc, lấy súng ra, cẩn thận lau chùi nó, cẩn thận cho đạn vào súng và nhồi thuốc nổ. Rồi anh ta đăt nòng súng lên thái dương bên phải và bóp cò. Nhưng chỉ có một tiếng thịch ẩm ướt vang lên. Trong một lúc lâu anh ta ngồi đó sửng sốt, không tin vào những gì vừa xảy ra, khẩu súng trung thành mà anh ta đã mang theo mình và sử dụng trong chiến tranh cuối cùng đã phản bội anh ta, anh ta vẫn còn sống. Anh ta trải một miếng giấy sạch lên bàn và đặt khẩu súng lên đó. Mọi thứ đều ổn, thuốc súng, đạn, và nắp súng, mọi thứ đều hoàn hảo. Anh ta lắp súng lại lần nữa, thuốc súng, đạn và nắp súng, và không nghĩ ngợi gì anh ta kéo cò. Một tiếng nổ lớn vang lên, anh ta đã bắn vӥ cửa sổ. Có tiếng chân người chạy đến và rồi tiếng đấm thình thịch vào cửa. Một cách châm chạp anh ta đứng lên, đi ra mở cửa và nhìn thấy gương mặt trắng bệch đầy sợ hãi của người quản gia. ‘Ôi, ngài Algernon, ngài Algernon, tôi cứ nghĩ rằng một sự rủi ro chết người đã xảy ra,’ người quản gia nói trong một cơn kích động đáng kể. ‘Ồ không, mọi thứ đều ổn, tôi chỉ đang lau chùi lại khẩu súng và súng cướp cò – ông có thể bảo ai đó đến thay cửa sổ được chứ?’ Rồi trong một lần cưӥi ngựa, anh ta chọn một con ngựa cái già màu xám và cưӥi nó ra khỏi chuồng thì nghe thấy thằng bé dắt ngựa thì thầm với người trông chuồng ngựa, ‘Hai con ngựa cái già đi cùng nhau, ê, ông nghĩ thế nào?’ Anh ta quay lại, quất thằng bé dắt ngựa bằng cái roi quất ngựa, rồi quẳng cái dây cường qua cổ con ngựa, anh ta nhảy xuống đất và quay vội về nhà, không bao giờ cưӥi ngựa lại nữa. Một lần khác anh ta đã nghĩ tới một cái cây kì lạ có nguồn gốc từ một đất nước gần như không được biết đến Brazil, một cái cây có thể đem lại cái chết tức thì khi một người ăn quả của nó và nước độc của nó trôi xuống họng người đó. Anh ta đã làm thế, anh ta đã có được cái cây đó, đó là quà của một người đã đi du lịch khắp thế giới. Trong nhiều ngày anh ta cẩn thận tưới cho cái cây, chăm sóc nó như là đứa con đầu tiên của mình, và rồi khi cái cây ra quả và mạnh khỏe, anh ta hái quả của nó và cho đầy vào mồm. ‘Ôi, nỗi đau đớn của việc đó,’ anh ta nghĩ. ‘sự nhục nhã của việc đó. Không phải là cái chết, mà là những thứ tồi tệ hơn cái chết cả nghìn lần. Dạ dày bị xáo trộn khủng khiếp! Chưa bao giờ trong lịch sử,’ anh ta nghĩ. ‘lại có một loại thuốc xổ khiến anh ta không kịp cả đi vào nhà xí. Và cú sốc của bà vú nuôi khi bà cầm lấy đống quần áo bẩn thỉu của anh ta và đưa cho người giặt là.’ Chỉ nghĩ vậy thôi đã khiến mặt anh ta đỏ lựng. Và rồi là cố gắng cuối cùng này. Anh ta đã nhờ đến người thợ rèn kiếm tinh xảo nhất ở Luân Đôn, và anh ta đã nhận được một cái dao cạo tốt nhất và sắc nhất, một dụng cụ tuyệt đẹp trên đó có khắc tên và huy hiệu của người làm ra nó. Ngài Algernon liếc đi liếc lại lưӥi dao trên một miếng da. Và rồi với một với nhát cắt nhanh gọn, anh ta cắt cuống họng mình từ tai này sang tai kia, chỉ còn có xương cổ là giữ cho đầu anh ta còn gắn trên vai. Bây giờ thì anh ta đã chết. Anh ta biết là mình đã chết bởi vì anh ta đã tự giết mình, vì anh ta đã nhìn từ trên trần xuống và thấy anh ta nằm trên sàn, đôi mắt nhanh chóng trở nên băng giá. Anh ta nằm đó trong bóng tối, và suy nghĩ. Cái chết? Cái chết là gì? Liệu có cài gì sau cái chết không? Anh ta và cấp dưới của anh ta và những người sĩ quan khác thường hay tranh luận về vấn đề này trong buổi giảng đạo. Cha sứ đang cố gắng giải thích về cuộc sống bất tử, về việc lên thiên đường, thì một người lính kị binh táo bạo, một thiếu tá nói, ‘Ôi không, thưa cha, tôi chắc chắn là cha đã hoàn toàn sai rồi. Khi một người chết thì là người đó chết và chỉ có thế thôi. Có phải cha đang nói rằng nếu tôi giết một tên Boer thì hắn sẽ đi thẳng lên thiên đường hay là một chỗ khác? Nếu tôi giết hắn với một viên đạn xuyên qua tim và dẫm chân lên ngực hắn, thì tôi có thể nói với cha rằng hắn chắc chắn là ở dưới chân tôi, đã chết, chết như một con lợn bị nhồi. Chết là hết, đó là tất cả.’ Anh ta nghĩ về tất cả mọi luận điểm về cuộc sồng sau khi chết. Anh ta tự hỏi vì sao người ta lại có thể nói rằng có cuộc sống sau khi chết. ‘Nếu mày giết một người đàn ông – vậy thì anh ta chết và đó là tất cả. Nếu linh hồn có tồn tại thì chắc hẳn mày sẽ nhìn thấy một cái gì đó rời khỏi thân xác người chết, phải không?’ Algernon nằm đó và cân nhắc về toàn bộ vấn đề, tự hỏi điều gì đã xảy ra, anh ta đang ở đâu? Và rồi anh ta có một ý nghĩ khủng khiếp là có thể tất cả chỉ là một cơn ác mộng, rằng anh ta đã bị mất trí và bị nhốt vào trong trại thương điên. Lời của cha sứ vọng lại trong tai anh ta: ‘Khi con rời khỏi thân xác, một thiên thần sẽ đến để đón con và chỉ dẫn cho con. Con sẽ được Chúa phán xét, và con sẽ nhận lấy mọi hình phạt mà Chúa ra lệnh.’ Algernon băn khoăn về toàn bộ chuyện này. ‘Nếu Chúa tốt bụng, tại sao một người lại bị trừng phạt ngay khi người ta vừa chết? Và nếu như người đó đã chết rồi thì làm sao một hình phạt lại ảnh hưởng đến anh ta được? Bây giờ anh ta ở đây; anh ta nghĩ, ‘nằm yên lặng, không có đau đớn gì đặc biệt, không có niềm vui gì đặc biệt, chỉ nằm đó yên lặng.’ Đúng lúc đó Algernon bắt đầu cảm thấy sợ. Một cái gì đó vừa quét qua anh ta. Giống như có một bàn tay luồn vào trong sọ anh ta. Anh ta có một ấn tượng, không phải là một giọng nói, mà là một ấn tượng, một cảm giác là ai đó đang nói với anh ta bằng ý nghĩ, ‘Bình an, im lặng, lắng nghe.’ Trong một lúc Algernon vùng vẫy, cố gắng chạy trốn. Điều này quá bí ẩn, quá lộn xộn, nhưng mà anh ta bị kẹt ở đó. Và một lần nữa anh ta lại có ấn tượng đó, ‘Bình an, im lặng, và rũ bỏ mọi thứ.’ Algernon tự nhủ, ‘ta là một sĩ quan và là một quí ông. Ta không được hoảng sợ, ta phải làm gương cho binh lính của mình.’ Vì vậy, mặc dù bối rối nhưng anh ta tự trấn tĩnh lại và để cho yên tĩnh và bình an tràn vào trong mình. CHƯƠNG III. LÀM QUEN VỚI THẾ GIỚI BÊN KIA Algernon bỗng giật mình vì sốc. Sự kinh hoàng chiếm lấy anh ta. Trong một khắc anh ta nghĩ rằng não anh ta sắp sửa nổ tung ra khỏi hộp sọ. Xung quanh anh ta màu đen càng ngày càng đen hơn. Mặc dù anh ta không nhìn thấy gì trong một màn đêm hoàn toàn, anh ta có thể CẢM THẤY một cách không thể giải thích nổi có những đám mây trương phình một màu đen hơn cả màu đen đang cuộn lại xung quanh, bọc lấy anh ta. Xuyên qua bóng tối dường như anh ta thấy có một tia sáng, mỏng như cây bút chì, tiến lại gần anh ta và chạm vào anh ta, và cùng với tia sáng có chiều dày của cây bút chì là ấn tượng ‘Bình an, bình an, yên lặng và chúng ta sẽ nói chuyện với con.’ Bằng một nỗ lực phi thường Algernon cố gắng kìm nén cơn hoảng loạn. Dần dần anh ta bình tĩnh trở lại và một lần nữa chờ đợi một cách ít nhiều điềm tĩnh điều sắp diễn ra. Nó đến khá nhanh; ‘Chúng ta sẵn sàng giúp đӥ con – chúng ta mong muốn được giúp con nhưng con sẽ không để chúng ta làm điều đó.’ Algernon lặp lại điều đó trong đầu. ‘Con sẽ không để chúng ta làm điều đó,’ anh ta nghĩ, ‘nhưng mình còn chưa nói gì với họ cả, làm sao họ có thể nói là mình sẽ không để họ giúp mình? Mình không biết họ là ai, mình không biết họ sẽ làm gì, mình thậm chí còn không biết mình đang ở đâu. Nếu đây là cái chết,’ anh ta nghĩ, ‘xem nào, đây là cái gì nhỉ? Sự không tồn tại? Sự hư vô? Có phải mình đã bị kết án phải sống vĩnh viễn trong bóng tối như thế này? Nhưng ngay cả vậy,’ anh ta nghĩ, ‘thì lại nảy sinh một vấn đề. Sống? Vậy mình có đang sống không?’ Những ý nghĩ liên tục kéo đến làm đầu óc anh ta rối loạn. Một lời giảng từ khi anh ta còn nhỏ vọng lại: ‘Không có cái chết – Ta là sự hồi sinh – Trong ngôi nhà của Cha ta có rất nhiều chỗ, ta sẽ chuẩn bị một Chỗ cho các con – Nếu các con cư xử tốt các con sẽ được lên Thiên đường – Nếu các con xử sự xấu các con sẽ xuống Địa ngục – Chỉ có những người Công giáo mới có cơ hội lên Thiên đường.’ Quá nhiều lời nói mâu thuẫn với nhau, quá nhiều sự hiểu lầm, quá nhiều kẻ mù quáng dạy cho kẻ mù quáng. Các cha sứ và các giáo viên của trường học ngày chủ nhật, họ làm mù mắt mình vá cố gắng dạy cho những người mà họ nghĩ là còn mù hơn cả họ. ‘Địa ngục ư?’ anh ta nghĩ. ‘Địa ngục là gì? Thiên đường là gì? Có thật sự có thiên đường không?’ Một luồng tư tưởng mạnh mẽ vang đến tâm trí anh ta: ‘Chúng ta sẵn lòng giúp con nếu trước hết con chịu chấp nhận cái tiên đề là con đang sống và rằng có tồn tại cuộc sống sau khi chết. Chúng ta sẵn lòng giúp con nếu chịu mở lòng để tin vào chúng ta và tin vào những điều mà chúng ta dạy cho con.’ Đầu óc của Algernon mắng nhiếc cái luồng tư tưởng đó. Chấp nhận giúp đӥ, thật là vớ vẩn làm sao. Và cả chuyện tin tưởng ngu ngỗc, vô nghĩa đó nữa. Anh ta có thể tin cái gì đây? Nếu anh ta tin thì có nghĩa là đã có một sự nghi ngờ. Anh ta muốn những cái thực tế, không phải là niềm tin. Thực tế là anh ta đã chết dưới tay chính mình, thực tế thứ hai là anh ta đã chính mắt nhìn thấy xác chết của mình, và thực tế thứ ba là anh ta đang ở trong một bóng tối hoàn toàn, có vẻ như được nhúng trong một thứ chất bầy nhầy, trường phình nào đó rất khó cử động. Và rồi những người ngu ngốc từ một nơi nào đó mà anh ta không biết, gửi những tư tưởng vào đầu anh ta bảo rằng anh ta nên tin. Vậy – anh ta nên tin CÁI GÌ? ‘Con đang ở giai đoạn tiếp theo sau khi chết,’ giọng nói, hay ý nghĩ, hay ấn tượng, hay là cái gì cũng được, nói với anh ta. ‘Con đã được bảo ban, dạy dỗ và dẫn dắt một cách sai lầm khi con ở trên Trái đất, và nếu con muốn thoát ra khỏi cái nhà tù mà con đã tự áp đặt cho mình thì chúng ta sẽ đưa con ra.’ Algernon im lặng, ngẫm nghĩ về toàn bộ vấn đề, và rồi anh ta trả lời. ‘Vậy,’ anh ta phát ra ý nghĩ trong đầu, ‘nếu các người muốn cho tôi tin thì trước hết hãy nói cho tôi biết chuyện gì đang xảy ra cho tôi. Các người nói là tôi đang ở giai đoạn tiếp theo sau khi chết, nhưng tôi đã tưởng là chết là kết thúc của tất cả mọi thứ.’ ‘Chính xác!’ ý nghĩ hay giọng nói rất mạnh mẽ đó vang lên. ‘Chính xác! Con đang bị bao phủ bởi những đám mây đen của nghi ngờ và của sự vô minh. Con đang bị bao phủ bởi bóng tối của sự vô tri, và sự cách ly này là do con tự tạo ra, tự áp đặt cho mình và chỉ có con mới có thể phá hủy được nó.’ Algernon không thích điều đó chút nào. Có vẻ như nó đang khiển trách anh ta về mọi thứ. Rồi anh ta nói, ‘Nhưng tôi không có lí do gì để tin cả, tôi chỉ có thể theo những gì tôi đã được dạy. Tôi đã được dạy rất nhiều điều ở nhà thờ, và khi còn là một đứa bé tôi đã được dạy dỗ bởi các giáo viên của trường học ngày chủ nhật và bởi một cô giáo tư. Và bây giờ các người nghĩ là tôi có thể vứt bỏ hết đi những điều đó chỉ vì một vài ấn tượng vô danh, không biết là cái gì đến trong đầu tôi? Hãy LÀM một điều gì đó để chỉ cho tôi thấy là còn có một cái gì đó bên trên bóng tối này.’ Bỗng nhiên bóng tối tách ra. Bóng tối được kéo sang một bên giống như tấm rèm sân khấu được kéo ra để các diễn viên có thể bắt đầu vở diễn. Algernon gần như bị mất cảm giác bởi một luồng sáng chói lòa và bởi những rung động kì diệu trong không khí. Anh ta suýt chút nữa thì hét lên vì ngây ngất trong khoảnh khắc đó, nhưng rồi – nghi ngờ, và với nghi ngờ bóng tối lại trùm lên, và một lần nữa anh ta lại chìm nghỉm trong cái màn đen trương phình. Nghi ngờ, hoảng loạn, tự buộc tội mình, mắng nhiếc những lời rao giảng của thế giới. Anh ta bắt đầu nghi ngờ sự tỉnh táo của mình. Làm sao những điều như thế này lại có thể? Bây giờ anh ta gần như chắc chắn là anh ta đã bị mất trí, chắc chắn rằng anh ta đang bị ảo giác. Tâm trí anh ta quay trở lại cái cây Brazil hiệu nghiệm mà anh ta đã ăn; cho rằng đã có một vài hiệu ứng phụ và rằng anh ta đang chịu những ảo giác không đến ngay lúc đó mà đến sau. Anh ta đã nhìn thấy xác chết của mình trên sàn – nhưng liệu có phải thế không? Làm sao anh ta có thể nhìn thấy mình khi mà anh ta đã chết? Anh ta nghĩ về lúc nhìn từ trên trần xuống, về cái chỗ hói trên chỏm đầu ông quản gia. Vậy, nếu đó là thật, tại sao trước đây anh ta đã không để ý thấy cái chỗ hói đó? Nếu đó là thật, tại sao anh ta đã không nhận ra một điều hiển nhiên là bà vú nuôi đội tóc giả? Anh ta cân nhắc lại vấn đề và giao động giữa ý nghĩ rằng cuộc sống sau khi chết là có thể, và việc anh ta đã bị mất trí một cách không thể chối cãi. ‘Chúng ta sẽ để con tự quyết định, bởi vì luật là không ai có thể được giúp đӥ trừ phi người đó sẵn sàng nhận sự giúp đӥ. Khi con đã sẵn sàng để nhận sự giúp đӥ, nói lên điều đó thì chúng ta sẽ đến. Và, hãy nhớ rằng, không có bất kì lí do gì để con tiếp tục áp đặt sự tự cô lập này. Bóng tối này là do con tưởng tượng ra.’ Không còn khái niệm thời gian. Những ý nghĩ đến rồi đi. Nhưng Algernon tự hỏi, ý nghĩ có tốc độ như thế nào? Anh ta đã có bao nhiêu ý nghĩ rồi? Nếu như anh ta biết được thì anh ta đã có thể tính được anh ta đã ở trong tư thế này và trong trạng thái này bao lâu rồi. Nhưng không, thời gian không còn có ý nghĩa gì nữa. Chẳng còn gì có ý nghĩa nữa cả. Anh ta đưa tay xuống và không thể cảm thấy gì bên dưới mình. Chậm chạp, với một nỗ lực như vô tận, anh ta nâng cả hai cánh tay lên. Nhưng chẳng có gì cả, chẳng có gì để cảm nhận, chẳng có gì ngoài cái cảm giác kì lạ như thể anh ta đang kéo tay mình trong nước si rô. Rồi anh ta để tay mình lên người và cảm nhận. Đúng vậy, đây là đầu anh ta, đây là cổ, đây là vai, tất nhiên đây là tay anh ta bởi vì anh ta đang dùng tay để sờ. Rồi anh ta nhảy dựng lên. Anh ta đang trần truồng và anh ta đỏ mặt vì ý nghĩ đó. Nếu như có ai đó đi vào và thấy anh ta trần truồng thì sao? Trong xã hội của anh ta thì đơn giản là một người không thể xuất hiện trần truồng được, thế là ‘không được’. Nhưng cho đến giờ thì anh ta có thể nói là anh ta vẫn còn có cơ thể con người. Và rồi những ngón tay đang rò rẫm, tìm kiếm của anh ta đột ngột dừng lại, và anh ta đi đến một kết luận chắc chắn là anh ta đã thật sự bị điên – điên rồi - khi những ngón tay của anh ta chạm phải phần cơ thể đã bị bắn bởi tay bắn tỉa người Boer, và chỗ đã bị con dao của bác sĩ phẫu thuật cắt đi. Anh ta vẫn còn nguyên vẹn. Hiển nhiên đó là trí tưởng tượng. Hiển nhiên là vậy rồi, anh ta nghĩ, anh ta đã nhìn xuồng cơ thể đang chết của mình, anh ta vẫn đang chết. Nhưng anh ta lại nhớ ra rằng anh ta đã nhìn xuống. Vậy, làm sao anh ta có thể nhìn xuống nếu anh ta chính là cơ thể đang chết? Nếu anh ta đã nhìn xuống, vậy hiển nhiên là có một phần của anh ta, linh hồn hay là bất cứ cái gì người ta gọi nó, đã đi ra khỏi cơ thể, và chỉ cái sự thật đơn giản là anh ta có thể nhìn xuống chính mình đã đủ để chỉ ra rằng có một cái ‘gì đó’ sau khi chết. Anh ta nằm đó cân nhắc, cân nhắc, cân nhắc. Não của anh ta dường như đang lạch cạch như một cái máy. Dần dần, từng chút kiến thức được nhặt nhạnh từ nhiều nơi trên thế giới được anh ta tập hợp lại. Anh ta nghĩ về một tôn giáo – nó là gì nhỉ? Đạo Hindu? Hồi giáo? Anh ta không rõ, một trong những tôn giáo ở một nơi khác trên thế giới mà chỉ có những người bản địa mới tin vào, nhưng dù vậy, họ có dạy rằng có cuộc sống sau khi chết, rằng những người đàn ông khi chết đi sẽ đến được một nơi mà có sẵn sàng hàng vô số những cô gái. Tuy anh ta không hề thấy bất kì cô gái nào, nhưng nó đặt anh ta vào một chuỗi suy nghĩ. Chắc hẳn phải có cuộc sống sau khi chết, phải có một cái gì đó, và phải có một ai đó, nếu không làm sao anh ta có thể có những ý nghĩ sáng như đèn pha đó trong đầu? Algernon nhảy lên vì kinh ngạc. ‘Ôi, bình mình đang đến,’ anh ta thốt lên. Trên thực tế bóng tối giờ đây đã bớt tối hơn và bớt phình ra hơn, anh ta thấy mình đang chìm xuống một cách nhẹ nhàng, nhẹ nhàng, cho đến khi đôi bàn tay đang dang ra bên dưới cơ thể anh ta chạm phải ‘một thứ gì đó’. Trong khi cơ thể tiếp tục chìm xuống thấp hơn, anh ta thấy bàn tay mình đang nắm – không, không thể nào! Nhưng những ngón tay anh đã khẳng định điều đó, đúng vậy, hai tay anh ta đang tiếp xúc với cỏ mềm, và rồi cơ thể không chống cự của anh ta đáp xuống một thảm cỏ mềm được cắt tỉa. Anh ta nhận ra rằng cuối cùng thì anh ta cũng ở trong một nơi hữu hình nào đó, rằng có những thứ khác bên cạnh bóng tối, và cùng với việc anh ta nhận thức được điều đó, bóng tối tan dần đi và anh ta ở trong một vùng ánh sáng đầy sương mù. Qua lớp sương mù anh ta có thể nhìn thấy những hình hài đại khái, không rõ ràng, không đủ để phân biệt những hình hài đó, nhưng đó là những ‘hình hài’. Ngước nhìn lên, anh thấy bóng của một người đang cúi nhìn mình. Anh có thể nhìn thấy hai bàn tay đưa ra như trong buổi lễ ban phúc, và một giọng nói, lần này không phải là bên trong đầu anh ta, mà là một giọng Anh thứ thiệt không thể lẫn đi đâu được của một người đến từ Eton hoặc Oxford! ‘Hãy đứng lên, con trai ta,’ giọng nói đó nói. ‘Hãy đứng lên và cầm lấy tay ta, cảm nhận rằng cơ thể của ta cũng như của con, và như vậy con sẽ có thêm một bằng chứng nữa cho việc con vẫn còn sống - ở trong một trạng thái khác, nhưng còn sống, và con càng sớm nhận ra rằng mình vẫn còn sống và rằng có cuộc sống sau khi chết thi con sẽ càng sớm có thể đi vào Chân lý vĩ đại’. Algernon cố gắng đứng dậy một cách yếu ớt, nhưng dường như mọi thứ đã khác đi, dường như anh ta không thể cử động cơ bắp của mình như trước đây, và rồi giọng nói lại vang lên : ‘Hãy tưởng tượng ra việc con đứng lên, tưởng tượng ra việc con đứng.’ Algernon làm như vậy, và trước sự kinh ngạc của mình, anh ta thấy mình đang đứng thẳng, có một hình hài cứ sáng lên rồi tối đi, rồi lại sáng lên rồi lại tối đi, cho đến khi anh ta nhìn thấy trước mặt mình một người đàn ông trung niên, từ ông ta tỏa ra một ánh sáng đặc biệt và ông ta mặc một chiếc ào choàng màu vàng. Algernon quan sát từ đầu đến chân người đó, và anh ta nhìn lại mình. Anh ta thấy mình trần truồng. Ngay lập tức anh ta thét lên một tiếng sợ hãi, ‘Ôi!’ anh ta nói, ‘Quần áo của tôi đâu? Người ta không thể thấy tôi như thế này được!’ Người đó cười với anh ta rồi nhẹ nhàng nói, ‘Quần áo không làm nên con người, bạn của ta. Một người được sinh ra trên Trái đất không có quần áo, thì người đó cũng được tái sinh tại thế giới như vậy. Hãy nghĩ đến những quần áo mà con muốn mặc, rồi con sẽ thấy chúng trên người mình.’ Algernon tưởng tượng ra anh ta như một sĩ quan trẻ dưới quyền bị đồng tính, mặc một cái quần màu xanh lính thủy đậm dài đến đúng gót chân, và một cái áo khoác màu đỏ tươi. Xung quanh hông, anh ta tưởng tượng ra một cái thắt lưng trắng sáng lóa với mấy túi đạn dược. Anh ta tưởng tượng ra những nút áo bằng đồng được đánh bóng kĩ lướng đến mức một người có thể thấy gương mặt mình trong đó. Và anh ta tưởng tượng ra trên đầu mình một cái mũ hộp tối màu với một cái quai bằng da vòng từ tai này xuống duới cằm lên tai kia. Anh ta tưởng tượng ra một bao kiếm ở bên hông, và rồi anh ta cười thầm trong bụng khi anh ta nghĩ, ‘Để xem họ làm thế nào!’ Trước sự kinh ngạc không thể nào tả nổi của anh ta, anh ta thấy cơ thể mình bị bó lại bởi bộ đồng phục, bởi cái thắt lưng chặt và đôi ủng quân nhân. Anh ta cảm thấy nặng ở bên hông, còn thắt lưng chỗ cài cái bao kiếm và cái túi da đựng khẩu súng thì bị kéo xuống vì sức nặng. Anh ta cảm thấy bên dưới cằm sức ép của cái quai mũ. Rồi anh ta quay đầu và thấy cái cầu vai lấp lánh trên đôi vai mình. Thế là quá nhiều – quá nhiều. Algernon ngất đi và tí nữa thì ngã vật xuống thảm cỏ nếu như người đàn ông trung niên không dịu dàng đặt anh ta xuống. Mí mắt Algernon giật giật và anh ta nói thì thầm một cách yếu ớt, ‘Con tin, ôi Chúa ơi, con tin. Xin hãy tha thứ cho những tội lỗi của con, cho những tội ác mà con đã phạm phải.’ Người đàn ông đi cùng anh ta mỉm cười đôn hậu với anh ta và nói, ‘Ta không phải là Chúa, ta chỉ là một người mang nhiệm vụ giúp cho những ai vừa mới ra khỏi một kiếp sống trên Trái đất tới đây, giai đoạn trung gian, và ta sẵn sàng giúp cho con khi nào con đã sẵn sàng để nhận sự giúp đӥ này.’ Algernon đứng dậy, lần này anh ta không gặp chút khó khăn nào và nói, ‘Con đã sẵn sàng để nhận sự giúp đӥ đó của ngài. Nhưng hãy cho con biết, có phải ngài đã đi đến Eton, có phải ngài đã ở Balliol?’ Người đó mỉm cười và nói, ‘Hãy gọi ta là Người Anh Em, và sau này chúng ta sẽ trả lời câu hỏi đó của con. Bây giờ trước hết con phải đi vào thế giới của mình đã.’ Người đó quay lưng lại và vẩy tay trong một động tác như thể người đó đang vẽ một tấm rèm, và kết quả đúng là như vậy. Những đám mây của bóng tối tiêu tan, bóng tối biến mất, và Algernon thấy mình đang đứng trên một thảm cỏ xanh rì. Không khí xung quanh anh ta rung lên cùng với sự sống và tràn đầy năng lượng. Không biết từ ở đâu xuất hiện một ấn tượng – không phải tiếng động, mà là một ấn tượng âm nhạc, ‘âm nhạc trong không khí’ anh ta có thể miêu tả như vậy, và anh ta thấy nó đặc biệt nhẹ nhàng. Mọi người đang đi lại giống như người ta đi lại trong công viên. Nó đưa đến cho anh ta một ấn tượng ban đầu là anh ta đang đi dạo trong công viên Green Park hoặc là Hyde Park. Các đôi tình nhân đang ngồi trên ghế, mọi người đi lại, và rồi một lần nữa Algernon lại bị một cú hoảng sợ khi thấy một vài người trong số họ đang di chuyển cách mặt đất vài phân. Một người đang chạy ở độ cao chắc chắn là phải ba mét cách mặt đất và đang bị một người khác đuổi theo, họ cười đùa với nhau một cách hạnh phúc. Algernon cảm thấy hơi lạnh ở sống lưng và anh ta rùng mình, nhưng Người Anh Em của anh ta nhẹ nhàng cầm lấy cánh tay anh ta và nói, ‘Đi nào, chúng ta hãy ngồi đây bởi vì ta muốn nói với con một chút về thế giới này trước khi chúng ta tiến xa hơn, nếu không những điều con sẽ thấy tiếp theo thực tế có thể sẽ cản trở sự hồi phục của con.’ ‘Phục hồi,’ Algernon nói. ‘Con không đang phục hồi từ chuyện gì cả, con hoàn toàn khỏe mạnh và bình thường.’ Người Anh Em của anh ta cười dịu dàng và nói, ‘Đi nào, chúng ta hãy ngồi xuống đây, ở chỗ mà chúng ta có thể ngắm bầy thiên nga và những con vịt nước, và chúng ta có thể cho con một cái nhìn sâu sắc về thế giới mới mà con đang thấy trước mắt.’ Một cách hơi miễn cưӥng, và vẫn còn xù lông vì tức giận với ý nghĩ là anh ta ‘bị ốm’, Algernon vẫn đi theo Người Anh Em của anh ta đến chiếc ghế gần đó. Họ ngồi xuống và người đó nói, ‘Hãy ngồi thật thoải mái, ta có nhiều thứ để kể cho con bởi vì bây giờ con đã ở bên trên thế giới kia, bây giờ con đã ở một thể khác của sự tồn tại, và con càng chú ý đến điều ta nói bao nhiêu thì con sẽ càng tiến bộ trong thế giới này bấy nhiêu.’ Algernon rất ấn tượng với cái ghế ngồi của công viên, nó rất thoải mái, giống như là vừa khít với người, hoàn toàn không giống với những cái công viên mà anh ta từng biết đến ở Luân Đôn, nơi mà một người không may có thể đạp phải một mảnh sắc khi đi lang thang trong công viên. Trước mặt họ, mặt nước ánh lên màu xanh và trên đó những con thiên nga trắng muốt đang bơi một cách uy nghiêm. Không khí ấm áp và sống động. Rồi một ý nghĩ đột ngột thoáng qua đầu Algernon, một ý nghĩ quá đột ngột và quá choáng váng đến nỗi anh ta gần như nhảy lên khỏi ghế; không có cái bóng nào! Anh ta nhìn lên và nhận ra cũng không có mặt trời. Cả bầu trời đang phát sáng. Người Anh Em nói, ‘Bây giờ chúng ta nên nói về mọi thứ vì ta cần phải dạy cho con về thế giới này trước khi con đến Nhà nghỉ dưӥng.’ Algernon nói chen vào, ‘Con hoàn toàn kinh ngạc về việc ngài mặc một chiếc áo choàng màu vàng. Ngài có phải là thành viên của một giáo phái hay một tổ chức, hay là một Hội tôn giáo nào đó không?’ ‘Ôi chúa lòng lành, con có một tâm trí thật bất thường! Màu của chiếc áo ta mặc thì có nghĩa lý gì? Cả việc ta đang mặc một chiếc ao choàng thì có nghĩa lý gì? Ta mặc một chiếc áo choàng vì ta muốn mặc một chiếc áo choàng, bởi vì ta thấy nó phù hợp với mình, bởi vì nó là trang phục cho nhiệm vụ ta làm.’ Người đó mỉm cười và chỉ vào trang phục của Algernon. ‘Con mặc một bộ đồng phục với cái quần màu xanh lục thẫm, cái áo màu đỏ tươi, và một cái mũ hộp kì dị trên đầu. Con đeo một cái thắt lưng màu trắng quanh hông. Thế vì sao con lại mặc theo một cách đặc biệt như vậy? Sẽ không có ai ở đây phê bình con vì cái cách con ăn mặc. Tương tự như vậy ta mặc theo cái cách hợp với ta, và bởi vì đây là đồng phục của ta. Nhưng – chúng ta đang lãng phí thời gian.’ Algernon cảm thấy như mình đang bị uốn nắn, rồi nhìn quanh anh ta thấy một vài người mặc áo choàng màu vàng khác đang nói chuyện với những người đàn ông và phụ nữ mặc trên người những bộ trang phục ngoại quốc. Người đồng hành cùa anh tiếp tục nói : ‘Ta phải nói với con,’ người đồng hành của anh nói, ‘rằng trên Trái đất con đã bị dẫn dắt một cách sai lầm nghiêm trọng về bản chất của kiếp sồng và đời sống sau này’. Những người đứng đầu các tôn giáo giống như một nhóm người tụ họp nhau lại, hay là một nhóm những người làm công việc quảng cáo, mỗi người tự quảng cáo về hàng hóa của mình, và mỗi người trong số họ hoàn toàn quên đi bản chất của kiếp sống và đời sống sau này’. Người đó dừng lại, nhìn quanh và tiếp tục nói, ‘Hãy nhìn vào những người ở đây, liệu con có thể nói được ai là người theo đạo Thiên Chúa, đạo Do Thái, đạo Phật hay đạo Hồi? Tất cả họ đều trông giống nhau, phải không? Và thực tế, tất cả mọi người mà con thấy trong công viên này trừ những người mặc áo choàng vàng đều có một điểm chung; họ đều là những người đã tự sát.’ Algernon lùi lại vì choáng váng – tất cả đều tự sát. Rồi anh ta nghĩ, có thể anh ta đang ở trong một cái Trại dành cho những người bị mất trí, và có thể người đàn ông trong chiếc áo choàng vàng là một Quản giáo. Anh ta nghĩ về tất cả mọi chuyện kì lạ đã xảy đến với anh ta, áp đặt lên sự nhẹ dạ của anh ta. ‘Con phải biết rằng tự sát là một tội rất, rất nặng. Không một ai nên tự sát. Không có bất kì lí do nào cho việc tự sát, và nếu như con người biết được họ sẽ phải trải qua những gì sau khi tự sát, họ có thể sẽ sáng suốt hơn. Đây,’ người đồng hành nói, ‘là một trung tâm đón tiếp nới những người đã tự sát được phục hồi, nhận được lời khuyên, và trở lại Trái đát trong một thân xác khác. Trước hết ta sẽ nói cho con biết về kiếp sống trên Trái đất và trong thể này của sự tồn tại.’ Họ ngồi một cách thoải mái hơn trên ghế, và Algernon nhìn những con thiên nga đang lướt nhẹ trên mặt nước. Anh ta để ý thấy có rất nhiều chim trên cây, cả sóc nữa, và anh ta cũng chú ý quan sát những người mặc áo choàng vàng đang nói chuyện với những người mà họ đảm nhận. ‘Trái đất là một trường học nơi mà con người học được qua khó khăn chứ không phải qua lòng tốt. Con người đi đến Trái đất giống như con người trên Trái đất đi đến trường. Và trước khi đi xuống Trái đất để nhận lấy một thân xác, người ta nhận được lời khuyên về thân xác và điều kiện thích hợp nhất để họ có thể học được những điều cần học, hay chính xác hơn, vì học nó họ xuống Trái đất, bởi vì, tất nhiên, họ đã được khuyên nhủ trước khi đi. Con sẽ tự trải nghiệm điều đó, nên giờ hãy để ta nói với con về thể này. Ở đây chúng ta ở trong thể được biết đến là thể hạ giới. Những người ở đây chỉ bao gồm những người đã tự sát bởi vì, như ta đã nói, tự sát là một tội lỗi và những người tự sát là những người thần khinh không ổn định. Trong trường hợp của con, con tự sát vì con không có khả năng trở thành một người cha, vì con đã mất đi một phần cơ thể của mình, nhưng đó chính là một điều kiện để mà con xuống Trái đất để chịu đựng và để học vượt qua. Ta đang nói với con một cách nghiêm túc rằng trước khi con xuống Trái đất, con đã sắp xếp việc con sẽ bị mất đi một phần cơ thể, vì vậy điều đó có nghĩa là con đã không vượt qua được bài kiểm tra, có nghĩa là con sẽ phải bắt đầu lại từ đầu và trải qua tất cả những đau đớn đó một lần nữa, có thể là hơn một lần nếu con tiếp tục thất bại.’ Algernon cảm thấy vô cùng buồn rầu. Anh ta đã nghĩ rằng mình đã làm một việc quí tộc khi kết thúc cái anh ta nghĩ là một cuộc sống vô ích. Bây giờ thì người ta nói với anh rằng tự sát là một tội lỗi và anh ta sẽ phải chuộc lại tội lỗi đó. Người đồng hành của anh tiếp tục nói – ‘Thể hạ giới rất gần với thể trên Trái đất. Nó gấn đến mức một người có thể đạt được mà không nhất thiết phải quay trở lại Trái đất. Ở đây chúng ta sẽ để con trong một Nhà nghĩ dưӥng để điều trị. Đó là một cố gắng để ổn định lại trạng thái tinh thần con, để giúp con mạnh mẽ lên cho việc con quay trở lại Trái đất khi nào điều kiện thích hợp. Ở đây trong thể hạ giới này con có thể đi dạo nếu con muốn, hoặc có thể bay trong không khí bằng cách chỉ cần nghĩ đến việc đó. Tương tự, nếu con đi đến kết luận là bộ trang phục của con thật là lố bịch, mà thực tế là nó như vậy, thì con có thể thay đổi trang phục chỉ bằng việc nghĩ đến cái mà con thích mặc.’ Algernon nghĩ về một bộ trang phục rất đẹp mà anh ta đã từng nhìn thấy ở một xứ nóng. Hình như là nó màu trắng, rất nhẹ và được cắt may một cách khéo léo. Bất chợt có một tiếng sột xoạt, anh ta nhìn xuống một cách cảnh giác khi bộ đồng phục của anh ta biến mất, để lại anh ta trần truồng. Anh ta nhảy dựng lên và lấy tay che chỗ kín, nhưng ngay lập tức một bộ trang phục khác xuất hiện trên người anh ta, bộ trang phục mà anh ta đã tưởng tượng ra. Ngượng ngùng, đỏ mặt, anh ta lại ngồi xuống. ‘Ở đây con sẽ thấy là con không cần đến thức ăn, nhưng nếu con cảm thấy thèm ăn thì con có thể có thức ăn, bất cứ thức ăn nào con muốn. Con chỉ cần nghĩ đến nó và nó sẽ được tạo ra từ dinh dưӥng trong không khí. Chẳng hạn, hãy nghĩ về món ăn yêu thích của con.’ Algernon cân nhắc trong một hay hai thoáng, rồi anh ta nghĩ về món thịt bò nướng, khoai tây nướng. Bánh pudding kiểu Yorkshire, cà rốt, củ cải, bắp cải, một ly rượu táo lớn và một điếu xì gà để kết thúc bữa ăn. Khi anh ta nghĩ về những thứ đó một hình khối lờ mờ xuất hiện trước mặt anh ta, hình khối đó dần cô đặc lại và biến thành một cái bàn trải khăn trắng muốt. Rồi những bàn tay và cánh tay xuất hiện, đĩa được đặt ra trước mặt anh ta, những cái khay bằng bạc, bình pha lê, rồi những cái nắp từng cái từng cái một được nhấc lên khỏi khay và Algernon nhìn thấy – và ngửi thấy - trước mặt anh ta những thức ăn mà anh ta đã chọn. Người đồng hành của anh ta vẫy tay, và tất cả thức ăn và cái bàn biến mất. ‘Những thứ màu mè đó thật sự không cần thiết, không có nhu cầu về những thức ăn loại thô đó bởi vì ở đây trên thể hạ giới này cơ thể hấp thụ thức ăn từ trong không khí. Như con có thể thấy, không có mặt trời trên bầu trời, nhưng cả bầu trời tỏa sáng và từ bầu trời mỗi người nhận được tất cả các dinh dưӥng cần thiết. Ở đây chúng ta không có người gầy, không có người béo, mà mọi người giống như cơ thể họ yêu cầu.’ Algernon nhìn quanh và thấy điều đó đúng không thể chối cãi được. Không có người béo, không có người gầy, không có người lùn, không có người khổng lồ, tất cả mọi người trông đều đặc biệt khỏe mạnh. Một vài người thơ thẩn đi ngang qua, trán nhăn lại tập trung suy nghĩ, có thể là về tương lai, lo lắng về quá khứ và hối hận về những hành động điên rồ. Người bạn đồng hành đứng dậy và nói, ‘Bây giờ chúng ta phải đến Nhà nghỉ dưӥng Chúng ta sẽ tiếp tục cuộc nói chuyện trong lúc đi. Việc con đến đây có đôi chút vội vã, mặc dù chúng ta luôn được cảnh báo về việc tự sát, nhưng con đã nghĩ về việc đó trong một thời gian dài nên con – à – đã khiến chúng ta không hay biết khi con cắt nhát dao tuyệt vọng cuối cùng đó. Algernon đứng dậy và miễn cưӥng đi theo người đồng hành của mình. Họ đi cùng nhau dọc theo con đường ven hồ, qua những nhóm nhỏ đang nói chuyện với nhau. Thỉnh thoàng, một đôi đứng lên và đi giống hệt như Algernon và người đồng hành của anh đã đứng lên và đi. ‘Ở đây con có những điều kiện dễ chịu, bởi vì ở giai đoạn này con phải được tân trang lại để chuẩn bị cho việc quay trở lại với những khó khăn và chịu đựng trên Trái đất, nhưng con hãy nhớ rằng kiếp sống trên Trái đất chỉ như là một cái nháy mắt trong cái gọi là Thời Gian Thực Sự, và khi con đã hoàn thành kiếp sống của mình trên Trái đất, hoàn thành nó một cách thành công, con sẽ không quay trở lại nơi này nữa mà đến một thể khác của các thể vía, thể đó phụ thuộc vào mức độ tiến bộ của con trên Trái đất. Giống như khi con đi học, nếu con chỉ vừa qua được kì thi thì con sẽ vẫn ở lại lớp cũ, những nếu con có một điểm số cao hơn trong kì thi thì con có thể được lên lớp, và nếu con đạt được cái chúng ta có thể gọi là thứ hạng danh dự, thì lúc đó con có thể được lên luôn hai lớp. Cùng một qui tắc như vậy áp dụng cho các thể vía. Con có thể bị xóa khỏi Trái đất bằng cái mà con gọi là ‘chết’ và được đưa tới một thể vía nhất định, hoặc nếu con làm thực sự tốt thì con có thể được đưa tới một thể vía cao hơn nữa, và tất nhiên, con càng lên cao thì điều kiện càng tốt hơn.’ Sự thay đổi phong cảnh khiến Algernon bị sao lãng. Hai người rời khỏi khu vực hồ nước và chui qua một cái lỗ trên hàng rào. Trước mặt họ là một bãi cỏ xinh đẹp được giữ gìn cẩn thận, và ngồi trên ghế là những nhóm người đang lắng nghe một ai đó trước mặt họ giảng bài. Nhưng người đồng hành của Algernon không dừng lại, người đó tiếp tục đi và họ đi tới một ụ đất nơi họ leo lên đó và trước mặt họ là một tòa nhà đẹp nhất, không phải là màu trắng mà hơi nhuộm màu xanh lá cây, một màu rất thích hợp cho việc nghỉ ngơi, một màu chứa đựng sự tĩnh lặng và bình yên cho tâm hồn. Họ đi tới cửa và cánh cửa tự động mở ra trước mặt họ, và họ đi vào trong một cái sảnh tràn đầy ánh sáng. Algernon nhìn xung quanh với một sự thích thú lớn. Anh ta chưa bao giờ thấy một nơi nào đẹp như vậy, và anh ta, một trong những người thượng lưu trong xã hội Anh, nghĩ rằng anh ta khá là sành sỏi về vẻ đẹp của các tòa nhà. Có những cây cột cao vút và rất nhiều hành lang đi ra từ tiền sảnh dùng làm nơi đón tiếp. Ở giữa phòng là một cái bàn tròn nơi có một vài người đang ngồi. Người đồng hành của Algernon đi thẳng tới đó và nói, ‘Đây là người bạn của chúng ta, Algernon St. Clair de Bonkers. Các vị đang đợi anh ta và tôi nghĩ là các vị đã dành một phòng cho anh ta.’ Một người phụ nữ trẻ sau khi lật qua mấy tờ giấy nói, ‘Vâng, thưa ngài, đúng vậy. Chúng tôi sẽ đưa anh ta đi xem phòng của mình.’ Ngay lập tức một người đàn ông trẻ đứng dậy và đi về phía họ. ‘Tôi sẽ đưa anh về phòng, xin hãy đi theo tôi’ anh ta nói. Người đồng hành của Algernon hơi cúi đầu để chào anh ta rồi quay lưng và rời khỏi tòa nhà. Algernon đi theo người dẫn đường mới của mình dọc theo một hành lang được trải thảm mềm và đi vào một căn phòng rất rộng, trong phòng có một chiếc giường, một cái bàn và thông với hai phòng khác nhỏ hơn. ‘Bây giờ, thưa ngài, xin ngài hãy nằm lên giường, đội y tế sẽ tới đây và khám cho ngài. Ngài sẽ không được phép rời khỏi căn phòng này cho đến khi bác sĩ cho phép ngài làm như vậy.’ Anh ta mỉm cười và rời khỏi căn phòng. Algernon nhìn xung quanh mình và đi vào hai phòng bên cạnh. Một phòng dường như là phòng khách với một cái sa lông tiện nghi cùng với mấy chiếc ghế, và phòng còn lại – đó chỉ là một căn phòng nhỏ với một cái sàn cứng, một cái ghế và không có gì hơn. Algernon đột nhiên nghĩ, ‘Ồ, có vẻ như là ở đây không có toilet.’ Và rồi anh ta nghĩ tại sao lại cần có toilet – anh ta hoàn toàn không cảm thấy có một nhu cầu sử dụng toilet nào, và có thể là ở nơi này người ta không làm việc đó! Algernon đứng cạnh giường và băn khoăn không biết nên làm gì. Anh ta có nên trốn thoát khỏi nơi này không? Anh ta đi đến cái cửa sổ kiểu Pháp và nhận thấy nó có thể mở ra được, nhưng khi anh ta cố gắng để chui ra ngoài thì có một thanh chắn vô hình chặn anh ta lại. Hoảng loạn, anh ta quay trở lại giường và bắt đầu cởi quần áo ra. Rồi anh ta nghĩ, ‘Mình sẽ làm thế nào đây khi không có đồ ngủ?’. Khi anh ta nghĩ tới chuyện đó, anh ta nghe thấy và cảm thấy một sự xột xoạt, anh ta nhìn xuống và thấy là mình đã ở trong một cái áo ngủ dài màu trắng phù hợp với khi anh ta còn ở trên Trái đất. Anh ta nhíu mày trong sự ngạc nhiên đáng kể, và rồi chậm rãi, cẩn thận, anh ta nằm lên giường. Một vài phút sau có một tiếng gõ cửa khẽ khàng. Algernon nói ‘Mời vào’, và ba người đi vào, hai người đàn ông và một người phụ nữ. Họ tự giới thiệu là thành viên của nhóm phục hồi được cử đến cho anh. Họ ngồi xuống, và trước sự kinh ngạc của Algernon, họ không dùng tới ông nghe hay sounding sticks, cũng không nghe nhịp tim. Thay vào đó họ chỉ nhìn anh ta và một người bắt đầu nói: ‘Anh ở đây bởi vì anh đã phạm phải một tội nghiêm trọng là tự sát, theo đó toàn bộ kiếp sống của anh trên Trái đất đã bị lãng phí, và vì vậy anh sẽ phải bắt đầu lại và trải qua những kinh nghiệm mới với hy vọng rằng lần sau anh sẽ thành công mà không phạm phải tội tự sát một lần nữa.’ Người đàn ông tiếp tục nói, rằng Algernon sẽ được chiếu một tia sáng mềm đặc biệt với hy vọng rằng sức khỏe của anh sẽ nhanh chóng hồi phục. Người đó nói với Algernon rằng anh ta cần phải quay lại Trái đất càng nhanh càng tốt. Anh ta càng quay lại Trái đất sớm bao nhiêu thì điều đó càng dễ dàng hơn cho anh ta bấy nhiêu.’ ‘Nhưng làm sao tôi có thể quay lại Trái đất?’ Algernon thốt lên. ‘Tôi đã chết, hoặc ít nhất là thể xác của tôi đã chết, vậy anh nghĩ làm sao mà anh có thể đặt tôi lại vào đó?’ Người phụ nữ trẻ trả lời, ‘Đúng vậy, nhưng anh đang có những quan niệm sai lầm nghiêm trọng bởi những điều hoàn toàn kinh khủng người ta dạy anh trên Trái đất. Thể xác chỉ đơn thuần là một bộ quần áo mà linh hồn mặc vào để có thể thực hiện một vài nhiệm vụ đặc biệt thấp, để những bài học về gian khổ có thể được học, bởi vì bản thân linh hồn không thể trải nghiệm được những rung động thấp đó, vì thế linh hồn cần phải mặc bộ quần áo cho phép linh hồn có thể trải nghiệm được. Anh sẽ đi đến Trái đất và được sinh ra bởi một cặp cha mẹ sẽ được lựa chọn cho anh. Anh sẽ được sinh ra trong những điều kiện sẽ cho phép anh tranh thủ được tốt nhất ích lợi của kinh nghiệm trên Trái đất. Và,’ người đó nói, ‘hãy nhớ là ích lợi mà chúng ta nói đến không nhất thiết là tiền bạc, bởi vì một số người tâm linh trên Trái đất là những người nghèo, trong khi những người giàu có thì lại độc ác. Nó phụ thuộc vào những việc mà một người phải làm. Trong trường hợp của anh, anh đã được nuôi dưӥng trong sự giàu sang, tiện nghi và nó đã làm anh thất bại. Vì vậy lần này anh nên có những điều kiện thiếu thốn hơn.’ Họ tiếp tục nói chuyện thêm một lúc nữa, và Algernon dần dần hiểu được những điều kiện khác nhau từ những thứ mà anh ta đã được dẫn dắt để tin tưởng. Chẳng mấy chốc anh ta có thể nhận ra rằng Thiên chúa giáo chỉ là một cái tên, Do thái giáo chỉ là một cái tên, cũng như những cái tên Phật giáo, Hồi giáo và những tín ngưӥng khác, và thật sự chỉ có duy nhất một tôn giáo, một tôn giáo mà anh ta vẫn chưa hiểu hết. Ba người đi khỏi, và trong phòng ánh sáng tối dần. Như thể là màn đêm đã buông xuống trên Algernon. Anh ta nằm nghỉ một cách thoải mái, anh ta không còn nhận thức nữa, và anh ta ngủ, ngủ trong bao lâu anh ta không biết, có thể là vài phút, vài giờ hoặc vài ngày. Nhưng Algernon ngủ, và khi anh ta ngủ linh hồn anh ta sống lại và sức khỏe tràn vào trong anh ta. CHƯƠNG IV. TỘI ÁC TỰ SÁT Algernon thức dậy vào buổi sáng trong ánh nắng mặt trời rực rӥ và âm thanh của chim hót trên cành cây – ánh nắng mặt trời rực rӥ? Algernon giật mình nhớ ra rằng đây không phải là ánh nắng mặt trời. Ở đây không có mặt trời, không khí bản thân nó đang sống. Anh ta đẩy khăn phủ giường sang một bên, đu chân xuống đất và đi về phía cửa sổ. Bên ngoài mọi thứ tươi sáng và vui vẻ giống như ngày hôm qua – có phải đó là ngày hôm qua? Algernon hoàn toàn bị mất phương hướng, không biết liệu ở đây có ngày và đêm không, dường như không có dấu tích gì của việc thời gian trôi đi. Anh ta quay trở lại giường, nằm xuống trên cái khăn phủ giường, tay gối đầu trong lúc suy nghĩ về tất cả những việc đã xảy ra. Lại một tiếng gõ khẽ khàng lên cửa, và khi Algernon cho phép thì một người đàn ông bước vào, một người ăn mặc rất nghiêm túc, một người dường như biết rất rõ về nhiệm vụ của mình. ‘Tôi đến để nói chuyện với anh,’ ông ta nói, ‘bởi chúng tôi lo ngại rằng anh đang rất hoài nghi về tính chân thực của những điều anh đang trải nghiệm.’ Algernon đặt hai tay cạnh người và với khóa huấn luyện quân sự mà anh đã trải qua, anh gần như ‘chú ý cao độ’ như thể anh đang ở trong một bệnh viện quân y. ‘Mọi thứ mà tôi nhìn thấy, thưa ngài,’ anh ta nói, ‘mâu thuẫn với những giáo lý của nhà thờ Thiên chúa giáo. Tôi đã trông chờ một thiên thần sẽ đến gặp tôi, tôi đã trông chờ là họ sẽ chơi đàn hạc, tôi đã trông chờ được thấy Cổng Thiên Đàng và các thiên sứ, nhưng thay vào đó tôi thấy nơi này giống như công viên Green Park hay Hyde Park được tô điểm thêm, hay bất cứ công viên nào được chăm sóc cẩn thận. Tôi cũng có thể đã trải qua ảo giác ở công viên Richmond’ anh ta nói. Vị bác sĩ mới đến cười và nói, ‘Anh không phải là một người Công giáo thật mạnh mẽ. Nếu anh, cứ cho là, là một người Công giáo La mã và anh thực sụ TIN vào tôn giáo của mình, vậy thì anh sẽ thấy các thiên thần khi anh đến đây, và anh sẽ nhìn thấy các thiên thần đó cho đến khi sự ngụy tạo trong bề ngoài của họ khiến anh nhận ra rằng họ chỉ là những bóng ma của trí tưởng tượng của anh. Ở đây chúng ta đang ở trong sự thật. Bởi vì anh là một người đàn ông đã có nhiều trải nghiệm về thế giới, bởi vì anh đã là một người lính và đã nhìn thấy sự sống cũng như cái chết, anh có thể nhìn thấy chúng tôi như chúng tôi thật sự là như vậy.’ Algernon nghĩ về một vài sự việc đã xảy ra trong quá khứ. ‘Cái chết,’ anh ta nói, ‘tôi tò mò nhất về vấn đề này bởi vì cái chết là một thứ rất kinh khủng trên Trái đất, mọi người đều sợ chết một cách tuyệt vọng. Và có một điều vẫn luôn khiến tôi thấy rất khoái trí, đó là một người càng sùng đạo bao nhiêu thì anh ta càng sợ chết bấy nhiêu.’ Anh ta mỉm cười, nắm chặt hai tay và tiếp tục. ‘Tôi có một người bạn rất được tôn kính, một người Công giáo nhiệt huyết nhất. Bất cứ khi nào anh ta nghe thấy có một người bị ốm và sắp chết, anh ta luôn nói rằng anh ta vui làm sao khi người đàn ông tội nghiệp đó đang khỏe ra và trong một trạng thái sức khỏe tốt! Nhưng hãy nói cho tôi biết, thưa ngài,’ Algernon nói, ‘Vì sao mặc dù có cuộc sống sau khi chết nhưng con người vẫn cứ sợ chết?’ Vị bác sĩ mỉm cười với anh ta một cách dò xét và nói, ‘Tôi đã nghĩ là một người có học vấn, kinh nghiệm và nhận thức như anh có thể nhận ra được câu trả lời. Tuy nhiên anh đã không nhận ra, vậy hãy để tôi giải thích; con người đi xuống Trái đất để hoàn thành một vài việc nhất định, để trải nghiệm một vài khó khăn nhất định, để cho linh hồn, hay tâm hồn, hay Chân ngã – gọi nó là cái gì anh muốn – có thể được tinh lọc và làm cho mạnh mẽ lên. Vì vậy nếu một người tự sát thì người đó đã phạm phải một tội lỗi là chống lại sự sắp xếp, chống lại kế hoạch. Và nếu như con người mà thấy được cái chết là tự nhiên như thế nào, và rằng nó là sự tái sinh vào một giai đoạn khác của sự tiến hóa, tất cả họ đều sẽ muốn được chết và toàn bộ mục đích của Trái đất cũng như các thế giới khác đều sẽ bị mất đi.’ Hiển nhiên đó là một ý nghĩ mới mẻ đối với Algernon mặc dù thực tế là nó logic. Nhưng anh ta vẫn chưa thỏa mãn; ‘vậy thì có phải con nên hiểu là việc sợ chết được gây ra một cách nhân tạo và hoàn toàn phi logic?’ anh ta hỏi. ‘Đúng, chính là như vậy,’ vị bác sĩ nói. ‘Đó là một sự đề phòng trước của Tự nhiên rằng ai cũng sẽ sợ chết, ai cũng sẽ làm mọi thứ có thể để bảo toàn mạng sống, như vậy những trải nghiệm trên Trái đất sẽ có thể được duy trì và hoàn thành để đạt tới một kết cục logic và đã được xác định trước. Vì vậy nếu một người tự sát thì người đã đã làm cho mọi thứ đi chệch khỏi đường ray. Hãy lưu ý rằng,’ người đó nói, ‘khi mà đã đến lúc cái chết tự nhiên đến, thì bình thường ra sẽ không có sợ hãi, không có đau đớn, bởi vì những người ở một địa hạt khác của thể vía có thể nói khi nào một người đã đến lúc chết, hay như chúng tôi thích gọi theo cách khác, trải qua sự chuyển hóa, và khi lúc đó đến, một dạng của gây mê được hình thành và thay vì nỗi thống khổ của cái chết là những ý nghĩ dễ chịu, ý nghĩ của sự siêu thoát, của việc đi về Nhà.’ Algernon phản bác lại. ‘Nhưng không thể nào,’ anh ta nói, ‘người chết thường hay co giật và rõ ràng là họ rất đau đớn.’ Vị bác sĩ lắc đầu một cách buồn rầu; ‘Không, không,’ ông ta nói, ‘Anh nhầm rồi. Khi một người chết đi thì không có đau đớn, mà là giải thoát khỏi đau đớn. Cơ thể có thể co giật, có thể gào lên, nhưng đó chỉ đơn thuần là những phản ứng tự động của hệ thần kinh bị kích thích. Nó hoàn toàn không có nghĩa là người đó đang chịu đau đớn. Người ngoài nhìn vào không thể phán xét về những điều đang diễn ra. Thể trí đang chuẩn bị trải qua sự chuyển hóa đã được tách ra khỏi thân xác chỉ đơn thuần động vật. Vì vậy – đợi đã!’ ông ta nói, ‘khi anh tự sát anh không cảm thấy đau đớn gì phải không?’ Algernon xoa cằm nghĩ ngợi, rồi anh trả lời một cách dè dặt, ‘Không, tôi cho là không. Tôi không thể nhớ là đã cảm thấy bất cứ điều gì ngoại trừ cảm giác cực kì lạnh, và rồi không gì nữa. Không thưa ngài, có lẽ là ngài đúng, giờ khi nghĩ về chuyện này, không, lúc đó tôi không hề cảm thấy đau mà tôi cảm thấy kinh ngạc.’ Vị bác sĩ cười, xoa hai tay và nói, ‘À, anh đã hiểu ra rồi đấy. Anh công nhận là anh đã không cảm thấy đau, tuy vậy anh đã thét lên như là một con lợn bị chọc tiết. Và, nhân tiện đây, trong trường hợp của con lợn bị chọc tiết thì không khí trong phổi nó nhanh chóng bị thoát ra ngoài và làm rung dây thanh quản khiến cho nó rít lên the thé. Anh cũng đã có một phản ứng tương tự, anh cũng đã rít lên một tiếng the thé bị ngắt bởi máu chảy ra ồ ạt từ vết cắt trên cuống họng. Cũng chính tiếng hét chói tai của cô hầu gái không may đã làm cô ta bị ngất xuống sàn. Đúng thế, giờ đây mọi thứ đã có vẻ logic. Algernon bắt đầu nhìn ra rằng đây không phải là ảo tưởng mà là thực tế, và rồi anh ta nói, ‘Nhưng theo tôi được biết thì khi một người chết đi, người đó sẽ ngay lập tức được đưa tới trước Chúa để nhận sự phán xét. Anh ta sẽ ngay lập tức nhìn thấy Đức Jesus và có thể là Đức Mẹ đồng trinh và các môn đệ.’ Vị bác sĩ lắc đầu một cách buồn rầu, và trả lời, ‘Anh nói là anh nghĩ mình sẽ gặp Đức Jesus, thế nếu anh là người Do thái thì sao, nếu anh là người Hồi giáo thì sao, nếu anh là người theo đạo Phật thì sao, liệu anh có vẫn mong là sẽ gặp Đức Jesus? Anh có nghĩ là thiên đường cũng được chia ra làm nhiều quốc gia riêng biệt và người của tôn giáo nào thì sẽ đến quốc gia đó? Không, toàn bộ ý tưởng đó là lố bịch, vô lý và điên rồ, và những nhà thuyết giáo điên rồ trên Trái đất thực sự đã gây ô nhiễm loài người với những truyền thuyết kinh khủng của họ. Con người đến đây và người ta nghĩ là đang ở trong địa ngục. Không có địa ngục nào hết – ngoại trừ Trái đất!’ Algernon nhảy dựng. Anh ta cảm thấy cơ thể mình co rúm như thể đang đứng trên lửa. ‘Ôi, vậy có phải là tôi đang ở trên Thiên đàng? Anh ta hỏi. ‘Không, thực tế là không,’ vị bác sĩ trả lời. ‘Không có nơi nào như vậy. Không có Thiên đàng, không có địa ngục, nhưng có tầng hối cải. Tầng hối cải là nơi mà anh thanh lọc tội lỗi của mình, và đó chính là những gì anh đang làm tại đây. Ở đây sắp tới anh sẽ được gặp một Ủy ban sẽ giúp cho anh quyết định anh sẽ làm gì khi quay trở lại Trái đất. Anh sẽ phải quay trở lại Trái đất để hoàn thành kế hoạch mà tự bản thân anh đã đề ra, và thật ra, đó là lí dao vì sao tôi tới đây, để xem liệu anh đã sẵn sàng để trình diện trước Ủy ban.’ Algernon cảm thấy hơi lo sợ, anh ta cảm thấy lạnh nơi sống lưng. Nó nghe có vẻ còn tồi tệ hơn cả hội đồng y tế của quân đội trong đó các bác sĩ rà soát, chọc khắp người và hỏi những câu hỏi khiến người ta rất xấu hổ, những câu hỏi về phản ứng của người đó trước chuyện này, chuyện kia, về việc người đó thu xếp thế nào đời sống tình dục, rằng anh ta đã lập gia đình chưa, hay anh ta có bạn gái không? Không, Algernon không thể kêu gọi được một chút nhiệt tình nào cho việc đi trình diện trước một ủy ban về – gì nhỉ? ‘Vậy,’ anh ta nói, ‘chắc chắn là tôi nên có thời gian để phần nào phục hồi từ chấn thương nghiêm trọng bởi việc đi từ sự sống đến nơi này. Cứ cho rằng tôi tự ý đến đây bởi việc tự sát của mình, việc được coi là một tội ác kinh khủng, nhưng tôi vẫn nghĩ là tôi nên có thêm thời gian để phục hồi và để xem xem tôi muốn làm gì. Và nhân tiện nói về việc này,’ anh ta nói, ‘làm sao tự sát lại là một tội ác kinh khủng nếu người ta không biết là mình đang phạm tội? Tôi luôn được biết rằng nếu một người không nhận thức được anh ta đang làm một việc xấu thì anh ta không thể bị trừng phạt vì làm việc đó.’ ‘Ôi thật vô nghĩa!’ vị bác sĩ thốt lên. ‘Anh giống như tất cả loại người cho rằng bởi vì họ xuất thân từ tầng lớp thượng lưu mà họ có thể có những sự xem xét đặc biệt. Anh luôn cố gắng để giải thích một cách duy lí. Đó dường như là tính xấu chung của những người như anh. Anh vẫn luôn biết rất rõ rằng tự sát là sai, ngay cả tôn giáo mà anh được dạy dưới trần cũng luôn nói với anh rằng tự hủy hoại mình là một tội ác chống lại bản thân, chính quyền và nhà thờ.’ Algernon nhìn trông chua chát một cách đáng sợ và nói, ‘Nếu vậy thì ngài tính thế nào về những người Nhật tự sát nếu mọi thứ của họ trở nên tồi tệ? Nếu một người Nhật nghĩ là anh ta đã bị mất mặt, anh ta sẽ công khai mổ bụng mình. Chẳng phải đó là tự vẫn ư? Chẳng phải anh ta đang làm những gì anh ta tin ư?’ Vị bác sĩ trông vô cùng đau khổ trả lời, ‘Điều đó không làm thay đổi chút nào được việc tự hủy hoại mình thay vì đối diện với sự xấu hổ đã trở thành một tục lệ ở Nhật Bản. Hãy để tôi nói với anh; hãy để tôi in đậm điều này vào tiềm thức của anh; tự sát KHÔNG BAO GIỜ đúng. Tự sát LUÔN LUÔN là một tội ác. Không bao giờ có tình tiết giảm nhẹ nào cho việc tự sát. Nó có nghĩa là một người đã không tiến bộ đủ để tiếp tục cái mà họ đã tự chọn. Nhưng chúng ta đừng lãng phí thời gian nữa,’ ông ta nói, ‘anh không ở đây để đi nghỉ, anh ở đây để chúng tôi có thể giúp anh định ra phần lớn của kiếp sống sắp tới của anh trên Trái đất. Hãy đến đây!’ Người đó đột ngột đứng lên và đứng cạnh Algernon đang kêu lên một cách oán thán, ‘Tôi không có cả cơ hội để tắm ư? Tôi không được ăn sáng trước khi tôi bị kéo đi sao?’ ‘Nói bậy!’ vị bác sĩ phát cáu thốt lên. ‘Ở đây anh không cần tắm, ở đây anh không cần tới thức ăn. Anh được rửa sạch và nuôi dưӥng bởi không khí. Anh cầu xin điều đó bởi vì anh có vẻ không phải là một người đàn ông, chỉ là một người cố gắng lẩn tránh trách nhiệm của mình. Hãy đi với tôi.’ Vị bác sĩ quay lưng đi và mở cửa. Rất, rất miễn cưӥng Algernon đứng lên một cách chậm chạp và đi theo ông ta. Vị bác sĩ đi dẫn đường. Họ rẽ phải và đi vào một khu vườn mà Algernon chưa từng bao giờ thấy trước đó. Không khí thật tuyệt vời, chim chóc bay trong không khí và rất nhiều loại động vật dễ thương xung quanh, và rồi vị bác sĩ và Algernon rẽ vào một góc và một tòa nhà khác hiện ra. Nó trông như thể một thánh đường với những ngọn tháp, và lần này thay vì dốc thì có rất, rất nhiều bậc thang. Họ đi lên trên những bậc thang và đi vào một cái hốc mát mẻ của một tòa nhà đồ sộ. Rất nhiều người đang đứng ở lối vào, có những người đang ngồi trên những băng ghế thoải mái dọc theo tường. Và lần này ở giữa tiền sảnh, lại có một cái bàn giống như bàn tiếp tân, cái bàn cũng hình tròn giống lần trước nhưng lần này ngồi ở đó là những người cao tuổi hơn nhiều. Vị bác sĩ dẫn Algernon đi tới đó và nói, ‘Chúng tôi đến để trình diện trước Hội đồng.’ Một trong những người trợ tá đứng dậy và nói, ‘Xin hãy đi theo tôi.’ Vị bác sĩ và Algernon đi theo người trợ tá dẫn đường. Sau khi đi một khúc ngắn dọc theo hành lang, họ rẽ trái và đi vào một phòng đợi. Người trợ tá nói, ‘Xin hãy đợi ở đây,’ trong lúc ông ta đi tiếp, gõ lên một cánh cửa và đi vào khi được sự cho phép. Cánh cửa đóng lại sau lưng ông ta và người ta có thể nghe thấy được những tiếng thì thầm không rõ ràng. Một lúc sau người trợ tá đi ra giữ cửa và nói, ‘Các vị có thể vào.’ Vị bác sĩ nhảy cẫng lên, cầm một cánh tay của Algernon và dẫn anh ta vào. Algernon đi vào phòng một cách miễn cưӥng và dừng lại trong sự kinh ngạc. Đó thực sự là một căn phòng rất lớn, và ở giữa là môt quả cầu đang quay chầm chậm, một quả cầu màu xanh lam và xanh lá cây. Theo bản năng Algernon biết là đó là hình ảnh của Trái đất. Anh ta vừa kinh ngạc vừa tò mò khi thấy quả cầu – Trái đất đang quay, quay mà không có bất cứ cái gì có thể nhìn thấy được hỗ trợ cả. Dường như anh ta đang ở trong không gian nhìn xuống Trái đất được chiếu sáng bởi một mặt trời không nhìn thấy. Có một chiếc bàn dài, được đánh bóng rất kĩ và chạm khắc một cách khó hiểu, và ở một đầu của chiếc bàn là một người đàn ông rất già râu tóc bạc phơ đang ngồi. Người đó trông thật nhân từ nhưng đầy nghiêm nghị. Thậm chí trong hoàn cảnh cần thiết, ông thực sự có thể là một người rất cứng cỏi. Algernon đảo mắt nhìn quanh, có tám người đang ngồi tại bàn, bốn người đàn ông và bốn người phụ nữ. Vị bác sĩ dẫn anh ta đến một chiếc ghế ở chân bàn. Chiếc bàn, Algernon nhìn thấy, được sắp xếp và tạo hình hoàn hảo đến mức mỗi thành viên có thể nhìn anh ta mà thậm chí không cần phải quay lưng trên ghế, và anh ta thoáng băn khoăn về người thợ nào có thể làm ra được một cấu trúc phức tạp như vậy. Vị bác sĩ nói, ‘Đây là Algernon St. Clair de Bonkers. Chúng tôi xác định anh ta đã đạt tới trạng thái hồi phục cho phép anh ta có thể tiếp nhận lời khuyên của hội đồng. Tôi xin được giới thiệu Algernon St. Clair de Bonkers.’ Người đàn ông cao tuổi ngồi ở đầu bàn gật đầu nhẹ ra hiệu cho họ ngôi xuống. Rồi người đó nói, ‘Algernon St. Clair de Bonkers, anh ở đây bởi vì anh đã phạm tội tự sát. Anh đã tự giết mình bất chấp kế hoạch anh đã định ra và coi thường Luật Tối Cao. Trước hết anh có muốn nói gì để biện minh cho mình? Algernon hắng giọng và rùng mình. Vị bác sĩ ngả người sang thì thầm, ‘Hãy đứng dậy!’ Miễn cưӥng Algernon đứng dậy và nói một cách có phần bướng bỉnh, ‘Nếu tôi đã sắp xếp để làm một nhiệm vụ nhất định, và nếu các điều kiện mà tôi không mong muốn khiến cho tôi không thể hoàn thành nhiệm vụ đó, thì rõ ràng, cuộc sống của tôi thuộc về tôi, tôi có mọi quyền để kết thúc nó nếu tôi chọn làm như vậy. Tôi không quyết định là sẽ đến nơi này. Tôi chỉ đơn thuần quyết định kết thúc cuộc đời mình.’ Nói xong anh ta ngồi bịch xuống một cách thách thức. Vị bác sĩ buồn rầu nhìn anh ta. Người đàn ông cao tuổi ở đầu bàn nhìn anh rất phiền muộn, còn bốn người đàn ông và bốn người phụ nữ thì nhìn anh ta với một lòng thương cảm như thể họ đã được nghe tất cả những điều đó trước đây. Rồi người cao tuổi nói, ‘Anh đã làm ra kế hoạch cho mình, nhưng cuộc sống của anh không phải của mình anh. Cuộc sống của anh thuộc về Chân ngã của anh – đó là cái mà anh gọi là linh hồn – và anh đã làm tổn thương Chân ngã của mình bằng cái tính ngoan cố và cái phương pháp điên rồ để tước đọat Chân ngã khỏi con rối thân xác của nó. Bởi vì thế anh sẽ phải quay lại Trái đất lần nữa và bắt đầu sống từ đầu, và lần này hãy chắc chắn rằng anh sẽ không tự sát nữa. Bây giờ anh phải quyết định thời điểm tốt nhất để anh quay lại, và những điều kiện tốt nhất cho anh, và lựa chọn bố mẹ phù hợp với mình.’ Có nhiều tiếng giấy sột soạt, rồi một thành viên đứng dậy và đi lại phía quả cầu. Trong một lúc người đó đứng đó nhìn vào quả cầu nhưng không nói gì cả. Rồi, vẫn im lặng, người đó quay trở lại chỗ của mình và ghi chép lên trên giấy. ‘Algernon,’ người cao tuổi nói, ‘Anh đã xuống Trái đất trong những điều kiện rất thoải mái. Anh đã xuống một gia đình có tryền thống nơi mà tất cả những tiện nghi vật chất của anh đều đầy đủ. Anh đã có mọi đặc ân. Tiền không phải là vấn đề với anh. Sự giáo dục anh nhận được thuộc loại tốt nhất trong nước. Nhưng anh có nghĩ về những tổn hại mà anh đã gây ra trong cuộc sống của mình không? Anh có nghĩ về sự tàn bạo, về cái cách anh đối xử với người hầu không? Anh có nghĩ về những cô hầu gái trẻ đã bị anh quyến rũ không?’ Algernon nhảy lên phẫn nộ. ‘Thưa ngài!’ anh ta nóng nảy nói, ‘Tôi luôn được bảo rằng những cô hầu gái ở đó là để phục vụ cho những người chàng trai chưa lập gia đình, để làm đồ chơi anh ta, để anh ta học về tình dục. Tôi đã không làm gì sai cả bất kể tôi có quyến rũ bao nhiêu cô hầu gái đi chăng nữa!’ Anh ta ngồi xuống, khá sôi sục vì phẫn nộ. ‘Algernon, anh biết rõ hơn thế,’ người cao tuổi nói, ‘bản thân anh biết rằng sự phân loại đó, cái mà anh tin vào, chỉ đơn thuần là do con người tạo ra. Trong thế giới của anh, nếu một người có tiền và đến từ một gia đình lâu đời được ân sủng thì người đó sẽ có rất nhiều quyền lợi. Trong khi đó, những người nghèo và phải làm việc cho một trong những gia đình này thì bị từ chối mọi quyền lợi và bị đối xử như những sinh vật hạ đẳng. Anh biết rõ điều đó như bất kì ai, bởi vì anh đã sống qua rất nhiều kiếp và anh có tất cả những kiến thức đó trong tiềm thức của mình.’ Một trong những người phụ nữ ngồi ở chiếc bàn mắm môi như thể vừa ăn một quả lý gai rất chua, rồi người đó nói một cách nghiêm nghị, ‘Tôi muốn được đề vào ghi chép ý kiến của mình, rằng người đàn ông trẻ này nên bắt đầu lại cuộc sống như một trong những người kém may mắn. Anh ta đã từng có mọi thứ. Tôi nghĩ anh ta nên bắt đầu lại với tư cách là con trai của một người lái buôn nhỏ, hay thậm chí là con trai của một người chăn bò. Algernon nhảy lên vì giận dữ. ‘Sao bà lại dám nói những điều như vậy!’ anh ta hét lên. ‘Bà có biết rằng dòng máu quí tộc đang chảy trong người tôi? Bà có biết rằng tổ tiên của tôi đã tham gia vào cuộc thập tự chinh? Gia đình tôi là một trong những gia đình được kính trọng nhất.’ Anh ta đang nói thì bị ngắt giữa chừng, lần này là một người chủ tọa cao tuổi lên tiếng. ‘Bây giờ chúng ta hãy đừng tranh luận ở đây. Nó không tốt cho anh chút nào. Nó sẽ chỉ tăng thêm gánh nặng mà anh phải mang. Chúng ta đang cố gắng giúp đӥ anh, không phải là làm cho nghiệp của anh nặng lên mà là giúp anh làm nhẹ nó đi.’ Algernon bùng lên giận dữ, ‘Tôi không bao giờ cho phép ai nói xấu về tổ tiên của mình. Tôi cho là tổ tiên của bà,’ anh ta chỉ tay giận dữ về phía người phụ nữ vừa lên tiếng, ‘là chủ nhà chứa hay quản lí lầu xanh, hay cái gì đó. Pah!’ Vị bác sĩ nắm chặt cánh tay của Algernon kéo anh ta ngồi xuống ghế và nói, ‘Trật tự, anh như một thằng hề, anh đang làm cho mọi thứ trở nên tồi tệ hơn với mình. Anh không biết tí gì về nơi này hết, hãy yên lặng và lắng nghe.’ Algernon lặng đi với ý nghĩ rằng anh ta thật sự đang ở tầng hối cải như người ta đã nói với anh, nhưng rồi anh nghe thấy vị chủ tọa nói, ‘Algernon, anh đang đối xử với chúng tôi như thể chúng tôi là kẻ thù của anh. Không phải như vậy. Anh biết đấy, anh không ở đây như một khách mời danh dự. Anh ở đây vì anh đã phạm tội ác, và trước khi chúng ta đi xa hơn trong vấn đề này tôi muốn làm rõ ràng; không có cái gọi là dòng máu quí tộc. Không có cái gọi là cấp bậc, hay giai cấp, hay địa vị được truyền từ đời này sang đời khác. Anh đã bị tẩy não, anh đã bị làm mờ mắt vì những truyền thuyết hay những câu chuyện cổ tích mà người ta đã kể cho anh.’ Người đó dừng lại để nhấp một ngụm nước, rồi nhìn những thành viên khác của Hội đồng trước khi tiếp tục. ‘Anh phải có trong đầu một suy nghĩ thật, thật rõ ràng rằng các thực thể từ rất, rất nhiều thế giới, rất, rất nhiều thể của sự tồn tại đi xuống Trái đất, một trong những thế giới thấp nhất, để học qua gian khổ, những thứ mà họ dường như không thể học được qua lòng tốt. Và khi một người đi xuống Trái đất, họ nhận lấy cơ thể phù hợp nhất để hoàn thành nhiệm vụ của mình. Nếu anh là một diễn viên thì anh có thể nhận ra rằng anh chỉ là một người, một diễn viên, và anh có thể được yêu cầu diễn rất, rất nhiều vai trong cả đời người. Vì vậy trong cả đời diễn viên của mình, anh có thể sẽ phải ăn mặc như một hoàng tử, một vị vua, hay một người ăn mày. Là một vị vua anh có thể sẽ phải giả vờ rằng anh có dòng máu hoàng gia, nhưng đó chỉ là giả vờ mà thôi. Mọi người trong nhà hát đều biết rất rõ điều đó. Một vài diễn viên đã đem theo quá nhiều từ vai diễn – giống như anh – đến mức họ thật sự tin rằng họ là hoàng tử hay vua, nhưng họ không bao giờ muốn là ăn mày. Bây giờ bất kể anh là ai, bất kể anh đã tiến hóa cao thế nào, khi anh đến đây điều đó có nghĩa là anh đã phạm phải một tội ác, và nó thật sự là một tội ác, việc tự sát. Anh đến đây để anh có thể chuộc lại tội lỗi của mình. Anh đến đây để chúng tôi, có liên hệ với các thể cao hơn, và cũng có liên hệ với Trái đất, có thể gợi ý cách nào tốt nhất để sự chuộc tội có thể được hoàn thành.’ Algernon trông không vui chút nào. ‘Vậy, làm sao mà tôi biết được tự sát là sai trái, và ông sẽ nói gì về những người Nhật tự sát cho danh dự?’ anh ta hỏi, vẫn có phần hùng hổ. Vị chủ tọa nói, ‘Tự sát không bao giở là một việc đúng đắn. Kể cả những thầy tu theo đạo Phật hay đạo Shinto đã tự thiêu, tự mổ bụng hay nhảy từ trên vực xuống cũng là không đúng. Những luật lệ do con người tạo ra không bao giờ có thể vượt lên trên qui luật của Vũ trụ. Nhưng hãy nghe ta nói.’ Vị chủ tọa nhìn xuống giấy tờ của mình rồi nói, ‘Anh đáng lẽ sẽ sống đến một tuổi nhất định, nhưng anh đã kết thúc cuộc sống của mình trên Trái đất ba mươi năm trước đó, vì thế anh sẽ phải quay lại Trái đất để sống ba mươi năm đó và chết trên Trái đất, và hai cuộc sống, cuộc sống mà anh đã kết thúc và cuộc sống mà anh sắp bắt đầu sẽ chỉ được tính là một – ta sẽ gọi nó là gì nhỉ? Hãy gọi nó là một buổi học.’ Một người phụ nữ khác vẫy tay để làm người chủ tọa chú ý; ‘Vâng, thưa bà?’ người đó hỏi. ‘Bà có nhận xét?’ ‘Vâng, thưa ngài’, người đó nói. ‘Tôi nghĩ là người đàn ông trẻ này không hề nhận ra vị trí của mình. Anh ta nghĩ rằng anh ta thượng đẳng hơn tất cả mọi người khác. Tôi nghĩ có thể anh ta nên được kể về những cái chết anh ta đã gây nên. Tôi nghĩ chúng ta nên nói với anh ta nhiều hơn về quá khứ của anh ta.’ ‘Vâng, vâng, nhưng bà cũng biết rõ rằng anh ta sẽ nhìn thấy quá khứ của mình tại Sảnh Kí Ức,’ vị chủ tọa có phần hơi bực mình nói. ‘Nhưng thưa ngài chủ tọa,’ người phụ nữ đó nói, ‘Sảnh Kí Ức là sau này, còn bây giờ thì chúng ta muốn người đàn ông trẻ này lắng nghe một cách đúng mực - nếu điều đó là có thể với anh ta,’ người đó nói, ném cho Algernon một cái nhìn tăm tối. ‘Tôi nghĩ là chúng ta nên nói cho anh ta nhiều hơn về vị trí của anh ta ngay bây giờ.’ Vị chủ tọa thở dài, nhún vai và nói, ‘Được thôi, nếu bà muốn thì chúng ta có thể thay đổi thủ tục. Tôi đề nghị chúng ta đưa người đàn ông trẻ này tới Sảnh Kí Ức ngay bây giờ để anh ta có thể thấy điều gì khiến chúng ta không hề phải lòng trước nhưng thành tựu của anh ta.’ Có tiếng kéo ghế và các thành viên của Hội đồng đứng dậy. Vị bác sĩ cũng hoảng hốt đứng lên và nói với Algernon, ‘Đi nào, chính anh đã yêu cầu nó,’. Algernon nhìn một cách phẫn nộ từ người này sang người khác và nghiến răng nói, ‘Tôi không yêu cầu được đến nơi này. Tôi không hiểu điều gì khiến cho các người cứ loạn hết lên. Nếu tôi phải quay lại Trái đất thì hãy để cứ tôi quay lại và hòa nhập với nó.’ Vị chủ tọa nói, ‘Bây giờ chúng ta sẽ đi cùng anh đến Sảnh Kí Ức. Ở đó anh sẽ có đủ khả năng để phán xét xem liệu chúng ta có đang vượt quá quyền hạn của mình như anh tưởng tượng không, hay là chúng ta đang nhân từ với anh. Hãy đến đây!’ Nói vậy người đó quay đi và dẫn đường để đến một phòng lớn, rồi lại ra bên ngoài. Không khí thật là trong lành bên ngoài, không khí của sự sống, những chú chim và những chú ong thân thiện đang bay tạo ra những tiếng vo vo. Ở đây không có những loại côn trùng cắn người hay phá hoại, mà chỉ có những côn trùng bổ sung cho môi trường xung quanh cái mà người ta có thể gọi là một thứ âm nhạc thân thiết. Vị chủ tọa và những thành viên khác của Hội đồng đi trước, gần giống như giờ ngoại khóa ở trường, Algernon nghĩ, ngoại trừ việc không có việc gì cho anh ta. Rồi anh ta nhìn sang vị bác sĩ bên cạnh và nói, ‘Này, có phải ngài là cai ngục của tôi?’ Vị bác sĩ không trả lời. Thay vào đó ông nắm chặt cánh tay Algernon hơn nữa và cùng nhau họ bước đi. Chẳng mấy chốc họ đã đến một tòa nhà khác. Algernon vừa nhìn thấy đã thốt lên, ‘Ôi, sảnh Albert Hall, làm cách nào mà chúng ta đã quay trở lại Luân Đôn vậy?’ Vị bác sĩ cười – ông ta thật sự thích thú – ‘Đây không phải là sảnh Albert Hall,’ ông ta nói, ‘hãy nhìn vào sự khác biệt trong kiến trúc. Nới này thật đẹp!’ Họ cùng nhau đi vào bên trong sảnh, và đúng như vị bác sĩ nói lúc nãy, nó rất ‘đẹp’. Vị chủ tọa dẫn đường đến một cái mật thất. Dựa theo thời gian mà họ đã đi, Algernon đoán rằng họ đang ở chính giữa của tòa nhà. Rồi một cánh cửa mở ra và Algernon giật mình lùi lại vội đến mức đâm sầm vào vị bác sĩ. Vị bác sĩ cười và nói, ‘Ôi không, đây không phải là mép của Vũ trụ, anh không thể rơi được, nó hoàn toàn bình thường. Hãy bình tĩnh lại, không có gì nguy hiểm cả.’ Vị chủ tọa quay sang nói với Algernon, ‘Hãy đi đến phía trước, chàng trai trẻ, đi đến phía trước, anh sẽ biết được khi nào nên dừng, và hãy thật chú ý.’ Trong một lúc, Algernon đứng im vì sốc, thật sự sợ hãi việc anh ta sẽ rơi từ mép của Vũ trụ và ngã xuống những hành tinh bên dưới chân mình. Rồi một cái đẩy kiên quyết dúi anh ta về phía trước, và đã bắt đầu thì anh ta nhận ra rằng mình không dừng lại được. Algernon bước tới trước, bị đẩy bởi một lực nằm ngoài tầm hiểu biết của anh ta. Anh ta di chuyển và khi anh ta làm như vậy thì những cái bóng, hình dạng và màu sắc trượt qua anh ta, những cái bóng trở nên đặc hơn và cuối cùng thì tắc lại. Anh ta đã đến điểm tận cùng, một lần nữa lại nằm ngoài ý muốn anh ta. Anh ta nhìn quanh bối rối, và rồi một giọng nói cất lên. ‘Vào đi’, Một lần nữa không với bất cứ nỗ lực nào từ phía Algernon, anh ta di chuyển lên phía trước và đi xuyên qua cái dường như một bức tường bất khả xâm phạm. Anh ta rơi xuống và có cảm giác bị chấn thương nặng. Rồi dường như Algernon đã hồn lìa khỏi xác, anh ta đang nhìn xuống một khung cảnh. Một cô y tá đang đưa một đứa bé vừa mới sinh cho mẹ nó. Một người đàn ông quí tộc có vẻ ngoài dữ tợn đang nhìn xuống đứa trẻ, rồi bỗng nhiên ông ta mân mê bộ râu quai nón của mình và nói với cô y tá, ‘Hừm, một sinh vật bé nhỏ kinh khủng, phải không? Trông giống như một con chuột bị chết đuối hơn là cái mà ta hy vọng sẽ trở thành một người đàn ông. Được rồi, y tá, mang nó đi.’ Khung cảnh cuộn xoáy lại, và rồi Algernon nhìn thấy mình đang ngồi trong lớp học được dạy bởi một gia sư. Anh ta thấy mình đang chơi khăm thầy giáo bằng những trò hèn hạ, và thầy giáo thì không thể làm gì được vì cha của Algernon là một quí tộc vô cùng độc đoán, kẻ coi gia sư và tất cả người làm công là những kẻ hầu người hạ đáng khinh. Trong sự kinh hoàng Algernon nhìn thấy một vài việc mà anh ta đã làm, những việc khiến anh ta đỏ mặt. Rồi hình ảnh lại thay đổi. Bây giờ anh ta đã lớn hơn, có thể là mười bốn – anh ta đoán là giữa mười bốn và mười lăm tuổi – và anh ta thấy mình đang nhìn một cách lén lút ra bên ngoài cánh cửa của một phần khá vắng vẻ trong trang viên gia đình. Một cô hầu gái xinh đẹp đi đến làm Algernon lùi lại, và khi cô ta đi ngang qua cánh cửa thì anh ta nhảy ra và bịt miệng cô, kéo cô vào trong phòng. Anh ta nhanh chóng khóa cửa lại và vẫn bịt miệng cô hầu gái để cô không thể hét lên được anh ta xé quần áo của cô. Algernon cảm thấy nóng bừng về việc anh ta đã làm. Rồi một lần nữa khung cảnh lại thay đổi. Anh ta đang đứng trong phòng làm việc của cha mình, cô hầu gái cũng đang đứng đó khóc lóc. Cha của Algernon mân mê bộ râu quai nón của mình trong lúc nghe cô hầu gái nói, rồi ông ta cười phá lên một cách thô bỉ nói ‘Lạy chúa, đàn bà, chẳng nhẽ ngươi không hiểu được rằng một quí ông trẻ tuổi cần phải tìm hiểu về tình dục, vì sao mà ngươi nghĩ ngươi ở đây? Nếu ngươi không thể chấp nhận một việc cỏn con như vậy thì hãy ra khỏi nhà của ta!’ Một cách hống hách ông ta đưa tay lên và cho cô hầu gái một cái bạt tai. Cô ta quay lưng, khoc lóc chạy ra khỏi phòng. Người cha quay sang Algernon và nói, ‘Hừm, con đã bị kích động, chàng trai trẻ, con không còn là trai tân nữa hả? Tốt, hãy tiếp tục như vậy, hãy tiếp tục thực hành. Ta muốn nhìn thấy những đưa con trai khỏe mạnh được sinh ra trong ngôi nhà này trước khi ta từ giã cõi đời.’ Nói xong ông ta ra hiệu cho Algernon đi ra. Hình ảnh thay đổi và thay đổi. Eton, chèo thuyền trên sông. Oxford, quân đội, những người đàn ông đang luyện tập, và rồi đi ra nước ngoài, Chiến tranh chống lại người Boer. Trong sự kinh hoàng anh ta thấy mình đang ra lệnh cho binh lính thảm sát những gia đình sợ sệt, không chống cự và không làm gì sai ngoại trừ việc họ không hiểu một mệnh lệnh bằng tiếng Anh vì họ chỉ nói tiếng Afrikaans. Anh ta thấy những xác người bị ném vào mương bên cạnh đường, và anh ta thấy mình cười một cách nhẫn tâm khi một cô gái trẻ bị một lưӥi lê đâm xuyên qua người và bị ném sang một bên. Những hình ảnh vẫn tiếp tục. Anh ta tắm trong mồ hôi lạnh. Anh ta cảm thấy bệnh, anh ta cảm thấy muốn nôn nhưng không thể. Anh ta nhìn thấy toàn bộ một bãi thây người, bảy mươi, bảy mươi tư, bảy mươi tám. Bảy mươi tám người chết, và ngay khi anh ta chuẩn bị giết chết người thứ bảy mươi chín thì một tay súng đứng lên và bắn Algernon khiến cho anh ta không còn là đàn ông nữa. Những hình ảnh tiếp tục cho đến khi chúng dường như không còn ý nghĩa gì nữa với Algernon. Anh ta chao đảo và đứng dựa vào tường, rồi không biết bằng cách nào, mặc dù không làm gì hết anh ta lại thấy mình đứng giữa vị bác sĩ và các thành viên của Hội đồng. Họ nhìn anh ta một cách dò xét, rồi gương mặt của vị chủ tọa biểu lộ một chút thương cảm. Nhưng người đó chỉ nói, ‘Chúng ta hãy quay lại với cuộc nói chuyện.’ Người đó quay đi, dẫn đường ra khỏi Sảnh Kí Ức và quay lại phòng Hội đồng. Một lần nữa khi đã ở trong phòng vị chủ tọa nói, ‘Anh đã thấy những tình tiết của cuộc đời mình. Anh đã thấy rằng, dù là máu quí tộc hay dân thường, anh đã phạm phải rất nhiều tội ác mà cuối cùng là tội tự sát. Bây giờ chúng ta phải quyết định, đúng hơn là chúng tôi giúp anh quyết định lối đi nào là tốt nhất để anh có thể chuộc lại những tổn thất mà anh đã gây ra trong sự độc ác của chiến tranh, và tội đã tự sát. Anh có ý tưởng gì cho việc đó không?’ Algernon đã bị trừng trị. Anh ta cảm thấy rất lung lay, anh ta chưa bao giờ cảm thấy tồi tệ như vậy. Anh ta chống khuỷu tay lên bàn và hai tay ôm đầu. Căn phòng im ắng, hoàn toàn im ắng. Algernon ngồi đó trong một khoảng thời gian vô tận nghĩ về tất cả những gì anh ta đã nhìn thấy, tệ hơn nữa, nghĩ về tất cả những gì anh đã thấy về những hành động mà anh ta đã gây ra. Và anh ta cân nhắc xem mình nên làm gi? Anh ta nghĩ rằng có thể anh ta nên trở thành một tu sĩ, một mục sư, có thể là một giám mục, và với đôi chút ảnh hưởng thậm chí anh ta có thể tiến lên làm tổng giám mục. Nhưng rồi từ đâu đó anh ta có một cảm giác thôi thúc rằng không nên, vì thế rất nhanh anh ta chuyển suy nghĩ sang hướng khác. Một bác sĩ thú y, anh ta nghĩ. Nhưng không, anh ta không thích động vật đến thế, và làm bác sĩ thú y thì cũng không có nhiều địa vị, phải không? Đó sẽ là một sự thụt lùi, anh ta nghĩ, từ một người của tầng lớp anh ta trở thành một bác sĩ thú y tầm thường. Anh ta có ấn tượng từ đâu đó có những tiếng cười im lặng, những tiếng cười chế giễu anh ta, những tiếng cười chỉ ra cho anh ta rằng anh ta đang đi sai đường. Và rồi anh ta nghĩ rằng anh ta nên trở thành một bác sĩ, một bác sĩ thời thượng, anh ta sẽ làm việc trong giới quí tộc, và anh ta có thể sẽ cứu sống được bảy mươi hay tám mươi người trong sự nghiệp của mình, và khi đó anh ta sẽ có một lý lịch trong sạch để bắt đầu một kiếp sống khác sau khi kiếp sống đang treo lơ lửng trước mắt kết thúc. Một trong những người đàn ông lần đầu tiên lên tiếng. ‘Chúng ta, tất nhiên, vẫn đang quan sát suy nghĩ của anh qua quả cầu này,’ người đó chỉ vào một quả cầu ở trên bàn mà Algernon đã không nhìn thấy trước đó vì nó bị che lại, nhưng bây giờ thì nó đang phát sáng và chỉ ra suy nghĩ của Algernon. Vì mặt Algernon đỏ ửng vì xấu hổ khi nhận ra rằng tất cả suy nghĩ của anh ta đều bị phát giác, hình ảnh trong quả cầu cũng trở thành ửng đỏ như vậy. Vị chủ tọa nói, ‘Đúng, ta hoàn toàn khuyến khích việc anh trở thành một bác sĩ nhưng ta không khuyến khích chút nào việc anh trở thành một bác sĩ của tầng lớp thượng lưu. Đây là kế hoạch mà ta đề nghị cho trường hợp của anh.’ Vị chủ tọa dừng lại, lật qua vài tờ giấy rồi nói, ‘Anh đã lấy đi mạng sống và làm bị thương người khác.’ Algernon đứng bật dậy. ‘Không! Tôi không làm bị thương ai cả-’ Vị chủ tọa ngắt lời anh ta ‘Đúng thế, anh đã ra lệnh giết và làm bị thương người khác, vì vậy anh cũng đáng trách như người đã thi hành những hành động đó. Nhưng anh đang nghe ta nói, tốt hơn là anh hãy lắng nghe chăm chú những điều ta nói bởi vì ta sẽ không nhắc lại. Anh nên trở thành một bác sĩ, nhưng là bác sĩ trong một khu nghèo nơi anh làm việc giữa những người nghèo, và anh sẽ bắt đầu kiếp sống của mình trong những điều kiện nghèo nàn, anh sẽ không còn là thành viện của giới thượng lưu nữa mà sẽ là một người phải tự bươn trải để vươn lên. Và trong năm thứ ba mươi của cuộc đời mình, cuộc sống của anh sẽ chấm dứt, anh sẽ quay trở lại đây nếu anh tiếp tục tự sát, hoặc nếu không anh sẽ lên một tầng cao hơn của thể vía, nơi tương ứng với những gì anh sẽ thể hiện trên Trái đất trong kiếp sống mà anh sắp sửa trải qua.’ Họ tiếp tục nói chuyện trong một lúc, rồi vị chủ tọa gõ cái búa của mình và nói, ‘Chúng ta sẽ gặp lại nhau để sắp xếp về cặp cha mẹ anh sẽ có, về vùng đất nơi anh sẽ được sinh ra, và ngày tháng của việc đó. Cho đến lúc đó anh có thể quay lại Nhà nghỉ dưӥng. Buổi nói chuyện dừng tại đây.’ Algernon và vị bác sĩ bước đi một cách ủ rũ dọc theo con đường trong vườn không nói một lời nào, rồi vị bác sĩ đưa Algernon về Nhà nghỉ dưӥng, chỉ cho anh ta một phòng thích hợp và nói, ‘Tôi sẽ quay lại gặp anh khi nào tôi được chỉ thị làm như vậy.’ Với một cái gật đầu nhẹ ông ta quay lưng và bỏ đi, còn lại Algernon ngồi trên ghế hai tay ôm đầu một cách khổ sở, nghĩ về tất cả những gì anh ta đã thấy, những gì anh ta đã gây ra, và anh ta nghĩ, ‘Nếu đây là tầng hối cải, tạ ơn Chúa là không có địa ngục!’ CHƯƠNG V. SỰ PHÁN XÉT Algernon vò đầu bức tai. Anh ta cảm thấy không vui chút nào. Anh ta đã tự sát. Thôi được, anh ta đã làm điều đó, bây giờ anh ta đang trả giá cho nó, và anh ta sẽ còn tiếp tục phải trả giá. Anh ta ngồi đó băn khoăn không biết khi nào việc này sẽ chấm dứt, bằng cách nào nó sẽ chấm dứt. Anh ta xem xét lại trong đầu tất cả các tình tiết đã xảy ra từ khi anh ta tới nơi này, tầng hối cải. ‘Vậy, là một người thuộc giới thượng lưu là sai ư? Mang dòng máu quí tộc là sai ư?’ anh ta nhìn chăm chăm xuống sàn và lẩm bẩm với chính mình. Rồi cửa phòng mở ra khiến anh ta quay phắt người lại. Một cô y tá vô cùng xinh đẹp bước vào – anh ta liền đứng lên mặt mày rạng rӥ như mặt trời buổi sáng. ‘A!’ anh ta hân hoan nói, ‘một thiên thần đã đến để đưa tôi ra khỏi nơi đen tối này!’ Anh ta nhìn cô y tá với một sự hào hứng không giấu diếm và nói, ‘một vẻ đẹp mĩ miều làm sao trong một nơi như thế này. Một - ’ ‘Dừng lại!’ cô y tá nói, ‘Tôi đã được miễn dịch với những lời tán tỉnh của anh rồi. Đàn ông các anh đều giống nhau, các anh chỉ nghĩ về một điều khi các anh đến với nơi này, và tôi có thể nói với anh rằng phụ nữ chúng tôi thực sự rất mệt mỏi với tất cả những đưa đẩy mà các anh thử.’ ‘Ngồi xuống,’ cô ta nói, ‘Tôi phải nói chuyện với anh và đưa anh đến một nơi khác. Nhưng trước hết tôi đã nghe thấy những điều anh đang lẩm bẩm khi tôi đi vào.’ ‘Mời cô ngồi, thưa cô,’ Algernon nói rất lịch sự. Cô y tá ngồi xuống và Algernon vội vàng ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh cô. Anh ta tỏ ra giận dỗi khi cô nhanh chóng di chuyển cái ghế để ngồi đối diện anh ta. ‘Bây giờ, Số Năm Mươi Ba,’ cô nói. Algernon giơ tay lên, ‘Cô nhầm rồi, thưa cô, tôi không phải là Số Năm Mươi Ba; tôi là AlgernonSt. Clair de Bonkers,’ anh ta nói. Cô y tá khịt mũi và hất đầu, ‘Đừng ngốc như vậy,’ cô ta trả lời, ‘bây giờ anh không đang trong vai diễn, anh ở đây trong thể này giữa hai hồi kịch, chúng ta có thể gọi như vậy.’ Cô ta giơ tay lên để chặn không cho Algernon nói và tiếp tục, ‘Có hai điều tôi muốn nói với anh trước tiên. Điều đầu tiên đó là tại đây anh không phải là Algernon gì đó mà là Số Năm Mươi Ba. Anh gần như là một người bị kết án ở đây, anh bị kết án vì phạm tội tự sát, và ở đây anh được gọi bằng hai chữ số cuối của tần số cơ bản của mình, trong trường hợp của anh là năm mươi ba.’ Algernon tội nghiệp cảm thấy đầu óc mình rối loạn. ‘Tần số cơ bản?’ anh ta nói, ‘tôi sợ là cô đang nói những điều vượt quá tầm hiểu biết của tôi. Tôi không có một chút khái niệm nào về cái mà cô đang nói tới. Tên tôi là Algernon và không phải là Số Năm Mươi Ba.’ ‘Anh còn phải học nhiều thứ, chàng trai trẻ,’ cô y tá đáp lại hơi chút cộc cằn. ‘Anh có vẻ là một người đặc biệt kém hiểu biết so với một người mang trong mình dòng giõi quí tộc, nhưng chúng ta hãy làm rõ điều đó đầu tiên . Dường như anh nghĩ rằng bởi vì có một đạo luật nào đó trên Trái đất khiến anh trở thành một người có địa vị nên anh có thể mang theo nó đến đây. Không phải như vậy!’ ‘Ôi!’ Algernon lớn tiếng kêu lên, ‘cô chắc hẳn là một tên Cộng sản hay gì đó. Cô đang đi theo chủ nghĩa Cộng sản nếu cô nghĩ rằng không ai được quyền có địa vị - rằng mọi người đều như nhau!’ Cô y tá thở dài ngao ngán, và nói một cách mệt mỏi, ‘Anh thật sự là thiếu hiểu biết, tôi sẽ nói với anh ngay ở đây và bây giờ rằng chủ nghĩ Cộng sản là một tội ác ít nhất tương đương với tự sát, bởi vì nếu một người tự sát gây ra tội ác với chính bản thân mình, thì chủ nghĩa Cộng sản là một tội ác chống lại cả giống nòi, cả nhân loại. Chủ nghĩa Cộng sản trên thực tế như căn bệnh ung thư đối với thế giới. Chúng tôi không đi theo chủ nghĩa Cộng sản, và sẽ đến lúc – sau rất nhiều thời gian – chủ nghĩa Cộng sản cuối cùng sẽ bị dẹp tan bởi vì nó được hình thành dựa trên những mệnh lệnh sai trái. Nhưng đó không phải là những điều chúng ta đang nói tới.’ Cô y tá đọc một vài giấy tờ, ngẩng đầu lên và nhìn thẳng vào Algernon nói, ‘Chúng ta cần làm cho anh đi xa khỏi đi cái ý tưởng chết người rằng vì anh đã từng là một người có địa vị nên anh sẽ mãi mãi là người có địa vị. Chúng ta hãy dùng các khái niệm trên Trái đất. Hãy nghĩ về một nhà văn đã đi xuống Trái đất một thời gian trước đây, tên ông ta là Shakespeare. Ông ta đã viết nên những vở kịch rất quen thuộc với anh. Trong các vở kịch của ông ta, đôi khi có một nhân vật phản diện, đôi khi có một người đóng vai vua, nhưng tôi nói thẳng với anh là người ta sẽ cười thối mũi bất kì diễn viên nào đã từng đóng vai vua trong Hamlet mà lại nghĩ rằng anh ta vẫn là vua trong phần còn lại của cuộc đời thực của mình. Con người đi xuống Trái đất để tham gia vào một vai diễn nhất định trong vở kịch cuộc sống, vai diễn cho phép người ta học được bài học người đó cần phải học. Sau khi đã học xong bài học đó và quay trở lại thể vía, tất nhiên người đó sẽ vứt bỏ đi cái vỏ tưởng tượng và trở về với chính bản chất của mình được xác định bởi Linh hồn của người đó. Algernon – hay đúng hơn là Số Năm Mươi Ba kể từ bây giờ - rùng mình và trả lời ‘Ôi trời ơi! Tôi thật sự không thích những đôi tất xanh (ám chỉ những phụ nữ có học thức). Khi một phụ nữ trẻ xinh đẹp bắt đầu thuyết giáo và giảng giải, tất cả nhưng cảm xúc của tôi thực sự đều tắt ngóm hết.’ ‘Ôi, vui làm sao!’ cô y tá nói, ‘bởi vì tôi nhận thấy những ý nghĩ của anh đều không hay ho gì, tôi thực sự vui vì đã làm cụt hứng những ham muốn rất hiển nhiên của anh.’ Cô y tá lần nữa lại giở ghi chép ra xem, kiểm tra từ tờ này sang tờ khác rồi nói, ‘Anh đã bị gửi tới nhầm nhà nghỉ dưӥng. Tôi phải đưa anh tới một nơi khác có tính tạm thời hơn bởi vì anh phải quay trở lại Trái đất sớm nhất có thể được. Trên thực tế, anh chỉ là một người quá giang ở đây, chúng tôi không làm được gì nhiều cho anh ngoại trừ việc đưa anh trở về sớm nhất có thể trong khả năng của chúng tôi. Xin hãy đi theo tôi.’ Nói xong cô ta đứng lên và đi ra cửa. Số Năm Mươi Ba – Algernon trước đây! lao tới và giữ cửa với một cái cúi đầu hơi chế giễu; ‘Mời bà đi trước,’ anh ta nói. Cô y tá kiêu hãnh đi qua cửa và đâm sầm vào vị bác sĩ đang định đi vào. ‘Ối! ồ, tôi xin lỗi bác sĩ, tôi không nhìn thấy anh,’ cô y tá thốt lên. ‘Ồ, cô đừng nghĩ ngợi. Tôi đến để đón Số Năm Mươi ba vì Hội đồng muốn gặp lại anh ta. Cô có muốn nói gì với anh ta không?’ Cô y tá mỉm cười với vị bác sĩ và trả lời, ‘Không, tôi sẽ rất vui vì thoát được anh ta. Anh ta có phần tự phụ so với một người ở vị trí của anh ta. Tôi đã cố gắng dạy anh ta rằng máu quí tộc không có nghĩa gì ở đây, nhưng ít nhất nó còn cao hơn một chút so với máu Cộng sản. Nhưng, bác sĩ,’ cô y ta nói nhanh, ‘sau khi Hội đồng xong việc với anh ta, anh ta cần phải đến Nhà chuyển tiếp. Có một nhầm lẫn ở trong chỉ thị. Tôi nghĩ đó là lí do vì sao anh đưa anh ta tới đây. Anh có thể đảm nhận việc đưa anh ta tới Nhà chuyển tiếp được không?’ Vị bác sĩ gật đầu và nói, ‘Đươc, tôi sẽ lo việc đó.’ Rồi vị bác sĩ gật đầu ra hiệu với Số Năm Mươi Ba và nói, ‘Đi thôi, chúng ta đã muộn rồi.’ Nói xong ông ta quay đi và dẫn đường tới hành lang mà Algernon? Không, Số Năm Mươi Ba đã thấy trước đó. Anh chàng tội nghiệp trông hoàn toàn thất vọng và lẩm bẩm, ‘Tầng hối cải? Đây đúng là tầng hối cải rồi. Mình chắc chắn là mình sẽ lùn đi vài phân khi đi ra khỏi đây. Mình gần như đã khuӷu cả gối rồi!’ Vị bác sĩ nghe thấy những gì anh ta nói thì cười một cách vui vẻ và đáp lại, ‘Chính thế, anh sẽ ngắn hơn anh bây giờ rất, rất nhiều khi anh rời khỏi đây bởi vì anh sẽ là một đứa bé trong bụng mẹ!’ Vị bác sĩ và Số Năm Mươi Ba đi vào một hành lang dài. Hai người bảo vệ ngồi hai bên lối vào. Một người gật đầu nhẹ với vị bác sĩ và nói, ‘Đây có phải là Số Năm Mươi Ba?’ ‘Đúng vậy,’ vị bác sĩ nói. ‘Có phải anh là người sẽ đi cùng chúng tôi không?’ Người bảo vệ ngồi phía bên phải đứng lên và trả lời, ‘Tôi là người sẽ đi cùng các vị. Chúng ta không nên mất thời gian nữa.’ Người đó quay người đi xuống dọc hành lang với những bước đi nhanh nhẹn. Số Năm Mươi Ba và vị bác sĩ phải rảo chân để theo kịp. Họ đi một quãng đường khá dài, Số Năm Mươi Ba kinh hãi thấy rằng dù họ đã đi được rất xa, chiếc hành lang vẫn dường như kéo dài ra vô tận. Nhưng có những chỗ cắt ngang, những nhánh của hành lang. Người bảo vệ, hay người dẫn đường, Số Năm Mươi Ba không chắc lắm người đó là gì, rẽ trái và đi tiếp thêm một lúc rồi gõ mạnh vào cánh cửa và lùi lại. ‘Mời vào,’ một giọng nói vang lên và người bảo vệ nhanh chóng mở cửa, đầu tiên là vị bác sĩ, sau đó là Số Năm Mươi Ba và cuối cùng là người bảo vệ đi vào và đóng cửa lại chắc chắn sau lưng họ. ‘Xin hãy đến và ngồi xuống đây,’ giọng nói đó nói. Số Năm Mươi Ba nhìn quanh và ngồi xuống chiếc ghế được chỉ định. ‘Bây giờ chúng ta cần nói chuyện về tương lai của con. Chúng ta muốn đưa con về lại Trái đất vào một thời điểm phù hợp với các chức năng sinh lý của một người phụ nữ một cách sớm nhất có thể!’ giọng nói đó nói. Số Năm Mươi Ba nhìn quanh – anh ta có phần bị lóa mắt vì lượng ánh sáng trong tòa nhà, đó thật sự là một tòa nhà rất sáng và có rất nhiều đèn flash khắp nơi. Một bức tường, anh ta nhìn nó với vẻ kinh ngạc, dường như là một tấm kính đóng băng mà trên đó cứ một lúc lại có những ngọn đèn màu nhấp nháy nhanh chóng chiếu qua rồi biến mất. Anh ta nhận thấy mình đang ở trong một căn phòng mà anh ta chưa bao giờ nhìn thấy trước đó. Nó trông giống như một phòng bệnh giản dị, nhưng không phải màu trắng mà là một màu xanh rất dịu mắt. Xung quanh anh ta có năm hoặc sáu người – anh ta không thể đếm chính xác – họ đều mặc màu xanh. Anh ta không dám chắc về số lượng người trong phòng bởi vì cứ một lúc lại có người đi vào và người khác thì biến mất khỏi căn phòng, nhưng không phải lúc để chú ý đến chuyện đó vì người đàn ông lúc nãy lại lên tiếng. ‘Ta đã kiểm tra rất kĩ lưӥng và xem xét tất cả các thông tin được đưa đến. Ta đã đi sâu vào quá khứ của con, quá khứ trước khi con đi xuống Trái đất, và ta nhận thấy thông qua ánh sáng của con rằng con đã làm khá tốt trên Trái đất, tuy nhiên theo các tập tục và truyền thống trong cuộc đời thực con đã thất bại và con đã thêm vào thất bại của mình tội ác của việc tự sát. Vì vậy bây giờ chúng ta muốn giúp con.’ Số Năm Mươi Ba trông vô cùng chua chát, và anh ta không khỏi bùng lên, ‘Giúp tôi? Giúp tôi! Từ khi tôi đến đây tôi đã bị chỉ trích, bị khiển trách vì gần như tất cả mọi thứ, tôi đã bị khiển trách vì là một người của tầng lớp thượng lưu, tôi đã bị khiển trách vì có thể đã nói tôi đáng lẽ phải là một tên Cộng sản. Tôi có thể tin được điều gì đây?’ Nếu tôi ở đây để bị trừng phạt thì tại sao không bắt đầu đi?’ Người đàn ông cao tuổi dáng người mảnh khảnh với mái tóc bạc ngồi trước mặt Số Năm Mươi Ba trông thật sự đau buồn và thương cảm. ‘Ta thực sự rất tiếc vì con đã cảm thấy như vậy,’ người đó nói, ‘chính là thái độ của con đang khiến cho mọi thứ rất khó khăn với chúng ta, bởi vì chúng ta đã đi đến một kết luận không thể thay đổi được, rằng vì trước đây con đã xuống Trái đất trong tư cách của một người có địa vị cao, điều đó đã ảnh hưởng tới tâm thần của con, vì vậy khi con được gửi lại về Trái đất, con sẽ được gửi vào trong những điều kiện tương đối nghèo nàn, điểu đó là cần thiết, nếu không con sẽ trở nên khá quá quắt và con sẽ tạo cho Chân ngã của con những ấn tượng hoàn toàn sai. Ta nói vậy đã rõ chưa?’ Số Năm Mươi Ba trừng mắt nhìn và đáp lại, ‘Không, hoàn toàn không, tôi không biết ông đang nói về cái gì khi ông nói tới Chân ngã và tất cả những thứ đó. Cho tới giờ tất cả những gì người ta nói với tôi chỉ là một đống những lời vô nghĩa, và tôi không cảm thấy hổ thẹn vì những gì tôi đã làm. Vì vậy, theo luật pháp Anh, tôi đã không làm gì sai trái hết!’ Người đàn ông cao tuổi cảm thấy quyết tâm của mình rắn lại. Đối với ông thì chàng trai này – Số Năm Mươi Ba – chỉ đang tỏ ra khó khăn để tỏ ra khó khăn. ‘Con đã hoàn toàn sai khi con nói tới luật pháp Anh,’ người đó nói, ‘Bởi vì nếu như con biết tí gì về luật pháp Anh con sẽ biết rằng đó không phải là một cái cớ khi một người nói rằng người đó không biết luật, nếu con vi phạm một luật lệ và con nói rằng con không biết có luật đó, con vẫn phải cảm thấy tội lỗi vì con đáng lẽ phải tìm hiểu để biết về sự tồn tại của luật đó. Và xin đừng cố gẳng tỏ ra hung hăng với ta bởi vì ta là một trong những người nắm số phận của con trong tay, và nếu con tỏ ra quá đối kháng với chúng ta thì chúng ta có thể khiến cho nhứng điều kiện càng trở nên khắc nghiệt hơn. Hãy chú ý và kìm nén sự hung hăng của con lại.’ Số Năm Mươi Ba rùng mình trước âm điệu trong giọng nói và nhận ra mình đã bị đánh bại. Anh ta nói, ‘Thưa ngài, nhưng tôi phải làm gì nếu những khái niệm được dùng đến không có ý nghĩa gì với tôi? Ví dụ như Chân ngã là gì’ ‘Để sau,’ người chất vấn nói, ‘con sẽ được dạy về tất cả những điều này. Bây giờ ta chỉ nói rằng Chân ngã là cái mà con có thể gọi là linh hồn vĩnh cửu và bất tử của mình, và con bây giờ chỉ là một con rối hay phần mở rộng của Chân ngã đó, hay giống như người ta có thể nói, một cái vỏ - đó là phần mở rộng từ Chân ngã của con được vật chất hóa để con có thể học được qua những kinh nghiệm khó khăn của thân xác, những thứ không thể đạt được đối với Chân ngã bởi Chân ngã tinh tế hơn rất nhiều. Số Năm Mươi Ba tội nghiệp cảm thấy đầu mình quay quay. Anh ta không thật sự hiểu bất cứ điều gì trong những điều này nhưng anh ta nghĩ vì người ta đã nói với anh rằng anh ta sẽ được chỉ dẫn sau, tốt hơn là anh ta không nên làm mọi thứ phức tạp lên và bây giờ anh ta chỉ nên lắng nghe. Vì vậy anh ta gật đầu lấy lệ để trả lời cho cái nhíu mày của người chất vấn. Người chất vấn, hay có thể gọi một cách chính xác hơn là người cố vấn, nhìn xuống giấy tờ của mình rồi nói, ‘Con phải quay lại làm con của một cặp bố mẹ nghèo, những người không có địa vị xã hội, bởi vì vai diễn con yêu cầu được diễn trong kiếp sống trước của con có vẻ đã làm sai lạc nghiêm trọng hiểu biết và nhận thức của con. Chúng ta đề nghị - và con có quyền từ chối – rằng con sẽ được sinh ra bởi một cặp bố mẹ ở Luân Đôn, trong khu vực Tháp Hamlets. Có một vài cặp bố mẹ rất thích hợp gần phố Wapping High. Con sẽ được sinh ra gần với Tháp Luân Đôn, Mint và những khu vực bến tàu có tiếng khác, những nơi mà cư dân ở đó rất nghèo đói và đau khổ. Tại đây, nếu như con đồng ý, và nếu như con có đạo đức và ý chí, con có thể vươn lên trở thành một bác sĩ hay một nhà phẫu thuật, và bằng việc cứu sống những người xung quanh con có thể chuộc lại những mạng sống mà con đã lấy đi, trực tiếp hay gián tiếp. Nhưng con phải quyết định nhanh bởi vì những người phụ nữ được chọn để làm mẹ của con đã mang thai, và điều đó có nghĩa là chúng ta không có thời gian để lãng phí. Ta sẽ chỉ cho con,’ người đó nói, ‘khu vực mà con sẽ sống.’ Người đó quay lưng và vẫy tay lên bức tường mà Số Năm Mươi Ba ban đầu tưởng là kính, một tấm kính bị đóng băng. Khi người đó làm như vậy thì bức tường trở nên sống động đầy màu sắc, và Số Năm Mươi Ba có thể nhìn thấy trên đó một khu vực của Luân Đôn mà anh ta chỉ biết đến một cách sơ sài. Sông Thames, đúng; cầu Southwark, cầu Luân Đôn, và cầu Tower hiện ra trên màn ảnh. Và ở một góc màn ảnh là Tháp Luân Đôn. Số Năm Mươi Ba ngồi đó như bị mê hoặc, anh ta nhìn vào những hình ảnh hoàn toàn rõ ràng, thấy giao thông trên phố. Anh ta ngạc nhiên nhất khi thấy những cỗ xe không có ngựa kéo và thực tế chỉ có rất, rất ít những phương tiện do ngựa kéo. Anh ta hỏi về việc này thì vị cố vấn nói, ‘Ồ phải rồi, các phương tiện giao thông bằng ngựa kéo đã gần như biến mất, mọi thứ đã thay đổi đáng kể kể từ khi con ở đây, và con đã ở đây khá lâu rồi, con biết đấy. Con đã bất tỉnh trong khoảng ba năm. Bây giờ mọi thứ đều có động cơ, xe bus, xe tải và ô tô. Mọi thứ được cho là đã tốt lên nhưng cá nhân ta thì lấy làm tiếc về việc ngựa đã không còn được sử dụng trên phố nữa.’ Số Năm Mươi Ba lại nhìn vào hình ảnh trên tường. Phố Mint, phố Cable, Shadwell, East Smithfield, Highway, phố Thomas More, phố Catherines, phố Wapping High và bức tường Wapping. Vị cố vấn nói, ‘Chúng ta có năm người phụ nữ đang mang thai. Ta muốn con chọn một nơi con thích trong những nơi con vừa thấy. Trong năm người phụ nữ này, một người là vợ của một người trông coi quán trọ, hoặc ta nghĩ con có thể gọi ông ta là chủ quán. Người thứ hai là vợ của một người bán rau quả. Người thứ ba là vợ của một người bán đồ sắt. Người thứ tư là vợ của một người lái xe bus. Và người thứ năm lại là một người trông coi quán trọ. Bây giờ, con có quyền chọn lựa và không ai sẽ ảnh hưởng tới con. Ta có thể đưa cho con danh sách và con có hai mươi tư giờ để ngẫm nghĩ về vấn đề này, và con chỉ việc hỏi nếu con cần lời khuyên.’ Số Năm Mươi Ba ngồi lại và nhìn chăm chăm vào những hình ảnh sống động trên bức tường, anh ta nhìn thấy mọi người đang đi lại, nhìn thấy những bộ trang phục kì lạ mà phụ nữ hiện nay đang mặc, kinh ngạc trước những cỗ xe không ngựa kéo và cũng kinh ngạc trước số lượng các tòa nhà. Rồi anh ta quay sang vị cố vấn và hỏi, ‘Thưa ngài, tôi muốn xin ngài cho phép tôi được nhìn thấy mười người, năm người bố và năm người mẹ, những người mà trong số đó tôi sẽ chọn cha mẹ cho mình. Tôi muốn được nhìn thấy họ, tôi muốn được nhìn thấy điều kiện sống của họ.’ Vị cố vấn, hay người chất vấn, lắc đầu chậm chạp, thật sự lấy làm tiếc : ‘À bạn của ta,’ người đó nói, ‘yêu cầu đó vượt ngoài khả năng của ta bởi vì chúng ta chưa bao giờ làm một chuyện như vậy. Chúng ta chỉ có thể nói cho con biết các chi tiết và con đưa ra lựa chọn. Con không được phép nhìn thấy cha mẹ của mình bởi điều đó sẽ xâm phạm tới sự riêng tư của họ. Bây giờ ta đề nghị con hãy quay về Nhà chuyển tiếp và suy nghĩ về toàn bộ vấn đề này.’ Nói xong người đó hơi cúi mình để chào vị bác sĩ và Số Năm Mươi Ba, cầm lấy giấy tờ của mình và rời khỏi phòng. Vị bác sĩ nói, ‘Chúng ta đi thôi,’ và đứng lên. Số Năm Mươi Ba miễn cưӥng đứng lên và đi theo vị bác sĩ. Họ quay lại con đường lúc nãy cùng với người bảo vệ. Cùng nhau họ đi dọc cái hành lang tưởng chừng dài vô tận mà bây giờ có vẻ còn dài hơn nữa.’ Cuối cùng họ cũng ra đến bên ngoài, Số Năm Mươi Ba hít một hơi thật sâu thu lấy năng lượng và sinh lực. Người bảo vệ quay lại vị trí của mình, còn vị bác sĩ và Số Năm Mươi Ba tiếp tục đi về phía một tòa nhà màu xám khá u ám mà Số Năm Mươi Ba đã thoáng để ý thấy trước đó nhưng bỏ qua vì không có gì hấp dẫn. Họ đi vào cửa trước, người đàn ông ngồi ở bàn nói, ‘Thứ ba bên trái,’ và không để ý gì đến họ nữa. Họ đi đến ‘thứ ba bên trái’ và đi vào một căn phòng được bài trí sơ sài. Có một chiếc giường, một chiếc ghế và một chiếc bàn nhỏ trên đó Số Năm Mươi Ba chú ý tới một tập hồ sơ lớn có ghi số 53. ‘Tới nơi rồi,’ vị bác sĩ nói. ‘Anh có hai mươi tư giờ kể từ bây giờ để cân nhắc quyết định của mình, sau đó tôi sẽ đến gặp anh, chúng ta sẽ phải đi để thấy cái có thể thấy, và chuẩn bị cho anh quay trở lại Trái đất. Tạm biệt!’ Vị bác sĩ quay lưng, đi ra khỏi phòng và đóng cửa lại sau lưng mình, để lại Số Năm Mươi Ba ngồi buồn bã giữa căn phòng, lật giở tập hồ sơ ghi số 53. Số Năm Mươi Ba nhìn trừng trừng vào cánh cửa đang đóng rồi chắp tay sau lưng đi đi lại lại, đầu cúi gằm. Anh ta đi quanh phòng từ giờ này sang giờ khác, rồi khi đã khá mệt với nỗ lực đó anh ta quăng mình vào ghế và nhìn sầu não qua cửa sổ. ‘Số Năm Mươi Ba ư?’ anh ta lẩm bẩm với chính mình. ‘Giống như một kẻ bị kết án, và tất cả chỉ vì mình đã làm một điều mình nghĩ là tốt. Sống để làm gì nếu sống không ra đàn ông cũng không ra đàn bà?’ Anh ta tay chống cằm, chân vắt chéo, trông rất khổ sở. Rồi anh ta nghĩ, ‘Liệu lúc đó mình có thật sự nghĩ là mình đang làm một việc đúng đắn không? Rốt cuộc có thể họ đã nói đúng một điều gì đó. Mình nghĩ rất có thể mình đã làm việc đó vì tự thương hại mình, nhưng giờ đây khi ở nơi này thì mình lại được cho một con số giống như những phạm nhân ở Dartmoor và phải quyết định xem tiếp theo mình sẽ là ai. Mình không biết mình sẽ là ai. Dù sao thì mình cũng không biết là điều đó có ý nghĩa gì không, có thể mình sẽ lại kết thúc ở nơi này.’ Anh ta lại chồm lên và đi về phía cửa sổ, định đi dạo một vòng quanh vườn. Anh ta cẩn thận đẩy cánh cửa, cánh cửa mở ra dễ dàng. Anh ta bước ra bên ngoài thì nó giống như dẫm lên một miếng cao su vô hình. Nó đủ căng để tránh cho anh ta khỏi bị lãnh một vết bầm tím, rồi trước sự kinh ngạc của anh ta nó co lại và đẩy anh ta lại vào phòng một cách nhẹ nhàng và không tốn tí công sức nào. ‘Rốt cuộc vẫn là tù nhân,’ anh ta nói với chính mình. Rồi anh ta ngồi lại vào ghế. Anh ta ngồi đó suy nghĩ từ giờ này qua giờ khác, băn khoăn, ở trong một trạng thái hoàn toàn do dự. ‘Mình đã nghĩ rằng sau khi chết mình sẽ lên Thiên đường,’ anh ta nói với chính mình, và ngay lập tức sau đó anh ta nghĩ, ‘cũng không hẳn, mình cho là mình chẳng hề nghĩ như vậy chút nào. Mình đã thấy rất nhiều người chết và không hề có dấu hiệu nào của việc linh hồn rời khỏi thể xác, vì thế mình đã đi tới kết luận rằng tất cả những lời rền rỉ của các cha xứ về cuộc sống sau cái chết, vân vân… chỉ là vô nghĩa.’Anh ta lại đứng dậy và đi đi lại lại trong phòng, suy nghĩ và tự nói với mình một cách vô thức. ‘Mình vẫn nhớ trong một bữa ăn tối trong quân đội mọi người đã tranh luận về chuyện này, và đại úy Broadbreeches đã thể hiện một quan điểm rất quả quyết rằng khi người ta chết thì người ta chết và chỉ thế mà thôi. Ông ta nói về những người đàn ông, đàn bà, trẻ con và những con ngựa đã bị giết mà ông ta đã nhìn thấy, nhưng chưa bao giờ, ông ta nói với chúng tôi, ông ta nhìn thấy một linh hồn bay lên khỏi xác chết và bay lên thiên đường. Trong tâm trí anh ta hiện về cuộc sống của anh ta tại nước Anh khi anh ta còn là một học sinh, và rồi khi anh ta là một học viên trường sĩ quan. Anh ta nhìn thấy mình khi trở thành một sĩ quan mới được bổ nhiệm, tự hào bước lên tàu để ra đi chiến đấu chống lại người Đức. Anh ta từng nghĩ rằng người Boer là người Đức bởi vì gốc gác của họ. Nhưng khi anh ta nhìn lại, anh ta có thể thấy rằng người Boer chỉ đơn thuần là một nhóm nông dân đấu tranh vì cái mà họ cho là quyền được lựa chọn con đường đi riêng của mình, được giải phóng khỏi sự chi phối từ nước Anh. Cánh của mở ra và một người đàn ông bước vào : ‘Tôi đề nghị, Số Năm Mươi Ba, anh nên cố gắng nghỉ ngơi một chút. Anh chỉ đang làm chính mình kiệt sức khi cứ đi lại không ngừng trong phòng. Trong một vài giờ nữa anh sẽ phải trải qua một trải nghiệm khá đau đớn. Bây giờ anh càng nghỉ ngơi được bao nhiêu thì lúc đó sẽ càng dễ dàng hơn cho anh bấy nhiêu.’ Số Năm Mươi Ba quay lại nhìn anh ta một cách sưng sỉa và nói với một cung cách nhà binh, ‘Đi ra ngoài!’ Người đàn ông nhún vai, quay đi và rời khỏi căn phòng, và số Năm Mươi Ba lại tiếp tục suy nghĩ và đi lại. ‘Thế còn vương quốc Thiên đường thì sao?’ anh ta tự nói với mình. ‘Các cha sứ luôn nói về các lâu đài, các thể tồn tại khác, các dạng khác của sự sống. Mình nhớ là ông cha sứ trong quân đội đã nói rằng trước khi đạo Thiên chúa có mặt trên Trái đất thì mọi người đều bị kết án sa hỏa ngục, vĩnh viễn phải chịu đau khổ, giày vò, và rằng chỉ có người Công giáo La mã mới được lên Thiên đường. Giờ đây mình băn khoăn không biết liệu thế giới đã tồn tại được bao lâu rồi, và tại sao trước khi có Thiên chúa giáo thì tất cả mọi người đều bị kết án khi mà họ không hề biết rằng họ phải được cứu rỗi?’ Đi lại – đi lại – đi lại. Anh ta đi ngang phòng, quay lại, lại đi ngang phòng và quay lại, cứ như vậy không ngừng. Nếu anh ta đang ở trên bàn đạp của máy dệt, anh ta nghĩ, thì có lẽ anh ta đã đi được một quãng đường dốc tương ứng với khá nhiều dặm, ít nhất thì việc đó cũng mệt hơn là đi lại loanh quanh trong phòng. Cuối cùng, giận dữ và thất vọng, anh ta quăng mình lên giường và nằm dài ra ở đó. Lần này thì bóng tối không buông xuống, anh ta chỉ nằm đó lòng đầy căm hờn, cay đắng, oán giận, và những giọt nước mắt mặn và nóng bỏng tuôn ra từ đôi mắt anh ta. Giận dữ anh ta cố gắng lấy tay gạt nước mắt đi, và rồi cuối cùng thì anh ta úp mặt vào gối nức nở. Sau một khoảng thời gian tưởng như vô tận, có tiếng gõ cửa nhưng anh ta giả vờ không nghe thấy. Lại có tiếng gõ cửa lần nữa và anh ta vẫn giả vờ không nghe thấy. Sau một lúc cánh cửa mở ra từ từ và vị bác sĩ xuất hiện. Ông ta nhìn vào trong phòng một lúc, rồi nói, ‘Anh đã sẵn sàng chưa? Đã hết hai mươi tư tiếng rồi.’ Số Năm Mươi Ba thõng một chân xuống giường và lờ đờ để nốt chân kia. Anh ta ngồi dậy một cách chậm chạp. ‘Anh đã quyết định anh sẽ đi đến gia đình nào chưa?’ vị bác sĩ hỏi. ‘Chưa, mẹ kiếp, chưa, tôi vẫn chưa nghĩ đến việc đó.’ ‘A!’ vị bác sĩ nói, ‘vậy ra anh đang ra sức chống lại nhỉ? Điều đó cũng không quan trọng với chúng tôi, anh biết đấy, mặc dù anh sẽ thấy điều đó khó tin. Chúng tôi thật sự đang cố gắng giúp đӥ anh, và nếu anh vì chần chừ của mình mà bỏ lӥ mất cơ hội này, anh sẽ thấy rằng các cơ hội sẽ ngày càng ít đi và số lượng các gia đình thì ngày càng ít hơn.’ """