🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tình Yêu Trong Tiểu Thuyết Kim Dung
Ebooks
Nhóm Zalo
Thông tin ebook
Tên sách: Tình Yêu Trong
Tiểu Thuyết Kim Dung
Tác giả: Nghê Khuông
Thể loại : Phê bình văn học
---------------------------------- Nguồn: http://nhanmonquan.com Dịch giả: Cổ Nguyệt
Chuyển sang ebook (TVE): santseiya Ngày hoàn thành: 24/04/2009 Nơi hoàn thành: Hà Nội
http://www.thuvien-ebook.com
LỜI GIỚI THIỆU
Ai cũng rõ Kim Dung nổi tiếng với thể loại tiểu thuyết võ hiệp, nhưng mấy ai biết ông cũng là một bậc thầy của tiểu thuyết tình yêu. Truyện của ông không chỉ có đao kiếm trùng trùng mà còn thấm đượm tình cảm mượt mà.
Có một người đã phát hiện ra điều này từ lâu, đó là cố nhà văn nữ Tam Mao. Sinh thời bà cũng là một người hâm mộ Kim Dung, trong buổi nói chuyện với nhà khoa học nổi tiếng Thẩm Quân Sơn, bà đã nói: “Tôi cho rằng có một dạng chỉ dựa vào trí tưởng tượng, ví như ngài Kim Dung, tôi rất khâm phục ông ta. Tôi có rất ít thời gian để xem tiểu thuyết võ hiệp, nhưng truyện của Kim Dung tôi đều đã xem qua. Về mặt sáng tác tôi và ông ta không hề giống nhau, những điều ông ta viết là từ không mà thành
có, nhưng lại rất thật, về mặt hình thức là tiểu thuyết võ hiệp”.
“Tôi đã từng nói với Kim Dung, sao ông chỉ viết tiểu thuyết võ hiệp? Ông đã viết về một chữ mà người ta xưa nay không giải quyết được, làm bao người điên đảo: đó chính là ‘chữ tình’”. “Tác phẩm của tôi với Kim Dung tuy không giống nhau, nhưng có một điểm về bản chất lại giống nhau. Đó chính là ‘chữ tình’”(Tam Mao “Trong mơ biết bao cánh hoa đã tàn”). Tam Mao là nhà văn có cá tính, bà đã xem tiểu thuyết Kim Dung với con mắt rất khác. Điều đó không có gì lạ lùng, khó lý giải. Cũng như tác phẩm “Hồng lâu mộng”, cha đẻ của tác phẩmnày gọi đây là một “tiểu thuyết tình yêu”, nhưng Lỗ Tấn lại bảo “mỗi người có cách nhìn khác nhau, người bình thường thì thấy đây đúng là một câu chuyện tình cảm lâm ly, nhưng nhà cách mạng lại thấy đây là một tác phẩm thể hiện sự phản kháng chế độ phong kiến Mãn Châu...”. (“Trung Quốc tiểu thuyết sử lược”).
Có thể thấy rằng sáng tạo và tiếp nhận là hai chuyện khác nhau, tác phẩm hay hay dở là bởi cách nhìn của người xem. Một nhà văn kiệt xuất phải khắc phục được hạn chế và khó khăn này. “Hồng lâu mộng” cũng vậy, tiểu thuyết Kim Dung cũng thế.
Trong tiểu thuyết Kim Dung, không chỉ có nhân, trí, hiệp nghĩa, văn, võ...; có những câu chuyện phản Thanh phục Minh, phản Mông phục Tống; bí ẩn chốn cung cấm, giả sử giang hồ... Ngoài ra còn có cả những câu chuyện tình yêu gây xúc động lòng người. Tam Mao đã nhờ có trực giác của một phụ nữ, sự nhạy cảm của một nhà văn mà phát hiện ra điều này.
Chữ “tình” đã khiến cho chúng sinh điên đảo, gây nên biết bao câu chuyện đau thương hạnh phúc, dệt nên biết bao giấc mơ cho bao thế hệ con người.
Ở đây chữ “tình” có nghĩa hẹp và nghĩa rộng, nghĩa rộng của tình yêu bao gồm tình yêu đôi lứa, cha con mẹ con, vợ chồng, dân tộc... Nghĩa hẹp của tình yêu là nói về tình yêu trai gái, “là một sự ngưỡng mộ mãnh liệt về tinh thần và xác thịt giữa nam và nữ” (“Luận về tình yêu”).
Thế giới tình yêu trong tiểu thuyết Kim Dung vô cùng phong phú, dù ở nghĩa hẹp hay nghĩa rộng. Nhưng để xác định rõ chủ đề, trong quyển sách này chúng ta chỉ luận bàn về tình yêu đôi lứa. Tiểu thuyết võ hiệp mà có tình yêu, điều này không chỉ riêng có ở tác phẩm Kim Dung. Ngay từ đời Thanh cũng đã có, ví như trong tác phẩm “Nhi nữ anh hùng truyện” , đây là tác phẩm tương đối khá nhất vào thời đó, cho đến thời cận đại, thì xuất hiện những tác phẩm của Lý Định Di. Thập kỷ 30, xuất hiện “Uyên ương hồ điệp phái” với những tác phẩm như “Quỳnh lâu xuân tình” , “Triều lộ tương tư” của Vương Độ Lư, Cải Huyền Dịch. Đây là những tác phẩm lớn nhất thời bấy giờ, có ảnh hưởng rất lớn đến tiểu thuyết võ hiệp sau này.
Đến thập kỷ 50 ở hải ngoại lại nổi lên phái “Tiểu thuyết võ hiệp kiểu mới” , hầu như đều cập đến chuyện tình yêu nam nữ. Thậm chí có không ít tiểu thuyết, bề ngoài là tiểu thuyết võ hiệp nhưng chỉ viết về tình cảm và dục vọng trai gái.
Trước Kim Dung thì có Lương Vũ Sinh với bộ “Bạch phát ma nữ truyện” gây được tiếng vang lớn; sau Kim Dung thì có Cổ Long với bộ “Đa tình kiếm khách vô tình kiếm” cũng được nhiều người biết đến.
Vậy thì tác phẩm của Kim Dung có điểm nào khác với họ?
Có ít nhất mấy điểm sau.
THỨ NHẤT LÀ TÍNH NGHIÊM TÚC
Chúng ta nói tính nghiêm túc là đặc trưng thứ nhất của tiểu thuyết Kim Dung, là bởi vì trong thế giới tiểu thuyết võ hiệp, truyện rẻ tiền quá nhiều. Không ít tiểu thuyết treo đầu dê bán thịt chó, bề ngoài là tiểu thuyết võ hiệp nhưng nội dung hết sức bậy bạ, chỉ đầy rẫy bạo lực và tình dục... Có rất nhiều người chê bai tiểu thuyết võ hiệp, công bằng mà nói, không có lửa làm sao có khói. Trong tiểu thuyết không hề có võ, cũng chẳng có hiệp, không có gì đặc sắc, thậm chí không có tình yêu, không có chủ đề tư tưởng, thậm chí cũng chẳng có tình tiết, chỉ có bạo lực với tình dục... May mà, những tác phẩm kiểu này không nhiều.
Một trường hợp khác, đó là xem tình yêu như một thứ gia vị, tác phẩm nào cũng giống nhau, chỉ là phô diễn tình tiết. Nếu như nói những kẻ viết tiểu thuyết võ hiệp mà chỉ có bạo lực và tình dục là không ra gì, vậy thì về mặt nghệ thuật những tác giả chỉ xem tình yêu như một thứ phụ liệu cũng không thể gọi là nghiêm túc. Chúng ta đều biết rằng, trong số toàn bộ tiểu thuyết võ hiệp, những tác phẩm nghiêm túc ít hơn loại vớ vẩn.
May mà trong dòng tiểu thuyết võ hiệp còn có những tác phẩm nghiêm túc, như Kim Dung, Lương Vũ Sinh, và những người sau này như Cổ Long và Tiêu Dật. Bởi vì thái độ sáng tác rất nghiêm túc cho nên tình yêu trong tiểu thuyết của họ cũng đàng hoàng tử tế. Kim Dung, cũng bởi thái độ sáng tác đầy nghiêm túc của ông đã trở thành người đứng đầu trong những nhà văn viết tiểu thuyết võ hiệp.
TIẾP ĐẾN LÀ TÍNH PHONG PHÚ
Thế giới tình yêu trong tiểu thuyết Kim Dung phong phú đa dạng và đầy màu sắc.
Những câu chuyện không hề bị lặp lại.
Về điểm này, rõ ràng Kim Dung đã vượt qua Lương Vũ Sinh và Cổ Long. Lương Vũ Sinh nổi tiếng với “Bạch phát ma nữ truyện”, “Vân hải ngọc cung duyên” , đây là những tác phẩm nổi bật, nhưng quá câu nệ với sự “chính thống”, yêu cầu về mỹ và thiện đã hạn chế sự chân thật sâu sắc và phát triển đa dạng của câu chuyện. Từ đó tạo nên mô thức “anh hùng phải kết mối lương duyên với mỹ nhân”. Cổ Long cũng thế, tuy viết ra tác phẩm tuyệt vời như “Đa tình kiếm khách vô tình kiếm” , nhưng những câu chuyện tình yêu đương đại đều tương tự nhau.
Nhưng Kim Dung đã tránh được điều đó, mỗi câu chuyện tình yêu trong tác phẩm của ông đều không giống nhau, mỗi câu chuyện đều có sắc thái riêng.
Bộ “Thư kiến ân cừu lục” đã thể hiện rõ tài năng của Kim Dung về mặt này.
Tuyến chính của câu chuyện là bi kịch tình yêu giữa Trần Gia Lạc và Hoắc Thanh Đồng, Ca Ty Lệ, thể hiện rõ những tầng thức khác nhau, sự xung đột phức tạp với những mức độ khác nhau. Ngoài bi kịch của Trần Gia Lạc, chúng ta còn thấy bi kịch giữa Từ Triều Sinh với Vu Vạn Đồng, Viên Sĩ Tiêu, Vô Trần đạo trưởng, Dư Ngư Đồng. Tất cả những câu chuyện của họ tạo nên một thế giới tình yêu đầy bi kịch. Điều
đáng chú ý là những câu chuyện đều không giống nhau. Bi kịch của Từ Triều Sinh là bởi mất tự do trong hôn nhân, là bi kịch của vận mệnh; còn Viên Sĩ Tiêu là bi kịch của tính cách; còn Vô Trần Đạo trưởng là bởi si tình, bị người gạt gẫm, phẫn chí xuất gia; còn Dư Ngư Đồng thì đã yêu một người không nên yêu, để rồi đau khổ tột cùng...
Cũng trong bộ truyện này tác giả còn đem đến cho chúng ta những câu chuyện tình yêu đầy thú vị khác. Như tình yêu giữa vợ chồng A Phàm Đề đầy sinh động và hài hước; tình yêu giữa Thái Lai và Lạc Băng; Từ Thiên Hoằng và Châu Khởi; Thiên Sơn song ưng Trần Chánh Đức và Quan Minh Mai...Mỗi câu chuyện đều khác nhau. Từ đó chúng ta có thể thấy rằng, thế giới tình yêu trong tiểu thuyết Kim Dung là phong phú và đa dạng, nhân vật có tính cách khác nhau, tình yêu cũng có diện mạo khác nhau. Với những tác giả khác chúng ta không thể thấy điều này.
Tình yêu trong tiểu thuyết Kim Dung còn phong phú không những ở nội dung mà ngay ở phương pháp, kỹ thuật, hình thức kể chuyện cũng rất đa dạng. Có tường tận có sơ lược, có nông có cạn, có vui có buồn, có chính có phụ; có mờ có tịt có rõ ràng, có tượng trưng có trừu tượng. Dùng các phương pháp khác nhau để đưa ra cách nhìn khác nhau về tình yêu làm tăng thêm giá trị của tác phẩm. “Từ xưa con người đã tìm hiểu bí mật của tình yêu, nhằm nhận ra bản chất của nó, bởi vì tình yêu đem đến niềm vui, nhưng cũng đem đến cho người ta không ít phiền não. Biết bao thời người ta đã bàn rất nhiều đến tình yêu, người ta cũng ca tụng và oán thán tình yêu”(“Bàn về tình yêu”).
THỨ BA LÀ TÍNH SÂU SẮC
Tình yêu trong tiểu thuyết bình thường rất đẹp nhưng rất khó sâu sắc. Nhưng Kim Dung không như thế, bất cứ ở góc độ, phương diện, tầng thức nào chúng ta đều có thể thấy được bản chất phức tạp đầy mâu thuẫn của tình yêu.
Có được điều này, cũng bởi thái độ làm việc nghiêm túc của tác giả. Cố nhiên trong tác phẩm của ông cũng có phô diễn về mặt tình tiết, từ đó giá trị nghệ thuật của tác phẩm giảm xuống, nhưng về mặt tổng thể Kim Dung đã không xem tình yêu như là một thứ phụ liệu, là thứ để quảng cáo cho tác phẩm của mình. Ông đã hết sức chăm chút tỉ mỉ gọt giũa, căn cứ vào mối quan hệ mâu thuẫn phức tạp giữa các nhân vật, hoàn cảnh tâm lý để miêu tả nên những chuyện tình.
Trên cơ sở đó Kim Dung đã xây dựng nên giá trị nghệ thuật cho tác phẩm mình. Rõ ràng là tác phẩmcủa Kim Dung thấm đượm tính lãng mạn và truyền kỳ. Nhưng thế giới tình yêu không phải được xây dựng trên nền tảng của hư cấu. Một mặt ông đã tìm hiểu rất kỹ càng về tình yêu, điều này là rất hiếm. Ví dụ như trong tác phẩm “Thư kiếm ân cừu lục” đã nói ở phía trước, trong đó mẹ của Trần Gia Lạc là Từ Triều Sinh vì nghe lời cha mẹ mà không thể lấy được người mình yêu là Vu Vạn Đồng. Như trong “Phi Hồ ngoại truyện” mẹ của Viên Tử Y là Viên Ngân Cô, bị Phụng Thiên Nam cưỡng bức lại chịu biết bao nhiêu đau khổ. Những điều này mang đầy ý nghĩa tượng trưng. Tình yêu trong tiểu thuyết Kim Dung đều phản ánh hiện thực ở một mức độ nào đó.
Đương nhiên nội dung chủ yếu của thế giới tình yêu trong tiểu thuyết Kim Dung là mang hình thức hư cấu và truyền kỳ. Ngày xưa người ta không thể đạt đến “yêu đương tự do, hôn nhân tự chủ”, nhưng trong
tiểu thuyết Kim Dung người ta đã làm được điều này.
Trong văn học sử trung Quốc nói riêng và văn học thế giới nói chung, tồn tại hai mô típ về tình yêu: một là “Romeo và Juliet”, “Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài”, tức là mô thức tình yêu và số phận xung đột nhau, những người yêu nhau không thể đến được với nhau, bởi vì có một lực lượng khác đã ngăn trở họ, những kẻ yêu nhau yếu đuối, không thể vượt qua được. Như bốn câu chuyện tình yêu trong nhân gian Trung Quốc “Lương Sơn Bá Chúc Anh Đài”, “Mạnh Khương Nữ”, “Ngưu Lang Chức Nữ”, “Bạch Xà truyện” đều theo mô thức này. Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài vì cha mẹ phản đối nên mới tạo thành một bi kịch tình yêu; Mạnh Khương Nữ vì Tần Thủy Hoàng xây dựng Trường Thành mà vợ chồng mỗi người một nơi; Ngưu Lang và Chức Nữ thì bị Vương Mẫu nương nương chia uyên rẽ phượng; Bạch Xà và Hứa Tiên thì bị Pháp Hải ngăn trở, có thể thấy rằng mọi thế lực thống trị dù trên trời hay dưới đất đều không cho tình yêu phát triển tự do. Còn một mô thức khác nữa đó là “mộng tưởng”, được xây dựng trên cơ sở hiện thực của những bi kịch, Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài không thể kết hợp ở chốn nhân gian, thì hóa thành bướm để được tự do yêu thương; Mẫu Đơn Đình cũng theo mô thức ấy; Việc hôn sự của Thôi Oanh Oanh và Trương Sinh phải có điều kiện (Trương Sinh phải đậu trạng nguyên).
Có thể thấy rằng, ước mơ hai kẻ yêu nhau có thể đến với nhau mãi mãi chỉ là điều mơ ước. Có lẽ trong “Hồng lâu mộng” , tác giả cũng muốn nói lên điều này.
Nói tóm lại, bất kỳ ở mô thức nào, tình yêu chân chính cũng đều bị ngăn trở đè nén, những kẻ yêu nhau nếu có sức mạnh để vượt qua những hố sâu ngăn cách đó thì mới có thể đến được với nhau. Trong thế giới tình yêu của Kim Dung, ông đã thông qua ước nguyện nam nữ bình đẳng, trực tiếp đi vào trung tâm của tình yêu, khắc họa chân thực tình cảm thái độ của những nhân vật chính. Đó chính là chỗ sâu sắc của tác phẩm Kim Dung, cũng như ai đó đã nói: “Mượn những nhân vật tạm thời để miêu tả tính cách vĩnh hằng của con người”.
Thế giới tình yêu trong tác phẩm của Kim Dung, chính là thế giới của những người yêu nhau, hơn thế nữa là thế giới của con người. Ở đây, tác giả đã cho chúng ta thấy, bản chất của tình yêu và sau khi con người trở nên độc lập và tự do. Đó mới chính là bản chất của tình yêu thực sự. Những câu chuyện tình yêu trước đây được xây dựng trên cơ sở của ước mơ, tưởng rằng chỉ cần có “hôn nhân tự chủ, yêu đương tự do” là được. Kim Dung đã triệt để hơn. Từ đó làm cho chúng ta hiểu sâu sắc hơn. Nói tóm lại, không những Kim Dung đã đem đến cho chúng ta những câu chuyện tình yêu đẹp đẽ, mà còn thông qua đó để thể hiện những xung đột nhiều mặt, những mối quan hệ phức tạp giữa tình yêu với các nhân tố khác trong hiện thực, cho chúng ta thấy tâm lý tình yêu và tính bản chất của mâu thuẫn nhiều mặt.
Về tính phong phú mà nói, tiểu thuyết Kim Dung đã xây dựng nên những nhân vật chính với những cá tính khác nhau. Có thể gọi đây là bảo tàng của tình yêu. Về tính sâu sắc mà nói, có thể gọi đây là một bách khoa toàn thư về văn hóa tình yêu, là triết học về tình yêu và nghệ thuật về tình yêu.
THỨ TƯ LÀ TÍNH ĐỘC ĐÁO
Tiểu thuyết tình yêu của Kim Dung mang đầy tính sáng tạo độc đáo. Ở đây, có rất ít mô thức để nói, có rất nhiều nhà văn đã dựa vào mô thức để phát triển câu chuyện của mình. có thể nói mô thức hóa là đặc
tính căn bản của văn học thông tục. Dưới ngòi bút Kim Dung, mỗi lần xuất hiện một nhân vật mới, mỗi khi kể đến một câu chuyện tình mới, ông đều đem đến cảm giác mới mẻ cho người đọc. Mỗi nhân vật, mỗi câu chuyện, mỗi tác phẩm đều là một thế giới độc lập mới mẻ.
Chúng ta không thể tìm ra trong tiểu thuyết Kim Dung những quan niệm cơ bản về “bản chất của tình yêu”. Trong mười lăm bộ tiểu thuyết của Kim Dung có rất nhiều câu chuyện tình yêu, với những màu sắc khác nhau, nhưng không thể tìm được mô thức hoặc quy luật của nó. Điều đó cho thấy tác giả đã sáng tác ra những câu chuyện tình yêu mới mẻ, có suy nghĩ mới, có sự sáng tạo, và có sự thăm dò. Mỗi ý nghĩ sáng tạo đều kéo theo một góc độ, một phương diện mới mẻ hoặc phương thức chiếu rọi khác nhau.
Kim Dung có thể phát huy tính sáng tạo độc đáo của ông, viết nên những câu chuyện tình yêu độc đáo, bởi vì một nguyên nhân căn bản. Tác giả thật sự nắm được hoàn cảnh sống khác nhau của nhân vật, những cảnh ngộ và khí chất khác nhau của con người, lý tưởng của mỗi người. Có bao nhiêu cá tính là có bấy nhiêu cuộc tình. Bởi vì tình yêu không phải là một vật trừu tượng mà là mối quan hệ đặc biệt giữa nam và nữ, là một trạng thái tâm lý đặc biệt. Mỗi người đều có ước muốn riêng của mình, mỗi người đều có cảmthụ riêng của mình, mỗi người đều có sự chọn lựa riêng của mình. Cho nên tình yêu giữa những nhân vật khác nhau có mối quan hệ khác nhau với tâm lý của họ, nhiều người yêu cùng một người, hoặc một người yêu nhiều người, trạng thái tâm lý và hình thức biểu hiện đều không giống nhau. Vì thế tình yêu trở thành chủ đề vĩnh hằng và luôn luôn mới mẻ dưới mắt người đời. Cũng như những lĩnh vực khác, tình yêu không thiếu cái đẹp nhưng thiếu sự phát hiện; không thiếu cái mới, nhưng thiếu tinh thần sáng tạo và thăm dò.
Nghệ thuật quý ở sự sáng tạo. Người giỏi khác với kẻ dở, là ở chỗ anh không những không được lặp lại của người khác mà cũng không thể lặp lại chính mình. Đặc trưng này hoàn toàn hợp với lĩnh vực sáng tác văn học. Không ít những nhà văn chuyên viết truyện tình cảm vì thế mà phải lo lắng, đó là bởi vì họ ngại rằng mình sẽ lặp lại người khác, hoặc lặp lại bản thân mình, hoặc thậm chí là lặp lại bản thân mình và cả người khác.
Kim Dung không phải là một nhà văn chuyên viết tình yêu mà tình yêu chỉ được “kèm theo” trong tiểu thuyết võ hiệp, nhưng ông đã sáng tạo ra một thế giới tình yêu phong phú, sinh động, điều này thật đáng quý, càng thể hiện rõ hơn sự hiểu biết, tài hoa, phong độ của một vị tôn sư.
Tam Mao đã rất đúng khi nói tiểu thuyết Kim Dung chứa đựng một điều lớn nhất của nhân loại, một điều mà trước đây không thể giải quyết được, làm cho con người lên thiên đàng xuống địa ngục, đó chính là “chữ tình”.
Có rất nhiều người say mê đọc Kim Dung nhưng họ chỉ thấy được bề ngoài, chỉ biết đến những cái hời hợt bên ngoài. Điểm tuyệt vời của Kim Dung là rất nhiều, nhưng trong đó cái làm cho người ta phải điên đảo nhất, chính là “chữ tình”. Tình yêu trong tiểu thuyết võ hiệp hấp dẫn người đọc, đem lại cho chúng ta những cảm nhận khó quên.
Chúng ta có thể quên đi nhiều câu chuyện, những trận đấu kịch liệt, những trắc trở éo le, nhưng chúng ta không thể nào quên được bi kịch của Hương Hương công chúa Ca Ty Lệ, không thể nào quên được tình yêu đẹp đẽ mà trong sáng của nàng, sự hy sinh của nàng, từ đó không thể nào tha thứ cho sự ngu ngốc và bạc tình của Trần Gia Lạc. Chúng ta có thể quên được nhiều chuyện, nhưng chúng ta làm sao quên được
chuyện tình đầy ngang trái của Dương Quá và Tiểu Long Nữ.
Từ những câu chuyện tình yêu phong phú, đa dạng, phức tạp, tìm ra kết cấu nội tại của tiểu thuyết KimDung. Từ nhiều mặt, nhiều góc độ khác nhau trong thế giới tình yêu, chúng ta có thể thấy tiểu thuyết KimDung rất sinh động, đầy tình người. Chính vì thế chúng ta mới say mê xúc động, trầm tư mặc tưởng theo từng chi tiết của câu chuyện.
Thế giới tình yêu trong tiểu thuyết Kim Dung không phải là một thế giới ý niệm, mà là một thế giới hiện thực, không có giáo điều, khái niệm và công thức, giải thích, thậm chí không có nghị luận và phân tích. Chúng ta phải tự cảm nhận, tự tìm hiểu. Cho nên tiểu thuyết của Kim Dung, có giá trị triết học và nghệ thuật.
Vấn đề là chúng ta xem như thế nào, cảm nhận như thế nào, tìm và hiểu như thế nào. Đối với tác giả mà nói, vẫn còn một vấn đề là bàn luận như thế nào.
Một phương pháp có thể thực hiện là logic hóa thế giới tình yêu này. Chẳng hạn như chia ra tình và ái, tình và luận lý, tình yêu và hôn nhân, tình yêu và vận mạng, tình yêu và cá nhân, tình yêu và tâm lý, tình yêu và thù hận, tình yêu và hy sinh, tình yêu và đời người... Tác giả sẽ luận bàn theo từng chuyên đề; hoặc là chúng ta có thể nghiên cứu tình yêu về mặt sinh vật học, tâm lý học, xã hội học, luận lý học, dân tộc học, hoặc về bản giá trị luận, bản chất luận, cá tính luận.
Nhưng những phương thức bàn luận ấy cũng có những nhược điểm.
Nếu đem tình yêu, một chủ đề thú vị như thế mà triết học hóa, e rằng làm cho người ta cảm thấy chán, mâu thuẫn với bản chất của tình yêu. Bởi lẽ tình yêu cũng là một hiện tượng tâm lý đầy mâu thuẫn phức tạp. Lý tính và phi lý tính, bản năng và trí tuệ, ngẫu nhiên và tất nhiên... đều có mặt ở đây. Đây là một thế giới riêng biệt, cho nên rất khó qui phạm hóa nó. Thứ hai, nếu chúng ta cứ bàn luận vấn đền này bằng con mắt của học thuật, vậy thì chỗ đứng của “nghệ thuật” ở đâu. Cuối cùng chúng ta tuy nói tiểu thuyết của KimDung như một bộ bách khoa toàn thư về tình yêu, nhưng rốt cuộc nó không phải là một bộ sách như thế. Chỉ là giống mà thôi, và nó cũng chứa đựng sự mơ hồ về mặt nghệ thuật.
Một phương thức khác, đó là mỗi người chúng ta ai cũng có thể áp dụng, đó là chúng ta sẽ đọc dần dần phân tích nghiên cứu và bình luận.
Làm như thế có thể bù đắp sự hạn chế của phương thức trên. Chúng ta sẽ không tách rời hiện tượng và nghệ thuật, cũng không mất đi nền tảng của tình cảm, từ đó cũng không đi xa bản chất của tình yêu. Ví dụ, chúng ta có thể thông qua câu chuyện của Trần Gia Lạc và Hoắc Thanh Đồng, Ca Ty Lệ; Viên Sỹ Tiêu và Quan Minh Mai, Trần Chính Đức; Từ Triều Sinh và Trần Cát Lão, Vu Vạn Đồng; Dư Ngư Đồng và Lạc Băng, Lý Nguyên Chỉ... để phân tích sự khác nhau trong thế giới tình yêu của Kim Dung, sự khác nhau trong phương pháp và ở góc độ biểu hiện.
Nhưng như thế cũng có chỗ bất lợi. Thứ nhất, chúng ta phải đọc cả bộ tuyển tập của Kim Dung, nếu chỉ đọc một bộ thì không thể có đủ tư liệu để bàn luận. Chúng ta không thể bàn tất cả mọi câu chuyện tình yêu trong tác phẩm của Kim Dung. Thứ hai, với những tình tiết, những nhân vật khác nhau trong những tác phẩm khác nhau, chúng ta nên làm thế nào? Nên phải nói hết, hay chỉ nói về một nhân vật, hay tình tiết nổi bật mà thôi? Cuối cùng nếu chúng ta làm như thế, rất khó hấp dẫn người đọc. Chúng ta dùng cùng một
phương pháp, một giọng điệu để bàn luận những câu chuyện tình khác nhau, những nhân vật khác nhau trong những tiểu thuyết khác nhau, những tính chất khác nhau và thứ tự khác nhau của câu chuyện, e rằng đây là một cách làm rất phí công tốn sức mà không đem lại hiệu quả mong muốn. Vì thế chúng ta sẽ áp dụng ưu điểm của cả hai phương pháp. Tức là: vừa chú ý đến tính học thuật cũng vừa chú ý đến tính nghệ thuật của nó, nghiên cứu cả quan niệm và hiện tượng. Chúng ta sẽ bàn luận theo kiểu cắt ngang, như thế cũng không thể tránh khỏi những chỗ khuyết thiếu, không thể nghiên cứu hết toàn bộ. Nhưng nó cũng khắc phục được những khuyết điểm của một tác phẩm lý luận, tức là để đảm bảo tính học thuật có hệ thống mà cắt bỏ hy sinh một số tình tiết.
Đồng thời cũng có thể đi sâu vào tác phẩm.
Tác giả chỉ muốn hệ thống hóa lại lý luận triết học về tình yêu, không muốn kể lại tất cả những chuyện tình trong tiểu thuyết Kim Dung. Chỉ muốn nhân cơ hội này phát biểu ý kiến của mình với những bạn đọc yêu thích tiểu thuyết Kim Dung về thế giới tình yêu trong tác phẩm của ông. Cuối cùng, tôi muốn nói rõ một điểm, quyển sách này không tránh khỏi có phần trùng hợp với một số tác phẩm trước của tôi. Bởi vì trong những bộ trước, tôi đã phân tích một cách toàn diện tiểu thuyết Kim Dung, trong đó có chủ đề tình yêu; Tôi cũng có một chuyên đề chỉ nói riêng về bi kịch tình yêu trong tiểu thuyết Kim Dung. Cho nên trong quyển này có thể có chỗ bị lặp lại. Nhưng những bộ trước chỉ là “nghiên cứu về nền tảng”, nó có tính toàn diện, nó đề cập đến rất nhiều vấn đề trong tiểu thuyết Kim Dung. Nhưng chỉ sơ lược, có tính cách cỡi ngựa xemhoa mà thôi. Còn quyển này là chỉ riêng nói về tình yêu. Hy vọng đây là một cuốn sách có tính toàn diện, chuyên biệt, giúp độc giả có thể hiểu sâu sắc về một chủ đề thú vị trong tiểu thuyết Kim Dung.
- o O o -
HỒI 1
HỎI THẾ GIAN TÌNH LÀ GÌ?
Tình là gì?
Chúng ta đều muốn biết nhưng đành bất lực. Hoặc chúng ta tưởng rằng mình đã biết, bởi vì mỗi người đều đã từng yêu, từng có một thời hạnh phúc và đau khổ, nhưng chúng ta rốt cuộc cũng không nói được tình là gì. Vì thế chúng ta không trách những người cả đời “thân tại thử sơn trung” mà “bất thức chân diện mục”.
Bi thảm hơn là những kẻ cả đời vẫn mãi khát vọng về tình yêu nhưng không thể có được, cả đời bỏ ra mà không nhận lại được gì, vì khát vọng về tình yêu mà biến đổi cả tính cách, điên đảo một đời. Họ suốt đời bị những nỗi khổ tình yêu dày vò, nhưng rốt cuộc cũng không hiểu ra tình là gì. Ví như Lý Mạc Sầu trong “Thần điêu hiệp lữ”. Trong đoạn đầu của tiểu thuyết, khi nghe tiếng ca theo gió “phong nguyệt vô tình nhân ám hóa, cựu du như mộng không đoạn trường” (gió trăng vẫn cứ vô tình, mà sao không biết lòng này đớn đau) , lại nghe những tiếng cười khúc khích (Đó là tiếng cười vô tư của Trình Anh, Lục Vô Song), Lý Mạc Sầu lẩm bẩm một mình: “Có cái gì mà cười? Bọn tiểu nha đầu chỉ hát bậy, trong lời hát chỉ toàn là đau khổ với tương tư” . Lúc ấy Lý Mạc Sầu đã là một người lớn tuổi, bởi vì nếm đủ mùi vị sầu khổ của nhân gian mà làm đạo cô, tạo ra nhiều nghiệp chướng, trở thành một nữ ma đầu mà ai ai cũng căm phẫn. Nhưng thị có thật sự hiểu tình là gì không?
Thị không hiểu gì cả. Trong đoạn cuối của cuộc đời thị, tác giả viết như thế này:
... Lý Mạc Sầu phi thân lên cao, lộn nhào xuống lăn vào đám lửa đang cháy rừng rực. Mọi người đều la hoảng, từ trên núi nhìn xuống chỉ thấy trong phút chốc quần áo của thị bắt đầu bắt lửa, ngọn lửa bao bọc lấy thân thị, nhưng thị vẫn đứng yên, không hề động đậy. Ai nấy cũng hãi hùng. Tiểu Long Nữ nghĩ tới tình sư môn kêu lớn:
- Sư tỷ mau thoát ra đi!
Nhưng Lý Mạc Sầu vẫn đứng yên trong đám lửa, không thèm để ý. Trong chốc lát, ngọn lửa đã bao trùm lấy cà người thị. Bỗng nhiên người ta nghe tiếng hát thê lương:
Hỏi thế gian tình là gì, mà gắn bó chẳng nề sinh tử? Chấp cánh bay trời Nam đất Bắc... Đến đây, tiếng ca dần nhỏ lại rồi tắt hẳn.
Lý Mạc Sầu chết. Bài ca vẫn chưa hát hết lời, nhưng vẫn còn vang vọng đâu đây. Trong bộ tiểu thuyết này, Lý Mạc Sầu không chỉ hát một lần bài ca này. Đến lúc chết vẫn hát: “Hỏi thế gian tình là gì?” nàng đã mang theo câu hỏi này mà ra đi. Nàng chết đi, để lại cho chúng ta câu hỏi này.
Bài ca ấy là thế này:
“Vấn thế gian tình thị hà vật.
Trực giao sinh tử tương hứa?
Thiên Nam địa Bắc song phi khách,
Lão xí kỷ hồi hàn thử.
Hoan lạc thú,
Ly biệt khổ;
Thị trung cánh nữ si nhi nữ.
Quân ưng hữu ngữ,
Diễu vạn lý tằng vân.
Thiên sơn mộ tuyết,
Chích ảnh vị thuỳ khứ”.
(Tạm dịch:
Thế gian ơi tình là chi vậy,
Mà sao sống chết chẳng đành lìa nhau?
Dắt tay nhau bay khắp chân trời,
Trải bao ấm lạnh cuộc đời,
Vui sao khoảnh khắc bên nhau,
Khổ sao một nỗi đôi người lạc nhau,
Tình si nay chỉ một mình riêng em.
Một lời chàng hứa với em,
Mà nay chỉ có vạn trùng ngàn mây.
Ngàn non tuyết phủ lạnh lùng,
Một mình bóng chiếc đi về riêng ta.)
Đó là nửa đoạn đầu trong bài “Mô ngư nhi” của nhà thơ thời Kim, Nguyên Hiếu Vấn, đã nói hộ bao người, những nghi vấn ẩn chứa trong lòng. Có những điều chúng ta chỉ biết hời hợt bên ngoài mà không biết cái sâu sắc đang nằm ở bên trong. Bài từ này là một minh chứng. Tác giả đã đưa nó vào “Thần điêu hiệp lữ” , xuyên suốt cả một đời Lý Mạc Sầu, xuyên suốt cả bộ tiểu thuyết, có thể nói đây là bài ca chủ đề của bộ truyện này.
Hơn thế nữa, có thể gọi đây là bài ca chủ đề của toàn bộ thế giới tình yêu trong tiểu thuyết Kim Dung. Kim Dung chỉ là viết riêng lẽ từng câu chuyện tình, bộc lộ từng tâm lý tình yêu sâu kín và phức tạp, lần lượt đưa ra từng nghi vấn về tình yêu, mà không có câu trả lời.
Đương nhiên, tìm đâu ra câu trả lời.
Cũng như Tam Mao đã từng nói: “Tình yêu cũng giống như thiền, không thể nói ra được, hễ nói là sai” (Tam Mao, “Trong mơ bao nhiêu cánh hoa đã tàn” ).
May mà Kim Dung là một người thông Phật học, hiểu nhân tình, thông qua câu chuyện “Thế Tôn niêm
hoa, Già Diệp vi tiếu” (Thế Tôn hái hoa, Già Diệp mỉm cười), đã biểu đạt chỉ có thể hiểu ý chứ không nói nên lời. Trong hồi 17 “Tuyệt Tình U Cốc” của “Thần điêu hiệp lữ” , tác giả đã viết “Công Tôn Lục Ngạc hái hoa”, “Dương Quá đứng một bên mỉm cười”.
