🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tiếng Sóng Bủa Ghềnh
Ebooks
Nhóm Zalo
Tiếng SỘM Maiiãn
BIẺU GHI BIÊN MỤC TRƯÓC XUẢT BẢN DO THƯ VIỆN KHTH TP.HCM THỰC HIỆN General Sciences Library Cataloging-m-Publication Data
Ngi Thi Huệ, 191S
Tiếng sống bủa ghềnh : hồi ký / Ngô Thị Huệ. - Tái bản lần thứ 1 có sứa chữa, bồ sung. - T.P. Hồ Chi Minh : Tré, 20is7
344 tr.; 23 cm.
1, Ngô Thị Huệ, 1918-. 2. Việt Nam “ Lịch s ử -- 1961-1975, 1, Ts. 1. Ngô Thị Huệ, 1918-. 2. Vietnam ~ History - 1961-1975.
959.704092 - ddc 23
N569-H89
ISBN 978- 604- 1- 07687-7
°ll 934974 II 1366 75 .I l i íII
Tiếng sóng bủa ghénh (M)
NHÓM THỰC HIỆN:
Hàn Song Thanh - Ngô Phụng Ánh - Quách Thu Nguyệt
Hình của tác giả và người thần: Do gia đình cung cấp. Các hình khác: Khai thác trên internet.
NXB Trẻ cảm ơn các nghệ sĩ nhiếp ảnh đã có tác phẩm được sử dụng trong quyển sách này.
Lời giới thiệu
Trước Nam kỳ khởi nghĩa năm 1940, tôi chỉ biết mà chưa gặp chị Bảy Huệ lần nào. Khi đó, tôi mới là Bí thơ chi bộ ở xã, chị Bảy đã là một cán bộ lãnh đạo chủ chốt của cấp ủy Đảng VTnh Long, Phó Bí thơ tỉnh ủy. Lúc bấy giờ, chị hãy còn rất trẻ - ở tuổi 22. Sinh ra và lớn lên trong một họ tộc mà hầu hết anh chị em thân nhân đều tham gia hoạt động cách mạng, người phụ nữ nông thôn ấy - chị Bảy - giác ngộ cách mạng rất sớm.
Thòi gian mà tôi biết chị nhiều là từ sau Nam kỳ khởi nghĩa thất bại, trong kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ và sau giải phóng miền Nam, đất nước thống nhất cho đến ngày nay.
Trong cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của mình, chị Bảy Huệ giữ nhiều trọng trách khác nhau, nhung không ai thấy chị so đo hơn thiệt. Chị đã dành hết tâm sức của mình cho sự nghiệp cách mạng, cho phúc lợi cộng đổng, không biết mệt mỏi, đặc biệt đến tận giờ ở cái tuổi quá "cổ lai hy" của chị (xấp xỉ 90). Ý chí và nghị lực của chị Bảy thể hiện đúng nghĩa là một chiến sỹ cách mạng kiên trung. Trong gia đình, chị là nguời mẹ, nguời chị tuyệt vời; đối với bạn bè, đổng chí, chị nhất mục quý mến. Chị Bảy Huệ là một biểu tuợng rất đẹp của người phụ nữ Nam bộ, người phụ nữ Việt Nam.
Với tất cả sự kính trọng và quý mến của mình, tôi trân trọng giới thiệu tập sách này đến bạn đọc, tới các đổng chí, bạn bè của chị Bảy, nhất là tới lớp
Tiéng sóng bủa ghểnh 7
thanh niên thế hệ mới đang khao khát tìm hiểu về cuộc đời, lý tưởng của các chiến sĩ cách mạng đi trước, nhũng người đã cống hiến gần trọn cuộc đòi mình cho đất nước.
TR Hổ Chí Minh, ngày 2 tháng 9 năm 2006'
Võ Văn Kiệt
1. Năm 2006, ngay sau khi biết được bản thảo vừa mới hoàn thành và chuyến đến Nhà xuẫt bản Trẻ, chú Sáu Dân (Võ Vần Kiệt) đã viết ngay lời giới thiệu cho tập sách như một cách biếu lộ tình cảm với dì Bảy Huệ, một người đổng chí mà ông luôn kính trọng.
8 HỔI ỨC NGÔ THỊ HUỆ
Thay lời tựa
Năm 1982, Tổ tổng kết lịch sử Phong trào Phụ nữ Nam bộ, gọi tắt là Tổ sử Phụ nữ Nam bộ được thành lập, dì Mười Thập, nguyên ủy viên Trung uong Đảng, Chủ tịch Hội Liên Hiệp Phụ nữ Việt Nam qua nhiều nhiệm kỳ, phụ trách chung. Các thành viên của Tổ đều là những dì tiêu biểu của Phong trào Phụ nữ Nam bộ hoạt động từ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 và ròng rã suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và xâm lược Mỹ. Tôi có may mắn được giới thiệu với Tổ sử Phụ nữ từ thuở công tác ở Nhà Văn hóa Thanh niên thành phố Hổ Chí Minh với nhiệm vụ chuyên lo nghiên cứu sưu tầm lịch sử Đoàn và tổ chức các hoạt động giáo dục truyền thống cách mạng cho thanh niên. Tuy nhiên khi quan hệ vì công việc chuyên môn, vói các dì tôi chỉ đôi ba lần gặp gỡ chào hỏi. Duyên may khi thục hiện tập sách về chú Mười Cúc Nguyễn Văn Linh - Hành trình cùng lịch sử, tôi mới được làm việc vói một trong những dì ấy, dì Bảy Ngô Thị Huệ, người đổng chí, người bạn đời của chú Mười Cúc. Qua những tháng ngày tiếp xúc tuy ngắn ngủi, ấn tượng trong tôi đó là hình ảnh một phụ nữ chân chất Nam bộ, cởi mở và thật... đẹp lão. Mãi đến sau này, được làm việc dài ngày qua bản thảo hổi ức của dì, trong tâm trí tôi tình cảm khâm phục và kính yêu dành cho dì ngày càng thêm sâu đậm.
Tập hổi ức được dì đề nghị đặt tên là Tiếng sóng bủa ghềnh. Lần đáu tiên được nghe một cái tên là lạ như thế, tôi thật thú vị và cũng hiểu rằng những
Tiếng sóng bủa ghếnh 9
ký ức thuở thiếu thòi đã để lại những dấu ấn sâu sắc và đầm thắm noi dì. Tiếng sóng bủa ghềnh đưa nguôi đọc đi qua tùng chặng đuòng của cô Nguyễn Thị Ngởi, tức Ngô Thị Huệ (Bảy Huệ), con gái của một gia đình nông dân ở miền Tây Nam bộ. Từ đẩu thế kỷ hai mươi, ông bà ngoại dì đã phải bỏ xứ dẫn dắt bầu đàn thê tử đi khai hoang lập ấp, lập điền nơi vùng đất mới Ba Xuyên (nay là tỉnh Sóc Trăng). Là một thiếu nữ mới lớn nhưng dì đã sớm biết nghĩ suy, luôn đau đáu cho thân phận hẩm hiu của má và nỗi đọa đày cơ cực của bà con xóm giềng. Qua nhiều tháng năm mỏi mòn, khắc khoải, bế tắc, đến khi bắt gặp được ánh sáng cách mạng tù người anh rể với những bài học đầu tiên về đấu tranh, về cách mạng, cô gái nông thôn tuổi mười bảy, đôi mươi như vỡ òa khát vọng dấn thân, nhập cuộc. Và qua biến thiên lịch sử dân tộc, khát vọng ấy biến thành lý tưởng sục sôi.
Ôn chuyện "đời mình" trong Tiếng sóng bủa ghểnh, dì Bảy Huệ như mời người đọc chia sẻ, đổng cảm với từng sự kiện, biến cố, dấu ấn của cá nhân, gia đình, đổng đội, đổng chí, đổng bào ở những vùng đất mà dì sinh, sống, hoạt động theo năm tháng trải dài gần một thế kỷ.
Mảnh đất phương Nam, quê hương, nơi ghi dấu bao kỷ niệm ân tình giữa nhũng người thân yêu trong gia đình. Nơi có một bà má thân cò lặn lội tảo tần, chịu thương chịu khó chấp nhận sống cảnh hiu quạnh để các con yên lòng đi theo con đường đã chọn. Nơi có những đổng chí, đổng đội, đổng bào cùng sống chết trên trận tuyến trong cuộc Khởi nghĩa Nam kỳ cách nay đúng bảy mươi lăm năm. Và cả những năm tháng đẫng đẵng cùng hoạt động bí mật, rổi bị giam cầm, tra khảo đến chết đi sống lại... ở đó còn có một chút rung động đầu đời thoáng qua của người thiếu nữ đang xuân, nhung trên hết là tình cảm thương mến, kính phục, thần tượng, người đổng chí, người anh, người lãnh đạo trục tiếp. Có cả niềm hạnh phúc với mối tình nổng thắm, son sắt, thủy chung với người bạn đời cùng chiến đấu trên chiến trường miền Nam. Mảnh đất phương Nam còn có Sài Gòn luôn bảo bọc chở che các chiến sĩ cách mạng khi hoạt động bí mật lúc công khai. Một Sài Gòn luôn sục sôi với các thế trận ý Đảng, lòng dân nhiều mưu trí, kiên cường, bản lĩnh. Một Sài Gòn "đi trước về sau"...
10 HỒI ức NGÔ THỊ HUỆ
Trước Cách mạng tháng Tám, và trong hai thời kỳ kháng chiến, ngoài Sài Gòn và một số tỉnh miền Đông, mảnh đất phương Nam còn ghi dấu bao bước chân dì ngược xuôi, len lỏi khắp các tỉnh: Mỹ Qưới - Kiên Giang, Trà Vinh, Bến Tre, Hậu Giang, Bạc Liêu, cắn Thơ, VTnh Long, Đổng Tháp Mười... Hòa bình lập lại, ở cái tuổi "thất thập cổ lai hi", dì đã không ngơi nghỉ, mà nhũng bước chân ấy vẫn tiếp bước, rong ruổi theo nhũng đợt sưu tầm, tìm kiếm tư liệu cho việc viết sử phong trào phụ nD Nam bộ. Những bước chân nặng trĩu tấm lòng và tình người trên những chặng đường mong được sẻ chia nỗi đau thương, nghèo khó, bệnh tật của bà con nơi các vùng sâu, quê nghèo trong các chuyến làm từ thiện của Hội Bảo trợ bệnh nhân nghèo mà dì là một trong những thành viên sáng lập. Khắp các nông thôn, vùng quê hẻo lánh dường như mọi người đều quen thuộc gần gũi với bóng dáng của một bà má Nam bộ dong dỏng cao, mái tóc bạc trắng, khuôn mặt phúc hậu mỗi khi dì tháp tùng cùng đoàn.
Miền Bắc, hậu phương lớn. Miền Bắc còn là quê chổng với bao ký ức thời thơ ấu mà trong đêm tân hôn ông đã thiết tha chia sẻ cùng dì. Miền Bắc còn là nơi có Bác Hổ với nhũng lán được gặp Bác. Thật hạnh phúc, xúc động biết bao khi đón nhận sự quan tâm, chăm sóc và tình yêu thương mà Bác dành cho đổng bào miền Nam trong đó có cá nhân, đồng đội và gia đình nhỏ của dì. Và cả những cảm xúc nghẹn ngào, rơi lệ khi không còn được nhìn thấy Bác trong lần tham dự Quốc hội sau ngày Bác đi xa. Những dấu ấn ấy đến nay trải qua bao năm tháng vẫn còn hằn sâu trong tâm trí dì với tràn đầy tình cảm kính yêu vị Cha già của dân tộc. Miền Bắc còn là nơi với những tháng ngày bận rộn lo toan chăm sóc, dạy bảo các con của đổng chí đổng đội đang tham gia chiến đấu ỏ miền Nam. Miền Bắc còn là nơi dì làm việc với trách nhiệm của cán bộ Tổ chức Trung ương cho tới ngày về lại thành phố Hổ Chí Minh.
ở bất cứ nơi đâu, dầu miền Nam hay miền Bắc, trong chiến tranh hay hòa
bình dì đều sống, làm việc, úng xử trải lòng với tình sâu nghĩa nặng. Bỏi với dì, dải đất chữ s với đất, rừng, biển, đảo là quê hưomg thân yêu, là đất nước thiêng
liêng không thể tách rời trong lịch sử, hôm nay và mai sau.
Tập bản thảo này được bắt tay thục hiện từ năm 2006 theo đề nghị của Nhà Xuất bản Trẻ và được sự đổng ý của gia đình. Quá trình làm việc cùng
Tiéng sóng bủa ghénh 11
dì, chúng tôi càng cảm phục một trí nhớ phi thường, phong cách làm việc cẩn trọng, chỉn chu của một bậc lão thành kiến thức rộng mở. Chính do yêu cầu phấn đấu nâng cao chất luợng và cũng có lý do súc khỏe mà bản thảo đến nay mới được hoàn thiện theo khả năng có được.
Một kỷ niệm đối với tôi lúc thực hiện tập sách này, đó là tình cảm và tấm lòng của chú Sáu Dân, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đối với dì Bảy. Biết được bản thảo vừa mới hoàn thành bước đầu và khi chúng tôi bày tỏ mong muốn chú Sáu viết lời giới thiệu quyển sách, chú đã nhận lời với nhiệt tình xem đây như là trách nhiệm, một cách thể hiện tình cảm của một đổng hương, đồng chí, hom thế một người em đối với người chị mà chú luôn quí trọng, như chú Sáu đã bộc bạch khi trao cho chúng tôi bài viết của mình. Tiếc là khi cuốn sách này được xuất bản, chú Sáu đã mãi đi xa...l
Tiếng sóng bủa ghểnh được xuất bản trọn bộ năm 2015, dịp kỷ niệm 80 năm tuổi Đảng của dì Bảy. Chúng tôi xem đây là món quà của lớp người trẻ tri ân bậc lão thành, đổng thời cũng là dịp Nhà xuất bản Trẻ kỷ niệm 35 năm truởng thành của một đơn vị xuất bản của Đoàn 24/3/1981 - 24/3/2016.
Rất mong được sự góp ý của bạn đọc xa gần.
Tháng 9 năm 2015
TS. QUÁCH THU NGUYỆT
12 HỐI ức NGÔ THỊ HUỆ
Lời thưa cùng bạn đọc
Vậy là phần còn lại của tập Hổi ức của tôi giờ đã hoàn thành, tôi thật sự vui mừng khôn xiết. Bởi từ khi tập 1 “Tiếng sóng bủa ghểnh" đuợc Nhà xuất bản Trẻ in cho tôi, ngay trong phần thay lời tựa đông chí Quách Thu Nguyệt, nguyên Giám đốc Nhà xuất bản Trẻ đã nói rằng tập 2 sẽ được xuất bản vào năm 2010. Và trong suốt thời gian gần 5 năm, tôi không sao trả lời được cho câu hỏi mà mọi người thuờng nêu ra sau khi đã đọc xong tập 1, rằng: "Khi nào thì có tập 2?". Việc kéo dài quá lâu này, ngay chính tôi và các con tôi rất nhiều lần sốt ru ộ t Có những lúc tôi không khỏi lo lắng, không biết mình có kịp nhìn được tập Hổi ức cuộc đời mình hay không khi mà tuổi đời ngày càng chổng chất, sức khỏe ngày một giảm sút...
Việc chậm trễ này trước hết là do tình trạng sức khỏe trổi sụt của tôi, kế đến là sự cầu toàn, kỹ tính của nhũng đổng chí cộng sự, những người giúp tôi chấp bút cho tập Hổi ức này... không ngờ gần đến 5 năm!
ở lẩn in này, tôi có đề nghị Nhà xuất bản Trẻ nhập hai tập làm một (gổm tập 1 đã in trước đây và phần còn lại tiếp theo) nhằm giúp cho việc lưu trữ tốt hom, mặt khác sẽ giúp người đọc tiện theo dõi liền mạch trọn vẹn nội dung tập sách. Đọc lại bản thảo hoàn thiện trước khi in, tôi lại nhận ra một điều rằng cũng nhờ sự chậm trễ mà tôi lại có cơ hội bổ sung và đưa thêm những sự kiện rất gần đây có liên quan đến cá nhân tôi và những người thân trong gia đình
Tiếng sóng bùa ghểnh 13
tôi. Đó là sự kiện Đảng và Chính phủ tổ chức long trọng những hoạt động kỷ niệm 100 năm ngày sinh của anh Mười vào cuối tháng 6 năm 2015. Tôi và các con có dịp trở ra Bắc, vể thăm quê chổng ỏ Hưng Yên, được cùng các con thắp hương phền mộ ông bà, được cùng các đổng chí lãnh đạo Đảng bộ, Chính quyền Trung ương và địa phương Hưng Yên tiến hành lễ dâng hương tại nhà lưu niệm, khánh thành tượng đài Nguyễn Văn Linh, được vào thăm hỏi các đổng chí đại biểu Quốc hội nhân kỳ họp lần thứ 9 Quốc hội lần thứ XIII diễn ra tại Hà Nội. Đó còn là việc tôi nhận huy hiệu 80 năm tuổi Đảng, một dấu mốc đáng nhớ trong những năm cuối cuộc đời tôi.
Năm 2015, tôi bước vào tuổi 98, so với ông bà, cha mẹ tôi thì kể ra tôi sống thọ lắm rổi. Tuy thời trẻ, xông pha hoạt động cách mạng, nhiều lần chịu những cảnh tra tấn, tù đày, nhưng nhờ trời thương tôi đã vượt qua những bất trắc, khó khăn, bịnh tật để sống nốt những tháng ngày còn lại có ý nghĩa với những hoạt động xã hội, được vui vầy bên con cháu. Ghi chép lại cuộc đời mình qua tập Hổi úc 'Tiếng sóng bủa ghềnh", điều mong ước chính của tôi là muốn lưu lại cho con cháu và những người thân trong gia đình những kỷ niệm sâu sắc về một người mẹ, người bà đã sống hết mình vì lý tưởng, vì tình yêu cách mạng, tình yêu gia đình. Với bạn đọc, câu chuyện đời tôi cũng chỉ là câu chuyện nhỏ trong muôn ngàn câu chuyện lớn của nhũng người chị, người vợ, người mẹ trong chiến tranh cũng như khi hòa bình luôn thủy chung, sống hết mình với tình yêu Tổ quốc, tình yêu gia đình...
TP. Hổ Chí Minh, tháng 9 năm 2015
NGÔ THỊ HUỆ
14 HỔI ức NGÔ THỊ HUỆ
I. Qụê hương - tuổi thơ
Từ xa xưa ông bà ta đã bảo: ‘"Ihắng vể nội, thối* vể ngoại”. Gặp thời
gian làm ăn phát đạt thì về bên nội dòng họ của mình, còn gặp rủi ro thất bát thì quay vể với bên ngoại, dòng họ bên mẹ. Riêng tôi, mở mắt chào đời là đã sống với bên ngoại, kể cận người thương yêu nhất là má tôi.
Khi biết nghĩ suy, tôi nghe má kể: ngoại tôi quê ở làng Nhị Trường - Dừa đỏ quận Càng Long tỉnh Trà Vinh. Đi từ Vĩnh Long trên quốc lộ, trung tâm quận Càng Long nằm bên tay phải, bên tay trái phía trong sầu là làng Nhị Trường, thời ấy còn là một vùng đất trù phú với vườn tược sum suê, những thửa ruộng phì nhiêu trải dài ven sông. Cái đẹp nhất ở đây là dòng sông nhỏ hiển hòa mang đầy mầm sống. Đáng lẽ dân cư phải được hưởng một cuộc đời yên bình, sung túc, nhưng bị cường quyển áp bức, cướp giựt miếng cơm manh áo buộc phải sống qua những tháng ngày dài cơ cực từ đời ông, đời cha, kế tiếp đến đời con cháu.
1. Có nghĩa là thoái, theo cách phát âm Nam bộ.
Tiéng sóng bủa ghénh 15
Lớn lên tìm hiểu gốc gác quê ngoại qua chuyện tích truyền miệng, qua thơ ca, sách vở... tôi mới biết: Phan Thanh Giản tự kết liễu cuộc đời trong tháng tám năm 1867, sau khi đã dâng tiếp ba tỉnh miền Tây Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên cho giặc Pháp.
Khắp nơi các vùng đất Vĩnh Long, Trà Vinh, Sa Đéc, Bến Tre... dưới quyền chỉ huy của các ông để đốc Trinh, đốc binh Lê Cẩn, Nguyên Giao, Phó Mai... đông đảo hào kiệt, nghĩa sĩ, nông dần hên tiếp dấy lên rầm rộ các phong trào chống quần xâm Iược. Nghĩa quần xử tội tên quận trưởng Vũng Liêm Hồ Thiện Thực, phục kích giết tên tinh trưởng Vĩnh Long Albc Salicetty’, bêu đầu hắn giữa đổng Láng Thé. Thực dân Pháp hốt hoảng tập trung binh lực, dùng hai tên tay sai Trần Bá Lộc, Huỳnh Văn Tán dẫn đường mở cuộc tàn sát đẫm máu khắp ba tỉnh miền Tầy, trong ngày hai mươi ba tháng hai năm 1872. Đốc binh Lê Cẩn tử trận, hơn năm trăm nghĩa quân, dân thường bị địch bắt giết tại chỗ, xác chết đầy ở ngã ba An Nhơn, Vũng Liêm. Bất chấp tổn thất nặng nề, nghĩa quần tiếp tục nổi dậy liểu chết giao chiến với giặc ở Suối Cạn (Càng Long) và ven sông Cổ Chiên, cho đến ngày mùng mười tháng năm, năm 1873 lãnh tụ Nguyễn Giao oanh liệt hy sinh. Điển chủ cường hào gian ác cam tầm phò thực dân Pháp bày mưu tính kế kềm kẹp dần hòng trả thù, giết hại không phân biệt già trẻ, quyết dập tát cho kỳ được phong trào khởi nghĩa.
Trong những năm tháng này, gia đình dòng họ bên ngoại tôi cùng với đổng bào ở Nhị Trường quận Càng Long trải qua một quãng đời vô cùng cơ cực, sống chết không biết lúc nào! Nặng lòng yêu nước, dòng họ tôi đầu dễ đứng nhìn giặc xâm lăng đày ải dân mình, lẩn lượt lớp trước người sau gia nhập nghĩa quần cho đến ngày đau buồn, phong trào tan rã!
