🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tinh Hoa Thơ Ca Hồ Chí Minh
Ebooks
Nhóm Zalo
Chịu trách nhiệm xuất bản
GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
PGS.TS. PHẠM MINH TUẤN
Chịu trách nhiệm nội dung
PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP
TS. ĐỖ QUANG DŨNG
Biên tập nội dung: ThS. CÙ THỊ THÚY LAN ThS. NGUYỄN THỊ HẢI BÌNH
ThS. VŨ THỊ MAI LIÊN
ThS. NGUYỄN KIỀU LOAN
ThS. NGUYỄN VIỆT HÀ
Trình bày bìa: VĂN SÁNG ĐƯỜNG HỒNG MAI
Chế bản vi tính: HOÀNG MINH TÁM Đọc sách mẫu: VŨ THỊ MAI LIÊN BÍCH LIỄU
Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 1459-2021/CXBIPH/9-12/CTQG. Số quyết định xuất bản: 305-QĐ/NXBCTQG, ngày 11/5/2021. Nộp lưu chiểu: tháng 5 năm 2021.
Mã ISBN: 978-604-57-6782-5.
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Thơ ca luôn là cây đàn muôn điệu của tâm hồn, của nhịp thở con tim. Có những tâm trạng và cung bậc tình cảm của con người chỉ có thể diễn đạt bằng thơ. Chính vì thế, thơ không chỉ nói hộ lòng mình, thơ còn là sự an ủi, động viên, khích lệ con người đứng dậy đi tới hoặc quay trở về bản chất thực của mình và vươn tới chân - thiện - mỹ, tầm cao của khát vọng sống, giá trị sống.
Thơ ca Hồ Chí Minh có vai trò quan trọng trong thơ ca Việt Nam hiện đại, mặc dù Người không bao giờ tự nhận mình là một nhà thơ hay nhà văn, mà chỉ khiêm nhường gọi mình là người bạn của văn chương, một người yêu văn nghệ. Nhưng trên thực tế, cùng với sự nghiệp cách mạng vĩ đại, Bác vẫn làm thơ và để lại nhiều tác phẩm thơ ca có giá trị nghệ thuật cao, trở thành một vũ khí đấu tranh lợi hại,
có tác dụng giáo dục to lớn, góp phần phục vụ sự nghiệp cách mạng của người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng. Thế nên, nhân vật trữ tình trong thơ Bác không phải là ẩn sĩ, mà là một chiến sĩ chủ động trong mọi hoàn cảnh, vượt qua mọi khó khăn với tinh thần lạc quan cách mạng và phong thái hiên ngang tiến công trước quân thù, tinh thần chiến sĩ ẩn trong hình tượng thi sĩ.
Cho đến nay, tất cả các sáng tác thơ ca của Bác đã trở thành một di sản văn học lớn lao về tầm vóc, phong phú về thể loại, đa dạng về phong cách, sâu sắc về nội dung tư tưởng, sáng tạo độc đáo về phương diện nghệ thuật, được nhân dân trong nước và đông đảo bạn bè, những người yêu thích thơ ca, nghệ thuật trên thế giới tâm đắc. Song, trên thực tế, để hệ thống và thẩm bình về tất cả các tác phẩm thơ ca của Bác trong một cuốn sách là việc làm chưa nhiều. Nắm bắt được nhu cầu thiết yếu đó, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Tinh hoa thơ ca Hồ Chí Minh của tác giả Lê Xuân Đức.
Nội dung cuốn sách là những bài viết về xuất xứ, bình giảng, phân tích thơ ca Hồ Chí Minh, từ đó đưa ra cảm nghĩ và phương pháp đọc thơ của Người. Đây thực sự là một đóng góp hết sức quý giá và là một công trình nghiên cứu tâm huyết, xuyên suốt trong rất nhiều năm của nhà văn Lê Xuân Đức. Thông qua sự tìm tòi và khám phá tinh tế,
5
TINH HOA THƠ CA HỒ CHÍ MINH
tác giả dẫn dắt bạn đọc bước vào thế giới thơ ca của Bác để thấy được đặc điểm nổi bật trong phong cách thơ của Người là hết sức ngắn gọn nhưng lại hàm súc; trong sáng, tự nhiên, bình dị, dễ hiểu nhưng không hề đơn điệu, mà giàu tính sáng tạo, mang nội dung sâu sắc; góp phần rèn luyện ý chí, bồi đắp bản lĩnh của mỗi người nhằm vượt qua những khó khăn, trở ngại trên mỗi bước đường đời. Từ đó giúp những người yêu thơ ca của Bác thêm thấu hiểu và cảm nhận rõ nét hơn tinh hoa trong từng câu chữ mà Người để lại, rút ra những chiêm nghiệm cho riêng mình và trên hết là những bài học lớn, sâu sắc về tư tưởng, về đấu tranh chính trị, về đạo lý làm người cho hôm nay và mai sau.
Trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 12 năm 2019
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
6
LỜI TÁC GIẢ
Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho hậu thế, cho nền văn học Việt Nam một tài sản
thơ ca vô cùng quý giá, gồm thơ chữ Hán và thơ ca tiếng Việt.
Thơ ca Hồ Chí Minh là sự kết hợp tài hoa giữa tâm hồn, trí tuệ và tư tưởng, đạo đức, nhân cách của Bác. Thơ ca Bác chính là con người Bác. Cuộc đời và sự nghiệp của Bác là một bài thơ dài, là bản anh hùng ca tuyệt tác, là khúc tráng ca lịch sử.
Thơ ca Bác là sản phẩm của một tài năng nghệ thuật đa dạng, độc đáo, một tâm hồn nghệ sĩ sáng trong, một đỉnh cao tư tưởng thời đại, một trí tuệ sâu rộng, một trái tim rất mực nhân tình.
Thơ ca Bác đạt đến mức trác tuyệt, một phong cách sống động, kết hợp một cách hài hòa hiện thực và lãng mạn, dân gian và bác học, cổ điển và hiện đại, ngắn gọn mà đầy đủ, hàm súc mà tinh tế, giản dị mà thanh cao, chân phương mà trí tuệ, trào phúng mà trữ tình, tình mà thép... thể hiện cái tôi trữ tình từ cảm xúc tự nhiên, đằm thắm và sâu đậm về đất nước, dân tộc, con người, cuộc sống.
Đi vào thế giới thơ ca của Bác, nói như một nhà thơ nước ngoài là: bước vào tòa nhà bằng ngôn ngữ vững chắc và đẹp, người ta có cảm giác mỗi bước đi đều chạm vào gốc rễ sâu xa của một trong những con người kỳ diệu ít có, những con người qua cuộc đời của mình đã cho mọi người hiểu rằng, đối với con người thì không có đỉnh cao nào là không đạt tới.
Đương nhiên, sự nghiệp thơ ca của Bác chỉ là một phần trong sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Bác. Đảng và Bác Hồ đã mở ra cho dân tộc ta, đất nước ta một thời đại rực rỡ: “Thời đại Hồ Chí Minh, thời đại của Đảng” (Sóng Hồng - Trường Chinh), thời đại nước ta có “vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to - là Pháp và Mỹ; và đã góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc”1 (Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh), thời đại độc lập, tự do của Tổ quốc, thời đại thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Bác là kết tinh cao đẹp những tinh hoa của dân tộc kết hợp nhuần nhuyễn với chủ nghĩa Mác - Lênin - đỉnh cao của tư tưởng loài người trong thời đại mới; Bác là lãnh tụ thiên tài của Đảng Cộng sản Việt Nam, chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế,
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.623.
7
TINH HOA THƠ CA HỒ CHÍ MINH
phong trào giải phóng dân tộc theo kiểu Các Mác - Lênin; Bác là con người Việt Nam đẹp nhất “Việt Nam hơn người Việt Nam nào hết” (Phạm Văn Đồng), tên Bác gắn liền với tên núi, tên sông của đất nước “Tháp Mười đẹp nhất bông sen/Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ” (Bảo Định Giang); Bác là hiện thân sáng ngời của người anh hùng dân tộc vĩ đại, nhà văn hóa Việt Nam kiệt xuất. Nghị quyết của UNESCO về kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị anh hùng giải phóng dân tộc của Việt Nam và là một nhà văn hóa lớn”.
Mỗi người chúng ta đều rất tự hào và may mắn được sống trong thời đại Hồ Chí Minh, thời đại có nhiều chuyển biến kỳ diệu của cách mạng, làm nên những kỳ tích lịch sử vĩ đại.
Dù đã đi vào cõi trường sinh, nhưng Bác vẫn sống mãi với non sông đất nước, sống mãi trong sự nghiệp cách mạng của chúng ta. Công ơn của Bác đối với đất nước, dân tộc, với mỗi người như dãy Trường Sơn hùng vĩ, như Biển Đông bao la. Nhà thơ Chế Lan Viên trong bài “Sen của loài người” đã suy nghĩ thành kính: “Bác chúng ta vô cùng khiêm tốn, mà lòng chúng ta thì đôi khi lơ đãng, lắm lúc dại khờ, nên khi Bác còn ở cùng ta, cái vĩ đại chỉ có trong hành động chúng ta mới nghiệm ra, bằng một sự tĩnh tâm, một sự im lặng lắng nghe ta mới hiểu hết, chứ không phải bằng những giải thích lòe loẹt văn hoa, bằng những tiếng ồn... Thế rồi bỗng Bác ra đi. Cả dân tộc bừng tỉnh dậy. Mà từ ấy cho đến nay, mỗi ngày qua - cảm ơn mỗi ngày qua lại giúp cho ta phát hiện thêm cái tầm vóc lịch sử của Người”, và nhà thơ viết tiếp một cách chân thành: Bác đã “Sáng lập ra một trời đất mới cho ta ở được, một bầu không khí mới cho ta thở được, một tâm hồn mới, ta sẽ đem vào trong các trang sách của chúng ta”.
Tác giả cuốn sách Tinh hoa thơ ca Hồ Chí Minh đã xuất phát từ lòng kính yêu Bác, những suy nghĩ về Bác và sự đam mê thơ ca Bác để nghiên cứu, thẩm bình thơ ca Bác.
Năm 1960, Viện Văn học cho ra tập thơ Nhật ký trong tù của Bác với 113 bài thơ. Năm 1991, Nhà xuất bản Khoa học xã hội phát hành Nhật ký trong tù với 133 bài thơ và bài “Đề từ” theo đúng số thứ tự các bài như nguyên tác, tôi đã mua và đọc ngay, đọc say mê, nhận ra tập thơ này có điểm lạ, khác biệt so với các tập thơ tù của một số chiến sĩ cách mạng. Đây là tập nhật ký ghi lại bằng thơ mà lại là thơ chữ Hán, kể lại những sự việc xảy ra trong 377 ngày bị giam, bị giải đi giải lại qua khoảng 30 nhà tù ở tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Với tổng cộng 2.700 chữ, Bác tự viết về mình, không nhằm cho ai cả, bộc lộ cái mà mình trải qua, cảm nhận, suy nghĩ, trông mong... Nhân vật trữ tình hiện ra trong tập thơ như một con người văn hóa trần gian, thể hiện một cốt cách văn hóa, sáng ngời một chủ nghĩa nhân văn cao đẹp.
Trên văn đàn, theo thống kê của chúng tôi, các sách báo Trung ương, địa phương (kể cả sách giáo khoa trong nhà trường) đã bình, phân tích 39 bài thơ, một số bài thơ
8
LỜI TÁC GIẢ
khác được trích dẫn trong các tiểu luận, công trình nghiên cứu, bài viết về Nhật ký trong tù.
Với niềm đam mê Nhật ký trong tù, lại có thời gian giảng dạy môn Văn học tại Trường Đại học Sư phạm Vinh trên quê hương Bác, tôi quyết định tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Bác và bắt đầu lần lượt thẩm bình các bài thơ trong Nhật ký trong tù. Đặc biệt khi tôi được mời thỉnh giảng cho các khóa nghiên cứu sinh của Trường Đại học Dân tộc Quảng Tây, Trung Quốc, tôi đã tiến hành hai chuyến điền dã từ Tĩnh Tây (nơi Bác bị chính quyền Trung Hoa dân quốc bắt giam) đến Nam Ninh, Trung Quốc (nơi Bác được trả tự do), qua 30 địa danh nhà tù để hiểu sâu thêm Nhật ký trong tù và hoàn thành cuốn sách Ngục trung nhật ký - Thẩm bình, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản năm 2013. Sau đó Giáo sư - Dịch giả Chúc Ngưỡng Tu (Đại học Nam Kinh, Trung Quốc) và Giáo sư - Dịch giả Lương Viễn (Viện trưởng Học viện Ngôn ngữ và Văn hóa Đông Nam Á) dịch ra tiếng Trung Quốc, Giáo sư Hoàng Tranh (Phó Viện trưởng Viện Khoa học xã hội Quảng Tây, Trung Quốc) viết Lời giới thiệu, Nhà xuất bản Thế giới, Trung Quốc xuất bản và phát hành rộng rãi ở Trung Quốc đầu năm 2015; đến quý II năm 2015, Nhà xuất bản Công an nhân dân in song ngữ. Hiện nay, tôi cũng nhận được thư của ba giáo sư, dịch giả người Nga, Pháp, Xlôvakia đang dịch Ngục trung nhật ký - thẩm bình, khi dịch xong, những giáo sư - dịch giả này sẽ sang Việt Nam làm việc với tác giả để có những bản dịch tốt, sát nghĩa.
Nhật ký trong tù là tập thơ bất hủ của Bác nhưng không phải là tập thơ chữ Hán độc nhất, Bác còn có những bài thơ chữ Hán ngoài Nhật ký trong tù. Năm 1991, Nhà xuất bản Văn học đã xuất bản tập Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh (ngoài Nhật ký trong tù) do Phó Giáo sư Phan Văn Các sưu tầm, phiên dịch, chú thích với 36 bài thơ. Đến nay, chúng tôi và Giáo sư Hoàng Tranh, Giáo sư Văn Trang, Trung Quốc đã thu thập được 11 bài thơ nữa ngoài Nhật ký trong tù, tôi đã cho công bố 11 bài thơ này trên báo Nhân dân cuối tuần số 21, ra ngày 22/5/2016 và báo Quân đội nhân dân cuối tuần ra ngày 22/5/2016. Như vậy, số lượng thơ chữ Hán của Bác hiện có tổng số 181 bài.
Về thơ chữ Hán của Bác, tôi đã viết cuốn sách Thẩm bình thơ chữ Hán Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật và Nhà xuất bản Nhân dân Giang Tô, Trung Quốc phối hợp xuất bản, trong đó Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản tiếng Việt, Nhà xuất bản Nhân dân Giang Tô xuất bản tiếng Trung Quốc.
Thơ chữ Hán của Bác thực sự là dấu gạch nối giữa cổ điển và hiện đại, vừa giữ được mực thước, khuôn mẫu, lại vừa đổi mới, cách tân; là sự kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn giữa xưa và nay, giữa truyền thống và hiện đại trong một thể thống nhất hoàn chỉnh, viên mãn của một bản lĩnh văn hóa kết nối truyền thống - hiện đại - tương lai, giữa kế thừa và sáng tạo dựa trên một quan điểm sống nhất quán phấn đấu cho cái cao đẹp, hoàn thiện đúng với ý nghĩa con người. Có thể nói: Thơ chữ Hán
9
TINH HOA THƠ CA HỒ CHÍ MINH
của Bác là một hệ thống riêng, đó là những bài thơ bộc lộ nội tâm sâu kín nhất, bộc lộ rõ nét nhất ý thức cuộc sống, ý thức làm thơ và tài năng thơ.
Đối với thơ chữ Hán của Bác, không có chỗ nào là vùng đất cấm, bởi nó hết sức đa dạng, phong phú, sinh động và mới mẻ... Song cái kỳ diệu nhất, đóng góp lớn nhất vào kho tàng thơ ca chữ Hán Việt Nam và thơ ca chữ Hán Trung Quốc chính là hình tượng văn học - con người làm chủ vượt qua mọi hoàn cảnh, mọi tình thế được thể hiện đậm nét trong từng bài thơ của Bác. Những điều nói trên là lời lý giải giàu sức thuyết phục cho luận điểm Hồ Chí Minh là nhà thơ, nhà Nho học, nhà Hán học trong con người cộng sản xuất sắc của Việt Nam ở thế kỷ XX.
Làm nên sự nghiệp thơ ca của Bác còn có một bộ phận cũng rất quan trọng - Thơ ca tiếng Việt gắn liền trực tiếp với cách mạng mà Bác từng xác định: thơ ca, văn chương, báo chí là vũ khí sắc bén để đấu tranh cách mạng. Thơ ca tiếng Việt của Bác có hai loại: thơ và ca. Hai loại này có những đặc điểm riêng, tác động đến người đọc bằng con đường riêng, sức lan tỏa sâu rộng không giống nhau.
Nếu tính từ bài thơ tiếng Việt đầu tiên “Gửi Hy Mã nghi bá đại nhân” viết năm 1913 (nếu không có phát hiện thêm) đến bài “Điện chúc Tết các đồng chí cán bộ đang công tác tại Pari” năm 1969 thì tổng số thơ ca tiếng Việt của Bác hiện có là 306 bài, không kể những đoạn thơ trong văn.
Về ca, có một thực tế này, khi Bác hoạt động ở nước ngoài (đi tìm đường cứu nước), trước khi rời Pari đi Mátxcơva mong muốn tìm hiểu Cách mạng Tháng Mười và gặp Lênin để hiểu rõ hơn về cách mạng xã hội chủ nghĩa, Bác đã viết một bức thư dài cho các đồng chí Xênêgan, Angiêri, Marốc, Mangát... những người cùng làm việc với Bác trong tòa báo Người cùng khổ - cơ quan ngôn luận của Hội Liên hiệp thuộc địa tại Pháp, để nói lời chia tay tràn đầy tình nghĩa và những chủ định của mình: “... Mặc dầu chúng ta là những người khác giống, khác nước, khác tôn giáo, chúng ta đã thân yêu nhau như anh em. Chúng ta cùng chịu chung một nỗi đau khổ: sự bạo ngược của chế độ thực dân. Chúng ta đấu tranh vì một lý tưởng chung: giải phóng đồng bào chúng ta và giành độc lập cho Tổ quốc chúng ta... Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập”1.
Năm 1941, Bác về nước trực tiếp lãnh đạo Cách mạng Việt Nam, Bác đã làm đúng như thế. Trong hai năm 1941-1942 Bác mở các lớp huấn luyện và phân công các đồng chí của mình tập trung cho công việc giác ngộ cách mạng, tập hợp quần chúng, tổ chức lực lượng, đoàn kết đấu tranh dưới ngọn cờ Mặt trận Việt Minh, đồng thời Bác sáng tác những bài ca dễ đọc, dễ hiểu, dễ thuộc cho truyền miệng, cho in trên báo. Trong hai năm này, Bác viết đến 30 bài ca vận động, kêu gọi quần chúng đứng lên
1. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017, tr.68-70.
10
LỜI TÁC GIẢ
đánh giặc cứu nước, Bác đã cho in 30 bài ca này thành sách bỏ túi. Sau này, trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Bác tiếp tục viết một số bài ca khích lệ, kêu gọi quân dân cả nước bền gan, quyết chí xông lên, xốc tới giành thắng lợi cuối cùng, thống nhất đất nước, từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đất nước phồn vinh, đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.
Thơ ca tiếng Việt của Bác trải dài từ những năm tháng hoạt động ở nước ngoài và khi về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng cho đến ngày Bác đi xa. Cuộc đời thần kỳ của Bác khép lại nhưng chân lý càng rực sáng, khơi dậy sức sống mãnh liệt trong mỗi chúng ta, thơ ca của Bác đã tự nhiên, y nhiên sống trong lòng dân, đã đi vào sách giáo khoa phổ thông, vào giáo trình đại học và trở thành đề tài cho một số học viên cao học và nghiên cứu sinh.
Trong thơ ca tiếng Việt của Bác, có một hiện tượng thơ rất dân tộc và độc đáo, đó là thơ chúc Tết - mừng Xuân. Dễ thường, trên thế giới hiếm có vị nguyên thủ đứng đầu nhà nước nào như Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi dịp Tết đến Xuân về đều có thơ chúc mừng đồng bào, chiến sĩ cả nước, kiều bào ở nước ngoài và bầu bạn khắp năm châu, trở thành nét đẹp văn hóa của Bác và dân tộc. Hệ thống theo trình tự thời gian của 22 bài thơ chúc Tết - mừng Xuân sẽ phát hiện ra một hiện tượng diệu kỳ, đó là đường lối cách mạng cụ thể của một năm, một giai đoạn, hợp lại là đường lối cách mạng của Bác, của Đảng về kháng chiến và kiến quốc của dân tộc ta, đất nước ta. Trong thơ chúc tết - mừng Xuân của Bác, cái tình và đường lối cách mạng thẩm thấu, quyện chặt vào nhau, cũng như nhà tư tưởng, nhà chính trị và nhà thơ thống nhất là một “Người chiến sĩ mang tâm hồn nghệ sĩ” (Xuân Thủy). Đường lối nâng cái tình lên mức cao quý, thiêng liêng, cái tình đưa đường lối vào quần chúng nhẹ nhàng, cơ động.
Có một thực tế, Bác là một vĩ nhân mà sự vĩ đại thể hiện ở nhiều mặt nhưng lại cũng là một người bình thường như muôn người bình thường khác. Chính vì vậy, đọc thơ Bác, nghiên cứu, lĩnh hội thơ Bác vừa dễ lại vừa khó. Dễ vì thơ Bác giản dị, dễ hiểu; khó vì thơ Bác hàm súc, tinh tế. Do đó việc tiếp thu được ánh sáng tư tưởng, trí tuệ, tâm hồn, tình cảm và đạo đức cao đẹp trong thơ Bác một cách chân thực, tối đa nhất mà không gượng ép, khiên cưỡng quả thực không đơn giản.
Người xưa từng nói rằng: đọc thơ không dừng ở bì phu, cái bên ngoài, cái phần nổi dễ thấy mà phải đi vào cốt tủy, cái bên trong, cái phần lắng lại và phải nắm được cái thần của bài thơ là đắc địa nhất, tuyệt diệu nhưng cũng rất khó (Lê Quý Đôn). Cái thần thường ẩn kín nhưng lại hé mở lung linh, chờn vờn lúc ẩn lúc hiện, có thể nắm được mà cũng có thể khó nhận ra, nó hoàn toàn phụ thuộc vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn, năng lực cảm thụ thẩm mỹ tinh nhạy của người đọc thơ. Cái thần của bài thơ là cái cốt lõi, cái làm nên bộ mặt tinh thần của bài thơ. Nắm được cái thần là nắm được mã số, mấu chốt, chìa khóa để mở rộng cánh cửa đi thẳng vào bài thơ, cảm thụ phần sâu lắng nhất của bài thơ. Đối với thơ Bác càng phải như thế mới đọc đúng và trúng ý tưởng của Bác gửi gắm trong các bài thơ.