Trong “Tuyệt Tình U Cốc” , những điều tác giả viết tựa hồ như tả cảnh bình thường, nhưng cũng rất giống tả tình; xem ra giống như lấy chuyện để luận chuyện, thông qua chuyện này để nói đến chuyện khác. Chúng ta hãy xem thử đoạn này:
Dương Quá rón rén ngồi dậy, lặng lẽ đi ra ngoài vườn, đứng ngắm trời đất. Đêm khuya canh vắng, bốn bề mờ mịt, lá hoa trên cây tỏa ra một mùi thơm ngát dưới vòm trời đầy sao. Chàng mãi mê lững thững ngắm cảnh, nhìn theo những cánh hoa trắng phau đang bay tung theo luồng gió lạnh của đêm khuya như cơn mưa nặng hạt, chợt thấy xa xa phía trước có một bóng người yểu điệu đi tới. Dương Quá liền tiến đến thì thấy một thiếu nữ áo xanh, đang hái hoa miệng hát nho nhỏ.
Gặp Dương Quá thiếu nữ bẽn lẽn cúi chào:
- Quý khách không ngủ được? Có việc gì mà quý khách lo lắng?
Nàng nói xong có vẻ luống cuống bứt vội hai búp hoa đưa cho Dương Quá để đỡ ngượng. Dương Quá đưa tay nâng hoa lòng ngây ngất. Chàng bâng khuâng nói:
- Hoa ăn chắc ngon lắm phải không cô nương?
Nàng thẹn thùng nói trống:
- Dạ, ăn được.
Rồi nàng lặng lẽ, đưa mấy ngón tay búp măng uyển chuyển bẻ từng cánh hoa, đưa lên ăn. Mùi hoa làm dịu cả không gian.
Dương Quá cũng bắt chước nàng đưa hoa lên miệng ăn ngon lành.
Mới đầu chàng nhai thì nghe ngọt dịu, sau dần nuốt vào thấy đắng đắng, chát chát. Nhưng trước mặt mỹ nhân, dẫu có đắng chát thế nào cũng cố nuốt đi cho xong. Chàng chăm chú nhìn thì thấy đây là một thứ hoa rất lạ, cành đều có hoa nhọn hoắc, lá to hơn lá hồng, còn hoa thì tuyệt đẹp, đẹp hơn cả hoa hồng là chúa của loài hoa nữa.
Dương Quá liền hỏi:
- Cô nương! Hoa này là hoa gì thế? Tôi chưa từng thấy bao giờ?
Cô gái mỉm cười đáp:
- Thưa quý khách đây là “Tình hoa”. Chốn nhân gian rất hiếm. Chẳng hay quý khách có ưa mùi vị nó không?
Dương Quá đáp:
- Mới ăn thì ngọt sau lại đắng.
Nói rồi chàng đưa tay ngắt một hoa, thấy cây có gai, chàng hái cẩn thận. Nào ngờ không tránh khỏi, vì dưới hoa lại còn có gai nhọn nữa. Chàng mới để tay vào thì một mũi nhọn đã đâm vào làm tay chàng rướm máu.
Thiếu nữ áo xanh nói:
- Thiếp nghe cha thường nói: “Thứ ‘Tình hoa’ này rất ưa máu người”. Chắc mấy giọt máu của quý khách sẽ làm cho hoa nở thêm diễm kiều. Còn động này tục gọi là động “Tuyệt Tình”. Dương Quá cười nói:
- Là động “Tuyệt Tình” mà ở đây lại có nhiều “Tình hoa” kể cũng kỳ lạ, phải không cô nương! Hai người mãi mê trò chuyện, bước thong dong trên nệm cỏ vai sát vai lúc nào không hay. Dương Quá say sưa nói:
- Trong chốn u tịch này lại có cái động gọi là “Tuyệt Tình Cốc” nghe thoát tục quá nhỉ! Thiếu nữ lắc đầu nói:
- Thưa tôn khách, thiếp không hiểu sao lại gọi như thế. Chỉ có cha thiếp mới rõ lai lịch tên ấy. Vườn hoa càng khuya càng tiết hương thơm ngào ngạt, cả bầu trời lung linh, thỉnh thoảng có cơn gió thổi qua, những đám cây xạc xào như những tiếng thì thầm của đôi trai gái đang sánh vai bước nhẹ trong chốn “Tuyệt Tình”. Dương Quá miệng không ngớt chuyện trò, nhưng đầu óc vẫn quay cuồng trong mộng ảo.
- Đáng yêu lắm! Đáng yêu biết bao! Nếu ta có người yêu bên cạnh, cùng đi với nhau tay trong tay, ta sẽ thề cho đến trăm năm đầu bạc không rời nàng nữa.
Bỗng nhiên chàng cảm thấy đau nhói và buốt tới xương sống và bị cành gai vừa chích. Chàng khẽ kêu:
- Ôi chao!
Rồi đưa tay lên miệng, cắn chặt lấy vết gai đâm.
Thiếu nữ áo xanh vẫn điềm nhiên cười duyên dáng nói:
- Tại tôn khách mơ tới ý trung nhân.
Dương Quá thấy nàng đoán đúng tâm sự của chàng, hai tai nóng bừng lên, chàng nói: - Làm sao cô nương biết?
Thiếu nữ phá lên cười khanh khách nói:
- Tôn khách không biết đó? Phàm đã bị gai của “Tình hoa” châm vào thì tuyệt đối cấm tương tư trong ba ngày. Nếu trong ba ngày ấy mà nghĩ đến tình nhân thì tay sẽ bị đau buốt không chịu nổi. Dương Quá nghe nói lạ liền hỏi:
- Lại có thứ gai kỳ dị đến thế?
Thiếu nữ đáp:
- Thưa tôn khách! Đúng như vậy! Cha thiếp có dạy “Tình hoa” có gai độc thế! Mới ăn thì ngọt dịu, nhưng sau đắng cay, toàn thân như bị gai đâm đau buốt. Dù với tình nào, dầu có đề phòng đến đâu đi nữa cũng khó lòng tránh khỏi thương đau. Bởi vậy nên thứ hoa này mới đặt tên “Tình hoa”. Dương Quá nói:
- Như thế tức tại hạ không được nghĩ tới người yêu trong ba ngày hay sao? Khổ lòng tại hạ lắm! Tại hạ chịu thôi!...
Chàng nói một hơi dài, trong lúc thiếu nữ nhìn chàng với đôi mắt đen lay láy.
Mặt chàng ngơ ngác như người mê mới tỉnh, hổ thẹn vì đã lỡ lời bày tỏ tâm hồn mình trước người đẹp. Thiếu nữ vẫn tự nhiên kể tiếp:
- Cha thiếp bảo gai của hoa tình độc lắm! Ai bị nó châm phải nén lòng đừng nghĩ đến người yêu, để cho tinh thần được vô tư thì không sao, bằng để dục vọng nổi lên, là chất độc sẽ chạy theo máu làm cho toàn thân nhức buốt.
Dương Quá nửa tin nửa ngờ. Phút chốc thái dương chói lòa ánh bình minh rực rỡ. Chàng nhìn lại cây Tình hoa, thấy hoa đã kết thành quả, lòng rất ngạc nhiên. Tại sao mới thấy trong chốc lát đã trở thành quả? Còn hoa thì đẹp đến thế kia, bây giờ quả nó xấu xí như vậy. Màu xanh, màu đỏ, màu đen lẫn lộn, lại có lông tua tủa. Dương Quá nói:
- Sao hoa đẹp đến thế kia mà quả xấu như thế? Chắc ăn không được hả cô nương? Thiếu nữ đáp:
- Thưa tôn khách, quả không ăn được, vì nó vừa chua, vừa chát, vừa hôi.
Dương Quá cười nói:
- Không có thứ quả nào ăn được hả cô nương?
Thiếu nữ áo xanh đáp:
- Cũng có quả rất ngọt, rất bùi, nhưng rất khó chọn, bởi chúng ta chỉ trông thấy bề ngoài của quả, nên không biết được. Có nhiều quả ngoài đẹp nhưng ăn lại đắng. Có quả xấu xí mà ăn lại ngọt. Dương Quá thầm nghĩ:
- Loài hoa mà cũng hàm ý của đời! Trời ơi! Tình hoa mà cũng hàm chứa đủ mùi như vậy! Mùi vị ái tình ban đầu thì trước ngọt sau cay, như hai kẻ yêu nhau rồi khi xa cách cũng đau khổ biết chừng nào! Trời ơi! Ta cũng sẽ như Tình hoa? Hỡi những người yêu của ta! Tương lai rồi đây sẽ ra sao?
Chàng thầm than thở như vậy, lại càng tưởng nhớ tới Tiểu Long Nữ. Đột nhiên ngón tay chàng nổi lên đau buốt đến xương, làm cho cánh tay như rời rã. Bây giờ chàng mới tin lời thiếu nữ áo xanh nói là đúng. Thiếu nữ nhìn thấy mặt Dương Quá cảm thấy thương xót, nhoẻn miệng cười an ủi! (bản dịch của Hàn Giang Nhạn???)
Đoạn trên hầu như mỗi câu đều mang dáng vẻ của hư và thực, có ý nghĩa tượng trưng sâu sắc. Gai hoa tình, quả hoa tình đều là hư cấu của tác giả, trên đời làm gì có loài hoa như thế. Còn “Tuyệt Tình Cốc” làm cho chúng ta liên tưởng đến “Ly Hận thiên”, “Oán Sầu hải”, “Đại Hoang sơn” trong “Hồng lâu mộng”... Những địa anh có ý nghĩa tượng trưng, cũng có loại hoa kỳ lạ này.
Tôi nghĩ chúng ta không nên giải thích quá nhiều (thực tế cũng khó mà giải thích cho rõ được). Loài hoa này hương thơm sắc thắm, thơm hơn phù dung, đẹp hơn sơn trà, khi nếm thử lúc đầu cảm thấy ngọt, có vị ngây ngất của rượu, nhưng cuối cùng là vị chát; trên thân cây toàn là gai, khi hái phải cẩn thận, nhưng
vẫn có thể bị nó đâm dễ dàng; bạn muốn ăn thử trái nó ư? Trái hoa tình là một thứ xấu xí nhất, trong mười trái đã có chín trái là đắng, có những trái xấu xí nhưng lại rất ngọt ngào, những trái đẹp đẽ lại rất đắng... Tất cả những điều đó đều liên quan đến “chữ tình” hoặc giống với “chữ tình”.
Chí ít là điều này rất đúng trong tiểu thuyết Kim Dung, chí ít Dương Quá “biết những lời của vị nữ lang này quả nhiên không sai”. Vị nữ lang ấy chính là Công Tôn Lục Ngạc, con gái của Tuyệt tình cốc chủ Công Tôn Chỉ, lúc ấy gặp Dương Quá biết rằng không thể chạm tới tình hoa, nhưng không thể cưỡng lại mình yêu ngay chàng trai anh tuấn cơ trí phong lưu. Biết rõ Dương Quá đã có người trong mộng cho nên bị độc hoa tình hành hạ, nhưng nhưng nàng vẫn không ngăn được mình, cứ yêu thương chàng trai ấy. Đã biết đó là tình yêu vô vọng, chỉ có trái đắng mà thôi nhưng nàng vẫn cứ yêu, vì người trong mộng mà hy sinh bản thân mình. Đó chính là cuộc đời đẹp đẽ mà thê lương.
“CHỮ TÌNH” LÀ CÁI CHI CHI?
Đó là một loài hoa hương thơm sắc thắm, nhưng quả lại xấu xí và cay đắng bội phần. Trên cành toàn là gai, những trái xấu xí nhưng lại đầy vị ngọt.
Có khi bằng bản năng và trực giác chúng ta chỉ thấy vẻ đẹp bên ngoài của Tình hoa, nhưng bằng lý trí chúng ta lại thấy vị đắng của quả hoa tình. Người lạc quan chỉ thấy bông hoa nhưng kẻ bi quan chỉ thấy trái đắng. Về bản năng chúng ta hướng về Tình hoa (Không biết, không ngần ngại để cho gai hoa đâm phải), mà lý trí của chúng ta đều biết rằng quả của nó chua chát đến dường nào. Thế giới tình yêu được tạo thành bởi hoa tình, gai hoa tình, quả hoa tình, và thuốc trị độc gai hoa tình đoạn trường thảo. “Một tình yêu chân chính, cũng giống như một cuộc dạo chơi đầy lãng mạn tại nơi giao hòa giữa lý tính và phi lý tính. Lý tính và phi lý tính bổ sung cho nhau, làm lên men tình yêu, một thứ làm cho người ta ngây ngất. Tình yêu là bản năng và tư tưởng, là điên cuồng và lý tính, là tính tự phát và tự giác, là sự dao động nhất thời và tu dưỡng đạo đức, là sự cảm nhận thực tế và tưởng tượng bay bổng, là tàn nhẫn và hiền hòa, là đau khổ và hạnh phúc, là ánh sáng và bóng tối. Tình yêu đem đến cho con người nhiều trải nghiệm” (Ngõa Tây Liệt Phu - “Ái tình luận”).
Tam Mao bảo rằng không thể nói cũng đúng, những lời phía trên của Ngõa Tây Liệt Phu cũng đúng. Mặt khác, Tam Mao làm cho người ta khó đoán định được, còn Ngõa Tây Liệt Phu thật sự có nói cũng như không, ông nói một hồi, rốt cuộc có ý nghĩa gì?
Những lời trên chẳng lẽ là đáp án của “chữ tình là cái chi chi”?
Như thế chúng ta mới có thể thấy rằng, đoạn hái hoa nói chuyện tình yêu, không nói mà như nói, càng sâu sắc, nhiều ngụ ý và chân thực hơn.
Chúng ta hãy thử để ý mấy điểm dưới đây.
Thứ nhất, tình yêu trong tiểu thuyết Kim Dung là một thế giới hiện thực không phải là những giáo điều khô khan cứng nhắc. Mỗi cá tính khác nhau đem đến cho nhân vật những trải nghiệm khác nhau, từ những trải nghiệm khác nhau đó hình thành những câu chuyện khác nhau. Cũng giống như đoạn trước đã nói, mùi vị của mỗi cái hoa tình không hề tương đồng với hình dạng bên ngoài của nó. Nếu chúng ta nhìn kỹ, cũng có thể phát hiện hoa và gai của nó không giống nhau. Bởi vì trên đời này không có những loại lá giống
nhau. Thứ hai, quan niệm về tình yêu của Kim Dung có vẻ bi quan, chính là ở chỗ không có cách nào xác định được quả hoa tình ngọt hay đắng, trong mười trái đã có chín trái là đắng, còn trái ngọt không biết ở đâu, không biết đã có ai hái chưa?
Nếu như hoa tình đấy hương thơm sắc thắm, nhưng nếu muốn hái, thì sẽ bị gai đâm phải. Tình yêu trong tiểu thuyết Kim Dung có vẻ bi thương thì nhiều mà hạnh phúc thì ít.
Đó là bởi nhân sinh quan của Kim Dung, những nhân vật trong tiểu thuyết Kim Dung, toàn là buồn nhiều vui ít, Dương Quá có nói một câu, “Chuyện không như ý trong đời người chiếm tới chín phần mười”, chính là một tổng kết về nhân sinh quan, cho nên tình yêu chỉ toàn là đắng cay.
Một nguyên nhân khác là, cũng như một đại văn hào đã từng nói: “Các gia đình hạnh phúc thì giống nhau, còn những gia đình bất hạnh thì mỗi nhà mỗi cảnh”. Tình yêu cũng thế. Cho nên chúng ta mới thấy rằng hoa tình thì thường giống nhau.
Ở một mức độ nhất định nào đó, chúng ta có thể nói thế giới tình yêu của Kim Dung là đầy bi quan. Trong đó bi kịch nhiều hơn hỷ kịch và chính kịch. Nhưng những vở hỷ kịch và chính kịch, nếu bỏ đi lớp son phấn trang điểm thì vẫn là “lúc đầu ngọt ngào nhưng sau chua chát” , chính điều này đã làm cho những cuộc tình dưới ngòi bút Kim Dung được người ta thán phục say mê.
Thứ ba, mặc dù đời người khổ nhiều vui ít, mặc dù tình yêu cay đắng, Kim Dung không phải là người theo chủ nghĩa hư vô về tình yêu. Những bi kịch dưới ngòi bút của ông, là sự biểu hiện của phẫn nộ và bi ai về thế giới con người. Ở điểm này, chúng ta không cần phải chỉ ra, bởi vì những người theo chủ nghĩa bi quan hoặc hư vô không thể miêu tả thế giới tình yêu phong phú đa dạng như thế. Chỉ có người đầy nhiệt huyết, đầy tình yêu trí tuệ, mới có thể sáng tạo ra thế giới như thế được.
Cuối cùng, chúng ta thấy rằng Kim Dung không hề đưa ra một định nghĩa nào cho tình yêu. Những ai hy vọng tìm ra ở đây một đáp án và định nghĩa cho tình yêu chắc chắn sẽ thất vọng. Thật ra điều này ở đây cũng không cần thiết lắm. Nếu chúng ta biết trước được tình yêu, một ngày nào đó qua một quá trình trải nghiệm chúng ta sẽ thấy định nghĩa ấy nhạt nhẽo biết bao. Tình yêu vốn là một cảm giác, nếu cứ muốn truy rõ ngọn ngành thì chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Định nghĩa là xa xỉ phẩm của cuộc sống, cảm giác mới là bản thân của cuộc sống. Chữ yêu đã bị lạm dụng, nhưng chúng ta chưa bao giờ thấy được câu trả lời đúng nhất, hơn thế nữa chữ tình cũng vậy, cách hiểu của mỗi người đều không giống nhau. Có chăng chỉ là hiểu một cách lờ mờ. Vậy thì chúng ta cứ hiểu lờ mờ như thế đi, bởi vì hiểu như thế càng gần sự thật hơn so với một định nghĩa rõ ràng. Hoa tình, gai hoa tình, quả tình, độc của hoa tình..., kỳ thực mỗi người đã hiểu khác nhau. Hãy cứ vậy đi.
- o O o -
HỒI 2
YẾU ĐUỐI VẪN LÀ CHÀNG
Từ trước đến nay người ta đều cho rằng phái mạnh là đàn ông, phái yếu là phụ nữ. Đàn ông có nghĩa là cường tráng, mạnh mẽ; đàn ông sáng tạo ra thế giới, ổn định thế giới hoặc chinh phục thế giới; đàn ông có tính chủ động tiến công..., những lời ấy chúng ta vẫn thường nghe nói tới. Trong thần thoại phương Tây, Eva được thượng đế tạo ra từ xương sườn thứ mười ba của đàn ông.
Lịch sử Trung Quốc trước nay vẫn nam tôn nữ ti. Tuy “nhất âm nhất dương vị chi đạo” (một âm một dương chính là đạo). Tuy Phục Hi và Nữ Oa mình rắn quấn lại với nhau, nhưng câu nói của Khổng Tử “Chỉ có đàn bà và tiểu nhân là khó dạy” đã phá vỡ cơ trời, đặt tảng đá đầu tiên cho quan niệm nam giới thống trị còn nữ giới là bị trị.
Trong thế giới võ hiệp, người đàn ông càng ghê gớm hơn.
Nhưng đó chẳng qua chỉ là thần thoại. Tiểu thuyết võ hiệp vì là thần thoại, mà những lời giải thích về lịch sử Trung Quốc chẳng qua đó chỉ là những thần thoại mờ nhạt. Những người chỉ thấy địa vị của Trung Quốc ở phía dưới, chỉ thấy những bi kịch phụ nữ bị bán vào kỹ viện thật sự không hiểu rõ lịch sử Trung Quốc. Họ không hiểu rõ giai đoạn lịch sử từ Võ Tắc Thiên đến Từ Hi thái hậu, họ cũng không hiểu rõ vai trò của người mẹ trong gia đình Trung Quốc. “Người mẹ” chính là phụ nữ. Mà “người mẹ” mãi mãi là một “tôtem” trong lòng người Trung Quốc.
Đàn ông Trung Quốc mãi mãi là con trai của “người mẹ”. Chí ít về mặt tâm lý, chúng ta vẫn chưa thật sự dứt sữa, phụ nữ mãi mãi là nhũ mẫu. Vậy thì nam giới có mạnh không? Người xưa nói, nhu có thể chế cương, nước có thể nâng thuyền nhưng cũng có thể dìm thuyền. Đàn ông chẳng qua chỉ là con thuyền mà thôi.
Có lẽ đàn ông chinh phục thế giới.
Nhưng phụ nữ chinh phục đàn ông.
Vậy thì ai mạnh ai yếu? Khó nói thật, ngoài xã hội, có lẽ đàn ông mạnh hơn phụ nữ (đó là một sự bất bình đẳng); nhưng trong gia đình, về mặt tâm lý, người phụ nữ lại mạnh hơn nam giới (lại bất bình đẳng). Có thể người Trung Quốc dựa vào hai sự bất bình đẳng đó mà cân bằng cuộc sống của mình. Tuy nhiên sự bất bình đẳng thứ nhất lại được nhận diện, người ta đã nghiên cứu rất nhiều sự bất bình đẳng giữa nam và nữ trong xã hội. Nhưng điều bất bình đẳng thứ hai vẫn chưa được chú ý, về mặt tâm lý, người đàn ông là rất yếu đuối, có thể là bởi vì bị nước mắt của phụ nữ dìm mất. Rất ít người phát hiện ra điều này.
Được thôi, chúng ta bàn về tình yêu, bàn về tình yêu trong tiểu thuyết Kim Dung, chúng ta không cần thiết phải đánh giá lịch sử Trung Quốc nữa. Chúng ta chỉ nói đến: trên tình trường, đàn ông thường là kẻ yếu.
Thế giới tình yêu trong tiểu thuyết Kim Dung đã minh chứng cho điều này.
HAI CUỘC TÌNH CỦA TRẦN GIA LẠC
Trần Gia Lạc là nhân vật chính trong “Thư kiếm ân cừu lục”. Đây là bộ truyện đầu tiên của KimDung, nhân vật chính đầu tiên dưới ngòi bút của Kim Dung là Trần Gia Lạc, một người mặc y phục màu trắng, mặt đẹp như ngọc, văn võ song toàn. Xuất thân từ một gia đình quyền quý, thi đậu cử nhân, vô tình lưu lạc giang hồ, trở thành tổng đà chủ của Hồng Hoa hội.
Phải nói rằng biết bao nhiêu người mơ ước được một địa vị như chàng. Thân thế của chàng: anh tuấn phong lưu, trẻ tuổi tài cao, văn võ song toàn...
Dưới mắt mọi người chàng là vị đại anh hùng, nhưng ở chuyện tình cảm chàng là người yếu đuối; chàng là hình tượng sáng ngời nhưng về mặt tâm lý là một người hèn nhát. Chính những điều đó đã tạo nên hai bi kịch tình yêu, làm cho người ta đau khổ, thậm chí hy sinh cả tính mạng.
Trần Gia Lạc có hai mối tình. Mối tình thứ nhất là giữa chàng và Hoắc Thanh Đồng, mối tình thứ hai là giữa chàng với em gái của Hoắc Thanh Đồng là Ca Ty Lệ.
Bộ truyện được đặt tên “Thư kiếm ân cừu lục” , là bởi vì mối tình giữa Trần Gia Lạc và Hoắc Thanh Đồng. Trong hồi thứ tư, Trần Gia Lạc cùng Hồng Hoa hội giúp đỡ Trác Mộc Luân (cha của Hoắc Thanh Đồng) đoạt lại kinh thư, sau đó Hoắc Thanh Đồng đã tặng bảo kiếm cho chàng, cũng để cảm ơn, cũng để bộc lộ tình cảm của mình. Trần Gia Lạc thấy “Hoắc Thanh Đồng yêu kiều mỹ lệ như hoa , lúc đầu chỉ xem nàng múa kiếm, nhưng lúc đến gần, tim chàng đập rộn rã”. Trác Mộc Luân muốn anh emHoắc Thanh Đồng ở lại Hồng Hoa hội để giúp Trần Gia Lạc, Trần Gia Lạc vui mừng nói rằng: “Vậy còn gì bằng”. Những tình cảm của chàng lúc bấy giờ rất thật.
Nhưng việc ngoài ý muốn, Lý Nguyên Chỉ, một cô gái cải dạng nam trang xuất hiện, có những cử chỉ thân mật với Hoắc Thanh Đồng. Lúc ấy Trần Gia Lạc thấy “Hoắc Thanh Đồng thật thân mật với chàng thiếu niên đẹp trai, lòng thấy bẽ bàng, chỉ biết đứng ngẩn người ra” . Đó chính là phản ứng của bản năng, Trần Gia Lạc lúc bấy giờ chợt thay đổi ý định, không cho Hoắc Thanh Đồng theo giúp chàng nữa, nói với Trác Mộc Luân rằng: “Xin lão anh hùng hãy đưa lệnh lang và lệnh ái quay về. Ý tốt của lão anh hùng chúng tôi thật cảm kích vô cùng, nhưng e rằng kinh động đại giá lệnh lang và lệnh ái, thật không dám nhận” . Cha con Trác Mộc Luân lấy làm bất ngờ trước lời này của Trần Gia Lạc.
Nếu như câu chuyện đến đây chấm dứt thì chẳng có điều gì xảy ra nữa. Gặp nhau rồi chia tay, kẻ Namngười Bắc, thế là xong. Nhưng Trần Gia Lạc và Hoắc Thanh Đồng thì đã “tình trong như đã mặt ngoài còn e”. Lúc biệt ly, Kim Dung đã viết như thế này:
Hoắc Thanh Đồng đã vượt lên phía trước, đột nhiên cho ngựa quay đầu lại, thấy Trần Gia Lạc lặng yên đứng nhìn, nàng mím môi đưa tay vẫy chàng. Trần Gia Lạc thấy nàng vẫy tay, trong lòng hồi hộp bước về phía trước. Hoắc Thanh Đồng nhảy xuống ngựa. Hai người đối diện nhau hồi lâu không nói nên lời.
Hoắc Thanh Đồng trấn tĩnh, nói:
- Mạng này đã được công tử cứu sống, thánh vật của chúng tôi cũng nhờ công tử mà đoạt lại được. Bất luận công tử đối đãi ra sao, thiếp cũng chẳng oán trách.
Đến đấy, nàng tháo thanh kiếm đang đeo trên mình nói:
- Thanh đoản kiếm này là cha thiếp tặng, nghe nói có ẩn chứa một bí mật lớn, mấy trăm năm qua chẳng ai phát hiện ra được. Hôm nay từ biệt, chẳng thể gặp lại, xin công tử hãy nhận kiếm này. Công tử là người thông tuệ, có lẽ sẽ phá giải được bí mật của thanh kiếm này.
Nói rồi hai tay đưa kiếm cho Trần Gia Lạc. Chàng nhận kiếm mà rằng:
- Kiếm này là bảo vật, tại hạ vốn chẳng dám mơ tới. Nhưng cô nương đã có lòng, cung kính chi bằng tuân mệnh, tại hạ xin miễn cưỡng thu nhận.
Hoắc Thanh Đồng thấy chàng có vẽ buồn bã, lòng cảm thấy áy náy, do dự một chút rồi nói: - Công tử không cho thiếp đi theo cứu Văn Tứ Gia là tại sao, trong lòng thiếp đã biết. Hôm qua công tử thấy thiếp và thiếu niên ấy, lòng thấy không vui. Người đó chính là đồ đệ của Lục Phi Thanh, Lục lão tiền bối, hắn là người như thế nào, chàng cứ hỏi Lục lão tiền bối thì rõ, xem thiếp có phải là kẻ chẳng biết tự trọng hay không.
Nói đoạn nàng lên ngựa ra roi đi mất.
Thế là đã rõ, Hoắc Thanh Đồng muốn nói: “Ta yêu chàng”, “Chàng không nên hiểu lầm ta”. Trần Gia Lạc cũng hiểu rõ, chàng đã nhận thanh đoản kiếm (ai cũng biết đó là vật định tình), rõ ràng chàng cũng có tình cảm với nàng. Chỉ là còn chút hiểu lầm, mãi đến khi Trần Gia Lạc quay lại Hồi Cương, vô tình gặp Ca Ty Lệ, tình cảm dao động, gây nên nổi đau khổ cho Hoắc Thanh Đồng.
Xem ra câu chuyện chẳng có “kẽ hở” nào, tất cả đều là sự trêu ngươi của vận mệnh. Nếu không phải Lý Nguyên Chỉ cải nam trang gây nên hiểu lầm thì tốt biết bao; nếu Ca Ty Lệ không phải là em gái của Hoắc Thanh Đồng thì đẹp biết bao nhiêu; nếu như...
Nhưng nếu chúng ta tiếp tục đọc nữa, thì sẽ phát hiện đằng sau tất cả là bí mật về tính cách của Trần Gia Lạc, chàng là kẻ yếu đuối, giả dối, nhu nhược. Có lẽ chúng ta đã không chú ý với những khuyết điểmnày (người đọc thường có xu hướng sùng bái anh hùng mà quên đi những khuyết điểm của họ).
Thứ nhất, mỗi đoạn trích trên, đều bắt đầu bằng “Hoắc Thanh Đồng...”. Đó xem ra chẳng có gì đặc biệt, nhưng là một sự cố ý của tác giả. Đó chính là trong cuộc tình này, Hoắc Thanh Đồng bao giờ cũng xuất hiện với tư thế của một người chủ động.
Ngược lại Trần Gia Lạc là một kẻ bị động. Chàng không dám biểu lộ tình yêu của mình, nói đúng ra là bởi nội tâm quá tự ti. Cũng như thế trong mối quan hệ với Ca Ty Lệ, chàng cũng mang vai trò của một kẻ bị động. Thái độ “há miệng chờ sung rụng” đó cũng đàn ông bởi tính cách của Trần Gia Lạc mà ra, đương nhiên cũng có thể tạm giải thích là, mỗi dân tộc có mỗi cách biểu đạt khác nhau, Hoắc Thanh Đồng và Ca Ty Lệ là những cô gái dân tộc thiểu số Trung Quốc, họ vốn nhiệt tình, chủ động theo đuổi người mà mình yêu, đó là dân tộc tính. Còn Trần Gia Lạc là một thư sinh người Hán, là người đọc sách hiểu lễ, cho nên trong những chuyện như thế này chàng thường rất e ngại. Nhưng, đó chỉ là một đáp án tạm thời mà thôi, nếu Trần Gia Lạc không nhận thanh đoản kiếm của Hoắc Thanh Đồng, từ chối tình yêu của Ca Ty Lệ, vậy thì chẳng phải đã tránh được bi kịch tình yêu này rồi ư!
Thứ hai, Trần Gia Lạc không dám biểu lộ tình yêu của mình, càng không dám theo đuổi người mình yêu. Vì Lý Nguyên Chỉ giả dạng nam trang mà gây nên hiểu lầm, đối với một người dũng cảm thì chẳng là
gì. Giả sử Lý Nguyên Chỉ không phải là nữ mà là một gã đàn ông nào đó, là tình địch của chàng thì đã làmsao? (Đương nhiên đó chỉ là giả thuyết). Trần Gia Lạc không biết chân tướng của Lý Nguyên Chỉ, không biết nàng là gái giả trai, thế cũng được, bởi vì Trần Gia Lạc không có nhiều kinh nghiệm giang hồ, vả lại lúc đó lòng ghen nổi dậy, thần trí hồ đồ, làm cho chàng không thể nhận ra sự thật.
Vấn đề là, Hoắc Thanh Đồng đã bảo chàng hỏi Lục Phi Thanh, chàng tại sao không hỏi? Nếu là một người chủ động thì hỏi ngay nàng cũng được, có hề gì đâu. Đó cũng tại vì chàng chịu ảnh hưởng bởi tính cách dân tộc của mình, tính giả dối và tự ti, chàng đã che đậy được thái độ của mình, giả vờ làm như chẳng có chuyện gì xảy ra, không dám thổ lộ, không dám theo đuổi, không dám “thăm dò” một chút. Nếu bảo rằng không tiện hỏi Lục Phi Thanh thì vẫn còn có Dư Ngư đồng kia mà. Chúng ta có thể thấy rằng có rất nhiều cơ hội để xóa bỏ sự hiểu lầm này, nhưng chẳng qua nhân vật chính sợ lộ sự yếu đuối của mình, sợ bị người khác biết được mình cũng vướng vào “nhi nữ tình trường”, nhưng càng như thế thì càng lộ rõ sự đáng thương và giả dối của chàng.
Thứ ba, thái độ mâu thuẫn của Trần Gia Lạc đối với Hoắc Thanh Đồng (muốn yêu mà không dám thổ lộ và theo đuổi), còn có một nguyên nhân sâu xa hơn, nguyên nhân đó thậm chí nằm trong tiềm thức của chàng. Đó là vì Hoắc Thanh Đồng là một cô gái tài ba, là một đấng anh thư sáng ngời, thông minh. Đúng trước nàng, Trần Gia Lạc quá bé nhỏ yếu đuối, đứng trước nàng, hình như Trần Gia Lạc không còn là một đấng trượng phu nữa. Đó là bí mật nội tâm của chàng.
Nội tâm của chàng cuối cùng đã lộ ra ở hồi 17 khi Trần Gia Lạc, Hoắc Thanh Đồng, Ca Ty Lệ lạc trong mê cung, suốt đêm không ngủ, đột nhiên chàng nghĩ “rốt cuộc trong lòng ta yêu ai?” , lúc sau lại nghỉ “rốt cuộc ai mới thật sự yêu ta?” , kết quả là “không thể nào chọn lựa khi một người vừa đáng kính vừa đáng mến, một người vừa dễ thương vừa gần gũi”. Lại nghĩ:
“... Hoắc Thanh Đồng thật tài giỏi, ta kính trọng nàng, thậm chí hơi sợ nàng...”. “Ngày sau khôi phục Hán nghiệp, không biết có bao nhiêu chuyện khó khăn, nàng có mưu lược hơn cả thất ca. Nếu được nàng giúp đỡ thì hay biết bao nhiêu... Ôi, chẳng lẽ từ trong sâu thẳm lòng ta, ta chẳng thích nàng quá giỏi hay sao?”.
Nghĩ tới đó chàng giật mình thầm nói: “ Trần Gia Lạc ơi Trần Gia Lạc, chẳng lẽ ngươi hẹp hòi đến thế sao?”.
Đúng vậy chàng không thích một người con gái đầy tài năng như Hoắc Thanh Đồng. Lòng dạ chàng quả đúng rất hẹp hòi. Chàng sợ Hoắc Thanh Đồng làm nhạt mất hình ảnh đại trượng phu của chàng. Vì thế chàng đã yêu Ca Ty Lệ bởi vì Ca Ty Lệ là một người con gái xinh đẹp nhu mì dịu dàng dễ thương, dễ gần; nhưng cũng bởi vì Ca Ty Lệ không biết võ công, không có mưu lược và nàng đã xem chàng là một bậc anh hùng hiếm có xưa nay, là một bậc hào kiệt đại trượng phu. Chàng càng yêu hơn cái cảm giác được làm “đại anh hùng đại trượng phu”. Chàng chỉ có cảm giác này khi ở gần Ca Ty Lệ, còn bên cạnh Hoắc Thanh Đồng thì chàng cảm thấy mình là một gã thư sinh yếu đuối.
Chàng không chấp nhận, cũng không dám nhìn vào sự thật, không chịu đối diện với nội tâm của mình, chấp nhận sống trong ảo tưởng “đại trượng phu, đại anh hùng”, mong muốn người mình yêu xem mình như là một đại hào kiệt tuyệt thế vô song...
Đó là tâm lý của những gã đàn ông yếu đuối trên đời này. Đó cũng là một bí mật của đàn ông. Từ xưa đến nay, có bao nhiêu đàn ông cưới những người vợ yếu đuối là để làm nổi bật hình ảnh đại trượng phu của mình, cũng là để che giấu sự yếu đuối và giả dối trong nội tâm của mình. họ không chịu phấn đấu để trở thành một vị anh hùng thật sự mà sống trong ảo tưởng được người đàn bà của mình tôn vinh. Cho đến hôm nay những sự đổ vỡ về hôn nhân, tình yêu của những “nữ cường nhân” theo kiểu Hoắc Thanh Đồng, nguyên nhân là bởi sợ cái mạnh của họ sẽ làm lộ rõ cái yếu của anh ta. Đó cũng là bởi người đàn ông giả dối, ích kỷ không dám thừa nhận, thậm chí không dám nhìn thẳng vào sự thật. Có thể thấy rằng người đàn ông chỉ yêu bản thân mình. Đó cũng là một bí mật của đàn ông.