Để tránh bị khủng bố, giết hại, nhiều chiến sĩ yêu nước, bà con ai còn sống sót phải lẩn trốn, phải bỏ xứ ra đi tha phương cầu thực. Ông bà ngoại tôi có bốn trai bốn gái. Má tôi, con thứ sáu được đặt
1. Tự Bổi Xê, là quan ba (capitaine, tức đại úy), tinh trưởng tinh Vĩnh Long đầu tiên. 16 HÓI ỨC NGÔ THỊ HUỆ
tên Trần Thị Khoa. Gia đình đông con, đang có một trăm công ruộng, mỗi năm làm một mùa, ngoại tôi không lúc nào thảnh thơi, dư dả. Gặp thời buổi khó khăn, cuộc sống ngày càng chật vật bất ổn, ngoại tôi đành làm một cuộc “di dân”, giao lại ruộng vườn cho cậu Hai và cậu Ba. Ra đi có ông bà ngoại, hai con trai, bốn con gái còn nhỏ, cùng một số bà con láng giểng thần thích đùm bọc nhau qua lập nghiệp trên đất Ba Xuyên (tỉnh Sóc Trăng ngày nay).
Vào những năm Ba Xuyên còn là một vùng ngập mặn, dày đặc cây đước cây mắm, um tùm ô rô cốc kèn, lau sậy, lác dưng, cùng với đĩa vắt muỗi mòng và còn có thú dữ, cọp beo...
Bẩu đàn thê tử chen chúc trên một chiếc ghe tam bản mới đóng, mấy chiếc xuồng của bà con chí cốt, ngày đêm luồn lỏi qua kinh rạch, vượt sông Hậu (Bassac) vô vàm Cần Ihơ, lần xuống Ba Xuyên. Nhờ có người đi trước chỉ dẫn, chúng tôi đến tạm cư trên một con kinh nhỏ, sau này được đặt tên kinh Mỹ Quới, một đấu là chợ Na Rộn, một đẩu là chợ Ngã Năm. Trải dài trên hai bờ kinh những cánh rừng ngập mặn bạt ngàn. Nước lớn, chân rừng bị ngập chìm sâu, nước ròng đất trổi lên cao ráo, khoe một lớp mùn dẩy mấy gang tay xác lá rừng mục đọng lại.
Bắt gặp được vùng đất màu mỡ, chi cần be bờ ngăn nước ra vào thì mặc sức mà trồng lúa, vun xới hoa màu. Từ ngoại tôi cho đến từng người lớn trong đoàn “di dân” không ai bảo ai như đều một lòng trụ lại trên vùng đất “trời cho” này. Chặt cây dựng cột, đổn lá lợp mái, một căn nhà cất xong, rồi mấy ngày sau, như trong mơ, giữa rừng một xóm nhà mới mọc lên. Từ nay đời sống đỡ cơ cực, gạo chợ nước sông, ngày ngày phá rừng lấn đất. Cứ đo ngang đo dọc, mỗi gia đinh khai phá một trăm công (mười mẫu). Bà ngoại lo cơm nước, chăm sóc đàn con nhỏ, các cậu tôi có ông ngoại mở đường chỉ lối, ngày đêm đấy chân rừng lùi từng bước. Khởi đầu ngoại chọn trồng bí đao, bí rỢ, dưa leo, bầu mướp... trái quả lổ lộ trên mỗi giổng đất, xa trông lúc nhúc như đám heo rừng con thật vui mắt. Khai khẩn tới đâu, đợi nước ròng, đắp bờ giữ đất tới đó. Rồi không mấy chốc miếng rẫy này tiếp miếng rẫy khác với đủ loại hoa màu hiện ra không đếm kịp, rồi
Tiếng sóng bủa ghénh 17
lần lượt từng mảnh vườn cầy trái đưỢc vun trồng nhiểu thêm. Ngày tháng như thoi đưa có được những vụ thu hoạch đầu mùa kha khá, bà con ai nấy đểu nhận ra trên vùng đất mới, có chung sức chung lòng, chia sẻ ngọt bùi mới có được cuộc sống ấm no, ước ao trông đợi một cuộc đổi đời sẽ đến.
Qua bao thử thách, lao động cật lực ngày đêm của cả già trẻ gái trai, gia đình ngoại tôi khấm khá dần lên. Phẩn của ngoại khai khẩn được một trăm công đất, các cậu mỗi người cũng được ruộng vườn từng áy đất. Tiếng lành đồn xa, bà con nhiểu nơi không ai hẹn ai cũng đổ vể đây phá rừng làm rẫy, phá rẫy làm ruộng, mùa này, sang mùa khác và qua gian truân, bển chí, làng Mỹ Quới của chúng tôi thành hình và từng bước mở rộng đời này qua đời sau.
Các cậu tôi tràn đầy sức vóc trai tráng lần lượt lập nên gia thất, còn các cô con gái trong nhà cũng lớn lên trổ mã trông dễ coi nên không thiếu mối manh ngấp nghé dạm hỏi. Qua hàng chục năm lao lực không tiếc sức, dãi nắng dầm mưa, ngoại tôi vóc dáng già đi mà tinh thần thì vẫn cứ tỉnh táo, minh mẫn. Gia sản cơ ngơi khá khang trang, nhà ba gian hai chái, có nhà nối nhà trước nhà sau, lu chứa nước mưa mấy dãy qua mùa nắng hạn không sỢ thiếu.
Vào một buổi sáng trời, có một người cưỡi ngựa, lưng đeo túi vải từ xa đi vể hướng nhà chúng tôi. ông ngoại ra đứng trước cửa nhìn người khách mà lòng sinh nghi, có phải bọn tề làng nghe tiếng đồn ở đây đất màu mỡ định tới giở trò làm khó dẽ rắp tâm cướp giựt chăng? Thói thường đã xảy ra ở Bạc Liêu rồi, bọn điển chủ cấu kết với quan quyển, biết ở đầu dân khai phá đất hoang xong thì chúng lên tỉnh dựng bằng khoán, khoanh vùng khai khẩn, đăng ký làm chủ để rồi ngang ngược cướp đoạt những mảnh ruộng đất đó của người dân thấp cổ bé họng. Ông ngoại mắt nhìn người khách mà lòng bán tính bán nghi. Sau khi cột ngựa vào một gổc trầm bầu trên bờ ruộng, người đó thong thả bước tới với bước đi chắc nịch. Đó là một chàng trai khoảng trên dưới hăm mấy tuổi, da bánh mật, tầm vóc lực lưỡng. Anh chào ngoại và tự giới thiệu với giọng nói từ tốn:
18 HỔI ữc NGỒ THỊ HUỆ
- Thưa bác, cháu ở quận Càng Long bên tỉnh Trà Vinh qua đây. Nghe bà con nói bác trước cũng có ở Càng Long và là một trong những vị chủ xướng khai phá vùng này, nên cháu đến trước để chào bác, sau xin trình bày mấy điểu mong được bác giúp đỡ.
- À, thì ra vậy! Mời chú em vô nhà uống nước. Ngoại vừa nói vừa đưa tay chỉ hướng đi, ngoại gọi con gái châm trà và tiếp chuyện vui vẻ với khách:
- Tôi vốn ở Nhị Trường Dừa đỏ, vậy ra mình cũng là đồng hương. Có việc gì chú cứ nói tự nhiên.
- Dạ, xin thưa bác thương, cháu mổ côi cha mẹ, anh em không có mấy người, lại tản lạc tứ phương. Khi qua đời, cha mẹ có để lại cho cháu chút ít vốn. Nghĩ ngồi không ăn hoài núi cũng sập! Nghe nói vùng đất này làm ăn có phẩn thuận lợi nên cháu muốn đến đây trước xem cho tận mắt và sau mong bác sẵn sàng giúp cho cháu khai hoang một ít đất làm ăn sanh sống...
- Chú đến có một mình sao?
- Dạ, một mình.
- Chắc chú cũng biết việc làm ăn khai hoang cực nhọc lắm, đòi hỏi bền gan bển chí. Chú liệu kham nổi không?
- Dạ cháu biết. Cháu xin thưa, sức trẻ thì có, nhưng vốn kinh nghiệm thì thiếu nhiểu, được bác dẫn dắt, chắc sẽ làm được. Cô gái thứ sáu đem thêm nước ra mời khách. Khách không nhìn cô gái mà thưa tiếp với ngoại tôi:
- Cháu thân cô thế cô, kính bác là bậc trưởng thượng, trước sau mong nhận được sự chỉ dạy của bác.
Ngoại ngổi trầm ngâm nghĩ ngỢi, hớp một hớp nước, rồi hai hớp, người khách có vẻ sốt ruột. Một lúc ngoại hỏi:
- Chú cho tôi biết danh tánh.
- Dạ, Ngô Văn Lượm. Nghe má cháu kể lại, sanh cháu ra thấy “xấu háy”, má đem bỏ ở gốc cầy trong vườn, rồi lượm lại nuôi, nên đặt cho cháu tên Lượm.
Tiéng sóng bủa ghénh 19
Ngoại cười thông cảm rối đáp chậm rãi:
- ờ, chuyện đó cũng thường xảy ra, con khó nuôi mà! Chú có định làm bao nhiêu đất chưa?
- Dạ, chưa dám tính. Mong cứ làm từ từ, có công mài sắt... Ngoại đùa chêm vào:
- Rồi có ngày thành điển chủ phải không?
Trông qua dáng dấp và nghe lời ăn tiếng nói, ngoại như xua tan nghi ngại, nói cởi mở:
- Chú tính vậy cũng được. Uống hết nước đi rồi chú theo tôi đi coi đất.
Cả gia đình ngoại đến giờ đã cầm chắc trong tay ba trăm công, cũng vừa rồi nên không tính chuyện khai phá thêm... Ngoại đưa anh Lượm đi coi ruộng nhà, đến vùng đất sát rừng, ngoại đưa tay chỉ:
- Đầy, chỗ này đầy. Đất tốt lắm, tôi lớn tuổi rồi, sắp nhỏ mỗi đứa đã có một trăm công được rồi. Nếu hợp ý chú nhận chỗ này đi, giáp ranh với đất của thâng út nhà tôi.
Cảm kích tám lòng và vốn sống của ngoại, anh LưỢm nói với giọng run run:
- ĐưỢc bác thương tình chi bảo, cháu rất mang ơn và kính bác như bậc cha chú, chẳng khác gì công sanh thành.
- Thôi được rồi! Chú có sức trai trẻ, cố mà làm ăn, lo gì không nên nghiệp. Thôi, mình vể đi, rồi còn cơm nước nữa.
Ngoại ra vẻ có cảm tình với người khách, cả nhà ai cũng dành cho anh những cử chỉ thân thiện. Chàng trai trẻ từ đó siêng lui tới vùng đất này, mỗi lần lưu lại năm ngày, bảy ngày hển, và có khi ròng rã nửa tháng để dốc sức vào công việc vỡ hoang. Khi gặp vùng nhiều gai gốc, cây lớn, rẽ sâu anh mới thuê người phụ giúp. Vâng ý của ngoại, mấy cậu hết lòng tiếp tay cho anh LưỢm, bất kể khó nhọc đến đâu.
Chỉ sau mấy tháng, trên bản đổ làng Mỹ Qụới nổi lên thêm một vùng đất mới quang đãng. Trong thời gian qua lại gần gũi gia đình tôi, tuy có ngán ngoại nhưng anh Lượm đã chú ý và để lộ tình yêu thương
20 HỔI ức NGÔ THỊ HUỆ
cô gái thứ sáu của ngoại. Dịp may lại đến, Lượm không ngại ngùng “thưa chuyện” với ông. Vốn đã có để ý và phát hiện chàng trai tính tình hiển lành, chất phát mà gan góc, có ý chí và nhiểu điểm hạp ý, đôi lán ông cũng nghe bà ngoại có lời khen Lượm có ý tứ, chịu khó làm ăn. Ông nghĩ: “Biết đâu đây là duyên phẩn của con sáu”, nên ngoại không đắn đo gì khi chấp nhận một rể con như Lượm.
Một đám cưới được tổ chức đơn sơ và giữ đúng lễ giáo ông bà. Hai vỢ chổng son trẻ sớm ra riêng, cất một căn nhà phỏng theo kiểu nhà ngoại, cũng ba gian hai chái, có nhà cẩu tiếp nối nhà sau có hàng lu hứng nước mưa. Cơ may thế nào, chính từ đôi vỢ chổng chung sống đẩy hạnh phúc này mà chị em tôi lần lượt chào đời. Anh Hai tên Ngô Văn Xuyến, chị Ba là Ngô Thị Vần, anh Tư mất lúc vừa hai tháng tuổi, chị Năm có tên Ngô Thị Nho, anh Sáu tên Ngô Văn Nghĩa, tôi thứ bảy, sanh năm 1918. Sau tôi còn hai đứa em, đứa thứ tám tên Ngô Hiển Nhân, đứa thứ chúi tên Ngô Thị Bưởi (sau này mới lấy tên Ngô Duy Liên).
Sau khi ăn ở với nhau có tám mặt con, má tôi gánh vác việc nuôi dưỡng đàn con nhỏ, ngày đêm lo toan mọi việc trong gia đình. Tuy không làm bận bịu nhưng cũng thiếu quan tâm chăm sóc chồng, đó là mối ân hận, khổ tâm của má sau này. Ba tôi cũng chẳng đòi hỏi gì ở má, nhưng lại đem lòng dan díu một cô gái trẻ duyên dáng và cùng dắt nhau bỏ nhà ra đi khi người này đang mang thai. Má tôi mới bốn mươi tuổi, từ đầy trơ ưọi với bầy con bảy đứa. Anh Hai và chị Ba cách nhau chỉ một năm, sau đó chị em tôi cách nhau hai hoặc ba năm tuổi. Chúng tôi lớn lên chỉ biết có má, má vừa làm mẹ vừa làm cha, là tất cả. Còn má nhìn mỗi đứa con lớn khôn lấy đó làm niềm vui, thêm sức vượt qua những nỗi đau cùng cực suốt cuộc đời bất hạnh. Tiếng má hát ru trong buổi trưa nắng oi nồng, bàn tay vỗ về ấp yêu trong đêm khuya vâng, tất cả khắc sầu vào tầm trí của tôi từ tấm bé cho đến tận hôm nay vẫn không phai mờ. Từ khi biết suy nghĩ thấy sao đời má khổ quá, tôi tự hỏi: phải làm gì đây để chia sẻ gánh nặng, niểm đau, nỗi nhọc nhẳn của má? Qua năm tháng nối tiếp, những suy nghĩ này luôn làm tồi ray rứt suốt tuổi thơ.
Tiéng sóng bùa ghénh 21
Tôi đầu hể biết gì về ba để mà nhớ, mà trông. Mãi cho đến khi tôi lên bảy tuổi, rổi vào một buổi sáng lúc má và tôi đang ăn cơm nguội với mắm chưng ở nhà sau, bỗng có tiếng anh Hai từ ngoài vọng vào báo tin vui:
- Má ơi, ba về, ba vể má ơi!
Anh Hai reo mừng tôi cũng mừng theo mà sao lại thấy sỢ sỢ. Bởi từ lúc sinh ra đến nay, tôi đâu tháy mặt ba bao giờ. Má thoáng chau mày rồi cười nhìn tôi:
- Ba con vể rổi đó, ra đón ba đi để cho biết mặt cha. Má buông đũa, đặt chén cơm xuống bàn rổi dắt tay tôi ra nhà trước. Tôi rút tay, bước lại ôm góc cột chõ cửa buổng ngó ra sân.
Thấy anh Hai nắm tay dắt vào một người đàn ông, tôi đoán chắc đó là ba rổi. Má bỡ ngỡ hỏi:
- Ông mới về!
- ờ, mới tới! Thằng Xuyến nhổ giò lớn dữ, tướng vóc con trai rổi, còn mấy đứa...
- Tụi nó đang ở ngoài ruộng, chỉ có con Ngởi ở nhà đây. Vừa nói má vừa nhìn về phía tôi. Còn con Nhân với con Bưởi, chắc chạy chơi đâu đó. Hổi hôm ghé ở đâu mà vể nhà sớm vậy?
- Tôi ngủ nhờ ở nhà ông bạn ngoài ngã tư Na Rộn.
- Ông vể thăm con, còn có việc gì không?
- ờ, trước thăm sau có mấy việc. Thôi, để tối rồi nói. Ruộng nương năm nay khấm khá không bà?
- Trước còn kha khá, mấy năm gần đầy mùa màng thất bát làm không đủ ăn, phải mướn thêm một trăm công cho tụi nhỏ xúm làm với nhau. Mấy đứa lớn rồi, thường phải bỏ học lo làm ruộng. Con Vân, con Nho, có nhiểu người đến dòm ngó. Tôi sỢ con dốt, vể nhà chổng rổi còn học hỏi gì đưỢc. Có nhờ ông thầy Năm Nữ qua dạy cho hai đứa, sẵn cho con Ngởi cùng học luôn. Tháng chạp này gả con Vân, ông nhìn chút thời gian vể cho con nó mừng.
Má tôi rót nước... giãi bày chuyện nhà, chuyện ngoại, chuyện mấy cậu. Ké những chuyện dính dấp tới gia đình ngoại. Bây giờ tôi mới
2 2 HỒI ứ c NGÔ THỊ HUỆ
nhìn kỹ ba, vóc người cao ráo, tóc bạc hoa râm, mũi cao, mắt to, vầng trán đã hằn nhiều vết nhăn... Ngồi ngay trên bộ ghế giữa nhà im lặng, chốc chốc nhìn ra sân, ra vẻ nghĩ ngỢi điểu gì. Má tôi ngồi đối diện, lâu lâu liếc nhìn ông.
Tách trà đã cạn, má đứng dậy vào trong buồng đem ra chiếc chiếu bông, trải trên bộ ván gần cửa sổ, nói khẽ:
- Ông uống nước rồi nằm nghỉ, tôi ra kêu máy đứa nhỏ về cho cha con gặp nhau. Bây giờ đứa nào cũng lớn, đã bảy tám năm rồi còn gì! Không đợi ông trả lời, má nắm tay dắt tôi đi ra cửa. Chợt thấy tồi, ba đưa tay ngoắc, tôi rụt rè không dám lại, chạy theo má ra sân, chỗ anh chị tôi đang xúm xít phơi lúa. Tất cả đểu kéo nhau vể. Đêm nay mới có cảnh cả nhà sum họp. Má đãi món gà xé phay. Ba hỏi han từng đứa con, từ anh Hai, chị Ba, chị Năm, anh Sáu, tồi, con Nhân và con Bưởi cũng đang quây quẩn quanh mâm cơm. Ai biết gì trả lời nấy, có câu trả lời làm ba cười ngất, rôm rả không khí gia đình ấm cúng. Ngồi sát bên má, chốc chốc tôi lại nhìn ba. Từ nhỏ đến giờ chỉ biết có má thôi mà! Còn với ba có cái gì ngăn cách, xa lạ... Mấy lần ba dang hai tay như muốn kéo tôi vào lòng, tôi chúi mặt vào má, bà phải vội nhắc: - Con nhỏ nhút nhát lắm! ông đừng làm con nó sỢ, để thủng thẳng...
Sau bữa cơm, khi các anh chị đi ngủ, tôi vào buồng với má cùng con Nhân, con Bưởi, bỗng có tiếng gọi;
- Cho sắp nhỏ ngủ đi rổi bà ra bàn chút chuyện.
Tôi làm bộ ngủ, nhưng cố dảo tai lắng nghe coi ba má sẽ nói gì với nhau. Má tôi ra châm nước đặt ở giữa bàn.
- Mới mua gói trà “Con Khỉ”, ông uống đi, sở thích của ồng tôi còn nhớ mà...
Nhận ra tiếng má rót nước, tiếng ba hớp trà, tiếng “khà” sau mỗi lượt nhấp, nghe lõm bõm ba nói, má nói, mà chẳng hiểu điểu gì, sau này mới biết chuyện “bằng khoán một trăm công ruộng” do má con tôi đang làm. Rổi nghe ba xuống giọng:
- Mình đừng buổn tôi, cuộc đời đấy đưa... tôi đang bối rối, tính vể Tiếng sóng bủa ghénh 23
nói với mình cho lại cái bẳng khoán,., rổi ông ngập ngừng, còn má lặng thinh một hổi mới nói:
- Hổi sáng tôi đã tỏ rõ với ông, mấy năm hén thất mùa, ngoài ruộng nhà còn phải mướn thêm một trăm công. Bầy giờ ông lấy bằng khoán đi để lo chuyện của ông, mẹ con tôi biết tính sao đây? Ông giãi bày tiếp:
- Kẹt quá mới tính như vậy, còn có lương tâm thì nỡ lòng nào... mong bà hiểu cho tôi. ở xa tôi đâu lường nổi cảnh khổ của nhà mình, bây giờ tai nghe mát thấy... ông lắc đầu thở ra và nói tiếp: - Thiệt khó tính quá!
Không đợi ông nói thêm, bà bước trở vào buồng, qua ánh đèn rọi thẳng vào mặt má, tôi thấy như má sắp khóc. Thương má quá, tôi ngồi chồm dậy ôm má. Vuốt tóc tôi, má dỗ dành:
- Ngủ đi con, chuyện người lớn, má có cách lo liệu.
Đáy nhẹ tôi ra, má đi mở tủ cám lấy vội một cuộn giấy tròn rồi bước ra, giọng buồn buồn:
- Đầy, bằng khoán đây, ông muốn cứ lấy đi! Mẹ con tôi sau này có ra sao sẽ tính.
Từ nhà sau anh Hai tôi giận dữ chạy phóc tới ngăn tay má: - Không được, má đừng có đưa. ông đành lòng như vậy, coi được hả? Ông đi đi, ra khỏi nhà này ngay.
Nghe tiếng ổn ào, chị Ba, chị Năm, anh Sáu cũng xúm đến, hết nhìn ba rồi nhìn anh Hai, vẻ hốt hoảng.
Má nghiêm sắc mặt đáy anh Hai ra.
- Xuyến, con không được hỗn với ba, chuyện gì để ba má tính, nghe lời má, các con đi ngủ đi...
Anh Hai đứng lặng thinh mà mắt cứ lườm lườm hướng về phía ba. Ba tôi cầm bằng khoán lên mở ra xem, một lát cuộn lại rồi đặt trước mặt má.
- Không, tôi không lấy đầu! Hổi nãy tôi có nói ở xa không thấu hiểu đưỢc cuộc sống của mấy mẹ con, bà tha thứ cho, và cám ơn bà đã chịu cực khổ nuôi đàn con khôn lớn như hôm nay.