11
TINH HOA THƠ CA HỒ CHÍ MINH
Gần như dành cả cuộc đời cho việc nghiên cứu, thẩm bình thơ ca Hồ Chí Minh, tôi đã làm theo lời dạy của nhà bác học Lê Quý Đôn khi nghiên cứu, thẩm bình thơ ca của Bác. Và, trong cuộc đời mình, tôi có một may mắn lớn là đã đến được những nước, những nơi Bác làm thơ khi Bác ra đi tìm đường cứu nước và những nơi trong nước để chứng kiến, cảm nhận và nhất là được sống trong tâm tưởng các bài thơ của Bác. Từ nghiên cứu, thẩm bình thơ ca Bác, tôi đã tiến hành song song việc đúc kết, rút ra một số giá trị của thơ ca Bác qua các tiểu luận nghiên cứu, làm nên phần Cảm và nghĩ về thơ ca Hồ Chí Minh trong cuốn Tinh hoa thơ ca Hồ Chí Minh. Có được kết quả nghiên cứu, thẩm bình thơ ca Bác, một phần là ngay từ đầu tôi đã tự xác định phương pháp nghiên cứu, thẩm bình thơ ca Bác. Trong quá trình tiến hành, tôi tiếp tục bổ sung để có được một phương pháp đọc thơ ca Bác, nghiên cứu thơ ca Bác.
Cũng xin được bày tỏ, bản thân tôi nghiệm thấy: Bác là nguồn sáng vĩ đại, nguồn sức mạnh của thời đại, là anh hùng dân tộc, là nhà văn hóa lớn... Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Bác là nguồn khám phá vô cùng, vô tận. Muốn viết về Bác và thơ ca Bác phải tự nâng mình lên, tự soi mình về nhiều mặt. Quá trình này phụ thuộc rất nhiều vào nhân tố chủ quan, vào năng lực cụ thể của chủ thể nghiên cứu, thẩm bình. Cùng một lúc chủ thể nghiên cứu, thẩm bình phải huy động nhiều thứ vốn (vốn sống, vốn văn hóa, vốn tri thức, vốn chính trị,...), nhiều năng lực cần thiết (năng lực cảm thụ thẩm mỹ, năng lực đánh giá,...), các kỹ năng phân tích và toàn bộ kinh nghiệm sống. Viết về Bác và thơ ca Bác phải có tầm nhìn lịch sử, phải gắn với Đảng, với dân tộc, với cách mạng, với thời đại.
Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang ra sức Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; cả nước đang chuẩn bị kỷ niệm ngày Quốc khánh 02/9 - ngày mà 74 năm trước (1945-2019) tại vườn hoa Ba Đình, Bác đã đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; đồng thời kỷ niệm 50 năm (1969-2019) ngày Bác để lại Di chúc cho toàn Đảng, toàn dân tộc trước lúc đi gặp thế giới người hiền - các vị cách mạng đàn anh. Nhân dịp này, tôi đã cố gắng hoàn thành cuốn sách Tinh hoa thơ ca Hồ Chí Minh, xin được kính dâng lên Bác.
Tinh hoa thơ ca Hồ Chí Minh cũng là một dấu mốc cuộc đời tròn 80 tuổi của tôi với hơn 50 năm nghiên cứu, thẩm bình thơ ca của Bác. Đọc thơ ca Bác, thẩm bình thơ Bác là đọc và học một phần cái tinh túy, cao đẹp của Bác.
Quả là thơ ca Hồ Chí Minh - thế giới không cùng cho những người khám phá.
TÁC GIẢ
Lê Xuân Đức
12
ĐI TÌM XUẤT XỨ THƠ CA HỒ CHÍ MINH
GỬI HY MÃ BÁ ĐẠI NHÂN1
(GỬI BÁC PHAN CHÂU TRINH)
Xuphơrarét
Chọc trời khuấy nước tiếng đùng đùng
Phải có kiên cường mới gọi hùng
Vai cứng long lanh ngoài ách tớ
Má đào nóng nảy giới quyền chồng
Lợi chung dầu sẽ mua về được
Kiếp mong chi nài sự có không
Ba hột đạn thầm hai tấc lưỡi
Sao cho ích giống mấy cam lòng
Hy Mã nghi bá Đại nhân thấu
Cuồng điệt: TẤT THÀNH2
Nếu như công việc sưu tầm thơ ca Hồ Chí Minh chưa có thêm tư liệu thì bài thơ “Gửi Hy Mã bá đại nhân” của Nguyễn Tất Thành (tên thời thanh niên của Bác Hồ) được coi là bài thơ tiếng Việt đầu tiên của Bác.
Cuối năm 1912, trên con tàu của hãng Năm Sao, Nguyễn Tất Thành vượt Đại Tây Dương đến nước Mỹ - nơi sản sinh ra bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776. Cuối năm 1913, Người từ nước Mỹ sang Anh. Tại Anh, lúc đầu, Người làm nghề quét tuyết cho một trường học ở Luân Đôn. Sau đó, Người làm thợ đốt lò, rồi làm phụ bếp ở khách sạn Tơraytơn Cơớc (Trayton Court), rồi chuyển sang làm phụ bếp ở khách sạn Cáclơtơn (Carlton). Người vừa lao động để sinh sống vừa tích cực học tiếng Anh và tham gia Hội những người lao động hải ngoại ở Luân Đôn. Trong thời gian này, Người thường xuyên gửi thư cho những người Việt Nam yêu nước đang sống trên đất Pháp, trong đó có hai người rất thân thiết, là những nhà lãnh đạo Hội người An Nam yêu nước tại Pháp: Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.2.
2. Hy Mã: biệt hiệu của Phan Châu Trinh.
Hy Mã nghi bá Đại nhân thấu: để bác Phan Châu Trinh hiểu rõ.
Cuồng điệt: người cháu hăng say, cuồng nhiệt.
15
TINH HOA THƠ CA HỒ CHÍ MINH
Phan Châu Trinh (1872-1926) - hiệu là Tây Hồ, biệt hiệu là Hy Mã, người làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam - là bạn của cụ Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của Nguyễn Tất Thành, lại là một chí sĩ yêu nước nên Nguyễn Tất Thành rất kính trọng, ngưỡng mộ. Năm 1900, ông thi đỗ cử nhân, năm 1901 đỗ Phó bảng, năm 1903 ra làm Thừa biện bộ Lễ, năm 1905 cáo quan về quê. Từ năm 1906, Phan Châu Trinh hoạt động trong phong trào Duy Tân. Ông là một trong những người cầm đầu xu hướng cải lương ở Việt Nam vào những năm đầu thế kỷ XX. Ông từng bị thực dân Pháp đày ra Côn Đảo sau vụ nhân dân miền Trung biểu tình rầm rộ, quyết liệt chống thuế năm 1908. Nhờ Hội nhân quyền Pháp can thiệp, ông được trả tự do. Năm 1911, ông sang Pháp cùng với con trai là Phan Châu Dật.
Thời gian ở Luân Đôn, Nguyễn Tất Thành thường gửi thư cho Phan Châu Trinh nói về tình hình sống, làm việc, việc học tiếng Anh, đồng thời tranh thủ hỏi thăm về tình hình trong nước, thông tin về tình hình chính trị ở châu Âu, châu Á và mong đợi các nhà yêu nước làm những việc hữu ích cho đất nước, thức tỉnh nhân dân, giác ngộ họ đứng lên cứu nước. Hiện nay vẫn còn lưu giữ được hai bức thư và một tấm bưu thiếp Nguyễn Tất Thành gửi cho Phan Châu Trinh. Một bức thư gửi đi từ địa chỉ: số nhà 8, phố Xtêphen (Stéfel), Tốttenham (Tottelham), Luân Đôn; một bức thư gửi đi từ địa chỉ nhà số 10, Quảng trường Ốpsa (Orchard Place).
Tấm bưu thiếp có bài thơ “Gửi Hy Mã bá đại nhân” (Gửi bác Phan Châu Trinh) viết vào tháng 8/1914 được gửi đi từ căn nhà số 8, phố Xtêphen, Tốttenham, Luân Đôn với mong muốn Phan Châu Trinh hiểu rõ về tấm lòng, ý chí quyết tâm của Nguyễn Tất Thành đối với vận mệnh của đất nước, đồng thời gửi gắm, mong đợi các bậc tiền bối, những nhà hoạt động cách mạng phải làm gì cho đất nước, cho đồng bào mình khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ.
Cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành trở về Pháp. Tại đây, Người đã có lúc ở cùng nhà với Phan Châu Trinh tại số 6 đường Vila đờ Gôbơlanh và cùng hoạt động trong phong trào Việt kiều tại Pháp.
Tự đáy lòng, Phan Châu Trinh rất mến phục, đánh giá cao, gửi gắm và đặt nhiều hy vọng ở Nguyễn Tất Thành, mặc dù quan điểm và cách thức hoạt động của hai người khác nhau bởi ông đi theo con đường cứu nước cải lương, ôn hòa. Trong một bức thư gửi Nguyễn Tất Thành ngày 18/02/1922, Phan Châu Trinh đã thẳng thắn đề cập những khác biệt về đường lối, phê phán những điều mà mình cho là còn bất cập
16
Phần thứ nhất: ĐI TÌM XUẤT XỨ THƠ CA HỒ CHÍ MINH
và cũng rất chân thành nhận ra rằng: “Bây giờ tôi tợ chim lồng cá chậu. Vả lại cây già thì gió dễ lay, người già thì trí lẫn, cảnh tôi như hoa sắp tàn”, đồng thời thừa nhận: Anh “như cây đương lộc”, “nghị lực có thừa, dày công học hỏi, lý thuyết tinh thông”, sẽ giúp ích nhiều cho đất nước. Trong cuốn sách Nguyễn Ái Quốc tại Paris (1917-1923), Tiến sĩ Sử học Thu Trang, một Việt kiều ở Pháp đã cho biết: “Lúc sắp trút hơi thở cuối cùng, cụ (tức Phan Châu Trinh - TG) đã thì thầm với cụ Huỳnh Thúc Kháng lời trăng trối có tính tiên tri: “Độc lập dân tộc sở cậy Nguyễn Ái Quốc”1.
1. Thu Trang (Công Thị Nghĩa): Nguyễn Ái Quốc tại Pari (1917-1923), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.423.
17
TINH HOA THƠ CA HỒ CHÍ MINH
VIỆT NAM YÊU CẦU CA1
Rằng nay gặp hội Giao hòa,
Muôn dân hèn yếu gần xa vui tình.
Cậy rằng các nước Đồng minh,
Đem gương công lý giết hình dã man.
Mấy phen công bố rõ ràng,
Dân nào rồi cũng được trang bình quyền.
Việt Nam xưa cũng oai thiêng,
Mà nay đứng dưới thuộc quyền Lang Sa.
Lòng thành tỏ nỗi sút sa,
Dám xin đại quốc soi qua chút nào.
Một xin tha kẻ đồng bào,
Vì chưng chính trị mắc vào tù giam.
Hai xin phép luật sửa sang,
Người Tây người Việt hai phương cùng đồng. Những tòa đặc biệt bất công,
Dám xin bỏ dứt rộng dung dân lành.
Ba xin rộng phép học hành,
Mở mang kỹ nghệ, lập thành công thương. Bốn xin được phép hội hàng,
Năm xin nghĩ ngợi nói bàn tự do.
Sáu xin được phép lịch du,
Bốn phương mặc sức, năm châu mặc tình. Bảy xin hiến pháp ban hành,
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền.
Tám xin được cử nghị viên,
Qua Tây thay mặt giữ quyền thổ dân.
Tám điều cạn tỏ xa gần,
Chứng nhờ vạn quốc công dân xét tình.
Riêng nhờ dân Pháp công bình,
Đem lòng đoái lại của mình trong tay.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.472-474.
18
Phần thứ nhất: ĐI TÌM XUẤT XỨ THƠ CA HỒ CHÍ MINH
Pháp dân nức tiếng xưa nay,
Đồng bào, bác ái sánh tầy không ai!
Nỡ nào ngảnh mặt ngơ tai,
Để cho mấy ức triệu người bơ vơ.
Dân Nam một dạ ước mơ,
Lâu nay từng núp bóng cờ tự do.
Rộng xin dân Pháp giúp cho,
Trong phò tiếng nước, sau phò lẽ công.
Dịch mấy chữ quốc âm bày tỏ,
Để đồng bào lớn nhỏ được hay.
Hòa bình may gặp hội này,
Tôn sùng công lý, đọa đày dã man.
Nay gặp hội khải hoàn hỉ hả,
Tiếng vui mừng khắp cả đồng - dân.
Tây vui chắc đã mười phần,
Lẽ nào Nam lại chịu thân tôi đòi.
Hẵng mở mắt mà soi cho rõ.
Nào Ai Lan, Ấn Độ, Cao Ly,
Xưa, hèn phải bước suy vi
Nay, gần độc lập cũng vì dân khôn
Hai mươi triệu quốc hồn Nam Việt
Thế cuộc này phải biết mà lo
Đồng bào, bình đẳng, tự do
Xét mình rồi lại đem so mấy người
Ngổn ngang lời vắn ý dài
Anh em đã thấu lòng này cho chưa.
“Việt Nam yêu cầu ca” là bài ca được chuyển từ nội dung bản Yêu sách của nhân dân An Nam (gồm 8 điểm) mà Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị hòa bình Pari1 được tổ chức tại Vécxây (Pháp) năm 1919.
Năm 1918, Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc. Ngày 18/01/1919, đại biểu các nước thắng trận tổ chức họp hội nghị tại lâu đài Vécxây (Pháp). Một số đoàn đại biểu thay mặt các dân tộc bị áp bức và phụ thuộc như Ấn Độ, Ailen, Triều Tiên, Arập,... đã đến Vécxây vì tại đây sẽ có tuyên bố của Tổng thống Mỹ Uynxơn hứa trao trả độc lập.
1. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.523.
19
TINH HOA THƠ CA HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Ái Quốc lập tức thay mặt Hội những người An Nam yêu nước tại Pháp, trực tiếp cầm bản Yêu sách của nhân dân An Nam (Revendications du peuple Annamite) gồm 8 điểm ký tên Nguyễn Ái Quốc, đến lâu đài Vécxây trao cho Văn phòng hội nghị.
Bản Yêu sách của nhân dân An Nam đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng, quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam, cụ thể là:
“1. Tổng ân xá cho tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị; 2. Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu châu; xóa bỏ hoàn toàn các tòa án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam;
3. Tự do báo chí và tự do ngôn luận;
4. Tự do lập hội và tự do hội họp;
5. Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương;
6. Tự do học tập, thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ;
7. Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật;
8. Đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ, do người bản xứ bầu ra, tại Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được những nguyện vọng của người bản xứ”1. Bản yêu sách này cũng được gửi đến các đoàn đại biểu và các nghị sĩ Pháp dự hội nghị kèm theo “Thư gửi Tổng thống Mỹ” như sau:
“Thưa Ngài,
Nhân dịp chiến thắng của Đồng minh, chúng tôi xin mạn phép gửi đến Ngài, kèm theo đây bản ghi các yêu sách của nhân dân An Nam.
Tin tưởng ở độ lượng cao cả của Ngài, chúng tôi mong Ngài ủng hộ trước những người có thẩm quyền.
Xin Ngài vui lòng nhận sự biểu thị lòng kính trọng sâu sắc của chúng tôi. Thay mặt nhóm những người yêu nước An Nam
NGUYỄN ÁI QUỐC”2
Hầu hết các đoàn đại biểu và các nghị sĩ Pháp sau khi nhận được bản yêu sách và thư đều đã gửi thư trả lời Nguyễn Ái Quốc. Nhưng các nhà chính trị tư bản đến
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.441, 471.
20
Phần thứ nhất: ĐI TÌM XUẤT XỨ THƠ CA HỒ CHÍ MINH
Hội nghị Vécxây với mục đích chia lại thị trường và tranh giành lợi ích, họ không hề quan tâm đến nguyện vọng của các dân tộc bị áp bức. Những tuyên bố của họ về độc lập, tự trị, tự do, dân chủ cho các dân tộc bị áp bức chỉ là tuyên bố suông, lừa bịp mà thôi. Yêu sách của nhân dân An Nam cũng như của các dân tộc bị áp bức không được xem xét, không đạt được kết quả gì, nhưng Nguyễn Ái Quốc coi đây là một dịp vạch trần chủ nghĩa thực dân, tạo dư luận rộng rãi trên thế giới, nhất là đối với các dân tộc bị áp bức, thúc đẩy đấu tranh đòi độc lập, tự do. Mặt khác, muốn độc lập, tự do không có con đường nào khác phải tự mình, dựa vào sức mình là chính, không hy vọng, mong cầu gì vào bọn thực dân, đế quốc.
Ngay sau khi hội nghị Vécxây kết thúc, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ tiền dành dụm, thuê in 6.000 bản yêu sách, rồi cùng với kiều bào trong Hội những người An Nam yêu nước đi phân phát tại các hội nghị, các cuộc mít tinh, gửi đến các nhà hoạt động chính trị; tìm cách đăng được trên các tờ báo Nhân đạo, Dân chúng của Pháp, đồng thời gửi về nước. Để người dân trong nước dễ hiểu, dễ thuộc, nằm lòng, bản yêu sách 8 điểm đã được chuyển thành văn vần theo thể lục bát và song thất lục bát với đầu đề “Việt Nam yêu cầu ca” như trên.
Bản yêu sách đã có ảnh hưởng khá sâu rộng trong các giới ở Pháp, được dư luận Pháp hết sức chú ý. Bản yêu sách và bài ca “Việt Nam yêu cầu ca” được nhân dân trong nước đón nhận nhiệt thành và thực sự có tiếng vang ở các nước thuộc địa của Pháp.
Cũng xin được lưu ý điều này: bản Yêu sách của nhân dân An Nam được viết bằng tiếng Pháp, toàn bộ nội dung bản yêu sách là do Nguyễn Ái Quốc viết, nhưng hồi bấy giờ, anh Nguyễn chưa thành thạo tiếng Pháp nên đã nhờ Luật sư Phan Văn Trường - một người có uy tín trong giới Việt kiều yêu nước ở Pháp và cụ Phan Châu Trinh giúp đỡ dịch ra tiếng Pháp. Trong cuốn sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, đã kể rằng bản yêu sách “do ông Nguyễn đề ra nhưng lại do luật sư Phan Văn Trường viết, vì lúc bấy giờ, ông Nguyễn chưa viết được tiếng Pháp”1. Đây cũng là một trong những lý do anh Nguyễn bắt tay ngay vào việc học tiếng Pháp và học làm báo.
Bản Yêu sách của nhân dân An Nam và bài ca “Việt Nam yêu cầu ca” là tài liệu quý giúp cho việc nghiên cứu sự nghiệp văn thơ và tư tưởng Hồ Chí Minh được sáng rõ hơn.
1. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017, tr.42.
21
TINH HOA THƠ CA HỒ CHÍ MINH
HÃY YÊU THƯƠNG NHAU
VÀ CÙNG NHAU ĐOÀN KẾT1
Hãy yêu thương nhau, cùng nhau ta đoàn kết
Hãy lắng nghe câu hát từ đáy lòng tôi.
Kẻ không đoàn kết cũng như chim lạc đàn
Chóng hoặc chày rồi sẽ trúng tên
Vì đơn độc sẽ làm mồi cho hiểm họa
Từ kết đoàn hạnh phúc sẽ sinh sôi.
Chúng ta phải làm sao đoàn kết?
Hãy liên kết như thể thân mình
Ngũ quan cùng với tay chân dính liền
Tách rời nhau thời không thể sống
Chỉ cùng với nhau sức lực mới sinh sôi
Nào ta hãy cùng yêu thương đoàn kết
Chớ ham lợi Pháp mà phản bội sự nghiệp
Hãy kết đoàn tương trợ lẫn nhau
Tựa tứ chi kết lại ta sẽ thành công
Đất nước ta ta xây một thiên đường
Hãy yêu thương nhau và cùng nhau đoàn kết
Nghĩa vụ một người dân là phải yêu Tổ quốc
Mau cải thiện tâm, tài, lực cho dân
Vì sự nghiệp chung hãy học sống và học chết
Hỡi đồng bào yêu quý hãy lắng nghe tôi hát
Rồi học thương yêu nhau và đoàn kết cùng nhau.
Bài thơ “Hãy yêu thương nhau và cùng nhau đoàn kết” của Nguyễn Ái Quốc được đăng trên báo Thanh niên số ra ngày 23/8/1925, xuất bản ở Quảng Châu, Trung Quốc.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.503-504.
22
Phần thứ nhất: ĐI TÌM XUẤT XỨ THƠ CA HỒ CHÍ MINH
Trong những năm 1925-1927, Quảng Châu không chỉ là trung tâm cách mạng của đất nước Trung Quốc rộng lớn mà còn là trung tâm của cách mạng phương Đông. Chủ nghĩa Tam dân1 của Tôn Trung Sơn kết hợp với tư tưởng Mác - Lênin hội tụ nơi mảnh đất này đã hứa hẹn một tương lai tươi sáng. Thời gian này, Quốc - Cộng (Đảng Cộng sản và Quốc dân Đảng) hợp tác với nhau xây dựng mặt trận thống nhất và trở thành một lực lượng hùng mạnh. Người dân được hưởng khá nhiều quyền tự trị, họ đã tiếp thu được những tư tưởng mới. X.A Đalin đã viết: “Thật khó mà miêu tả Quảng Châu trong những ngày đó. Ở đây có cái gì tựa như năm 1917 không bao giờ quên ở nước Nga. Tôi luôn có cảm giác rằng ngôn ngữ loài người còn quá nghèo nàn để có thể diễn đạt hết sức mạnh của tình cảm: phẫn nộ và sung sướng, yêu thương và căm giận của quần chúng nhân dân tràn ra trên các đường phố và quảng trường”2. Bấy giờ, một số nước Đông Á và Đông Nam Á như Triều Tiên, Inđônêxia, Miến Điện (nay là Mianma), Việt Nam đều tìm cách cử người đến Quảng Châu để học tập kinh nghiệm. Đối với Việt Nam, Quảng Châu đã trở thành địa bàn cư trú, hoạt động cách mạng của nhiều thế hệ yêu nước và cách mạng.