Thứ tư, mối tình của Trần Gia Lạc với Ca Ty Lệ kết thúc một cách bi thảm, Ca Ty Lệ vì chàng mà hy sinh bản thân. Ngoài những nguyên nhân bên ngoài tác động đến, ở đây cũng cho thấy sự mâu thuẫn giữa tình yêu và sự nghiệp của Trần Gia Lạc, bên cạnh đó còn có vấn đề “vị trí của tình yêu”.
Trần Gia Lạc là thủ lĩnh của Hồng Hoa hội, Hồng Hoa hội là tổ chức phản Thanh, mà đầu não của triều đình nhà Thanh là hoàng đế Càn Long, cũng là anh ruột của Trần Gia Lạc. Càn Long cũng yêu Ca Ty Lệ, muốn Trần Gia Lạc nhường nàng cho mình, đó là điều kiện để “phục Hán”. Trần Gia Lạc lúc này phải đối mặt với mâu thuẫn giữ tình riêng và chuyện chung. Trần Gia Lạc không hề cảm thấy điều kiện của Càn Long là hoang đường. Trần Gia Lạc, người mà Ca Ty Lệ vẫn sùng bái và yêu thương, không những chẳng bảo vệ được nàng, ngược lại vì “chuyện chung” mà đã hy sinh nàng và hy sinh luôn cả “tình riêng” của mình, đem nàng làm lễ vật hiến tặng cho Càn Long. Đối với Ca Ty Lệ mà nói, đó không chỉ là hành động chôn vùi tình yêu của nàng mà còn chôn vùi cả niềm tin của nàng, còn có nghĩa chôn vùi tuổi thanh xuân và sinh mệnh nàng. Ca Ty Lệ quả nhiên đã tự sát mà chết. Cuối cùng sự nghiệp của Trần Gia Lạc cũng thất bại, kết quả là chuyện chung hay chuyện riêng cũng đều tan như bọt nước, đó cũng chính là bi kịch của vận mệnh và tính cách.
Nếu theo quan niệm truyền thống “vị trí của tình yêu” trong văn hóa Trung Quốc, chúng ta có thể hiểu được sự chọn lựa của Trần Gia Lạc, chúng ta có thể kính trọng sự hy sinh tình cảm riêng tư và tinh thần hiến thân của chàng. Nếu như là người phương tây thì không thể làm như thế được. Thậm chí, nếu là người Trung Quốc hiện đại cũng không hiểu như thế và cũng không thể làm như thế. Nhưng đây là người xưa, lại là Trần Gia Lạc. Sự chọn lựa của chàng, bên ngoài có vẻ là sự lựa chọn giữa chuyện chung và tình riêng, nhưng sự thật là sự chọn lựa giữa lý và tình, hơn thế nữa là sự chọn lựa giữa “lợi ích quốc gia” và “tình cảm cá nhân”. Đối với người Trung Quốc mà nói tình riêng so với chuyện chung là thứ yếu. Được gọi cho có vẻ đẹp đẽ là cống hiến và hy sinh. Đằng sau những điều to tát lớn lao là nổi khổ vì tình riêng, sự đè nén về tình cảm. Đó là thất bại của con người, cũng là thất bại của người đàn ông, đối với mà nói đó là một thất bại nặng nề.
CHUYỆN TÌNH CỦA LÃO NGOAN ĐỒNG
Châu Bá Thông sợ hãi tình yêu đến mức cực đoan.
Xuất hiện trong “Xạ điêu anh hùng truyện” và “Thần điêu hiệp lữ” , lão đã để lại trong lòng người đọc ấn tượng sâu sắc, và là một trong những nhân vật đáng yêu nhất.
Đặc điểm lớn nhất của lão Ngoan Đồng là bất luận tuổi tác đã cao, râu tóc bạc phơ nhưng vẫn vô tư như trẻ nít, thích đùa giỡn trêu ghẹo người khác. Lão đã kết nghĩa huynh đệ với Quách Tĩnh, người cách lão đến hai thời đại. Đây là lần ra mắt của lão. Từ đó mỗi lần xuất hiện đều đem đến cho độc giả tiếng cười thoải mái.
Lão Ngoan Đồng đúng là “Ngoan Đồng”, không những hành vi của lão giống như trẻ nít mà tâm lý cũng giống như trẻ nít. Người ta yêu thích cái tâm lý này, nhưng đối với một người, một người đàn ông mà nói, đó là nguồn gốc của bi kịch. Chúng ta chỉ chú ý đến mặt hoạt kê trong đời sống của lão mà thôi, ít khi chú ý đến nhân tố bi kịch trong tâm lý, tính cách của lão.
Cũng rất ít người chú ý đến thái độ đối với tình yêu của lão Ngoan Đồng và tính bi kịch của nó. Thái độ của lão Ngoan Đồng đối với tình yêu và hôn nhân quả có phần rất hoạt kê. Ví như đối với cuộc hôn nhân của Hoàng Dược Sư, lão đã biểu hiện thái độ phản đối “Hoàng lão tà
thông minh một đời, hồ đồ một lúc, lấy vợ có gì hay ho đâu”, vì thế lão rất chê cười việc này. Khi Quách Tĩnh muốn cưới Hoàng Dung, lão càng thấy không ổn, nói với Quách Tĩnh rằng: “Lấy vợ thì không thể luyện được nhiều võ công, thật là tiếc. Ta... vẫn thường rất hối hận, thôi đừng nói nữa. Hảo huynh đệ, ngươi nghe ta nói đi thôi, đừng lấy vợ nữa” . “Ngươi xem đấy, ngươi chỉ nhớ đến vợ thôi đã phân tâm, hôm nay không luyện được võ công rồi. Nếu quả thật lấy con gái của Hoàng lão tà, ôi thật đáng tiếc! Năm ấy ta chẳng qua... thôi đừng nói nữa, tóm lại nếu đàn bà đeo dính lấy, ngươi nhất định không luyện được võ công, đã vậy còn có lỗi với bạn bè, đắc tội với sư huynh, vả lại cũng không quên được nàng, không biết bây giờ... Tóm lại, không thể gặp đàn bà được, càng không thể chạm đến người họ, ngươi dạy nàng công phu điểm huyệt, để nàng chạm đến huyệt đạo toàn thân ngươi thế là bị mắc lừa... phải cưới nàng làm vợ, ...”. Cứ như thế lão khuyên Quách Tĩnh đừng lấy vợ. Những lời của lão thật sự làm cho người ta bật cười. Chẳng ai muốn nhớ đoạn này, nhưng nó cứ ở mãi trong lòng ta. Nhưng ở đây đã liên quan tới một bí mật trong cuộc đời lão.
Những lời của lão Ngoan Đồng, chúng ta chỉ hiểu rõ một câu, tức là “lấy vợ không luyện được võ công” . Đó chính là mối mâu thuẫn giữa tình yêu và sự nghiệp. Lão Ngoan Đồng rõ ràng là người “nhiệt tâm với sự nghiệp”, vì thế mà lão cật lực phản đối hôn nhân.
Trên thực tế thái độ và ý kiến của lão Ngoan Đồng bắt nguồn từ bối cảnh cuộc đời và bối cảnh tâm lý của lão. Trong hồi thứ ba mươi mốt, Nhất Đăng đại sư (tức Nam Đế Đoàn Trí Hưng, một trong Ngũ bá) đã tiết lộ câu chuyện của Châu Bá Thông.
Năm ấy giáo chủ Toàn Chân giáo Vương Trùng Dương dắt Châu Bá Thông đến hoàng cung Đại Lý bái phỏng Nam Đế, cùng trao đổi võ công với Nam Đế, thời gian hơn nữa tháng. Lão Ngoan Đồng bứt rứt khó chịu, đi quanh quẩn trong hoàng cung, gặp một quý phi họ Lưu đang luyện võ công trong vườn, mà lão Ngoan Đồng “là một kẻ háo võ đệ nhất, tính tình vô tư như trẻ nít, không biết ngại chuyện nam nữ, nhìn thấy Lưu quý phi luyện võ công liền đến đấu với nàng” . Chưa được mấy chiêu đã điểm huyệt Lưu quý phi, lão Ngoan Đồng tất đắc ý, liền cao giọng giảng giải bí mật của công phu điểm huyệt. Lưu quý phi lập tức xin lão chỉ dạy, cứ như thế, Lưu quý phi đang độ thanh xuân, hai người gần gũi lâu ngày tình cảm nảy nở cuối cùng đã ăn ở với nhau. Vương Trùng Dương trói lão Ngoan Đồng cho Đoàn hoàng gia phát lạc,
Nam Đế không những chẳng trách phạt lão Ngoan Đồng mà còn gọi Lưu quý phi lại, ra lệnh cho họ lấy nhau.
Chuyện đến đây chẳng có gì lạ. Điều lạ là lão Ngoan Đồng khi nghe đến đó đã “mồm loa mép giải bảo rằng không biết đó là chuyện bậy, chuyện đã đến nước này, vậy dù chém đầu lão cũng chẳng oán trách, bất luận thế nào cũng không chịu cưới Lưu quý phi” . Nói rồi rút mảnh khăn tay ra đưa cho Lưu quý phi nói: “trả cho nàng đây”. Lưu quý phi cười đau khổ không nhận. Đó là vật định tình Lưu quý phi trao cho lão Ngoan Đồng, trên có thêu đôi uyên ương và một bài từ.
Đó là nguyên nhân “có lỗi với bạn bè, đắc tội với sư huynh, để nàng đụng chạm đến những huyệt đạo trong toàn thân người, thế là bị mắc lừa” của lão Ngoan Đồng.
Lưu quý phi sau này đổi tên thành Anh Cô, vẫn cứ tìm kiếm lão Ngoan Đồng, nhưng lão Ngoan Đồng lại cứ tránh né trốn chạy bà. Chỉ cần nghe có người la lên: “Anh Cô đến kìa” , lão Ngoan Đồng lập tức ba chân bốn cẳng bỏ chạy, nếu trốn không được liền nói: “Ta đang đại tiện đấy nhé, bà đừng đến đây!...”.
Lão Ngoan Đồng né tránh Anh Cô ai cũng biết, là cảnh thường thấy trong “Xạ điêu anh hùng truyện” và “Thần điêu hiệp lữ” , là một trong những cảnh hoạt kê nhất. Nhưng điều này có ý nghĩa tượng trưng và hết sức sâu sắc.
Thứ nhất, lão Ngoan Đồng tuy bề ngoài đã trưởng thành, trí tuệ và võ công cũng rất cao cường. Nhưng tâm lý của lão không cân bằng, không trưởng thành (nếu không như vậy thì làm sao gọi là lão Ngoan Đồng?), đặc biệt là tâm lý về tính ái của lão thật tối tăm dốt nát, lão “không biết đó là chuyện bậy” (chuyện ăn ở với người đàn bà của người khác), xem mảnh khăn uyên ương mà Lưu Anh Cô tặng như đồ chơi ném trả lại cho nàng.
Nếu là kẻ khác, chúng ta nhất định sẽ gọi đó là “tên Sở Khanh”, bởi vì lão không những đã ăn ở với người ta mà còn nhận cả vật định tình, nhưng lại ném trả lại cho người ta, lại còn chạy trốn hết lần này đến lần khác. Nhưng chúng ta không thể nào chụp cái mũ đó cho lão Ngoan Đồng được bởi vì lão thật sự không hiểu chuyện này. Lão Ngoan Đồng không hiểu tình và ái đó chẳng có gì lạ cả bởi vì lão đã bị ảnh hưởng của truyền thống văn hóa Trung Quốc. Đối với Nho giáo đây là chủ đề cấm kỵ. Vì thế bao thế hệ nam nữ đối với vấn đề này đã hết sức mù mờ tối tăm, họ chỉ như những thầy bói mù xem voi, nếu ai may mắn thì tìm ra con đường đúng, còn những kẻ khác thì vẫn tiếp tục ở trong cảnh tối tăm.
Từ chỗ vô tri mà sinh ra hoảng sợ, từ chỗ tối tăm mà sinh ra hiếu kỳ. Lão Ngoan Đồng vì hiếu kỳ mà nếm “trái cấm”, chuyện xảy ra rồi lão mới cảm thấy hoảng sợ, vì hoảng sợ nên lão mới mãi mãi là lão Ngoan Đồng. Sự phát triển từ vô sinh đến hoảng sợ, từ tối tăm đến trốn chạy, là một điều tự nhiên hợp với quy luật.
Thứ đến, lão Ngoan Đồng không chỉ dừng lại ở chỗ vô tri không trưởng thành, còn là một sự trốn chạy “trách nhiệm”. Chúng ta đều biết rằng trẻ con thì không chịu trách nhiệm đối với những việc mình gây nên. Đó là quyền của trẻ con. Còn lão Ngoan Đồng đã cố gắng níu kéo cái đặc quyền này.
Sự trốn chạy trách nhiệm, sợ hãi tình yêu, có vẻ như là vì sự nghiệp và tự do của bản thân, kỳ thực điều này xuất phát từ sự yếu đuối và lạnh nhạt của đàn ông.
Cho đến hồi thứ ba mươi bốn trong “Thần điêu hiệp lữ” , Dương Quá đã hơn ba mươi tuổi còn lão
Ngoan Đồng đã quá một trăm. Dương Quá gọi lão đi gặp Anh Cô, lão nói không đi. Có vẻ như cái tên Anh Cô là một điều cấm kỵ đối với lão. Đến cuối cùng lão mới đuổi theo Dương Quá và Quách Tường mà rằng: “Các ngươi đi rồi ta mới nhớ đến lời của Dương huynh đệ, càng nghỉ càng sốt ruột. Nếu không đi, sau này chắc khó chịu lắm, ta phải hỏi bà ta câu đó mới được” . Đó là câu gì?
Lão Ngoan Đồng đến bên Anh Cô lớn tiếng nói:
- Anh Cô, con của chúng ta sinh ra trên đầu có một cái xoáy hay hai xoáy?
Anh Cô ngẩn người không ngờ lúc trẻ chia tay giờ già gặp lại; lão liền hỏi ngay một câu chẳng ăn nhập gì, vì thế trả lời:
- Là hai xoáy.
Lão Ngoan Đồng vỗ tay cả mừng, nói:
- Tốt, rất giống ta, đúng là một đứa trẻ thông minh.
Rồi lão thở dài lắc đầu nói:
- Đáng tiếc là chết mất rồi.
Đến lúc lão Ngoan Đồng già quá trăm tuổi mới trưởng thành. Cuối cùng trải qua một cuộc đấu tranh tư tưởng mãnh liệt, lão mới đến gặp người tình năm xưa, đã dám đối mặt với cuộc đời. Tuy nhiên đến đây vẫn chưa hết.
Thứ ba, điều mà chúng ta thấy là, lão Ngoan Đồng đi gặp Anh Cô không phải vì sợi tình chưa dứt, hay quan tâm nổi đau khổ mười mấy năm qua của Anh Cô, mà để hỏi “con chúng ta sinh ra có mấy xoáy?” . Câu hỏi này thể hiện hai ý nghĩa, thứ nhất lão tuy là lão Ngoan Đồng nhưng đã làm qua người lớn, cho nên câu hỏi đầu tiên là về đứa con của mình. Lão có một bản năng làm cha. Điều lão quan tâm không phải là tình yêu, người yêu. Thứ hai lão quan tâm đến “có mấy xoáy” . Hai xoáy thì giống lão, “thông minh giống lão”. Tiểu Ngoan Đồng ư? Điều quan trọng hơn là lão có thể dựa vào đó mà xác định rằng đứa trẻ đó chính là giọt máu của lão.
Lão Ngoan Đồng mãi mãi sẽ chẳng có được tình yêu theo kiểu người lớn, nhưng lão vẫn có một tri thức nhất định về tình phụ tử vì thế thái độ mới nghiêm túc thật tình như thế. Đó là một nét trong văn hóa Trung Quốc vậy.
Thứ tư, phải chăng thông qua nhân vật lão Ngoan Đồng Châu Bá Thông, Kim Dung muốn phản ánh một đặc tính nào đó của đàn ông Hán tộc? Ví như sự tối tăm và thiếu hiểu biết về tính ái, thái độ đối với tình yêu và sự hoảng sợ chạy trốn trách nhiệm... chẳng phải đã có nhà tư tưởng gọi “quốc dân tính” của người Trung Quốc là “lão Ngoan Đồng” hay sao?
Đây là một vấn đề đáng nghiên cứu. Đây không chỉ là vấn đề yếu đuối mà còn là một vấn đề không thể lớn được.
Về mặt nghệ thuật, nhân vật đã đem đến cho chúng ta những tràng cười sảng khoái. Nhưng về mặt tâmlý của nhân vật thì đây là một điều không lành mạnh. Cuối cùng chúng ta thấy rằng trong quan niệm dân gian Trung Quốc, có một lối suy nghĩ phổ biến đó là “hồng nhan họa thủy”. Chẳng qua đây là cách che đậy sự vô năng và yếu đuối của người đàn ông mà thôi. Là cái cớ để người đàn ông chạy trốn trách nhiệm với
tình yêu.
ĐÀM CÔNG, VÌ ĐÂU LÃO ĐƯỢC TIỂU QUYÊN?
Có thể lão Ngoan Đồng là một thiên tài, vì lão có thể trốn chạy hôn nhân và tình yêu. Một đại văn hào Nga, cả đời không lấy vợ, bởi vì ông phát hiện ra “bản chất” của tình yêu và hôn nhân. Ai đó đã nói: “Tình yêu không có bình đẳng. Chỉ có chủ nhân và nô lệ. Cho nên các nhà thơ bảo rằng tình yêu là xiềng xích, điều này thật đúng. Đôi tay kia sẽ dày vò bạn, sẽ bóp nát trái tim bạn...”. Đàn ông là yếu đuối. Đàn ông đã vướng vào lưới tình càng yếu đuối hơn. Đây là điều mà rất nhiều người thấu hiểu được.
Dưới ngòi bút Kim Dung chúng ta thường thấy hai mô típ như thế này: nhân vật nam chính thường là một đại anh hùng, ngang dọc trời đất, nhưng trong tình yêu, trước mặt phụ nữ thì yếu đuối bị động. Chúng ta có thể kể ra đây rất nhiều như Trần Gia Lạc, Dư Ngư Đồng, Từ Thiên Hoằng, Hồ Phi, Miêu Nhân Phụng, Trương Vô Kỵ, Thạch Phá Thiên, Lệnh Hồ Xung, Đoàn Dự...
Chúng ta hãy xem thử một nhân vật phụ dưới đây.
Trong “Thiên long bát bộ” có nhân vật Triệu Tiền Tôn. Đây không phải là tên thật của lão, bởi vì lão hãi hùng những trận chiến và thất ý ở chốn tình trường nên trở thành bất bình thường, không biết “mình là ai”, nên tự xưng là “Triệu Tiền Tôn Lý, Châu Ngô Trịnh Vương, Phùng Trân Chư Vệ, Tưởng Thẩm Hàn Dương,...”. Kêu ngắn gọi là Triệu Tiền Tôn.
Thời trẻ yêu tiểu sư muội. Tiểu sư muội cũng có ý với lão, không ngờ cuối cùng hai người nhân duyên không thành. Sư muội Tiểu Quyên của lão lấy người khác. Đó là một sự đả kích quá lớn đối với Triệu Tiền Tôn. Bốn mươi năm lão ôm trong lòng câu hỏi tại sao lão và tiểu sư muội phải chia cách nhau, cho đến bốn mươi năm sau, mọi người đã tóc bạc da mồi, chồng của sư muội lão Tiểu Đàm trở thành Đàm Công, Tiểu Quyên trở thành Đàm Bà. Theo lời mời của Từ trưởng lão Cái Bang, Đàm Công, Đàm Bà, Triệu Tiền Tôn đều đến Cái Bang:
Đàm Công chợt nổi nóng bảo Đàm Bà:
- Sao? Bà hẹn hắn tới đây à? Sao không bảo trước với tôi mà lén lút thậm thụt như thế? Đàm Bà bực tức:
- Cái gì mà lén lút thậm thụt? Tôi đã viết phong thư nhờ Từ trưởng lão cho người đưa đi, chuyện quang minh chính đại như thế, chỉ vì ông hay ghen, tôi sợ ông cứ lải nhải nên không nói đó thôi. - Giấu chồng làm việc, không giữ phụ đạo, thật chẳng ra sao. - Đàm Công nói. Đàm Bà chẳng nói chẳng rằng, giáng cho lão chồng một bạt tai.
Rõ ràng Đàm Công võ công cao hơn Đàm Bà mấy bậc nhưng khi bị vợ tát vẫn đứng yên không đỡ, cũng chẳng trách chịu ngay một cái tát. Rồi lấy ra một hộp nhỏ.
Cho tay chấm chút cao rồi thoa lên mặt, vết bầm biến mất. Đánh nhanh mà trị cũng mau, cứ thế lửa giận trong lòng hai người cũng biến mất. Mọi người xung quanh ai cũng bật cười.
Chỉ nghe Triệu Tiền Tôn thở dài buồn bã than rằng:
- Thì ra là thế, thì ra là thế. Ôi, biết trước như thế thì giờ đây không ra nông nổi này. Chịu một cái tát của nàng có khó gì đâu.
Lời nói đầy ý hối hận.
Đàm Bà nói:
- Ngày xưa sư huynh nhất định phải đánh lại tôi một cái tát mới thôi, chưa bao giờ nhường nhịn cả.
Triệu Tiền Tôn đứng yên như phỗng, nhớ lại chuyện xưa, tiểu sư muội nóng nảy, tính tình như trẻ con, động tí là ra tay đánh người, lão vô duyên vô cớ bị đánh nên chẳng cam lòng, cũng vì thế mà thường cãi nhau, mối duyên đẹp cũng vì thế mà tiêu tan. Lúc này thấy Đàm Công đứng yên chịu đánh, lòng mới bừng tỉnh nhưng hối hận vô cùng.
Mấy mươi năm qua lão chỉ trách tiểu sư muội phản bội, yêu thương người khác mà nào hay đối phương chỉ có một môn công phu “chịu đòn mà không phản công”.
- Ôi bây giờ mà có giơ mặt ra năn nỉ nàng cũng chẳng chịu đánh cho.
Từ trưởng lão nói:
- Triệu Tiền Tôn tiên sinh, xin ngài hãy nói cho mọi người biết những điều viết trong bức thư là thật hay giả.
Triệu Tiền Tôn lẩm bẩm một mình:
- Ta thật ngu ngốc, sao lúc ấy không nghĩ ra thế nhỉ! Học võ công là để đánh kẻ địch kẻ ác, bọn tiểu nhân bỉ ổi. Chứ sao lại đánh người mình yêu? Đánh là yêu, chửi là thương, chịu vài cái tát có gì ghê gớm đâu?...
... Triệu Tiền Tôn tức tối:
- ... Ngươi chẳng qua chỉ có môn công phu “bị đòn mà không đánh trả”, chứ có gì hơn ta đâu? Bỗng nghe trong rừng hạnh, có tiếng cất lên:
- Có thể bị đòn mà không đánh trả chính là thiên hạ đệ nhất võ công. Há chẳng phải là hay sao. Đoạn thoại trên như một câu chuyện hài hước, nhưng cũng chính là một câu chuyện ngụ ngôn. Đứng trước một người phụ nữ, đàn ông không còn được tự do nữa. sự bình đẳng trong mối quan hệ
giữa hai người chỉ là nói lấy có, bởi vì người đàn ông phải chiều theo những ý muốn của phụ nữ. Đương nhiên trong mối quan hệ giữa nam và nữ, cũng có những tình huống ngược lại, tức là nữ giới phải chiều theo ý của nam giới. Nhưng điều này thường không xảy ra. Có một bài tình ca của Trung Quốc như thế này:
Ta muốn làm chú dê nhỏ để nằm bên cạnh nàng. Ta mong nàng là chiếc roi nhỏ phất nhẹ lên người ta.
Mối quan hệ giữa Đàm Công và Đàm Bà cũng đại khái như thế. Một người có thể lúc nào cũng ra tay được, còn người kia thì đứng yên chịu trận. Còn Triệu Tiền Tôn đáng thương vì không hiểu đạo lý này mà đành vuột mất Tiểu Quyên, suốt đời cô độc một mình. Đó chính là “chỗ thông minh của người đàn ông cũng
là sự ngu ngốc của họ”.
Như thế, đàn ông sẽ lựa chọn như thế nào? Chỉ có hai khả năng, khả năng thứ nhất là giống như ĐàmCông, bị đòn mà không đánh trả; khả năng thứ hai là như Triệu Tiền Tôn, đành cô đơn một đời. Vận mệnh của người đàn ông trong tình yêu chính là như thế. Đó không phải bởi vì tính chất của người đàn ông là như thế mà bởi vì sự thật về mối quan hệ giữa nam và nữ là vậy, làm cho người đàn ông chỉ có thể xử sự như thế.
Đó không phải là bi kịch mà là một sự thật.
Người ta bảo rằng đàn ông làm việc theo lý tính còn đàn bà làm việc theo cảm tính, vì thế đàn ông kiên cường hơn đàn bà, bởi vì, lý trí mạnh mẽ hơn tình cảm... Đó chẳng qua là sự suy đoán về hình thức mà thôi. Sự thật trong công thức đó vẫn còn một suy đoán tồn tại, sức mạnh lý trí của đàn ông lại chính là nguyên nhân quan trọng của sự yếu đuối của họ, tình cảm là động lực mạnh mẽ để người phụ nữ dũng cảm, chủ động.
Lý tính của người đàn ông chỉ có thể mạnh mẽ đối với tự nhiên, xã hội. Còn trong tình yêu, bởi vì quá lo nghĩ đến luân lý đạo đức trật tự xã hội... cho nên làm cho họ rụt rè, không dám phá bỏ mọi gian nan. Phụ nữ chinh phục đàn ông là nhờ tình cảm của họ, tình cảm của phụ nữ một khi bộc phát, sẽ cháy bỏng như những ngọn lửa kia, họ có thể quên đi tất cả để lao vào, dù biết mình sẽ như con thiêu thân, nhưng họ vẫn mặc kệ tất cả. Điều này đã làm cho họ chủ động, mạnh mẽ. Nhưng kết quả của sự mạnh mẽ đó là bi kịch.
Mấy ngàn năm trước Khổng Tử đã nói “đàn bà và tiểu nhân là hai kẻ khó dạy”, câu nói này đã trở thành kinh điển về sự khinh thị phụ nữ. Nhưng trong đó vẫn bao hàm một giá trị nhất định, đó chính là bản chất phi lý tính của “đàn bà và tiểu nhân”, sức mạnh của phi lý tính này phá bỏ mọi thứ, hủy diệt mọi thứ, mạnh mẽ hơn sức mạnh lý tính nhiều. Cho nên than rằng: “... khó dạy!”, điều này chưa chắc là sự khinh thị phụ nữ càng không thể là sự đánh đồng phụ nữ với tiểu nhân. Đây chẳng qua là phê bình thói phi lý tính của phụ nữ mà thôi.
Sự phi lý tính của phụ nữ cũng có nghĩa là họ không có cơ trí. Ngược lại, lúc phụ nữ tập trung vào tình yêu, sự sắc bén, trực giác, cơ trí của họ làm cho người ta hoảng sợ.
Nếu không như vậy đàn ông làm sao cam tâm tình nguyện hạ vũ khí đầu hàng cho được. Như Điền Thanh Văn, con gái của Điền Quy Nông chưởng môn Thiên Long môn Bắc Tông trong “Tuyết Sơn phi hồ” , có lẽ đã gả cho Đào Tử An, trong lòng có chút tình cảm với Đào Tử An, nhưng nàng đã ăn ở với sư huynh của mình là Tào Vân Kỳ. Khi bí mật ấy bị bại lộ, cả hai người đàn ông đều không hài lòng với Điền Thanh Văn: một người cho rằng đã đính hôn rồi thì không thể tư thông với kẻ khác; nhưng không lâu sau, cả hai kẻ này đối địch với nhau, trút hết mọi thù hận lên kẻ thù của mình. ... Điền Thanh Văn không nhìn gã rầu rĩ mà rằng:
- Sư huynh đã hại một đời của muội, lại còn dày vò muội. Đào Tử An là chồng của muội, muội không thể có lỗi với chàng. Chàng tuy không cần muội nữa, nhưng lòng muội quyết chẳng trao cho ai nữa.
Đào Tử An la lớn:
- Ta đương nhiên là cần muội. Thanh muội, ta cần muội...
... Điền Thanh Văn nhìn xuống, chờ cho bọn họ im lặng mới từ tốn mà rằng:
- Chàng tuy cần thiếp, nhưng thiếp còn mặt mũi nào theo chàng nữa? Sau khi ra khỏi động chàng đừng tìm thiếp nữa mà chi.
Đào Tử An vội nói:
- Không, không, Thanh muội, là bởi gã không tốt. Gã làm nhục muội, hành hạ muội. Nói rồi lia đao lao vào Tào Vân Kỳ...
... Mọi người thấy Điền Thanh Văn dùng kế lui binh mà tấn công, làm hai gã đàn ông ngoan ngoãn, trong bụng cười thầm.
Thoái lui để mà tiến lên, dùng nhu khắc cương, dùng thủ để công, đó chính là tuyệt chiêu của phụ nữ. Trước tuyệt chiêu này, đàn ông đành thất thủ.
Đào Tử An, Tào Vân Kỳ, cho đến Đàm Công, Triệu Tiền Tôn... đều không hẳn là đại diện ưu tú cho đàn ông, điều này không thể phủ định được.
Là đàn ông, tất nhiên sẽ có nhược điểm, chẳng qua là hình thức biểu hiện không giống nhau mà thôi. Sự yếu đuối của đàn ông, không nhất định là “quy luật”, trong tác phẩm của Kim Dung, chúng ta có thể tìm thấy những ví dụ tương phản. Nhưng sự yếu đuối, bị động, hoảng sợ của nam giới là thường thấy dưới ngòi bút của Kim Dung.
- o O o -
HỒI 3
PHỤ NỮ - NHỮNG KẺ LỤY VÌ TÌNH
Nam giới cầu hôn hay tỏ tình là phong tục tập quán của rất nhiều dân tộc trên thế giới, nhưng quyền chủ động lại nằm trong tay phụ nữ. Có lẽ nam nhân là kẻ mạnh nên ảnh hưởng đến phong tục này, cũng có thể phong tục này ảnh hưởng đến sự mạnh mẽ của đàn ông, tóm lại nam giới là kẻ mạnh, kẻ theo đuổi, điều này đã ghi sâu vào trong tâm thức của mỗi người.
Có lẽ rất ít người biết rằng những điều này chưa chắc là sự thật. Kim Dung nằm trong số đó. Cho nên trong thế giới tình yêu của ông, nam giới thì yếu đuối còn nữ giới thì chủ động điên cuồng và đau khổ. Chỉ cần chú ý chúng ta có thể thấy được điều này, một cuộc tình có hậu thường là bởi sự vun đắp của phái nữ nhiều hơn. Sự theo đuổi của nam giới chỉ có vai trò như một “nghi thức” mà thôi. Đương nhiên, khi tình yêu không có kết thúc tốt đẹp, người đau khổ hơn vẫn là phái nữ.
Đây là điều không lạ gì. Khi Thất Tiên Nữ thấy nhân gian đẹp đẽ, thấy Đổng Vĩnh chân thực liền chủ động theo đuổi, Đổng Vĩnh hoảng sợ chẳng biết làm sao, vùng vẫy vô vọng, muốn tìm một con đường để trốn thoát nhưng không thấy chỉ đành làm tù binh cho thần tình yêu. Đương nhiên đó là một tù binh hạnh phúc. Đó là một mô thức tình yêu phổ biến. Trong “Lương Sơn Bá Chúc Anh Đài” , Chúc Anh Đài nhiều lần ám chỉ, cơ hồ đã rõ ràng đến nỗi không thể rõ ràng hơn được nữa, nhưng anh chàng ngốc Lương Sơn Bá vẫn cứ ngu ngu ngơ ngơ chẳng biết điều chi. Đó là một điều có ý nghĩa hết sức chân thực và sâu sắc. Hai người đẹp rắn trong “Bạch Xà truyện” , trong thần thoại Tây phương rắn là kẻ đã dụ cho Adam và Eva phát hiện ra sự trần trụi của mình, nhưng trong truyền thuyết Trung Quốc, Phục Hy và Nữ Oa là hai kẻ mặt người mình rắn, người rắn hợp nhất. Rõ ràng chủ động hơn Hứa Tiên nhiều, Hứa Tiên chỉ là một người tiếp nhận khờ khạo, đầu tiên là tiếp nhận tình yêu của Bạch Xà, sau lại tiếp nhận khuyến cáo của Pháp Hải hòa thượng.
Lại còn có chuyện Mạnh Khương Nữ đội tuyết tìm chồng. Đó đều là câu chuyện của phụ nữ, phụ nữ là nhân vật chính. Có nhiều câu chuyện đại loại như thế chẳng lẽ là ngẫu nhiên hay sao, chẳng lẽ không có ý nghĩa sâu xa gì ư? Không phải có ý nghĩa tượng trưng và ngụ ngôn hay sao?
Trong tiểu thuyết Kim Dung, có vô số những chuyện như thế này: nữ nhân là kẻ thống trị trong thế giới ái tình. Nam nhân quá lắm chỉ là người tình hoặc trượng phu của “nữ nhân” mà thôi. Nữ nhân là kẻ khởi phát, khiêu chiến, giáo dục trong tình yêu và là người chủ động để thực hiện tình yêu. Nữ nhân sinh ra là vì ái tình. Bi kịch của thế giới tình yêu, một nguyên nhân quan trọng là sự phản bội của nam giới, gây ra những cuộc chiến tranh không ngơi nghỉ giữa phụ nữ, những tình địch với nhau.
Trong tiểu thuyết của Kim Dung, người đàn ông chủ động theo đuổi tình yêu, kiên nhẫn đợi chờ người yêu quay về bên mình nhất chính là Dương Quá. Chắc chúng ta còn nhớ khi Tiểu Long Nữ hỏi Dương Quá có muốn cưới nàng làm vợ hay không, Dương Quá kinh hoảng mà đáp: “Không thể! Làm sao mà được...?” . Đương nhiên, lúc đó Dương Quá vẫn còn là một đứa trẻ con. Mà nam nhân có mấy người không phải là con trai của nữ giới? Lão Ngoan Đồng là một ví dụ hết sức rõ ràng, nhưng cũng đã nói rõ
rồi.
Một nam nhân dũng cảm như Dương Quá đã như thế, những người khác thì khỏi phải nói. Chúng ta không cần dẫn ra nào là Trương Vô Kỵ, Lệnh Hồ Xung, Địch Vân, Viên Thừa Chí... Trong tiểu thuyết của Kim Dung, người ta thích thú nhất mối tình của Hoàng Dung và Quách Tĩnh trong “Xạ điêu anh hùng truyện”. Đây là cuộc nhân duyên đẹp nhất, hạnh phúc nhất. Được xem là kiểu mẫu của tình yêu.
Ở đây chúng ta thấy được bí mật của tình yêu, thấy được sự phân phối vai trò của phái nam và phái nữ. Trong chuyện tình yêu, Quách Tĩnh chỉ ở vị trí bị động. Tính cách của chàng giống như Đổng Vĩnh (chân thực), Hứa Tiên (trẻ con), Lương Sơn Bá (hồn hậu), là sự kết hợp của những người này. Nếu như không có Hoàng Dung chủ động thì mối tình này cũng không có.
Hoàng Dung chủ động quen biết chàng, giúp đỡ chàng, chỉ dẫn chàng và yêu chàng. Thậm chí khi chủ động rời chàng, nàng vẫn giúp Quách Tĩnh dùng binh, định hướng tình cảm cho Quách Tĩnh, quyền chủ động tuyệt đối nằm trong tay của Hoàng Dung.