24 HÓI ức NGÔ THỊ HUỆ
Nhìn thấy tôi đang lấp ló bên cửa buồng, ông đưa tay ngoắc, ra dấu kéo tôi đến ngồi với ông. Đang tức ông làm khổ má, làm má khóc, làm sao tôi đến được. Tôi chạy trở vào buồng, ngồi trốn trong góc tối, nước mắt ràn rụa, chẳng biết làm gì.
Má tôi trở vào buồng đưa tôi lên giường ôm tôi, bàn tay chai sạn vuốt tóc dỗ dành tôi. Đèn mờ mà tôi thấy nét mặt má rất buồn. Đi vào giấc ngủ mà tôi cứ nấc từng cơn.
Sáng dậy trông ra cửa đã thấy má đứng từ bao giờ và nói vói theo ba đang lững thững bước ra.
- Ông đi mạnh giỏi, nhớ đừng quên ngày gả con Vân nghen! Má như nghèn nghẹn. Tôi chạy ra ôm chân má, nhìn vể hướng ba đi, dáng đi Uêu xiêu giữa hai hàng trâm bầu quen thuộc, hình bóng ba càng lúc càng xa, cô đơn, mờ dẩn... Đầu có ngờ từ nay không còn nhìn thấy lại ba tôi. Má gọi các anh chị em lên nhà trên giao cho anh Hai “quyền huynh thế phụ” các con phải nghe lời anh Hai. Tôi lên tám tuổi. Thêm một năm lúa thát mùa gẩn như trắng tay. Nắng chói chang kéo dài, trời không mưa nổi. Mạ vừa bén rễ thì bị cơn nắng dập vùi. Rổi nước mặn xâm thực sầu vào sông rạch. Các anh chị tôi ngày đêm canh con nước lớn để be thêm bờ chỗ dễ bị nước mặn tràn vào. Má không đêm nào ngủ đưỢc, âu lo ngày mai đàn con sẽ sống ra sao? Ngoài ruộng nhà và ruộng mướn với lao động chính là anh chị em tôi, má còn phải làm thêm đủ nghề: bơi xuổng vào sầu vùng đất mới khai phá mua bầu bí, dưa leo, cải xanh đem bán dài theo các xóm ven sông kiếm ít đồng lời. Má sống cơ cực thui thủi chạy vạy lo lắng cho từng đứa con, cho cả nhà, sức lực khô kiệt dẩn. ĐưỢc theo má bơi xuồng đi bán hàng bông, má bơi lái tôi bơi mũi, quen dẩn với khách mua, tôi tự mình đem rau cải giao hàng từng người, thâu tiển mang vể. Đôi khi má cũng bán bánh, bán bún tôi lại theo bưng cho người ta ăn, rổi rửa chén, thầu tiển. Tháng năm qua nhanh quá, lụi đụi tôi đã mười tuổi rồi.
Một hôm theo má đi bán rau cải, lúc trở vể, đang bơi xuồng chợt thấy lảo đảo, trời đất quay tròn. Tôi vội níu lấy be xuồng, bỏ cây dầm
Tiếng sóng bủa ghénh 25
nghe cái cộp, xuồng chựng lại. Má tôi quýnh quáng vội tấp xuồng vô bờ, lớn tiếng hỏi:
- Sao vậy con?
- Tự nhiên thấy chóng mặt.
- Chắc là trúng gió rồi. Má trao cho tôi chai dẩu Nhị Thiên Đường và giục:
- Xức dầu mau đi để về cho lẹ.
Suốt gẩn một tháng tôi bị cảm, tội nghiệp cho má, lớp lo ruộng nương, lớp lo cuộc sống không lúc nào rảnh rỗi. Bất kể ngày đêm, má lo từng tô cháo, từng chén thuốc, không rời tôi một bước.
Cơn lám bịnh kéo dài, trong người tôi có những đổi thay khiến tôi cảm nhận sao như tuổi thơ dần dần lùi xa. Tiếng âm âm, à tôi nhớ ra rổi! bà ngoại nhắc lời ông ngoại bảo đó là “tiếng sóng bủa ghểnh” lan trong lòng đất. Nhiều lần trong giấc mơ, tôi nghe tiếng sóng đó liên tiếp trở đi trở lại, có đêm nó đánh thức tôi dậy... Từ đây khi nghĩ đến làng quê, trong lòng tôi không chỉ có những cảnh ruộng đồng bát ngát với những cánh cò bay mà còn thấy làng quê mình dính liền với biển khơi mênh mông có tiếng sóng bủa ghểnh ầm ầm trong lòng đất. Còn có một đổi thay khác trong bữa ăn thường ngày của tôi: trước những tô cháo cá do má nấu hồi nào đang bốc hơi thơm phức mà chị em tôi thường giành nhau từng chén, sao bây giờ tôi thấy “nhờn nhợn”, cứ hớp vào là nôn mửa. Má hết lời dỗ dành, thương má quá, nhưng chẳng làm sao húp được một muỗng. Tôi lại thấy thèm ăn tàu hủ, rau luộc, đọt bí chấm với chao, với nước tương.
Liên hệ với chuyện tiếng sóng bủa ghểnh, tiếng chuông chùa và tiếng tụng kinh ngân vang trong giấc mơ do tôi kể, có lần má buột miệng: - Chắc con nhỏ này có căn tu rồi!
Khi dứt bịnh tôi vẫn thấy “ớn” cá thịt và từ đó ăn chay trường luôn. Không tu hành theo đạo phái nào, nhưng ăn chay trường tôi thấy người nhẹ nhõm, tâm tính trẩm tĩnh, ít hờn giận, chỉ có điểu là thấy âu lo thương má, và tôi tự nhủ: phải tìm cho ra lời đáp của câu hỏi tự đặt ra cho mình “làm sao cho má bớt nhọc nhằn, bớt khổ đau?”.
26 HỒI ứ c NGÔ THỊ HUỆ
Tôi có một người mỢ, vỢ cậu Năm tôi; mỢ theo đạo Phật; tu tại gia. Hằng năm cứ đến tháng bảy, mỢ lên núi ở trong chùa một tháng để cầu nguyện. Nhơn có lần mỢ ghé thăm, nhớ lời má nói có căn tU; tôi mới hỏi “lâu nay mỢ có còn lên núi; đi chùa không?”.
Mợ Năm nhìn tôi dò xét:
- Năm nào lại chẳng đi; mỗi năm một tháng và mỢ còn nói thêm: - Mình tu hành, lên chùa cầu nguyện, Phật linh lắm. Ai cầu gì được nấy, có người cúng chay mười ngày. Nhiều người nghèo quá nhờ được trời Phật phù hộ; sau đó làm ăn khá, có người giàu lên. Đáp lại thắc mắc của tôi “nếu được như vậy thì đầu còn có ai nghèo nữa”; mỢ Năm cho rằng: “An thua là tấm lòng thành”. Tôi liển nảy ra ý nghĩ, thử đi cầu trời Phật cho má mình đỡ khổ nên ngỏ lời xin năm nay cho đi theo lên núi với mỢ. Chẳng những nhận lời ngay, mỢ còn tin cậy nói thêm:
- Con ăn chay trường; có căn tu rồi đó, cẩu xin chắc hiệu nghiệm lắm! Ráng hết bệnh đi; mỢ sẽ đưa con theo. Mợ cháu mình sẽ đi lên núi Cấm ở Thất Sơn tinh Châu Đốc.
Đêm đó tôi cứ trằn trọc với ước mơ sớm được lên núi cầu Phật cho má bớt khổ, và cũng nhớ đến bao nhiêu người còn nghèo khổ hơn má. Cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, không nhà không cửa. Trước đây hằng ngày theo má đi bán tôi luôn gặp cảnh đau xót: mấy đứa cùng lứa tuổi núp trong bụi chuối lén nhìn mọi người ăn uống ra vẻ thèm thuổng lắm!
Tôi thầm nguyện cầu đưỢc trời Phật ban phước cho gia đình má tôi và những gia đình quá khổ đau đầy dẫy trong thôn xóm được no ấm, hạnh phúc. Nếu phải ở trên núi suốt đời và chùa giao việc gì tôi cũng sẽ sẵn sàng gánh vác.
Ngày tháng trôi qua, không có ai nhắc chuyện dắt tôi đi núi Cấm, chắc thấy tôi còn nhỏ và thường hay đau ốm.
Đến lúc tôi lên mười một tuổi, một hôm nghe má bảo “Mai này mỢ Năm sẽ qua dẫn con đi núi Cám”, tôi mừng quýnh. Không biết chuẩn bị sẵn từ bao giờ, má trao ngay cho tôi một chiếc giỏ trong đó quẩn áo,
Tiếng sóng bủa ghénh 27
mùng mền được sắp xếp ngăn nắp, có cả thức ăn chay, xếp giấy bạc, xu lẻ và căn dặn hết sức tỉ mỉ, không thiếu điéu gì:
- Leo núi chớ có kêu than “mệt” mà phải niệm “nam mô a di đà Phật, khỏe” ắt khỏe ngay, nhớ nghen! Ãn ở trong chùa phải nghiêm trang, ngủ thì ngủ với mỢ Năm ở nơi kín đáo, đừng ham nói, coi chừng người ta bỏ thuốc mê rồi dẫn đi mất đó...
Tôi nghe má căn dặn mà đầu thì cứ nghĩ tới chuyện mau mau được đến núi Cám đê’ cẩu nguyện cho má, chắc sẽ thấy nhiều cái lạ, thích quá tôi cười một mình và má mắng yêu:
- Con nhỏ này, đưỢc đi núi coi bộ khấp khởi, cứ cười hoài. Hôm sau tôi thức dậy sớm, đổ đạc vừa chuẩn bị xong thì đã nghe từ dưới bến xuồng giọng mỢ Năm gọi lên:
- Ngỡi ơi, rổi chưa, đi con!
Má đưa tôi ra bến xuổng. Trời kéo mây ngang, đẳng đông ánh hồng ửng sáng, lớp sương mù theo gió lướt trên mặt kênh thành những làn khói trắng trải dài mong manh.
Tôi vừa bước xuống xuồng, mỢ Năm đã chỉ vào chiếc chiếu xếp đôi trải dưới lòng xuồng và bảo:
- Con nằm ngủ tiếp đi, trời còn sớm, đi giờ này cho đỡ nắng. Nhận rõ sự lo lắng của mỢ, nhưng tôi thưa lại:
- Để con bơi mũi phụ mỢ!
Xuồng tách bến, xuôi theo con nước đang lớn lòng tôi rộn ràng vui ra mặt.
Chốc chốc một con cá đớp mổi nghe cái “bủm”.
Tôi không chú ý mà theo dõi sát bờ kênh bắt gặp từng tốp năm ba người lớn có nhỏ có đi dậm dấu để bát cá, người có nơm, người rải chài, kéo lưới, tôi mới cảm nhận hết nỗi nhọc nhằn cùng cái rét lạnh run người mà bà con phải chịu ngày qua ngày.
Mợ cháu tôi bơi xuồng từ Mỹ Quới ra tận Ngã Năm mất gần bốn tiếng đồng hổ, rồi gởi xuồng lên đò máy đi Ngã bảy Phụng Hiệp. Lần đấu ra khỏi nhà đi xa thấy cái gì cũng lạ. Ngã Bảy có cái chợ nhóm trên
28 HỒI ức NGÔ THỊ HUỆ
sống, ghe thuyền chiếc bơi tới, chiếc bơi lui, chiếc đầm ngang, kẻ bán người mua tấp nập. Bỗng mỢ Năm bảo:
- Ghé đây ăn tô cháo đậu rồi đi tiếp con!
Mợ cháu bước qua chiếc tam bản khá rộng, tiến vể phía một bà sồn sổn ngổi chồm hổm trước nồi cháo đụn đặt lên lò lửa cháy riu riu, chung quanh tô chén, đũa muỗng, keo đựng muối mè, dưa mắm bày la hệt, trong đó nổi bật thố nước dừa đặc quánh...
Chờ bà chủ hàng múc tô cháo cho cô gái đang ngồi trên xuồng đậu sát bên mới đến lượt mỢ cháu tôi mỗi người được một tô cháo đậu thơm phức mùi nước cốt dừa. Mợ Năm ăn ngon lành, tôi húp vài muỗng mà mắt không rời quang cảnh xuồng ghe chen chúc tấp nập. Trên mũi chiếc tam bản nào cũng có cắm một cầy sào, treo lủng lẳng những thứ hàng được rao bán như chuối, dừa, bí rỢ, dưa leo, khóm, rau cải v.v... Tôi sực nhớ cảnh má con tôi suốt ngày đội nắng dầm mưa đi bán hàng bông trên kênh Mỹ Quới. Mấy chị bán hàng không ngớt cất tiếng rao bán ngọt ngào: chè thưng, bánh canh, cháo cá, tàu hủ bánh lọt, mì hủ tiếu... Có ông bán chiếu cất tiếng bắt ai cũng phải cười vì lời rao không giống ai hết:
“Ai mua chiếu hôn? Chiếu bông, chiếu trắng, chiếu vàng, chiếu cho hôn lễ đưa nàng dìa^ dinh đầy!”
Theo dõi chiếc ghe chiếu trôi từ từ trên dòng kinh tôi vừa vui tai vừa vui mắt. Cả một vùng sông nước xao động suốt ngày đêm như không bao giờ dứt.
Lót bụng xong, mỢ Năm dẫn tôi ra đón xe đi Cần Thơ, rồi đổi xe về Long Xuyên, đi tiếp đến Châu Đốc. Bấy giờ trời xế chiểu, mỢ cháu tôi kêu xe ngựa vể núi Cấm, Thất Sơn. Phải qua những xóm nhà sàn mới tới đồng trống. Theo con đường đất, đằng xa hiện lên một dãy núi cao. Chiều tà đã về, cảnh vật êm ả có vẻ u buồn. Mợ Năm dắt tay tôi đi trên con đường đất đỏ đá ong, quanh co, lồi lõm. Bắt đầu lên triển núi mỢ Năm căn dặn:
1. Có nghĩa là vé.
Tiéng sóng bủa ghénh 29
- Đi cẩn thận, coi chừng té nghe con!
Tôi vừa than; leo dốc vầy mệt lắm thì chợt nhớ lời dặn của má, tôi sửa liển - ủ a mà không! “Khỏe” lắm mỢ Năm há!
Mợ Năm cười, đứng lại nắm tay tôi, mỢ cháu lần mò đến tối mới lên tới một ngôi chùa, ở đây gọi là “Điện Bù Hông” của núi Cấm. Ngôi điện không lớn lắm mà rất trang nghiêm. Chung quanh điện, những cội cây lớn cành lá sum suê che khuất bầu trời. Giờ này chim chóc đã ngủ. Dài dài hai bên chùa có những nhà nhỏ xíu gọi là am, nơi cầu nguyện dành cho khách thập phương.
Mợ cháu tôi vừa bước vào liền được mấy nhà sư già mừng rỡ chào đón, hỏi han như gặp lại người thán, vì năm nào mỢ cũng đến cúng viếng chùa.
Sau bữa cơm, mỢ cháu tôi được đưa ra ở hai am nhỏ nẳm kế nhau. Có một ông sư rất hiền lành nhìn tôi hỏi:
- Cháu có dám ngồi đây cầu nguyện một mình không? - Dạ... dám. Có mỢ ngổi khít bên mà!
- Cháu giỏi - ông sư khen - chúc phước lành cho cháu. Mợ Năm dặn thêm:
- Con cứ ngổi đầy cầu nguyện trời Phật, chẳng có gì đầu mà sỢ. Mợ cẩu kinh sáng đêm, mỢ ở kế bên đây, có gì thì gọi.
Lạ cảnh lạ người, ban đẩu tôi cũng thấy sỢ sỢ, nhưng nghĩ thương má và mong cẩu nguyện thì má sẽ bớt khổ đau nên tôi yên dạ ngổi cầu nguyện, thấy mỏi thì nằm xuống chiếu trải sẵn, chợp mắt một hồi rổi thức dậy lại cầu nguyện suốt đêm. Hôm sau mỢ Năm dẫn tôi đi ăn sáng ở điện Bù Hông, rồi đưa đi chung quanh xem cảnh vật, được thấy núi non chùa chiền êm ả tôi rát thích. Rỗi những đêm tiếp theo, nhiều lần đang ngồi cầu khẩn, chung quanh vắng lặng bỗng có tiếng xạc xào trên nóc am, tôi mường tượng đó là bước chân của thánh thẩn vể phù hộ cho má tôi. Chờ hoài chẳng thấy ai đến, thì ra đó là tiếng lá rừng rơi. Sau suốt một tuần lễ tôi ngồi “kiết già” cầu nguyện trong am, mỢ Năm dẫn tôi vé. Nhớ má lắm, nhưng phải ra sức cầu nguyện, ngổi kiết già chỉ vi lòng thành mong đến ngày má sẽ đỡ khổ.
30 HỔI ức NGÔ THỊ HUỆ
Vể nhà tôi vẫn ăn chay trường và được mỢ Năm khen là đứa con có hiếu, dám chịu khó, chịu khổ cầu nguyện cho mẹ. Được mỢ Năm khen tôi thấy mừng, nhưng điểu làm cho tôi mừng hơn là niểm tin Phật trời cứu độ chúng sinh và trong chúng sinh chắc sẽ có người mà tôi yêu thương nhất là má. Suốt hai năm trời sau đó, lầu lâu tôi lại xin đưỢc theo mỢ Năm trở lại núi Cấm, ngồi kiết già trong am một tuần lễ. Tấm lòng thành của tôi, một Phật tử, một đứa con mong báo hiếu cho mẹ đưỢc mỢ Năm, các sư sãi trong điện Bù Hông chia sẻ.
Vậy mà năm lụn tháng tàn, sao chẳng thấy cuộc sống của má khá lên chút nào, vẫn cứ phải âu lo chuyện ruộng đồng rẫy bái, cứ hằng ngày phải bơi xuồng đi bán hàng bông mà vẫn thiếu trước hụt sau, đàn con nheo nhóc và thấp thỏm trông đợi ba tôi quay vể. Trong tâm hồn trẻ thơ đang bổng bột, tôi thấy bắt đầu phân vân...
Năm 1932 Mỹ Quới có xây một thánh thất Cao Đài ở gần nhà tôi. Tín đổ đến thánh thất hành lễ mặc toàn đồ trắng, gọi nhau là “đạo hữu”. Đạo thờ Thiên Nhãn, trong khi giảng đạo thầy thường nhắc các tín đồ “thương người như thể thương thản”, giúp đỡ người thân cô thế cô, ăn ở hiển lành. Trong dân gian có lời lan truyền: muốn cầu phước, đến đó mà cẩu, hiệu nghiệm trông thấy! Thoạt đầu đến xem làm lễ, tôi nhìn tín đồ ai cũng mặc toàn đổ trắng, vừa sạch sẽ vừa sáng sủa, cũng hay hay và thấy thích. Mấy bạn cùng lứa được làm đồng nhi, mặc áo dài trắng, quán trắng, lo việc “dâng nước thánh”, làm lễ vừa trang nghiêm, vừa lạ mắt. Đến thánh thất bước đẩu tôi xin làm công quả, rồi dần dần cũng ngổi niệm kinh để cầu ơn trên phù hộ má tôi thoát khỏi cảnh khổ đau. Sau một thời gian tôi cũng đưỢc vào hàng ngũ đồng nhi. Từ đó không trở lại núi Cấm.
Bước vào tuổi mười bốn, tôi được nhập vào đội học trò lễ, thuộc nằm lòng các bài đi đứng, dâng hương, cẩu nguyện đúng lẽ nghi trong đạo. Trong làng tôi có rất nhiểu người và cả gia đình tôi theo đạo bởi ai cũng có góp sức vào việc xây dựng thánh thất.
Mỗi năm đạo tổ chức lễ hội ở nhiểu nơi, và là đổng nhi, học trò lễ tôi được đi khắp các nơi. Đến đầu tôi cũng lại thấy dân nghèo, dần khổ, và nhiều lẩn chứng kiến tận mắt những cảnh khổ đau xé lòng:
Tiéng sóng bùa ghénh 31
đói không cơm ăn, đau không thuốc uống, từ nhỏ không được học, lớn lên dốt nát, hết năm này sang tháng khác quẩn quanh bên miếng ruộng, bên dòng sông mưu cầu cái sống. Sống ở đó, lớn lên ở đó, rồi lấy vỢ lấy chồng, rồi sanh con đẻ cái, lại lớn lên rổi lại cưới gả... Cái vòng lẫn quẩn trong đói nghèo, bệnh tật không sao thoát ra đưỢc. Tôi lại tự hỏi: "Vậy thì mình cầu nguyện để làm gì đây?” Bế tắc chẳng tìm ra đưỢc lời đáp và ước mơ đổi đời cho má cũng ngày một héo mòn.
Trong những năm tháng này mấy anh mấy chị tôi lần lượt lập gia điirh. Các chị bắt đẩu sanh con đẻ cái, tôi được làm dì. Một hôm từ thánh thất về tôi thấy trong nhà có người anh rể, chổng chị Năm tên Trần Văn Bảy (tức Bảy Xệ) gặp mặt anh trong bụng đã thấy giận rồi, bởi nhiều lần bị anh chọc tức, trêu tôi hết đi chùa đi thánh thất, hết mặc đồ lam, màu già theo đạo Phật đến mặc đồ trắng của đức Thầy. Tôi tranh cãi quyết bảo vệ tâm tưởng của mình, nhưng thường là đuối lý trước những lời bài bác của anh. Tức quá chỉ còn biết khóc và đi méc chị Năm.
Có lần anh nói như đinh đóng cột: điều mà dì thành khẩn cầu mong là má đỡ khổ, bà con làng xóm đỡ khổ, ở bên Nga cách mạng thắng lợi đã giải phóng dân tình trên một phẩn sáu quả địa cẩu khỏi cảnh áp bức, được sống tự do, không còn nạn áp bức, bóc lột.
Lần đẩu nghe nói đến “cách mạng”, “áp bức bóc lột” tôi chưa hiểu gì, tuy không hiểu nhưng tôi không cãi lại mà chỉ lắng nghe, nhìn anh với thái độ dò xét và muốn tìm hiểu những điểu anh Năm giãi bày: Hôm đó trông thấy tôi, anh vui vẻ lên tiếng:
- Dì Bảy đi lễ về đó hả?
- Dạ, anh Năm mới tới, chị Năm đầu?
- Chị dì đi trên ngã tư mua đồ sửa soạn đám giỗ. Hổm rày dì khỏe không? Còn đi chùa nữa không?