Trước tình hình cách mạng tiến triển ở Quảng Châu, Quốc tế Cộng sản đã quyết định tăng cường cho phái bộ Bôrôđin3 tại Quảng Châu. Nguyễn Ái Quốc đã nhiều lần đề nghị được đi Trung Quốc để tìm cách liên lạc với các tổ chức chính trị ở Việt Nam. Lần này, nguyện vọng của Nguyễn Ái Quốc được đáp ứng. Ngày 25/9/1924, Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản ra quyết định cử Nguyễn Ái Quốc đi Quảng Châu, thuộc quân số cán bộ tăng cường cho phái bộ Bôrôđin4.
Ngày 11/11/1924, Nguyễn Ái Quốc tới Quảng Châu trên con tàu cắm cờ đỏ của đất nước Xôviết xuất phát từ Vlađivôtốc. Trong thời gian ở Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc lấy tên là Lý Thụy, vừa làm việc trong phái bộ Bôrôđin, vừa tìm cách kết nối với
1. Chủ nghĩa Tam dân có nội hàm là: Dân tộc độc lập, Dân quyền tự do, Dân sinh hạnh phúc (BT).
2. X.A. Đalin: Hồi ký về Trung Quốc (1921-1927), Nxb. Khoa học, Mátxcơva, 1982, tr.217. 3. Bôrôđin vừa là cố vấn chính trị của Chính phủ Tôn Trung Sơn, vừa là đại diện của Quốc tế Cộng sản ở miền Nam Trung Hoa. Ở Quảng Châu, Bôrôđin có uy tín lớn. Ông là một người bônsêvích giàu kinh nghiệm. Ông vào Đảng Cộng sản năm 1923 khi mới 19 tuổi. Bôrôđin từng có một thời gian dài sống ở nước ngoài. Sau thắng lợi Cách mạng Tháng Mười ông trở về nước Nga, được Đảng giao phụ trách liên lạc quốc tế của Đảng, chuyên lo về các vấn đề của phong trào cộng sản và Quốc tế Cộng sản. Lênin rất tín nhiệm Bôrôđin. 4. Quyết định của Quốc tế Cộng sản ghi rõ: “Đồng chí Nguyễn Ái Quốc cần đi Quảng Châu. Chi phí do Ban Phương Đông chịu”. Xem Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, t.1, tr.229.
23
TINH HOA THƠ CA HỒ CHÍ MINH
các đồng chí, các tổ chức cách mạng Việt Nam đang hoạt động ở Quảng Châu thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên - tổ chức tiền thân quan trọng nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương, xuất bản tờ báo Thanh niên - khởi nguồn cho dòng báo chí cách mạng Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX và mở các lớp huấn luyện chính trị, đào tạo cán bộ cách mạng.
Báo Thanh niên - cơ quan ngôn luận của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ra số đầu tiên ngày 21/6/1925. Báo Thanh niên in ấn bí mật, khổ 18x24cm, viết bằng bút sắt trên giấy sáp. Tên báo trên măngséc, chữ “T” và chữ “N” viết to. Bên cạnh chữ “Thanh niên” viết bằng chữ Trung Quốc, nét rỗng bên trái là hình ngôi sao năm cánh để đánh số thứ tự các số báo. Mỗi số báo có 4 trang, tuy nhiên có số chỉ có 2 trang, số đặc biệt 5 trang. Số lượng phát hành khoảng 400 - 500 bản1.
Trên trang nhất báo Thanh niên số đầu tiên ra ngày 21/6/1925, Nguyễn Ái Quốc với bút danh ZAC đã có bài viết được coi như tuyên ngôn của tờ báo: “Để dẫn dắt nhân dân làm một sự nghiệp vĩ đại cần phải có một sức lãnh đạo, sức lãnh đạo đó không phải là một vài người thôi, mà phát sinh từ sự hiệp lực của hàng ngàn vạn người.
Muốn cho hàng ngàn vạn người ấy đoàn kết chặt chẽ với nhau thì họ phải cùng một ý chí như nhau, họ phải nuôi kỳ vọng giống nhau, có vậy mới có đoàn kết. Khi nào cùng ý chí, cùng kỳ vọng thì khi ấy mới có thể đoàn kết, bằng không giàu có hô hào đoàn kết mấy đi nữa cũng không thể đoàn kết được. Sự nghiệp cách mạng lớn lắm. Những người cách mạng phải đoàn kết với nhau để thực hiện sự nghiệp đó. Người mình đã làm việc cách mạng nhiều năm rồi mà chưa thành công bởi vì thiếu đoàn kết với nhau”2.
Cùng một mạch kêu gọi giác ngộ về đoàn kết, trong số báo ra ngày 23/8/1925, bài thơ “Hãy yêu thương nhau và cùng nhau đoàn kết” được đặt ở vị trí trang trọng: Hãy yêu thương nhau, cùng nhau ta đoàn kết
Hãy lắng nghe câu hát từ đáy lòng tôi.
...
Hỡi đồng bào yêu quý hãy lắng nghe tôi hát
Rồi học thương yêu nhau và đoàn kết cùng nhau.
Đây thực sự là những lời tâm huyết tự đáy lòng cất lên cùng đồng bào, đồng chí. Những bài thơ của Nguyễn Ái Quốc đăng trên báo Thanh niên được ký với bút danh Văn Thu.
1, 2. Hồ Chí Minh - Tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.195, 194.
24
Phần thứ nhất: ĐI TÌM XUẤT XỨ THƠ CA HỒ CHÍ MINH
Báo Thanh niên do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp đảm trách đã ra được 88 số (số 88 ra ngày 17/4/1927) trước khi Người phải bí mật rời Quảng Châu đi Hồng Kông, rồi Thượng Hải để trở lại Liên Xô vì cuộc phản biến của Tưởng Giới Thạch. Báo Thanh niên sau đó cũng chuyển qua Hồng Kông, tiếp tục xuất bản đến số 208, số cuối cùng phát hành vào tháng 5/1930.
25
TINH HOA THƠ CA HỒ CHÍ MINH
CÔ VƯỢNG KHUYÊN CHỒNG1
Hợp tác nề có anh thợ Vượng,
Tay nghề hay, tính bướng cũng hay.
Những khi hội họp hàng ngày,
Nay thì nói đổng, mai rằng đòi ra.
Chị hết lòng thiết tha khuyên bảo,
Không nghe còn táo bạo hành hung.
Rằng em chẳng phải nói nhăng,
Rằng em chỉ muốn em bằng người ta.
Chị kiên nhẫn bảy ba kiên nhẫn,
Làm cho anh đổi giận sang hiền.
Anh nghe lời vợ anh khuyên,
Hội giao công việc anh chuyên cần làm.
Làm đứng đắn không ham lợi vặt,
Nói như làm thẳng thắn phân minh.
Một người tính dữ hóa lành,
Cả hội hợp tác khen anh vô cùng.
Chuyện cô Vượng khuyên chồng kết quả,
Chị em đều hỉ hả mừng vui,
Đăng lên báo chí cùng coi,
Để rồi học tập, để rồi làm gương.
Sau khi rời Quảng Châu vì cuộc chính biến của Tưởng Giới Thạch, Nguyễn Ái Quốc trở lại Liên Xô vào đầu tháng 5/1927. Tuy nhiên, Nguyễn Ái Quốc chỉ ở lại Liên Xô một thời gian ngắn, gặp và làm việc với nhóm sinh viên Việt Nam ở Trường Đại học Phương Đông, rồi đi điều dưỡng ở bán đảo Crimê.
Tháng 12/1927, Nguyễn Ái Quốc đi Brúcxen dự khóa họp của Đại hội đồng Liên đoàn chống đế quốc. Đây là tổ chức chống đế quốc rộng rãi đầu tiên trong mặt
1. Xem Hồ Chí Minh thơ toàn tập, Nxb. Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh và Trung tâm nghiên cứu quốc học, Thành phố Hồ Chí Minh 2000, tr.287.
26
Phần thứ nhất: ĐI TÌM XUẤT XỨ THƠ CA HỒ CHÍ MINH
trận thống nhất giữa giai cấp công nhân thế giới, trí thức tiến bộ ở các nước tư bản và đại biểu của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh. Tại đây, Bác gặp các ông/bà Tống Khánh Linh, Anbe Anhxtanh, Rômanh Rôlàng, Giavatkharơlan Nêru, Xanh Cataiam, Hăngri Bácbuýt và những nhà hoạt động nổi tiếng đến tham dự khóa họp.
Sau khi khóa họp bế mạc, Nguyễn Ái Quốc đi Pháp, rồi qua Đức, Thụy Sĩ đến Italia. Từ Italia, Bác đi trên tàu thủy của Nhật Bản qua Xrilanca, tháng 7/1928 thì về đến Xiêm (Thái Lan).
Thời gian ở Xiêm, Bác hoạt động chủ yếu tại các tỉnh Uđon, Noọngkhai, Nakhôn, Sacôn thuộc vùng Đông Bắc. Vùng này rất đông Việt kiều yêu nước và có cơ sở của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Bác tích cực vận động tuyên truyền, giác ngộ và giáo dục tinh thần yêu nước, tiếp tục củng cố và xây dựng Hội thân ái Việt Nam vững mạnh, phát triển sâu rộng ở các vùng định cư của Việt kiều, đổi tờ báo ĐỒNG THANH thành tuần báo Thân ái, vận động mở trường học, dịch các sách Nhân loại tiến bộ sử và Chủ nghĩa cộng sản A.B.C. Bên cạnh đó, Bác còn cùng Việt kiều cuốc đất cày cấy, hòa giải xích mích trong khu dân cư và các gia đình, đoàn kết mọi người hướng về đất nước. Trong cuốn sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch có viết: “Ngoài việc cuốc đất, đi buôn, ông Nguyễn còn làm việc tuyên truyền và tổ chức. “Hội Thân ái Việt Nam” thành lập, một tờ tuần báo Thân ái được xuất bản... Những hoạt động của ông, dù hết sức cẩn thận vẫn không thể hoàn toàn giữ bí mật. Ở đâu có Việt kiều là tổ chức trường học cho trẻ em. Ở đâu có trường học, là nơi đó cha mẹ tụ họp để nghe đọc báo và bàn bạc công việc... Trẻ em không ngỗ nghịch nữa. Nạn mù chữ dần dần thanh toán hết... Gặp khi nguy hiểm quá, bị theo dõi riết, ông Nguyễn đã lánh vào một ngôi chùa, tạm cắt tóc đi tu để tiếp tục hoạt động”1.
Nguyễn Ái Quốc thực sự sống trong lòng kiều bào, được bà con yêu thương, kính trọng, bảo vệ và làm theo những lời mà Bác chỉ dẫn. Bà con ở đây trìu mến gọi Bác với cái tên thân thương là Thầu Chín (Ông Chín). Ông Chín vui buồn cùng bà con, cảm thông với mọi hoàn cảnh, giúp đỡ tận tình bà con lúc khó khăn. Ông Chín từng chứng kiến và phục tài cảm hóa người chồng của cô Vượng. Chồng cô Vượng là một người giỏi giang, có tay nghề cao nhưng thô tục, bướng bỉnh, ăn nói thiếu suy nghĩ, nhiều lúc hành hung thô bạo với vợ con, nhưng cô Vượng ngày ngày kiên nhẫn khuyên can, giảng giải, cảm hóa nên chồng cô đã trở thành người tốt, từ bỏ được những khuyết tật,
1. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Sđd, tr.95-96.
27
TINH HOA THƠ CA HỒ CHÍ MINH
“tính dữ hóa lành”. Cảm kích việc làm của cô Vượng, ông Chín đã làm bài thơ 20 câu biểu dương cô Vượng trên tuần báo Thân ái.
Năm 1993, người viết sách này có đến thăm một gia đình nông dân Việt kiều ở Noọngkhai. Chủ nhà là một bà cụ ngoài 80 tuổi đã kể cho nghe một chi tiết khá thú vị là mẹ của bà thường kể cho bà nghe về Thầu Chín, hồi Ông Chín ở đây được bà con Việt kiều yêu quý như thế nào; Ông Chín hay làm thơ kể các câu chuyện có thật và đọc cho mọi người nghe, ai cũng thích, có khi còn bắt đọc lại. Bà cụ còn nhớ một số câu của bài thơ “Cô Vượng khuyên chồng” và đọc rành rọt. Thật bất ngờ!
28
Phần thứ nhất: ĐI TÌM XUẤT XỨ THƠ CA HỒ CHÍ MINH
BÀI CA TRẦN HƯNG ĐẠO1
... Diên Hồng thề trước thánh minh
Lòng dân đã quyết hy sinh rành rành
Nếu ai muốn đến giành đất Việt
Đưa dân ta ra giết sạch trơn
Một người Việt hãy đương còn
Thì non sông Việt vẫn non sông nhà...
Sau một thời gian xây dựng phong trào ở Uđon (Xiêm) đã thành nền nếp, Thầu Chín đi Sa Côn. Ở Sa Côn, kiều bào người Việt đông hơn, có trường học cho trẻ em, có Hội thanh niên, nhưng ở đây tình hình phức tạp hơn ở Uđon do bà con còn chậm tiến và mê tín, việc mất đoàn kết trong nội bộ Việt kiều đang là vấn đề nhức nhối.
Thầu Chín đến Sa Côn, cũng như ở Uđon, sống trong lòng bà con, tìm mọi cách kết nối tình thương của những người xa quê hương. Hằng ngày, Thầu Chín cùng tham gia lao động với bà con, đồng thời dịch sách, huấn luyện cho thanh niên, phát huy tổ chức Hội thanh niên, tập hợp những người biết làm thuốc thành một hợp tác thầy lang, xây dựng tủ thuốc chữa bệnh cho bà con. Ngoài những công việc trên, Thầu Chín vẫn tập trung tiếp tục công việc tuyên truyền tổ chức Hội thân ái Việt Nam và tìm mọi cách phát hành tuần báo Thân ái.
Ở Uđon và Sa Côn, cũng như một số nơi khác ở Xiêm, bà con kiều bào đều lập đền thờ Đức Thánh Trần (tức đền thờ Trần Hưng Đạo), cầu cúng, kêu xin mỗi khi gặp khó khăn hoặc tai họa. Các bài cầu cúng đều mang yếu tố thần bí, mê tín dị đoan, không đúng hình ảnh, bản chất của người anh hùng dân tộc. Trước tình hình đó, Thầu Chín đã soạn một bài ca để bà con kiều bào khấn, cầu ở đền thờ cũng như ở gia đình. Đó chính là “Bài ca Trần Hưng Đạo”, bài ca được viết một cách giản dị, chân thực về một Đức Thánh Trần tài ba hai lần đánh thắng quân Nguyên Mông, một anh hùng dân tộc văn võ song toàn, rất mực thương dân và tấm lòng tôn thờ thành kính của nhân dân trước anh linh của Người.
1. Xem Hồ Chí Minh thơ toàn tập, Sđd, tr.286.
29
TINH HOA THƠ CA HỒ CHÍ MINH
“Bài ca Trần Hưng Đạo” được truyền bá một cách nhanh chóng và thần diệu, phổ biến sâu rộng, ai ai cũng thuộc. Đức Thánh Trần đã trở lại với kiều bào đúng với hình ảnh là người cứu dân độ thế, đuổi giặc hung tàn ra khỏi bờ cõi nước Nam, dựng xây đất nước độc lập, chủ quyền.
“Bài ca Trần Hưng Đạo” của Thầu Chín đã được in thành sách nhỏ bỏ túi, phân phát cho các nơi có kiều bào Việt Nam đang làm ăn sinh sống trên đất Xiêm. Bài thơ thể hiện sự tôn vinh vị anh hùng dân tộc và tấm lòng hướng về Tổ quốc, quyết bảo vệ non sông, đất nước dù bất cứ nơi đâu.
Đoạn thơ trên của “Bài ca Trần Hưng Đạo” được trích từ hồi ký của đồng chí Lê Mạnh Trinh - một người hoạt động cách mạng cùng thời với Nguyễn Ái Quốc.
30
Phần thứ nhất: ĐI TÌM XUẤT XỨ THƠ CA HỒ CHÍ MINH
THƯ VỢ GỬI CHỒNG1
Ba bốn năm trời luống nhớ thương,
Nhớ chồng lưu lạc tại tha hương.
Tóc thề đã chấm ngang vai thiếp,
Lụy nhớ e chưa ráo mắt chàng.
Thù nước, thù nhà, chàng gắng trả,
Việc nhà, việc cửa, thiếp xin đương.
Bao giờ đuổi sạch quân thù địch,
Ta sẽ sum vầy ở cố hương.
Đầu năm 1940, Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở Côn Minh (Vân Nam, Trung Quốc), lấy biệt danh là ông Trần.
Trong hồi ký Những ngày gần Bác, đồng chí Vũ Anh kể lại rằng: “... Buổi sáng tháng Hai, trời Côn Minh trong trẻo và êm ả. Nắng ấm cuốn đi những mảng sương còn vương vấn lại trên những ngọn thông cao hình kim tự tháp của con đường Kim Mã chính ở Côn Minh. Tôi (tức đồng chí Vũ Anh, lúc ấy lấy tên là Trịnh Đông Hải lái xe cho cửa hiệu Vĩnh An Đường) ngồi ở hành lang cửa hiệu dầu cù là Vĩnh An Đường xem sách. Bỗng nghe một người Trung Quốc hỏi một bác công nhân:
- Anh cho tôi hỏi, ở đây có ai là Trịnh Đông Hải không...
Tôi vội vàng gập sách chạy ra... Tôi đến bên ông và trả lời, cũng bằng tiếng Trung Quốc:
- Tôi là Trịnh Đông Hải đây. Ông hỏi tôi có việc gì?
Người đàn ông đưa mắt thoáng qua phía người công nhân, rồi sát lại gần tôi, nói nhỏ, bằng tiếng Việt Nam.
- Tôi là Trần. Tôi có nhận được thư của các anh”.
Rồi hai người ra công viên trò chuyện. Từ đây, ông Trần bắt liên lạc được với Bộ Hải ngoại hoạt động ở Vân Nam. Bộ Hải ngoại có 3 người, do đồng chí Phùng Chí Kiên phụ trách. Bên cạnh Bộ Hải ngoại còn có Chi bộ Vân Quý do đồng chí Vũ Anh làm Bí thư.
Sau này, các đồng chí Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp từ Việt Nam sang cùng ở với đồng chí Cao Hồng Lĩnh. Từ đó, ông Trần trực tiếp chỉ đạo hoạt động các tổ chức cách mạng của ta ở Vân Nam.
1. Xem Hồ Chí Minh thơ toàn tập, Sđd, tr.293.
31
TINH HOA THƠ CA HỒ CHÍ MINH
Có một câu chuyện khá thú vị. Bộ Hải ngoại có ra một tờ báo lấy tên là Đ.T. (có thể hiểu là Đấu tranh, Đánh Tây, Đảng ta), ông Trần tham gia viết bài đều đặn cho tờ báo này. Bài nào của ông cũng hết sức ngắn gọn, cô đọng, dễ hiểu, dễ nhớ. Ông Trần cũng thường làm thơ và cho đăng trên báo Đ.T.. Có một lần, ông in một bài thơ với nhan đề “Thư vợ gửi chồng”, lấy từ một chuyện thực tế. Ông nói đùa với anh em đó là bài thơ của vợ Trịnh Đông Hải từ trong nước gửi sang.
Đồng chí Vũ Anh kể lại: Tuy là Bác nói đùa nhưng bài thơ có một tác động mạnh mẽ đối với chúng tôi. Bài thơ gợi nhớ, gợi thương nhưng không hề bi lụy. Ngược lại, nó chứa đựng một niềm tin tưởng, lạc quan cách mạng, thúc giục những người đi làm cách mạng cố gắng “Đuổi sạch quân thù địch” để sớm trở về nhà sum vầy, đoàn tụ.
Sau này, năm 1941, cùng xuất phát từ thực tế, cùng một mạch tư duy tuyên truyền, động viên, cổ vũ, Bác viết bài thơ “Thư vợ gửi chồng đi làm cách mạng”: Anh hỡi anh, chồng hỡi chồng,
Từ ngày ly biệt thiếp nay trông mai chờ.
Cha già mẹ yếu con thơ,
Nuôi già dạy trẻ em cậy nhờ vào đâu?
Đói no bữa cháo bữa rau,
Tuy lao khổ em dám đâu phàn nàn.
Đêm khuya em tự hỏi han,
Vì ai ta phải lìa tan thế này?
Anh nguyên có tội tình gì?
Mà nay cũng phải bắt đi ở tù?
Vì anh muốn chống kẻ thù,
Vì anh lo nước mất, dân ngu, nòi hèn.
Vì anh tranh đấu mấy phen,
Vì anh mong giải phóng cho cháu Tiên, con Rồng.
Em xin anh chớ phiền lòng,
Em tuy hèn yếu quyết thay chồng tranh đấu đến nơi.
Đoàn thể ta có ức triệu người,
Ra tay chèo chống cuộc đời nước ta.
Mai sau anh trở lại nhà,
Ánh trăng càng tỏ màu hoa càng nồng1.
1. Cảnh Nguyên, Hồ Văn Sơn (Tuyển chọn, biên soạn): Thơ Hồ Chí Minh, Nxb. Nghệ An, 2005, tr.38.
32
Phần thứ nhất: ĐI TÌM XUẤT XỨ THƠ CA HỒ CHÍ MINH
PÁC BÓ HÙNG VĨ1
Non xa xa, nước xa xa,
Nào phải thênh thang mới gọi là.
Đây suối Lênin, kia núi Mác,
Hai tay xây dựng một sơn hà.
“Pác Bó hùng vĩ” ra đời tháng 02/1941, là bài thơ tiếng Việt đầu tiên Bác Hồ viết sau khi Bác trở về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Thời gian này, Bác ở hang Pác Bó thuộc xã Trường Hà, Hà Quảng, Cao Bằng.
Ngày 08/01/19412, Bác bước qua cột mốc 108 biên giới Việt - Trung, đặt chân lên mảnh đất nơi địa đầu Tổ quốc sau 30 năm đi tìm đường cứu nước. Trong thiên hồi ký Bác Hồ về nước, đồng chí Lê Quảng Ba3 - người dẫn đường đưa Bác từ Trung Quốc về nước - đã kể lại những giây phút xúc động đầu tiên của Bác: “Mốc đá 108 như một tấm bia, hai mặt có khắc chữ Trung Quốc và chữ Pháp. Bác dừng lại cúi đọc những chữ khắc sâu trên đá. Rồi Người hướng tầm mắt nhìn vọng hồi lâu về dải đất Tổ quốc trùng điệp. Thấp thoáng dưới xa một cụm nhà nho nhỏ trong lũng ngô. Hoa đào, hoa mai, hoa Pioóccà trắng thơm mùi hoa huệ tô điểm thêm cho những mậy rẫy, mậy tơ, cây báng, cây bưởi, cây ổi, chuối rừng,... Bác dừng lại một chút nữa bên một dãy ghế đá thiên nhiên có nhiều hình dạng. Người nhìn sâu vào khoảng đất trời Tổ quốc biết bao đẹp đẽ nhưng đang đầy đau thương. Người đã xúc cảm những gì, đã suy nghĩ những gì trong giây phút lịch sử đó?”4.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.227.