Quách Tĩnh dĩ nhiên là yêu nàng, bởi vì nàng là cô gái thông minh lanh lợi, hiểu lòng người, dịu dàng ân cần, phóng khoáng. Quách Tĩnh không chỉ yêu nàng mà còn say mê không rời nàng, cam tâm tình nguyện để nàng thao túng chỉ huy, hiếp đáp. Đó cứ được xem như là cái giá phải trả và lợi tức của tình yêu.
Hai người rồi cũng có một kết cuộc tốt đẹp, Quách Tĩnh cũng có tác dụng to lớn, lập nhiều công lao, ví dụ như giữa Hoàng Dung và Hoa Tranh, chàng rõ ràng là yêu Hoàng Dung mà không yêu Hoa Tranh công chúa. Từ đây chúng ta có thể phát hiện được nhiều vấn đề khác. Thứ nhất, Hoa Tranh là một cô gái thảo nguyên, tất nhiên sẽ không đáng yêu như một Hoàng Dung ở Giang Nam. Thứ hai, Quách Tĩnh vì lời thề của mình mà cưới Hoa Tranh, đành phụ Hoàng Dung. Thứ ba, Kim Dung đã can thiệp vào cuộc tình giữa hai người. Nếu không có sự giúp đỡ của Kim Dung, hai người này không thể nào đến với nhau được. Cụ thể là, Kim Dung đã cho Thành Cát Tư Hãn tấn công quê hương của Quách Tĩnh, vẫn chưa đủ, ông còn cho Hoa Tranh đi cáo mật với Thành Cát Tư Hãn, làm cho mẹ của Quách Tĩnh chết thảm trong lều của Thành Cát Tư Hãn. Như thế Quách Tĩnh đã ân đoạn nghĩa tuyệt với chẳng con Thành Cát Tư Hãn rồi. Về mặt nghệ thuật, để Hoa Tranh đi cáo mật có thể nói là một sơ hở lớn hoặc một thất bại to lớn.
Nhưng tác giả không cần để ý nhiều. Chỉ có như thế, mới cởi bỏ được vòng kim cô đạo đức trên đầu Quách Tĩnh, từ đó chàng mới có thể cùng Hoàng Dung dắt tay nhau đi khắp trời đất. Đó không phải là sự trợ giúp của tác giả hay sao.
Khi bộ “Xạ điêu anh hùng truyện” sắp kết thúc, tác giả đã viết một đoạn như thế này: Quách Tĩnh bước đến nắm tay Hoàng Dung mà rằng:
- Dung nhi, ta nhớ muội biết bao!
Trong lòng xúc động nên giọng nói run run. Hoàng Dung phất tay, lạnh nhạt nói: - Ngươi là ai? Sao lại kéo ta?
Quách Tĩnh ngẩn người nói:
- Huynh... huynh là Quách Tĩnh đây mà, muội... ta chưa chết, ta... ta...
Hoàng Dung nói:
- Ta không nhận ra ngươi.
Nói rồi bước ra cửa động. Quách Tĩnh chạy lên phía trước giọng thiểu não:
- Dung nhi, Dung nhi nghe huynh nói đây.
Hoàng Dung khẽ hừ một tiếng nói:
- Cái tên Dung nhi là để cho ngươi gọi sao? Ngươi là gì của ta?
Hoàng Dung khẽ liếc chàng, thấy chàng thân hình tiều tụy, mặt mũi hốc hác, trong lòng hơi cảm thấy bất nhẫn nhưng nhớ lại chàng đã nhiều lần quay lưng với mình, khẽ hứ một tiếng đi về phía trước.
Quách Tĩnh vội vàng nắm lấy tay áo của nàng mà rằng:
- Hãy nghe huynh nói đây.
Hoàng Dung đáp:
- Nói đi!
Quách Tĩnh nói:
- Ta ở Lưu Sa thấy đôi điêu cừu mới biết nàng...
Hoàng Dung nói:
- Lời ngươi nói ta đã nghe rồi.
Nói rồi rút tay trở lại quay người bỏ đi... Hoàng Dung gặp lại Quách Tĩnh trong lòng mừng rỡ, nhớ lại ở Lưu Sa đã ném đi đôi điêu cừu để tránh sự truy đuổi của Âu Dương Phong, từ đây lửa lòng tắt ngấm, cô đơn một mình, chỉ muốn trở lại Đào Hoa đảo gặp lại phụ thân, nhưng ở Sơn Đông lại bệnh một trận. Không ai chăm sóc, càng thê lương hơn, trong lòng nghĩ tới Quách Tĩnh bạc tình phụ nghĩa, lại hận phụ mẫu không nên sinh ra mình trên thế gian, nên càng đau khổ hơn. Khi hết bệnh, Âu Dương Phong truy đến, bị ép đến Hoa Sơn dịch giải kinh văn. Đang lúc nghĩ ngợi lại nghe tiếng bước chân của Quách Tĩnh phía sau.
... Hoàng Dung cười nhạt nói:
- Ngươi nay là phò mã của Đại Hãn, còn theo ta làm gì?
Quách Tĩnh đáp:
- Đại Hãn hại chết mẫu thân của huynh, huynh sao có thể làm phò mã nữa.
Hoàng Dung nổi giận đỏ bừng cả mặt nói:
- Hay thật, ta tưởng ngươi thật tình nhớ đến ta, thì ra bị Đại hãn đuổi không được làm phò mã nữa mới đến tìm ta. Chẳng lẽ ta là một kẻ không ra gì để ngươi hiếp đáp hay sao. Nói đến đây nàng tức giận bưng mặt khóc.
Ở đây, Hoàng Dung đã làm ra vẻ tức giận cho Quách Tĩnh thấy, nhưng trong đó đau khổ vẫn có phần hơn. Từ nhỏ nàng tuy bất hạnh mất mẹ, nhưng là viên ngọc quý của Đông tà Hoàng Dược Sư, chưa bao giờ
bị thiệt thòi và đau khổ như thế này. Khi nàng giận cha mà bỏ nhà ra đi, từ Đào Hoa đảo đến Trung Nguyên, ấy thế mà Quách Tĩnh còn làm cho nàng giận hơn cả người cha của nàng. Chẳng trách nàng đau khổ như thế.
Không chỉ là đau khổ. Hoàng Dung đã rất ích kỷ trong tình yêu. Có lẽ cũng bởi tính cách của nàng. Và cũng là bản tính của phụ nữ. Khi Giang Nam thất quái bảo Quách Tĩnh phải lấy công chúa Hoa Tranh, Khưu Xứ Cơ bảo Quách Tĩnh phải lấy Mục Niệm Từ, Hoàng Dung đã hết sức căm ghét bọn họ. Rõ ràng những ai uy hiếp đến mối tình của nàng đều là kẻ địch của nàng. Còn đối với tình địch thì nàng không hề khách sáo:
Hoàng Dung rút cây trủy thủ ra, đâm liên tục mười mấy nhát lên mặt nàng, mỗi nhát đều phớt nhẹ qua, Mục Niệm Từ chỉ biết nhắm mắt chờ chết, nhưng chỉ cảm thấy mặt mình lành lạnh, mà chẳng thấy đau đớn gì cả. Nàng mở to mắt, thấy ngọn trủy thủ sắp đâm xuống, giận dữ thét lớn: - Ngươi muốn giết cứ giết, hà tất phải vờn ta như thế?
Hoàng Dung nói:
- Ta không thù không oán với ngươi, cớ gì phải giết ngươi? Ngươi chỉ can thề theo rồi ta sẽ thả ngươi.
Mục Niệm Từ tuy không địch lại được nhưng chẳng chịu thua, nàng gằn giọng nói: - Có bản lĩnh cứ giết bổn cô nương, muốn bổn cô nương cầu xin ư? Đừng có mơ. - Một cô nương trẻ đẹp như thế này mà phải chết, thật tiếc quá. - Hoàng Dung nói. Mục Niệm Từ nhắm mắt giả lơ.
Lát sau, Hoàng Dung nhỏ nhẹ nói:
- Tĩnh ca ca thật lòng với ta, ngươi dù lấy chàng, chàng cũng chẳng thích ngươi đâu. Mục Niệm Từ mở mắt hỏi:
- Ngươi nói gì?
Hoàng Dung nói:
- Ngươi không cần lập thệ cũng được, dù sao chàng cũng chẳng cưới ngươi đâu, ta biết mà. Mục Niệm Từ lấy làm lạ:
- Ai thật lòng đối với ngươi? Ngươi bảo ta sẽ lấy ai?
Hoàng Dung nói:
- Tĩnh ca ca đó, Quách Tĩnh.
Mục Niệm Từ nói:
- À, thì ra là hắn. Ngươi bảo ta thề chuyện gì?
Hoàng Dung nói:
- Ta muốn ngươi phải thề, dù xảy ra chuyện gì, cũng không được lấy chàng.
Mục Niệm Từ mỉm cười:
- Dù ngươi có kề dao vào cổ ta, ta cũng chẳng lấy hắn.
Hoàng Dung cả mừng hỏi:
- Thật không? Tại sao?
Mục Niệm Từ nói:
- Nghĩa phụ ta tuy có di mệnh gả ta cho Quách thế huynh, thật ra... thật ra...
Rồi nàng thỏ thẻ:
- Lúc lâm chung, thần trí người hồ đồ, không nhớ đã gả ta cho người khác rồi. Hoàng Dung vui mừng nói:
- À, thế là muội trách lầm rồi.
Nói đoạn nàng vội vàng giải huyệt cho Mục Niệm Từ, ra chiều chăm sóc cho nàng... Lúc này may mà Mục Niệm Từ đã yêu Dương Khang nên không trở thành tình địch của Hoàng Dung... còn như Mục Niệm Từ yêu Quách Tĩnh, không chịu thề với Hoàng Dung thì không biết nàng sẽ ra sao. Kim Dung đã để cho mối tình của Hoàng Dung cuối cùng kết thúc tốt đẹp, có được hạnh phúc. Nếu không vận mệnh và hình ảnh của nàng sẽ khác đi.
Đương nhiên cũng bởi Hoàng Dung có sự chọn lựa thông minh. Trông bề ngoài Quách Tĩnh có vẻ khờ khạo, nhưng lại là người có thể che chở được cho nàng. Hoàng Dung quen biết Quách Tĩnh là mấu chốt của hạnh phúc một đời nàng. Một đời nàng chỉ làm một chuyện đầy cao minh như thế cũng đã đủ lắm rồi. Những nhân vật nữ khác dưới ngòi bút của Kim Dung có ai hạnh phúc như nàng? Phần nhiều là không thể gặp được một người chân thực như Quách Tĩnh mà toàn là những kẻ bạc tình phụ nghĩa.
HÀ HỒNG DƯỢC: NGƯỜI CON GÁI THẤT TÌNH
Đa tình nhi nữ bạc tình lang...
Đó có lẽ là bi kịch chung của nhiều người phụ nữ, có thể gọi đây là một mô thức. Đúng vậy, phải thừa nhận rằng đây là một mô thức bi kịch phổ biến. Trong mô thức này, nam nhân luôn là những kẻ bạc tình bạc nghĩa.
Nhưng những người con gái đa tình lại yêu toàn những kẻ bạc tình.
Trong “Tuyết Sơn phi hồ” Nam Lan bỏ Miêu Nhân Phụng mà trốn chạy với Điền Quy Nông, là vì Điền Quy Nông phong độ đẹp trai hiểu tâm lý, miệng lưỡi ngon ngọt.
Mã Xuân Hoa sau khi đính hôn một ngày đã làm tình nhân của kẻ khác. Cũng bởi vị hôn phu của nàng thô kệch, không tài hoa như Phúc Khang An công tử.
Phía trước đã nói đến Mục Niệm Từ yêu thương gã vô hạnh Dương Khang, bởi vì mọi phương diện gã đều có ưu thế hơn Quách Tĩnh.
Một ví dụ nổi bật, là trong “Hiệp khách hành” , Đinh Đang đã chọn gã Thạch Trung Ngọc đê tiện bỉ ổi phong lưu mà phụ bạc chàng Thạch Phá Thiên chân thành tử tế. Sự chọn lựa này đã nói rõ một điểm: người người con gái đa tình lại thường yêu những kẻ bạc tình hơn.
Bạc tình cũng chẳng sao, chỉ cần biết nói lời ngon ngọt là được. Có người con gái đang yêu nào không chịu nghe bằng trái tim kia chứ?
Hãy xem sự khác nhau giữa Thạch Trung Ngọc và Thạch Phá Thiên:
Đinh Đang tiến lên phía trước, run run nói:
- Ngươi... ngươi... đúng là Thiên Ca sao?
Chàng thiếu niên cười mếu đáp:
- Đinh Đang, lâu nay không gặp nàng ta nhớ nàng biết bao, nhưng nàng lại quên ta mất rồi. Nàng không nhận ra ta nhưng dẫu nghìn năm sau, vạn năm sau, ta cũng nhận ra nàng. Đinh Đang nghe chàng nói thế, cả mừng:
- Ngươi mới đúng là Thiên Ca, còn hắn... là tên bịp bợm, nếu chẳng thế thì làm sao nói ra những lời chân thật như thế? Suýt nữa là muội bị hắn lừa bịp rồi.
Nói đoạn nàng quắc mắt nhìn Thạch Phá Thiên, đồng thời nắm lấy tay gã thiếu niên kia. Gã thiếu niên nắm chặt tay nàng, nhoẻn miệng cười. Đinh Đang lòng vui phơi phới.
Thạch Phá Thiên bước tới hai bước, miệng nói:
- Đinh Đang, ta đã nói với nàng từ lâu rồi, ta không phải là Thiên Ca của nàng, nàng... nàng có giận ta chăng?
Bỗng nhiên nghe bốp một tiếng, chàng ăn nguyên một cái tát.
Một người chân thực lại bị xem là gã bịp bợm, còn một tên bịp bợm lại trở thành kẻ chân thật. Gã Thạch Trung Ngọc lưu manh chỉ nói vài câu, nắm tay, mỉm cười mà làm cho Đinh Đang vui mừng ra mặt, cò Thạch Phá Thiên thì lại được một cái tát nổ đom đóm. Thực ra Thạch Phá Thiên mới là người nói lời chân thật.
Nhưng đối với những người con gái đang ở trong lưới tình, thì chỉ có thể phân biệt được đâu là lời ngon ngọt đâu là lời cay đắng, làm sao phân biệt được lời chân thật và lời giả dối. Họ dùng tai để yêu, từ chối nghe những lời không ngọt ngào mà chân thật, thích nghe những lời ngọt ngào nhưng giả dối. Vậy còn trách ai nữa? Trong “Thiên long bát bộ , những người đàn bà bên cạnh Đoàn Chính Thuần đều phiền não vì thói phong lưu lãng mạn của ông nhưng ai cũng yêu cái vẻ phong lưu lãng mạn đó. Lúc không ở bên nhau, họ đòi rút gân lột da ông nhưng khi gặp nhau, Đoàn Chính Thuần chỉ nói mấy lời ngon ngọt thì họ lập tức chuyển giận thành vui, mọi bực tức cũng tiêu tan. Vai chính trong hài kịch hoặc bi kịch đều là hai người: Kẻ bạc tình và những người phụ nữ yêu kẻ bạc tình.
Hãy xem Hà Hồng Dược.
Hà Hồng Dược là nhân vật trong “Bích huyết kiếm” , một hình tượng nhân vật khổ vì tình được KimDung sáng tạo sớm nhất.
Lúc Hà Hồng Dược xuất hiện đã là một người vừa già vừa xấu, mặt mũi đầy vết sẹo. Đó chính là chứng tích tố cáo đối với kẻ bạc tình. Năm xưa nàng là một cô gái xinh đẹp tuyệt trần. Là
người đẹp trong Ngũ Độc giáo Vân Nam, em gái của giáo chủ, quản lý ba bảo vật trấn giáo: Kim xà kiếm, Kim xà chủy và Tàng bảo đồ. Khi mới gặp Hạ Tuyết Nghi nàng đã yêu, còn Hạ Tuyết Nghi thì chẳng có tí tình cảm nào với nàng mà chỉ muốn trả thù, vì thế lợi dụng nàng để đoạt bảo vật của Ngũ Độc giáo. Hà Hồng Dược cam tâm tình nguyện hiến thân cho chàng.
Nàng yêu dáng vẻ phong lưu hào hoa của chàng nhưng lại không biết sự bạc tình vô nghĩa của chàng. Chỉ có những kẻ không đặt nặng chữ tình mới có thể thật sự hào hoa được. Còn những người đàng hoàng với chữ tình lại là những kẻ ngốc nghếch.
Không ngờ sau khi lấy được bảo vật chàng đã một đi không trở lại, lại còn mặn nồng với người đàn bà khác (Ôn Nghi). Thế là Hà Hồng Dược đã phạm giáo qui, bị độc xà cắn để lại vết tích đầy mặt. Còn Hạ Tuyết Nghi thì cao chạy xa bay chẳng để ý gì tới nàng.
Cảnh ngộ của nàng thật bi thảm! Oán giận của nàng thật sâu sắc! Từ đó nàng đã trở nên điên cuồng, tính cách và tâm hồn trở nên ác độc.
Nên thông cảm hay nên phê bình nàng?
Nàng hận người đàn bà của Kim Xà Lang Quân! Có lạ không? Người nàng hận nhất không phải KimXà Lang Quân. Nàng không hiểu và cũng không chịu hiểu. Nàng chỉ hận, hận người đàn bà đó, hận Kim Xà Lang Quân.
Nàng có thật là hận Kim Xà Lang Quân Hạ Tuyết Nghi không? Có mà cũng không? Ai có thể biết rõ điều này?
Chỉ thấy khi nàng cùng Hạ Thanh Thanh đi tìm Hạ Tuyết Nghi. Tác giả đã viết như thế này: ... Hà Hồng Dược lòng dạ rối bời, bao nhiêu năm qua nàng đều nghĩ đến cảnh sẽ gặp lại kẻ đã phụ nàng, có lẽ nàng sẽ hành hạ rồi giết phăng hắn đi, có thể nàng sẽ tha cho hắn. Nhưng từ trong sâu thẳm lòng nàng, nàng muốn hắn hồi tâm chuyển ý, nối lại duyên xưa, lúc này toàn thân nàng run rẩy, hai tay đổ mồ hôi lạnh.
... Thanh Thanh nói:
- Cha tôi được chôn ở đây.
Hà Hồng Dược nói:
- Ồ... té ra... hắn... hắn đã chết rồi.
Lúc ấy nàng cầm lòng không được, ngồi bệt xuống tảng đá mà xưa kia Kim Xà Lang Quân vẫn thường ngồi, tay phải ôm đầu, lòng đau khổ vô cùng, lòng oán hận bao nhiêu năm qua bổng tan biến, tình xưa nghĩa cũ bổng quay về, nàng lẩm bẩm:
- Ngươi ra đi, ta tha cho ngươi.
Hà Hồng Dược chìm đắm trong cơn suy tư mộng tưởng, không thèm để ý tới Thanh Thanh, thốt nhiên đưa tay cào nấm mộ như điên, như dại.
Thanh Thanh kinh hoàng:
- Ngươi làm gì?
Hà Hồng Dược thê lương nói:
- Ta đã nhớ hắn mười hai năm, không thấy người thì thấy xương cốt cũng được mà. Thanh Thanh thấy mặt nàng thất sắc, trong lòng sợ hãi vô cùng.
... Hà Hồng Dược bới móc một hồi, cuối cùng cũng lấy được chiếc đầu lâu, nàng ôm nó trong lòng, vui mừng nói:
- Hạ Lang ơi, Hạ Lang, thiếp đến tìm chàng đây.
Nói đoạn nàng nhẹ nhàng cất tiếng ca, thì ra đó là Bài Di tiểu khúc, Thanh Thanh chẳng hiểu ất giáp gì cả.
Hà Hồng Dược hát hò một lúc sau, đưa đầu lâu lên môi hôn điên dại. Bỗng nhiên nàng hoảng hồn, cảm thấy gò má mình như bị vật gì sắc bén đâm phải... răng trong chiếc đầu lâu rơi ra, một chiếc kim thoa cũng rơi xuống, nàng nhặt lên phủi hết bụi đất, bất đồ sắc mặt thay đổi, gằn giọng nói: - Mẹ ngươi tên Ôn Nghi?
Thanh Thanh gật đầu.
Hà Hồng Dược vừa bi thống, vừa phẫn nộ, nghiến răng nói:
- Hay lắm, hay lắm, ngươi đến chết vẫn nhớ con tiện tỳ ấy, còn ngậm chiếc thoa của nó trong mồm.
Nàng nhìn hai chữ “Ôn Nghi” trên cây thoa với đôi mắt rực lửa, oán hận, đột nhiên, nàng bỏ tọt cây thoa vào mồm nhai ngấu nghiến, lát sau cả mồm đầy máu tươi.
... Nàng nổi lòng ghen tuông, nhặt xương cốt từ trong mộ, gầm gừ:
- Ta sẽ thiêu ngươi thành tro bụi, thành tro bụi rắc dưới chân Hoa sơn để ngươi bay khắp nơi! Vĩnh viễn không thể gần gũi với con tiện tỳ đó nữa.
Hà Hồng Dược cười khanh khách, bỗng nhiên một luồng khí xộc thẳng vào mũi nàng, lúc này nàng chợt tĩnh ngộ, la lớn:
- Hạ Lang ơi, Hạ Lang, chàng thật độc địa.
Thanh Thanh cũng ngửi thấy một mùi hương kỳ lạ, trong phút chốc nàng cảm thấy choáng váng, còn Hà Hồng Dược vỗ vỗ vào đống xương dưới đất, thở dốc nói:
- Hay lắm, hay lắm, ta vẫn muốn chết cùng chàng. Tốt quá! Hay quá.
Hà Hồng Dược cuối cùng tình nguyện được chôn với ”Hạ Lang” của nàng. Nhưng ở đây phải giải thích ba điều. Một là nàng không phải cùng hợp táng với Hạ Tuyết Nghi mà hợp táng với cả Ôn Nghi, lúc sống không được ở bên nhau với tình nhân và tình địch thì lúc chết phải ở bên nhau. Hai là Hà Hồng Dược chôn sống với người chết. Thứ ba, Hà Hồng Dược thực tế là bị Hạ Tuyết Nghi hại chết, bởi vì Hạ Tuyết Nghi sợ người khác động đến xương cốt mình, nên đã chôn theo kịch độc, Hà Hồng Dược bị trúng độc mà chết. Đương nhiên Hà Hồng Dược không trúng độc mà chết mà đã trúng một loại độc khác từ lâu, độc của tình si, cũng đã sắp chết. Có thể nói nàng đã chết rồi. Nhưng cam tâm tình nguyện chết theo kiểu đó. Cho nên trước khi chết nàng đã nói: ”tốt quá thật tốt quá!”, nghe có phần hân hoan vui mừng, nhưng cũng đầy bi
thương. Ở đây cũng có chút hoảng sợ, kinh ngạc và chấp nhận.
Đó là vận mệnh của nàng, số mệnh đã định nàng có một kết cuộc bi thảm.
Xem đến đoạn bi thảm này, tôi nghĩ mọi người ai cũng có thể sinh ra cảm khái.
Hà Hồng Dược quả là một người bất hạnh vô cùng. Nhưng đó cũng bởi do nàng đã chọn lựa, nàng có thể quên chàng đi, thậm chí lúc mới đầu phải nhìn thấy bản tính của Hạ Tuyết Nghi. Bởi vì lúc đó Hạ Tuyết Nghi đang điên cuồng trả thù. Nhưng Hà Hồng Dược đã bị tình ái che mắt, còn Hạ Tuyết Nghi thì bị thù hận làm cho điên đảo thần hồn, hai kẻ mù quáng đó đã ngẫu nhiên gặp nhau rồi cuối cùng kẻ Nam người Bắc. Mỗi người đều có bi kịch riêng của mình.
Tiện thể nói một câu, Hạ Tuyết Nghi tuy phạm một lỗi lầm không thể tha thứ được với Hà Hồng Dược, nhưng trong bi kịch tình cảm này cũng vì Hà Hồng Dược mù quáng và cố chấp. Hạ Tuyết Nghi không phải là kẻ xấu, không yêu Hà Hồng Dược, nhưng chỉ vì ngộ biến tùng quyền, đó đương nhiên là không có đạo đức, nhưng không phải là chàng bạc tình.
Hạ Tuyết Nghi đối với Ôn Nghi, Ôn Thanh (Hạ Thanh Thanh) mới đúng là bạc tình, chàng thật lòng yêu Ôn Nghi, mà Ôn Nghi cũng thật lòng yêu chàng. Nhưng, một mặt cũng vì lão vị trưởng bối của Ôn gia không cho phép, lại còn lừa lấy mất Tàng bảo đồ của Hạ Tuyết Nghi, bởi vì mối thù mười mấy nhân mạng của Ôn gia và Hạ gia, làm sao hai người có thể yêu nhau được (ở đây người ta nhớ đến bi kịch Romeo và Juliet), mặt khác, Hạ Tuyết Nghi ngoài có Ôn Nghi, lại còn yêu vật khác đó là bảo tàng. Chàng vì bảo vệ bảo tàng nên mới xa rời Ôn Nghi không trở về, cho nên trước khi chết Hạ Tuyết Nghi mới thật sự tỉnh ngộ, mới viết một đoạn di ngôn như thế này: “Người được bảo tàng xin đến Triết Giang tìm Ôn Nghi, tôi xin trả mười vạn lượng vàng. Lúc này lấy được bảo tàng. Vì trước đây ham mê bảo tàng mà xa rời người thân, thật ngu ngốc, tôi rất hối hận” (hồi thứ 7). Đó chính là những lời nói cảnh tỉnh cho người đời sau, bởi vì nam nhân thường coi trọng sự nghiệp vì thế mới ”ham mê bảo tàng mà xa rời người thân”.
Sự hối hận của Hạ Tuyết Nghi có thể nói xuất phát từ đáy lòng, “thật ngu ngốc” là một lời tự phê bình đầy chính xác và sâu sắc, đồng thời, đó cũng là lời đánh giá đối với đàn ông: đàn ông toàn là như thế. Chỉ có phụ nữ si tình, mong chờ “chàng” trở về. Đó là những hình thức bi kịch từ xưa tới nay trong lịch sử. Mạnh Khương Nữ, hòn Vọng Phu... đều là sự cụ thể hóa của những bi kịch này. Ôn Nghi thật sự là một người đầy bi kịch, cũng là nạn nhân của Hạ Tuyết Nghi, là nạn nhân của namnhân và tình yêu. Nhưng Hà Hồng Dược không hận Hạ Tuyết Nghi, không hận tình yêu, không tự trách mình mù quáng mà chỉ oán hận Ôn Nghi. Đúng là phụ nữ.
LÝ MẠC SẦU: TÌNH YÊU ĐƠN PHƯƠNG
Điểm đáng yêu của phụ nữ, là một khi đã yêu là yêu đến sâu đậm.
Điểm đáng sợ của phụ nữ cũng chính là ở đây. Tình sinh si, si sinh vọng, vọng sinh oán, oán sinh độc. Những kẻ si tình mà trở nên độc địa, thế gian chẳng có thuốc nào chữa được.
Bi kịch của phụ nữ, là coi tình yêu là tất cả, một khi sụp đổ, cả cuộc đời cũng bị hủy diệt. Tình yêu không nên là tất cả. Càng không nên là mục tiêu duy nhất của một đời người.
Càng xem nặng tình yêu, tính bi kịch càng lớn.
Tuy là như thế, vẫn không biết bao nhiêu đôi trai gái si tình, một khi rơi vào lưới tình thì không thể nào thoát được. Nếu là nam nhân thì chỉ một lúc là hết bởi vì họ có nhiều chuyện để làm. Còn phụ nữ thì ghi tạc trong dạ cho đến lúc chết, không thể nào quên được. Vì si tình mà cuồng vọng. Từ si, vọng, oán, độc mà biến thành kẻ điên cuồng; bắt người khác phải nếm trải những đau khổ đó như mình; hoặc biến thành một kẻ “điên vì tình”, sau đó báo thù nhân gian.
Nhân vật Thạch Phá Thiên trong “Hiệp khách hành” , đó chỉ là cái tên mượn tạm, còn tên thật của chàng là Cẩu Tạp Chủng, là con thứ của Thạch Thanh và Mẫn Nhu tên Thạch Trung Kiên. Bởi vì Mai Phương Cô vì yêu Thạch Thanh mà sinh lòng oán hận Mẫn Nhu, trở thành thù địch, cướp Thạch Trung Kiên đi, mấy ngày sau đưa đến xác một đứa trẻ khác, làm cho vợ chồng Thanh Thanh tưởng con mình đã chết đau buồn vô cùng.
Nhưng Mai Phương Cô không giết Thạch Trung Kiên. Nàng làm sao ra tay cho đành. Ít nhất nó cũng có một nửa là máu mủ của Thạch Thanh, đối với nàng mà nói một nửa của Thạch Thanh là “thơm”, một nửa của Mẫn Nhu là “thối”. Nàng đã nuôi đứa trẻ này và đặt tên là Cẩu Tạp Chủng, buộc nó gọi mình là mẹ (như vậy nàng và Thạch Thanh sẽ trở thành một đôi, ít nhất trong thế giới hoang tưởng của nàng), nàng vừa thương vừa hận cậu bé. Cẩu Tạp Chủng đã hồi tưởng những lúc bên Mai Phương Cô.
... Tên tiểu cái nói:
- Mẹ tôi thường nói rằng: “Cẩu Tạp Chủng, trên đời này ngươi không được cầu xin người khác điều gì. Người ta trong lòng đã muốn cho ngươi, dù ngươi không cầu xin người ta cũng tự nhiên cho người; khi người ta không chịu, dù ngươi có cầu xin thì cũng vô dụng, ngược lại làm cho người ta ghét nữa”. Mẹ tôi có lúc ăn món gì đó ngon lắm, tôi xin người, người không những không cho mà còn đánh tôi một trận, mắng tôi: ”Cẩu Tạp Chủng, ngươi cầu xin ta cái gì? Sao ngươi không cầu xin con tiểu tiện nhân đó đi? “. Cho nên tôi quyết không cầu xin người ta điều gì.
Tạ Uyên Khách hỏi:
- Con tiểu tiện nhân ấy là ai?
Tên tiểu cái nói:
- Tôi không biết...
Chúng ta đều biết “con tiểu tiện nhân” chính là Mẫn Nhu, vợ của Thạch Thanh.
Mai Phương Cô nói chuyện như thế, luận về “cầu nhân”, rất chính xác, nhưng tình cảm của nàng lại không thể hiểu được, rất mù mờ. Bao nhiêu năm trước, Thạch Thanh đã nói rằng không thể yêu nàng, chỉ có thể yêu Mẫn Nhu mà thôi. Nàng cũng biết điều này nhưng không thừa nhận.
Cho nên, từ khi Thạch Thanh kết hôn, nàng đã hủy hoại dung mạo của mình, làm cho bộ mặt trở nên xấu xí. Từ đó nàng đã điên, đã biến thái.
Người phụ nữ vui vì sắc đẹp của mình, cớ gì phải hủy hoại dung mạo xinh đẹp của mình. Xem ra không còn gì để nói nữa, nhưng một người con gái xinh đẹp, trong sáng cao ngạo như nàng làm sao có thể chịu được sự đả kích khi bị người khác từ chối? Đó không những là thất bại trong tình yêu mà là sự thất
bại triệt để về lòng tự tôn, nhân cách,... dung mạo của nàng cũng giống như bảng hiệu của tình yêu, một người khi bị người ta từ chối, thì chỉ có gỡ bảng hiệu đi thôi, không “kinh doanh nữa”. Tuy có vẻ cực đoan nhưng điều đó thể hiện rõ bản chất và bản năng của phụ nữ. Hãy xem Lý Mạc Sầu trong “Thần điêu hiệp lữ ”.
Nàng có tên là “Mạc Sầu”, nhưng bởi phụ nữ, lại gặp thất bại trong tình yêu cho nên sầu một đời, hận một đời cho đến khi chết.
Quan hệ giữa Lý Mạc Sầu với Lục Triển Nguyên, đại khái cũng giống như Mai Phương Cô và Thạch Thanh. Nhưng vẫn có một điểm không rõ ràng, đó là Lý Mạc Sầu từng tặng cho Lục Triển Nguyên một mảnh khăn, trên đó có thêu bông hoa mạn đà la của nước Đại Lý, thể hiện tình yêu của nàng đối với Lục lang. Mảnh khăn này rõ ràng là vật định tình, Lý Mạc Sầu tặng cho Lục Triển Nguyên, ý tứ đã quá rõ ràng, Lục Triển Nguyên cũng nhận, lại cất trong bao nhiêu năm. Lẽ nào Lục Triển Nguyên không hiểu điều đó? Không thể. Lẽ nào đó là sơ hở của tác giả? Cũng không thể. Một khả năng lớn nhất đó là thuở ban đầu Lục Triển Nguyên cũng yêu Lý Mạc Sầu nhưng sau đó thay lòng đổi dạ cưới Hà Nguyên Quân làm vợ.
Nếu như thế, Lục Triển Nguyên quả thật có vấn đề. Chàng phải có trách nhiệm với nỗi thống khổ một đời của Lý Mạc Sầu.
Nhưng, điều lạ là Lý Mạc Sầu cũng giống nhu Hà Hồng Dược, Vương Phu Nhân, Tân Hồng Miên, Cam Bảo Bảo, Nguyễn Tinh Trúc..., đều không hận nam nhân, không thật sự hận bạc tình lang mà là hận những người đàn bà đã cướp tình lang của mình, gọi những người này là “tiểu tiện nhân”, “hồ ly tinh”. Hãy xem Lý Mạc Sầu đến trả thù nhà Lục Triển Nguyên.
Lý Mạc Sầu nhỏ nhẹ nói:
- Lục nhị gia, nếu anh của người còn sống, chỉ cần hắn mở miệng ta rồi từ bỏ con “tiểu tiện nhân ” Hà Nguyên Quân, ta sẽ tha cho cả nhà ngươi...
... Lý Mạc Sầu thấy Lục Lập Đỉnh võ công tầm thường, nhưng xử đao nhanh nhẹn, liền xoay người đưa chưởng lên đỡ, bỗng nhớ lại hình ảnh Lục Triển Nguyên năm xưa, trong lòng chua chát, nếu như giết hắn, trên đời này chẳng còn “Giang Nam Lục Gia đao pháp ” nữa...
Cho đến lúc chết, nàng vẫn còn hận Hà Nguyên Quân và yêu Lục Triển Nguyên:
... Nàng ôm ngực đau đớn, thấy Dương Quá và Tiểu Long Nữ, một thiếu niên anh tuấn, khoáng đạt, một cô nương xinh đẹp dịu dàng sánh vai bước tới. Mắt đã hoa, nàng mờ mờ nhận ra đó là người nàng đã hằng yêu thương Lục Triển Nguyên và người kia là Hà Nguyên Quân. Nàng thét lên: - Triển Nguyên, kẻ bạc tình kia, giờ này ngươi còn dám gặp ta hay sao?
... Lý Mạc Sầu một đời kiêu ngạo chưa bao giờ để cho người ta thấy mình yếu đuối. Nhưng lúc này thân thể quá đau đớn, chịu không nổi nói:
- Ta đau quá, mau cứu ta.
Chu Tử Liễu chỉ thi thể của Thiên Trúc thần tăng nói:
- Sư thúc ta vốn định cứu ngươi mà ngươi lại giết ngài.
Lý Mạc Sầu nghiến răng nói:
- Đúng vậy, chính ta giết lão, người tốt kẻ xấu tên đời ta phải giết hết. Ta sắp chết rồi! Còn các ngươi sao lại sống cho được? Ta muốn các ngươi phải cùng chết với ta.
Cho đến lúc này, nàng quả đáng giận mà cũng đáng thương, một đời kiêu ngạo, trong lòng cứ mãi ghen tuông, yêu người mà không được người yêu, điều này làm cho người ta thông cảm. Nhưng nàng hận Hà Nguyên Quân, “kẻ xấu người tốt đều phải giết” làm cho người ta thật khó hiểu, khó thông cảm và cũng thấy nàng thật ác độc và đáng ghét.