- Tôi thôi đi chùa lâu rổi, đường đi xa quá. ở đây có thánh thất Cao Đài, đến cầu nguyện ở đó cho gần nhà, mà anh hỏi chi vậy anh Năm? - Tôi có cái nẩy muốn cho dì coi. Coi để biết, nếu có gì khó hiểu cứ hỏi tôi, đừng cho ai biết nghen!
32 HỒI ức NGỔ THỊ HUỆ
- Cái gì mà kín đến vậy anh Năm?
- Thì coi đi, rổi sẽ biết mà!
Nói xong anh trao cho tôi một cuộn giấy để trong bìa một cuốn tập học trò, và còn gạn hỏi:
- Dì đọc chữ đưỢc chớ?
- Anh này lạ thật, chị Năm đọc được, tôi cũng đọc được chớ sao! Hồi nhỏ đã học chung với chị Năm bên ông ngoại kia mà. - Vậy thì hay lắm. Nhưng dì nhớ đừng cho ai biết chuyện này nghen! - Kể cả má à?
- Chớ sao! Bà già thấy đọc mấy cái này bả rầy chết. Thôi, tôi đi đón chị Năm đây! Sáng mai tôi sẽ trở lại, có gì không hiểu cứ hỏi tôi. Nói rồi anh bỏ đi một mạch, tôi thấy là lạ. Tôi vừa đem cuốn tập vô buổng, má đã kêu:
- Ngỡi ơi, xuống phụ má cái này...
- Đi lễ vể mệt quá, con nằm nghỉ chút nghen má?
- ừ, mệt thì cứ nghỉ đi, má làm một mình cũng đưỢc. Tôi đoán má gọi tôi lặt rau nấu canh, nên mò xuống bếp coi má kêu để làm gì, thì quả đúng như tôi nghĩ; một đống đọt bí bày trên bàn. Tôi trở vào buồng, thay đồ rồi vội vàng mở cuộn giấy ra đọc. Trên giấy bìa có dòng chữ: “Về cuộc cách mạng tháng Mười ở nước Nga”. Tôi tò mò muốn biết nước Nga ở đâu? Có dính líu gì tới nước mình mà anh Năm lại bắt mình coi thứ này? Dầu chưa hết giận, nhưng ít nhiều cũng tin anh Năm là người kỹ lưỡng, có gì quan trọng ảnh mới đưa cho mình coi. Vậy là tôi bắt đầu đọc. Một số ý chính về sau được giải thích mới hiểu, và đến nay vẫn còn nhớ:
“ở nước Nga có sự lãnh đạo của lãnh tụ Lenin, giai cấp công nhân nghèo khổ đã làm cách mạng tháng Mười, giành đưỢc chính quyền, xóa bỏ áp bức bóc lột của vua chúa quan lại, địa chủ, tư sản, lập nên một xã hội mới không có người bóc lột người. Nước Nga mới là Liên bang Xô Viết (gọi tắt là Liên Xô) dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô, Đảng của Lenin, mở ra cho loài người con đường giành tự do, đem lại quyển lợi thiết thực “người cày có ruộng” v.v... Sau cùng
Tiếng sóng bủa ghénh 3 3
Vladimir llyich Lenin, người thầy vĩ đại của cách mạng vô sản.
CÓ cầu: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!” “Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm”.
ở tuổi mười lăm, đẩu óc non nớt chưa hiểu gì về chính trị, nhưng cuốn tập cũng gỢi sự tò mò háo hức muốn được biết về cái xã hội đó. Tôi đọc đi đọc lại mấy lần cuốn tập anh Năm đưa mà chẳng hiểu gì thêm. Suy đi nghĩ lại những tháng ngày mình thành kính đi lên núi Cấm ngồi kiết già hằng đêm, đi đạo Cao Đài cầu nguyện ơn trên... mà sao chưa thấy
điều mình mong đợi. Nước Nga làm “cách mạng”, “cách mạng” là như thế nào mà người dân hết khổ?
Tôi không ngủ được, cứ nằm trân trọc mong cho trời mau sáng, để chạy đi tìm anh Năm. Tôi liền nghĩ: nếu có đưỢc một xã hội như ở Liên Xô chắc má và bà con nghèo sẽ đỡ khổ biết bao! Trong những điều thắc mắc tôi không hiểu câu “Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm!” “Đảng Cộng sản” là gì? Nước mình có Đảng Cộng sản” rồi sao?
Hôm sau tôi dậy thật sớm, sửa soạn xong xin má xuống nhà chị Năm, cách nhà má gần chục cây số. Tôi lấy nón lá vừa ra đường đã nghe có tiếng gọi;
- Đi đâu đó dì Bảy?
Mừng quá tôi la lớn:
- Đi tìm anh đây! Anh còn đến những nơi nào mà đi bằng xuồng? - Đi công chuyện, tính ghé rủ dì cùng đi đây.
Xuổng tấp sát bờ kênh, tôi nhanh nhẹn bước xuống, và anh bơi đi. Không chờ tôi nói gì, anh hỏi ngay:
- Dì đọc hết cái đó chưa?
- Đọc rồi, đọc đi đọc lại nhiều lần nữa.
34 HỔI ức NGÔ THỊ HUỆ
- Dì thấy thế nào?
- Có nhiều điểu chưa hiểu đầu, phải hỏi anh đã. Nước Nga là ở đâu anh Năm?
- Thì là ở nước Nga chớ ở đâu!
- Vậy nước mình có làm đưỢc như nước Nga không?
Có vẻ suy nghĩ một lúc, anh Năm nói một hơi:
- Dì còn nhỏ nên chưa biết. Nước Việt Nam mình đã có Đảng cộng sản lầu rồi. Từ khi có nhà cách mạng Nguyễn Ái Qụốc, đã từng bôn ba ở hải ngoại để tìm đường cứu nước,
nghe nói ông có đọc sách của Lenin.
Gặp lúc cách mạng tháng Mười
Nga thành công, ông càng thấy con
đường cứu nước cứu dân, đánh đuổi
thực dần Pháp, giành độc lập cho
nước nhà là đúng. Về ở Trung Quốc
ông tập hỢp các lực lượng yêu nước
ở nước ta, lập ra Thanh niên Cách
mạng đổng chí Hội, thống nhất ba
Đảng cộng sản ở ba kỳ hợp thành
Đảng cộng sản Đông Dương, vận
động đồng bào làm cuộc cách mạng
giải phóng dần tộc theo con đường của cách mạng tháng Mười Nga. Ngừng một chút anh nói tiếp: - Tôi thấy dì rất thương má, tối
Sau Đại hội 5 Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu lo xây dựng phong trào cách mạng Việt Nam.
ngày đi cầu trời khấn Phật cho má đỡ khổ, tôi thương quý dì lắm. Nhưng dì nghĩ coi, còn ách áp bức bóc lột của thực dân phong kiến thì làm sao mà giải khổ cho dần mình được. Thương má thì dì phải theo làm cách mạng. Cách mạng có chủ nghĩa, có đường lối, có Đảng lãnh đạo, nhất định sẽ thành công. Chẳng những bản thần mình mà toàn dân ta sẽ được ấm no, hạnh phúc. Làm cách mạng mới đánh đổ được thực dần phong kiến và bọn làm giàu trên xương máu đồng
Tiéng sóng bủa ghénh 35
bào mình. Anh Năm nói thao thao bất tuyệt, và tôi không ngờ sao mà anh biết nhiều điều như vậy. Tiếc sao anh không nói cho tôi nghe sớm hơn.
Tôi hỏi anh:
- Nếu muốn tham gia phong trào thì phải làm sao?
- Dì suy nghĩ kỹ đi, nếu dì quyết tham gia thì tôi sẽ giới thiệu... - Bộ anh cũng có chân trong phong trào à?
- Đâu phải chỉ mình tôi, mà bà con bên mình đã có nhiểu người tham gia rồi. Sau này dì sẽ biết.
- Vậy anh giới thiệu tôi đi. Suy nghĩ một mình, không được dìu dắt thì tìm đâu ra hướng, phải không anh Năm?
- Nếu dì quyết tâm, tôi sẽ báo cáo với tổ chức. Dì suy nghĩ thêm đi, chờ tin của tôi. Nhớ đừng cho ai biết. Ngày mai tôi còn đem tiếp nhiều tài liệu khác cho dì đọc. Phải suy nghĩ cho chắc, đã quyết đi thì đi đến cùng đó nghen!
Trò chuyện đến đây, sau này mới biết hôm đó tôi được anh Năm “tuyên truyền Đảng”. Anh Năm ghé xuổng cho tôi lên bờ rồi quay mũi trở lại nhà.
Nắng lên mỗi lúc một nóng ran, nóng ngoài trời, nóng trong lòng tôi, càng thấy nóng được hiểu biết vể “Đảng” về “cách mạng”, khiến tôi đứng tần ngần nhìn theo, đôi tay anh ấn mạnh mái dầm xuống nước, bóng anh tỏa một vùng rộng trên mặt kênh. Tôi thấy dường như anh Năm lớn hơn ngày thường và thân thiết hơn...
36 HÓI ữc NGÔ THỊ HUỆ
II. Ánh sáng chân lý - dấn thân
Được nghe anh Năm “tuyên truyền cộng sản” tôi càng tin tưởng
và kính mến anh hơn. Anh cho tôi đọc tiếp nhiểu bài bí mật, những tài liệu in xu xoa, rồi giải thích những câu chữ, những điểu tôi hỏi. Sau gần một năm tôi thấy được lịch sử từ thời vua Hùng dựng nước có biết bao thời kỳ oanh liệt và cũng bắt đẩu nhận ra gần một trăm năm nay chính sách cai trị tàn bạo của thực dần Pháp câu kết với bọn quan lại tay sai và điển chủ gian ác, đó mới là cội nguồn của mọi khổ đau, bất hạnh của người dân trong đó có gia đình má con tôi, chớ đâu có phải do số phận gây ra. Tôi cũng dẩn hiếu ra vì sao ngoại tôi phải đùm bọc nhau rời bỏ nơi chôn nhau cắt rún quê Càng Long lặn lội đi lập nghiệp tận trên đất Ba Xuyên.
Lên mười sáu tuổi, dáng vóc của tôi cao ráo, không còn đau ốm rể rề. Từng bước, từng bước anh Năm hé ra tình hình hoạt động bí mật của nhiều anh chị cùng trang lứa và lớn tuổi hơn tôi do anh dìu dắt làm cho tôi thấy háo hức cũng muốn được hoạt động như các anh chị đó.
Tôi ao ước được anh Năm sớm giao công việc như những anh chị Tiéng sóng bủa ghếnh 37
thường được anh nhắc đến; sao thấy anh cứ im thin thít; chớ hề để ý giao công tác gì cho tôi.
Không biết anh Năm có nói với má điểu chi chưa, mà một hôm má gọi hỏi:
- Bầy giờ con lớn rỗi mà vóc dáng ốm yếu, biết làm gì để nuôi thân sau này. Năm nay nhà mình được mùa đỡ lo; má với anh Hai con tính cho con đi học may học thêu cùng với con cậu Năm để có cái nghề. Ngữ như bây ruộng nương làm sao nổi; con tính sao?
Tôi phân vân trù trừ một lúc, lo đi học không biết có ảnh hưởng tới công việc mà anh Năm rồi sẽ giao cho không? Tính tới tính lui nảy ra ý nghĩ nếu có một nghể cũng tốt; đi đầu cũng sẽ sống được. Má tôi giục:
- Con có chịu không? Nếu chịU; má cho đi Bạc Liêu kiếm chỗ mà học cho có nghê' rồi trở vể đây làm ăn, khỏi phải đi đầu xa. Tôi tỏ vẻ đồng tình; má vui lắm. Nghe tôi kể lại chuyện này anh Năm ủng hộ ngay và còn nói thêm: “trong tay có cái nghể làm ăn càng thêm thuận lợi để công tác”. Tôi mừng quá và càng mừng hơn khi nghe anh Năm cho biết:
- Tôi đã báo cáo với “tổ chức” rồi; anh chị em ai cũng vui lắm, và dì được nhận vào tổ chức ngay ở đầy.
Thì ra ở đầy cũng có “tổ chức” vậy mà mình không hể biết. Sáu bảy ngày sau, chị Năm Giảng - chị em cô cậu - cùng tôi ra Bạc Liêu, nhờ có người quen với má giới thiệu. Tôi được học may thêu ở tiệm Mỹ Vân, thợ toàn là nữ; chuyên may thêu trang phục phụ nữ. Qua mấy ngày học việc, thật là mừng khi nhận ra mấy dì; mấy chị tỏ ra thương mến tôi. Sau một năm học tập, tay nghể đã khá; hai chị em lại đưa nhau vể quê. Để xem tôi học kết quả đến đầu, gia đình bảo tôi thêu thử màn, rèm cửa để treo trong nhà; không dè tay nghề của tôi cũng khéo, cả nhà rất vui mừng.
Vào giữa tháng tư năm 1936; anh Năm về Mỹ Quới; vừa gặp tôi đã bảo:
- Dì đi vô nhà đi; tôi báo cho dì tin nẩy.
38 HỔI ức NGỔ THỊ HUỆ
Má tôi đang nấu cơm, mấy anh chị tôi đang ở ngoài ruộng, tôi rửa mặt rồi chạy vội ra nhà trước. - Tin gì vậy anh Năm?
- Tổ chức quyết định cho dì đi học một khóa huấn luyện khoảng mười ngày. Dì chuẩn bị đi ngay, địa điểm sẽ báo sau.
Ngưng một chút để thăm dò thái độ của tôi, anh nói tiếp:
- Học xong, chắc dì sẽ được kết nạp vô Đảng luồn đó! Hãy cố gắng nghen!
Nghe được đi học, được chú ý bồi dưỡng để kết nạp vào Đảng, tôi nửa mừng nửa lo, mừng là qua một thời gian thử thách tôi đã làm tốt mọi
Trần Văn Bảy (Bảy Xệ)
là anh rể (chổng chi Năm),
đổng thời là người dẫn dắt cô em vợ theo con đường cách mạng.
công tác được giao, lo là khi chánh thức đứng vào hàng ngũ Đảng, mình sẽ có đủ sức hoạt động cho xứng đáng là một đảng viên chưa? May làm sao, lớp học tổ chức ngay tại nhà tôi. Theo học còn có các anh Trần Văn Thành tự Hồng Dân, Sáu Hải, Ngô Tám tự Tùng, Hai Phú đểu là bà con cả. Cán bộ cấp trên có anh Năm tôi là Trần Văn Bảy và anh Ba Qụản Trọng Hoàng.
Trong ngày đẩu anh Ba Hoàng đứng lớp đã làm cho học viên từ ngạc nhiên đến thích thú vể vốn hiểu biết của anh: giới thiệu thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga, điểm qua tình hình thế giới và trong nước, chi rõ mầu thuẫn trong chế độ tư bản, đế quốc, vai trò và ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản.
Câu chữ, ý tứ do anh truyển đạt thật mới mẻ và dễ hiểu khiến cho tôi càng nghe càng thêm tin tưởng anh và qua anh mà tin tưởng Đảng. Nhiểu lần anh nhắc tới Nguyên Ái Quốc, một thanh niên giàu lòng yêu nước từng bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước, cứu dân, là
Tiếng sóng bủa ghénh 39
người lập ra Đảng cộng sản, đang kêu gọi toàn dân đoàn kết làm cuộc cách mạng giải phóng quê hương, dân tộc.
Dẫu đã có nghe anh Năm kế rổi, naỵ được anh Hoàng giới thiệu cặn kẽ vể Nguyễn Ái Quốc tôi càng kính phục biết bao vị lãnh tụ của Đảng. Láng nghe giảng bài như nuốt từng chữ, từng lời, càng hiểu ông Nguyễn, càng tin và khảm phục các anh dám dấn thân cống hiến tuổi thanh xuân cho quê hương đẫt nước. Các đồng chí, những người đàn anh của tôi ơi! Tôi phải làm gì đầy cho xứng với công lao dìu dắt của các anh, để không phụ lòng tin của các anh dành cho đứa con gái quê mùa này?
Khóa học rất ngắn ngủi, những bài học vỡ lòng dành cho đảng viên mới đưỢc kết nạp tuy tóm lược, nhưng đề cập nhiều môn học như sử Việt Nam, so với nội dung được nghe anh Năm kể trước đây thì nay thấy có lớp lang hơn, nhiều trang sử rất vẻ vang... Môn học duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; giai cấp và giai cáp đấu tranh; điểu lệ Đảng và năm bước công tác (điểu tra - tuyên truyền - vận động - tổ chức và đấu tranh).
Mười ngày học trôi quá nhanh. Những điều tiếp thu đưỢc quả là những hành trang ban đầu không thể thiếu được. Qua mỗi chặng đường tiếp theo, vốn hành trang đó được hiểu sầu hơn, chín chắn hơn và tiếp tục đưỢc bổ sung hành trang mới trên con đường dài học làm người cách mạng Việt Nam.
Sau lớp học các anh tổ chức lễ kết nạp đảng viên mới và lập ra chi bộ tự động công tác. Tôi không làm sao quên được hôm đó, vào một buổi sáng của tháng năm năm 1936, trong căn nhà lấy làm lớp học, kê sát vách một cái bàn nhỏ, bên trên có dán một tấm giấy khổ rộng nổi lên dòng chữ “Bàn thờ Tổ quốc”, trên bàn có chưng một bình bông vạn thọ vàng và mấy bông mổng gà màu đỏ; lá cờ đỏ búa liềm - cờ Đảng treo cao trên vách. Hai hàng ghế đầu dành cho anh Năm tôi (tức anh Trẩn Văn Bảy) và anh Quản Trọng Hoàng là hai đổng chí giới thiệu người sẽ đưỢc kết nạp vào Đảng. Nhân danh cấp trên, anh Hoàng đọc quyết định kết nạp đảng viên mới gổm có: Hồng Dần, Ngô Tám, Sáu Hải, Hai Phú và tôi.
40 HỔI ức NGÔ THỊ HUỆ
Đứng trước cờ Đảng và bàn thờ Tổ quốc tôi bồi hổi xúc động đến ứa nước mắt, đưa thẳng cánh tay lên tuyên thệ: “Xin thể tuyệt đối trung thành với Đảng, với chủ nghĩa cộng sản, nguyện dâng trọn cuộc đời cho cách mạng, xin thể cùng với các đồng chí sẵn sàng hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giải phóng giai cấp, giải phóng dần tộc”.
Trở lại cuộc sống thường ngày như mọi khi, mà trong lòng vẫn không nén được niềm vui khó tả: được làm người đảng viên cộng sản! Từ nay, tôi tự nhủ phải phấn đấu làm việc với một tinh thẩn mới, năng nổ, tự tin hơn, có trách nhiệm, thấu hiểu cái khổ của đổng bào như nỗi khổ của chính mình.
Bước vào công tác thực tế, bài giảng của đổng chí Hoàng vể “Năm bước công tác” rất bổ ích cho tôi. Đặc biệt nhớ những lời đồng chí quan tâm nhắc đi nhắc lại: “Trong công tác không sao tránh đưỢc điểu bất trắc, hiểm nguy, mất liên lạc với tổ chức, đảng viên phải biết ứng phó, tiếp tục hoạt động, tiếp tục đấu tranh, tổ chức sẽ tìm kiếm nối lại liên lạc”. Sinh hoạt ở chi bộ Mỹ Quới tôi hăng say làm công tác tuyên truyền, vận động thành lập những hội quần chúng như tương tế ái hữu, vần công đổi công trong làm ruộng rẫy, gầy cơ sở mới ở địa phương. Nhưng sao cứ thấy nôn nao muốn đưỢc thử thách nhiều hơn, muốn được hiểu biết nhiều hơn. Cơ may lại đến với tôi.
Một hôm má gọi tôi lại gỢi một ý mới:
- Má mừng thấy tay nghề của con như vậy cũng là được rổi, thử tính tìm ở đâu để mở tiệm may thêu làm ăn lâu dài. Nếu con chịu, má sẽ bàn với máy anh chị lo cho.
- ở vùng này thưa người con sỢ ế quá!
- Vậy bây tính coi ở đâu được?
Tôi còn phân vần thì má nói tiếp:
- Bên Vĩnh Phú, chỗ nhà chị Năm con, được không?
ở đó chợ búa đông người dễ có khách hàng, lại thêm gần nhà chị con thì tiện lắm!
Chợt lóe trong đẩu tôi một ý nghĩ: nếu mở tiệm may ở chợ Vĩnh Phú thì tốt quá, sẽ có đông khách, và khi anh Năm giao công tác mình sẽ hoạt động xa nhà, khỏi để má lo lắng.
Tiéng sóng bủa ghénh 41
Chưa đầy một tháng sau, chị Năm lo mướn được một căn phố bên hông chợ, rộng chín thước vuông tạm đủ mở tiệm may thêu. Niểm vui thật không sao diễn tả nỗi khi được má mua cho máy may Singer có hình con tắc kè dưới chân máy. Tôi thấm nghĩ, việc làm ăn mà có cơ phát đạt thì công tác chắc tiến triển thuận lợi.
Đoán trước tôi mới ra làm ăn, hẳn không khỏi bỡ ngỡ, nên anh Năm giới thiệu chị Tư Ngoạt một người bạn có tiệm may bên kia đường nhờ giúp đỡ tôi. Chị Tư lớn hơn tôi vài ba tuổi, người trầm tĩnh, nói năng duyên dáng, giao tiếp khéo léo. Anh Năm còn dặn thêm:
- Dì mới ra làm ăn chưa quen biết ai, tôi có gởi gắm chị Tư coi dì như em trong nhà, có gì bảo ban nhau, dì đừng ngại.
Ngừng một chút rồi anh Năm nói nhỏ:
- Chị Tư Ngoạt là tù chính trị vừa mới mãn hạn vể đây sinh sống để nhận công tác trở lại.
Tôi xem chị Tư như chị ruột. Chị dẫn dắt tôi trong công tác thực tế như tổ chức cơ sở mới, tranh thủ tề xã để họ làm ngơ, không dòm ngó theo dõi người của ta, liên lạc với các cơ sở trong vùng để truyền đạt chỉ thị, nghị quyết...
Tôi ráng lo may thêu cho vừa lòng khách để kiếm tiển làm ăn sinh sống như người dân thường và cũng có thêm tiển đóng góp mua giấy mực in tài liệu.