2. Ngày 07/01/1941 tức mùng 01 tháng Giêng năm Tân Tỵ, Bác đang ở Trung Quốc, Bác cùng một số đồng chí đi chúc Tết nhân dân hai làng Nậm Quang và Nậm Tây (Quảng Tây, Trung Quốc). Bác thăm hỏi từng gia đình, nói chuyện với người già bằng tiếng dân tộc. Theo phong tục người Nùng ở đây, Bác tặng mỗi nhà một tờ giấy hồng điều, trên đó Bác viết 4 từ chữ Hán “Cung chúc tân niên” (Chúc mừng năm mới), còn các cháu nhỏ được mừng một đồng trong phong bao. Đó chính là buổi chào chia tay mà không ai biết rằng hôm sau Bác lên đường về nước.
3. Cùng đi với đồng chí Lê Quảng Ba còn có các đồng chí Phùng Chí Kiên, Hoàng Văn Lộc, Thế An và Đặng Văn Cáp.
4. Bác Hồ sống mãi với chúng ta (Hồi ký), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.1, tr.494.
33
TINH HOA THƠ CA HỒ CHÍ MINH
Theo kế hoạch đã định, đồng chí Lê Quảng Ba đưa Bác về ở tạm nhà của gia đình ông Máy Lì, người dân tộc Nùng, cơ sở cách mạng của ta. “Nhà ông Máy Lì đơn sơ gồm hai gian nhỏ và một gian mới làm thêm... Ông Máy Lì ân cần đón tiếp chúng tôi. Bác ngồi uống nước, trò chuyện thân mật với ông Máy Lì như một người nhà vừa đi xa về. Ánh mắt hiền hậu của Bác biểu lộ lòng thương yêu sâu sắc người nông dân suốt đời vất vả ấy”1. Nhà chật chội, đoàn người lại đông, hơn nữa để bảo đảm bí mật, Bác đề nghị: “Ta nhiều người nên ở trong núi thôi”2. Ông Máy Lì năn nỉ mời Bác cứ ở đây. Bác nói: “Thôi, sáu sán! (tức ở rừng)”3. Ông Máy Lì cho biết ở ngọn núi gần đây có một hang kín đáo, chỉ khi có thổ phỉ mọi người mới chạy tới đó thôi.
Ông Máy Lì dẫn Bác và những người cùng đi với Bác lên phía hang núi. Leo qua những đoạn đá lởm chởm thì đến cửa hang. “Đang trưa, nắng xuân. Nắng lọt qua các kẽ lá lọt vào hang. Một cái hang nhỏ nhưng đủ chỗ ở cho mấy người. Gần kề vách hang trong nổi lên một tháp đá thiên nhiên cao vượt đầu người, nước mưa bao năm đã mài gọt phần ngọn tháp thành một nhũ đá trắng (ít hôm sau Bác đã tạc nhũ đá này thành tượng Các Mác). Gió khô lành lạnh vi vút cửa hang. Vào sâu trong hang không khí ẩm hơn. Hang ăn thông ra một con đường kín dẫn sang bên kia biên giới. Người ta gọi đó là hang Cốc Bó, tức hang Đầu nguồn. Bác bằng lòng ở tạm đây”4. Sau đó Bác bảo đồng chí Lê Quảng Ba dẫn Bác và đồng chí Phùng Chí Kiên đi xem xét địa thế quanh hang. Mọi người đứng bên suối, ngước nhìn núi cao, Bác nói: “Dòng suối của ta đẹp quá trong xanh như ngọc ấy, lại bắt nguồn từ đây, nên đặt tên là suối Lênin. Còn ngọn núi hùng dũng kia... chúng ta gọi là núi Các Mác, các đồng chí thấy có được không?”5. Mọi người cười, vui vẻ tán thành.
Qua các đoạn hồi ký của đồng chí Lê Quảng Ba và những câu chuyện kể về Bác, giúp ta biết được những ngày tháng đầu tiên Bác về nước, những địa điểm, địa danh của Pác Bó mà Bác đưa vào bài thơ “Pác Bó hùng vĩ”.
Trong hồi ký Con đường dẫn tôi đến với Bác, đồng chí Đặng Văn Cáp, người từng hoạt động nhiều năm ở Trung Quốc và ở Pác Bó với Bác - đã kể về sự ra đời của bài thơ “Pác Bó hùng vĩ”: “Hang Pác Bó âm u, ẩm thấp nhưng địa hình chung quanh hang thật hùng vĩ, lại có những nét rất nên thơ. Nhìn những ngọn núi chót vót xanh rì, những dây leo trên những cành cây cổ thụ rủ xuống dòng suối nước trong xanh rì rào chảy, tôi làm bài thơ chữ Hán như sau:
1, 2, 3, 4, 5. Bác Hồ sống mãi với chúng ta (Hồi ký), Sđd, t.1, tr.495, 496.
34
Phần thứ nhất: ĐI TÌM XUẤT XỨ THƠ CA HỒ CHÍ MINH
Dịch âm Hán - Việt:
Bỉ bỉ liệt thủy
Xuất xứ tự Mã san
Bất xá túc dạ
Biền sái nhân hoàn.
Dịch nghĩa:
Suối Lênin cuồn cuộn
Từ núi Mác chảy ra
Suốt ngày đêm chẳng dứt
Tưới khắp cả gần xa.
Bác nghe, gật gù. Nhân đấy, Bác liền tức cảnh một bài, bài đó ngày nay chúng ta đều biết cả. Đó là bốn câu thơ:
Non xa xa, nước xa xa,
Nào phải thênh thang mới gọi là.
Đây suối Lênin, kia núi Mác,
Hai tay xây dựng một sơn hà”.
Bốn câu thơ ngẫu hứng của Bác vốn không có đầu đề. Năm 1967, Nhà xuất bản Văn học xuất bản tập Thơ Hồ Chủ tịch và đặt tên bài thơ này là “Pác Bó hùng vĩ”. Ai đã đến Pác Bó sẽ hiểu rõ tại sao Bác Hồ và các đồng chí của Người lại chọn vùng địa hình hiểm trở có rừng rậm, núi đá xanh trập trùng, suối sâu tung bọt trắng xóa để làm địa bàn hoạt động bí mật và tập hợp lực lượng trong buổi đầu cách mạng. Đến Pác Bó thăm hang Cốc Bó, được tận mắt nhìn suối Lênin, núi Các Mác sẽ cảm nhận sâu hơn cái hay, cái đẹp trong bài thơ của Bác và càng thấm thía ý nghĩa “Hai tay xây dựng một sơn hà”.
35
TINH HOA THƠ CA HỒ CHÍ MINH
TỨC CẢNH PÁC BÓ1
Sáng ra bờ suối, tối vào hang,
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng;
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng,
Cuộc đời cách mạng thật là sang.
Trong hồi ký của các đồng chí lão thành cách mạng, những người từng sống, làm việc với Bác ở Pác Bó đều kể lại tỉ mỉ về cảnh Pác Bó hiểm trở, hùng vĩ, có núi cao, suối sâu, rừng rậm, hang lạnh,... như thế nào và sinh hoạt vật chất thì kham khổ ra sao. Trong thiên hồi ký Những ngày gần Bác, đồng chí Vũ Anh đã kể về một thực tế: “Đời sống nhân dân vùng Pác Bó hồi ấy rất khổ. Làm ra bao nhiêu thì bọn Tây, bọn Nhật, bọn quan lại và tổng đoàn... cướp giật hết. Cán bộ cách mạng đến, nhưng còn đang hoạt động bí mật, chưa có thể đem lại quyền lợi gì cho nhân dân ngoài việc giác ngộ cách mạng, thức tỉnh lòng yêu nước, ý chí căm thù của nhân dân đối với bọn bóc lột và đàn áp mình. Bữa ăn chính của Bác và chúng tôi cũng như nhân dân lúc bấy giờ là cháo bẹ và rau măng, rau rừng. Thỉnh thoảng Bác câu được con cá hay anh em mua được cân thịt nào, anh Lộc lại đem kho thật mặn - thường một thịt hai muối”2. Nói về thời kỳ này, trong hồi ký Bác Hồ đến bản tôi, đồng chí Dương Đại Lâm còn nhớ mãi: “Người sống rất giản dị và kham khổ. Nước lá ổi thay chè, và cải xoong là thức ăn chủ yếu. Ngày ấy đồng bào quanh vùng ăn độn bắp... Riêng “Đồng chí già” tuổi cao, sức yếu, chúng tôi mua gạo nấu riêng cho Người ăn, nhưng Người không đồng ý. Có lần bắp non xay để lâu mới ăn đến, bị chua, chúng tôi lại đề nghị Người ăn cơm gạo không, Người vẫn không nghe. Suy nghĩ rất nhanh, Người hỏi bọn tôi:
- Có cách nào làm cho bắp non khỏi chua không?
Chúng tôi thưa:
- Nếu rang lên thì có thể ăn được, nhưng không ngon...
- Không ngon cũng được. Thế thì rang lên mà ăn, không nên bỏ phí, một hạt bắp lúc này cũng quý. Về sau nên phơi khô, rồi hãy xay.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.228.
2. Bác Hồ sống mãi với chúng ta (Hồi ký), Sđd, t.1, tr.319.
36
Phần thứ nhất: ĐI TÌM XUẤT XỨ THƠ CA HỒ CHÍ MINH
Từ đấy mỗi khi thu hoạch về nhà, chúng tôi thành lệ phơi khô rồi mới cho vào cối, do đó bắp để được lâu vẫn còn ăn được... Người cũng luôn luôn tìm mọi cách tự cải thiện đời sống. Thời kỳ ở Pác Bó không dài, nhưng một vườn rau quả nho nhỏ đã bén rễ... Người còn cùng anh em trong cơ quan câu cá, mò ốc suối”1.
Nơi Bác ngồi làm việc thường xuyên ban ngày là một phiến đá thiên tạo, cách cửa hang Pác Bó không xa, Bác đã nhận ra khi đi lần đầu quan sát địa thế xung quanh hang. Trong hồi ký Bác Hồ về nước, đồng chí Lê Quảng Ba kể lại: “Bác theo tôi bước trên một hàng đầu đá vượt sang bên kia suối. Bác để ý ngay đến một bàn đá chông chênh ở cửa một khe cạn, Bác ngồi ướm vào một hòn đá thấp, hai khuỷu tay đặt lên bàn đá. Chỉ tay lên những vết nước lũ và những mẩu cành rêu mục ở vùng cửa khe, Bác nói:
- Cái bàn nhìn chông chênh mà đúng là bàn thạch đấy, các đồng chí ạ. Nước lũ dữ thế kia cũng không lật đổ được nó.
Từ hôm sau, Bác thường ra đây ngồi làm việc, bên bờ suối, dưới vòm cây xanh có hoa, bướm và chim rừng”2. Trong hồi ký Những ngày gần Bác, đồng chí Vũ Anh cho biết: “Tại bàn đá này Bác đã dịch cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản (b) Liên Xô làm tài liệu cho chúng tôi học tập. Lúc dịch xong một đoạn, hay một chương, cần nghỉ ngơi cho thoải mái, Bác thường đến ngồi bên bờ suối lấy cơm thả xuống cho cá ăn. Vừa xem phong cảnh, Bác vừa tức cảnh làm thơ:
Sáng ra bờ suối, tối vào hang,
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng;
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng,
Cuộc đời cách mạng thật là sang”3.
Bốn câu thơ rất thực - cảnh thực, người thực, đời sống thực, công việc thực mà bay bổng, lãng mạn vô cùng. Hiện thực và lãng mạn quyện chặt vào nhau. Bốn câu thơ này vốn cũng không có đầu đề, thường thơ đến với Bác trong lúc ngẫu hứng, tự nhiên, Bác đọc cho những người gần gũi hoặc một vài đồng chí nghe. Đầu đề bài thơ là do những người làm tập Thơ Hồ Chủ tịch (Nhà xuất bản Văn học, 1967) đặt tên.
“Tức cảnh Pác Bó” ra đời tháng 02/1942, là một bài ca cuộc đời, một niềm vui lớn, một niềm tự hào về “Cuộc đời cách mạng thật là sang” của Bác Hồ kính yêu trong buổi đầu cách mạng với biết bao thử thách, gian nan phải vượt qua.
1, 2, 3. Bác Hồ sống mãi với chúng ta (Hồi ký), Sđd, t.1, tr.363, 497, 319.
37
TINH HOA THƠ CA HỒ CHÍ MINH
NHỮNG BÀI CA KÊU GỌI TUYÊN TRUYỀN, VẬN ĐỘNG, GIÁC NGỘ VÀ HÀNH ĐỘNG
CÁCH MẠNG VIẾT TRONG NHỮNG NĂM 1941-1942
Trước khi rời Pari đi Mátxcơva với mong muốn được gặp Lênin để hiểu rõ hơn về cách mạng xã hội chủ nghĩa, Bác đã viết một bức thư dài để lại cho các đồng chí Xênêgan, Angiêri, Marốc, Mangát... là những người cùng làm việc với Bác trong tòa báo Người cùng khổ - cơ quan ngôn luận của Hội Liên hiệp thuộc địa tại Pháp, nói lời chia tay tràn đầy nghĩa tình và những chủ định của mình: “... Mặc dầu chúng ta là những người khác giống, khác nước, khác tôn giáo, chúng ta đã thân yêu nhau như anh em. Chúng ta cùng chịu chung một nỗi đau khổ: sự bạo ngược của chế độ thực dân. Chúng ta đấu tranh vì một lý tưởng chung: giải phóng đồng bào chúng ta và giành độc lập cho Tổ quốc chúng ta... Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập”1.
Năm 1941, Bác về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam và đã làm đúng như thế. Trong những năm 1941-1942, Bác tập trung cho công việc trọng tâm là tập hợp quần chúng, xây dựng phong trào, tổ chức lực lượng, tuyên truyền, giác ngộ cách mạng, vận động mọi tầng lớp trong nước đoàn kết đấu tranh dưới ngọn cờ của Mặt trận Việt Minh.
Từ tháng 02 đến đầu tháng 5/1941, từ việc nắm tình hình, Bác đã kịp thời ra các chủ trương, chỉ thị để đẩy mạnh sự phát triển của phong trào cách mạng và chuẩn bị kỹ càng cho các kế hoạch. Sau đó trên danh nghĩa đại diện cho Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ tám Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941 với sự tham dự của đại biểu trong nước và đại biểu hoạt động ở nước ngoài. Hội nghị đã phân tích sâu sắc, đánh giá tình hình và triển vọng của phong trào cách mạng thế giới; phân tích tình hình kinh tế, chính trị, xã hội... trong nước và đi đến quyết định: “Cần phải thay đổi chiến lược”2,
1. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Sđd, tr.69-70. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.118.
38
Phần thứ nhất: ĐI TÌM XUẤT XỨ THƠ CA HỒ CHÍ MINH
“cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng1”; xác định đường lối cách mạng trong giai đoạn này là “đánh đuổi Pháp - Nhật, làm cho xứ Đông Dương độc lập”. Để thực hiện đường lối, nhiều biện pháp về tư tưởng, chính trị và tổ chức được Hội nghị đề ra để động viên mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân. Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh2 thay cho Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương (thành lập năm 1939), đồng thời thống nhất chủ trương đặt tên cho các hội quần chúng trong mặt trận là hội cứu quốc.
Ngày 19/5/1941, Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh gọi tắt là Mặt trận Việt Minh chính thức ra đời với bản Tuyên ngôn nêu rõ: “Coi quyền lợi dân tộc cao hơn hết thảy, Việt Minh sẵn sàng giơ tay đón tiếp những cá nhân hay đoàn thể, không cứ theo chủ nghĩa quốc tế hay quốc gia, miễn thành thực muốn đánh đuổi Nhật, Pháp để dựng lên một nước Việt Nam tự do và độc lập”3. Cùng với Tuyên ngôn trên là bản Chương trình do Bác khởi thảo, nhằm thực hiện hai mục tiêu lớn: “1- Làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập, 2- Làm cho dân Việt Nam được sung sướng, tự do”. Bác còn soạn “Mười chính sách của Việt Minh” bằng thể thơ lục bát để quần chúng dễ thuộc, dễ nhớ:
Việt Nam độc lập đồng minh
Có bản Chương trình đánh Nhật, đánh Tây.
Quyết làm cho nước non này,
Cờ treo độc lập, nền xây bình quyền
...
Chúng ta có Hội Việt Minh
Đủ tài lãnh đạo chúng mình đấu tranh.
Rồi ra sự nghiệp hoàn thành,
Rõ tên Nam Việt, rạng danh Lạc Hồng.
1, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.7, tr.119, 461. 2. Theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp kể lại rằng: Trên đường về nước, Bác tiếp tục nung nấu những dự định về việc xây dựng một tổ chức mặt trận mới. Bác bàn với một số đồng chí: “Trước tình hình mới, vấn đề đoàn kết toàn dân giải phóng dân tộc càng quan trọng. Ta phải nghĩ đến việc lập một hình thức mặt trận thật rộng rãi, có tên gọi cho thích hợp. Việt Nam giải phóng đồng minh? Việt Nam phản đế đồng minh? hay là Việt Nam độc lập đồng minh?” (Xem Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.32).
39
TINH HOA THƠ CA HỒ CHÍ MINH
Khuyên ai xin nhớ chữ đồng
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh1.
Sau Hội nghị Trung ương VIII, để tuyên truyền, vận động, giác ngộ quần chúng quán triệt và làm đúng đường lối cách mạng, tổ chức nhân dân vào các hội cứu quốc của Mặt trận Việt Minh, tích cực xây dựng căn cứ địa cách mạng, Bác quyết định xuất bản tờ báo Việt Nam độc lập. Trong hồi ký Từ Pác Bó đến Tân Trào, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho biết: “Chuẩn bị ra đời cho tờ báo cũng rất khó khăn. Các đồng chí ở địa phương mày mò mãi mới kiếm được một cái bia đá. Bác cùng các đồng chí thay nhau mài mấy ngày liền mới hết những chữ nho khắc trên bia đá. Giấy bản in báo do các phụ nữ mua từng ít một trong các phiên chợ đem về góp lại. Tên tờ báo là Việt Nam độc lập gọi tắt là Việt lập. Vì khuôn khổ tờ báo nhỏ theo chỉ thị của Bác, lại phải viết chữ to để đồng bào đọc dễ dàng, nên các bài viết rất ngắn”. Cơ quan báo lúc đầu chỉ có 3 người: đồng chí Vũ Anh lo bài vở, đồng chí Vân Trình lo in ấn, đồng chí Thúy Bách phụ in, lo vật liệu và phân phát báo. Với kinh nghiệm của người từng làm báo, Bác trực tiếp phụ trách tờ báo. Vượt lên những khó khăn, sau một thời gian chuẩn bị, báo Việt Nam độc lập ra số đầu tiên ngày 01/8/1941, được đánh số 101 với ý nghĩa kế tục sự nghiệp của các tờ báo cách mạng xuất bản trước. Mục đích của báo được nêu ngay trên trang nhất số đầu tiên: “Báo Việt Nam độc lập cốt làm cho dân ta hết ngu hèn, biết các việc, biết đoàn kết, đặng đánh Tây, đánh Nhật, làm cho Việt Nam độc lập, bình đẳng, tự do”.
Thời gian đầu, Bác vừa chỉ đạo trực tiếp vừa tham gia viết bài, duyệt bài, có khi làm cả công việc lấy tin, trình bày, minh họa và in báo. Các bài viết trên báo Việt Nam độc lập đều ngắn gọn, rõ ràng, giản dị mà truyền cảm, phù hợp với trình độ của cán bộ và quần chúng cách mạng nên đã có tác dụng tuyên truyền và giáo dục hết sức to lớn. Từ số báo đầu tiên ngày 01/8/1941 đến số báo ngày 21/11/1942, Bác đã có bài đăng trên 36 số báo. Ngoài những bài tin tức bình luận, văn xuôi, kể chuyện, tranh vẽ, Bác còn có một số lượng 30 bài ca tuyên truyền, lên án tội ác của thực dân Pháp, phát xít Nhật và bọn tay sai, kêu gọi các tầng lớp nhân dân ủng hộ Mặt trận Việt Minh, đoàn kết dân tộc, hăng hái tham gia các hội: Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Phụ lão cứu quốc, Nhi đồng cứu quốc, Phật giáo cứu quốc... Cụ thể là:
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđđ, tr.3, tr.242-243.
40
Phần thứ nhất: ĐI TÌM XUẤT XỨ THƠ CA HỒ CHÍ MINH
Năm 1941:
Tháng 7/1941, trước khi báo Việt Nam độc lập ra đời, Bác đã viết bài thơ “Hoan nghênh thanh niên đi học quân sự”1 theo thể lục bát, khi báo Việt Nam độc lập ra những số báo đầu tiên, Bác đã cho đăng bài thơ này. Mở đầu bài thơ là một loạt câu hỏi “Vì ai?”:
Vì ai tan nát cửa nhà,
Chồng lìa vợ, con lìa cha tơi bời?
Vì ai non nước rã rời,
Giống nòi sỉ nhục chơi vơi thế này?
Vì giặc Nhật, vì giặc Tây!
Thanh niên ta phải thế này gay go.
Từ đó, Bác khuyên thanh niên, hoan nghênh thanh niên học quân sự: Vì giặc Nhật, vì giặc Tây.
Thanh niên ta phải ra tay học hành
Một là học việc nhà binh
Hai là học biết tình hình nước ta
Thanh niên là chủ nước nhà
Phải cho oanh liệt mới là thanh niên
Gan phải to, chí phải bền
Không sợ khổ, không sợ phiền mới nên
Anh em đoàn kết vững bền
Phải nghiêm kỷ luật, phải chuyên tập tành
Đối đoàn thể phải trung thành
Phải dũng cảm, phải hy sinh mới là...
Kết thúc bài ca Bác động viên:
Mai sau học nghiệp vẹn tuyền
Đánh Tây, đánh Nhật giành quyền tự do
Sự nghiệp này là rất to
Thanh niên ta phải gắng lo mới thành
Việt Nam độc lập đồng minh
Mấy lời thành thật hoan nghênh học trò.
1. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.234-235.