Có thể điều này khác nhau giữa nam và nữ. Khi thất tình, vì mang danh là kẻ mạnh, cho nên đàn ông không dám nói nỗi đau khổ này với người khác, chỉ âm thầm chịu đựng cho nên lý trí của đàn ông không cho phép họ phát tiết lộn xộn. Nhưng phụ nữ thì khác hẳn, họ có thể kêu khóc lúc nào cũng được, phát tiết nỗi bi thống trong lòng, thậm chí cũng như Lý Mạc Sầu, giận cá chém thớt. Thù hận Hà Nguyên Quân là không thể hiểu được. Vì hận Hà Nguyên Quân mà Lý Mạc Sầu hận luôn chữ Hà và chữ Nguyên.
Võ Tam Thông cũng vì thất tình mà ra đi, tuy có khác với Lý Mạc Sầu, nhưng cũng có thể gọi là đồng bệnh tương lân. Hôm đó, bước ra khỏi tiệc rượu ở nhà Lục Triển Nguyên, tận mắt nhìn thấy nàng tự tay giết chết hai mươi mấy người nam phụ lão ấu nhà Hà lão quyền sư, lúc đó trong lòng cũng thấy tiếc thương. Hà lão quyền sư không hề có liên quan gì đến Hà Nguyên Quân, chỉ bởi vì ông là họ Hà, lúc đau khổ nàng đã giết sạch cả nhà họ Hà. Nhà họ Hà chết đi mà không hiểu là tại vì sao...
... Võ Tam Thông xoay ngang cây cổ thụ rào kín lối vào cửa động và dằn từng tiếng: - Này Lý cô nương, thế thì cô nương quả là trắc dạ lang tâm. Hà Nguyên...
Nghe nói đến Hà Nguyên Quân, Lý Mạc Sầu biến sắc lần nữa rít lên:
- Ta đã phát lời trọng thệ, ai nhắc đến tên con tiện nhân đó trước mặt ta, thì hoặc kẻ đó phải chết hoặc là ta phải chết. Ta đã từng giết sáu mươi ba mạng người trên một con thuyền ở Nguyên Giang, chỉ vì chúng dám treo cái chữ thối tha ấy. Chuyện này ông đã từng nghe chưa? Võ Tam Thông, là do ông không may thôi, đừng oán trách ta.
Nói rồi quơ phất trần đánh vào đầu Võ Tam Thông.
Tình cảnh ấy thật làm cho người ta hoảng sợ. Hận Hà Nguyên Quân đến thế, giết cả những người không liên quan, giết sáu mươi ba mạng người tên con thuyền, chỉ vì chữ Hà và chữ Nguyên. Đương nhiên đó là tiểu thuyết và lại là tiểu thuyết võ hiệp, thì phải có phần khoa trương phóng đại. Nàng dù có giết trên trăm người thì cũng chẳng hề chi.
Tuy nhiên nỗi hận đó là có thật, thậm chí không chút phóng đại. Nếu như có thể, nếu như giết người mà không phạm pháp, không biết bao nhiêu cô gái đã giết tình địch của mình, thậm chí giết cả những người có chút liên quan đến tình địch của mình.
Chúng ta không cần tìm hiểu hành vi của nàng, mà nên tìm hiểu phương thức hành vi và phương thức tình cảm của nàng. Vì sao nàng ra nông nổi như thế? Vì sao nàng không hận kẻ đáng phải hận (kẻ đã ruồng rẫy nàng, kẻ bạc tình và kẻ không yêu nàng), mà lại hận người không đáng hận (tình địch của nàng, người đàn bà đã được hay “đoạt” tình lang của nàng)? Chẳng lẽ giải thích là bởi phụ nữ không có lý trí hay sao?
Phụ nữ sinh ra vì tình yêu là không sai; phụ nữ vì tình mà không còn lý trí cũng đúng, nhưng như thế
vẫn chưa đủ.
Vẫn còn nguyên nhân sâu xa hơn.
Có thể vì một phẩm chất. Chúng ta không khó phát hiện, Kim Dung rất nhiều lần viết về “thất tình”. Rất nhiều người đã từng là nạn nhân. Nam thì không nói. Còn thái độ của nữ giới đối với tình yêu về cơ bản chia thành hai loại: một loại chấp nhận số mệnh, bị động, thiếu tự tin, mềm yếu; một loại không chấp nhận số mệnh mà phản kháng, đó là thái độ tự tin, chủ động, tích cực, thái độ của người khiêu chiến.
Đối với những người chấp nhận cũng rất bình thường, chúng ta không cần phải nói đến. Còn những kẻ thất trong mà không chấp nhận, khiêu chiến cũng có hai loại, một là “muốn làm như thế mà không làm”, tức là trong lòng muốn giết chết tình địch của mình đoạt lại tình yêu nhưng bởi vì nguyên nhân nào đó mà đã không ra tay. Ví dụ Lý Văn Tú trong “Bạch mã khiếu tây phong” , sau khi học võ công, định đoạt người mình yêu là Tô Phổ từ trong tay của A Mạn, nhưng cuối cùng đã không làm như thế, ngược lại còn cứu tình địch và tình nhân của mình. Lại như cô gái A Thanh trong “Việt nữ kiếm” có võ công kinh người, yêu Phạm Lãi, nhưng Phạm Lãi lại say mê Tây Thi, A Thanh đã từng định đến hoàng cung nước Ngô tìm cách giết Tây Thi. Nhưng cuối cùng đã không làm như thế.
Một loại khác là không muốn làm như thế nhưng cuối cùng cũng ra tay. Lần này không được thì chờ lần khác. Thậm chí giận cá chém thớt... như Lý Mạc Sầu chẳng hạn.
Lý Mạc Sầu, Mai Phương Cô đều là những người phụ nữ mạnh mẽ, điều kiện của bản thân cũng cao (như dung mạo xinh đẹp, có tài năng, võ công cao cường...), bản thân cũng biết điều đó cho nên cũng rất tự phụ. Điều đó chính là nhược điểm lớn nhất của họ, cũng chính là căn nguyên của bi kịch.
Chỉ có những gã đàn ông hồ đồ mới tự cho mình là kẻ mạnh, còn những người phụ nữ thông minh là kẻ yếu. Đàn ông ra vẻ mạnh mẽ, thực ra trong lòng yếu đuối. Phụ nữ giả vờ yếu đuối, lấy nhu khắc cương, sức nhẫn nại rất lớn. Đương nhiên cũng có những gã đàn ông thông minh mà giả vờ hồ đồ, biết được nhược điểm của mình cho nên đã tìm cách giấu nó đi.
Cũng có những người phụ nữ thông minh (không thật sự thông minh) tự phụ vô cùng, từ địa vị chiến lược có lợi đã chuyển sang địa vị chiến lược bất lợi, thường làm cho bản thân lâm vào cảnh không thể quay đầu lại. Sẽ có hai kết quả, một là thoát khỏi cái chết, nhưng cơ hột thật hiếm hoi, một kết quả khác là không thể thoát được cái chết.
Mai Phương Cô tự tin mình hơn hẳn Mẫn Nhu mọi mặt mà không biết rằng đó chính là bi kịch của nàng: nàng không những hơn Mẫn Nhu mà còn hơn cả Thạch Thanh, điều đó đã làm cho Thạch Thanh ngần ngại, chỉ dám đứng từ xa mà nhìn lên.
Trần Gia Lạc trong “Thư kiếm ân cừu lục” cũng đối với Hoắc Thanh Đồng như thế. Từ chỗ Mai Phương Cô mạnh mẽ, ngược lại đó cũng chính là nguyên nhân thất tình của nàng. Đó chính là tầng thứ nhất của bi kịch. Còn tầng thứ hai của bi kịch là nàng biết mình tài giỏi mà sinh ra tự phụ, vì thế nàng đã bất cẩn, có những hành động bạo dạn, không để một con đường nào cho mình thoái lui, có đi mà không có về, cho nên đã làm cho Thạch Thanh né tránh. Ở đây nàng đã chịu hai cú sốc: cú sốc của thất tình và cú sốc của lòng tự tôn.
Những phụ nữ bị hai cú sốc như thế mà không phát cuồng thì thật là hiếm có. Bởi vì nàng vốn mạnh
mẽ, thế mà bị tình phụ, như thế chẳng phải nàng không có chút giá trị nào hay sao? Như phía trước đã nói, nàng không để lại con đường nào cho mình thoái lui cho nên một khi chiến bại chỉ có phát điên lên mà thôi. Lý Mạc Sầu cũng như thế. Nàng cả đời kiêu ngạo, nhưng bởi vì thế mà chịu hai cú sốc: “Lý cô nương” là một cách gọi mà mấy mươi năm về trước không một chàng trai hảo hớn nào mà không tìm dịp để gọi nàng như thế. Nhưng từ khi có mối hận tình đã khiến Lý Mạc Sầu trở thành một đạo cô độc ác thì cách gọi Lý cô nương cũng chôn vùi cùng thời gian. Vả lại, ngày nay cũng chẳng ai dám gọi Lý Mạc Sầu với tiếng gọi êm đềm như thế.
Mặc dù Lý Mạc Sầu con tim đã bị lạnh giá, giá lạnh đến chua chát, bẽ bàng trong dĩ vãng, nhưng không thể không chạnh lòng khi nghe có người còn nhắc đến Lý cô nương.
Thật vậy! Đã có biết bao nhiêu chàng trai phong lưu đua tranh nhau gọi “Lý cô nương”. “Lý cô nương”, “Lý cô nương”một âm thanh dung hòa trong cuộc sống đào hoa, hay tiếng kêu hối hận của một kẻ vong tình đang bị lương tâm cắn xé?
Thất tình cố nhiên là đau khổ, không còn mặt mũi nào nữa, khổ nhưng không thể nói được. Nàng không để lại con đường cho mình thoái lui, nam nhân chạy trốn, người đàn bà khác thừa cơ xông vào, làmcho nàng không chiến mà bại, thua không còn manh giáp, một đời cô độc thê lương.
Cho nên nàng cả đời phải báo mối thù sâu này. Tình yêu không nhất thiết phải là tất cả trong cuộc đời, “quyết chiến” đã trở thành “sự nghiệp” của nàng. Nàng tìm người để quyết chiến, nhưng tìm không được, làm cho lòng oán hận hơn, giận cá chém thớt.
Nam giới là yếu đuối nhưng ít bị thương.
Nữ giới là mạnh mẽ nhưng tự phụ, không để lại con đường cho mình lui bước, ngược lại bị thất bại. Trong thế giới của tình yêu không có kẻ mạnh thật sự.
Bởi vì khi yêu người ta không thể đề phòng được. Bất luận là nam hay nữ cũng đều như thế. Cho nên một khi bị đả kích sẽ bị nội thương nghiêm trọng.
Nam nhân có chỗ để trốn chạy, đó là nội tâm của họ, sự nghiệp của họ, bạn bè của họ; còn nữ giới vì đã không để lại con đường thoái lui cho mình cho nên không có chỗ để trốn chạy, lòng họ tan nát. Cho nên, khi bị thương là chí mạng. Nhưng họ cho kẻ địch cũng họ không phải là nam nhân mà chính là những người đàn bà đã đoạt nam nhân của họ, mặt khác nữ nhân là tình địch của họ.
- o O o -
HỒI 4
BÍ MẬT CỦA TÌNH YÊU
Tiểu Long Nữ và Dương Quá trong “Thần điêu hiệp lữ” là hai nhân vật nổi bật và được người ta yêu thích nhất. Họ được coi là một đôi tình nhân do trời đất tạo ra, chuyện tình yêu của họ cũng đầy trắc trơ, éo le sinh động, gây nên sự xúc động và say mê cho người đọc.
Câu chuyện đầy mùi vị của bi kịch. Từ ngày yêu nhau, không biết ly hợp bao nhiêu lần, họa này chưa đi, kiếp khác đã đến, đầy éo le bi quan, thấm đượm chua xót thê lương. Nhưng họ vẫn kiên trinh, vẫn cố gắng hướng về nhau, mặc dù bị những trở lực cản lối, sông kia có cạn đá kia có mòn họ vẫn bên nhau, khiến cho bao người say mê.
Nhưng điều tôi muốn nói ở đây là, chúng ta cũng giống như Tiểu Long Nữ và Dương Quá, trong một thời gian dài đằng đẵng và gian khổ như thế, không rơi vào mộng ảo. Tự giác và không tự giác chịu những sự lừa lọc ở những mức độ khác nhau. Sự lừa lọc này không phải bởi vì tác giả cố ý sắp đặt mà vì ảo tưởng tình yêu, xuất phát từ trong lòng người trong cuộc.
Dương Quá và Tiểu Long Nữ phải chăng là hai người đẹp đôi nhất, không chắc chắn lắm. Đó không phải vì Dương Quá nhỏ tuổi hơn Tiểu Long Nữ, cũng không phải vì Dương Quá mất một cánh tay và Tiểu Long Nữ thất tiết, đó tất cả đều là cách giải quyết toàn vẹn của tác giả mà thôi. Nguy cơ mối tình của Tiểu Long Nữ và Dương Quá là sự đối lập đến mức cực đoan cũng cá tính hai người, lý tường và suy nghĩ về tình yêu của họ mâu thuẫn nhau. Thực chất họ là hai loại người khác nhau, thuộc hai thế giới hoàn toàn khác nhau. Họ đến với nhau là hoàn toàn ngẫu nhiên và là sự trêu ngươi của vận mệnh, họ yêu nhau là bởi nhầm lẫn, là bởi sự lừa bịp của chính mình.
“Dị tính tương hấp” (nam và nữ thu hút lẫn nhau) có lẽ là một nguyên nhân quan trọng của sự hiểu lầmnày. “Dị tính” không phải chỉ nói về sự khác biệt về giới giữa nam và nữ mà còn nói về sự khác biệt trong tính cách giữa nam và nữ. Chúng ta thường thấy một người hoạt bát rộng mở lại yêu một người trầm lặng, một người thông minh lanh lợi yêu một người chậm chạp, một người hướng ngoại yêu một người hướng nội,... họ đều có những kết cuộc tương đối viên mãn, thậm chí có thể quy nạp trở thành quy luật, tức là “dị tính tương hấp”. Chúng ta không phủ định điểm này, cũng thừa nhận rằng sự bổ sung giữa hai tính cách là sự hòa hợp rất có lợi trong tình yêu và hôn nhân. Nhưng chúng ta không nên quên rằng, tâm lý của con người rất hay ngưỡng mộ những gì mà mình không có được, những gì mà mình không hiểu rõ được, cho nên với tính cách khác nhau họ thường ngưỡng mộ lẫn nhau theo như quy luật vừa đề cập tới. Tiểu Long Nữ và Dương Quá đại khái cũng như vậy.
Trong Mộ Cổ, hai người quan tâm lẫn nhau, đó là tình sư đồ, nếu không quan tâm đối phương, vậy thì quan tâm ai đây? Có nghĩa là, lần đầu tiên Tiểu Long Nữ rời xa Dương Quá, bởi vì Dương Quá chẳng hiểu tình yêu tí nào:
Tiểu Long Nữ nghiêm mặt nói:
- Sao ngươi còn gọi là cô cô? Chẳng lẽ ngươi không thật lòng với ta hay sao?
Nàng thấy Dương Quá không trả lời, trong lòng lo lắng, giọng run run:
- Ngươi rốt cuộc xem ta là người như thế nào?
Dương Quá thành thật nói:
- Cô là sư phụ của Quá nhi, cô đã thương yêu dạy dỗ cho Quá nhi, Quá nhi đã thề suốt đời này sẽ nghe lời của cô Long.
Tiểu Long Nữ lớn tiếng nói:
- Chẳng lẽ ngươi không xem ta là vợ của ngươi hay sao?
Dương Quá chưa bao giờ nghĩ đến chuyện này, đột nhiên bị nàng hỏi, lòng hoảng sợ không biết trả lời như thế nào mới phải, lúng búng đáp:
- Không, cô không thể là vợ của Quá nhi được, làm sao mà được? Cô Long là sư phụ của Quá nhi, là cô cô của Quá nhi.
Tiểu Long Nữ giận quá phát run, đột nhiên ọi ra một ngụm máu tươi.
Ở đây có một hiểu lầm nho nhỏ, Âu Dương Phong tìm thấy Dương Quá điểm huyệt Tiểu Long Nữ (lúc này nàng và Dương Quá đã thoát y luyện “Ngọc nữ tâm kinh”), đã bị tên đạo sĩ Doãn Chí Bình ở Toàn Chân phái, người từ lâu thầm mong trộm nhớ Tiểu Long Nữ, thừa gió bẻ măng.
Tiểu Long Nữ cứ tưởng là Dương Quá, cũng thản nhiên để yên, đến khi Dương Quá tìm ra Tiểu Long Nữ thì Doãn Chí Bình đã cao chạy xa bay. Dương Quá thật sự không biết điều này, còn Tiểu Long Nữ lại cứ tưởng Dương Quá đang giả vờ khờ khạo để trốn tránh trách nhiệm. Vì thế thấy Dương Quá không chịu gọi nàng là thê tử (nàng tưởng rằng Dương Quá đã chiếm hữu mình) mà nổi giận, định giết Dương Quá, nhưng cuối cùng không nỡ ra tay đành bỏ ra đi.
Nhưng Dương Quá thật sự không biết gì cả. Không biết đã gây nên lỗi lầm gì, không hiểu “tại sao nàng rất kỳ lạ, có lúc dịu dàng, có lúc giận dữ? Tại sao lại muốn làm thê tử của mình, không chịu chàng gọi là cô cô”. Nghĩ hoài không ra, cứ tưởng “chuyện này nhất định có liên quan đến nghĩa phụ của ta, chắc chắn là người đã đắc tội với sư phụ rồi”.
Dương Quá đối với Tiểu Long Nữ,chỉ có lòng kính trọng, không hề có chút tình cảm nam nữ; tuy gần gũi nhau nhưng không hề có rung động của tình yêu.
Lúc đó chàng hãy là một đứa trẻ. Không hiểu tình yêu, không hiểu rằng tình cảm nam nữ khác với tình cảm sư đồ.
Cho đến khi Tiểu Long Nữ rời xa chàng, trong quá trình tìm Tiểu Long Nữ, chàng mới lần đầu hiểu ra tình yêu nam nữ là gì. Bởi vì trong quá trình tìm “thiếu nữ áo trắng” (Tiểu Long Nữ thường mặc yêu phục trắng), chàng đã quen biết Lục Vô Song, Hoàn Nhan Bình. Chàng tưởng ra mình đã yêu Tiểu Long Nữ mà không biết rằng Tiểu Long Nữ cũng có những ảo tưởng như thế. Ảo tưởng ấy xuất phát từ trong lòng họ.
Từ đó về sau, bao nhiêu lần ly hợp giữa chàng và Tiểu Long Nữ, kiếp nạn trùng trùng. Ngoài lần đầu tiên xa nhau, còn có ba lần rất quan trọng và dài đằng đẵng, một lần khi mới gặp lại nhau, vì lễ giáo mà phải phân ly; một lần khác, Tiểu Long Nữ biết rõ mình thất thân với Doãn Chí Bình, đồng thời tưởng rằng Dương Quá sẽ cưới Quách Phù mà âm thầm ra đi; lần cuối cùng Tiểu Long Nữ vì nhường thuốc giải độc
cho Dương Quá mà đã nhảy xuống Tuyệt Tình Cốc, từ đó hai người ly biệt nhau mười sáu năm ròng. Điều đáng chú ý là, mỗi cuộc ly biệt đều có những nguyên nhân khác nhau gây nên. Tuy mỗi lần nàng ra đi đều là vì tình yêu, nhưng có lẽ đó chính là sự chạy trốn của mình?
Bất luận sự chạy trốn theo lý trí hay là theo bản năng, kết quả cũng đều như nhau: xa nhau và nhớ nhau. Điều này đã trở thành động lực cho Dương Quá. Xa nhau đã làm cho họ hướng về nhau. Sau mỗi lần xa nhau, nỗi nhớ lại đong đầy thêm. Mỗi lần xa nhau Dương Quá đều đi tìm, ví dụ như lần xa nhau thứ nhất, chàng đi tìm Tiểu Long Nữ, mới biết rõ mình đã gây nên lỗi lầm gì; lần thứ hai biết Tiểu Long Nữ vì lễ giáo mà ra đi, đã đem lại động lực cho Dương Quá phản kháng vận mệnh; lần thứ ba biết Tiểu Long Nữ vì hiểu nhầm mà ra đi, làm cho chàng thêm phần áy náy; lần thứ tư là bởi một lời thề...
Chúng ta phải thấy rằng, trong cuộc tình này, Dương Quá trước sau vẫn là người theo đuổi mãnh liệt. Đối với Dương Quá mà nói, sự truy tìm đầy gian khổ là hợp với cá tính của chàng. Đối với chàng, đối với chúng ta cũng vậy, quá trình đi tìm bản thân quan trọng hơn quá trình đi tìm đối tượng. Đi tìm và chờ đợi tuy đều thống khổ những cũng là một phương thức sinh tồn đầy đẹp đẽ và mãnh liệt. Trong quá trình này, sự chờ đợi và ảo tưởng thật là đẹp, những kẻ yêu nhau trong ảo tưởng, trong chờ đợi đẹp hơn nhiều so với người chân thật. Tất cả đều là tính cách của Dương Quá quyết định. Sự trở ngại của vận mệnh và khách quan, đã khơi dậy trong chàng những tâm lý phản kháng mãnh liệt. Vì phản kháng, chàng đã không màng tất cả. Quan hệ giữa chàng và Tiểu Long Nữ khi bị người khác dị nghị, chàng cũng như thế. Chàng đã phản ứng như thế này:
... Hoàng Dung nói:
- Được, nếu con bắt ta nói thẳng thì ta cũng không quanh co nữa. Long cô nương là sư phụ của con, là bậc tôn trưởng của con, cho nên không thể có chuyện tình yêu trai gái. Điều đó Dương Quá biết rõ hơn Tiểu Long Nữ, nhưng chàng không phục, tại sao chỉ vì cô cô đã dạy chàng võ công thì không thể làm thê tử của chàng được? Tại sao tình cảm giữa chàng và cô cô là trong sáng mà Quách bá mẫu cũng không chịu tin?
Nghĩ đến đây, cơn giận bốc lên. Chàng vốn là một người chẳng sợ trời đất, là người rất cương liệt, lúc này chịu oan uổng nên không còn nghĩ tới điều gì nữa, lớn tiếng nói:
- Ta đã làm sai điều gì? Ta đã cản trở gì các người? Ta đã hại ai chưa? Cô cô dạy ta võ công, nhưng ta vẫn cứ muốn cô cô làm thê tử của ta. Các người dù chém ta ngàn đao, vạn đao, ta vẫn phải cưới cô cô làm thê tử.
Đoạn này biểu hiện rất rõ tính cách của chàng nhưng không biểu hiện rõ ràng tình yêu của chàng đối với Tiểu Long Nữ. Trong lúc xúc động như thế này, dù tác giả có để cho Dương Quá vì phản kháng vận mệnh mà cưới bất cứ ai làm vợ chàng cũng không hề ngần ngại. Đó chính là tính cách của chàng. Vì thế, nếu không có những xung đột như thế khơi dậy tính phản nghịch mãnh liệt của chàng, vậy thì sẽ như thế nào? Nếu không có những cuộc phân ly, vậy thì sẽ như thế nào? Những câu hỏi này có ý nghĩa rất sâu xa, đã đề cập đến bản chất của sự việc.
Sự chờ đợi và tình yêu mãnh liệt đã mỹ hóa đối tượng của tình yêu. Tình yêu mãnh liệt đã khỏa lấp đối tượng của tình yêu và sự vô tri của bản thân tình yêu. Đó mới là bi kịch thật sự của Dương Quá và Tiểu
Long Nữ.
Mười sáu năm sau, hai người ấy gặp lại nhau. Sau mấy mươi năm chia cách trắc trở, hai kẻ yêu nhau này đã có thể sống những ngày bình an bên nhau.
Nhưng cho đến lúc này, họ mới phát hiện ra được tính cách của họ không thể điều hòa với nhau được. Điều đáng tiếc là câu chuyện đến đây chấm dứt. Đó là chỗ thông minh của tác giả đã để lại cho chúng ta một ấn tượng đẹp đẽ. Bởi vì tiểu thuyết không phải là sách dạy cách sống, nó chỉ đem đến cho chúng ta những tình cảm vui buồn mà thôi, còn với những chuyện trong cuộc đời thật sự không phải là chuyện của tác giả.
Chúng tôi đã từng nói Dương Quá và Tiểu Long Nữ không có hạnh phúc được. Bởi vì mấy nguyên nhân dưới đây:
Thứ nhất, Dương Quá là một người đa tình, mà Tiểu Long Nữ là một người “vô tình vô dục”. Đó là bởi nàng đã sống trong Cổ Mộ, và cũng là nền tảng cho võ công của nàng.
Phép tu luyện dưỡng sinh ”Ngọc nữ công” của phái Cổ Mộ có yếu quyết “nhị thập hiếu, nhị thập đa”, đó là “thiếu tư, thiếu niệm, thiếu dục, thiếu sự, thiếu ngữ, thiếu tiếu, thiếu sầu, thiếu lạc, thiếu hỷ, thiếu nộ, thiếu háo, thiếu ác. Thực hành hai mươi thiếu đó chính là bí quyết của phép dưỡng sinh vậy. Đa tư thì tổn thần, đa niệm tổn tinh, đa dục tổn khí, đa tiếu tổn cang, đa sầu tổn tâm, đa lạc tổn ý, đa hỷ tắc loạn, đa nộ tổn trường, đa háo tắc mê, đa ác bất an. Nếu phạm vào hai mươi đa ấy, là cái gốc của sự tổn thọ vậy”.
Rõ ràng, Tiểu Long Nữ đã luyện theo yếu quyết đó rất tốt, nếu không làm sao nàng có thể sống trong Cổ Mộ, nếu không nàng sao có thể sống mười sáu năm trường ở dưới đáy Tuyệt Tình Cốc. Thứ hai, Dương Quá là một người nhiệt tình, một người hoạt bát, nhưng Tiểu Long Nữ là một người thích yên tịnh u nhã. Cách sống của họ hoàn toàn tương phản nhau.
Dương Quá đã từng nói: “Không sai, thà ngọt ngào mà đau khổ còn hơn chẳng có gì. Ta có thể phát điên, chứ không thể sống những ngày bình lặng”. Tiểu Long Nữ thì ngược lại hoàn toàn. Vậy hai người sao có thể hòa hợp với nhau. Thứ ba, Dương Quá là con người của phong trần, của cuộc đời đầy sóng gió. Còn Tiểu Long Nữ là con người của Cổ Mộ.
Nàng vức giống như một hồn ma vừa giống như một tiên nữ. Tóm lại, nàng thuộc về hư không, nàng không thể chịu được gió bụi cuộc đời. Từ bản tính mà nói, Tiểu Long Nữ là người thuộc về thế giới khác, nàng đã quên hết tình yêu và dục vọng, còn Dương Quá là một anh hùng phong lưu, hoạt bát trong cõi nhân gian. Tiểu Long Nữ yêu Dương Quá, đó là vì Dương Quá không ngừng theo đuổi tình yêu; Dương Quá yêu Long Nữ là bởi vì giữa họ có một khoảng cách khá xa nên chàng có nhu cầu được gần gũi tím hiểu nàng. Giống như sự háo hức, sự tò mò của trẻ con đối với một sự vật lạ lẫm của chúng. Đó là tâm lý thường tình của con người. Chính những trở ngại chủ quan và khách quan đã làm gia tăng tốc độ tình yêu của họ.
Đương nhiên chúng ta chỉ có thể đưa ra ý kiến riêng của mình, chỉ có thể phân tích và tổng hợp theo lối suy nghĩ của mình. Chúng ta không thể phán đoán: Họ có sống bên nhau không? Họ có thật sự hạnh phúc không? Họ có sống một cuộc đời bình lặng không? Điều này trong sách không nói tới; và chúng ta không phải là Dương Quá, Tiểu Long Nữ mà có thể trả lời chính xác được. Chúng ta không thể phán đoán từ bên ngoài được bởi vì tình yêu và cảm giác ở bên trong. Cho nên đây là bí mật của tình yêu.
Chúng ta chỉ có thể nói rằng, mối tình này được tạo nên cũng bởi sự xa cách nhau giữa họ. Chúng ta có thể nói, nghị lực của hai người này thật đáng nể.
Dù thế nào đi nữa, chúng ta cũng phải cảm ơn Kim Dung, ông đã vì chúng ta mà viết nên chuyện tình đầy éo le cách trở, đã thể hiện chân lý “những vật gì không đạt được thì càng muốn có được”, đã thể hiện sâu sắc bí mật trong tình cảm của con người.
- o O o -
HỒI 5
CÂU ĐỐ CỦA TÌNH YÊU
Có một câu như thế này “lúc mới yêu chúng ta chẳng hiểu gì về tình”, câu này thật chí lý. Tôi nghĩ rằng, mỗi người chúng ta cũng trải qua chuyện này, tình yêu của tuổi trẻ thật cuồng nhiệt. Nhưng không lâu sau, chỉ biến cố nho nhỏ thậm chí chẳng có biến cố nào cả, tình yêu cũng tự nhiên lụi tàn. Thật kỳ lạ!
Tình cảm này không nên gọi là tình yêu. Nhưng cái gì đúng cái gì không đúng? Ai có thể nói rõ ràng được? Thật khó mà giải thích.
Trong “Ỷ Thiên Đồ Long ký” cũng có câu chuyện như vậy, đó là hồi thứ mười lăm, chàng thiếu niên Trương Vô Kỵ lần đầu tiên gặp Chu Cửu Chân, “bỗng nhiên trống ngực đập thình thịch, nhưng thấy thiếu nữ ấy dung mạo xinh đẹp, trắng trẻo mịn màng, trong chốc lát, tai chàng ù đi, chỉ thấy sau lưng lạnh ngắt, chân tay run rẩy, đầu cúi gầm, không dám nhìn nàng, mặt đỏ ửng”. “Trương Vô Kỵ đã say mê cô gái này rồi! “, “Trương Vô Kỵ từ lúc cha sinh mẹ đẻ tới giờ mới thấy một vị cô nương xinh đẹp như thế, lúc đó Chu Cửu Chân bảo chàng nhảy vào biển lửa chàng cũng cam lòng”. Từ đó “từng điệu cười giọng nói của nàng đều in sâu trong lòng Trương Vô Kỵ”.
Là say mê hay đã trót yêu? Thực ra không đơn giản như chúng ta tưởng tượng, dễ dàng phân tích rõ ràng. Trong câu chuyện này, nếu như Trương Vô Kỵ không phát hiện ra cha con Chu Cửu Chân chỉ có mưu đồ, từ đó vì phẫn nộ và thất vọng mà tỉnh ra.
Không còn say mê nữa, không biết câu chuyện này nên kết thúc như thế nào, nếu cha con Chu Cửu Chân là người tốt, nếu như Chu Cửu Chân không hề lừa chàng, chàng có tuyệt tình mà ra đi như thế không? Sự thật, đối tượng của Trương Vô Kỵ lại là một kẻ xấu, đó mới là một hiện tượng ngẫu nhiên. Rất nhiều người lúc mới yêu đương, đều yêu những người hết sức bình thường, ít nhất không phải là kẻ xấu. Chúng ta hãy xem câu chuyện của Quách Phù trong “Thần điêu hiệp lữ”.
Thật ra mà nói tôi không hề thích vị Quách tiểu thư này lắm, nhưng phải công nhận rằng tác giả viết rất hay. Bởi vì tác giả cảm thấy mối tình của Quách Tĩnh và Hoàng Dung quá tròn trịa, vì thế ông đã cho họ chút phiền toái ở trong bộ truyện này.
Cho họ sinh ra một đứa con, không hấp thu sở trường mà kết hợp sở đoản của cha mẹ. Đó là nhân quả báo ứng, một người thông minh lanh lợi như Hoàng Dung mà sinh ra một đứa con gái khờ khạo ngu ngốc như chồng, một vị đại hiệp nhân hậu độ lượng nhu Quách Tĩnh lại sinh ra một đứa con gái ngang ngược đanh đá như mẹ của nó.
Đương nhiên Quách Phù là một thiếu nữ xinh đẹp, tâm địa cũng trong sáng. Mặc dù nàng không thông minh lắm, nhưng cũng không tệ, mặc dù cá tính ngang ngược, hời hợt, nhưng nàng cũng có điểm đáng yêu. Nếu không làm sao Võ Đôn Nho, Võ Tu Văn đều yêu thương nàng? Hai anh em ruột đó từ nhỏ đã mất mẹ, cha trở nên điên cuồng, được vợ chồng Quách Tĩnh, Hoàng Dung thu làm đồ đệ nuôi trong nhà, tất nhiên tình anh em sẽ rất sâu nặng. Nhưng cả hai người đều yêu Quách Phù, mà Quách Phù cũng khó chọn lựa một trong hai, cuối cùng làm cho hai anh em đi đến bước cốt nhục tương tàn, hẹn ra ngoài thành quyết
đấu kẻ nào thắng mới quay lại gặp Quách Phù.
Đó cũng chính là chỗ đau đầu của Quách Phù. Bất luận là Đại Võ hay Tiểu Võ, thế gian chỉ có một người há không tốt sao? Thế mà lại có hai người, mỗi người đều có ưu điểm của mình. Một người hoạt bát lanh lợi, một người đôn hậu thuần phát; một người đáng yêu dễ gần, một người đáng kính đáng mến... nếu như gả cho một trong hai người, người kia chắc chắn sẽ đau lòng.
Đó là một vấn đề khó.
Hãy xem cuộc tỉ võ của hai anh em họ Võ:
Võ Tu Văn nói:
- Đại ca, hôm nay quyết đấu, nếu như em thua, anh không giết em, em cũng không thể sống trên cõi đời này nữa. Trả thù cho mẹ, phụng dưỡng cho cha, yêu thương Phù muội, ba chuyện này đại ca hãy gánh vác lấy.
Võ Đôn Nho nói:
- Chuyện này chúng ta đều đã biết cần gì phải nhiều lời, nếu ngươi thắng ta thì cũng như thế. Tu Văn lại nói:
- Đại ca, huynh đệ chúng ta từ nhỏ đã mất mẹ, cha già bỏ đi, huynh đệ chúng ta dựa vào nhau mà sống chưa bao giờ tranh cãi với nhau, hôm nay đến nước này, đại ca có hận đệ không? - Tiểu đệ, đó là số trời đã định, huynh đệ chúng ta đành phải chấp nhận mà thôi.- Đôn Nho nói. ... Rồi cả hai nắm tay nhau, không nói nên lời, bỗng nhiên hai anh em đều thét lên: - Được, đến đây!
Rồi cả hai rút đao ra, xuất chiêu, chiêu thức ác liệt quyết không lưu tình, đối phó với kẻ thù chẳng qua cũng như thế thôi.
Đó chính là ma lực của “chữ tình”.
Sau đó bị Dương Quá lừa, hai anh em cuối cùng thân thiện trở lại, tưởng rằng Dương Quá sẽ cưới Quách Phù.
Quách Phù nghe chuyện đó trong cơn tức giận chém đứt cánh tay phải của Dương Quá. Vì thế Dương Quá ra đi, còn Võ Đôn Nho yêu Gia Luật Yến; Võ Tu Văn yêu Hoàn Nhan Bình; Quách Phù yêu Gia Luật Tề.
Khi những người này gặp nhau làm cho người ta phải suy nghĩ, phải cảm khái.
Chẳng trách Hoàng Dung cười thầm trong lòng nói “tốt quá, lại một đôi nữa! Cách đây mấy ngày hai anh em vì Phù nhi mà liều mạng, không thiết đến tình huynh đệ nữa, bây giờ thấy một cô nương xinh đẹp lại quên sạch chuyện trước đây”.
Trong truyện viết như thế này:
Anh em họ Võ và Quách Phù cùng lớn lên ở Đào Hoa đảo, trước nay trên đảo không hề có một cô gái nào khác, lâu ngày tự nhiên sinh ra tình cảm, nếu muốn hai anh em không có tình cảm và Quách Phù thì chẳng hợp lý tí nào. Sau đó Dương Quá nói Quách Phù chẳng có tình cảm gì với họ, tự nhiên
trong lòng nguội lạnh, chỉ than: làm người chẳng có vui gì nữa, nào ngờ không lâu sau gặp Gia Luật Yến và Hoàn Nhan Bình thì lại sinh tình mới.