Vào giữa tháng tám năm 1936 anh Năm đem về một xấp tài liệu dịch từ mấy tờ nhựt trình’ tiếng Pháp bảo hai chị em đọc, và còn nói thêm:
- Còn có nhiều bài hay lắm, nếu ta phổ biến được rộng rãi thì tốt biết bao, viết bằng tiếng Pháp thì phải dịch ra chữ quốc ngữ, mà ta lại không có người, khó khăn phức tạp lắm!
Tôi rất say mê đọc tin tức vể các phong trào đấu tranh tại nhiều địa phương đòi dần sinh, dân chủ, đòi đại xá tù chính trị đang lên rất mạnh. Đặc biệt có một tài liệu rất hấp dẫn, đó là lời kêu gọi mở Đông
1. Tờ báo ở Nam bộ được gọi là “nhựt trình”.
42 HỐI ỨC NGÔ THỊ HUỆ
Dương đại hội do Nguyễn An Ninh ký tên đưỢc đăng trên nhựt trình L a Lutte (Tranh đấu) tháng bảy năm 1936, yêu cẩu phải có đại diện của tất cả các giai cấp để thảo ra một bản dần nguyện bao gồm những yêu sách của các dân tộc Đông Dương.
Tôi đọc đi đọc lại nhiều lần vì lối viết dễ hiểu, gãy gọn, các điểm nêu ra rất hỢp với ý muốn của đông đảo đồng bào ta. Càng đọc tôi càng mến mộ, kính trọng người viết lời kêu gọi họp Đại hội Đông Dương. Có những việc thắc mắc phải nói với anh Năm mới được.
Khi anh Năm ghé tiệm may, tôi hỏi liển:
- Anh Năm, ông Nguyễn An Ninh là ai vậy?
Giọng viết của ông ấy sao tôi thấy như của đàng mình. Ngoài Đảng ta chưa tháy ai đặc biệt chăm lo quyền lợi của lao động, công nhân, nông dần như ông. Tôi nghi ông là đảng viên, đồng chí mình quá! Anh Năm cười mỉm, nói nửa đùa nửa thật:
- Thì cứ coi là đảng viên cũng được chớ sao!
- Anh này! Tôi hỏng biết, hỏi thật lòng, sao anh nói lấp lửng vậy? - Tôi chỉ nói những điểu tôi biết qua nhựt trình và cấp trên giới thiệu, Nguyễn An Ninh là trí thức Tầy học^ yêu nước, sau khi đậu cử nhân luật ở Pháp trở vể ông rất quan tâm thu hút trí thức trẻ và rất coi trọng, giác ngộ chính trị cho lao động, công nhân, nông dân... chọn những người ưu tú nhất đưa vào “Thanh niên cao vọng Đảng” để sau này giới thiệu cho Đảng ta. ông có tài hùng biện và viết nhựt trình bằng tiếng Tây rất giỏi. Từ năm 1926 ông cho ra tờ Chuông rè (La Cloche Pêlée) bằng tiếng Pháp, kịch liệt tố cáo chế độ thuộc địa, chống áp bức bất công, đòi tự do dần chủ, nâng cao dần trí. Suy nghĩ và hành động như vậy nào có khác gì người cộng sản đầu! - À! Tôi hiếu được rổi. Khâm phục ông là phải quá!
Anh Năm còn dặn thêm:
- Dì đọc nhựt trình cũng biết rồi đó, hiện thời Mặt trận Bình dân
1. Theo học văn hóa Tây phương tại trong nước hay có học ở các nước phương Tây, lửiất là trên nước Pháp thường gọi là Tây học.
Tiéng sóng bùa ghénh 4 3
Pháp chống phát xít vừa thắng cử. Léon Blum thuộc Đảng Xã hội cầm đầu chính phủ mới, tìm cách xoa dịu sự phẫn uất của dân thuộc địa, chủ trương bãi bỏ một số luật lệ quá khắc nghiệt, ra lệnh ân xá tù chính trị, nhờ vậy một số tù chính trị hoạt động “quốc sự'’ mới lần lượt được trả tự do.
Nghe anh Năm hào hứng giải đáp thắc mắc, tôi thấy vỡ lẽ nhiều chuyện, thêm mến anh Năm và thầm nghĩ mình còn phải tìm đọc tài liệu, sách báo và học hỏi nhiểu hơn nữa ở anh.
Anh Năm đã từ giã, nhưng có lẽ thấy tôi hôm nay hớn hở ra mặt, nên quay lại nói thêm:
- À! Tôi nói thêm cho dì biết sau khi Nguyễn An Ninh có lời kêu gọi mở Đại hội Đông Dương, Trung ương Đảng liền lên tiếng ủng hộ và có nêu những yêu sách như là chương trình cho Đông Dương đại hội, Đảng chủ trương lập ủ y ban hành động, phân công đảng viên làm nòng cốt, đặc biệt là các tù chính trị vừa đưỢc trả tự do... Tôi tin rồi đây phong trào Đông Dương đại hội sẽ lên vù vù cho mà coi! Thôi tôi về nghen!
Đầu có ngờ trước đưỢc
Một hôm sau buổi họp chi bộ, anh Năm bảo tôi ở lại để bàn mấy việc. Tôi vội hỏi ngay:
- Có việc chi gấp lắm sao, phải không anh Năm?
- Việc quan trọng, mà dì hãy ngồi xuống đi!
Anh Năm cứ rể rà rót nước uống, tôi phải hối thúc mấy lần anh mới mở miệng:
- Tôi nói chuyện này, dì hãy thử tính xem sao rồi nói cho tôi biết! - Có việc gì anh Năm cứ nói phứt ra đi.
- Mấy lúc gần đây anh Ba Hoàng có tầm sự với tôi, tỏ ý muốn “xây dựng” với dì. Thương dì lắm nhưng chưa dám nói ra.
- Sao kỳ vậy anh Năm? Ảnh là cấp lãnh đạo mà!
- Lãnh đạo là chuyện công tác giữa cấp trên và cấp dưới, còn việc 44 HỔI ức NGÔ THỊ HUỆ
yêu thương là chuyện tình cảm, việc tìm hiểu giữa người con trai và người con gái, Đảng có cấm ky đáu!
Tôi chợt thấy như mình hụt hẫng. Với tôi, anh Ba Hoàng là hình ảnh cao đẹp của một người cộng sản, chỗ dựa tinh thán... Bỗng nhiên như sụp đổ! Trong thầm tâm, tôi đinh ninh người đảng viên phải suốt cuộc đời phụng thờ lý tưởng cao vời mà mình theo đuổi. Làm sao có thể tính đến chuyện có vỢ có chồng như người dần thường khi mà đất nước chưa đưỢc giải phóng, cách mạng chưa thành công! Giữa lúc bà con ta còn đang chịu nhiều áp bức đè nén, phong trào mới nhen nhúm nhờ có sự nỏ lực đấu tranh, chấp nhận gian khổ hy sinh của bao đồng chí, ta đâu có quyển nghĩ tới chuyện riêng tư!
Tôi dằn lòng hỏi anh Năm:
- Có phải anh Ba Hoàng coi thường tôi hay muốn thử lòng tôi? - Không phải đâu, anh Ba thương dì thiệt đó mà! Tôi phải nói cho dì biết, má, mấy dì còn đốc thêm vô nữa đó!
- Ngoài chuyện này, còn chuyện công tác có gì mới không anh Năm? - Giữ dì ở lại chỉ để nói có việc đó thôi.
- Vậy tôi vể.
Tôi quày quả ra đi không nói lời từ giã, sỢ nấn ná rồi không tự kểm chế đưỢc sẽ làm anh Năm buồn.
Tôi đi như bị ma đuổi, trong trí nảy ra một quyết định mà tôi tin là sáng suốt. Khi tôi về đến tiệm may, vừa bước vô chị Tư đã bắt gặp ngay nét mặt đăm chiêu buổn bực của tôi, chị liền đi ngay lại nhìn vào đôi mắt tôi, rồi nắm tay kéo tôi vào buồng.
- Có chuyện gì vậy Bảy? Sao em lại khóc?
- Dạ không, bụi vô mắt thôi! Chẳng có chuyện gì đầu chị Tư. Họp cả buổi, em thèm đưỢc ngả lưng một chút, chị yên tầm. Không đợi chị trả lời, tôi vội lên giường nằm, đẩu óc rối bời. Ngoài trời nắng đã dịu, đâu đây văng vẳng tiếng ru con u buồn... Tôi cứ nằm hoài không nói không rằng, khiến chị Tư đoán chắc tôi đang gặp chuyện gì rắc rối rổi. Chị thân tình vặn hỏi, tôi lặng im, mà nói thế nào đây? Nếu phải nói thì làm sao giấu được. Giờ đây
Tiễng sóng bủa ghénh 45
trong lòng mình đã sụp đổ thần tượng người cộng sản Quản Trọng Hoàng chỉ vì anh có ý muốn... nghĩ như vậy chắc là đúng chưa? Mà không nói ra thì ấm ức quá! Cứ mỗi lẩn nghĩ tới anh Hoàng là lòng tôi rất khó chịu, thật tình tôi chẳng muốn gặp lại anh và cũng không muốn nấn ná ở đây nữa. Ngày qua ngày, ý định thoát ly gia đình đi hoạt động ở một nơi khác xa xôi đã như được khẳng định trong tôi... và nếu đi thì đi đâu đầy? Chi bộ làng Mỹ Quới này đối với tôi gắn bó thân thuộc biết bao. Không kể hai đổng chí cấp trên là anh Năm Trần Văn Bảy (Bảy Xệ) và anh Hoàng, còn lại đều là người trong thân tộc: anh Trần Văn Thành (tức Hổng Dân) là con cậu Năm tôi, anh Huỳnh Chí Phú là con di Tư tôi, Ngô Văn Tiên (tức Tùng), con dì Bảy tôi, anh Ngô Văn Nghĩa (tức Ngô Hồng Hải) là anh ruột thứ sáu của tôi và tôi là Ngỡi bí danh Nhiên. Các anh trong chi bộ quan tâm giúp đỡ tôi về mọi mặt, nếu phải rời nơi đây tôi luyến tiếc lắm. Nhưng lòng đã quyết, một hôm tôi đành phải kể hết chuyện này cho chị Tư biết. Chị chăm chú lắng nghe, không đốc vô mà cũng chẳng bàn ra chuyện anh Hoàng, chỉ góp ý vể ý định của tôi muốn thoát ly.
- Em muốn đi hoạt động nơi khác thì vể Trà Vinh với chị. Trà Vinh là quê ngoại của em, và Càng Long còn là một cái nôi cách mạng, phong trào đang lên, có nhiều đồng chí cùng hoạt động trước khi chị bị bắt. Em thấy có hỢp với em không? Nếu đến chỗ xa lạ nào khác không khéo lại sẽ bể bạc...
Tôi băn khoăn hỏi ngay:
- Chị có cùng đi với em không?
- Đi chớ! Nơi đó là quê nhà của chị mà. ở đây lâu nay chỉ vì để lánh mặt một thời gian thôi. Mới ở tù ra bị tụi nó quản thúc tại gia, theo dõi sát, khó hoạt động lắm. Nay tình hình cũng đã lắng xuống, trở vể bắt liên lạc lại với tổ chức cũ chắc thuận lợi thôi. Lâu rổi chị chưa vể thăm má lẩn nào, lần này vể có chị có em càng thêm tiện lợi.
Đang chới với, được chị Tư mở lối ra, tôi nói ngay không nghĩ ngợi gì:
- Được, em đi với chị, chắc nghen!
46 HỐI ức NGỎ THỊ HUỆ
- Sao lạ i k h ô n g chắC ; c h ỉ n g ạ i l i ệ u em có dám bỏ má ở đây mà đi được k h ô n g ?
- Tất nhiên xa má sẽ buồn lắm, nhưng đổi lại sẽ dễ chịu hơn vì khỏi phải nghĩ tới “cái chuyện ông Hoàng”.
Tôi vể Mỹ Quới, đem chuyện này nói lại với anh Hổng Dân, là bí thơ chi bộ. Lúc đầu anh không khỏi ngạc nhiên. Khi tôi giãi bày tâm sự: nếu cứ ở đây mà đầu óc cứ lướng vướng sỢ ảnh hưởng đến công tác, còn qua Trà Vinh sẽ có điều kiện cho tôi học hỏi thêm với các anh chị em ở bên đó, là cái nôi cách mạng, ai cũng biết, có gì đâu phải lo?
Chi bộ rất thông cảm “tâm sự” của tôi, nhất trí chấp nhận là cho tôi lên đường. Trong những ngày chị Tư Ngoạt chuẩn bị thu xếp gấp rút tiệm may và chờ dịp thuận lợi đi vê' Trà Vinh, tôi rất băn khoăn có nên giấu má chuyện đi Trà Vinh không? May quá, tôi nảy ra một “lý lẽ” chắc má sẽ “xiêu lòng” nên liền thưa với má:
- Gần đầy, làm ăn ế ẩm, khách hàng thưa dần. Sẵn chị Tư Ngoạt trở về sống với má chị ở Càng Long, má cho con đi theo chị, trước cho biết quê ngoại, và nghe chị Tư nói ở Càng Long đông khách lắm. Về bên đó mà mở tiệm, may ra mới khấm khá được.
Chắc phần nào má cũng đoán ra được ý định đi của tôi, nên chậm rãi nói:
- Anh Năm bây có nói cho má nghe chuyện của Ba Hoàng và hỏi ý kiến má. Má biết tính sao đây? Đó là chuyện duyên phận của con, tự bây chọn lựa, má không ép. Má thấy Ba Hoàng là người tốt, có học, gia đình người ta ai cũng làm cách mạng. Anh Năm có cho biết, người anh của Ba Hoàng tên Linh, quê Bến Tre, nhà khá giả, do theo cách mạng mới ba chìm bảy nổi. Hai anh em Linh, Hoàng hoạt động bị bể bạc, Tây nó tìm bắt, Ba Hoàng chạy qua đây, anh Hai nó vẫn lặn lội ở bển. Hai anh em đểu bị lục tống' trốn chui trốn nhủi. Nghe vậy má cũng thương. Chuyện là chuyện riêng của hai đứa, má không xen vô, tụi bầy tính sao đó thì tính.
1. Nghĩa là tập nã.
Tiéng sóng bủa ghénh 4 7
Để má yên lòng; tôi thỏ thẻ:
- Thôi; đừng vội nói chuyện đó má à! Con mới ra làm ăn, chờ con bay nhảy một thời gian, chuyện gia thất sẽ tính sau. Con mừng má thương không ép con, chớ lấy chồng ở tuổi này khổ cho con lắm!
- Nói cho bầy biết thôi (rồi má nhỏ giọng thầm th ì): chừng nào tính đưỢc thì tính, nếu có thương ai thì báo vể cho má biết! - Chưa và sẽ không thương ai hết. Con má đang ăn chay trường, má không nhớ sao? Thôi vậy nghe má, kỳ này con đi với chị Tư Ngoạt vể Trà Vinh, má chịu nghen!
Má tôi làm thinh, không nói không rằng nhưng thấy rõ má buồn lắm!
Được chi bộ chấp nhận, má đã biết rồi, trong lòng tôi thấy như nhẹ nhõm, chỉ chờ ngày lên đường.
Thuở đó tàu Nguyễn Văn Kiệu lên xuống Sài Gòn - Cà Mau, dọc đường có ghé nhiều bến rước khách và chở hàng hóa... Cứ vài ngày có chuyến ghé lại Vĩnh Phú rổi đi Cà Mau. Xem lịch tàu đến tàu đi, chị Tư và tôi đã sẵn sàng đồ đạc lên đường.
Thêm một ngày đáng ghi nhớ: vào cuối tháng một năm 1937, ngày hai mươi bốn tháng Chạp năm Bính Tý (Tết Đinh Sửu sắp đến rồi), từ tờ mờ sáng má bơi xuồng đưa tôi ra chợ Vĩnh Phú, nghỉ ở nhà chị Năm để sáng sớm lên tàu. Cuối đông trời còn lạnh lắm. Má mặc bộ bà ba đen vải ú, đẩu quấn khăn rằn, ngồi lái bơi, còn tôi ngồi trước mũi cầm dẩm bơi phụ. Má làm thinh, chắc buồn lắm. Con nó đã có ý muốn như vậy, thương con nên phải chịu, vì không đành lòng cản ngăn. Theo mái dầm buông lơi trên dòng nước, chiếc xuồng lặng lẽ lướt tới, thỉnh thoảng một cơn gió tạt qua, xuổng chao đảo, gỢn sóng trào đầy bọt trắng... Nhớ ngày nào cùng đi với má bán hàng bông dọc kênh Mỹ Quới, lòng tháy nao nao. Biết nói gì với má trong giây phút này? Những gì cấn nói, cần xin má đã rõ rồi. Nghĩ tới nhiệm vụ mới của một đảng viên trên chặng đường phía trước, còn biết bao thử thách... Lòng tôi tự nhủ, hãy can đảm lên, hãy cố nén tình cảm thông thường của người con gái phải xa người mẹ như má, người mẹ hết
48 HỔI ức NGÔ THỊ HUỆ
mực thương con nhưng không bao giờ cản ngăn bước tiến của con mình. Suốt đêm đó nằm bên má; tôi không chợp mắt, nghe má thỉnh thoảng thở ra... Rồi đêm cũng qua, trời hửng sáng; má gọi tôi dậy. Trong nhà, anh chị Năm cũng đã dậy. Không ai nói gì, trìu mến nhìn tôi như gởi gắm niềm tin.
Đi bộ khoảng năm trăm thước, qua khỏi khúc quanh, bến tàu Vĩnh Phú thấp thoáng qua làn sương mờ đục. Tàu Nguyễn Văn Kiệu đã chực sẵn chờ đón khách, ống khói tàu liên tục nhả từng cột khói đen chuẩn bị tách bến. Thoáng thấy chị Tư Ngoạt đứng chờ ở bến, má đã vói hỏi:
- Tàu sắp chạy chưa con?
- Dạ sắp chạy rồi. Bảy với con vế bển, má ở nhà đừng lo gì nghen! Nhà con ở Dừa Đỏ, cũng sát nhà cậu Ba mà!
- ờ, chị em đi đường nhớ cần thận. Cho má gởi lời thăm anh chị ở bển. Biết bao giờ tao mới được trở về quê đây?
- Bây giờ đường tàu bè đi rất tiện, má lo gì, rảnh rồi thì đi thôi. - Nói vậy chớ biết đến chừng nào?
Má không giấu đưỢc nỗi buồn xa con gái, thỉnh thoảng chỉ liếc nhìn tôi rồi quay sang nói chuyện với chị Tư.
Tàu “xúp lê”', như giục giã những khách chậm chần mau mau lên tàu.
Tôi xách hành lý theo chị Tư bước xuống tàu, cố nói vói: - Con đi nghen má!
Má khẽ nói “ừ” đứng lặng nhìn tôi, còn tôi chân bước tới mà đầu ngoái lại. Má đăm đăm nhìn theo tôi. Làm sao má yên lòng đưỢc, con gái một thần một mình lần đấu xa nhà dẫu có chị Tư, rủi may ra sao, có ngày ra đi còn ngày trở lại biết bao giờ. Hiểu thấu tấm lòng của má rối như tơ vò tôi thấy xốn xang, mắt cay cay, và... hình bóng của má nhòa đi khi tiếng “xúp lê” vang lên lẩn thứ hai. Tàu từ từ tách bến.
1. Tiếng còi hụ của tàu thủy.
Tiéng sóng búa ghểnh 4 9
Nhìn lại trên bờ, anh Hoàng từ đâu đến đứng bên gốc cầy sát lưng má. Ảnh trán trân hướng theo tồi.
Bước đi vài bước, không thể không quay lại nhìn má, một bà mẹ hiển lành mà gan góc, phải dằn lòng để chấp nhận cho con gái ra đi theo con đường nó đã chọn.
Thêm một lẩn nữa má truyền cho tôi sức mạnh của tình thương và niểm tin không có cầu chữ nào nói cho hết đưỢc.
Trên boong tàu nhìn hai bên bờ, cảnh vật lùi lại rất nhanh, nhìn xuống thấy sau bánh lái nước cuồn cuộn dâng lên thành một dòng bọt nước dài trắng xóa...
Không mấy chốc tàu đã tới Ngã Năm, rồi từ Ngã Năm đến Ngã Bảy, tàu cập bến Gò Ân Nước xoáy nằm trên sông Măng Thít thuộc tỉnh Vĩnh Long, để cho hành khách lên xuống, bốc dỡ và nhận thêm hàng, rồi xuôi dòng Măng Thít ra sông Cổ Chiên để về Sài Gòn. Theo bén gót chị Tư lên bến này, hai chị em đi xe đò về Trà Vinh. Xe đậu ở một bến dọc đường, chị Tư rủ tôi vào tiệm tìm mua khăn và mấy xấp vải về làm quà cho má và người thân sắp gặp lại sau bao năm xa cách. Sờ món này, ngắm món kia, cuối cùng chị hớn hở mua đưỢc mấy thứ, chắc má sẽ vừa ý.
Ngồi trên chiếc xe đò cũ kỹ chạy bằng than, biết mình đang vể đến quê ngoại, tôi rất chăm chú dõi theo từng xóm làng xe đi qua: hàng dừa, cây cẫu sắt bắc qua con sông nhỏ, trên những cánh đổng bạt ngàn nối tiếp hai bên đường, những túp nhà đơn sơ rải rác núp dưới mấy chòm cầy xanh... Chưa một lần đi qua chốn này, mà sao tôi cảm thấy quá gần gũi thần thương. Tự nhiên tôi nhớ đến má, chắc má cũng đang nhớ con Ngơi hồi nhỏ ốm yếu, hay nhỏng nhẽo, chưa lúc nào xa nhà như lần này. Trong đầu tôi bỗng vang lên câu thơ học được với thầy Năm Nữ thuở nhỏ: “Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”... Từ nguồn nằm sâu trong lòng đất, qua khe, qua núi, nước chảy không bao giờ cạn.
Chị Tư nắm tay tôi lắc lắc;
- Nghĩ gì mà thần người ra vậy? Sắp tới ngã ba Vũng Liêm rổi đó, Vũng Liêm nổi tiếng món nem chua ngon lắm! Đó! Đó, chỗ qua cua
50 HỒI ức NGÔ THỊ HUỆ
quẹo bên tay mặt là đường vô An Trường; cái nôi... chị không nói hết lời; nhưng tôi đã hiểu.
Chị Tư không giấu nổi niềm vui được trở vể quê nhà; liên tiếp giới thiệu những tên xóm; tên làng; tôi không làm sao nhớ hết; và phải qua nhiểu năm tháng công tác ở vùng nẩy tôi mới nhớ và yêu thương như xóm làng của tôi ở Sóc Trăng.