41
TINH HOA THƠ CA HỒ CHÍ MINH
Để cổ động và giới thiệu tờ báo Việt Nam độc lập, ngay số báo đầu tiên ra ngày 01/8/1941, Bác đã cho đăng bài “Khuyên đồng bào mua báo Việt Nam độc lập”1 gồm 17 câu, theo thể song thất lục bát, nhấn mạnh tác dụng của tờ báo: Báo “Độc lập” hợp thời đệ nhất,
Làm cho ta mở mắt, mở tai.
Cho ta biết đó biết đây,
Ở trong việc nước, ở ngoài thế gian:
Cho ta biết kết đoàn tổ chức.
Cho ta hay sức lực của ta
Cho ta biết chuyện gần xa.
Cho ta biết nước non ta là gì.
Ai không chịu ngu si mù tối,
Ắt phải xem báo ấy mới nên.
Sau bài thơ này Bác cho đăng bài thơ “Việt Nam độc lập”2 in trên báo Việt Nam độc lập số 103, ngày 21/8/1941. Đây là lời kêu gọi khẩn thiết tinh thần đoàn kết toàn dân để cùng nhau cứu nước, thực hiện mục tiêu của cách mạng:
“Việt Nam độc lập” thổi kèn loa.
Kêu gọi dân ta trẻ lẫn già
Đoàn kết vững bền như khối sắt
Để cùng nhau cứu nước Nam ta!
Những lời thơ này đặt dưới bức tranh Bác tự vẽ cổ động cho báo, được coi như thơ phụ đề cho tranh. Tranh và thơ hòa quyện cùng một chủ đề có tác động mạnh đến người đọc.
Tiếp theo là các bài ca kêu gọi các tầng lớp nhân dân đoàn kết, “Đua nhau vào hội Việt Minh” để đánh Tây, đánh Nhật, cứu nước, cứu mình.
Bài thứ nhất: “Dân cày”3 đăng trên báo Việt Nam độc lập số 103, ra ngày 21/8/1941. Bối cảnh của lời ca lấy từ thực tế dân cày đang chịu cảnh bất công: “Chân bùn tay lấm suốt ngày”, “thuế nặng sưu cao”, “không có ruộng cày”..., trong khi đó, mọi sản phẩm do dân cày làm ra đều rơi vào tay bọn bóc lột, “lọt vào túi Tây”. Sự bất công, nỗi bất bình phải được xóa bỏ, Bác chỉ rõ đường hướng và kêu gọi khẩn thiết:
1, 2, 3. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.236, 237, 238.
42
Phần thứ nhất: ĐI TÌM XUẤT XỨ THƠ CA HỒ CHÍ MINH
Muốn phá sạch nỗi bất bình,
Dân cày phải kiếm Việt Minh mà vào.
Để cùng toàn quốc đồng bào,
Đánh Pháp, Nhật, gây phong trào tự do.
Nhịp này là nhịp trời cho,
Lo cứu nước tức là lo cứu mình
Mai sau thực hiện chương trình:
Việt Nam nông dã tất canh kỳ điền1.
Bài thứ hai: “Phụ nữ”2 đăng trên báo Việt Nam độc lập số 104, ra ngày 01/9/1941. Từ truyền thống phụ nữ anh hùng Bà Trưng, Bà Triệu, đến Nguyễn Thị Minh Khai của thời đại ngày nay, Bác nêu những tấm gương sáng “Việt Nam phụ nữ đời đời... Lòng vàng gan sắt nào đà kém ai?”, từ đó cổ vũ, động viên:
Bây giờ cơ hội đã gần,
Đánh Tây, đánh Nhật, cứu dân nước nhà.
Chị em cả trẻ đến già,
Cùng nhau đoàn kết đặng mà đấu tranh.
Đua nhau vào Hội Việt Minh,
Trước giúp nước, sau giúp mình mới nên.
Làm cho thiên hạ biết tên,
Làm cho rõ mặt cháu Tiên, con Rồng.
Bài thứ ba: Kêu gọi thiếu nhi. Điều bất ngờ là trong số các bài ca kêu gọi các tầng lớp đoàn kết cứu nước, Bác kêu gọi cả các em thiếu nhi, tùy theo sức của mình, cùng toàn dân cứu nước, cứu nhà. Hai bài ca giàu chất thơ “Trẻ con”3 đăng trên báo Việt Nam độc lập số 106, ra ngày 21/9/1941 và “Trẻ chăn trâu”4 đăng trên báo Việt Nam độc lập số 144, ra ngày 21/11/1942, viết theo thể lục bát truyền thống, như là lời trực tiếp kêu gọi, trực tiếp nói với đối tượng. Các cháu thiếu nhi đọc hiểu ngay và làm theo. Hai bài kêu gọi thiếu nhi này xuất phát từ những điều mắt thấy, tai nghe, từ tình yêu thương sâu sắc, từ trách nhiệm lớn lao của Bác đối với con trẻ khi vận nước gian nan, từ đó vạch trần tội ác của Nhật, Tây bọn bóc lột và chỉ ra cho các em:
1. Nghĩa là theo Chương trình Việt Minh, nông dân ai cũng có ruộng cày (BT). 2, 3, 4. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.239, 240, 280-281.
43
TINH HOA THƠ CA HỒ CHÍ MINH
Vậy nên con trẻ nước ta,
Phải đoàn kết lại để mà đấu tranh!
Kẻ lớn cứu quốc đã đành,
Trẻ em cũng phải ra dành một vai.
(Trẻ con)
Cùng nhau đánh đuổi Nhật, Tây.
Anh em ta mới có ngày vinh hoa.
“Nhi đồng Cứu quốc” Hội ta,
Ấy là lực lượng, ấy là cứu sinh.
Ấy là bộ phận Việt Minh,
Dân mình khắc cứu dân mình mới xong.
(Trẻ trăn trâu)
Bài thứ tư: “Công nhân”1, đăng trên báo Việt Nam độc lập số 108, ra ngày 11/10/1941. Đây là lời tâm sự của người trong cuộc - vốn từng là một công nhân thực thụ, làm đủ các nghề như phụ bếp, đốt lò, quét tuyết, thợ ảnh, in ấn,... nên đã nhìn thấu sự bất công của giới chủ với công nhân. Không thể để tình cảnh này mãi như thế được, mà phải:
Thợ thuyền ta phải đứng ra,
Trước ta cứu nước, sau ta cứu mình.
Cùng nhau vào Hội Việt Minh,
Ra tay tranh đấu hy sinh mới là.
Bây giờ khôi phục nước nhà,
Của ta ta giữ, công ta ta làm.
Bài thứ năm: “Ca binh lính”2, đăng trên báo Việt Nam độc lập số 110, ra ngày 01/11/1941 nhằm mục đích giác ngộ, vận động, kêu gọi binh lính - những người Việt Nam đang phải đi lính cho Nhật, Pháp hãy quay súng đánh Tây, đánh Nhật cứu dân, cứu nước:
Anh em binh lính ta ơi!
Chúng ta cùng giống, cùng nòi Việt Nam.
Việc chi lợi nước thì làm,
Cứu dân cứu quốc há cam kém người!
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.241, 244.
44
Phần thứ nhất: ĐI TÌM XUẤT XỨ THƠ CA HỒ CHÍ MINH
Trong tay đã sẵn súng này,
Quyết quay đánh Nhật, đánh Tây mới đành.
Tiếng thơm sẽ tạc sử xanh:
“Việt binh cứu quốc” rạng danh muôn đời!
Năm 1942:
Ngoài một số bài thơ như “Cảnh rừng Pác Bó” và đặc biệt là hai bài diễn ca dài “Địa dư nước ta”, “Lịch sử nước ta”, Bác đã cho đăng tiếp trên báo Việt Nam độc lập một số bài ca.
Bài thứ nhất: “Chúc năm mới”1 (Xuân 1942). Đây là bài thơ chúc Tết - mừng Xuân đầu tiên của Bác sau khi về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đăng trên báo Việt Nam độc lập số 114, ra ngày 01/01/1942. Năm mới 1942 đến trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có những chuyển biến. Đặc biệt là dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Bác, dưới ngọn cờ của Mặt trận Việt Minh, cách mạng Việt Nam đang chuẩn bị tiến vào cao trào. Vui mừng trước tiền đồ của dân tộc, Bác đã chúc năm mới với những lời cổ động đầy hào khí:
Chúc phe xâm lược sẽ diệt vong!
Chúc phe dân chủ sẽ thắng lợi!
Chúc đồng bào ta đoàn kết mau!
Chúc Việt Minh ta càng tấn tới!
Bài thứ hai: “Ca đội tự vệ”2, đăng trên báo Việt Nam độc lập số 117, ra ngày 01/02/1942. Khi cách mạng Việt Nam đang chuẩn bị tiến vào cao trào, không chỉ đấu tranh chính trị, mà còn chuẩn bị cho đấu tranh vũ trang, các đội tự vệ đã được thành lập, ngày đêm luyện tập quân sự. Bài ca “Ca đội tự vệ” ra đời kịp thời để động viên các đội viên luyện tập và nâng cao tinh thần cách mạng đánh đuổi quân thù. Điều đặc biệt là bài ca này có thể hát, theo lối hát đuổi, chia làm hai bè, tạo sức lan tỏa trực tiếp đến người nghe. Toàn bài ca là những câu 3 chữ:
Gươm dao ta
Đem mài đi
Mài cho bén
Mài cho sắc
Nhật ta đâm
Tây ta chặt
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.249, 253-254.
45
TINH HOA THƠ CA HỒ CHÍ MINH
Sắp hàng ra
Xung phong lên!
Người ta đông
Chí ta bền
Việc giải phóng
Nhất định nên.
Bài thứ ba: “Ca sợi chỉ”1, đăng trên báo Việt Nam độc lập số 122, ra ngày 01/4/1942. Dưới hình thức kể chuyện, Bác đã rất khéo léo mượn hình ảnh sợi chỉ kể về cuộc đời mình từ cội nguồn là đóa hoa, đến cái bông, đến sợi chỉ và thành tấm vải mỹ miều để nói về việc, nếu biết tập hợp, biết đoàn kết thành một khối thống nhất sẽ tạo nên sức mạnh - sức mạnh của đoàn kết. Thực tế lúc này cách mạng cần sự đoàn kết của cả dân tộc, đoàn kết trong một tổ chức có lý tưởng, có mục đích mà Mật trận Việt Minh là đại diện. Chủ đề về sức mạnh đoàn kết được Bác thể hiện một cách sinh động ở nhiều bài ca. Với “Ca sợi chỉ”, sợi chỉ thực sự có sức mạnh, thực sự bền vững khi những sợi dọc, sợi ngang hợp lại như lời kể:
Nhờ tôi có nhiều đồng bang,
Họp nhau sợi dọc, sợi ngang rất nhiều.
Dệt nên tấm vải mỹ miều,
Đã bền hơn lụa, lại điều hơn da.
Đố ai bứt xé cho ra,
Đó là lực lượng, đó là vẻ vang.
Hỡi ai con cháu Hồng Bàng,
Chúng ta phải biết kết đoàn mau mau.
Yêu nhau xin nhớ lời nhau,
Việt Minh hội ấy mau mau phải vào.
Bài ca “Ca sợi chỉ” đã có ảnh hưởng hết sức sâu rộng trong quần chúng. Bài thứ tư: “Hòn đá”2, là bài thơ phụ đề minh họa cho bức tranh “Hòn đá to” được Bác vẽ bằng bút sắt, đăng trên báo Việt Nam độc lập số 123, ra ngày 21/4/1942. Bức tranh Hòn đá to 1.000 cân được phân làm 3 cảnh: cảnh một - người đàn ông lực lưỡng ôm hòn đá nhấc lên, nhưng hòn đá không nhúc nhích; cảnh hai - thêm 2 người nữa nhấc nhưng hòn đá vẫn nằm yên tại chỗ; cảnh ba - nhiều người tham gia nhấc, hòn đá nghìn cân ấy được nâng bổng. Bài ca rút ra một kết luận:
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.268-269, 270-271.
46
Phần thứ nhất: ĐI TÌM XUẤT XỨ THƠ CA HỒ CHÍ MINH
Hòn đá to,
Hòn đá nặng,
Nhiều người nhắc
Nhắc lên đặng
Biết đồng sức,
Biết đồng lòng,
Việc gì khó,
Làm cũng xong.
Từ đó Bác liên hệ đến mục tiêu của cách mạng mà toàn dân đang chuẩn bị tiến hành
Đánh Nhật, Pháp
Giành tự do
Là việc khó,
Là việc to.
Nếu chúng ta,
Biết đồng lòng,
Thì việc đó,
Quyết thành công.
Đoàn kết là sức mạnh, là thành công, chân lý này đã được Bác thể hiện một cách giản dị, dễ hiểu nhất.
Bài thứ năm: “Con cáo và tổ ong”1, đăng trên báo Việt Nam độc lập số 130, ra ngày 01/7/1942. Vẫn là chủ đề đoàn kết đánh Nhật, đánh Tây cứu nước, cứu nhà nhưng ở bài thơ này Bác đã mượn hình thức ngụ ngôn cổ điển truyền thống để liên tưởng, so sánh, thử so bì giữa loài ong và con người. “Ong kia yêu giống, yêu nòi/ Đồng tâm, hợp lực đuổi loài cáo đi”, huống chi là con người:
Bây giờ ta thử so bì
Ong còn đoàn kết, huống chi là người!
Nhật, Tây áp bức giống nòi,
Ta nên đoàn kết để đòi tự do.
Đây thực sự là một sự giác ngộ, động viên, khích lệ mạnh mẽ quần chúng nhân dân đứng lên đấu tranh.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.274.
47
TINH HOA THƠ CA HỒ CHÍ MINH
Bài thứ sáu: “Tặng Thống chế Pêtanh”1 (đăng trên báo Việt Nam độc lập số 131, ra ngày 11/7/1942) và “Tặng Toàn quyền Đờcu”2 (đăng trên báo Việt Nam độc lập số 134, ra ngày 11/8/1942), nhằm phê phán, châm biếm những viên quan của Pháp bất tài, nhu nhược nhưng lại giữ những vị trí cao.
Với Pêtanh:
Già mà như chú, già thêm dại,
Tiếng xấu muôn đời nhuốc sử xanh.
Với Đờcu:
Cũng như thống chế Pêtanh vậy,
Chú cứ cu cù được mãi ru.
Bài thứ bảy: “Nhóm lửa”3, đăng trên báo Việt Nam độc lập số 133, ra ngày 01/8/1942. Bài thơ là lời động viên mọi người, mọi tầng lớp vượt qua những gian nan, thử thách ban đầu của cách mạng. Cách mạng buổi ban đầu cũng như việc nhóm lửa, phải trải qua một quá trình, từng bước thích hợp, đúng đắn mới làm chủ được tình thế, mới vững bước vượt qua những khó khăn. Xuất phát từ thực tế, nắm vững thực tế, với tầm nhìn xa rộng và phương pháp khoa học, bằng cách diễn đạt giản dị, dễ hiểu, Bác đã dẫn giải, liên tưởng từ việc nhóm lửa tới việc cách mạng: Việc cách mạng cũng là như thế,
Bước ban đầu là bước gian nan.
Nào đế quốc, mật thám, bọn quan.
Đều là lũ ra tay phá hoại.
Hở một chút, tức là thất bại.
Sai một ly là hại cho dân.
Song khi cách mạng đã vững chân,
Sẽ ồ ạt lan tràn khắp xứ,
Sẽ vùn vụt như tòa núi lửa,
Sẽ rầm rầm như ngọn thủy trào,
Sẽ kéo theo tất cả đồng bào,
Sẽ đè bẹp cả loài lang sói,
Lửa cách mạng sáng choang bờ cõi,
Chiếu lá cờ độc lập, tự do!
1, 2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.275, 278, 276-277.
48
Phần thứ nhất: ĐI TÌM XUẤT XỨ THƠ CA HỒ CHÍ MINH
Bài thứ tám: “Chơi giăng”1, đăng trên báo Việt Nam độc lập số 135, ra ngày 21/8/1942. Bác mượn lời trăng để nói tổng quát các điều kiện cần, các biện pháp hành động để cách mạng chóng thành công.
Dưới hình thức hỏi - đáp giữa Người và trăng (trăng đã được nhân hóa thành bầu bạn thân tình với Người), Bác đã chỉ ra cách mạng phải làm những việc gì trong thời điểm hiện tại. Với vị thế của mình, trăng đã trả lời hết sức trách nhiệm về đường hướng:
Nguyệt rằng: “Tôi kính trả lời ông:
Tôi đã từng soi khắp núi sông.
Muốn biết tự do chầy hay chóng,
Thì xem tổ chức khắp hay không.
Nước nhà giành lại nhờ tài sắt,
Sự nghiệp làm nên bởi chữ đồng.
Tổ chức, tuyên truyền càng rộng rãi,
Tức là cách mệnh chóng thành công”.
Bài thứ chín: “Bài ca du kích”2, được Bác sáng tác trong bối cảnh lịch sử cách mạng đang tiến vào thời kỳ cao trào, chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa, cần phải tổ chức và xây dựng lực lượng vũ trang, trước hết là tổ chức các đội du kích, dấy lên một phong trào toàn dân vũ trang đánh giặc, giành độc lập, tự do. Do vậy, “Bài ca du kích” là lời hô hào mang tinh thần quyết chiến, quyết thắng:
Ào, ào, ào...
Ào, ào, ào...
Già nào,
Trẻ nào,
Lính nào,
Dân nào,
Đàn ông nào,
Đàn bà nào!
Kẻ có súng dùng súng,
Kẻ có dao dùng dao,
Kẻ có cuốc dùng cuốc
Người có cào dùng cào.
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.279, 282-283.
49
TINH HOA THƠ CA HỒ CHÍ MINH
Thấy Tây cứ chém phứa,
Thấy Nhật cứ chặt nhào.
“Bài ca du kích” cùng với các bài “Ca đội tự vệ”, “Thơ du kích” có thể coi như là một bài ca liên hoàn, giàu chất thơ đã phản ánh một thực tế lịch sử toàn dân tham gia du kích, toàn dân vũ trang đánh giặc, cùng với Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân tiến tới đỉnh cao tổng khởi nghĩa làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, mở ra một thời đại mới trong lịch sử nước nhà.
Những bài ca này đã được Bác tập hợp in thành một cuốn sách bỏ túi Ba mươi bài thơ ca Việt Minh để làm tài liệu cho cán bộ tuyên truyền, phổ biến cho quần chúng dễ thuộc, dễ nhớ.
50
Phần thứ nhất: ĐI TÌM XUẤT XỨ THƠ CA HỒ CHÍ MINH
TẶNG CỤ ĐINH CHƯƠNG DƯƠNG1
Quan san muôn dặm gặp nhau đây,
Mục đích chung là đuổi Nhật, Tây.
Dân bị hai tròng vào một cổ,
Ta liều trăm đắng với ngàn cay
Già dù yếu sức mang mang nhẹ,
Trẻ cố ra công gánh gánh đầy.
Non nước của ta ta lấy lại,
Nghìn Thu sự nghiệp nổi từ đây.
Ra khỏi nhà tù của chính quyền Tưởng Giới Thạch tháng 9/1943, Bác ở tại một căn phòng nhỏ trong một căn nhà tám mái trên ngọn đồi bên sông Liễu Giang. Đây là nhà văn hóa Trung Sơn cũ được ngăn lại làm hai, một bên là thư viện, một bên là nhà ăn của sĩ quan thuộc Bộ tư lệnh chiến khu IV. Tại đây, Bác Hồ gặp cụ Đinh Chương Dương trong lần các tổ chức chống Nhật, chống Pháp của ta hoạt động ở đây đến trực tiếp gặp Bác.
Trong bài “Quyển nhật ký của Cụ Hồ” đăng trên báo Đồng minh số 43, ra ngày 06/6/1946, cụ Đinh Chương Dương, ký bút danh T.S đã kể lại: “Hồi ở bên Tàu, tờ Đồng Minh ra đời năm 1942 tại Côn Minh do một số anh em Đồng Minh Hội sáng lập. Ngoài những mục về chính trị, quân sự, tuyên truyền, có riêng một mục về văn thơ do tôi phụ trách. Nhân một bữa đến Liễu Châu để cổ động cho tờ báo trong các anh em Việt kiều ở đây, tôi đã được gặp Cụ Hồ Chí Minh. Cuộc đời tù hãm đã làm Cụ kém sắc nhiều, nhưng trong khi bắt tay Cụ, tôi thấy gân cốt Cụ còn rắn rỏi mạnh mẽ. Cụ biết tôi viết báo Đồng Minh nên Cụ bảo tôi “Chú là người hay thơ vậy tôi có bài thơ này tặng chú”. Rồi Cụ ứng khẩu đọc luôn (bài thơ trên - TG)”.
Cụ Đinh Chương Dương sinh ngày 12/8/1898, người làng Lộc Tiên (còn có tên khác là làng Y Bích), xã Hải Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có cha, ông nội và ông ngoại đều là nghĩa quân Ba Đình. Từ nhỏ, Đinh Chương Dương đã nuôi chí lớn đuổi Tây, cứu nước. Lớn lên, Đinh Chương Dương ra Hà Nội học Trường Đông Kinh nghĩa thục của cụ cử Lương Văn Can, rồi thi đỗ tú tài, đi dạy học
1. Xem Hồ Chí Minh thơ toàn tập, Sđd, tr.347.
51
TINH HOA THƠ CA HỒ CHÍ MINH
và tích cực hoạt động trong các phong trào yêu nước khắp Bắc, Trung, Nam. Năm 1924, Đinh Chương Dương nhận nhiệm vụ vận động đưa một số thanh niên sang Quảng Châu học tập (thời gian này, Nguyễn Ái Quốc đã về Quảng Châu mở các lớp huấn luyện cách mạng), gặp Hồ Tùng Mậu và tham gia Hội cứu tế đỏ, Hội phản đế, Hội thanh niên cách mạng đồng chí. Khi về nước, Đinh Chương Dương gặp Lê Hồng Sơn (người sáng lập nhóm Tâm tâm xã) - theo hướng cách mạng vô sản. Đinh Chương Dương cũng là người đưa các đồng chí Trần Phú, Tôn Quang Phiệt sang Trung Quốc. Các đồng chí Cù Vân (Nguyễn Lương Bằng), Hạ Bá Cang (Hoàng Quốc Việt) thường bắt liên lạc với Đinh Chương Dương. Cuối năm 1933, Đinh Chương Dương và người con trai thứ hai Đinh Chương Phượng bị bắt, cùng bị giam ở nhà lao Hỏa Lò. Đinh Chương Dương bị kết án 10 năm tù, con trai bị kết án 8 năm. Tại nhà tù, Đinh Chương Dương bắt liên lạc được với các đồng chí Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng (Sao Đỏ). Hai cha con Đinh Chương Dương được chi bộ Đảng trong nhà tù kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 03/3/1934, lúc này Đinh Chương Dương mang bí danh Cả Thanh (Thanh là tên con gái Đinh Chương Dương đồng thời cũng có nghĩa là xứ Thanh). Năm 1935, thực dân Pháp chuyển Đinh Chương Dương vào nhà lao chợ Hiếu, Phủ Quỳ, Nghệ An để cách ly ảnh hưởng. Biết Đinh Chương Dương là người danh tiếng, không thể kết án tử hình, chúng đã dùng thủ đoạn đê hèn, tàn ác đưa Đinh Chương Dương đến nhà thương Vinh cắt đi một đoạn ruột, cắt gân chân và hòn ngoại thận để tàn phế suốt đời, từ đó phải bỏ hoạt động cách mạng. Năm 1936 ra tù, vượt lên thương tật, Đinh Chương Dương vẫn tiếp tục hoạt động cách mạng, lại vào tù, ra tù, lần lượt trải qua 10 nhà tù khác nhau. Tổng các bản án là 30 năm tù.