Lúc đó nhị Võ trùng phùng Quách Phù, trong lòng ngầm so sánh, đúng là trong mắt tình nhân có Tây Thi, cả hai đều cảm thấy ý trung nhân của mình không có chỗ nào thua kém Quách Phù, ngược lại còn có phần hơn. Một chàng nghĩ:
- Gia Luật Yến cô nương hào sảng hòa khí chứ đâu có tiểu tâm như nàng.
Người kia lại nghĩ:
- Hoàn Nhan Bình cô nương dịu dàng nhu mì đáng yêu chứ đâu có hay ngang ngạnh như nàng. - Lúc mình bị Công Tôn Chỉ bắt, Gia Luật Tề rút dao tương trợ, mấy lần trộm nhìn chàng, quả thật người này anh tuấn lạ thường. - Quách Phù nghĩ.
Rồi trong lòng cảm thấy kỳ lạ:
- Năm ngoái lần đầu tiên gặp hắn, cũng đã quên hết mọi chuyện, nào ngờ người này võ công ghê gớm như vậy. Mẹ và hắn cười với nhau không biết vì lẽ gì?
Rõ ràng Quách đại cô nương đã có tình ý với Gia Luật Tề!
Hai anh em họ Võ nên nghĩa phu thê với Gia Luật Yến, Hoàn Nhan Bình, từ đó sống những ngày bình yên hạnh phúc bên nhau. Không biết khi nhớ lại cảnh hai người liều mạng với nhau họ đã nghĩ gì? Quách Phù rồi cũng có ý trung nhân của mình, cũng có một gia đình hạnh phúc.
Luận về võ công hay nhân phẩm, Gia Luật Tề hơn hẳn hai anh em họ Võ, đệ tử của lão Ngoan Đồng, nhưng tính cách lại chân thực, đôn hậu như Quách Tĩnh. Đó chính là điều mà Quách Phù yêu mến. Những thiếu nữ kính yêu phụ thân đều muốn người yêu của mình giống như cha mình, và cuối cùng nàng cũng tìmthấy được. Nàng tuy hời hợt ngang ngạnh, nhưng cũng chính vì thế, cần một người vừa có thể yêu vừa có thể kính nể làm chỗ dựa cho nàng. Nàng thích chồng của mình quan tâm, lại hy vọng chồng của mình cũng có uy nghiêm.
Nàng đã tìm thấy người bạn đời lý tưởng. Như thế chuyện tình của họ cũng nên kết thúc ở đây. Nếu kết thúc ở đây, có lẽ mọi người cũng không có ý kiến gì, cũng không có gì phải tiếc nuối. Chuyện tình của những nhân vật này đã phong phú, đẹp đẽ đầy ý nghĩa lắm rồi. Nhưng với Kim Dung, ông đã làmcho chúng ta bất ngờ. Đó là đoạn cuối của bộ sách.
Mười sáu năm qua, Quách Phù đã là một thiếu phụ hơn ba mươi tuổi. Có thể nói nàng là một thiếu phụ hạnh phúc, tuy sinh ra ở thời loạn, nhưng ông ngoại và cha mẹ đều là những cao nhân lúc bấy giờ, thiên hạ đều biết đến, còn chồng là tân nhiệm Bang chủ của Cái Bang, một bang hội lớn nhất trong thiên hạ lúc bấy giờ, rõ ràng tiền đồ của nàng rất sáng lạng,...
Lúc đó thành Tương Dương lâm nguy, Gia Luật Tề đang trong vòng vây của Đi Phương. Dương Quá ra tay cứu giúp, Quách Phù cảm kích vô cùng. Thực ra trước đây Dương Quá đã từng cứu nàng nhiều lần, nhưng Quách Phù trước sau vẫn oán ghét Dương Quá. Cho đến khi Dương Quá cứu chồng nàng, Quách Phù mới thật sự cảm kích, nhận ra cái sai trước đây của mình.
Quách Phù bước đến Dương Quá cúi đầu lạy tạ nói:
- Dương đại ca, muội thật không phải với huynh, nhưng huynh đại nhân đại nghĩa, lấy đức trả oán cứu...
... Dương Quá vội vàng trả lễ nói:
- Phù muội, chúng ta từ nhỏ lớn lên bên nhau, tuy rằng vẫn thường cãi cọ, kỳ thực tình như huynh muội. Chỉ cần từ rày về sau không ghét ta hận ta, là ta đã cảm thấy mãn nguyện rồi. Quách Phù ngẩn người nhớ lại chuyện xưa:
- Chẳng lẽ ta ghét đại ca ư? Hận đại ca ư? Anh em họ Võ làm cho ta thích thú nhưng Dương đại ca không thèm để ý đến ta. Chỉ cần đại ca chiều ta một chút, ta có thể cam tâm tình nguyện chết vì chàng. Ta sao có thể hận chàng vô lý như vậy? Chẳng qua vì ta luôn luôn nhớ đến chàng mà trong tim chàng chẳng hề có ta.
Hai mươi năm qua, nàng không hiểu rõ lòng mình, mỗi khi nghĩ đến Dương Quá, chỉ xem chàng là đối thủ, kỳ thực từ sâu thẳm trong lòng nàng rất quan tâm Dương Quá, không lời nào có thể hình dung được. Nhưng không những Dương Quá không hề hiểu rõ tâm sự của nàng, ngay cả nàng cũng chẳng hiểu.
Lúc này bao nhiêu oán hận cũng không còn, nhưng mới đột nhiên nghĩ ra, thì ra mình đối với chàng thật sâu sắc:
- Lúc chàng xông vào trận để cứu Tề ca, ta rốt cuộc là lo lắng cho ai nhiều hơn? Ta cũng không biết nữa.
Đoạn này quả thật rất tuyệt vời, bí mật tâm lý của nhân vật hiện rõ lồ lộ dưới mắt mọi người. Yêu một người trong hai mươi năm, không những đối tượng không biết, mà bản thân nàng cũng mù tịt. Xem ra cứ như thần thoại, nhưng, nếu chúng ta đọc kỹ thì sẽ rất khâm phục sự sâu sắc và độc đáo của tác giả. Chúng ta phải bừng tỉnh. Một người thường không biết “ta thật sự muốn gì”. Chúng ta đã từng trải qua rất nhiều những niềm vui không tên, cũng trải qua rất nhiều những nỗi buồn, nhưng chúng ta không thể hiểu rõ ý nghĩa của nó. Rất nhiều điều đột nhiên xuất hiện rồi đột nhiên biến mất nhưng bí mật tâm lý của chúng ta nằm sâu trong tiềm thức. Vì thế trong cơn hỗn loạn, Quách Phù đột nhiên hiểu rõ được lòng mình:
Trong ngày sinh nhật của Tường muội chàng đã tặng nó ba món quà lớn, tại sao ta lại hận chàng đến tận xương cốt như vậy? Chàng tiết lộ âm mưu của Hoắc Đô, góp phần giúp Tề ca trở thành bang chủ Cái Bang, ta tại sao cảm thấy tức giận? Quách Phù ơi Quách Phù, ngươi đã đố kỵ với em ruột của mình. Chàng đối xử dịu dàng tử tế với Tường muội như vậy, nhưng chưa bao giờ đối xử với ta như thế. Nghĩ tới đây, trong lòng vừa vui vừa lo, nhìn sang Dương Quá, Quách Phù nghĩ:
- Tại sao ta còn để ý tới điều này? Ta là người đàn bà đã có chồng, Tề ca lại đối xử thật tốt với ta.
Bất giác thở dài buồn bã. Tuy nàng cả đời chẳng thiếu điều gì, nhưng từ sâu thẳm trong lòng, vẫn có điều tiếc nuối. Nàng trước giờ muốn gì được nấy, nhưng điều nàng thật sự muốn thì lại không được. Nàng cũng không hiểu nổi mình: Vì sao tính tình lại nóng nảy như thế? Tại sao lúc mọi người vui mừng thì mình lại cảm thấy phiền não, tức giận.
Đoạn tâm sự trên thực sự là một đoạn luận về tâm lý học tình yêu và tâm lý học tính cách rất tuyệt vời.
Xem ra trong cơn binh đao loạn lạc mà đã có những tâm sự như thế thật có chút không hợp cảnh hợp lúc. Nhưng ngược lại, trong lúc đối mặt với sự sống chết, con người mới thật sự đối diện với cuộc đời, nghĩ ra những điều trước đây mình không biết. Chính trong hoàn cảnh như thế tâm linh con người mới thật sự yên tịnh, trở nên đơn giản, sáng suốt,... tiếng hát xung trận mới phù hợp với bí mật tâm lý của con người. Bí mật tâm lý ấy phù hợp với bối cảnh như thế.
Chúng ta hãy nói bản thân của vấn đề.
Thứ nhất, Quách Phù rõ ràng là yêu Dương Quá, nàng yêu một cách sâu đậm. Vậy, nàng đối với Võ Đôn Nho, Võ Tu Văn và Gia Luật Tề như thế nào?
Nếu như nàng không yêu những người này, chỉ là có thiện cảm và tôn trọng, điều này có nghĩa, mỗi lần nàng tưởng là tình yêu, đều là ảo tưởng, đều bị cảm giác của mình lừa gạt.
Nếu như, nàng đều yêu họ, như vậy mức độ của tình yêu có khác nhau, đặc biệt là đối với Gia Luật Tề là rất chân thật, có thể nói rằng tình yêu của con người là nhiều tầng thức.
Vậy thì, nàng đối với Võ Đôn Nho, Võ Tu Văn chỉ là sự say mê nhất thời; còn nàng đối với Gia Luật Tề là tình cảm vợ chồng; còn đối với Dương Quá mới là một tình yêu sâu đậm.
Thứ đến, khi yêu, người ta thường ngưỡng mộ, có thiện cảm hy vọng được chú ý, e thẹn,... Tình cảm ấy trong một hoàn cảnh đặc biệt bộc phát ra hủy diệt tất cả.
Hoặc tình cảm ấy đã có từ lâu chỉ là bản thân không biết, cho nên càng muốn gần thì càng xa. Hoặc giả tình cảm ấy cả đôi bên đều có chỉ vì một bên vô tư, bên kia cô độc, cho nên phát sinh xung đột về tính cách làm cho cả đôi bên không thể ngồi lại với nhau để tỏ rõ lòng nhau. Cả hai bên đều hiếu cường, chẳng ai chịu thua ai.
Hoặc giả, ba khả năng trên đều tồn tại. Dẫu thế nào, sự miêu tả về mặt nghệ thuật là rất đặc sắc, về mặt học thuật thì rất sâu sắc.
Thứ ba, ở đây tính cách, tâm lý của Quách Phù biểu hiện rất rõ. Bởi vì nàng không thiếu điều gì, chỉ thiếu trái tim của Dương Quá nên tính cách trở nên nóng nảy, trong lòng có cảm giác tiếc nuối... như thế tâm lý của nàng tự nhiên khó cân bằng, mà tâm lý không cân bằng trong thời gian dài thì phải tìm phương thuốc cân bằng tâm lý mình, bởi vì bao nhiêu oán hờn chất chồng trong lòng được phát tiết ra. Vì thế sẽ có những nỗi bực dọc nóng nảy không lý do. Tâm lý mất cân bằng ấy dẫn đến sự biến thái về tính cách.
Cuối cùng, có lẽ chúng ta phải chú ý ngoài những vấn đề được nói ở phía trên, nên thảo luận về sự ảnh hưởng của tính cách Quách Phù. Đương nhiên tính cách của Quách Phù bị ảnh hưởng bởi một tình yêu không như ý. Nhưng ngược lại, tính cách của nàng chẳng lẽ không ảnh hưởng đến tình yêu của nàng hay sao?
Không lẽ chuyện gì cũng quy về số mệnh hay sao?
Như trên đã nói, tính cách của Quách Phù đều hấp thu ở sở đoản của cha mẹ.
Tính cách này có rất nhiều khuyết điểm. Đầu tiên về cơ sở của sự phát triển tính cách, trí lực của
Quách Phù không cao. Trong truyện có rất nhiều ví dụ về điểm này, như Lục Vô Song cãi nhau với nàng nói: “Quách đại hiệp trung hậu nhân nghĩa, Hoàng bang chủ là con gái của Đào Hoa đảo chủ, hai vị đều là những người có phẩm đức cao vời...”., câu nói này rõ ràng bảo Quách Phù không giống cha mẹ, nhưng Quách Phù tưởng Vô Song nịnh bợ nói: “Còn phải nói nữa? Không cần ngươi phải khen cha mẹ ta để nịnh bợ ta”.
Lục Vô Song tiếp lời: “Còn ngươi à? Ngươi chém đứt tay của Dương đại ca không phân trái phải trắng đen oan uổng cho người tốt, hành vi đó giống phu phụ Quách đại hiệp chỗ nào? Thật làm cho người khác nghi ngờ”. Câu nói ấy ý muốn châm biếm Quách Phù không giống là con của Quách đại hiệp mà là “con hoang”. Nhưng Quách đại cô nương vẫn không nghĩ ra hỏi lại: “Nghi ngờ cái gì?”. Câu hỏi ấy đã thể hiện trí lực cơ biến của nàng quá kém. Gia Luật Tề đứng một bên thấy Quách Phù tính tình thẳng thắng kémxa Lục Vô Song thông minh lanh lợi, mồm miệng không bằng, mới nghe mấy câu đã biết Quách Phù đỡ không được, liền nói: “Quách cô nương đừng nói với cô ta nữa”. Chàng đã biết võ công của Quách Phù hơn hẳn Lục Vô Song, không cần nói chỉ động thủ tất nhiên sẽ thắng. Nào ngờ Quách Phù thịnh nộ, không biết dụng ý của chàng liền nói: “Đừng nhiều chuyện, ta phải hỏi ả cho rõ ràng”. Điều đó thể hiện Quách Phù là một người hết sức hời hợt.
Khi Gia Luật Tề bị Quách Phù gạt ngang, Lục Vô Song nhìn nàng mà rằng: “Đúng là chó cắn Lữ Động Tân, sau này nhất định Gia Luật đại ca sẽ mệt đây”, Gia Luật Tề đỏ mặt, biết Lục Vô Song đã nhìn thấy tình ý của chàng đối với Quách Phù, câu nói này có ý nghĩa, vị cô nương này đanh đá sau này sẽ làm ngươi khổ vô cùng. Quách Phù nhìn thấy Gia Luật Tề bỗng nhiên đỏ mặt, nghi ngờ vấn tới: “Ngươi cũng nghi ta không phải con ruột của cha mẹ ta hay sao?”, Gia Luật Tề vội vàng đáp: “Không phải, không phải, chúng ta đi thôi đừng để ý cô ta nữa”. Lục Vô Song cướp lời: “Gia Lục đại ca dĩ nhiên là nghi ngờ rồi, nếu không làm sao hối ngươi đi mau?” Quách Phù đỏ mặt tức tối không nói nên lời.
Quách Phù còn có một nhược điểm khác, đó chính là sự cao ngạo ngang tàng của nàng. Từ nhỏ đã được cha mẹ yêu thương, lại được anh em họ Võ phục tùng, tự nhiên đã dưỡng thành kiểu tính cách công chúa. Vì Dương Quá cứ đối đầu với nàng, làm cho nàng tức giận cho nên trong ấn tượng của nàng Dương Quá là một người xấu xa. Chỉ cần nghĩ tới Dương Quá là nghĩ tới lúc chàng đối đầu với nàng, tự nhiên trong lòng không thoải mái, thời gian qua đi, thái độ của nàng đối với Dương Quá cũng không thoải mái.
Thái độ ấy có hai chỗ bất lợi, thứ nhất đã đè nén những tình cảm thật của mình; mỗi lần gặp Dương Quá là mỗi lần có ác cảm mới. Cũng vì thế mà tâm sự của nàng mãi hai mươi năm sau khi đã là thiếu phụ quá ba mươi tuổi, nàng mới hiểu ra. Bi kịch ấy, bề ngoài có vẻ là do vận mệnh trêu ngươi nhưng thực chất là do cá tính của nàng tạo nên, là một dạng biểu hiện của bi kịch tính cách nàng.
- o O o -
HỒI 6
TÌNH SI
Những trường hợp như Quách Phù có nhiều. Bởi vì đối với hai anh em họ Võ nàng hoàn toàn là một vị công chúa ngang ngược, bọn chúng phục tùng nàng, mà nàng thì muốn gì được nấy, dần dần đó không còn là tình yêu thật sự nữa, chỉ có với Gia Luật Tề thì nàng mới nảy sinh tình ý, đó mới là tình yêu. Nhưng đó không phải là tình yêu cuối cùng, hoặc giả có thể nói rằng đó vẫn chưa thật sự là tình yêu. Bởi vì tình yêu thật sự hai mươi năm sau nàng mới phát hiện, lúc mà nàng đã thật sự trưởng thành. Những chuyện như thế rất nhiều trong đời. Một người cảm thấy rằng mình đã yêu một người, đồng thời đối phương cũng yêu mình vì thế hai người tâm đầu ý hợp. Nhưng, sau một thời gian, lại phát hiện người mình yêu không phải người đang ở bên cạnh mình mà là một người khác (như Quách Phù đối với Dương Quá). Đó chính là bi kịch tình yêu và hôn nhân thường gặp ở trên đời.
Chàng hoặc nàng trong biển người mênh mông, thấy được đối tượng mà mình thật sự thương yêu, đối với một người có thể coi đây là một câu chuyện hạnh phúc, bởi vì chàng hoặc nàng có thể nếm được mùi vị thật sự của tình yêu, nhưng mà đối với một người đã kết hôn, hoặc đã thề non hẹn biển với kẻ khác, khi tình yêu thật sự xuất hiện thì đó quả là một bi kịch. Đối với Quách Phù mà nói, nàng sẽ tiếp tục sống trọn đời bên nhau với Gia Luật Tề, chôn vùi tình yêu của Dương Quá dưới đáy lòng hay lìa bỏ Gia Luật Tề mà đi tìm tình yêu thật sự với Dương Quá? Rõ ràng chọn lựa phương án nào cũng đều đau khổ, giữ yên mọi chuyện như cũ ư, vừa mới phát hiện tình cảm thật sự của mình làm sao có thể dễ dàng chôn sâu cho được? Lìa bỏ người đầu gối tay ấp với mình mà ra đi ư, làm sao cho đành? Quả đúng là một bi kịch.
Trong “Thần điêu hiệp lữ”, tác giả không nói đến sau khi Quách Phù phát hiện bí mật nội tâm của mình sẽ như thế nào, có lẽ không có cách nào để biết. Xem ra Quách đại cô nương có lẽ phải mang trong lòng nỗi tiếc nuối và đau khổ để sống hết cuộc đời này. Có lẽ tính cách của nàng sẽ nóng nảy hơn nữa, nội tâm và gia đình của nàng từ đây sẽ không còn yên ổn. Đó chính là cuộc sống, đó chính là nhân sinh.
Nhưng, giữa cuộc sống và nhân sinh còn có một tình huống phức tạp hơn ở trên.
So ra Quách Phù vẫn còn may mắn hơn. Nàng ít ra cũng biết được lý do vì sao nàng rất hay nổi nóng, hờn giận, là bởi vì nàng yêu Dương Quá mà không biết. Chí ít cuối cùng cũng biết. Có rất nhiều người bất hạnh hơn Quách Phù. Họ bị khốn khổ của tình yêu, với họ mật ngọt của tình yêu không có mà chỉ toàn là vị đắng, từ đầu đến cuối không hề biết là lý do gì.
Trong “Thiên long bát bộ” có một câu chuyện bi thảm như thế.
Đoàn Dự, vương tử nước Đại Lý, lúc mới đầu lưu lạc giang hồ gặp nhiều nguy hiểm. Vô tình phát hiện được một bức tượng ngọc ở núi Vô Lượng. Bức tượng ấy là một cô gái xinh đẹp tuyệt trần, làm cho Đoàn Dự phải điên đảo thần hồn, lúc nào cũng không quên.
Sau này gặp Vương Ngữ Yên, người giống với bức tượng ấy, chàng nảy sinh tình ý, say mê nàng, trải qua bao gian nan, cuối cùng Đoàn Dự cũng lọt vào mắt xanh nàng. Đó là câu chuyện vì yêu tượng mà yêu người, ở đây câu chuyện của chúng ta là từ yêu người đến yêu tượng.
Bức ngọc tượng mà Đoàn Dự thấy được chính là người yêu của Tiêu Giao Tử chưởng môn phái Tiêu Giao, sư muội Lý Thu Thủy. Từ trong tên môn phái và tên người chúng ta có thể thấy rằng, đây là một đôi tình nhân thần tiên. “Tiêu Giao du” và “Thu Thủy” là hai chương nổi tiếng nhất trong Trang Tử, còn “Bắc minh thần công” của phái này là tác phẩm kinh điển của Đạo gia.
Nhưng, nói thì dễ mà làm thì khó, Tiêu Giao Tử tài cao học rộng, phong độ. Đó là một hóa thân mà nữ giới xưa nay đều ngưỡng mộ. Cũng vì thế sư tỷ của ông là Thiên Sư Đồng Lão và chị em của Lý Thu Thủy, vì tranh nhau trái tim của Tiêu Giao Tử mà công kích hãm hại lẫn nhau. Kết quả sư tỷ vĩnh viễn biến thành một đứa bé, còn sư muội thì bị phá hủy dung nhan. Hai người suốt đời bị vây khốn vì tình, suốt đời sống trong địa ngục. Xem ra chẳng có “tiêu giao” chút nào. Một điều mà mọi người không ai nghĩ tới, người của phái Tiêu Giao không ai thật sự được “tiêu giao” cả.
Cả hai đều tìm cách để chiếm trái tim Tiêu Giao Tử, ai cũng tưởng Tiêu Giao Tử yêu thương mình, đố kỵ với kẻ kia, tranh đấu suốt một đời để rồi cuối cùng, nhờ chàng tiểu hòa thượng khờ khạo Hư Trúc mà cả hai đã hiểu ra:
Hư Trúc nghĩ vậy liền lấy bức họa đồ ra cho Đồng Lão. Đồng Lão giơ tay ra đón lấy, giơ lên ánh mặt trời coi, rồi bất giác “ồ” lên một tiếng. Nét mặt lộ vẻ vừa kinh hãi, vừa vui mừng. Bà xem kỹ lại lần nữa rồi đột nhiên bật lên tràng cười ha hả, lớn tiếng reo:
- Không phải ả, không phải ả! Ha ha!
Trong tiếng cười đôi hàng nước mắt chảy xuống như mưa rồi rũ đầu ra im hẳn. ... Hư Trúc cầm bức họa lại đưa cho Lý Thu Thủy.
Lý Thu Thủy đón lầy bức họa...
... Mụ vừa nói vừa mở bức họa ra coi, rồi thần sắc đột nhiên biến đổi! Hai tay run bần bật. Cả bức họa cũng run lên. Mụ khẽ nói:
- Đúng là ả, đúng là ả. Ha ha! Ha ha!
Tuy mụ nổi lên tràng cười, nhưng trong tiếng cười chứa đầy nỗi đau khổ bi thương, Hư Trúc không khỏi thương tâm hỏi:
- Sư thúc! Sư thúc làm sao vậy?
Chàng lẩm bẩm:
- Một bà bảo “không phải ả” rồi lại một bà bảo “chính ả”, không hiểu người trong bức hình là ai?
Lý Thu Thủy chú ý nhìn mỹ nhân trong bức họa hồi lâu rồi nói:
- Ngươi coi đây! Người này má lúm đồng tiền. Con mắt bên phải có nốt ruồi đen, có đúng thế không?
Hư Trúc nhìn lại mỹ nhân trong bức họa rồi gật đầu đáp:
- Dạ đúng!
Lý Thu Thủy buồn rầu đáp:
- Ả là em gái ta.
Hư Trúc lại càng lấy làm lạ hỏi:
- Nàng là em gái sư thúc?
Lý Thu Thủy đáp:
- Dung mạo em gái giống ta như đúc. Nhưng ả má lúm đồng tiền và cạnh mặt bên phải có nốt ruồi đen, còn ta đây không có.
Hư Trúc “ồ” lên một tiếng:
Lý Thu Thủy lại nói:
- Sư tỷ bảo ta là sư ca họa chân dung y, sớm tối chẳng nở rời tay. Ta không tin. Nhưng... ta không ngờ lại là chân dung tiểu muội ta. Hiền điệt... bức họa này ở đâu ra?
... Thu Thủy thở dài nói:
- Lúc đầu sư tỷ nhìn thấy người trong bức họa này liền ngỡ là ta. Một là vì tướng mạo ta rất giống, hai là sư ca vẫn quí ta hơn! Huống chi, hồi sư tỷ cùng ta tương trăng thì em gái ta mới mười lăm tuổi. A lại không hiểu võ công, nên sư tỷ ta không khi nào ngờ là ả. Lúc nóng nảy, y chưa kịp để ý nhìn nhận đến người trong bức họa má lúm đồng tiền và có một nốt ruồi cạnh mặt. Lúc sắp chết sư tỷ ta mới phát hiện ra điều này cho nên y mới kêu lên “không phải ả”. Ôi! Tiểu muội ơi!Ngươi thật là tốt phước!Ngươi thật là tốt phước!
Lý Thu Thủy nói luôn hai câu: “Ngươi thật là tốt phước” rồi không khỏi sửng sờ tuôn đôi dòng lệ.
Hư Trúc bụng bảo dạ:
- Té ra sư bá cùng sư thúc đều đối với sư phụ mình có mối thâm tình mà trong tâm thần người lại để ý đến kẻ khác. Không hiểu bà em sư thúc còn sống hay chết rồi? Sư thúc vừa nói y hoàn toàn không biết võ công mà sao sư phụ lại bảo mình đem bức họa đồ này đi tìm thầy học nghệ? Lý Thu Thủy cầm bức họa lên nhìn rồi nói:
- Sư huynh ơi, ngươi vẻ bức tranh này khi nào? Ngươi chỉ bảo rằng vẻ ta, ngươi đem đệ tử đem bức tranh đến Vô Lượng Sơn để tìm ta. Nhưng ngươi lại vẻ em gái ta, cả ngươi cũng không biết hay sao? Ngươi cứ tưởng người trong tranh là ta. Sư huynh ôi, lòng ngươi mới thực sự yêu em gái ta, ngươi cứ chết mê chết mệt với bức ngọc tượng ấy là tại làm sao? Tại sao, bây giờ ta rốt cuộc cũng hiểu rồi.
Bổng nghe Lý Thu Thủy hét lên:
- Sư tỷ ơi! Chị em ta đều là những kẻ đáng thương và đều bị con người vô lương tâm đó lường gạt. Haha! Haha!
Lý Thu Thủy cười lớn ba tiếng rồi ngã ngửa về đằng sau tắt hơi.
Tiêu Giao Tử chết, Thiên Sư Đồng Lão cũng chết, Lý Thu Thủy cũng chết. Cả ba người đều bị lưới tình vây khốn, có người cho đến chết vẫn không hiểu rõ chân tướng của bi kịch. Hình như chỉ có Lý Thu
Thủy hiểu, nhưng bà không hoàn toàn hiểu. Bà nói: “Sư tỷ, chúng ta đều là những kẻ đáng thương” câu nói đó không hoàn toàn chính xác.
Tiêu Giao Tử mới đúng là một kẻ đáng thương.
Bởi vì câu chuyện không hoàn toàn giống với tưởng tượng của Hư Trúc vì Thiên Sư Đồng Lão và Lý Thu Thủy đều yêu Tiêu Giao Tử mà Tiêu Giao Tử lại yêu em gái của Lý Thu Thủy. Không phải, hoàn toàn không phải vậy. Tiêu Giao Tử cho đến lúc chết vẫn không hiểu rõ chân tướng ông thậm chí cho đến chết, cũng không hiểu người trong bức tranh, tại sao tự nhiên biến thành em gái của Lý Thu Thủy. Rõ ràng ông vẻ Lý Thu Thủy mà sao lại biến thành em gái của bà. Ông cho đến lúc chết vẫn không hiểu tại sao lại say mê bức tranh ấy mà lãnh đạm với Lý Thu Thủy. Trong khi đó cuộc sống của họ rất hạnh phúc kia mà, họ cũng đã có một đứa con với nhau cơ mà. Thế nhưng tại sao mọi chuyện lại thay đổi như vậy?
Tiêu Giao Tử biết được sự thay đổi ấy nhưng ông không biết nguyên nhân của nó, đến chết cũng không biết: ông đã em gái của Lý Thu Thủy. Ông biết mình không yêu ai nhưng lại không biết mình đã yêu ai. Đó là bi kịch thường thấy của cuộc đời. Cho nên, Lý Thu Thủy bảo Tiêu Giao Tử đã lừa họ là không công bằng, bởi ông chính là nạn nhân của bản thân mình. Lý giải điều này là chuyện không dễ dàng tí nào bởi nó liên quan tới tâm lý của con người.
Tiêu Giao Tử đã rơi vào một nổi thống khổ “vô danh”, là vết thương trong lòng.
Còn Thiên Sư Đồng Lão và Lý Thu Thủy là có một nỗi đau “hữu danh”, tức là yêu người mà người không yêu, so với Tiêu Giao Tử chỉ là vết thương “ngoài da”. Nỗi đau ấy có thể thông qua “tranh giành ghen tuông” mà hóa giải từ từ, lại có thể chuyển hóa thành “hận”. Tuy vết thương của họ khó chữa nhưng so với nỗi đau “vô danh” của Tiêu Giao Tư cũng còn đỡ hơn nhiều.
Cả đời Tiêu Giao Tử không thực sự tiêu giao. Nỗi đau âm ỉ trong lòng ông. Ông cũng từng yêu say sưa, rồi phát hiện ra tình yêu ấy không còn nữa nhưng không biết mình đã yêu ai.
Ông yêu em gái của Lý Thu Thủy ư? Điều đó cũng chưa chắc. Bởi lẽ có thể người ông yêu là người trong tranh, cũng có thể ông yêu là người thật.
Có lẽ chúng ta nghĩ rằng, Tiêu Giao Tử lừa cả Thiên Sư Đồng Lão và Lý Thu Thủy, ông chỉ yêu mỗi mình em gái Lý Thu Thủy mà thôi. Cũng có người sẽ nghĩ Tiêu Giao Tử không hề lừa họ, bởi lẽ ông đã có lúc mặn nồng với Lý Thu Thủy. Sau đó ông mới phát hiện mình không yêu bà nữa, nhưng không biết mình đã yêu em gái của bà mà thôi. Thế nhưng tất cả đều sai, đều không đi vào bản chất của vấn đề. Bởi lẽ Tiêu Giao Tử là một nhà nghệ thuật, mà thế giới tình cảm của những người này không thể đoán định theo lẽ thường được. Ông yêu tình nhân của mình hay kiệt tác đàn ông tình nhân làm mẫu? Ở một mức độ nào đó, nghệ thuật cũng là tình nhân của ông, là một người tình quan trọng.
Một nhà nghệ thuật luôn theo đuổi tìm kiếm cái đẹp, họ không bao giờ thỏa mãn cái đang có. Đối với Tiêu Giao Tử mà nói, Lý Thu Thủy cũng là một cái đẹp. Nên một khi bức ngọc tượng hoàn thành, Lý Thu Thủy đã bị nó thay thế. Với ông, giờ đây bức ngọc tượng đã trở thành cái đẹp duy nhất. Vậy em gái Lý Thu Thủy phải chăng cũng chỉ là một cái đẹp mà nhà nghệ thuật Tiêu Giao Tử đang hướng tới?
Không ai biết. Bởi lẽ ông đã chết.
Rõ ràng tâm lý tình cảm của Tiêu Giao Tử không thể suy đoán theo logic thông thường được. - o O o -
HỒI 7
TÌNH YÊU VÀ CUỒNG VỌNG
Rất nhiều người đều muốn tìm một định nghĩa cho tình yêu, nhưng rốt cuộc không ai làm được điều đó. Bởi vì tình yêu không có tính ổn định. Bởi vì thứ tình cảm đầy đau khổ nhưng cũng đầy hạnh phúc đó không có một quy tắc nào cả.
Yêu là một thứ tình cảm tự phát, chúng ta không thể dùng lý trí để chỉ đạo, khống chế nó được. Yêu là mù quáng, bản năng, tự giác. Đó là một thế giới đầy bí ẩn. Bắt nguồn từ bí ẩn mà kết thúc cũng bí ẩn. Cho nên nhà Phật có nói: sắc tức thị không, không tức thị sắc. Yêu chỉ là hư vọng. Câu nói này ở mức độ nào đó cũng có lý, nếu không thì làm sao nhiều người sau khi thất tình lại xuất gia cơ chứ?
Có lúc, tình yêu bắt đầu là sai mà kết thúc cũng sai.
Tình yêu là một thế giới không thể dự đoán được.
Trong “Bích huyết kiếm ”, Lục thúc của Ôn Nghi giết cả nhà Hạ Tuyết Nghi, cưỡng bức chị gái của chàng, Hạ Tuyết Nghi ôm trong lòng mối hận, chàng quyết ý bắt Ôn gia phải trả giá gấp mười lần, nhưng nào ngờ sau khi gặp Ôn Nghi chàng đã yêu nàng.
Viên Thừa Chí lúc nhỏ đã từng ở nhà An đại nương, chàng với An Tiểu Tuệ có thể được coi là thanh mai trúc mã, mọi người đều tưởng rằng cả hai sẽ là một đôi, nào ngờ không phải như vậy: Viên Thừa Chí nói:
- Lúc nhỏ, mẫu thân nàng đối với ta rất tốt, xem ta như con trai của bà, ta thật cảm kích. Hơn nữa nàng không thấy bà rất thương yêu ta hay sao?
Thanh Thanh bĩu môi nói:
- Chàng nói tên họ Thôi đấy à? Gã vừa ngu ngốc lại chẳng có tài cán gì, diện mạo lại xấu xí, nàng sao lại thích cho được?
Viên Thừa Chí nói:
- Ai cũng có sở thích riêng của mình. Tên tiểu tử họ Viên ta vừa ngu ngốc lại không có bản sự gì, diện mạo xấu xí, sao nàng lại thích ta?
Thanh Thanh phì cười nói:
- Thôi đi đừng có mơ, ai thích chàng chứ.
Quả đúng vậy “mỗi người đều có sở thích riêng của mình”. Câu nói này tuy có vẻ bình thường nhưng là một chân lý. Trên thế gian này, ai cũng cảm thấy người yêu của mình là đẹp nhất là giỏi nhất, nhưng lại không hiểu rõ lòng người khác.
An Tiểu Tuệ, một cô gái xinh đẹp như thế lại yêu anh chàng khờ khạo Thôi Hy Mẫn. Điều này Thanh Thanh không thể nào hiểu được. Nhưng thực sự chẳng có gì khó hiểu cả. Còn có những mối tình khó hiểu
hơn cả mối tình này.
Ví dụ như trong “Xạ điêu anh hùng truyện ”, không hiểu vì sao Mục Niệm Từ lại có thể yêu một kẻ khinh bạc vô hạnh vong ân phụ nghĩa như Dương Khang? An Tiểu Tuệ yêu Thôi Hy Mẫn chí ít chàng cũng là một trang hảo hán thẳng thắn chất phác, thế còn Dương Khang? Cha của Dương Khang, Dương Thiết Tâm dưới cái tên Mộc Dịch, mang theo nghĩa nữ Mục Niệm Từ đi khắp giang hồ vốn là vì Quách Tĩnh giương lá cờ “tỉ võ chiêu phu”, thực ra là muốn tìm Quách Tĩnh. Không ngờ đến kinh thành nước Kim lại gặp Dương Khang. Trong cuộc tỉ võ, tính cánh khinh bạc cuồng vọng của Dương Khang đã hiện rõ, gã không muốn cưới Mục Niệm Từ vì thế Quách Tĩnh giữa đường thấy chuyện bất bằng đấu với Dương Khang. Không biết vì lẽ gì mà Mục Niệm Từ lại cứ chung tình với gã khinh bạc lãng tử Dương Khang? Là bởi vì Dương Khang có địa vị cao cả, là vương gia Kim quốc hay sao? Không phải, Mục Niệm Từ đã từng nói với Hoàng Dung: “Chàng là vương gia cũng được, là kẻ ăn mày cũng được, trong lòng tỷ đã có chàng. Chàng là người tốt cũng được là kẻ khốn kiếp cũng được, tóm lại tỷ là người của chàng rồi”.