Đến Bình Phú, xuống xe, hai chị em theo con đường rẽ trái đi bộ vể Dừa Đỏ. Trời đã xế chiều, mặt trời bị đám mây che khuất; vài cơn gió nhẹ dịu mát thoảng qua. Hai bên đường làng xóm nối tiếp; nhà lá xinh xắn, vườn tược xanh mướt xen kẽ có những ngôi nhà ngói đỏ au có hàng rào sắt bao quanh do điển chủ giàu có làm chủ. Chốc chốc trên một chiếc xe ngựa chạy qua, mấy bà ghì chặt những giỏ hàng chuẩn bị đón Tết. Chợt chị Tư reo lên và nắm tay tôi mừng rỡ chỉ vể hướng một gian nhà nầm sau hàng rào bông lồng đèn:
- Bảy! Nhà chị đó!
Kéo tôi; chị phăng phăng vể phía ngôi nhà lá ba gian, có mấy cây mai vàng cao hơn đẩu người, cành đơm đầy nụ hoa trên một sân rộng. Còn cách xa cửa nhà cả mấy chục bước, chị dồn hết sức gọi lớn: - Má ơi; má...
Một người đàn bà trạc tuổi má tôi từ trong nhà vội bước ra, một tay cầm chổi, một tay đưa lên che mắt, cũng lớn tiếng hỏi lại: -Ai đó?
Giao cho tôi mọi thứ đang mang trên vai và cẩm trong tay, chị Tư chạy ùa đến ôm lấy mẹ.
- Má, con nè má; con Ngoạt trở về đây má!
Cầy chổi trên tay rớt xuống, hai mẹ con ôm chặt láy nhau, mạnh ai nấy khóc.
Bà đưa tay sờ đầu, vuốt tóc, lần bóp hai cánh tay, như để yên lòng thân thể con gái vẫn lành lặn như hồi nào. Nhìn hai mẹ con chị Tư gặp lại sau hàng chục năm đợi chờ, những phút giầy ấm áp tình mẹ con, tôi không cầm lòng được và nước mắt cũng trào ra. Thấy tôi bước tới gẩn, chị Tư nói với mẹ:
TiỂng sóng bủa ghénh 51
- À, đây là dì Bảy, chị em con đang làm việc với nhau... Sực nhớ sự có mặt của tôi, bà mẹ liền kêu lên:
- Trời ơi, mừng quá con ơi! Vô nhà, vô nhà đi!
Hai tay bà nắm chặt lấy hai đứa tôi kéo vào nhà, bà gọi như thét lên; - Năm ơi, chị Tư bây vê' đây, Tư Ngoạt vể rồi nè, con ơi... Một cô gái trạc tuổi tôi từ nhà sau chạy ra mừng mừng tủi tủi, khóc
òa lên. Má chị Tư Ngoạt cũng thứ tư, bà nắm chặt tay tôi, nhìn tôi trìu mến. Một lát đưa tôi vô buồng cất đổ đạc, bà hỏi nhỏ: - Con cũng ở tù với con Ngoạt hả con?
- Dạ không, chị Tư sau khi được thả ra, qua làm ăn bên xứ con, con xem chị như chị ruột...
- Vậy sao! Mèn ơi, bấy về đây, Tết năm nay phải ăn lớn mới đưỢc. Dì Tư mừng quá cứ quên đầu quên đuôi. Tối hôm đó dì thúc mấy đứa con cháu trong nhà đi báo tin mừng với bà con. Ai đến thăm, mặt mày đều hớn hở. Năm đó cả nhà dì Tư chuẩn bị một cái Tết thật tươm tất, gói bánh tét, bánh ít, quết bánh phổng, làm đủ thứ nào dưa cải, dưa kiệu, dưa hành, tỏi... Tôi được coi như con cháu trong nhà, cũng xắn tay phụ làm mọi việc. Được sống trong cảnh gia đình vui mừng đoàn tụ, tôi vẫn không tránh khỏi tủi thân, một cái Tết đầu tiên xa má, xa anh chị em... Nhớ má quá tôi cầu mong có cách nào được bay vể Mỹ Quới, dầu trong chốc lát để gặp lại má. Tôi nghĩ chắc giờ này anh Hai tôi cũng đang lo dọn dẹp bàn thờ, chùi bộ lư đồng cùng với chần đèn, trang hoàng nhà cửa, chưng vạn thọ, không thể thiếu mâm ngũ quả với bình bông trên bàn thờ tổ tiên... Năm nào dịp Tết đến, những việc này đểu phải qua hai bàn tay khéo léo của anh Hai. Tôi ở nhà chị Ngoạt chơi tới hai mươi chín Tết thì vể nhà cậu Ba tôi ở Nhị Trường và hẹn với chị Tư ăn Tết xong sẽ gặp lại để bàn công chuyện làm ăn. Đó là cái Tết lần đầu tôi xa nhà, nhưng lại là cái Tết đáng ghi nhớ, tôi được sống trên vùng đất bên quê ngoại mà tôi mới đưỢc biết, và cũng là cái Tết đánh dấu những bước đi mở đấu chặng đường dấn thần của tôi.
* * *
52 HỔI ức NGÔ THỊ HUỆ
ở quê ngoại từ xa xưa, lệ ăn Tết kéo tới hết ngày mồng bảy: “Cu kêu ba tiếng cu kêu, mong cho hết Tết hạ nêu ăn chè”. Tết năm đó, vào ngày mùng bốn, mùng năm, tôi gỢi ý với chị Tư tổ chức cuộc họp mặt với một số anh chị em cốt cán tại địa phương, trước để quen biết nhau, sau đó bàn tính “công tác”. Chị Tư đồng ý ngay và sáng mùng tám hai chị em sửa soạn một bữa cơm tại nhà, gọi là lễ mừng năm mới có đủ mặt anh chị em như em rể chị là anh Thông, các anh Tỷ, Thành, Lập cùng một số anh quê Càng Long, tù chính trị mới được thả vể nhờ có phong trào đấu tranh của ta lên mạnh theo đà thắng lợi của Mặt trận Bình dân bên Pháp.
Trong niểm vui đón Tết ai cũng phấn khởi trước việc chị Tư trở lại địa phương, có thêm tôi ráp vô gây dựng lại phong trào. Chúng tôi bàn bạc nhất trí tìm cho ra một chỗ làm ăn thông thường tại chợ Càng Long để đặt trụ sở của nhóm. Thật may mắn anh Thông tìm mướn được một căn nhà, chúng tôi mở tiệm may treo bảng hiệu “Âu Á” chuyên may cả đồ Tầy, áo dài.
Phải công nhận dần Càng Long rất nhiểu người hướng theo cách mạng. Các gia đình ở đây, ngoại trừ giới điển chủ giàu có theo Tây, háu hết đểu có nỗi đau buồn do mát mát người thân, lòng căm thù Tây thực dân gần như thầm căn cố đế. Từ những năm 1930, khi Đảng ra đời, phong trào Càng Long như buồm gặp gió. Trong những năm đó khủng bố, đàn áp không ngăn chặn nổi quẩn chúng tham gia công khai, tự quản xóm làng, chống sưu cao thuế nặng, chống bắt lính, tương thân tương ái giúp đỡ lẫn nhau. Chi bộ Đảng mấy lần lột xác, bà con vẫn một lòng theo Đảng. Sĩ phu ngày trước, nhiều người còn sống sót, thêm lớp con cháu đời sau hỢp thành lực lượng kế tiếp hên tục đấu tranh.
Thực dân Pháp mở cuộc đàn áp đẫm máu ở Càng Long, có những tên tay sai đắc lực như Trấn Bá Lộc, Huỳnh Văn Tấn, đốc phủ sứ Lê Quang Liêm... chúng xua quân lính lê dương, mã tà, lính kín tràn vào Càng Long bao vầy tứ phía, chà đi xát lại, càn quét, chém giết bất kể trẻ già... Mấy năm sau nhà thơ Truy Phong có bài thơ “Một thế kỷ mấy vần thơ” loan truyền gầy xúc động, căm thù trong nhân dân:
Tiếng sóng bùa ghểnh 5 3
"... N g à y Tây đến đ â y
Thành Đ à N ẵ n g bị tấn công bắn g đ ạ i bác
X á c anh hùng Đ in h L ý hóa tro b a y
G iữ G ia Đ ịn h , D u y N in h liêu m ạ n g th ác
Ô m quốc kỳ tu ẫn tiế t giữ a trù n g vây...
H ỡi ôi! X ư ơng m áu d ẫ y đ ẩ y
C hân Tây bước đến đ ấ t n ày tóc tan g
Tay gươm , ta y súng,
Bước nghênh bước ngang,
C h ặ t đẩ u ông lão treo hàng th ịt
M ổ m ậ t than h niên giữ a chiến tràng
C ối q u ết trẻ th ơ văn g n á t óc
P h an h th â y sản p h ụ đ ố t thàn h than
Thôi rồi m ảnh đ ấ t A n N a m
H u n g hăng nó bóp trong bàn ta y tanh..."
Từ trong đau thương tang tóc quần chúng nhân dân càng quyết tầm đứng lên đấu tranh, hết cuộc này kế tiếp cuộc khác. Trong những năm 1936-1937 có thêm lực lượng tù chính trị được trả tự do, sức chiến đấu mạnh thêm, ở Sài Gòn, lục tỉnh sôi nổi, phong trào Đông Dương đại hội của Nguyên An Ninh, ở Càng Long cũng có lập ủ y ban hành động, phất lên rẩm rộ, kéo theo nhiều địa phương khác. Quả không sai Càng Long như một cái nôi cách mạng.
Tiệm may Âu Á của chúng tôi ngày càng được tin cậy bởi cách làm ăn đàng hoàng, có tay nghể cao, tiếp đãi khách hàng tử tế giúp tiếng tăm của “Âu Á” lan xa, khách đến ngày càng đông, khiến bọn cám quyển ở địa phương phải chú ý. Một hôm, tên quận trưởng Càng Long cho mời anh Thông, người đứng tên tiệm may, lên quận để hạch hỏi:
- Tại sao lấy tên tiệm là “Âu Á”?
Anh Thông bình thản trả lời:
54 HỒI ức NGÔ THỊ HUỆ
- Vì tiệm chúng tôi may đồ Âu và đồ An Nam gổm đồ bà ba, áo dài thêu... nên mới gọi là Âu Á.
Tên quận trưởng trừng mắt quát tháo:
- Về đổi lại tên hiệu tiệm đi, bộ muốn làm quốc sự hay sao mà đặt tên “Âu Á”?
Anh Thông vâng vâng dạ dạ cho qua chuyện. Nghe anh Thông thuật lại đầu đuôi sự việc, chúng tôi ai cũng nhận rõ bọn quan làng đã đánh hơi, phải biết đối phó để giữ cơ sở. Tiệm may tạm đóng cửa, tôi qua xin làm công cho tiệm may Nhật Tần ở gần đó do chị Ba Canh làm chủ, chị Ba nhận ngay do đã biết tôi có tay nghể và tâm tính điểm đạm. Sau một thời gian tìm hiểu, hóa ra chủ tiệm may này có người anh ruột là một tỉnh ủy viên tỉnh Trà Vinh. Có lẽ nhờ vậy mà Tỉnh ủy Trà Vinh cử một chị cán bộ, tuổi tác hơn tôi một ít, đến gặp và sau này mới biết đó là chị Nguyên Thị Một. Chị hỏi thăm gia cảnh, quá trình hoạt động của tôi từ trước đến nay, chị mừng lắm ôm chặt lấy tôi như người chị thân quen từ lâu ngày. Đêm ấy chị Một ở lại tiệm may, chị em nói chuyện sáng đêm. Và sau nhiểu lần gặp gỡ tuy rất ngắn ngủi, chị đã giúp tôi thông hiểu tin tức và nhiéu điểu rất quý báu vể chủ trương chính sách của Đảng ủng hộ phong trào Đông Dương đại hội do Nguyễn An Ninh khởi xướng từ giữa năm 1936. Chị ú t Một luôn nhắc tôi: phải nhớ, bọn cầm quyển Đông Dương buộc phải tuân theo đường lối của chính phủ Mặt trận Bình dần lần lượt ban bố một số chính sách có vẻ nhân nhượng trước phong trào quần chúng như thực hiện chủ trương của bên chính quốc ân xá tù chính trị, nhưng chớ có quên chúng không bao giờ từ bỏ dã tàm thâm độc như thả tù chính trị cũ, bắt tù chính trị mới... Tôi rất phấn khởi khi nghe chị kể khí thế đấu tranh cho dần sinh dân chủ của các giới, bà con công nhân, nông dân, lớp nghèo thành thị, tiểu thương tiểu chủ, học sinh, giáo chức... trong các ủ y ban hành động của phong trào Đông Dương đại hội do Đảng lãnh đạo và nhiểu nơi tù chính trị vừa được thả ra đảm nhận vai trò nòng cốt cũng giống như ở Càng Long.
Gặp chị Một như nắng hạn gặp mưa rào, chị với tôi tin cậy, gắn bó nhau trong tình đồng chí và tình chị em thân thiết.
Tiếng sóng bùa ghểnh 55
Thời gian làm việc ở tiệm may Nhật Tân tôi kết thân với một quần chúng cốt cán là chị Trinh, rát tận tình chăm lo phát triển cơ sở. Rồi do có nhu cẩu, chị Một đến truyền đạt quyết định của Tỉnh ủy điểu tôi vể thị xã công tác ở văn phòng mật của Tỉnh ủy, cũng được nghi trang bằng tiệm may với một máy may có đủ đồ nghề. Chị Một đưa tôi đến gặp anh Nhầm, bí thơ Tỉnh ủy, đưỢc anh nói rõ ý định của cấp ủy phân công cho tôi, và ân cẩn dặn dò nhiểu điểu bổ ích. Anh Nhám giới thiệu tôi vể sinh hoạt chi bộ ghép với thị xã Trà Vinh gồm có anh Phạm Thái Bường với nghê' nghiệp công khai là thợ hồ, anh Sáu liên lạc vừa phụ trách tiệm cơm vừa lo quản sạp bán nhựt trình từ Sài Gòn và các nơi gởi về. Thỉnh thoảng tôi qua bên ấy xem nhờ tin tức trên các nhựt trình tiến bộ xuất bản công khai, có nhiều bài dịch từ nhựt trình tiếng Pháp và còn có cả một số tờ bí mật như Tiến lên của Liên Tỉnh ủy Hậu Giang nữa. Nhờ vậy tôi nắm bắt được tình hình đáu tranh ở nhiều tỉnh Nam kỳ. Có lần tôi còn đọc được tin hàng ngàn bà con quê nhà ở quận Phước Long (Rạch Giá) đấu tranh đưa yêu sách: đòi bỏ thuế thân, đòi tự do lập hội, đòi công ăn việc làm, nhất là đòi cứu tế vì đang lúc giáp hạt, nông dân thiếu thốn đói kém. Chính quyển địa phương chẳng những không giải quyết yêu sách của bà con còn bắt hai đại biểu của nhân dân là ông Trấn Vàn Bảy và ông Trần Quý Thể làm bầu không khí càng căng thẳng, náo loạn cả lên. Lúc bấy giờ đốc phủ Trán Văn Viễn* đang làm quận trưởng Phước Long, mặc dầu ỏng cảm thông với cảnh khốn đốn của bà con, nhưng có nhiểu yêu sách ngoài tầm tay ông phải chờ tỉnh trưởng về giải quyết.
Trong cuộc đấu tranh này đã có nhiều người ngất xỉu dưới trời nắng như đổ lửa. Khi viên tỉnh trưởng đến, đồng bào la ó đòi thả hai đại biểu vừa bị bắt. Y xoa dịu bằng cách ra lệnh thả các đại biểu của dần rồi bước lên bục định giãi bày điểu gì đó, nhưng khung cảnh bấy giờ quá ồn ào, lộn xộn, chẳng ai màng chuyện ông ấy nói gì.
1. Cụ đốc phủ Vĩén cùng nhiéu nhân sĩ yêu nước đã từ quan sau ngày Cách mạng tháng Tám năm 1945, cụ và nhiểu người bạn đã ra bưng biển, sau này cụ Viẽn trở thành đảng viên trong kháng chiến chống thực dân Pháp.
56 HỒI ỨC NGÔ THỊ HUỆ
Đọc tin nầy tôi thật xúc động, tưởng như má và anh chị em ở nhà đểu có mặt trong hàng ngũ bà con biểu tình.
Sau này nghe kể lại: lúc đó anh Trần Văn Bảy giở nón ra hiệu cho bà con ngồi xuống, lập tức trật tự được vãn hổi. Viên tỉnh trưởng cười gượng quay sang phía quận trưởng Phước Long: “Dần ở đây là của người kia kìa (tay chi vể hướng anh Bảy) chớ có phải của ông đâu!”. Tinh trưởng phân trần vài câu và hứa phát chẩn cho dân nghèo, tổ chức đào con kinh Chủ Chí dài tám cây số vừa có việc làm cho bà con kiếm sống, vừa đưa dòng nước ngọt ngào tháo chua rửa mặn cho ruộng vườn hai bên, nhất là mở được con đường thông thương tiện lợi cho bà con đi lại, chuyên chở thóc lúa hoa màu.
Tôi còn đọc đưỢc trên tờ Tiến Lên kể vể cuộc đấu tranh của bà con lao động nghèo bị bắt làm con đường Cà Mau - Năm Căn hồi tháng tư năm 1937. Giữa mùa nắng gắt, bà con phải trấn thân ra gánh đất đá, bị bọn chủ thầu, quan quyển bớt xén tiền công, ăn chận khẩu phần, không có nước ngọt phải uống nước lợ. Anh chị em đình công, buộc chính quyển tỉnh Bạc Liêu phải xuống can thiệp. Cuối cùng chúng phải trả đủ tiển công và chở nước ngọt về cho bà con làm đường dùng.
Thấy tôi ham đọc nhựt trình và sách tiến bộ, có lần anh Sáu kéo tôi vào nhà trong, đưa ra một tập sách độ hơn trăm trang do Đông Dương thư xã ở Mỹ Tho ấn hành trong đó trích nhiểu bài thơ, văn trên các nhựt trình công khai hoặc bí mật của Đảng ở Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ, có những bài dịch từ tiếng Pháp v.v... Như bắt được vật quý, tôi mừng quá hỏi mượn tập sách về đọc. Càng đọc tôi càng bị cuốn hút, nhất là thiên phóng sự dài “Côn Lôn, Côn Lôn” đăng nhiều kỳ trên tờ L a Lutte (Tranh Đấu) do một tù nhân Côn Đảo viết ký tên Ngũ Yến (sau này tôi mới biết đó là anh Nguyễn Văn Nguyễn) tố cáo tội ác man rỢ của thực dần Pháp đày đọa người tù như thú vật, bắt anh em lặn hụp xuống đáy biển lạnh giá tìm lấy san hô, bắt kéo cây, chở đá từ trên cao xuống chân núi, giết dần giết mòn tù nhân cộng sản... “... Bất kể mùa nào, lúc mưa dầm hay lúc gió bão, ngày ngày anh em “banh” một, tù khổ sai bị lùa xuống biển để mò tìm san hô, những cáy
Tiếng sóng bùa ghénh 57
san hô sắc nhọn như lưỡi dao cắt nát thịt da anh em, máu hòa với nước biển, càng ngâm nước lâu vết thương càng nứt nẻ, xót đau, nhức nhối vô cùng... Vậy mà mỗi người phải kiếm đủ số ba mươi cây san hô mới đưỢc lên bờ”.
ở một đoạn khác tác giả chua chát đặt tên “Đàn bò không sừng” tố cáo tình cảnh anh em tù nhân bị bắt làm bò kéo xe chẳng khác con vật. Đường xuống núi dốc đứng, những người tù không kềm giữ nổi càng xe, vậy là những tảng đá to nặng cứ thế lăn nhào, đè dập nát thân thể khốn khổ chỉ còn da bọc xương...
Tôi cắn môi để không bật ra tiếng khóc, nguyển rủa bọn mặt người dạ thú và tự hỏi hệu chúng còn sống được bao lầu nữa? Nhất định sẽ đến ngày bão tố nồi lên, đồng bào, dân chúng vùng dậy đòi nỢ máu!
Trong tập sách có nhiểu bài thơ rất hay như bài Kêu gọi phụ nữ của Thôn Dân viết hồi đầu năm 1937, đọc lên thấy hồ hởi phấn chấn như bổi thêm sức vững vàng đi tới:
"... Đ ờ i tiến bộ có ta y p h ụ nữ
Đ ờ i đau thương hỏi th ử ai không?
T h ế m à tră m cái b ấ t công,
B ấ y lâu nữ giới thực không ra gì?
C hị em hỡi, d ạ i chi chịu trói!
M ìn h hãy m au tự cởi cho m ình
N h ữ n g trò bình đ ẳ n g trá hình
Tự do giả tạo, chúng m ình đ ậ p tan
Cuộc cách m ạng d â n g tràn th ế giới,
N gọn cờ hồng p h ấ t p h ớ i tu n g bay,
P h ong trào p h ụ nữ đ ã x â y
D â n g lên rẩm rập đó đ â y không ngừng...
... Trời N a m V iệ t bấy lâu m ù m ịt,
G iặc Tây vào bưng b ít m iệng, tai.
58 HỔI ức NGÔ THỊ HUỆ
C ả g ià trẻ, lãn g á i trai,
C á i th ân nô lệ su ố t đời đau thương!
Trước trừ bọn hung tà n bạo ngược,
L à những ph ư ờn g đ ế quốc d ã m an,
Sau là cả lũ th a m tàn
Cường hào, đ ịa chủ, vu a quan m ộ t loài.
G iế t được giặc, đường d a i tốn sức,
Toàn d â n ta góp sức, góp tà i
Tiến lên m ở m ộ t ngày m ai
N g à y m a i tươi sáng cả trời V iệ t N am ".
Bài thơ còn nêu lên niềm vui được giải phóng của chị em ở nước Nga Xô Viết, rất tiếc lời không còn nhớ mà ý tứ thì không thể phai mờ trong tâm trí tôi.
Trước khi trả sách tôi cặm cụi chép cả bài thơ và học thuộc lòng như một cẩm nang, vì tài liệu đế bên mình là điều tối kỵ. Chị em cơ sở ai cũng thuộc làu bài thơ, bởi nó nâng cao quyết tâm, tăng thêm ý chí chiến đấu.