Là một đảng viên nhưng Đinh Chương Dương hoạt động với tư cách một nhân sĩ yêu nước. Tháng 9/1943, theo sự phân công của Trung ương, Đinh Chương Dương được cử đi làm công tác hải ngoại tại Trung Quốc. Trước khi lên đường, đồng chí Trường Chinh là người trực tiếp trao nhiệm vụ “Đi Liễu Châu kiềm chế Nguyễn Hải Thần (Đinh Chương Dương có quan hệ với Nguyễn Hải Thần). Nằm trong tổ chức của chúng nhưng không lộ mình là cộng sản”. Ở hải ngoại, cụ làm việc trong tổ chức Đồng minh hội. Khi làm nhiệm vụ trên đất nước bạn, cụ cảm tác làm bài thơ “Nhận nhiệm vụ”:
Đảng giao nhiệm vụ phải sang Tàu
Hà Nội, Đông Dương, tới Liễu Châu
Hớn hở lòng son thương trẻ mãi
Vững bền dạ sắt chịu già đâu
52
Phần thứ nhất: ĐI TÌM XUẤT XỨ THƠ CA HỒ CHÍ MINH
Tuyết sương lạnh lẽo đường Tam Bảo
Hoa cỏ yên vui xóm Chợ Cầu
Một chiếc thuyền con chèo đủng đỉnh
Non sông gấm vóc hẹn về sau.
Bác Hồ rất kính trọng cụ Đinh Chương Dương. Tuy lần đầu gặp nhau, mà lại gặp ở nước ngoài, nhưng hai cụ đã là người đồng chí hướng, là đồng chí, tâm giao với nhau. Cụ Hồ đã có thơ tặng cụ Đinh, bày tỏ mục đích chung của cả hai người. Cụ Đinh rất cảm động khi được Cụ Hồ tặng thơ, vốn là người có năng khiếu văn thơ, cụ Đinh đã có bài thơ họa lại bài thơ của Cụ Hồ:
Bây giờ đã được gặp già đây,
Non nước lo chi chẳng có ngày.
Thế địch hung tàn giờ đã yếu,
Lòng dân bồng bột chính đang gay.
Già còn lận đận đời mưa gió,
Trẻ vẫn xông pha trước bụi lầy.
Cơ hội nghìn thu giờ đã tới,
Kìa cờ độc lập phấp phới bay.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, cụ Đinh Chương Dương về nước, được quốc dân bầu làm đại biểu Quốc hội khóa I. Cụ mất ngày 15/3/1972, an táng tại nghĩa trang Mai Dịch. Trong khi hoạt động cách mạng, cụ làm rất nhiều thơ (chủ yếu là theo thể thơ Đường luật).
53
TINH HOA THƠ CA HỒ CHÍ MINH
MỪNG BÁO QUỐC GIA
Tết Nguyên đán Bính Tuất năm 1946 là Tết độc lập đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nên nhân dân ta tràn đầy sung sướng, phấn khởi vui Tết đón Xuân trong cảnh độc lập, tự do của đất nước.
Trong niềm hân hoan, vui mừng đó, báo Quốc gia - cơ quan ngôn luận của một nhóm nhân sĩ trí thức yêu nước ra đời năm 1938 ở Hà Nội - đã có sáng kiến xin Chủ tịch Hồ Chí Minh một bài thơ đăng báo số Tết độc lập đầu tiên của nước nhà. Chủ bút báo Lê Quang Thiều và phóng viên Lê Chương đã đến Bắc Bộ Phủ đề đạt nguyện vọng tha thiết trên.
Mấy ngày sau, nguyện vọng của báo đã được Bác đáp ứng, một chiến sĩ cảnh vệ ở Bắc Bộ Phủ ăn mặc chỉnh tề đem một phong thư đến trụ sở tòa báo ở số nhà 67 phố Cửa Nam, nói là thư Bác Hồ gửi. Mọi người trong tòa báo vui mừng khôn kể đón nhận phong thư. Khi chủ bút mở bì thư, trong đó có bài thơ “Mừng báo Quốc gia”:
Tết này mới thật Tết dân ta,
Mấy chữ chào mừng báo Quốc gia.
Độc lập đầy vơi ba cốc rượu,
Tự do vàng đỏ một rừng hoa.
Muôn nhà chào đón xuân dân chủ,
Cả nước vui chung phúc cộng hòa.
Ta chúc nhau rồi ta nhớ chúc,
Những người chiến sĩ ở phương xa1.
Mọi người đều reo lên, xúc động vô cùng. Nhưng khi nhìn kỹ bài thơ được viết trên mặt sau một tờ lịch, mọi người lặng đi, cảm động, khâm phục tinh thần tiết kiệm của vị nguyên thủ quốc gia trong hoàn cảnh đất nước đang gặp biết bao khó khăn. Một cử chỉ nhỏ thôi mà sao lay động lòng người đến thế!
Ngay lập tức, bài thơ được in trang trọng trên trang đầu số Tết với số lượng tăng gấp hai lần của một kỳ báo. Hàng vạn tờ báo Quốc gia đăng bài thơ của Bác nhanh chóng bán hết và phải in thêm. Riêng ở Hà Nội, nhiều gia đình đều có tờ báo Quốc gia
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.198.
54
Phần thứ nhất: ĐI TÌM XUẤT XỨ THƠ CA HỒ CHÍ MINH
số Tết Bính Tuất - 1946, đặt trên bàn tiếp khách năm mới. Được biết rằng, toàn bộ số tiền bán số báo đặc biệt này đã được tòa soạn báo Quốc gia ủng hộ vào quỹ kháng chiến.
Vì sao hàng vạn tờ báo nhanh chóng bán hết? Trong nhiều lý do để giải thích, hẳn là có một sự thực hiển nhiên, Bác tặng bài thơ cho một tờ báo, nhưng mọi người đều cảm nhận được rằng Bác tặng cho mọi người, cho mọi nhà, cho tất cả. Bởi trải bao năm trường nô lệ, cả dân tộc ta chìm đắm trong cảnh sống lầm than, điêu đứng, không có độc lập, tự do, đến Tết độc lập đầu tiên này, Bác đã khẳng định mạnh mẽ, rõ ràng, dứt khoát:
Tết này mới thật Tết dân ta
“Thật Tết dân ta” là gì? Bác viết gọn trong “Mấy chữ chào mừng” - mấy chữ giản dị, chân lý: Độc lập, Tự do, Dân chủ, Cộng hòa. Mấy chữ này trước đây chỉ là ước mơ, giờ đã nắm chắc trong tay, trước đây “quằn quại” trong văn thơ yêu nước của các nhà Nho, các chí sĩ yêu nước, thì giờ đây thoải mái, mạnh mẽ và vững chắc trong thơ Bác. “Mấy chữ chào mừng” thực sự là nội dung Tết độc lập đầu tiên, là hiện thực trong đời sống chính trị - xã hội của dân tộc ta, cũng đồng thời chứa đựng cái hồ hởi, sung sướng của cả dân tộc và của Bác mà thành thơ - thơ chân thật, nôm na, lại ý vị, mạnh mẽ, thơ của chân lý: “Muôn nhà chào đón”, “Cả nước vui chung” là vậy.
55
TINH HOA THƠ CA HỒ CHÍ MINH
CẢM ƠN NGƯỜI TẶNG CAM1
Cảm ơn bà biếu gói cam,
Nhận thì không đúng, từ làm sao đây!
Ăn quả nhớ kẻ trồng cây,
Phải chăng khổ tận đến ngày cam lai?
Đầu năm 1946, nữ thi sĩ Hằng Phương từ Quảng Nam ra Hà Nội - Trên đường đi, bà ghé xuống Thanh Hóa chọn mua một chục quả cam làng Giàng màu vàng tươi, vỏ mỏng tang, ngọt dịu, thơm (một loại cam quý ngày xưa được dâng tiến vua). Ra Hà Nội, bà đã đến Bắc Bộ Phủ - nơi làm việc, tiếp khách của Bác Hồ lúc bấy giờ. Theo đồng chí Vũ Kỳ, thư ký của Bác kể lại: Đến cổng Bắc Bộ Phủ, chị (bà Hằng Phương - TG) đến gặp đồng chí bảo vệ và xin được vào gặp Bác. Anh vui vẻ mời chị vào phòng đợi. Vào đến phòng khách, chị được một đồng chí cán bộ đón tiếp niềm nở. Chị mạnh dạn nói lên nguyện vọng của mình:
- Thưa ông, tôi vừa mới đi xa về, có mua được mấy quả cam, tôi xin kính dâng lên Cụ Chủ tịch. Kèm theo tôi có gửi tặng Cụ một bài thơ2. Tôi nhờ ông chuyển món quà nhỏ của tôi tới Cụ.
Nghe xong, đồng chí cán bộ liền nói:
- Ấy, Cụ Chủ tịch đang làm việc ở phòng bên, chị vui lòng chờ một lát, tôi sẽ sang báo cáo với Cụ.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.195.
2. Toàn bài thơ như sau:
Cam ngon Thanh Hóa vốn dòng,
Kính dâng Chủ tịch tỏ lòng mến yêu.
Đắng cay Cụ nếm đã nhiều,
Ngọt bùi trời trả đủ điều từ đây.
Cùng quốc dân hưởng những ngày,
Tự do hạnh phúc tràn đầy trời Nam.
Anh hùng mở mặt giang san,
Lưu danh thiên cổ, vẻ vang giống nòi.
Tháng Giêng, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Năm thứ hai
Hằng Phương kính thư
56
Phần thứ nhất: ĐI TÌM XUẤT XỨ THƠ CA HỒ CHÍ MINH
Được lên gặp Cụ Chủ tịch là một niềm vinh dự lớn. Nhưng không hiểu sao lúc bấy giờ tự nhiên chị Hằng Phương lại cảm thấy băn khoăn, lo lắng. Được gặp Người sẽ nói gì đây? Tấm lòng đối với Cụ chị đã nói trong thơ rồi. Chị nói lại với người cán bộ:
- Thưa ông, thời gian của Cụ là quý báu, vì nước nhà mới độc lập, Cụ phải lo toan nhiều công việc trọng đại của đất nước. Tôi xin phép về vì không dám làm mất thì giờ của Cụ.
Nói xong, chị chào người cán bộ và đồng chí bảo vệ rồi ra về. Trên đường trở về nhà, chị suy nghĩ: Hành động của mình không biết có điều gì tỏ ra bất kính với Cụ không, việc nhỏ như vậy cũng làm Cụ phải mất thì giờ. Thế rồi chỉ vài ngày sau, có một người bạn đến, vui mừng mang tặng thi sĩ một tờ báo. Cầm trên tay tờ báo Tiếng gọi phụ nữ số 11, ngày 08/01/1946, nhà thơ vui sướng đọc những dòng chữ: “Thơ của Hồ Chủ tịch trả lời bà Hằng Phương” với nội dung như sau:
“Bà Hằng Phương gửi biếu tôi một gói cam, kèm theo một bài thơ. Vì bà không viết chỗ ở, tôi không biết gửi thơ cảm ơn đến đâu. Nên tôi nhờ báo Tiếng gọi phụ nữ đăng mấy lời cảm tạ của tôi như sau:
Cảm ơn bà biếu gói cam,
Nhận thì không đúng, từ làm sao đây!
Ăn quả nhớ kẻ trồng cây,
Phải chăng khổ tận đến ngày cam lai?”
Nữ thi sĩ cầm tờ báo ấp vào lòng. Những giọt nước mắt trào ra. Chị cất tờ báo cẩn thận như một kỷ vật thiêng liêng suốt cả chặng đường dài chín năm kháng chiến, cho đến ngày nữ thi sĩ qua đời.
Gần đây có hai bài báo của hai tác giả, khi dẫn bài thơ của Bác, về câu thơ thứ hai “Nhận thì không đúng, từ làm sao đây” có điểm khác so với báo Tiếng gọi phụ nữ. - Nhà sử học Dương Trung Quốc trong bài “Văn hóa quà biếu”, báo Nhân dân hàng tháng số Tết Đinh Hợi năm 2007 cho biết: theo Giáo sư, Viện sĩ Vũ Tuyên Hoàng, con trai của nữ thi sĩ Hằng Phương, thì câu thơ thứ hai là: “Nhận thì không đáng, từ làm sao đây”.
- Tác giả Hoàng Hiếu Nghĩa trong bài “Ngày xuân nghe Bác lẩy Kiều”, đăng trên tạp chí Nhật Lệ số Tết Mậu Tý năm 2008 lại dẫn là: “Nhận thì không tiện, từ làm sao đây”.
Về hai từ “không đáng”, “không tiện”, thiết nghĩ: nếu là “không tiện” thì có nghĩa quá hẹp, chắc không đúng với tâm thế và tư tưởng của Bác khi viết thơ đáp
57
TINH HOA THƠ CA HỒ CHÍ MINH
lại tình cảm của bà Hằng Phương; còn “không đáng” thì quả là diễn tả được sự khiêm tốn, đồng thời lại gợi ra, mở ra cho mọi người cùng suy ngẫm, mình chỉ là một, là bé nhỏ trước tình cảm và tấm lòng của nhân dân. Còn “không đúng” như trong báo Tiếng gọi phụ nữ cũng hàm nhiều nghĩa. Cần tìm hiểu kỹ lưỡng nguyên bản Bác viết là “đúng” hay “đáng”.
Bài thơ “Cảm ơn người tặng cam” của Bác làm xúc động mọi người vào thời điểm đó và đến bây giờ mỗi lần đọc, một lần xúc động. Bài thơ đã vượt qua ý nghĩa tình cảm cá nhân, trở thành tình nghĩa chung ở đời, rất Việt Nam, rất Bác Hồ.
58
Phần thứ nhất: ĐI TÌM XUẤT XỨ THƠ CA HỒ CHÍ MINH
ĐÁP THƠ CỦA NGUYỄN HẢI THẦN1
Gặp gỡ đường dài anh với tôi,
Đường đời gai góc phải chia hai.
Đã sinh tai mắt, sinh đầu óc,
Há bỏ thân yêu, bỏ giống nòi.
Trách kẻ đưa thân vào miệng cọp,
Tôi đành ghé đít cưỡi đầu voi.
Tàn cờ mới biết tay cao thấp,
Há phải như ai, cá thấy mồi.
Tháng 5/1946
Ông Nguyễn Kim Côn - Phóng viên nhiếp ảnh Phủ Chủ tịch giai đoạn 1950-1961 - đã kể lại trên báo Đại đoàn kết số Xuân Tân Tỵ năm 2001 như sau: “Chiều 30 tháng 5 năm 1946, tôi đang thu xếp hành trang để sáng ngày 31 theo Bác lên đường đi thăm nước Pháp theo lời mời của Chính phủ Pháp, thì một người vận áo lính Tưởng, không đeo quân hiệu Tưởng, đến Bắc Bộ Phủ đưa một phong thư rồi nói: “Đây là thư của Phó Chủ tịch nước Nguyễn Hải Thần2 gửi Chủ tịch nước”.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.279.
2. Nguyễn Hải Thần, quê ở Đại Từ, tỉnh Hà Đông (nay là quận Hà Đông, thành phố Hà Nội). Năm 1905, ông ta theo cụ Phan Bội Châu sang Trung Quốc, nhưng chẳng bao lâu ông ta đã từ bỏ hoạt động yêu nước, đi theo tổ chức Quốc dân Đảng phản động Trung Quốc, được Tưởng Giới Thạch cho vào học trường quân sự, sau khi học xong làm Liên trưởng (tương đương như đại đội trưởng). Vì có công trong việc tàn sát đẫm máu các chiến sĩ công xã Quảng Châu (năm 1927), Nguyễn Hải Thần được Tưởng tin dùng.
Năm 1931, Nguyễn Hải Thần về Quảng Châu mở cửa hàng xem số tử vi. Sau đó bọn Tưởng tập hợp Nguyễn Hải Thần cùng Vũ Hồng Khanh và một số kẻ mang tư tưởng chống cộng sản để lập ra cái gọi là Việt Nam Cách mệnh đồng minh hội. Năm 1945, Nguyễn Hải Thần nấp theo đội quân của Tiêu Văn trong đoàn quân của Lư Hán “Hoa quân nhập Việt”.
Thực hiện chính sách đoàn kết dân tộc, sách lược hòa hoãn với quân Tưởng nhằm tập trung lực lượng kháng chiến ở Nam Bộ, ngày 01/01/1946, Nguyễn Hải Thần được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ cử giữ chức Phó Chủ tịch Chính phủ lâm thời và sau đó được bổ sung vào Quốc hội không qua bầu cử và giữ chức Phó Chủ tịch Chính phủ liên hiệp chính thức.
Khi quân Tưởng buộc phải rút về Trung Quốc, Nguyễn Hải Thần đã trốn theo quân Tưởng về Nam Kinh. Năm 1947, ông ta về lại Quảng Châu tiếp tục mở cửa hàng hành nghề xem tử vi. Năm 1959, ông ta chết ở Trung Quốc.
59
TINH HOA THƠ CA HỒ CHÍ MINH
Đọc xong thư, Bác cau mày hỏi:
- Người đưa thư còn đây không?
- Thưa Bác, cháu đã bảo họ chờ ở phòng khách.
- Thôi được tôi sẽ đáp thơ ngay.
Với chiếc máy chữ xách tay, Bác tập trung đánh máy mà không có bản thảo, nửa giờ sau, Bác rút ra hai bản rồi bảo: “Bản này chú cho lưu cùng thơ cụ Phó Chủ tịch, còn bản này chú cho vào bì đưa cho người đưa thư, đó là thơ đáp của tôi”. Bài thơ của Nguyễn Hải Thần gửi Bác như sau:
Gặp gỡ đường đời Bác với tôi
Đường đời gian khổ phải chia đôi
Tuy riêng Nam Bắc riêng bờ cõi
Cũng một ông cha - một giống nòi
Nhỡ bước đành cam thua nửa ngựa
Còn hơn miệng thế nói mười voi
Mấy lời nhắn nhủ Ông ghi nhớ
Nước ngược buông câu khéo mất mồi.
Bài thơ đáp của Bác:
Gặp gỡ đường dài anh với tôi,
Đường đời gai góc phải chia hai.
Đã sinh tai mắt, sinh đầu óc,
Há bỏ thân yêu, bỏ giống nòi.
Trách kẻ đưa thân vào miệng cọp,
Tôi đành ghé đít cưỡi đầu voi.
Tàn cờ mới biết tay cao thấp,
Há phải như ai, cá thấy mồi.
Thời gian đã phán xét nghiêm minh kết cục “đường đời chia đôi”. Và thực tế đã chứng minh rành rành “Tàn cờ mới biết tay cao thấp”1.
1. Ngày 28/9/1943, sau hơn một năm bị giam cầm, nhưng không thể kết án được, chính quyền Trung Hoa dân quốc buộc phải trả tự do cho Bác, song Bác vẫn bị giam lỏng. Lúc này ở Trung Quốc, tổ chức Việt Nam Cách mệnh đồng minh hội do Nguyễn Hải Thần làm Chủ tịch nhưng uy tín rất thấp nên Trương Phát Khuê đã mời Bác tham gia vào Ban lãnh đạo, Nguyễn Hải Thần buộc phải chấp nhận. Giữa tháng 12/1943, Hầu Chí Minh - Chủ nhiệm Cục chính trị Đệ tứ chiến khu mở tiệc chiêu đãi Bác. Tại bữa tiệc, Nguyễn Hải Thần muốn khoe mình hay chữ và có ý nịnh Hầu Chí Minh, nên đã đưa ra một vế đối ngầm ý so sánh Hầu Chí Minh - Hồ Chí Minh để thách đối:
“Hầu Chí Minh, Hồ Chí Minh, lưỡng vị đồng chí, chí giai Minh”.
Mọi người đang còn suy nghĩ thì Bác ung dung đối:
“Nhĩ cách mệnh, ngũ cách mệnh, đại gia cách mệnh, mệnh phải cách”.
Chỗ hóc hiểm của vế thách đối là hai chữ “Chí” và “Minh” vốn là tên của hai người chính trong bữa tiệc. Bác đã không những đối nhanh mà vế đối còn rất chỉnh cả về ý tứ và ngôn từ, thể hiện một tầm cao tư tưởng.
60
Phần thứ nhất: ĐI TÌM XUẤT XỨ THƠ CA HỒ CHÍ MINH
Cũng xin được nói thêm: mặc dù Nguyễn Hải Thần là một tên phản động, phá hoại cách mạng, có tội với nhân dân, xúc phạm Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhưng với đức tính cao thượng, bao dung, Người đã không những tha thứ cho Nguyễn Hải Thần mà còn tạo điều kiện sống cho ông ta về cuối đời. Theo hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Bộ trưởng Bộ Canh nông Bồ Xuân Luật trong Chính phủ Liên hiệp kháng chiến: Khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời năm 1949, Nguyễn Hải Thần lúc đó ở Quảng Châu. Chính phủ Trung Quốc đã đến sứ quán của ta hỏi ý kiến Chính phủ ta về việc xử lý như thế nào đối với kẻ đã núp bóng quân Tưởng, gây khó khăn cho Chính phủ ta. Bác Hồ đã thông báo việc này và hỏi ý kiến các thành viên Chính phủ. Có hai loại ý kiến khác nhau tranh luận khá quyết liệt. Bác Hồ phát biểu cuối cùng: “Hội nghị có hai loại ý kiến, tôi xin tóm tắt thế này, nếu các cụ, các chú đồng ý thì ta điện phúc đáp cho Chính phủ Trung Quốc: Đúng Nguyễn Hải Thần là một kẻ phản quốc lớn, có tội với nhân dân. Nhưng ông ta đã già và mù lòa, dù có tư tưởng phản cách mạng cũng không còn khả năng thực hiện được. Nay ta đề nghị Chính phủ Trung Quốc giúp ông ta có kế sinh nhai và giáo dục ông ta trở thành người tốt, biết tuân theo pháp luật của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa”.