Cứ cho là nàng nói đúng đi, Dương Khang không phải là một vương gia thật sự, đương nhiên cũng không phải là gã ăn mày, chỉ là một tên khốn kiếp tham bả vinh hoa quên ơn phụ nghĩa. Mục Niệm Từ cho đến lúc chết vẫn không hối hận vì đã yêu gã, theo gã. Nàng đã chịu không biết bao nhiêu tủi nhục, éo le, đau thương, phẫn hận, dĩ nhiên Mục Niệm Từ biết rõ con người của Dương Khang. Gã là một kẻ không có thuốc chữa nữa rồi, chuyện xấu gì cũng làm hết! Dương Khang sau khi cưỡng bức Mục Niệm Từ đã vứt bỏ nàng. Nhưng khi Hoàng Dung, Quách Tĩnh gặp nàng, cứu nàng, kể cho nàng về cái chết của Dương Khang, “Mục Niệm Từ nước mắt như mưa, không sao quên được tình xưa”.
Người ta không thể hiểu nỗi tình yêu của Mục Niệm Từ đối với Dương Khang.
Những nhân vật như thế, những câu chuyện như thế có đầy rẫy trong tác phẩm Kim Dung. Như trong “Phi hồ ngoại truyện ”, Nam Lan đã yêu một kẻ không ra gì như Điền Quy Nông, một kẻ luận võ công hay nhân phẩm đều không bằng Miêu Nhân Phụng; còn Mã Xuân Hoa lại yêu một kẻ vô tình tàn nhẫn như Phúc Khang An đến chết vẫn không thay đổi.
Mã Xuân Hoa sau khi đính hôn một ngày đã trở thành nhân tình của Phúc Khang An. Nhưng sau khi kết hôn với Từ Tranh lại vẫn dan díu với Phúc Khang An, điều đó có thể hiểu, yêu là không thể quên được. Nhưng Phúc Khang An biết rõ mẹ mình đã hại chết Mã Xuân Hoa mà lại thấy chết không cứu, vô cùng tàn nhẫn! Mã Xuân Hoa cuối cùng có tỉnh ngộ hay không?
... Mã Xuân Hoa nói:
- Sau khi ta chết, cầu xin người... hãy chôn tôi bên cạnh Từ đại ca... chàng thật đáng thương... từ nhỏ đã yêu thương ta... nhưng ta chẳng đế ý tới chàng.
Hồ Phi nói:
- Được, ta nhất định sẽ làm được.
Không ngờ trước lúc chết, nàng lại nhớ đến chồng, trong lòng có chút tiếc thương, chàng vốn thâm hận Phúc Khang An nghe Mã Xuân Hoa nhắc đến chồng, không nhớ đến gã tình nhân vô lương tâm, thật tốt quá, nào ngờ Mã Xuân Hoa thở dài rầu rĩ khẽ nói:
- Phúc công tử, thiếp muốn gặp chàng.
Trần Gia Lạc đã đứng từ lâu trong phòng, Mã Xuân Hoa không nhìn thấy. Hồ Phi lắc đầu ôm hai đứa trẻ nhè nhẹ ra khỏi phòng, Trần Gia Lạc chầm chậm bước tới trước giường nàng. Lúc Hồ Phi bước ra đến sân, bỗng nghe Mã Xuân Hoa kêu lớn một tiếng.
Trong tiếng kêu mang đầy hạnh phúc, vui sướng.
Cuối cùng nàng cũng đã gặp được “người mình yêu”.
Có nghĩa là Phúc Khang An này là giả. Là bởi Trần Gia Lạc hóa trang. Trần Gia Lạc rất giống Phúc Khang An, lẽ ra Mã Xuân Hoa phân biệt được. Nhưng bởi vì lúc này nàng đã sắp chết đầu óc mê muội nhưng chẳng phải cả đời nàng đã yêu một kẻ giả tạo hay sao? Trần Gia Lạc cố nhiên là giả, Phúc Khang An cũng giả nốt.
Đó chính là sự cuồng vọng của tình yêu.
Nếu bảo rằng Mã Xuân Hoa yêu sai người, yêu một kẻ không đáng yêu nàng sẽ trả lời ra sao? Có lẽ nàng không thèm trả lời. Bởi vì đó là chuyện riêng của nàng. Nàng cam tâm tình nguyện. Nàng yêu. Không có liên quan gì đến người khác. Đương nhiên có liên hệ với chồng nàng, nàng biết nàng đã không phải với chồng cho nên trước khi chết đã nhờ Hồ Phi chôn nàng cạnh chồng nhưng đó chỉ là thi thể của nàng mà thôi còn trái tim của nàng dù sống hay chết đều thuộc về Phúc Khang An.
Đến phút cuối, gặp được người mình yêu, không cần biết là thật hay giả, thiện hay ác, sai hay đúng, chỉ cần nàng cảm thấy hạnh phúc, sung sướng là mãn nguyện rồi.
Trong “Tiếu ngạo giang hồ ” có Nhạc Linh San. Nếu như nói Mã Xuân Hoa yêu Phúc Khang An mà không hề để ý đến Từ Tranh, là bởi vì Từ Tranh là con người thô lậu, không thể nào so với Phúc công tử; Nam Lan xa rời Miêu Nhân Phụng mà đi theo Điền Quy Nông là bởi Miêu Nhân Phụng không biết nói những lời ngon ngọt; Mục Niệm Từ yêu Dương Khang là bởi Quách Tĩnh đã có Hoàng Dung, nàng đã không còn sự lựa chọn nào khác... còn Nhạc Linh San hoàn toàn không như thế. Tình yêu của Lệnh Hồ Xung đối với Nhạc Linh San hầu như ai cũng biết, đều cảm động, Lệnh Hồ Xung mọi mặt đều hơn LâmBình Chi, nhưng Nhạc Linh San lại nhất mực theo Lâm Bình Chi không để ý gì đến Lệnh Hồ Xung. Tình yêu vốn kỳ diệu, Nhạc Linh San yêu Lâm Bình Chi chỉ có một lý do. Đó là vì Lâm Bình Chi trang nghiêmđạo mạo giống như Nhạc Bất Quần mà Lệnh Hồ Xung có phong độ lãng tử giang hồ. Điều này Nhạc Linh San không thích. Hơn nữa Lệnh Hồ Xung và Nhạc Linh San từ nhỏ đã ở bên nhau, mà Lệnh Hồ Xung chuyện gì cũng chiều theo ý nàng, ngược lại không như Lâm Bình Chi trong lòng mang đầy hận thù, cho nên Nhạc Linh San đối với gã cũng có phần tội nghiệp. Thuở ban đầu Lâm Bình Chi có vẻ đàng hoàng đạo mạo, điều đó hợp với Nhạc Linh San.
Vì thế có thể hiểu được điều này. Điều khó hiểu là, Lâm Bình Chi trước khi thành hôn với Nhạc Linh San đã dẫn đao tự cung luyện tập “Tịch tà kiếm phổ”, từ đó chỉ có danh nghĩa vợ chồng với Nhạc Linh San.
Hơn thế nữa, Lâm Bình Chi không hề có chút tình cảm nào với Nhạc Linh San, trong lúc Nhạc Linh San gặp nguy hiểm không hề động tâm ra tay tương cứu. Nếu không có Doanh Doanh giúp đỡ, Nhạc Linh San đã chết dưới tay của đệ tử Thanh Thành. Lẽ ra đến đây Nhạc Linh San phải hiểu rõ, tỉnh ngộ, nhưng
không. Lâm Bình Chi hai mắt đều mù, Nhạc Linh San vẫn cứ chung thủy. Lâm Bình Chi sĩ nhục nàng, Nhạc Linh San vẫn cứ chịu đựng. Lâm Bình Chi nói rõ gã không còn là đàn ông nữa đồng thời Nhạc Bất Quần tận xương cốt, Nhạc Linh San chỉ thở dài cho số phận của mình, vẫn quyết đi theo gã.
Cuối cùng Lâm Bình Chi vì muốn tỏ rõ lòng mình với Tả Lãnh Thiền mà rút kiếm đâm Nhạc Linh San trọng thương không còn cách cứu chữa nữa. Dương Khang dù có xấu xa hơn nữa cũng không hề hạ độc thủ như thế đối với Mục Niệm Từ, Điền Quy Nông tuy nhân phẩm không ra gì nhưng vẫn một dạ thâm tình với Nam Lan; ngay cả Phúc Khang An tuy tàn nhẫn độc ác không dám chống lại lời mẹ, nhưng vẫn không hề tự tay hạ sát Mã Xuân Hoa, ngược lại còn có chút tiếc thương, còn Lâm Bình Chi thì tự tay mình giết chết Nhạc Linh San, còn Nhạc Linh San lúc đó thì như thế nào?
Lệnh Hồ Xung mãi lo đến chuyện yên nguy của Nhạc Linh San mà không rãnh để rượt theo kẻ địch. Chàng thấy Nhạc Linh San ngã quay ra chỗ ngồi của phu xe.
Trước ngực còn thanh trường kiếm cắm vào.
Chàng để tay lên mũi thì thấy nàng chỉ còn thoi thóp thở.
Lệnh Hồ Xung gọi ầm lên:
- Tiểu sư muội! Tiểu Sư muội!
Nhạc Linh San đáp:
- Đại... đại sư ca đấy ư?
Lệnh Hồ Xung cả mừng:
- Phải rồi... tiểu huynh đây mà.
Chàng đặt tay vào chuôi kiếm toan rút ra.
Doanh Doanh vội đưa tay ra cản lại nói:
- Không rút kiếm ra được đâu!
Lệnh Hồ Xung thấy lưỡi kiếm ngập sâu đến nửa thước. Đúng là vết thương chí mạng. Nếu rút kiếm ra Nhạc Linh San chết ngay lập tức. Chàng thấy không còn cách nào cứu được thì trong lòng rất đau đớn không nhịn được phải khóc rống lên. Chàng vừa khóc vừa gọi:
- Tiểu... tiểu sư muội!
Nhạc Linh San nói:
- Đại sư ca! Đại sư ca ở bên mình tiểu muội... lúc này thật hay quá. Bình đệ... Bình đệ đi rồi ư? Lệnh Hồ Xung nghiến răng vừa khóc vừa an ủi:
-Tiểu sư muội hãy yên tâm. Tiểu huynh nhất định phải giết gã để báo thù cho sư muội. Nhạc Linh San cố gắng nói ngay:
- Đừng đừng! Mắt gã đui mù chẳng nhìn thấy gì... đại sư ca mà giết gã... gã không chống chọi được. Tiểu muội... tiểu muội đến chỗ mẹ.
Lệnh Hồ Xung nói:
- Được rồi! Tiểu huynh đưa sư muội đến gặp sư nương.
Doanh Doanh nghe tiếng Nhạc Linh San mỗi lúc một yếu ớt sắp chết đến nơi thì cầm lòng không đậu bất giác hai hàng lệ nhỏ.
Nhạc Linh San nói:
- Đại sư ca! Thủy chung đại sư ca rất tử tế với tiểu muội... tiểu muội lầm lỗi với đại sư ca... tiểu muội... sắp chết rồi.
Lệnh Hồ Xung sa lệ nói:
- Sư muội không chết đâu tiểu huynh ráng tìm cách chữa khỏi cho.
Nhạc Linh San nói:
- Tiểu muội... thấy đau... đau lắm... ở chỗ này. Đại sư ca! Tiểu muội xin đại sư ca một điều... đại sư ca... đừng từ chối nhé.
Lệnh Hồ Xung nắm lấy tay nàng ấp úng:
- Sư muội nói đi, nói đi, tiểu huynh nhất định nghe theo.
Nhạc Linh San thở dài nói:
- Chắc đại sư ca... không nghe được... vả lại làm thế thì... ép uổng sư ca quá đỗi. Thanh âm nàng nói rất khẽ, hơi thở cũng yếu dần.
Lệnh Hồ Xung nói:
- Tiểu huynh nhất định nghe theo. Tiểu sư muội nói đi!
Nhạc Linh San hỏi:
- Đại sư ca bảo sao?
- Tiểu huynh nhất định nghe theo. Sư muội bảo tiểu huynh làm việc gì tiểu huynh cũng nhất quyết làm cho bằng được. - Lệnh Hồ Xung đáp.
Nhạc Linh San đáp:
- Đại sư ca!... Trượng phu của tiểu muội... Bình đệ đui mắt... tình trạng rất đáng thương... đại sư ca có biết không?
- Tiểu huynh biết rồi! - Lệnh Hồ Xung đáp.
Nhạc Linh San nói:
- Gã ở trên đời lênh đênh trơ trọi... ai cũng khinh khi... đại sư ca!... tiểu muội chết rồi, xin đại sư ca... hết sức chiếu cố cho gã... đừng để người ta khinh nhờn gã.
Lệnh Hồ Xung sửng sốt. Chàng không ngờ Lâm Bình Chi hạ độc thủ giết vợ mà Nhạc Linh San đến lúc lâm chung vẫn không sao quên được mối tình với gã. Lúc này chàng chỉ hận mình chưa nắm được Lâm Bình Chi để phanh thây gã ra làm muôn đoạn.
Thế mà Nhạc Linh San bảo chàng buông tha tên ác tặc vong ơn phụ nghĩa thì chàng nghe thế nào được.
Nhạc Linh San thều thào nói:
- Đại sư ca! Bình đệ... thật tình không muốn giết... tiểu muội đâu... gã sợ gia gia của tiểu muội... mà phải đi nương nhờ Tả Lãnh Thiền, hắn mới... đâm... tiểu muội một kiếm mà thôi. Lệnh Hồ Xung ra vẻ tức giận đáp:
- Tên ác vong ân phụ nghĩa chỉ nghĩ đến mình như gã mà tiểu muội... cũng tính điều thủy chung thương gã được ư?
Nhạc Linh San thều thào đáp:
- Không phải gã... muốn giết tiểu muội đâu... chẳng qua gã... lỡ tay mà thôi. Đại sư ca ơi!... tiểu muội thỉnh cầu đại sư ca, năn nỉ đại sư ca chiếu cố cho gã...
Lúc này ánh trăng soi chênh chếch vào mặt nàng, Lệnh Hồ Xung nhìn rõ mắt nàng đã tán loạn vô thần, không còn tinh lang trong suốt như mọi khi nữa. Má nàng trắng như tuyết cũng đầm đìa nước mắt và máu tươi đỏ hồng tựa như thoa son. Cả gương mặt nàng lộ vẻ cầu khiển tha thiết.
Lệnh Hồ Xung nhớ tới khoảng thời gian hơn mười năm trời đã cùng cô tiểu sư muội này dắt nhau đi chơi khắp đỉnh non, hang thẳm trên núi Hoa Sơn. Lúc nào nàng yêu cầu việc gì chẳng bao giờ chàng cự tuyệt nàng cả.
Hiện giờ Nhạc Linh San có điều cầu khẩn chàng mà lại vào giữa cảnh bi ai thống thiết, nàng biết mình sắp chết đến nơi. Hơn nữa đây là lần cuối cùng nàng cầu khẩn chàng, ngoài ra không còn cơ hội nào nữa. Nghe lời cầu khẩn cực kỳ tha thiết lần cuối cùng, Lệnh Hồ Xung cầm lòng không đậu. Bầu máu nóng trong trái tim chàng trào ngược lên. Chàng biết là nếu mình ưng thuận lời yêu cầu của Nhạc Linh San thì từ đây chẳng những phiền luỵ vô cùng mà nó còn có một điều cưỡng bách, chàng không muốn làm chút nào.
Nhưng chàng thấy giọng nói cùng vẻ mặt cực kỳ bi ai đành gật đầu đáp:
- Được rồi! Sư ca nhận lời sư muội. Sư muội cứ yên tâm đừng lo lắng điều chi nữa. Doanh Doanh đứng bên nghe không thể nhịn được liền xen vào:
- Xung lang! Sao Xung lang lại hứa điều này?
Nhạc Linh San nắm chặt lấy tay Lệnh Hồ Xung nói:
- Đại sư ca!... đa tạ... đại sư ca... tiểu muội yên tâm rồi...
Bỗng mắt nàng lại sáng lên. Trên môi hé nụ cười ra chiều thỏa mãn. Lệnh Hồ Xung thấy thế nghĩ thầm trong bụng:
- Nàng được thỏa lòng như vậy thì dù ta có phải giành tất cả những nỗi khốn khổ nhất trong thiên hạ cũng là đáng lắm.
Đột nhiên Nhạc Linh San nhẹ nhàng cất tiếng hát.
Lệnh Hồ Xung nghe tiếng hát khác nào bị đánh một đòn rất nặng vào trước ngực. Nhạc Linh San hát đây là khúc sơn ca Phúc Kiến. Lệnh Hồ Xung còn nghe rõ cả miệng nàng phát âm ra điệu bài “chị em lên núi hái chè”. Khúc Phúc Kiến sơn ca này là do Lâm Bình Chi đã dạy nàng.
Hồi Lệnh Hồ Xung còn ở trên Tư Quá nhai đã được nàng hát khúc sơn ca này và chàng đã quặn đau khúc ruột. Bây giờ chàng lại nghe nàng khúc hát đó tức là tưởng nhớ đến ngày cùng Lâm Bình Chi chung hưởng mối tình đằm thắm.
Thanh âm Nhạc Linh San mỗi lúc một nhỏ đi. Tay nàng cũng từ từ buông tay Lệnh Hồ Xung ra. Sau cùng nàng xoè bàn tay ra một cái rồi từ từ nhắm mắt lại. Khúc sơn ca ngừng hẳn hơi thở nàng cũng ngừng luôn.
Còn lời gì để nói? Chẳng thể nói được lời gì.
Đó là một câu chuyện khó hiểu. Thật sự không thể nào hiểu được. Tình yêu của Nhạc Linh San quả thật khá lớn, nàng vẫn lo cho Lâm Bình Chi “hai mắt đã mù không ai chăm sóc” (còn Lâm Bình Chi lại cho rằng mình mắt mù nhưng lòng vẫn sáng), mà không hề nghĩ rằng người mù hai mắt thật sự mới chính là nàng. Hai mắt nàng mù đến nỗi không thể mù hơn nữa. Nếu không tại sao lại ra nông nỗi như thế? Nếu không làm sao lại yêu Lâm Bình Chi, sao lại lo lắng cho hắn, sao lại chấp mê bất ngộ như thế...
Nhạc Linh San đã yêu đến điên cuồng rồi. Tình yêu điên cuồng đó, cũng bởi vì tấm chân tình của nàng.
Tình yêu chân chính thì chỉ có yêu mà thôi, không hề toan tính lợi hại được mất, không có lý trí. Tình yêu thật sự là mù quáng như thế, là điên cuồng như thế.
Cũng bởi vì sự mù quáng và điên cuồng như thế chúng ta mới thấy được tình yêu chân chính. Đến mức quên cả chính mình. Chỉ biết có người yêu. Cho đến chết cũng không hối hận. Chỉ có trong cảnh tuyệt vọng như thế mới có thể khảo nghiệm được tình yêu thực sự. Nếu như thuận buồm xuôi gió, cả hai người đều vui vẻ,... làm sao có thể phân định được đâu là giả, đâu là thật, đâu là sâu sắc, đâu là hời hợt.
Đương nhiên, trong cuộc sống có rất ít người như Nhạc Linh San. Rất ít chứ không phải là tuyệt đối không có. Chúng ta sống trong cõi hồng trần gió bụi, vì danh lợi kiềm toả. Nhưng nếu điều gì ngoài sự kiềm tỏa đó thì đó chính là tình yêu. Trong cuộc sống, “tài” biến thành một giá trị, “mạo” cũng biến thành một giá trị, uy quyền cũng là một giá trị,... vì thế tình yêu cũng bị giá trị hóa thậm chí có “giá cả” rõ ràng.
Kỳ thực, điểm này không khó hiểu, tình yêu của chúng ta thường chẳng qua là bởi dục vọng. Trong thế giới của chúng ta, “ta” mãi mãi là hạt nhân, vì “ta” mãi mãi là mục đích “anh yêu em” từ lâu đã biến thành “xin em hãy yêu anh”.
Chúng ta biết Mã Xuân Hoa, Mục Niệm Từ, Nhạc Linh San... vì tình mà quên hết tất cả. Nhưng cũng thật mạnh mẽ chân thành, làm người ta thật cảm động.
Chúng ta cũng thấy, Lệnh Hồ Xung không nên hứa với Nhạc Linh San chăm lo cho gã Lâm Bình Chi. Nhưng anh chàng thông minh Lệnh Hồ Xung lại hết sức ngu ngốc khi hứa điều này, anh chàng Lệnh Hồ Xung đang phẫn nộ lại hết sức dịu dàng mà hứa với Nhạc Linh San. Tất cả đều vì nàng, mặc dù chàng đi chăm sóc gã táng tận lương tâm Lâm Bình Chi. Chỉ vì nét vui trên khuôn mặt của nàng xuất hiện là “có thể chấp nhận bao nhiêu gian khổ vì nàng”! Nhưng thế có đáng không? Chàng không hề suy nghĩ, cũng không thể suy nghĩ. Chỉ cần chàng yêu Nhạc Linh San là vĩnh viễn chẳng cần phải suy nghĩ.
Lệnh Hồ Xung là như thế, Nhạc Linh San cũng thế. Giả sử Nhạc Linh San là kẻ xấu cũng giết Lệnh Hồ Xung, Lệnh Hồ Xung có nhờ Nhậm Doanh Doanh chăm sóc cho Nhạc Linh San không? Không thể, tôi nghĩ là không thể, bởi vì trên thực tế Nhạc Linh San đã đối xử không tốt với Lệnh Hồ Xung, lãnh đạm với chàng, vu oan cho chàng, lăng nhục chàng, chửi mắng chàng,... tất cả đều diễn ra hết, Lệnh Hồ Xung đau khổ tột cùng nhưng chàng đều chịu đựng, không hề thay đổi tình yêu với Nhạc Linh San. Nếu là như thế, Lệnh Hồ Xung đã cố gắng hết sức để giúp nàng, chăm sóc nàng, lúc sắp chết nhờ Doanh Doanh chăm sóc nàng. Mà Nhậm Doanh Doanh cũng có thể sẽ nhận lời Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung vì “nàng”, mà NhậmDoanh Doanh thì vì “chàng”. Tất cả đều vì một chữ yêu, đương nhiên là vì tình yêu chân chính. Nếu tình yêu mà không có mù quáng, ngốc nghếch,... thì làm gì có tình yêu.
- o O o -
HỒI 8
TÌNH YÊU VÀ MÊ HOẶC
Tác phẩm đầu tay “Thư kiếm ân cừu lục ” của Kim Dung tuy về mặt nghệ thuật không thành công lắm, nó kém hơn những tác phẩm sau này của ông. Nhưng, bởi vì đây là bộ truyện đầu tiên, kỹ thuật của tác giả chưa đến chỗ hoàn thiện, nhưng tác giả viết rất tự nhiên chân thực phong phú. Có thể nói những cái hay của các tác phẩm sau này đều có mầm mống từ tác phẩm này. Đây là điểm đáng chú ý nhất cũng là điểm đáng để chúng ta nghiên cứu nhất.
Trong tình yêu điều khó khăn nhất là sự chọn lựa, trong bộ truyện này cũng vậy, nhân vật chính là Trần Gia Lạc phải đối mặt với sự chọn lựa giữa Hoắc Thanh Đồng và Hương Hương công chúa, có thể thấy rằng đây là vấn đề khó khăn đối với Trần Gia Lạc: “lòng ta rốt cuộc là yêu ai?”. Câu hỏi này đè nặng trong lòng của Trần Gia Lạc. Bởi vì hai chị em “đều mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”, cả hai đều có tình cảm sâu sắc với chàng.
Cũng như trong “Hồng lâu mộng”, Giả Bảo Ngọc phải chọn lựa giữa Lâm Đại Ngọc và Tiết Bảo Thoa, cả hai đều đã từng thề non hẹn biển với chàng. Sau này những nhà bình luận đều nhận định một cách đơn giản rằng Giả Bảo Ngọc chỉ yêu Lâm Đại Ngọc mà không yêu Tiết Bảo Thoa, e rằng quá đơn giản, quá võ đoán. Họ không thấy rằng, Giả Bảo Ngọc hướng về phía Lâm Đại Ngọc là vì chàng muốn tự do, là sự phản kháng đối với sự mất tự chủ trong hôn nhân và vận mệnh. Nếu không có lệnh cha mẹ, để cho chàng tự do chọn lựa, Giả Bảo Ngọc cũng sẽ lâm vào cảnh khó xử.
Trong “Thư kiếm ân cừu lục ” Kim Dung đã đưa ra hai sự chọn lựa khó khăn, cuối cùng vì vận mệnh đẩy đưa, Hương Hương công chúa chết thảm, Trần Gia Lạc thất bại, lại còn lạc mất Hoắc Thanh Đồng, từ đó kết thúc tất cả. Nhưng sự chọn lựa đầy khó khăn vẫn còn tồn tại. Chẳng qua, trong những sáng tác sau này, Kim Dung cũng như những nhà văn cổ điển khác đều đã cố gắng tránh đi những sự lựa chọn kiểu này. Trên thực chất là chọn lựa phương thức đơn giản nhất là phân biệt rõ ràng yêu và không yêu.
Như Quách Tĩnh yêu Hoàng Dung, mà không yêu công chúa Hoa Tranh; Hồ Phi yêu Viên Tử Y mà không yêu Trình Linh Tố; Dương Quá yêu Tiểu Long Nữ mà không yêu Trình Anh, Lục Vô Song, Công Tôn Lục Ngạc, Quách Tường,...
Làm như thế bởi vì có nhiều nguyên nhân. Đầu tiên là về nghệ thuật kể chuyện, tác giả muốn làm nổi bật trung tâm, không để cho các chi tiết phụ lấn át, độc giả sẽ không bị lẫn lộn. Thứ đến, là tính nghiêm túc, vì tác giả e rằng sẽ làm cho tình yêu trở nên lộn xộn, không theo một tuyến nào cả. Đồng thời, viết như vậy, vẫn còn có những căn cứ khách quan nữa, là một người chỉ có thể yêu một người mà thôi. Ở đây rõ ràng tác giả đã chịu ảnh hưởng của thái độ hôn nhân một vợ một chồng thời hiện đại. Cuối cùng, có lẽ cũng do quan niệm của tác giả. Đó là một người trong đời chỉ có thể yêu một lần “đương nhiên là yêu một người”... như thế, chúng ta có thể hiểu được cũng có thể chấp nhận.
Tình yêu giữa nam và nữ chỉ có thể một người và một người, đó là thường tình.
Nam nữ yêu nhau, đầu tiên là vì lý tưởng, hy vọng đối tượng của mình hoàn mỹ, mà con người thì
chẳng bao giờ hoàn mỹ được. Con người ai cũng có ưu điểm và khuyết điểm.
Nếu chỉ phù hợp một phần của lý tưởng, thì đã lọt vào mắt xanh của mình rồi. Nhưng giả sử có nhiều hơn một người phù hợp với lý tưởng của mình thì sao, chúng ta chỉ có thể chọn một mà thôi, nhưng chúng ta cũng hy vọng một người nhưng có nhiều ưu điểm phù hợp với lý tưởng của mình. Điều đó là không thể, vì thế chúng ta phải đối mặt với sự lựa chọn đầy khó khăn.
Nhưng những nhân vật nam của ông lẽ nào chỉ vì không yêu mà tránh khỏi phải lựa chọn một cách đơn giản hay sao? Trong “Ỷ thiên đồ long ký ”. Trương Vô Kỵ đã rất khó khăn khi chọn lựa giữa Tiểu Siêu, Hân Ly, Chu Chỉ Nhược:
... Trương Vô Kỵ đột nhiên bừng tỉnh, mặt mày sợ hãi trắng bợt, thì ra lúc nãy chàng vừa mới nằm mơ thấy mình cưới Chu Chỉ Nhược, Triệu Mẫn. Chàng cũng cưới cả Tiểu Siêu, Hân Ly, khuôn mặt của Hân Ly lúc bấy giờ cũng biến thành xinh đẹp.
Những ý nghĩ ban ngày không dám nghĩ đến, trong mơ lại xuất hiện, chàng chỉ cảm thấy bốn vị cô nương đều tốt, bản thân không đành xa họ, chàng không đành xa họ.
Lúc đó chàng bỗng nghe Hân Ly trách mắng phụ thân, nhớ lại những lời nàng nói trước kia, nàng vì không nỡ để mẹ bị khinh khi, đã giết ái thiếp của cha. Mẹ nàng cũng vì thế mà tự vẫn, làm cho Hân Dã Vương trong cơn bực tức đã định giết nàng. Xảy ra chuyện này chung qui cũng bởi Hân Dã Vương không chung thủy cưới tiểu thiếp.
Chàng liếc nhìn Triệu Mẫn, lại liếc nhìn Chu Chỉ Nhược, nhớ lại giấc mộng đẹp lúc nãy, trong lòng hổ thẹn.
Giấc mơ trên chắc chắn là có thực, là sự tái hiện ước mơ của Trương Vô Kỵ. Đồng thời sự hỗ thẹn cũng có thực, đó là sự tự phê bình của lý trí và đạo đức. Lý trí đạo đức và ước muốn của bản năng thì mâu thuẫn với nhau, vì thế con người cần có lý trí và đạo đức để kiểm soát chính mình. Từ đó những điều chúng ta làm và những điều chúng ta nghĩ thường xung đột với nhau, cuối cùng thì cần phải có sự thỏa hiệp ở một mức độ nào đó. Sự thỏa hiệp đó tùy thuộc vào trình độ văn minh của xã hội, hoàn cảnh cụ thể của nhân vật, tích cách của nhân vật. Trương Vô Kỵ đối mặt với tình huống ấy không chỉ là mơ mà còn là thực, ban ngày chàng cũng nghĩ đến chuyện ấy:
Khi cùng Chu Chỉ Nhược, Triệu Mẫn, Hân Ly, Tiểu Siêu, lênh đênh trên biển, chàng đã nhiều lần nghĩ thầm:
- Bốn vị cô nương đều đối vời ta tình thâm ái trọng, ta làm sao mới ổn đây? Bất luận ta thành thân với ai sẽ làm ba người kia đau lòng. Rốt cuộc từ sâu thẳm lòng ta, ta yêu ai nhất? Chàng trước sau cũng khó quyết định, chỉ muốn né tránh, lúc thì nghĩ:
- Chưa đuổi được Thát Đát, sơn hà chưa quang phục. Chưa diệt Hung Nô, làm sao nghĩ đến chuyện riêng đây? Làm sao nghĩ đến chuyện nhi nữ tư tình .
Lúc lại nghĩ:
- Ta thân là giáo chủ Minh Giáo, mỗi lời nói, hành động đều có liên quan đến sự hưng suy của bản giáo và võ lâm. Ta tự tin một đời phẩm hạnh trong sạch, nhưng còn vướng ở chuyện nữ sắc, làm
cho anh hùng thiên hạ chê cười, hỏng uy danh của bản giáo.
Lúc sau lại nghĩ:
- Trước sau khi mẹ ta lâm chung, đã từng dặn ta đàn bà đẹp thì hay gạt người nhất, bảo ta phải cẩn thận đề phòng, di ngôn của người sao không chịu nhớ kia chứ?
Tuy chàng cố biện giải, nhưng chẳng qua là lừa gạt bản thân mình, yêu một người chưa chắc đã cản trở đại nghiệp của chàng, chưa chắc làm hỏng uy danh Minh giáo, chỉ là trong lòng chàng ai cũng tốt, cho nên khó quyết định mà thôi...
... Có lúc chàng lại bụng bảo dạ:
- Nếu ta có thể cùng bốn vị cô nương suốt đời bên nhau, cả nhà hòa thuận hóa chẳng phải tiêu giao khoái lạc hay sao...
...Trương Vô Kỵ tính thình kiêm hoà, cảm thấy bất luận thành thân với ai đều là phúc trạch to lớn, nếu cưới thêm thiếp ắt hẳn sẽ có lỗi với người ta cho nên ý nghĩ đó vụt hiện trong lòng đã biến mất, từ đó không dám nghĩ nhiều, có lúc nhớ đến chàng thường tự trách:
- Làm người phải biết đủ, ngươi có ý nghĩ như thế chẳng phải là đã quá bỉ ổi vô sỉ hay sao. Đoạn trên cực kỳ tuyệt vời. Chúng ta không cần nói nhiều nữa. Chúng ta nên hiểu Trương Vô Kỵ, trong lòng chàng đang diễn ra xung đột và mâu thuẫn. Đối mặt với xung đột mâu thuẫn như thế bất cứ ai cũng cảm thấy khó khăn. Đồng thời, mỗi người chúng ta đều có thể đối mặt với những mâu thuẫn xung đột như thế.
Làm thế nào đây? Kim Dung đã mở ra một lối thoát cho Trương Vô Kỵ. Đó là ông đã giao cho vận mệnh sự chọn lựa này. Để cho trời xanh kia sắp xếp. Trong truyện, đã xuất hiện hai cục diện: thứ nhất, Tiểu Siêu bị ép về Ba Tư, Hân Ly qua đời, mọi người đều cho rằng Hân Ly bị Triệu Mẫn hãm hại, như thế đã quá thuận lợi, nghĩa là chàng đã thành thân với Chu Chỉ Nhược. Thứ hai, Tiểu Siêu phải đi xa, Hân Ly không biết sống chết ra sao. Nhưng Chu Chỉ Nhược và Triệu Mẫn té ra là thiện ác đảo điên, sự thật ngày càng hé lộ, may mà Trương Vô Kỵ vẫn chưa thành thân với Chu Chỉ Nhược, Triệu Mẫn công nhiên đoạn tuyệt cha anh, quyết một lòng theo Trương Vô Kỵ, vì thế Trương Vô Kỵ đã không hề do dự mà chọn Triệu Mẫn. Bởi vì Triệu Mẫn là đối tượng duy nhất mà chàng có thể chọn lựa.
Quả là một cách giải quyết tuyệt vời nhưng chúng ta cũng thấy rằng câu chuyện này cũng có chỗ gút mắt để lại ấn tượng không đẹp lắm trong lòng người đọc, có lẻ Kim Dung ngại độc giả không hiểu nên đã nhiều lần giải thích. Đó là ông đã để cho Chu Chỉ Nhược cố ý đưa ra câu hỏi, hỏi rằng bốn vị cô nương đứng trước mặt Trương Vô Kỵ thì chàng sẽ như thế nào?
Trương Vô Kỵ nói:
- Chỉ Nhược, chuyện này ta đã nghĩ tới từ lâu rồi. Ta trước kia tựa hồ như không giải quyết được, nhưng cho đến ngày hôm nay ta mới biết người mình thật sự yêu là ai.
- Phải chăng là... Triệu cô nương . - Chỉ Nhược hỏi.
Trương Vô Kỵ nói:
- Không sai, ta hôm nay tìm không thấy nàng, thì cũng sẽ chết theo nàng. Nếu từ đây không thể
thấy được nàng, ta cũng chẳng sống được bao lâu nữa. Tiểu Siêu xa ta mà đi, ta đau đớn vô cùng. Biểu muội của ta qua đời, ta lại còn buồn bã hơn... muội sau này cũng thế, ta cũng rất xót xa, cũng sẽ tiếc nuối vô cùng. Nhưng Chu Chỉ Nhược ôi, ta không thể giấu nàng được, nếu cuộc đời này ta không gặp lại Triệu cô nương ta thà chết còn hơn. Lòng này trước nay ta chưa tỏ cùng ai.
Lúc đầu tình cảm của chàng đối với Hân Ly, Chu Chỉ Nhược, Tiểu Siêu, Triệu Mẫn không hề phân biệt, nhưng hôm nay Triệu Mẫn ra đi, chàng mới đột nhiên phát giác, té ra địa vị của Triệu Mẫn trong lòng chàng không hề giống với ba người kia.
Như thế, độc giả có lẽ càng hiểu rõ hơn, càng có thể chấp nhận hơn. Bởi vì “rốt cuộc thì một người chỉ cần một người mà thôi”.
Đương nhiên, tình cảm của Trương Vô Kỵ đối với Triệu Mẫn chưa sâu sắc lắm (sau khi nàng ra đi, chàng mới cảm thấy tình yêu của chàng đối với nàng là lớn nhất), nhưng không thể phủ nhận rằng tình yêu của chàng đối với bốn cô gái đều sâu sắc như nhau.