Sau một thời gian công tác ở Văn phòng Tỉnh ủy, cấp trên phân công tôi về quận Cẩu Ngang. Tôi đến ở nhà bà Hai Lộng, chị ruột của đổng chí Dương Công Nữ, tỉnh ủy viên tinh Trà Vinh, một cơ sở chí cốt của ta ở ấp Nhị Long. Đôi khi tôi có gặp một số đồng chí cũ như: Dương Quang Đông (Năm Phúc), Hai Kinh, Tám Khâm, Hai Luông, Sáu Thơm, Ba Quảng v.v... do anh Dương Công Nữ giới thiệu.
Gia đình bà Hai Lộng hết lòng bảo bọc, tạo điểu kiện thuận lợi cho tôi công tác.
Không còn dễ ức hiếp dân tình, bọn cầm quyền buộc phải giải quyết một số yêu sách của ủ y ban hành động tại địa phương. Tôi bàn với chị Cam, cựu tù chính trị đứng ra lập Hội phụ nữ tương tế ái hữu, hướng dẫn bà con tương trợ giúp đỡ lẫn nhau khi gặp khó khăn hoạn
Tiếng sóng bủa ghểnh 59
nạn. Chúng tôi cố gắng nâng cao hiểu biết chính trị cho chị em và bà con, khi cán thì vận động, tập hỢp chị em kịp thời.
Gầy dựng cơ sở nơi này xong, tôi đi tiếp nơi khác, đâu đáu cũng có cốt cán. ở làng Phước Hậu tôi tổ chức đưỢc hai cơ sở là ông Sáu Hĩnh và ông Hai Chấp; qua Bến Đáy tôi gặp và giác ngộ chị Hên, chị Vẹn rồi lập Chi hội phụ nữ, giao hai chị phụ trách. Khi về Bến Giá tôi ở nhà ông Tư Mô, ông có người con trai là Ba Ngượt bí thơ quận ủy Cầu Ngang. Anh Ngượt thường đi công tác vắng nhà nên có nhờ tôi dìu dắt các em của anh là Sáu Trầm, Bảy Thưởng và cô em gái út. Nhờ ở ngay trong nhà có điểu kiện gán gũi giúp đỡ nên sau một thời gian cả ba người đều được giác ngộ có cảm tình với cách mạng.
Lúc nào vể công tác ở Cầu Ngang tôi cũng ở nhà ông bà Hai Lộng vì nhà làm ăn, kẻ địch ít để ý. Gia đình trồng nhiều dưa hấu và trổng cả thuốc lá. Tôi tham gia mọi việc như người trong nhà. Ngoài việc chỉ đạo các địa phương hoạt động tôi thường vận động đấu tranh bảo vệ quyển lợi hằng ngày của bà con và thắt chặt tình làng nghĩa xóm. Cùng với các đồng chí trong chi bộ tại chỗ, chúng tôi bổi dưỡng, tạo điểu kiện cho các con của ông bà quen dẩn với công tác, và lần lượt từ Ba Dương, Tư Huy, Năm Mão, Sáu Xuất, Bảy Nga đến Mười Rùa... sau này đểu trở thành đảng viên, cán bộ của Đảng.
Sau khi đưỢc bầu vào Tỉnh ủy Trà Vinh, tôi thường về tỉnh họp. Có lần trở lại địa phương, đồng chí Bảy Lê vể cùng. Hai chúng tôi phối hỢp làm việc rất ăn ý. Một ngày vào tháng ba ầm lịch, lúc ba giờ sáng, cả nhà ai cũng dốc sức làm việc, vì đang trong thời vụ thuốc lá. Người xắc thuốc, người lo xếp bánh thuốc lên liếp tre để phơi, thình lình lính kéo tới bao vây nhà, xông vào bắt tôi và Bảy Lê. Tuy hai chúng tôi có đủ giấy tờ hỢp lệ nhưng vẫn cứ bị chúng bắt, cho rẳng chúng tôi làm “quốc sự”, biết chắc không phải người vùng này. Tội nghiệp bà Hai Lộng, cứ bám riết mấy người lính đang bắt giải chúng tôi đi, năn nỉ xin thả chúng tôi. Tôi cũng cố sức thuyết phục họ “hai chị em tôi là con gái, biết gì đâu mà nói làm quốc sự. Nhà chúng tôi ở ngay thị xã, không tin các anh cứ về đó mà coi. Là cháu của ông bà Hai nên lâu lâu chúng tôi về thăm, mong mấy anh thông cảm!”.
60 HỔI ữc NGÔ THỊ HUỆ
Nghe cũng có phần xuôi tai nên mấy anh lính thả hai chúng tôi vể, còn dặn vói theo: “Mấy cô về ngay thị xã đi, đã bị mấy ổng hồ nghi rồi đó. ở đây rất bất lợi”.
Tôi vâng dạ và nói lời cảm ơn.
Mấy người lính đi rổi, lập tức bà Hai Lộng bảo con trai lấy ghe đưa chúng tôi đi ngay. Khi tới cầu Long Bình gần chợ Trà Vinh trời cũng vừa hửng sáng. Sau này được biết: ngay sáng hôm đó, lính kéo tới đông nghịt để tìm bắt, nhưng chúng tôi đã “xa chạy, cao bay”. Hú vía! Có thể nói thời kỳ hoạt động ở Trà Vinh tôi đi nhiều nơi, xây dựng được nhiều cơ sở quẩn chúng, cơ sở Đảng. Riêng quận Cấu Ngang, tôi góp phần phát triển phong trào ở hầu khắp các làng như: Mỹ Hòa, Mỹ Long, Hiệp Thạnh, Ba Động, Long Toàn, Trường Long Hòa v.v... Từ Mỹ Long theo cung bờ biển chạy dài qua Ba Động, Khoáng Tiểu xuống tận Cồn Trứng, Cồn Tàu, Bãi Đồn, Láng Cháo giáp ranh quận Trà Cú. ở đâu đồng bào cũng yêu thương, đùm bọc tôi và sẵn sàng lao vào cuộc khi thời cơ đến. Nhớ nhất là cuộc mít tinh lúc năm giờ sáng ngày bảy tháng năm, năm 1937 ở Càng Long. Bà con các làng kéo đi rất đông, trương biểu ngữ đòi các quyển dần sinh, dần chủ. Đổng bào rất vui, vỗ tay từng hồi khi nghe cán bộ Đảng thông báo những thắng lợi đã giành được tại nhiều tỉnh miền Tây, người diễn thuyết còn động viên bà con tiếp tục đấu tranh có sự lãnh đạo của ủ y ban hành động.
Vừa bảnh mắt, bọn làng lính kéo tới bao vây, bà con đã kịp phán tán nhỏ từng nhóm tỏa về các hướng, chúng chi còn cách khoanh tay đứng nhìn. Chị Một và tôi đi nhanh vể nhà anh Hai Chấp đê’ tránh chạm mặt lính tráng. Anh em ngổi uống nước nói chuyện với nhau, lòng thấy vui vui tôi nghĩ: “Nước lên thì thuyền lên”, đó là điểu tất yếu! Càng nghĩ tôi càng thấm thìa về những chủ trương đúng đắn của Trung ương Đảng kịp thời ủng hộ, lãnh đạo phong trào Đông Dương đại hội năm 1936, qua đó mà xây dựng và thúc đẩy việc hình thành mặt trận cao trào dân chủ Đông Dương 1936-1939 chuẩn bị lực lượng quần chúng và cán bộ cho những chặng đường cách mạng tiếp theo.
Đó chính là cái mốc son trong lịch sử vận động cách mạng của Tiéng sóng búa ghểnh 61
Đảng và về sau mới biết có sự chỉ đạo sâu sát từ bên ngoài của Nguyễn Ái Quốc.
ĐưỢc Tỉnh ủy giao công tác trong thời điểm này, tuy sự đóng góp còn khiêm tốn, nhưng trong niềm vui được vào trận, tôi tự ví mình như con chim được chắp cánh và càng thấy tự tin hơn, gắn mình với phong trào như diểu gặp gió! ở xa, nếu má hay tin con gái mình biết phấn đáu tiến bộ, chắc phần nào má cũng yên lòng. Tôi tự nhủ: càng nhớ thương má phải càng cố gắng học tập, rèn luyện bển bỉ, gian truân, thử thách không sờn lòng.
Thời gian trôi nhanh quá. Đến khoảng giữa năm 1938, Tây lai Léon Leroi có tên Trần Chánh, bà con thường gọi là Một On, bò lên tới chức quan năm của Tây do gây nhiểu tội ác với đồng bào, nhất là ở Bến Tre. Tên Chánh cho tay chần lén bỏ truyền đơn vào nhà anh Dương Công Nữ để vu cáo anh làm loạn. Anh Nữ bị bắt, chúng tôi gặp không ít khó khăn. Cấp trên cử đổng chí Trần Chí Nam, người Cẩn Giuộc vể làm bí thơ Tỉnh ủy. Vậy là Tỉnh ủy còn bốn người: đồng chí Nam bí thơ, đồng chí Kỷ phó bí thơ, chị Tư Be và tôi là Tỉnh ủy viên. Mỗi lần họp cấp ủy chúng tôi phải rút về Dừa Đỏ, nhà anh Sáu Đại là con cậu Ba tôi để đưỢc an toàn.
Vì bị lộ nên đẩu năm 1939 tôi đưỢc điều vể Cần Thơ, phụ trách hai quận Trà ôn, La Ghì, sau thêm quận Châu Thành. Cũng thời gian này tôi được bầu vào Liên Tỉnh ủy Hậu Giang*
ĐưỢc thử thách và trui rèn qua Khởi nghĩa Nam kỳ
Trước tình hình căng thẳng trong nước và trên thế giới, ở châu Âu, châu Á, sát nách chúng ta phát xít Nhật đã bắt đầu xâm chiếm Đông Bắc Trung Quốc, đang tràn xuống Hoa Nam và lăm le xâm lấn Đông Dương, Đảng và những ai có lòng yêu nước thức thời không thể nào không ầu lo.
1. Liên tinh ủy Hậu Giang gổm các tinh: Cán Thơ, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Rạch Giá, Bạc Liêu, Long Xuyên, Châu Đốc, Hà Tiên.
62 HỔI ức NGỔ THỊ HUỆ
Bên chính quốc vào đẩu năm 1938 Édouard Daladier đưỢc quốc hội Pháp trao quyển lập nội các thay Léon Blum. Lực lượng phát xít, cánh hữu rắp tâm xóa bỏ những thành quả tự do, dân chủ vừa giành được với thắng lợi của phong trào Mặt trận Bình dân. ở Đông Dương, trước hết là ở Việt Nam, lực lượng phản động thuộc địa ngày càng ra tay đàn áp các phong trào hoạt động đáu tranh cho dân chủ, dần sinh, chống phát xít, chống chiến tranh.
Giữa lúc cuộc đấu tranh chống lại các âm mưu thầm độc và hành động tàn bạo của địch thì mỗi khi được tin thắng lợi lớn nhỏ gì cũng thấy được thêm sức tiếp tục dán bước. Phấn khởi nhất là tin hai thành phố Sài Gòn và Hà Nội kỷ niệm ngày quốc tế lao động mùng một tháng năm, năm 1938 lần đầu tiên diễn ra có số người tham gia đông đảo hơn bao giờ hết, có đông đủ các giới và liên hiệp được nhiều đảng phái dần chủ, tiến bộ mà nòng cốt là đảng cộng sản. Một sự kiện làm nức lòng trước hết giới lao động công nhân, dần nghèo, nông dân, viên chức, học sinh là việc Đảng cho xuất bản báo D ân Chúng bằng chữ quốc ngữ mà không phải xin phép trước. Sau này được đọc trong quyển sách chúng tôi làm báo, đổng chí Nguyễn Văn Trấn tiết lộ chính luật sư Trịnh Đình Thảo^ đã gỢi ý: căn cứ luật đã công nhận người Pháp và người của thuộc địa Pháp “nếu muốn ra báo thì chỉ cẩn làm một tờ khai... nộp cho nhà đương cuộc trước hai mươi bốn giờ đồng hổ”.
Nhờ đó báo D ân Chúng ra đời gây nhiểu phấn khởi trong đồng bào cả nước, ở chính quốc giới cầm quyền điên đẩu vì đang đứng bên bờ vực chiến tranh.
Ngày mùng một tháng chín năm 1939 phát xít Đức tấn công Ba Lan, ngày mùng ba tháng chín, Anh và Pháp tuyên chiến với Đức. Chiến tranh thế giới lẩn thứ hai bùng nổ.
Tháng chín năm 1939, Daladier ra lệnh giải tán đảng Cộng sản
1. Nguyên chủ tịch Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ, hòa bình Việt Nam được thành lập sau Tết Mậu Thân, 1968.
Tiéng sóng bủa ghénh 63
Pháp, khủng bố bắt bớ các đảng viên. Thừa dịp này, toàn quyền Georges Catroux ở Đông Dương ra nghị định giải tán đảng cộng sản và những tổ chức hoặc cá nhân có liên hệ với đảng cộng sản.
Trong tình thế này Trung ương Đảng liền ra thông cáo giải thích tình hình và đề ra mấy công tác cấp bách trước khúc quanh của lịch sử. Đáu tháng mười một năm 1939 Đảng tổ chức hội nghị Trung ương lần thứ sáu tại Hóc Môn dưới sự chủ trì của đổng chí Tổng bí thơ Nguyễn Văn Cừ. Dự hội nghị còn có các đổng chí Võ Văn Tần, Lê Duấn, Phan Đăng Lưu v.v... Tẩm quan trọng đặc biệt của hội nghị này là mở ra một bước ngoặt cho cách mạng Việt Nam, chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, đề ra nhiệm vụ giải phóng dân tộc, thành lập mặt trận thống nhất phản đế Đông Dương.
Nghị quyết Trung ương sáu đươc nhanh chóng phổ biến đến Xứ ủy, các Liên tỉnh ủy Nam kỳ, làm nứt lòng cán bộ đảng viên các cấp. Triển khai nghị quyết Trung ương sáu, Liên tỉnh ủy Hậu Giang do đồng chí Tạ Uyên làm bí thơ triệu tập ngay cuộc họp tại Ngã Lá thuộc quận Cái Côn tỉnh Cần Thơ với thành phần: toàn ban cháp hành Liên tỉnh ủy, bí thơ các Tỉnh ủy như các đổng chí Quản Trọng Hoàng, Châu Xương, Trẩn Văn Bảy, Lý Hổng Thanh, Phan Văn Bảy (tức Bảy cùi), tôi Ngô Thị Huệ, Thái Văn Đẩu v.v...
Đồng chí Võ Văn Tần ủy viên Trung ương Đảng, bí thơ Xứ ủy phổ biến nghị quyết. Đổng chí nêu bật tình hình trong nước và thế giới, đánh giá tương quan lực lượng giữa địch và ta, đồng thời chỉ rõ những công tác trong bước chuyển hướng tiến lên của cách mạng Việt Nam. Trong phần thảo luận đồng chí yêu cầu tập trung nghiên cứu những vấn để có tính chiến lược và cáp bách nhất như vấn để tạo thế cách mạng, rà soát lại lực lượng đảng viên và các doàn thể quần chúng, đồng thời đẩy mạnh các mặt công tác như tạo vũ khí, binh vận, lương thực... củng cố đội ngũ cốt cán đặc biệt là các Hội đoàn đưỢc lập ra trong phong trào 1936-1939, tổ chức hội họp động viên khí thế quẩn chúng...
Hội nghị bàn nhiều ván đề cụ thể như: khẩn trương sản xuất vũ khí, tùy thế mạnh của mỗi địa phương mà tổ chức sao cho nhanh,
6 4 HỒI ứ c NGÔ THỊ HUỆ
gọn, sẵn sàng lãnh đạo bà con nổi dậy khi thời cơ đến. Lòng tôi rạo rực, háo hức, đẩu óc lo nghĩ, tính toán những việc cấn kíp để phát huy vai trò của đảng viên sát cánh với quần chúng cốt cát được tuyên truyền vận động hướng theo Đảng từ bao năm nay. Giữa lúc đó tôi nhận đưỢc một lá thơ của má tôi do chị Năm đem lên bảo phải về gấp để làm đám cưới với anh Qụản Trọng Hoàng. Tôi đọc thư mà toát mồ hôi hột, tình hình đến nước này thì việc cưới xin đâu có phù hỢp. Không hiểu nổi ở dưới nhà mấy anh bàn bạc tính toán với má tôi như thế nào mà bà có thái độ dứt khoát như vậy? Vào cái thời đó, con gái lớn lên đểu được dạy dỗ: “Áo mặc sao qua khỏi đẩu, cha mẹ định đâu con ngồi đó”. Nội cái chuyện là con gái mà tôi một mình đi xa nhà thật cũng quá sức tưởng tưỢng rổi, nên tôi hiểu được má tỏ ra quyết liệt để buộc tôi phải làm theo ý má. Má dặn rất kỹ “Nếu không về, má sẽ không cho tôi đi xa nữa, bắt ở nhà luôn”. Tôi bàn với anh Năm và anh Ba Hoàng sẽ dùng kế hoãn binh làm “đám hỏi” thôi. Sau cuộc họp ở đây, bằng nhiều cách ba anh em sẽ vể Láng Tròn (Bạc Liệu). Vì quá thương má, không muốn làm má buổn khổ hơn, đành phải tính như vậy?
Đổi với anh Hoàng, tôi kính trọng như một người anh, người thầy trên đường cách mạng, anh lớn hơn tôi mười tuổi, già dặn do hoạt động cách mạng sớm. Có những giây phút tôi thẩm nghĩ giữa ngưỡng mộ và yêu thương, đường biên mong manh lắm, có phải chuyện đơn phương đâu! Và tôi cũng không hiểu sao đã có mấy lần tôi tự hỏi: trong thâm tâm liệu mình có thương anh Hoàng không? Hỏi mà không trả lời được, xét ra anh cũng xứng đáng lắm, nhưng rồi dừng lại ở mức kính trọng thôi!
Khi công tác ở Trà Vinh, tôi có được biết thêm về gia cảnh của anh. Quê anh ở Bến Tre, hoạt động ở nhiều nơi, do yêu cầu công tác và cũng do giặc Pháp truy nã nên mới vể đến đây. Anh Quản Trọng Linh, người anh lớn của anh phụ trách “kinh tế mạo hiểm” của Đảng, có vỢ là chị Hổng theo gánh Đồng nữ của bà Ba Viện; vỢ chổng đểu là nghệ sĩ, người dờn người hát, sống tâm đẩu ý hỢp. Tài nghệ và kinh nghiệm lãnh đạo khéo léo của anh chị đã giúp gánh Đồng Nữ được bà
Tiéng sóng bủa ghénh 65
con khán giả mến mộ và nhờ vậy mà vượt qua nhiều khó khăn trước sự săn đuổi của giới cầm quyển. Anh Hoàng vốn đã đậu bâng sơ học và từng học ở College Mỹ Tho. Anh Hoàng dịch báo tiếng Pháp như Tiếng chuông rè của Nguyên An Ninh, giới thiệu rộng rãi trong đảng viên để làm tài liệu vận động cách mạng.
Thơ gởi về nhà rổi mà lòng cứ suy đi nghĩ lại. Chuyện trò với nhiều anh chị, và được anh chị đi trước khuyên bảo: “Đợi cách mạng thành công mới tính đến chuyện hôn nhân là không thực tế. Cách mạng là chuyện lầu dài, độc lập rồi mới xây dựng gia đình, chưa hẳn đúng. Là con người, chuyện vỢ chồng là đương nhiên, đầu có phải thần thánh gì mà cữ kiêng được”. Nhưng do chưa thông chuyện này cho lắm, nên cứ thủ kế “hoãn binh”...
Vào thời điểm lúa chín, độ khoảng tháng mười một âm lịch năm 1939 tôi quyết định trở về gặp má. Đã hơn hai năm rồi, ít khi liên lạc với gia đình có do bận rộn, đi nhiều nơi, dừng chân nhiều chỗ, nhưng chính là muốn tránh cho gia đình không bị liên lụy, khi mình gặp bất trắc.
Gia đình phải tránh né không còn ở Mỹ Quới được nữa, nên phải về Láng Tròn (tỉnh Bạc Liêu) ở nhà chị Ba tôi.
Trên đường về, hơn bất cứ lấn nào tôi thấy nôn nóng sớm đưỢc gặp lại má. Hôm ra đi có chị Tư Ngoạt để chuyện trò, còn bầy giờ chỉ một mình, chẳng biết tầm sự cùng ai. Ngồi trên xe, nhìn cảnh vật chạy thụt lùi bỏ lại sau lưng từng đoạn sông, từng ngã tư, ngã năm, qua những xóm làng heo hút, tự nhiên tôi cảm thấy buồn, tự hỏi: biết đến bao giờ dân mình mới được sướng vui hạnh phúc? Bao giờ những mái trường làng mới đưỢc mọc lên trong thôn xóm? Và tôi lại nghĩ vể các bước công tác sắp tới. Cảm nhận mình có trách nhiệm nặng hơn trước nỗi khổ đau của bà con xứ sở.
Bỗng chốc, xa xa đã hiện ra hình ảnh xóm làng, ở đó có căn nhà chị Ba tôi. Tôi không kểm được hồi họp, cứ tưởng như xe chạy chậm lại. Vừa bước vào nhà đã gặp má. Má ôm chặt tôi, còn tôi ngả đẩu vào vai má, nghe rõ tiếng thở xúc động dồn dập. Gần đủ mặt anh chị em,
6 6 HỔI ức NGÔ THỊ HUỆ
ai cũng vui mừng. Anh Hai vội nói: “Gặp lại là vui rổi, không ai được khóc nghen!” Tối hôm đó cả nhà sum họp đông vui. Tôi đoán biết ai cũng chờ nghe tôi nói lên ý kiến của mình vâng theo ý của má trong thơ “chịu vể làm đám cưới với anh Hoàng”.
Anh Năm để tôi nghỉ ngơi một lát rồi gọi tôi ra ngoài sần bàn thêm: - Dì phải nói với má làm cho gọn, để sáng ngày kia kịp lên đường. - Đổng ý với anh Năm, tồi cũng đang bối rối. Nghị quyết trung
ương sáu phải triển khai nhanh và tình hình này phải tạm gác việc riêng để lo cái chung.
Có tiếng má gọi, tôi trở vào nhà. Anh Hoàng đã có mặt lúc nào không biết, đang ngồi chờ, trông thấy tôi mặt anh tươi hẳn lên. Tôi ngồi xuống ghế đối diện.