Hội đồng Chính phủ biểu quyết nhất trí với ý kiến của Bác. Sau một thời gian, Bác nhận được thông báo của Chính phủ Trung Quốc và Bác đã thông báo với Hội đồng Chính phủ trong phiên họp: “Thể theo ý kiến của Chính phủ ta, chính quyền Quảng Châu đã được Chính phủ Trung Quốc chỉ thị hằng tháng cấp cho gia đình Nguyễn Hải Thần 2 tạ gạo, một số tiền và giúp ông ta cải tạo. Nay ông ta và vợ con đều đã có dấu hiệu tiến bộ”.
61
TINH HOA THƠ CA HỒ CHÍ MINH
CẢNH RỪNG VIỆT BẮC1
Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay,
Vượn hót chim kêu suốt cả ngày,
Khách đến thì mời ngô nếp nướng,
Săn về thường chén thịt rừng quay,
Non xanh, nước biếc tha hồ dạo,
Rượu ngọt, chè tươi mặc sức say.
Kháng chiến thành công ta trở lại,
Trăng xưa, hạc cũ với Xuân này.
Vào cuối tháng 4/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm và khảo sát địa thế Định Hóa, Thái Nguyên. Khi trở về, Bác và Chính phủ quyết định chọn vùng trung tâm Việt Bắc làm căn cứ cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Các cơ quan đầu não của cách mạng khẩn trương chuyển lên Việt Bắc xây dựng An toàn khu.
Trong hồi ký Những ngày ở chiến khu Việt Bắc, Luật sư Phan Anh, thành viên của Chính phủ kháng chiến đã kể lại: “Kháng chiến toàn quốc qua cái Tết đầu tiên, anh em chúng tôi chuyển lên chiến khu Việt Bắc. Hai chữ “chiến khu” đối với người trí thức lúc đó chứa biết bao bí ẩn, lo âu... Chúng tôi đến huyện Sơn Dương (Tuyên Quang) vào một buổi tối, được tin Bác triệu tập. Nơi họp là một cái đình nhỏ, bằng gỗ, lợp tranh ở sâu trong rừng. Không có đèn chỉ có một đống lửa ở giữa sân. Chúng tôi đợi một lúc thì thấy một ông cụ đầu trùm khăn, ung dung đi ngựa tới, mắt sáng, giọng nói ấm áp. Mọi người vui mừng nhận ra Bác. Ngọn lửa trong sân đình càng sáng thêm.
Họp xong ăn ngô nướng, mọi người tự nướng lấy ngay ở đống lửa đang cháy... toàn là ngô mới bẻ, lại thêm nước chè tươi. Khi họp xong anh em ra về, lại có tin đến: Trong bản bên cạnh có săn được một con lợn rừng. Ai đó cất tiếng: Ngày mai ta có thức ăn tươi rồi.
Nhưng cái thức ăn tươi nhất, món quà duy nhất mà tôi nhận được ngày hôm sau, đó là bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc của Bác.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.376.
62
Phần thứ nhất: ĐI TÌM XUẤT XỨ THƠ CA HỒ CHÍ MINH
Nỗi lo âu của chúng tôi trong quãng đường đầu của kháng chiến dần dần tiêu tan và niềm vui nảy nở trong cuộc sống mới”1.
Trong bài viết “Yêu thơ Bác” của nhà thơ Xuân Diệu, các bài trả lời phỏng vấn của nhà thơ Huy Cận và đồng chí Vũ Kỳ - Thư ký của Bác, cũng như trong các hồi ký của các đồng chí lão thành cách mạng từng sống ở chiến khu Việt Bắc, từng được ở gần Bác, khi kể về sinh hoạt đều nói nhiều đến những chi tiết thực của đời sống: ngô nướng, sắn lùi, chè tươi, thú rừng, khỉ, vượn, chim,... và cảnh sắc thiên nhiên núi non trùng điệp của Việt Bắc đã đi vào bài thơ “Cảnh rừng Việt Bắc”. Duy chỉ có hình ảnh chim hạc là mang tính ước lệ. Trong một bài viết về bài thơ “Cảnh rừng Việt Bắc” Hàm Châu đã nhận xét: “Các chi tiết đều hiện thực, trừ chi tiết hạc cũ có phần ước lệ, tượng trưng, bởi lẽ tại Định Hóa hầu như không ai thấy có chim hạc. Nhưng từ xa xưa, ở phương Đông, hoa mai và chim hạc vẫn là biểu tượng của sự thanh cao. Nguyễn Du chẳng đã từng nhắc tới chim hạc trong bài thơ “Tự thán” đó sao? “Tính thành hạc đỉnh hà dung đoạn/Phật đẳng hồng mao bất tự trị”. Tiên Điền tiên sinh trách mình bản tính trời sinh ra cứ dài thẳng như ống chân chim hạc, dễ gì cắt ngắn đi được; còn thân phận thì nhẹ bổng phiêu bạt tựa lông chim hồng mà chẳng hề hay biết... Cả Nguyễn Du và Hồ Chí Minh đều ưa vẻ thanh cao của chim hạc. Song Nguyễn Du khi nhắc tới chim hạc, thơ có vị đắng. Còn thơ Hồ Chí Minh thì không. Bởi lẽ Hồ Chí Minh trước hết là anh hùng giải phóng dân tộc, như UNESCO nhận định”2.
“Cảnh rừng Việt Bắc” là một bài thơ hay của một nhà cách mạng hiện đại hòa quyện với một cốt cách thanh cao của một bậc hiền triết phương Đông cổ điển. Bao trùm bài thơ là một khung cảnh sống động, một không khí vui tươi, khỏe khoắn, một tinh thần lạc quan, sôi nổi thấm đượm nghĩa tình, với cảm xúc tự nhiên, chân thực.
1. Bác Hồ sống mãi với chúng ta (Hồi ký), Sđd, t.2, tr.245-246.
2. Văn nghệ trẻ số 35, ngày 29/8/1999.
63
TINH HOA THƠ CA HỒ CHÍ MINH
CẢNH KHUYA1
Tiếng suối trong như tiếng hát xa,
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa.
Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ,
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.
Trên đường lên chiến khu Việt Bắc, Bác Hồ và những đồng chí cùng đi đã đến xã Điểm Mặc, huyện Định Hóa vào ngày 20/5/1947, đúng như dự định. Tại đây, những ngày đầu, Bác ở bản Quyên, nhà Chủ tịch xã Ma Đình Trường, sau đó chuyển lên ở lán trên đồi Khau Tý, thôn Nà Tra. Đồi Khau Tý, tiếng địa phương gọi là đồi Cây Thị. Lán được dựng theo đúng với kiểu nhà sàn của đồng bào dân tộc ở Định Hóa, mái lợp lá cọ, sàn lát ván, vách dựng bằng liếp nứa. Trong cuốn Những năm tháng bên Bác, đồng chí Hoàng Hữu Kháng đã kể lại rằng: “Chúng tôi làm riêng cho Bác một cái “lầu”. Tầng trên để Bác ngủ và làm việc ban đêm, tầng dưới làm việc ban ngày, như vậy tránh được thú dữ và không khí ẩm thấp của núi rừng. Gọi là “lầu” nhưng thật ra nó bé lắm. Bác giao hẹn: Chiều cao có thể giơ tay với được, còn chiều ngang thì đưa tay sang phải sang trái vừa chạm đến, để tiện lấy các vật dùng treo trên vách. Bác bảo làm như vậy đỡ tốn công sức, dễ giữ bí mật. Trên sàn chỉ cần một chiếc bàn con để Bác ngồi làm việc, xem sách báo là đủ”.
Định Hóa được chọn làm trung tâm ATK vì đây là vùng địa hình núi non hiểm trở, địch không thể dùng xe cơ giới tấn công, mà ta thì lại sẵn các đường nhỏ xuyên rừng, nối liền với các vùng Tây Bắc, vùng trung du, vùng đồng bằng. Năm 1906, nhà chí sĩ ái quốc Phan Bội Châu đã từ Quảng Châu (Trung Quốc) tìm về Định Hóa khảo sát, định xây dựng vùng này thành căn cứ địa chống Pháp.
Thu Đông năm 1947, thực dân Pháp tập trung binh lực, huy động hơn một vạn quân tinh nhuệ gồm cả hải quân, lục quân, không quân mở một đợt tấn công quy mô, chia hai gọng kìm khép chặt Việt Bắc hòng tiêu diệt bộ đội chủ lực và cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến. Trong vòng vây trùng điệp bốn bề của địch, Bác và Trung ương đã chỉ đạo sáng suốt các cơ quan và đơn vị bộ đội di chuyển và thực
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.376.
64
Phần thứ nhất: ĐI TÌM XUẤT XỨ THƠ CA HỒ CHÍ MINH
hiện phương châm vừa đánh vừa tránh địch ở các địa bàn Thái Nguyên, Bắc Kạn, Tuyên Quang.
Một tối cuối Thu đầu Đông, Bác cho mời đồng chí Ma Đình Kháng, Chủ tịch huyện Định Hóa đến lán Bác ở. Hai Bác cháu chuyện trò trong lán dưới tán lá cổ thụ, giữa những khóm hoa rừng, xa xa tiếng suối đổ đều đều từ phía chân đồi vọng lại. Bác hỏi đồng chí Kháng về việc vạch kế hoạch tác chiến của huyện khi địch đánh tới đây thì thế nào và Bác sẽ chuyển đi đâu. Đồng chí Kháng báo cáo đầy đủ, tỉ mỉ, chi tiết về kế hoạch đã được chuẩn bị chu đáo. Tận khuya, dưới ánh trăng vàng, Bác tiễn đồng chí Kháng ra về, trở lại giữa rừng khuya trăng sáng, vẻ trầm ngâm, cảm hứng làm thơ đến với Bác.
Luật sư Phan Anh cũng cho biết thêm rằng: Trong những ngày cực kỳ gay go, khó khăn của những tháng năm đầu ở Việt Bắc, Bác đã phân tích và chỉ rõ những thuận lợi, khó khăn của ta và địch. Bác phán đoán những hoạt động của các cánh quân của Pháp, Bác vẽ trên đất về đường tiến, đường lui của địch, của ta và giảng giải cặn kẽ: chúng bao vây ta với thế gọng kìm, ta phải luồn ra ngoài gọng kìm ấy để không mắc vào tròng của chúng. Khi địch rút lui, ta lại về chỗ cũ. Luật sư cũng kể lại: chính trong những ngày gay go ấy, sau hôm gặp Bác ở Tràng Xá, ông nhận được thư của Bác, kèm theo một đoạn thơ:
Đêm khuya nhân lúc quan hoài
Lên câu thơ thẩn chờ ai họa vần
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà
Nước nhà đang gặp lúc gay go
Trăm việc ngàn công đều phải lo
Giúp đỡ anh em nên gắng sức
Sức nhiều thắng lợi lại càng to.
Từ sự kiện Bác trò chuyện với đồng chí Ma Đình Kháng và lời kể của luật sư Phan Anh cho ta biết được hoàn cảnh ra đời 10 câu thơ trên, giúp ta hiểu thêm về Bác và thơ Bác. Mặc dù trong những giờ phút “đương gặp lúc gay go” với “lo nỗi nước nhà”, Bác vẫn có lúc “quan hoài”, vẫn làm thơ, vẫn có nụ cười dí dỏm: “Lên câu thơ thẩn chờ ai họa vần”.
65
TINH HOA THƠ CA HỒ CHÍ MINH
THƠ TẶNG BA CỤ LÃO DU KÍCH Ở CAO BẰNG1
Tuổi cao chí khí càng cao,
Múa gươm giết giặc ào ào gió thu.
Sẵn sàng tiêu diệt quân thù,
Tiếng thơm Việt Bắc ngàn thu lẫy lừng.
Cao Bằng là nơi tuyến đầu Tổ quốc, nơi đón Bác Hồ về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam sau 30 năm đi tìm đường cứu nước. Là đầu nguồn, căn cứ địa của cách mạng Việt Nam từ những năm 1940, nên phong trào cách mạng ở đây phát triển vững chắc, lan tỏa toàn vùng Việt Bắc và cả nước. Cũng tại đây các tổ chức cứu quốc được thành lập rất sớm, ngay sau khi có lời kêu gọi của Mặt trận Việt Minh.
Cuối năm 1946, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược bùng nổ, Trung ương, Chính phủ, Bác Hồ trở về Việt Bắc. Việt Bắc trở thành chiến khu cách mạng. Để thực hiện ý đồ chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh”, ngày 07/10/1947, thực dân Pháp huy động hơn 2 vạn quân tinh nhuệ ở Bắc Bộ tiến công lên Việt Bắc, hòng tiêu diệt cơ quan đầu não cuộc kháng chiến và bộ đội chủ lực, triệt phá kho tàng, cơ sở hậu cần của ta ở chiến khu để nhanh chóng kết thúc chiến tranh. Chiến dịch tiến công Việt Bắc của địch được mang mật danh “Léa” với sự tham gia của bộ binh, không quân và thủy quân (cụ thể đó là các lực lượng bộ binh từ Cao Bằng đánh xuống, thủy binh từ Phú Thọ đánh lên và không quân nhảy dù xuống Bắc Kạn).
Theo chỉ thị của Đảng và Bác, quyết tâm của ta là: “Phá tan cuộc tấn công mùa Đông của giặc Pháp”. Phát huy thế mạnh của lực lượng tại chỗ toàn dân đánh giặc và với địa thế hiểm yếu của Việt Bắc, quân và dân các dân tộc Việt Bắc phối hợp với bộ đội chủ lực, dưới sự chỉ đạo của Bộ chỉ huy đã chặn đánh và phản công địch ở cả ba hướng: Sông Lô - Chiêm Hóa, đường số 4, đường số 3.
Sau hơn hai tháng chiến đấu anh dũng, từ ngày 07 tháng 10 đến ngày 21/12/1947, hàng ngàn tên địch đã bị tiêu diệt, ta thu và phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch, cơ quan đầu não chỉ đạo kháng chiến được bảo vệ an toàn, căn cứ địa của cả nước được bảo vệ vững chắc. Thực dân Pháp phải rút khỏi Việt Bắc, kế hoạch “đánh nhanh, thắng nhanh” của địch bị thất bại hoàn toàn.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.375.
66
Phần thứ nhất: ĐI TÌM XUẤT XỨ THƠ CA HỒ CHÍ MINH
Chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông năm 1947 có công lớn của các tầng lớp nhân dân các dân tộc ở Việt Bắc, trong đó có phần đóng góp tài trí, anh dũng của các đội lão du kích. Đặc biệt, trong chiến dịch Việt Bắc, có ba cụ lão du kích ở Cao Bằng với mưu trí và lòng dũng cảm đã cản đường tiến công của giặc Pháp làm cho giặc không tiến lên được, đồng thời hăng hái cùng nhân dân giết giặc lập công. Được tin, Bác Hồ rất xúc động, liền có thư biểu dương và thơ tặng các cụ:
Tuổi cao chí khí càng cao,
Múa gươm giết giặc ào ào gió thu.
Sẵn sàng tiêu diệt quân thù,
Tiếng thơm Việt Bắc ngàn thu lẫy lừng.
Sau này, một số Nhà xuất bản in thơ Bác đã đổi đầu đề bài thơ là: “Tặng các cụ lão du kích”, chắc là nhằm biểu dương chung các cụ lão du kích, nhưng có lẽ không nên đổi đầu đề như thế.
Trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, nhiều thế hệ các cụ phụ lão đã để lại những tấm gương sáng cho hiện tại và muôn đời sau. Bác Hồ bao giờ cũng đánh giá cao công lao, tấm gương sáng của các cụ, tôn vinh các cụ. Bác đã có những câu thơ dành tặng các cụ:
- Tuổi cao phơ phất mái sương,
Mà lòng yêu nước chẳng nhường một ai.
- Tuổi cao, chí khí càng cao,
Chống Mỹ, cứu nước, già nào kém ai!
- Tuổi già nhưng chí không già,
Góp phần xây dựng nước nhà phồn vinh.
67
TINH HOA THƠ CA HỒ CHÍ MINH
GỬI CHÁU LÊ VĂN THỤC1
Cháu có can đảm,
Giơ súng dọa Tây.
Bắt nó hàng ngay,
Lấy được súng nó.
Vì thành công đó,
Bác gửi lời khen.
Khuyên cháu tập rèn,
Ngày càng tiến bộ.
Bác lại gửi cháu,
Mấy chục cái hôn.
Tháng 8/1947
“Gửi cháu Lê Văn Thục” là phần hai của bài “Thơ khen tặng hai em nhi đồng liên lạc trong bộ đội chiến khu II” của Bác Hồ, làm tháng 8/1947. Cháu Lê Văn Thục, họ tên thật là La Công Thục, người bản Hóa, xã Điểm Mặc, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên, sinh trưởng trong một gia đình giàu truyền thống yêu nước, bà nội Thục từng nuôi giấu đồng chí Hoàng Văn Thái, nguyên Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam và một số đồng chí khác khi huyện Định Hóa trở thành An toàn khu kháng chiến, mọi người dân ở đây hăng hái tham gia kháng chiến bảo vệ An toàn khu. Xã Điểm Mặc lại nằm giữa trung tâm ATK. Năm ấy chú bé Thục mới 12 tuổi đã nằng nặc đòi theo kháng chiến. Gia đình tha thiết đề nghị với cấp trên và Thục đã được chấp nhận vào quân đội, làm việc ở trại tăng gia của Bộ Quốc phòng đóng tại bản Bắc, xã Điểm Mặc. Trại tăng gia này có nhiệm vụ cung cấp lương thực, thực phẩm cho các cơ quan Trung ương, nhưng đây lại chính là “cổng sau của Tổng hành dinh, giữ vai trò quan trọng trong việc bảo vệ an toàn cho lãnh tụ và Trung ương”. Công việc thường ngày của Thục là dắt trâu, bò, ngựa ra bìa làng chăn thả nhưng nhiệm vụ chính là cảnh giới, phát hiện người lạ đến khu vực các cơ quan.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.231.
68
Phần thứ nhất: ĐI TÌM XUẤT XỨ THƠ CA HỒ CHÍ MINH
Trong bài “Gặp lại “Chú bé liên lạc” được Bác Hồ tặng thơ khen” đăng trên báo Người cao tuổi số 164, tháng 10/2010 - số đặc biệt chào mừng 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội, tác giả Lưu Thị Bạch Liễu cho biết: Tại chiến khu, chú bé Thục sinh hoạt với tổ “Tam tam” gồm các anh Nguyễn Văn Hải, Trần Văn Quý và Lê Xuân Dự. Các anh rèn cặp Thục theo nền nếp quân đội. Anh Dự trực tiếp dạy chữ, dạy tiếng phổ thông, thương yêu, chăm lo cho Thục từ việc lớn đến việc nhỏ như người ruột thịt. Chú bé Thục cảm mến đã lấy họ Lê của anh Dự làm họ của mình. Từ La Công Thục đổi thành Lê Văn Thục.
Làm việc ở chiến khu khoảng một năm, Lê Văn Thục đã thuộc hết đường ngang ngõ tắt, nói lưu loát tiếng phổ thông, thành thạo công việc, thường được phân công đưa thủ trưởng đi công tác. Một lần, trong chuyến đi Bắc Ninh, thủ trưởng và Thục cải trang, hai chú cháu đều mặc quần áo nâu như nhau, đeo túi dết, còn khẩu súng giấu trong lưng áo, giấy tờ mang theo là hai bố con. Vượt qua nhiều khó khăn, hoàn thành chuyến công tác trở về, do mang theo nhiều nhu yếu phẩm cho cơ quan nên hai người đi tách nhau. Khi đi ngang qua cánh đồng gần cầu Đuống, một tên lính Tây ở bốt canh phát hiện ra chú bé. Hắn quát: “Thằng bé kia đứng lại”. Thục bỏ chạy, tên lính vác súng đuổi bắt. Thục vừa chạy vừa bình tĩnh quan sát, thấy cánh đồng đang vụ gặt, lúa chất thành từng đống cao chờ đập, Thục chạy lòng vòng sau các đống lúa, lừa cho tên lính đuổi theo mệt lử, thở hồng hộc, trượt ngã, Thục nhanh như chớp, xông lại chĩa thẳng súng vào hắn, bắt hắn đầu hàng cũng là lúc đồng chí thủ trưởng kịp đến khống chế tên giặc. Dọc đường trở về chiến khu, thủ trưởng cứ tủm tỉm cười vì sự gan dạ của chú bé. Đồng chí hỏi: “Lúc nãy em có sợ không”. Thục đáp cụt lủn: “Không sợ”.
Sau khi trở về, chú bé Thục được biểu dương trước toàn đơn vị, báo cáo cấp trên khen thưởng đồng thời có quyết định biên chế chính thức vào Quân đội nhân dân Việt Nam và chuyển sang làm liên lạc cho đồng chí Văn (tức đồng chí Võ Nguyên Giáp) tại Văn phòng Bộ Tổng tư lệnh. Năm ấy, chú bé Thục 14 tuổi, là chiến sĩ liên lạc nhỏ nhất của chiến khu Việt Bắc. Việc làm và thành tích của chú bé Thục được báo cáo lên Bác Hồ và đã được Bác gửi thơ khen tặng chú:
Những năm sau này, chú bé Thục còn vinh dự được nhiều lần làm liên lạc, đưa đón Bác Hồ trong các chuyến đi công tác tại Việt Bắc, được đón nhận sự thương yêu, chăm sóc của Người.
69
TINH HOA THƠ CA HỒ CHÍ MINH
TẶNG BÁO XUNG PHONG1
Bác nhận được báo Xung phong
Cảm ơn các cháu có lòng gửi cho.
Các cháu nghe Bác dặn dò:
Phải biết yêu nước, phải lo học hành,
Siêng làm việc, siêng tập tành,
Phải giữ kỷ luật là thành cháu ngoan.
Bác yêu các cháu muôn vàn,
Bác gửi các cháu một ngàn cái hôn.
Hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19/12/1946 của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”2, tại thị trấn Ninh Giang thuộc huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương, các em thiếu niên đã thành lập Đội thiếu niên giao thông của huyện để tham gia kháng chiến. Các em đội viên của Đội thiếu niên giao thông đã không quản ngày đêm, mưa nắng, gió rét làm nhiệm vụ mang công văn, chỉ thị, giấy tờ của cấp trên từ huyện xuống xã đến xóm, làng và nhận tin tức, các báo cáo của cơ sở về huyện. Trong quá trình làm nhiệm vụ, các em có sáng kiến, bàn bạc, thống nhất ra một tờ báo lấy tên là báo Xung phong với ý nghĩa xung phong làm mọi việc cho kháng chiến.