Nếu như thế người ta sẽ lẫn lộn thật giả với nhau mất.
Thật ra Kim Dung cũng hiểu rõ điểm này. Cho nên trong phần hậu ký ông đã viết thêm “Trương Vô Kỵ rất vất vả, giữa Chu Chỉ Nhược, Triệu Mẫn, Hân Ly, Tiểu Siêu, có lẽ tình cảm của chàng đối với Triệu Mẫn là sâu đậm nhất, ở đoạn cuối chàng đã tỏ với Chu Chỉ Nhược điều này, nhưng từ sâu thẳm lòng chàng, chàng yêu ai nhiều nhất? Có lẽ cả bản thân chàng cũng chẳng biết. Tác giả cũng không biết, bởi vì tính cách của chàng là như thế, sự phát triển của câu chuyện là dựa theo tính cách của chàng, tác giả không thể can dự vào được”. Nói rất hay! Kim Dung biện hộ cho Trương Vô Kỵ, có lẽ lúc đó ông đang đứng ở tâm thế của độc giả mà nghĩ, bởi vì cảnh ngộ của Trương Vô Kỵ đã dẫn đến sự quyết định của chàng. Nhưng phía sau lại cỏ vẻ không thỏa đáng lắm.
Cho nên tác giả trong phần hậu ký đã chính đính, thuyết minh thêm.
Chẳng qua, Kim Dung đã đẩy nan đề của Trương Vô Kỵ lên cá tính của chàng.
Trương Vô Kỵ cố nhiên có chút do dự, nhưng Quách Tĩnh và Dương Quá cũng thế thôi? Quách Tĩnh gặp Hoàng Dung và Hoa Tranh, chàng hiểu rõ ràng yêu ai và không yêu ai, tất cả đều vì cá tính của chàng, và cũng có phần sắp xếp của tác giả. Cũng như tác giả đã không dể Dương Quá phải chọn lựa giữa Trình Anh, Lục Vô Song, Quách Tường, để có thể giữ được cá tính và tính thuần khiết của tình yêu Dương Quá.
Thử làm một phép so sánh, chúng ta thấy rằng tác giả miêu tả tâm lý tình yêu của Trương Vô Kỵ chân thật hơn nhiều, sâu sắc hơn nhiều. Như thế ông đã nhìn thẳng vào bí mật tính cách con người. Khi viết về tình yêu của Trương Vô Kỵ, Kim Dung có vẻ hơi do dự e ngại, ý như muốn làm cho người ta hiểu mà lại sợ cho người ta hiểu, muốn nói rõ mà lại cảm thấy thà để mờ ảo thì hay hơn. Cho đến “Thiên long bát bộ ”, khi viết tới những chuyện tình của Đoàn Chính Thuần thì sự do dự này không còn nữa. Thứ nhất là bởi vì Đoàn Chính Thuần không phải là nhân vật chính, cho nên được tự do hơn. Thứ hai là vì xuất thân của Đoàn Chính Thuần là một vương gia nên chuyện phong lưu lãng mạn có thể tha thứ được. Thứ ba là vì “Thiên long bát bộ ” là một sách ngụ ngôn, cho nên tác giả đã cố gắng mở
rộng và cuối cùng thu lại. Nguyên nhân cuối cùng, phải nói là nguyên nhân quan trọng nhất, có lẽ ở đây tác giả đã hiểu quá rõ về trong tính cách của con người.
Đoàn Chính Thuần trong tiểu thuyết Kim Dung là độc nhất vô nhị, tình yêu của ông ta muôn màu muôn vẻ, là một người đa tình “thấy một người yêu một người”. Nhưng khác với Điền Bá Quang trong “Tiếu ngạo giang hồ ”, Đoàn Chính Thuần là vì tình yêu chứ không vì xác thịt, không giống với Vi Tiểu Bảo trong “Lộc đỉnh ký ”.
Thực ra tác giả có thể để cho Đoàn Chính Thuần cưới năm thê bảy thiếp, bởi vì ông là vương gia kia mà. Nhưng đây là tiểu thuyết, cho nên tác giả đã để cho Đoàn Chính Thuần ngao du giang hồ, tìm hoa thơmcỏ lạ. Ông có những mối quan hệ khác nhau với người vợ Đao Bạch Phụng và những người đàn bà trên giang hồ khác như Vương phu nhân, Cam Bảo Bảo, Tầng Hồng Miên, Nguyễn Tinh Trúc, Khang Mẫn, đồng thời giữ một mối quan hệ nhất định không chấp nhận chia tay, những người đàn bà ấy (trừ Khang Mẫn), dù kết hôn hay không kết hôn với ông, dù hận thù ông đến đâu cũng đều yêu ông sâu đậm. Lúc không gặp Đoàn Chính Thuần, họ hận ông thấu xương, tựa như muốn lột da róc thịt ông, thậm chí hận cả hai từ “Đại Lý” và họ “Đoàn”, nhưng chỉ cảm thấy Đoàn Chính Thuần, bao nhiêu thù hận của họ biến mất, tình yêu lại ùa về...
“Hiện tượng Đoàn Chính Thuần” đặc biệt nổi bật trong tiểu thuyết Kim Dung.
Vấn đề không phải ở những cuộc tình của Đoàn Chính Thuần, mà là sự đánh giá và nhận thức của tác giả về vấn đề này. Sự nhận thức và đánh giá của tác giả là rất rõ ràng và chính xác. Đoàn Chính Thuần nhổm người dậy, rút thanh trường kiếm. Trên mũi kiếm vẫn còn động lại những giọt máu của Nguyễn Tinh Trúc, Tần Hồng Miên, Cam Bảo Bảo, Vương phu nhân, mỗi người đều từng hẹn ước bạc đầu với ông. Đoàn Chính Thuần tuy tính phong lưu, tình không chuyên nhất, nhưng ông đối với mỗi người đều chân thật, ông hận không moi tim được, cắt thịt ra để cho họ. Tận mắt thấy bốn người vì ông mà chết, Vương phu nhân gối đầu lên người của Tần Hồng Miên, Cam Bảo Bảo nằm trên bụng Nguyễn Tinh Trúc, bốn người lúc sinh tiền ai cũng vì ông mà nếm chịu nhiều đau khổ, lòng đau ruột cắt vui ít buồn nhiều, đến rốt cuộc vì mình mà chết, lúc Nguyễn Tinh Trúc bị Mộ Dung Phục giết, Đoàn Chính Thuần đã quyết chết theo, lúc đó đã không còn ý nghĩ nào khác, trong dạ yên tâm Đoàn Dự đã thành người, văn võ song toàn, Đại Lý không lo thiếu người nối nghiệp, ta còn gì phải lo nghĩ nữa? Rồi Đoàn Chính Thuần quay đầu nói với phu nhân:
- Phu nhân ta thật có lỗi với nàng. Trong lòng ta, nàng cũng như bọn họ, ai cũng đều là bảo bối của lòng ta, ta yêu họ thật tình, yêu nàng cũng chân thành.
Đoàn Chính Thuần vì tình mà chết. Lúc ông còn sống, Đao Bạch Phụng không hề tha thứ cho ông, nhưng khi ông chết đã ôm thi thể mà rằng: “Thuần ca ơi hỡi Thuần ca, dù chàng có một ngàn, một vạn người đàn bà đi chăng nữa thiếp cũng yêu chàng. Thiếp có lúc nghĩ không thông mà giận chàng nhưng... đó là chuyện trước kia... đó là vì quá yêu chàng mà thôi...”. Đoàn Chính Thuần tự sát vì những tình nhân, còn Đạo Bạch Phụ tự sát là vì người chồng yêu quý.
Đó quả là một thảm kịch ở chốn nhân gian.
Vấn đề là: điều đó có thật không? Đoàn Chính Thuần nói: “Những người đàn bà ấy cũng như nàng, đều là bảo bối của lòng ta, ta yêu họ thật sự, ta yêu nàng cũng chân thành!” điều đó có thật không? Có đáng
tin không? Lẽ nào con người lại có thể như thế được?
Điều đó làm cho nhiều người không thể hiểu nổi. Tình yêu vốn khó hiểu.
Đoàn Chính Thuần làm như thế rõ ràng là không đạo đức, ông đã làm thương tổn trái tim của họ, chiếm tuổi thanh xuân tình yêu của họ, làm cho họ đau khổ, đố kỵ lẫn nhau, biến thái điên cuồng, nếm bao nhiêu cay đắng, cuối cùng lại vì ông mà hy sinh tính mạng.
Chúng ta không hoài nghi Đoàn Chính Thuần là không chân thành, bởi vì ông đã hy sinh cả tính mạng, trước lúc ra đi cần gì phải nói dối?
Sự bình giá và nhận thức của tác giả về “hiện tượng Đoàn Chính Thuần” là như thế. Tức là “Đoàn Chính Thuần tuy tính tình phong lưu, dụng tình bất chuyên, nhưng ông đối với ai cũng đều chân thành”. Thực ra, tất cả những điều đó không chỉ là có thể mà còn là sự thật bí mật của tính cách con người thật sâu sắc.
Như phía trước đã nói, “đời người chỉ yêu một lần”, đó chỉ là sự ảnh hưởng của chế độ hôn nhân một vợ một chồng và quan niệm luân lý đạo đức mà thôi, là một quan niệm có thể đúng có thể sai. Nhưng qua một thời gian dài, con người đã chấp nhận quan điểm này. Ý nghĩa chân chính của nó là người ta chỉ được yêu một người không phải là chỉ yêu một. Câu ở phía trước là phép tắc của xã hội văn minh, câu ở phía sau mới là tính cách con người.
Đương nhiên chúng tôi nói như thế, không phải là phủ định tính khả năng của sự thật người ta chỉ có thể yêu một người. Dù rằng cuộc sống không phải là một tác phẩm nghệ thuật, nhưng những kẻ chỉ yêu một lần hoặc chỉ yêu một người là thật sự tồn tại.
Đồng thời chúng tôi không chủ trương “loạn ái”. Câu chuyện của Đoàn Chính Thuần là một cảnh báo cho những nỗi thống khổ và tội nghiệp do dụng tình bất chuyên tạo nên.
Chúng ta đưa ra vấn đề này, phân tích vấn đề này, chỉ mong muốn có thể đi sâu vào tính cách con người, nhận thức diện mạo của tính cách con người và thế giới tình yêu. Chỉ muốn từ gốc độ đạo đức hoặc những tính cách khác nhau để xem một vấn đề, để có thể đưa ra những đánh giá và nhận thức khác nhau. Chúng tôi chỉ muốn nói rằng đó là điều hết sức bình thường, “không nghi ngờ chưa chắc là chân thực hợp lý, mà luôn luôn phải biết đặt câu hỏi, nghi ngờ. Đó là lý do tại sao chúng ta cần những nhà nghệ thuật và những triết gia.
- o O o -
HỒI 9
NỖI NGHI NGỜ TRONG TÌNH YÊU
Yêu là không thể quên được. Đó đã trở thành một câu danh ngôn, nó phản ánh bản chất của tình yêu, phản ánh một phương diện của tính cách con người.
Thế giới tình yêu là đầy rẫy những mâu thuẫn, bởi vì bản thân của tính cách của con người là một thể thống nhất đầy mâu thuẫn. Tính cách con người và thế giới tình yêu, tồn tại đầy rẫy những khuyết điểm, tiếc nuối, nhược điểm, từ đó tạo nên bi kịch và bất hạnh.
“Liên thành quyết ” là bộ tiểu thuyết đã cho chúng ta thấy nhược điểm của tính cách con người. Những mối tình trong tiểu thuyết này có rất nhiều chỗ làm cho người ta nghi ngờ và tiếc nuối. Đó cũng chính là chỗ sâu sắc của bộ tiểu thuyết này. Trong phần hậu ký tác giả viết rằng, bộ sách này được phát triển từ một câu chuyện có thật, ông đã phát triển từ câu chuyện của Hòa Sinh, lão bộc trong gia đình ông. Hòa Sinh là người Đan Dương, Giông Tố, nhà có một tiệm đậu hủ nhỏ, cha mẹ đã hứa hôn cho ông với một cô gái xinh đẹp nhà hàng xóm. Chẳng bao lâu sau đã sắp đến ngày thành hôn, tháng mười hai năm đó, có một nhà giàu nọ kêu ông xay bột để làm bánh, ông đến nhà chúng làm việc mãi đến mười một giờ tối. Lúc mọi việc xong xuôi thì trời đã rất khuya đang định về nhà thì có tiếng la lớn: “Có trộm”, có người còn bảo ông ra vườn hoa để giúp bắt trộm. Ông chạy ra đến vườn hoa thì bị người ta dùng gậy đánh ngã vu cho ông là đầu đảng của bọn trộm. Ông đã bị ăn mấy gậy, ngất đi, lúc tỉnh dậy, bên người không hiểu sao có rất nhiều vàng bạc châu báu, người ta bảo là lấy được trong người ông. Vì thế người ta đã đem ông đến huyện nha. Tang chứng rành rành, ông đành chịu mấy mươi gậy rồi bị giam vào nhà ngục. Thực ra chỉ là ăn trộmchẳng có chuyện gì lớn lao nhưng ông bị giam hơn hai năm mới được phóng thích. Lúc ấy, cha mẹ ông đều tức giận mà chết, vị hôn thê của ông cũng trở thành vợ kế của người ta. Thì ra gã công tử nhà giàu đã để mắt tới vợ ông, tìm cách hãm hại ông.
Cảnh ngộ của nhân vật chính Địch Vân trong “Liên thành quyết ” cũng giống với Hòa Sinh. Địch Vân là anh chàng nhà quê chất phác, là một cô nhi không cha không mẹ, từ nhỏ đã theo thầy học võ công, lớn lên trong gia đình sư phụ, với Thích Phương, con gái độc nhất của sư phụ là một đôi thanh mai trúc mã. Ai cũng nghĩ rằng hai người sẽ kết mối lương duyên.
Không ngờ Địch Vân đi theo sư phụ và sư muội đến Kinh Châu để chúc thọ sư bá, thì con trai của sư bá là Vạn Khuê đã để mắt tới Thích Phương, vì thế lập mưu bắt Địch Vân nhốt vào đại lao, mấy năm sau Thích Phương đã được gả cho Vạn Khuê, nội tình cũng chẳng khác với Hòa Sinh bao nhiêu.
Điểm khác nhau lớn nhất giữa câu chuyện Địch Vân và Hòa Sinh là vị hôn thê của Hòa Sinh chưa chắc đã yêu ông, vì thế sau khi Hòa Sinh bị đẩy vào ngục tối, cô được gả cho tên công tử nhà giàu là điều tự nhiên. Nhưng quan hệ giữa Thích Phương và Địch Vân rõ ràng là tình yêu. Tình ý của Thích Phương đối với Địch Vân ai cũng thấy rõ ràng.
Nếu không làm sao Vạn Khuê tìm mọi cách để đẩy Địch Vân vào tù, rồi sau đó trực tiếp cầu thân với Thích Trường Phát cha của Thích Phương.
Địch Vân bị giam trong ngục tối mà lòng vẫn tràn ngập hình ảnh của Thích Phương, tưởng rằng Thích Phương biết nỗi oan tình của mình, niềm tin ấy trở thành cứu cách để chàng tiếp tục mạng sống của mình. Ngờ đâu mấy năm sau, Địch Vân được minh oan mới biết Thích Phương đã được gả cho Vạn Khuê... nghe tin ấy Địch Vân đau đớn tự sát nhưng được người bạn tù Đinh Điển cứu sống.
Đó là một câu chuyện đáng để nghiền ngẫm.
Vậy Thích Phương rốt cuộc có yêu Địch Vân không?
Khẳng định là có. Từ lời nào và hành động của nàng, chúng ta có thể thấy được điều này, nàng chỉ bị lừa gạt mà thôi. Nàng chẳng biết gì về nỗi oan của Địch Vân, ngược lại còn tưởng đó là sự thật. Bởi lẽ dù sao đi nữa nàng cũng chỉ là một thiếu nữ lớn lên ở chốn đồng quê. Bởi lẽ, nàng nào biết những mưu kế ác độc ở chốn quan trường, đâu biết cuộc đời đầy cạm bẫy.
Nhưng chúng ta vẫn còn một điều thắc mắc: tại sao nàng cùng lớn lên với Địch Vân mà vẫn có thể hiểu lầm chàng? Đã yêu Địch Vân sao không chờ mà lại lấy Vạn Khuê? Hay là nàng không vững lòng trước một Vạn Khuê giàu có, quyền thế?
Có lẽ nàng đã yêu Vạn Khuê, nhưng tại sao nàng đặt tên cho đứa con mình là “Không Tâm Thái” (bé Rau Muống) đó chính là tên mà nàng đã đặt cho Địch Vân, vì Địch Vân là anh chàng chất phác thật thà như muống? Hay là nàng vẫn nhớ tới tình xưa nghĩa cũ? Hay là nàng cảm thấy áy náy? Hay là một chút tiếc nuối còn sót lại?...
Yêu? Không yêu? Đó chính là một vấn đề.
Chúng ta đều tưởng rằng, hy vọng rằng Thích Phương chẳng qua bị mắc mưu kẻ xấu. Khi nàng nhận ra chân tướng sẽ đau khổ tột cùng.
Tác giả cũng đã viết như thế, sau khi Địch Vân thoát khỏi chốn lao tù, sư đệ của Vạn Khuê là Ngô Khảm đã tiết lộ bí mật này:
Thích Phương quay về phòng, chỉ nghe Vạn Khuê đang rên xiết. Có lẽ chất độc hại phát tác. Nàng ngồi bên giường trầm tư: “Gã hại Địch sư ca, thủ đoạn thật bỉ ổi, nhưng chuyện cũng đã rồi, giờ biết làm sao? Đó là khổ mệnh của sư ca cũng là mệnh khổ của mình. Mấy năm nay, gã cũng đối xử tốt với mình, mình bị gả cho gã thì phải theo gã. Kiếp này đã là vợ của hắn rồi. Tên cẩu tặc Ngô Khảm, sao lại đoạt thuốc giải của hắn đây?”. Nhìn thấy Vạn Khuê hình dạng tiều tụy, nàng không ngăn được đôi dòng lệ, nghĩ bụng: “Tam ca (chỉ Vạn Khuê) mang trọng thương, nếu cho gã biết chắc gã liều mạng với Ngô Khảm, lại còn hỏng việc hơn”.
Té ra đó mới là tình cảm thật của Thích Phương. Nàng rõ ràng là đã từng yêu Địch Vân. Nhưng nàng giờ như chim vào lồng, cá đã cắn câu, biết làm sao mà gỡ cho được.
Biết Vạn Khuê hại Địch Vân, dụ dỗ mình, nàng cũng chỉ thở dài tại “sư ca mệnh khổ, tại mình mệnh khổ. Nếu đã như thế cũng đành chấp nhận cho rồi. Mấy năm nay Vạn Khuê cũng đối xử tốt với mình” đó mới là quan trọng. Chuyện của Địch Vân cũng đã xa, hãy để quá khứ đi qua. Cuộc sống vợ chồng với Vạn Khuê mới là hiện thực, cho nên chuyện trước mắt là làm sao lấy được thuốc giải chữa cho Vạn Khuê mà không phải báo thù hắn.
Nhưng vì những chuyện không ngờ mà nàng đã thay đổi ý kiến. Bộ mặt hung ác của cha con Vạn Chấn Sơn, Vạn Khuê lộ rõ, không những thừa nhận chuyện hại chết Thích Trường Phát, cha nàng mà còn giết Thích Phương và con gái nàng để “diệt cỏ tận gốc, trừ hậu hoạn sau này”... trong lúc tính mạng nguy ngập, may có Địch Vân kịp thời đến cứu (chàng âm thầm bảo vệ cho Thích Phương, không vì Thích Phương lấy người khác mà thay lòng đổi dạ), dùng cách “gậy ông đập lưng ông”, đối phó với cha con họ Vạn. Lần này, Thích Phương có thật sự tỉnh ngộ không?
Nhưng không. Tác giả đã an bài một kết cuộc thật bất ngờ. Khi Địch Vân định dắt mẹ con Thích Phương cao chạy xa bay, Thích Phương bảo Địch Vân chờ nàng quay lại lấy một vật,... ... Địch Vân trước nay vẫn nghe lời Thích Phương, thấy nàng kiên quyết như thế, không dám ngăn cản, đành ôm Không Tâm Thái vào lòng, đi vào từ đường đóng cửa lại, còn Thích Phương trở vào lại Vạn gia.
Qua thời gian một bữa cơm, Thích Phương vẫn chưa quay lại, Địch Vân hơi lo lắng, liền vào Vạn gia tìm nàng, nhưng ngại nàng không vui, bế Không Tâm Thái đi quanh quẩn trong sân, nghĩ bụng cuối cùng cũng đoàn viên với sư muội mà vui sướng, nhưng cũng đầy âu lo; không biết sư muội có chịu để ta theo nàng không? Trong lòng nguyện ước:
- Cầu trời phù hộ, con đã trải qua nhiều đau khổ, hãy cho con được theo nàng, bảo vệ, chăm sóc nàng. Con không dám mơ làm chồng nàng, nhưng chỉ cần ngày ngày được thấy nàng, được nàng gọi một tiếng sư ca. Ông trời ơi, cả đời này con chưa cầu xin điều gì cả.
... Địch Vân vượt tường mà vào, đến được phòng của Vạn Khuê, lúc bấy giờ trời đã gần sáng, trong lúc trời lờ mờ, chỉ thấy một người nằm đó, nhìn kỹ lại thì ra là Thích Phương, Địch Vân thất kinh, vội vàng đốt đèn cầy trên bàn, dưới ánh đèn, chỉ thấy Thích Phương mình đầy máu, một mũi dao đang cắm trên bụng nàng. Bên cạnh nàng chất đầy gạch, vách tường lộ ra một lỗ thật lớn, cha con họ Vạn đã biến mất...
... Thích Phương từ từ mở mắt, một nụ cười héo hắt trên khuôn mặt nàng, nàng rằng: - Sư ca... muội... muội có lỗi với huynh.
... Địch Vân vội vàng hỏi:
- Sao thế này? Là... ai hại muội?
Thích Phương cười khổ não nói:
- Sư ca, người ta nói nhất dạ phu thê... ôi, thôi đừng nhắc nữa, muội... huynh đừng trách muội. Muội không nhẫn tâm, đến thả hắn... hắn... hắn...
Địch Vân nghiến răng:
- Hắn... hắn... hắn đã đâm muội một đao đúng không?
Thích Phương khổ não gật đầu.
Địch Vân lòng đau như dao cắt, dao này của Vạn Khuê lợi hại. Không thể nào cứu sống được. Trong lòng chàng bỗng dâng lên một cảm giác đố kỵ:
- Muội... muội yêu chồng như thế, thà hy sinh mình để cứu hắn ta.
Thích Phương nói:
- Sư ca ôi, xin huynh hãy hứa với muội, cố gắng chăm sóc cho Không Tâm Thái, cứ coi nó là... là con của huynh.
Địch Vân không nói gì chỉ gật đầu rồi nghiến răng:
- Thằng tặc tử đó... đi đâu rồi?
Lúc bấy giờ Thích Phương đã hồn mê ý loạn, nói nho nhỏ:
- Trong sơn động ấy, có đôi bướm bay vào, Lương Sơn Bá, Chúc Anh Đài, sư ca ơi huynh nhìn kìa, nhìn kìa! Một con là huynh, một con là muội, hai chúng ta... bay qua bay lại như thế vĩnh viễn không rời huynh nói có tốt hay không?
Thanh âm dần dần nhỏ, hơi thở cũng yếu đi.
Thích Phương chết. Nàng vì cứu chồng, ngược lại bị chồng đâm một đao mà chết. Nàng biết rõ chồng đã hãm hại sư huynh Địch Vân, lừa gạt nàng, hại chết cha nàng, mà lại muốn giết cả nàng và con gái mình... thế mà nàng lại cứu hắn; chỉ bởi vì hắn là chồng nàng! “Nhất dạ phu thê bách dạ ân”, hắn và nàng đã có tình vợ chồng nhiều năm, cho nên, biết rõ nàng không nên, ấy thế mà lại đi cứu hắn. Vì thế nàng đã chết...
Đó là một kết cuộc ngoài sức tưởng tượng. Nhưng, nếu chúng ta xem kỹ hơn, đi sâu hơn sẽ thấy, kết cuộc ấy thật là chân thực.
Kết cuộc này, đã biểu hiện một cách sinh động, sâu sắc hiện thực đầy mâu thuẫn của tâm lý tình yêu và những nhược điểm trong tính cách con người.
Nàng có yêu Địch Vân chăng? Có chứ. Có yêu Vạn Khuê không? Cũng có. Sự mâu thuẫn đó xem ra có vẻ hoang đường nhưng lại là sự thật. Nếu muốn nàng chọn giữa Địch Vân và Vạn Khuê thì điều đó không thể xảy ra, chỉ là giả thuyết ảo tưởng của chúng ta.
Mà tình huống thật sự là, nếu bắt nàng chọn giữa hai người thì đó là sự đau khổ, nàng yêu sư huynh Địch Vân nhưng cuối cùng đã lấy Vạn Khuê, dẫu rằng nàng là nạn nhân của hắn, Vạn Khuê đối với nàng cũng có chân tình, cũng có những ngày ân ái bên nhau.
Họ đã là vợ chồng nhiều năm, sự thực này đã thúc đẩy Thích Phương làm những việc mà nàng cho rằng mình phải làm.
Muốn Thích Phương một dạ yêu Địch Vân, mà không đi cứu Vạn Khuê, thậm chí giết Vạn Khuê (nàng có lý do để giết Vạn Khuê), thật đơn giản quá, đó không phải là sự thực. Đồng thời, muốn Thích Phương vì Vạn Khuê mà quyết đấu với Địch Vân, tức là bắt nàng đoạn tuyệt ân tình, điều đó thật khó khăn. Một người là người yêu, một người là chồng. E rằng ngay cả Thích Phương cũng không hiểu, nàng rốt cuộc yêu ai, hoặc là yêu ai hơn? Cho nên khi Địch Vân nói “Muội rốt cuộc lại yêu chồng, thà chết cũng cứu hắn”, nàng chỉ có cách tránh né câu nói của chàng, nhờ chàng chăm sóc cho Không Tâm Thái.
Nếu nói nàng yêu chồng hơn, thế nhưng trước lúc ra đi nàng đã nói với Địch Vân: “Lương Sơn Bá, Chúc Anh Đà, sư ca ơi huynh nhìn kìa, nhìn kìa, một con là huynh, một con là muội, hai chúng ta... bay
cùng nhau vĩnh viễn không xa lìa, huynh nói xem có tốt hay không?”. Phải nói rằng lúc này mới chính là tình cảm thật của nàng. Nếu nói nàng yêu Địch Vân nhiều hơn, nhưng nàng lại cứu chồng mà bị chồng giết, đồng thời có lẽ nàng cũng chẳng hối hận với hành vi của mình, chẳng qua là nàng cảm thấy có lỗi với Địch Vân mà thôi. Hành vi của nàng là biểu hiện của nội tâm.
Thích Phương chỉ là một người phụ nữ bình thường. Cho nên nàng cũng có nhược điểm của một người bình thường. Đó là nàng mù quáng tuân theo số phận. Nàng làm mọi việc vì Vạn Khuê, kể cả chết vì Vạn Khuê đều trở thành số phận, nàng chấp nhận.
Nàng thậm chí không hề muốn đấu tranh cho số phận. Nhưng thực ra mà nói nàng cũng chẳng đủ sức để mà đấu tranh để mà phản kháng số phận.
Vậy Thích Phương phải làm sao? Nếu nàng không bị mắc lừa, không lấy Vạn Khuê, vậy thì nàng chẳng là Thích Phương nữa rồi. Nhưng sau khi nàng lấy vạn Khuê, bắt nàng phải bỏ Vạn Khuê để lấy Địch Vân?... Cũng hay đấy chứ, nhưng chưa chắc đó là sự thật.
Chúng ta cảm thấy tiếc nuối và đau buồn cho Địch Vân, bởi vì chàng yêu sâu đậm Thích Phương không hề thay đổi, nhưng đến lúc sắp được như ý thì vĩnh viễn mất nàng.
Vì thế chúng ta không hận Thích Phương, phê phán Thích Phương hồ đồ... hay sao? Điều đó có lẽ không công bằng. Thích Phương chết, nàng bị chồng giết chết. Đồng thời nàng cũng chết vì nhược điểm trong tính cách mình. Thích Phương là một người yếu đuối, một người vô tội, một người thiện lương, nàng nên được thông cảm.
Yêu hay không yêu? Tình cảm của con người làm sao có thể đơn giản như một cộng một bằng hai, làm sao có thể rõ ràng như trắng và đen.
Cũng trong bộ truyện này, tác giả đã kể cho chúng ta một câu chuyện tình khác, cũng là câu chuyện đầy bi kịch.
Nhân vật chính của câu chuyện được người giang hồ xưng tụng là “Linh kiếm song hiệp”, Uông Khiếu Phong và Thủy Sinh. Hai người là một cặp biểu huynh biểu muội, thanh mai trúc mã. Cả hai người đi lại trong giang hồ như hình với bóng cho nên giang hồ gọi là “Linh kiếm song hiệp”.
Không ngờ đất bằng dậy sóng. Thủy Sinh, bị Huyết Đao Lão Tổ bắt, từ đó hai người phải rời nhau, nửa năm sau, khi họ gặp nhau nhưng mọi chuyện đã thay đổi.
Chỉ nghe Uông Khiếu Phong kêu lớn:
- Biểu muội, biểu muội.
Tiếng kêu vang xa, rõ ràng là không có người ở đây. Thủy Sinh chạy ra khỏi động kêu rằng: - Biểu ca, biểu ca, muội ở đây.
Uông Khiếu Phong lại kêu lên:
- Biểu muội, biểu muội, nàng ở đâu?
Thủy Sinh lại kêu lên:
- Muội ở đây.
Ở phía Đông Bắc có bóng người phi đến, vừa chạy vừa kêu to:
- Biểu muội.
Bỗng nhiên người ấy té xuống đất, Thủy Sinh kêu “ối” một tiếng, tiếng kêu thật là thân thiết, đỡ người ấy dậy. Té ra là Uông Khiếu Phong nghe tiếng của Thủy Sinh, trong lúc vui mừng không để ý bị trượt chân xuống.
Hai người đứng sát bên nhau, ôm nhau trong hạnh phúc...
... Uông Khiếu Phong nói nhỏ...
- Biểu muội ơi, từ rày về sau huynh muội ta đừng xa nhau nữa. Muội đừng buồn, suốt đời huynh sẽ đối xử tốt với muội.
Thủy Sinh từ nhỏ đã rất yêu thương vị biểu ca này, lần chia tay này lòng nàng nhớ biết bao nhiêu, nghe chàng nói, khuôn mặt ửng hồng, trong lòng cảm thấy ngọt ngào xốn xang... Cảnh ấy thật làm cho người ta cảm động. Nhưng gặp nhau chẳng bao lâu tình hình đã đổi khác. Đó chính là, nửa năm qua, Thủy Sinh ở cùng Huyết Đao tăng và Địch Vân (Địch Vân bị hiểu nhầm là đồ tôn của Huyết Đao tăng). Cho nên không tránh khỏi lời ong tiếng ve. Từ đó Uông Khiếu Phong đã thay đổi thái độ của mình.
Thủy Sinh thoái lui hai bước, mặt trắng bệt, toàn thân run rẫy mà rằng:
- Biểu ca, huynh đừng tin những lời xằng bậy ấy.
Uông Khiếu Phong vẫn không trả lời, chỉ hơi nhếch mép. Rõ ràng, những lời nói của hai người lúc nãy, như con độc xà đang cắn vào tâm can chàng. Nửa năm nay chàng ở dưới núi tuyết, nửa đêm đều nghĩ thầm:
- Biểu muội rơi vào tay hai tên dâm tăng, làm sao có thể giữ được trinh bạch? Nhưng chỉ cần nàng vẫn còn mạng sống là cám ơn trời đất lắm rồi.
Nhưng cho đến lúc gặp Thủy Sinh lại mong rằng nàng vẫn còn trong trắng, lại nghe hai người nói, nên lòng nghĩ thầm:
- Chuyện này trên giang hồ ai cũng biết, Uông Khiếu Phong đường đường là một đấng trượng phu há có thể để cho người che cười hay sao.
Nhưng khi thấy dáng vẻ tội nghiệp của chàng lòng dạ lại mềm đi, gã chỉ thở dài lắc đầu mà rằng: - Biểu muội chúng ta đi thôi.
Tác giả miêu tả tâm lý của Uông Khiếu Phong trong lúc này thật chân thực và tinh tế. Tầng thứ nhất, khi chàng ở ngoài cốc, chỉ mong sư muội giữ được tính mạng, dù cho nàng thất thân bởi dâm tăng, cũng chẳng quan trọng. Tầng thứ hai, khi thấy nàng chàng liền hy vọng Thủy Sinh có thể giữ được trinh bạch. Nhưng điều đó là không thể (chàng nghĩ như vậy), vì thế trong lòng đã dần dần nghi hoặc, bắt đầu thay đổi và đồng thời đau khổ tột cùng. Ở tầng thứ ba, khi nghe người ta dị nghị, lập tức nghĩ “người trên giang hồ đều biết, ta Uông Khiếu Phong đường là một đấng trượng phu há để cho người chê cười sao?”. Trên thực tế, ngoài sự ghen tuông, sợ người khác chê cười, sợ mất mặt, mới là căn nguyên lớn nhất của nỗi khổ của chàng... nhưng, chàng rốt cuộc là vẫn yêu Thủy Sinh.
Nên khi nhìn thấy dáng vẻ đáng thương của nàng, lòng chàng mềm hẳn, hứa với Thủy Sinh “Được thôi, thế thì ta chẳng tin nữa”, thực ra trong lòng vẫn không tin tưởng nàng.
Chỉ bởi vì chàng quá yêu Thủy Sinh cho nên miễn cưỡng hứa không tin lời người khác (thực tế chàng không thể làm được)... đó là tầng thứ tư trong tâm lý của chàng, xem ra đã thay đổi, trên thực tế chẳng qua là sự níu kéo nhất thời.
Uông Khiếu Phong thấy chiếc áo lông ở chỗ nằm của nàng, chiếc áo to rộng, rõ ràng là áo của đàn ông, lòng nghi ngờ hỏi rằng:
- Đây là cái gì?
Thủy Sinh nói:
- Là muội làm đó.
Uông Khiếu Phong chua chát mà rằng:
- Là của muội ư?
Thủy Sinh vội định trả lời: “Không phải của muội đâu”. Nhưng thấy không ổn nên do dự chưa trả lời.
Uông Khiếu Phong nói:
- Là chiếc áo của đàn ông ư?
Thanh âm càng thêm phần chua chát. Thủy Sinh gật đầu. Uông Khiếu Phong lại nói: - Là muội đan cho hắn đấy à?
Thủy Sinh lại gật đầu.
Uông Khiếu Phong cầm chiếc áo lên xem kỹ qua một lượt rồi nói:
- Đan cũng đẹp đấy chứ.
Thủy Sinh nói:
- Biểu ca, huynh đừng nghĩ bậy, hắn và muội...
Nhưng chỉ thấy trong mắt chàng chứa đầy phẫn nộ và hận thù liền không nói nữa. Uông Khiếu Phong ném chiếc áo xuống:
- Y phục của hắn lại ở trên giường nàng...
Thủy Sinh như bị dội một gáo nước lạnh, chỉ cảm thấy rằng vị biểu ca trước đây vẫn dịu dàng đáng yêu, nay đột nhiên lại trở thành một kẻ thô bỉ đáng ghét. Nàng không muốn giải thích nữa, nghĩ thầm:
- Huynh đã nghi ngờ muội, oan uổng cho muội, vậy thì cứ như thế luôn đi.
Nếu như trước đây, Uông Khiếu Phong chỉ đoán mò, chỉ nghe người ta nói, vậy thì, chiếc áo lông này, đã trở thành một vật chứng, chứng thực cho suy đoán của chàng. Vì thế vẻ mặt và ánh mắt của chàng đã bắt đầu thay đổi, đã trở nên chua chát phẫn nộ, thống hận, đồng thời chàng trong ánh mắt của Thủy Sinh, cũng trở nên thô bỉ vô cùng.