Tờ báo Xung phong được viết tay, vẽ bằng tay, tô màu với một số đề mục, phản ánh tin tức cuộc kháng chiến và hoạt động của thiếu nhi, học sinh. Các em chép ra nhiều bản đem dán ở các phòng, lớp học, các chòi thông tin ở các xã, xóm. Những người biết chữ, cả trẻ em và người lớn đều hào hứng đọc báo Xung phong. Nhận thấy tác dụng của tờ báo viết tay này, Thường vụ Tỉnh ủy Hải Dương đã cấp đá, giấy mực để báo được in Litô ra nhiều bản. Xung phong chính thức trở thành tờ báo của thiếu nhi yêu nước tỉnh Hải Dương. Mỗi số báo in ra đều gửi một tờ kính biếu Bác Hồ.
Ông Đỗ Thông, lúc bấy giờ là một đội viên của Đội thiếu niên giao thông tham gia làm báo kể lại: “Một hôm chú Gia Tín lên cơ quan giao thông tỉnh nhận tài liệu chuyển về huyện. Trong túi công văn chú mang về, mở ra có một phong thư nhỏ.
1. Xem Hồ Chí Minh thơ toàn tập, Sđd, tr.365.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.534.
70
Phần thứ nhất: ĐI TÌM XUẤT XỨ THƠ CA HỒ CHÍ MINH
Góc phong bì có ghi số 15/MCH. Nét chữ chân phương, rõ ràng: “Kính gửi báo Xung phong, cơ quan của trẻ em yêu nước tỉnh Hải Dương”. Mọi người xúm quanh, cảm giác đây là một bức thư quan trọng, chú phụ trách không dám xé bì thư như mọi bì thư khác, mà lấy mũi dao lách giữa lớp hồ dán để mở phong thư. Một danh thiếp nhã nhặn được lấy ra. Đó là tấm danh thiếp của Bác Hồ, mọi người reo lên vui mừng khôn xiết. Trên tấm danh thiếp có tám câu thơ lục bát tự tay Bác Hồ viết:
Bác nhận được báo Xung phong
Cảm ơn các cháu có lòng gửi cho.
Các cháu nghe Bác dặn dò:
Phải biết yêu nước, phải lo học hành,
Siêng làm việc, siêng tập tành,
Phải giữ kỷ luật là thành cháu ngoan.
Bác yêu các cháu muôn vàn,
Bác gửi các cháu một ngàn cái hôn.
Tám câu thơ được đọc to cho mọi người nghe, người lớn và trẻ em vui quá chỉ biết nhảy lên, reo lên. Tất cả đều vui như Tết. Chiều hôm đó, chú Gia Khánh có sáng kiến nấu một nồi canh cà chua đập trứng để bữa ăn rôm rả mừng đón thư Bác. Việc Bác gửi thư cho báo Xung phong được báo cáo lên tỉnh và lan tin vui ra khắp tỉnh. Đồng chí Phan Điền, Phó Bí thư Tỉnh ủy đã gửi ngay cho báo Xung phong một cuộn giấy to, các em lại có sáng kiến dọc giấy ra in 8 câu thơ Bác tặng ra nhiều tờ. Chú Quốc Tiến và Quốc Thắng miệt mài in mấy ngày liền. Thơ Bác được chuyển nhanh về các huyện, các xã, các lớp học, các Đội thiếu niên. Không bao lâu, báo Xung phong nhận được rất nhiều thư, tin của các bạn nhỏ làm theo lời Bác dạy”.
Năm 1948, báo Xung phong được mời dự Đại hội báo chí miền Duyên hải Bắc Bộ. Năm 1951, báo Xung phong được đồng chí Lưu Hữu Phước, Trưởng Ban Huynh trưởng thiếu nhi Trung ương Đoàn đem đi trưng bày ở Festival thanh niên và sinh viên thế giới tại Béclin, Cộng hòa Dân chủ Đức.
Như vậy, tờ báo Xung phong là một hiện tượng ba lần đặc biệt.
Đặc biệt thứ nhất: là một tờ báo do các em tự làm, là tờ báo của thiếu nhi ra đời sớm nhất trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp;
Đặc biệt thứ hai: Bác Hồ, người đứng đầu đất nước, bận trăm công nghìn việc trong hoàn cảnh nước nhà kháng chiến vẫn quan tâm, động viên, khuyên bảo các em, Bác đánh giá rất cao tờ báo Xung phong của trẻ em;
Đặc biệt thứ ba: tờ báo được quảng bá ra thế giới tại Festival thanh niên và sinh viên thế giới.
71
TINH HOA THƠ CA HỒ CHÍ MINH
LỜI ĐIẾU
CỤ NGUYỄN VĂN TỐ1
1. Than ôi!
Sương bay nghi ngút, sao Đẩu ám mờ
Mây phủ mê man. Thái Sơn ngừng biếc.
Nhớ cụ xưa,
Văn chương thuần tuý, học vấn cao sâu
Thái độ hiền từ, tính tình thanh khiết
Mở mang văn hóa, cụ dốc một lòng
Phú quý công danh, cụ nào có thiết
Đến ngày dân tộc giải phóng thành công
Thì cụ sẵn sàng ra tay giúp việc
Giữ chức Bộ trưởng thì cụ ngày ngày gần gũi nhân dân
Đại biểu Quốc hội thì cụ luôn luôn tính bàn kiến thiết.
2. Dân ta hết sức tôn trọng hòa bình
Giặc Pháp dã tâm gây nên lưu huyết
Từ ngày toàn quốc kháng chiến nổ bùng
Thì cụ tâm tâm hô hào đoàn kết:
Lũ Tây gặp nhà là đốt, gặp của là vơ
Thấy làng thì phá, thấy người thì giết.
Non sông gấm vóc há cam lòng chịu đọa đày
Con cháu Lạc Hồng, nào để thực dân khinh miệt.
Ngày này qua tháng khác, cụ đi động viên tinh thần dân chúng khắp xa gần, Xứ Bắc đến miền Nam, cụ đã trông thấy sức kháng chiến ngày thêm mãnh liệt. 3. Quân địch ào ào tấn công
Trong vùng cụ đang làm việc
Chúng tra tấn cụ, cực kỳ tàn khốc, dã man.
Cụ trả lời chúng bằng một nụ cười oanh liệt
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.544-545.
72
Phần thứ nhất: ĐI TÌM XUẤT XỨ THƠ CA HỒ CHÍ MINH
Chúng làm hại cụ, lịch sử Pháp muôn đời thêm một vết xấu xa
Cụ dù hy sinh, tinh thần cụ ngàn thu sẽ vẻ vang bất diệt
Với cụ, dân tộc mất một người chí sĩ, thế giới mất một người danh nho. Cho nên Chính phủ khôn xiết nỗi buồn rầu, đồng bào khôn xiết lòng thương tiếc. 4. Tôi kính cẩn nghiêng mình trước anh linh cụ mà hứa rằng:
Từ đây, quốc dân ta đã đồng tâm, càng thêm đồng tâm
Chính phủ ta đã kiên quyết, càng thêm kiên quyết
Quyết trường kỳ kháng chiến cho đến thắng lợi hoàn toàn
Quyết tranh thống nhất, độc lập cho nước nhà Nam Việt
Để anh linh cụ và những liệt sĩ đã hy sinh đều vui sướng ở chốn suối vàng. Và nền dân chủ cộng hòa của nước sẽ vững như vầng nhật nguyệt.
Lời điếu thuộc loại văn tế theo lối văn biền ngẫu, Bác Hồ viết vào tháng 5/1948 tại chiến khu Việt Bắc khi Nhà nước tổ chức lễ truy điệu cụ Nguyễn Văn Tố - Một danh nho liệt sĩ, Bộ trưởng, Trưởng Ban Thường trực Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Cụ Nguyễn Văn Tố có biệt hiệu là Ứng Hòa, thường được gọi đầy đủ là Ứng Hòa Nguyễn Văn Tố, sinh ngày 05/6/1889 tại làng Đông Thành, huyện Thọ Xương, nay là số nhà 78 phố Bát Sứ, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Cụ vừa là nhà trí thức Nho học vừa là nhà trí thức Tây học yêu nước.
Tốt nghiệp trường thông ngôn, cụ làm Thư ký tòa soạn bộ kỷ yếu (D.P.B.C.H.V). Từ nhân viên phụ tá, sau lên chức Chủ sự Học viện Viễn Đông bác cổ (École Française d’Extrême Orient - EFEO) - cơ quan nghiên cứu lịch sử, văn hóa của người Pháp.
Sau này cụ được bầu làm Hội trưởng Hội Trí tri, cụ đã soạn hai bộ sử học đồ sộ là Đại Nam dật sử và Sử ta so với sử Tàu.
Cụ và một số trí thức đầu thế kỷ XX như Trương Vĩnh Ký, Phan Kế Bính, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Văn Vĩnh, Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Vũ Đình Hòe... chủ trương phát động công cuộc cải cách chữ quốc ngữ. Chữ quốc ngữ lúc bấy giờ đã là chính thống, nhưng 95% người dân mù chữ. Sự bức xúc đối với tầng lớp trí thức yêu nước là làm sao có thể cải tiến thêm được chữ viết, cách học cho nhanh chữ quốc ngữ. Năm 1937, báo chí tiến bộ tiếng Việt và tiếng Pháp nhiều lần nêu lên sự cấp thiết phải lập một Hội chống mù chữ. Năm 1936, Đảng hoạt động bán công khai đã rải truyền đơn, khẩu hiệu và sách, báo được viết bằng chữ quốc ngữ để tuyên truyền. Năm 1938, Đảng quyết định vận động chống nạn mù chữ, tập hợp một số trí thức tiêu biểu có uy tín thành lập Hội truyền bá học quốc ngữ, cụ Nguyễn Văn Tố được
73
TINH HOA THƠ CA HỒ CHÍ MINH
bầu làm Hội trưởng hoạt động trong sự o ép, ngăn cản của thực dân Pháp vì đi ngược lại chính sách ngu dân của chúng. Hội truyền bá học quốc ngữ hoạt động đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945, gần 7 vạn người dân Việt Nam đã thoát nạn mù chữ.
Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Bác Hồ gặp cụ Nguyễn Văn Tố. Mến về đức, trọng về tài, Bác Hồ mời cụ ra giúp nước. Cụ tham gia Chính phủ lâm thời đầu tiên do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, giữ chức Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội (nay là Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội). Trong cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên ngày 06/01/1946, cụ ứng cử ở Nam Định và trúng cử đại biểu Quốc hội. Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa I ngày 02/3/1946, cụ Nguyễn Văn Tố được bầu làm Trưởng Ban Thường trực Quốc hội. Tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I ngày 03/11/1946, cụ được cử giữ chức Bộ trưởng không Bộ trong Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Năm 1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, các cơ quan Trung ương chuyển lên chiến khu Việt Bắc. Giặc Pháp đã huy động một số lượng lớn quân tấn công Việt Bắc hòng tiêu diệt cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến. Trong hồi ký Chiến đấu trong vòng vây, Đại tướng Võ Nguyên Giáp kể lại: “Ngày 07/10/1947, giặc Pháp cho quân nhảy dù xuống Bắc Kạn, âm mưu tiêu diệt đầu não kháng chiến, cụ Nguyễn Văn Tố - Trưởng Ban Thường trực Quốc hội, một nhân sĩ yêu nước tâm huyết và có uy tín không may sa vào tay giặc... Thấy cụ là người chững chạc, nói tiếng Pháp giỏi, lại nêu yêu cầu chấm dứt chiến tranh xâm lược, ban đầu, chúng lầm tưởng là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lúc biết đó không phải là Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng đã bắn chết cụ khi cụ tìm cách chạy thoát”. Cụ Vũ Đình Hòe - Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục (nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo) cho biết: “Không phải chúng bắt được Ông Cụ rồi bắn chết ngay mà còn giam lỏng một thời gian ngắn. Chúng dụ dỗ mua chuộc, tra tấn để dụ theo Pháp nhưng cụ không chịu. Nhân một buổi chiều, trời nhá nhem tối, cụ tìm cách trốn thoát thì bị bắn chết”.
Cụ Nguyễn Văn Tố bị sát hại, nhưng do tình hình chiến cuộc Thu - Đông năm 1947, Chính phủ, Quốc hội, Mặt trận chưa thể tổ chức lễ truy điệu. Sau chiến thắng Việt Bắc, năm 1948, Chính phủ, Ban Thường trực Quốc hội, Mặt trận đã tổ chức trọng thể lễ truy điệu cụ Nguyễn Văn Tố. Bác Hồ đã viết “Lời điếu cụ Nguyễn Văn Tố”. Thảo xong, Bác gửi đến cụ Bùi Bằng Đoàn kèm theo một bức thư:
“Kính gửi cụ Bùi
Trưởng Ban Thường trực Quốc hội,
Tôi muốn có một bài truy điệu cụ Tố. Nhưng nhờ người viết thì không biết nhờ ai. Tự viết lấy thì viết không được, vì xưa nay tôi chưa hề tập viết văn tế.
74
Phần thứ nhất: ĐI TÌM XUẤT XỨ THƠ CA HỒ CHÍ MINH
Vậy tôi cứ bạo dạn thảo ra đây, trình cụ xem. Nếu có thể sửa được thì xin cụ sửa giùm. Nếu không thể sửa, thì ta làm văn xuôi vậy.
Khi tôi thảo xong, đọc lại, nghe khá chướng tai. Vì đối với cụ, tôi không dám giấu dốt, cho nên cứ gửi để cụ xem.
Mong kỳ hội đồng sau sẽ được gặp cụ. Kính chúc cụ mạnh khỏe và xin cụ chuyển lời tôi hỏi thăm cụ Phan và cụ Vi1.
Chào thân ái và quyết thắng
Tháng 5 năm 1948
HỒ CHÍ MINH”2
Cụ Bùi Bằng Đoàn đã đọc rất kỹ, khi ông Vũ Đình Huỳnh, người được Bác Hồ cử đến, đã nhận lãnh lời của cụ Bùi Bằng Đoàn: “... Hồ Chủ tịch vừa khiêm nhường, vừa tín trọng tôi mà giao cho tôi “xem”, “sửa giùm” Lời điếu cụ Tố. Bài văn chỉ tấc gang mà ý tưởng dài muôn dặm - đích thị Hồ Chí Minh. Lớp chúng tôi được Hồ Chủ tịch tín trọng coi là bậc “học vấn cao siêu”. Chúng tôi nhận mà ngợp với Người. Về bài Lời điếu cụ Tố, tôi trình với Hồ Chủ tịch chỉ một chữ “siêu” thay bằng chữ “sâu”. “Văn chương thuần túy, học vấn cao siêu” đổi là “học vấn cao sâu””.
Trước anh linh cụ Nguyễn Văn Tố, Bác Hồ kính cẩn nghiêng mình đọc Lời điếu tỏ lòng thương tiếc vô hạn và ca ngợi tấm lòng yêu nước, ý chí kiên cường trước quân thù của một trí thức nhân sĩ, Chủ tịch Quốc hội đầu tiên, Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Về mộ phần cụ Nguyễn Văn Tố: Sau nhiều năm tháng tìm kiếm, mãi đến ngày 09/4/2007, tức 60 năm sau, với sự phối hợp của Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Ban Liên lạc Hội truyền bá quốc ngữ, Văn phòng Quốc hội, mộ cụ đã được tìm thấy tại xã Nguyên Phúc, huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn, thỏa lòng mong muốn của nhân dân.
1. Cụ Phan Kế Toại và cụ Vi Văn Định.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.543.
75
TINH HOA THƠ CA HỒ CHÍ MINH
THƠ BÁC HỒ GỬI ÔNG BÀ PHAN ANH
Luật sư Phan Anh là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, từ năm 1948 đến 1976, ông đã giữ các chức vụ: Bộ trưởng Bộ Kinh tế, Bộ trưởng Bộ Thương nghiệp, Bộ trưởng Bộ Ngoại thương, Phó Chủ tịch Quốc hội.
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, năm 1947, Luật sư Phan Anh cùng gia đình rời Hà Nội lên đường theo Bác Hồ đến chiến khu Việt Bắc. Luật sư tâm sự và kể lại: “Hai chữ chiến khu đối với người trí thức lúc đó chứa biết bao bí ẩn lo âu. Tôi đã vậy, nhưng gia đình thì sao, nhất là đối với nhà tôi, một nữ trí thức sống quen ở thành thị, việc lên chiến khu là cả một sự thử thách lớn, không kém gì cuộc trường chinh. Trên đường đi Việt Bắc, hai cháu nhỏ ngồi trong hai cái thúng được các anh chị cùng đoàn gánh qua núi, qua đèo, đôi lúc lại lội suối, nước rò vào thúng, giữ được cháu này thì cháu kia lại ướt”.
Luật sư Phan Anh là người được Bác Hồ yêu mến và trọng dụng, ông cũng là người được Bác Hồ đưa đọc đầu tiên những bài thơ cảm tác của Bác về Việt Bắc, về quyết tâm kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng. Đọc thơ Bác gửi, ông đã có những bài thơ họa lại và dịch một số bài thơ chữ Hán của Bác ra tiếng Việt. Ông và Bác cũng thường lẩy kiều rất đắc dụng trong các cuộc họp của Hội đồng Chính phủ. Qua đó cho chúng ta biết được tình cảm tri âm của hai người, biết được cảnh sinh hoạt văn hóa rất tự nhiên trong đời sống tinh thần ở chiến khu, một không khí lạc quan, vui vẻ trong hoàn cảnh hết sức gian khổ, khó khăn, thiếu thốn trăm bề. Ông và gia đình được sống trong tình yêu thương của Bác, của đồng chí, đồng bào. Vợ chồng ông - hai nhà trí thức - đã đem hết tâm sức và trí tuệ cống hiến cho cách mạng. Bà Hồng Chinh - vợ ông - một lòng một dạ cùng ông đi theo cách mạng, quyết tâm làm theo lời Bác. Luật sư Phan Anh đã kể một số chi tiết, sự việc về tình cảm đặc biệt của Bác Hồ dành cho gia đình ông.
Thời gian ở chiến khu, hưởng ứng lời kêu gọi của Bác về thi đua tăng gia sản xuất, tự cung tự cấp, mỗi gia đình cán bộ đều cố gắng trồng trọt và chăn nuôi để cải thiện một phần cuộc sống. Nhân ngày sinh nhật Bác - ngày 19 tháng 5, bà Hồng Chinh đã gửi lên Bác một số sản vật do tự tay mình lao động làm ra để báo cáo với Bác
76
Phần thứ nhất: ĐI TÌM XUẤT XỨ THƠ CA HỒ CHÍ MINH
về việc chấp hành lời kêu gọi của Bác và khả năng thực hiện tự túc của gia đình. Bác rất cảm động và viết mấy vần thơ cảm ơn:
Cảm ơn thím biếu mấy vòng tơ
Mong chú làm thêm mấy vần thơ
Canh mướp ngon lành nhờ các cháu
Có sao viết vậy, chớ cười nơ1.
Tháng 12/1949, bà Hồng Chinh sinh thêm một con trai. Vui mừng trước tình hình đất nước đang có nhiều tiến triển, ông bà đặt tên con là Phan Tân Hội. Được tin, Bác đã gửi thơ chúc mừng:
Chú thím thêm một con
Các cháu thêm một em
Bác Hồ thêm một cháu
Nước nhà thêm một công dân
Tương lai thêm một chiến sĩ2.
Ông bà Phan Anh trân trọng gìn giữ thơ mừng của Bác như một bảo vật quý giá thể hiện tấm lòng yêu thương cán bộ, yêu thương con người, yêu thương gia đình ông của Bác. Sau này, khi lớn lên, cháu Phan Tân Hội đã tự nguyện xung phong vào quân đội, đúng như lời thơ mừng của Bác “Tương lai thêm một chiến sĩ”.
Năm 1950, bà Hồng Chinh ốm nặng, được Trung ương tạo điều kiện đưa đi điều trị ở nước ngoài. Trong thời gian này, các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Lương Bằng, Trần Đăng Ninh thường cập nhật tin tức về cách điều trị cho bà để ông Phan Anh biết. Bác Hồ cũng rất quan tâm, biết bà bị bệnh hiểm nghèo, muốn chuẩn bị tư tưởng cho ông có thể tình hình xấu xảy ra, Bác đã gửi cho ông mấy vần thơ phỏng theo mấy câu trong “Chinh phụ ngâm” như sau:
Điện thường tới, người chưa thấy tới
Bức rèm thưa từng dõi bóng dương.
Bóng dương mấy lúc xuyên ngang
Lời sao mười hẹn chín thường đơn sai3.
Đọc thơ Bác, luật sư Phan Anh cảm động về tấm lòng, sự quan tâm của Bác về bệnh tình đáng ngại của bà Hồng Chinh, cũng đồng thời là những lời động viên ông. Luật sư đã chân thành nói với những người xung quanh: “Vợ ốm, con thơ, nước nhà
1, 2, 3. Xem Bác Hồ sống mãi với chúng ta (Hồi ký), Sđd, t.2, tr.251, 252.
77
TINH HOA THƠ CA HỒ CHÍ MINH
tuy vững bước tiến lên nhưng còn bao khó khăn, lòng tôi có lúc thật vô cùng bối rối”. Nhưng cũng rất may mắn, sau một thời gian điều trị, bà Hồng Chinh đã trở về, ông và mọi người vui mừng khôn kể. Biết tin, Bác đã viết thư cho ông, sửa lại mấy vần thơ trước đây cho thích hợp với hoàn cảnh mới:
Điện thường tới, người nay mới tới
Bức rèm thưa từng dõi bóng dương
Bóng dương mấy lúc xuyên ngang
Tình càng ấm áp, nghĩa càng sâu xa1.
Nhận được thơ Bác, ông Phan Anh đã gửi thư cảm tạ đến Bác, bức thư đề ngày 04/6/1950:
Một bức thư trao, một tấm lòng
Tấm lòng êm ái thấm non sông
Tin nhà giảm bệnh mừng khôn xiết
Nợ nước, ơn sâu biết mấy trùng
Gánh nặng, đường xa thêm sức mạnh
Gan bền, chí vững quyết ra công
Bên tình, bên nghĩa đôi đường vẹn
Ghi tạc muôn năm một chữ đồng2.
1, 2. Bác Hồ sống mãi với chúng ta (Hồi ký), Sđd, t.2, tr.252.
78