- Đạp xe vể đây chắc anh Ba mệt lắm?
- Mệt thì có mệt, nhưng giải quyết ổn mọi việc thì vui rổi! - Hôm rồi tôi có nói “kế hoạch hoãn binh” làm đám hỏi để má yên lòng cho tôi tiếp tục đi công tác, chớ thực lòng tôi chưa dám nghĩ đến chuyện lập gia đình.
Tôi còn đắn đo, anh vội nói:
- Tôi rất muốn nghe chị nói hết ý.
- Đám hỏi cũng có ý nghĩa của nó. Còn đám cưới tôi nghĩ chắc còn phải chờ cách mạng thành công, đất nước yên bình... Anh Hoàng ngổi trầm ngâm, nhìn tôi rồi chậm rãi nói: - Chị tính sao, tôi nghe vậy. Với lại trước mắt công tác dồn dập và chắc chắn sẽ còn dồn dập hơn.
Tôi hiểu được hoàn cảnh của anh: là bí thơ Liên tỉnh ủy Hậu Giang do đồng chí Tạ Uyên chuyển lên, thay chị Nguyễn 'Ihị Minh Khai đã bị bắt.
Cũng giọng trầm trầm anh nói như phân trần;
- Tôi thương chị thiệt tình, mấy điểu chị nói ra cũng hỢp lý, ngày mai làm đám hỏi xong, tôi phải đi ngay về cơ quan triển khai công tác mới. Chị chắc cũng phải đi thôi. Yêu cầu nhiệm vụ đòi hỏi khẩn trương lắm.
Tiếng sóng bủa ghénh 6 7
Trưa hôm sau trong bữa tiệc gia đình, có các đồng chí thay mặt tổ chức chứng kiến lễ hỏi của anh Hoàng với tôi. Bữa tiệc đơn sơ, không khí ấm cúng, ai cũng vui, nhất là má tôi, cười nói tỏ vẻ hài lòng, trìu mến nhìn anh Hoàng và tôi đứng cạnh nhau trình diện với gia đình, bạn bè đổng chí. Có thêm dì Bảy xởi lởi chuyện trò, mừng vui ra mặt. Xong buổi lễ, anh Hoàng thân mật nói với tôi như nhắc lại:
- Tôi sẽ giữ đúng lời hứa. Chị yên tâm (anh Hoàng vẫn giữ cách xưng hô như trước nay).
Để anh yên lòng tôi gởi mấy lời:
- Tôi cũng nghĩ vậy!
Buổi sáng hôm sau, anh Hoàng dậy sớm để từ giã, anh nói có vẻ lưu luyến:
- Bây giờ tôi đi đây, chị ở lại đi sau nghen!
- Dạ, anh đi...
Anh Hoàng thưa gởi, từ giã từng người trong gia đình rồi dắt chiếc xe đạp đua lên đường vể Cẩn Thơ. Dõi theo hình bóng của anh, bất giác tôi thấy bâng khuâng trong lòng.
* * *
Toàn Ban chấp hành Trung ương Đảng lần lượt bị địch bắt, chỉ còn lại đồng chí Phan Đăng Lưu tiếp tục hoạt động. Đồng chí Tạ Uyên thay đổng chí Võ Vân Tẩn vừa bị bắt, nhận trách nhiệm bí thơ Xứ ủy Nam kỳ, triệu tập hội nghị Xứ ủy họp ở Tân Hương quận Châu Thành tỉnh Mỹ Tho. Đồng chí Quản Trọng Hoàng tham dự với tư cách bí thơ Liên tỉnh ủy Hậu Giang thay thế đổng chí Tạ Uyên. Hội nghị bàn kế hoạch khởi nghĩa. Có hai quan điểm nhận định tình hình khác nhau, một bên cho rằng: với tình hình hiện nay đế quốc Pháp đang sa lầy trong chiến tranh, phải tập trung sức chống phát xít Đức, lực lượng quân sự và khả năng kinh tế đang xuống tới mức thấp chưa từng thấy. Trên chiến trường Đông Dương phải đương đáu với phát xít Nhật tràn vào từ Hoa Nam và dính vào cuộc chiến với Thái Lan do Nhật giật dầy, Đảng phát động khởi nghĩa là đúng thời cơ. Qụan điểm thứ
68 HỒI ức NGÔ THỊ HUỆ
hai cho rằng, thời cơ chưa chín mùi, mặc dù thực dân Pháp đang sa cơ, nhưng thế và lực của chúng còn khá mạnh ngay trên chiến trường Đông Dương. Lúc bấy giờ tình hình rất căng: công nhân ở các thành thị sôi sục biếu tình, đình công chống sưu cao thuế nặng, đòi bớt giờ làm, nhất là anh em đảng viên và cán bộ, binh sĩ người Việt Nam trong quân ngũ, phản đối dứt khoát không đi làm bia đỡ đạn trong cuộc chiến ở biên giới với Thái Lan, thà hy sinh trong cuộc nổi dậy lật đổ chính quyền thực dần ngay trên quê hương mình. Khấu hiệu của Xứ ủy đưa ra là: “Không một người lính, không một đồng xu cho đế quốc chiến tranh”. Trong Xứ ủy và nhiều Tỉnh ủy có ý kiến quả quyết: “Nam kỳ trở thành một kho thuốc súng khổng lồ, chỉ cần chầm ngòi là nổ ngay”. Để củng cố Xứ ủy, hội nghị đã bầu đổng chí Tạ Uyên làm bí thơ và các đồng chí Phan Văn Khỏe, Lê Văn Phương, Quản Trọng Hoàng, Phan Văn Bảy (Bảy Cùi), Dương Công Nữ cùng một số đồng chí khác. Hội nghị để ra những công việc gấp rút phải triển khai để khẩn trương chuẩn bị một cuộc khởi nghĩa. Thật ra từ khi có nghị quyết sáu năm 1939 của Trung ương, ngọn lửa đấu tranh giải phóng đã ầm ỉ giờ được khơi bùng lên. Các tổ chức Nông hội phản đế, Thanh niên phản đế, Phụ Nữ phản đế, Học sinh phản đế đã tập hỢp quần chúng sẵn sàng vào cuộc. Nhiều địa phương đã thành lập lực lượng võ trang. Có nơi Nông hội mở lò rèn, suốt ngày đêm rèn giáo mác, dao găm, mũi lao, kiếm, tên sát. Các cơ sở trong đó có chị Tư Mập ở Vũng Liêm hăng hái lo chạy mua thuốc nổ để làm vũ khí tự tạo. Hai đồng chí Hồng Minh, Hổng Phước vốn là thợ cơ khí cũng tìm cách nghiên cứu chế bom và lựu đạn. Có lẩn hai anh bí mật ra bờ đìa sau nhà anh Mười Do ở làng Mỹ Lộc để thử quả bom vỏ làm bằng hũ đựng cải bắc thảo. Khi bom nổ “đùng” hai anh em ôm nhau reo mừng.
ở nhiểu địa phương như Đức Hòa có cả “Khu tạo tác” bí mật sản xuất vũ khí. Xứ ủy Nam kỳ đặt nhiều hy vọng vào số anh em trong quân ngũ Pháp có lòng yêu nước. Các đồng chí thường nói: “Cần đẩy mạnh công tác binh vận để lấy vũ khí địch đánh địch. Khi cần những anh em nghĩa binh sẽ cướp những kho súng đạn lớn của địch ở Sài Gòn và các tỉnh để sử dụng”.
Tiéng sóng bủa ghénh 69
Tuy lệnh khởi nghĩa chưa ban hành, nhưng không khí chuẩn bị thật sôi nổi. Các đội tự vệ, đội du kích đưỢc trang bị vũ khí thô sơ, ráo riết luyện tập. Đêm đêm ta tổ chức mít tinh, hội họp, được bà con tham gia ngày thêm đông. Trong những ngày ấy các cán bộ, đảng viên rất bận rộn, tôi lo công tác tuyên truyển, sắp xếp đội ngũ.
Bọn làng lính địa phương không dám hó hé, chỉ lén lút bí mật báo lên cấp trên, nhiều cơ sở do đó bị lộ, bị bể bạc. Tháng bảy năm 1940, anh Trần \^ n Bảy bí thơ Tỉnh ủy Vĩnh Long, anh Phòng, Bảy Lê và một số đồng chí khác bị bắt. Anh Quản Trọng Hoàng đi họp Xứ ủy về ngang qua đây cũng sa vào tay giặc. Địch đưa các đồng chí vể giam tạm ở khám Cẩn Thơ. Tại đầy anh Hoàng vượt ngục. Trước lúc hành động anh nói với Bảy Lê “Tối nay anh đi”. Bảy Lê biết vậy nhưng không rõ anh đi bằng cách nào. Sáng ra, địch đi kiểm tù, thấy mất anh Hoàng, chúng la hoảng, cho lính truy lùng khắp nơi. Đêm đó anh Hoàng chạy ra ven lộ, băng qua vườn thầy Cẩu, men theo bờ rạch đầy lục bình, vào ẩn nấp tại nhà một đổng chí thợ điện. Sau vụ anh Hoàng vượt ngục, địch đưa tất cả các đồng chí ta vể khám Vĩnh Long.
Trên đường đi họp Liên tỉnh ủy Hậu Giang, tôi đến nhà anh giáo Mai mới biết tin anh Hoàng vượt ngục. Chị Ba Khéo, vỢ anh Mai đưa tôi đến gặp anh Hoàng. Gặp được anh đang lánh mặt trong vườn nhà đổng chí thợ điện, tôi mừng quá chỉ kịp nói vài câu hỏi thăm sức khỏe anh và tình hình các đồng chí cùng bị bắt, rồi vội đi Sóc Trăng để triệu tập đồng chí Huế Minh lên họp Liên tỉnh ủy. Trước khi đi, tôi bàn với anh chị giáo Mai tìm một chiếc tam bản có mui kín đáo để đưa anh Hoàng đến địa điểm họp. Anh Hoàng vừa đi họp Xứ ủy vê, lại vượt ngục đang bị giặc truy lùng gắt gao, nên chúng tôi hết sức cẩn trọng.
Gặp được đồng chí Huế Minh ở Sóc Trăng tôi trở vể Cẩn Thơ ngay để gặp mời đổng chí Lý Hổng Thanh, bí thơ Tỉnh ủy vể họp hội nghị. Khoảng sáu giờ tối hôm đó tôi ghé lại địa điểm cũ cùng với anh chị giáo Mai đưa anh Hoàng qua bên kia sông Bát Sắc (Bassac), đến nghĩ tại nhà anh Mỹ Hòa, tỉnh ủy viên Cần Thơ.
Trên đường đi anh Hoàng kế chuyện bị bắt, bị tra tấn, nhờ địch 70 HỒI ức NGỒ THỊ HUỆ
tưởng anh chỉ là quẩn chúng bình thường nên lợi dụng khoảnh khác trống hai kíp lính đổi gác sơ hở, anh lanh lẹ thoát thân. Tờ mờ sáng hôm sau, hòa vào dòng người đi chợ, xuồng ghe tấp nập từ các nơi đổ vể Cần Thơ, chúng tôi làm người buôn bán, chèo chiếc tam bản có mui, trước mũi và sau lái chất đầy dừa và bầu bí, đi vể Ngã Lá thuộc quận Cái Côn đến địa điểm họp Liên tỉnh ủy Hậu Giang. Trong cuộc họp này anh Hoàng phổ biến nghị quyết của Xứ ủy, đặc biệt thông báo một số tình hình mới nhất, những chuyển biến của chiến tranh thế giới có lợi cho ta, vì đây là thời điểm giằng co quyết liệt giữa trục phát xít với phe đồng minh.
Về mặt tổ chức, Ban chấp hành Liên tỉnh ủy phân công đồng chí Thái Văn Đẩu làm bí thơ Tỉnh ủy Vĩnh Long thay cho đồng chí Trần Văn Bảy đã bị bắt, tôi được cử làm phó bí thơ Tinh ủy. Theo nhận định của Đảng, thời cơ ta giành chính quyển đang đến gẩn. Sau hội nghị mọi người lập tức tỏa vể các địa phương để triển khai công tác. Đồng chí Thái Văn Đẩu và tôi đi về Vĩnh Long nhận nhiệm vụ mới, rà soát lại tình hình của tỉnh. Từng giờ từng phút chúng tôi mong ngóng chỉ thị của Xứ ủy.
Vào khoảng mười giờ sáng ngày hai mươi hai tháng mười một năm 1940, chúng tôi được giao liên của Xứ ủy - chị Năm Mão - người Vũng Liêm về báo đã có lệnh khởi nghĩa, nhưng phải chờ tin giờ chót. Lúc bấy giờ Liên tỉnh ủy Hậu Giang đang đóng ở vàm ông Cớ - Gò Ân Nước Xoáy - tại nhà mẹ vỢ đồng chí Tạ Uyên. Tin này được thông báo ngay cho các tỉnh. Từ thị xã Vĩnh Long tôi vể tới trung tầm chi huy của Liên tỉnh ủy lúc hai giờ chiểu. Tôi ở lại đầy để chờ tin giờ chót. Đổng chí Thái Văn Đẩu phải vể vùng Đất Méo thuộc quận Long Hồ ngay. Khoảng bốn giờ, đổng chí Hai Liên (liên lạc của Xứ ủy) đem tin giờ chót từ Sài Gòn vé; chấp hành lệnh khởi nghĩa. Tôi liên hệ ngay với đồng chí Thái Văn Đẩu và đồng chí Hổng Minh, Hồng Phước phổ biến kế hoạch khởi nghĩa đã được bàn bạc chuẩn bị từ trước. Chúng tôi được phân công cụ thể như sau: Đồng chí Hồng (Hà Thị Lan) bí thơ quận ủy Vũng Liêm, chịu trách nhiệm lãnh đạo giành
Tiếng sóng bủa ghénh 71
chính quyển ở quận này; Hai đồng chí Hiếu Tự và Nguyễn Phương, phụ trách quận Tam Bình; Đồng chí Thái Văn Đẩu vừa tham gia chỉ đạo chung; đổng thời cùng các đồng chí Sỹ, HọC; Kinh, Bảy Cơ huy động du kích giành chính quyền quận Long Hổ; tôi cùng hai đổng chí Hổng Minh, Hổng Phước lo việc giành chính quyền thị xã Vĩnh Long. Riêng anh Quản Trọng Hoàng, bí thơ Liên tỉnh ủy Hậu Giang, Trưởng ban quân sự, sau khi phổ biến lệnh tổng khởi nghĩa cho các tỉnh, tới giờ hành động anh dẫn một đơn vỊ bao vây đánh cứ điểm Gò Ân Nước Xoáy rổi quay về thị xã tham gia chỉ đạo chung (do đồng chí Thái Văn Đẩu mới vể chưa nắm vững tình hình). Hôm đó anh Hoàng đưa ra sơ đổ các vị trí trọng yếu của Vĩnh Long anh đã chuẩn bị sẵn, và hướng dẫn cho các đồng chí phụ trách các điểm tấn công đã có trong kế hoạch.
Chúng tôi bàn với nhau: để có lực lượng mạnh, việc đầu tiên là phải phá khám Vĩnh Long, giải thoát các đồng chí Trần Văn Bảy, bí thơ Tỉnh ủy, Ba Phòng Thường Arụ Tỉnh ủy, anh Tài Tỉnh ủy viên và nhiều đồng chí đã bị địch bắt trước đó. Các đồng chí này sẽ hỢp lực với chúng tôi cùng giành chính quyển.
Để công tác lãnh đạo, chỉ đạo được chặt chẽ, tôi đến gặp chị Ba Khéo (vỢ anh giáo Mai) đang công tác binh vận ở thị xã Vĩnh Long, nhắc lại kế hoạch đã được thống nhất, chị chịu trách nhiệm kéo chuông nhà thờ vào lúc mười hai giờ đêm. Tiếng chuông đó sẽ là hiệu lệnh khởi nghĩa. Tôi cũng đã liên lạc được với anh Trần Văn Bảy đang bị giam trong khám thông qua anh Cầu (tù thường phạm) để thống nhất kế hoạch phá khám. Tù thường phạm nhưng anh Cầu rát nhiệt tình, bởi nếu phá được khám chính anh cũng được giải thoát. Trong nhà giam, được giao việc hớt tóc cho bọn sĩ quan, binh lính, anh được tự do đi lại trong các trại tù. Nhờ anh Trần Văn Bảy viết thư giới thiệu nên tôi mới biết anh Cầu. Anh Bảy còn báo tin Bảy Lê đau nặng, chúng tôi liển sắc thuốc đựng trong chai nhờ trao tận tay anh Cầu để chuyển vô.
Qua anh Cẩu, các đồng chí trong khám đã nhận được kế hoạch khởi nghĩa theo tinh thần: Khi nghe chuông nhà thờ đổ lúc mười hai
72 HỔI ữc NGÔ THỊ HUỆ
giờ đêm; bên trong anh Bảy tổ chức cho anh em tù phá khám, bên ngoài chúng tôi sẽ phá rào.
Tối hôm đó, khi chúng tôi tổ chức lực lượng quẩn chúng như thợ máy, thợ mộc, thợ may, chị em buôn gánh bán bưng cùng một số du kích cải trang thành dân thường từ Long Hồ kéo lên. Được cơ sở trong binh ngũ địch báo tin: địch có lệnh cấm trại tất cả, cho thu gom súng và thiết quân luật toàn thị xã Vĩnh Long. Bán tín bán nghi, tôi vào thị xã tìm gặp cháu đổng chí Hiếu Tự, sĩ quan trong quân đội Pháp và đưỢc người này xác nhận tin khởi nghĩa đã bị lộ, tôi hiểu ngay tình thế sẽ vô cùng khó khăn cho ta. Số anh em ta bị giam không đưỢc giải thoát, số cơ sở binh lính bị cô lập không thể cướp súng địch đánh địch. Tôi chợt nhớ đã có hỢp đổng với anh em tù phá khám từ trong đánh ra, liền chạy báo chị Ba Khéo không giật dây chuông nhà thờ để tránh thiệt hại cho anh em ta.
Giặp Pháp cho lính khám xét rất gắt gao, đàn ông không có giấy chứng nhận làm việc tại các công sở đểu bị đuổi ra khỏi thị xã. Biết kế hoạch cướp chính quyển tại tỉnh lỵ không thành, chúng tôi quyết định chuyển hướng hoạt động, cử hai anh Hồng Minh, Hổng Phước mướn xe xuống bến bắc Mỹ Thuận phá tàu để cắt đường của địch từ Sài Gòn xuống. Dọc đường, xe bị chận lại do có thiết quân luật, người chủ xe sỢ quá bỏ trốn, nhờ biết lái xe hai anh rồ máy cho xe quay trở lại.
- Kế hoạch phá khám, phá nhà đèn, phá tàu Mỹ Thuận không thành, hai anh Hổng Minh, Hổng Phước được giao nhiệm vụ mới, cùng anh em du kích tỏa vể hỗ trỢ các mũi tấn công.
Trong khi đó, tại khu Rừng Dơi thuộc làng Phước Hậu quận Châu Thành, chi bộ Đát Méo với các nòng cốt Sỹ, Học, Kinh, Cơ... ráo riết chuẩn bị cuộc tấn công vào quận Long Hồ.
Màn đêm bắt đầu buông xuống. Rừng Dơi ngày thường im lìm trong bóng tối, nay rẩm rập bước chần của nghĩa quần, trang bị giáo mác, lưỡi lê, gậy gộc... Bom tự tạo đưỢc chuẩn bị sản, sẽ nổ để làm hiệu lịnh tấn công.
Tiéng sóng bùa ghénh 7 3
Đến ngã ba sông có thêm hàng trăm đổng bào, du kích các ấp kéo ra hiệp lực với lực lượng Đất Méo, kéo thẳng đến nhà việc Long Hổ. Trời đã tối hẳn, nhà nhà đểu đóng cửa, bỗng trong cái không gian yên ắng ấy, một tiếng nổ, rồi nhiểu tiếng nổ rộ lên, bà con hai bên đường mở tung cửa túa ra, tất cả cùng reo hò như ong vỡ tổ... Quân khởi nghĩa chiếm nhà việc Long Hổ, bọn tề gian ác đã trốn chạy. Bà con thị trấn đổ ra đường vừa hô khấu hiệu hoan hô khởi nghĩa, vừa vác gậy gộc chạy theo tìm bắt, buộc bọn ác ôn phải đền tội. Hàng trăm ngọn đuốc, lửa bốc cao ngùn ngụt như tăng thêm khí thế cho bà con ùa theo đoàn quân du kích. Đổng bào reo hò phấn khởi khi lần đẩu tiên nhìn thấy cờ đỏ búa liểm phấp phới trên cột cờ giữa lòng thị trấn.
Để ngăn chặn quân tiếp viện, chúng tôi đôn đốc làm ngay mấy việc: - Đốt tất cả sổ sách giấy tờ trong nhà việc; rạch mặt trống không cho chúng báo động cho nhau; cưa đốn cây chặn đường quần giặc; tổ chức thanh niên đi cắt dây thép (dây điện thoại) ngăn đường thông tin hên lạc; phá cầu Cây Me không cho lính tiếp viện đến. ở phía trên cầu Long Hổ, đổng chí Châu Ký và Tư Ghiền chỉ huy, lực lượng thanh niên phục sẵn, khi được lệnh đã lập tức nhúng dầu vào bao bố rải khắp mặt cáu và châm lửa đốt.
Lửa cháy bừng lên làm đỏ rực một góc trời, từng cụm khói bay cuồn cuộn... Thêm một dịp để bà con dần thường sát cánh với đội nghĩa quân hò reo mừng chiến thắng. Chúng tôi ai cũng rộn lên niềm chung vui quên đi những nguy cơ, khó khăn đang chờ trước mắt.
Chúng tôi chia nhau đi tuyên truyển cho đồng bào thấu hiểu khởi nghĩa nổi dậy để giành chính quyền, đánh đuổi thực dân Pháp và địa chủ cường hào đã bao đời làm khổ dân nghèo, đặc biệt là bà con nông dân.
Trời sắp sáng, chúng tôi rút vể Rừng Dơi, thời đó còn là rừng rậm, dơi từng bầy, từng bầy vể đây làm ổ, và nơi này cũng là điểm hẹn mọi người sẽ tập trung vể đầy sau khởi nghĩa.
Vé tới Rừng Dơi không thấy đổng chí Thái Văn Đẩu, tôi nghĩ đồng 74 HỔI ức NGÔ THỊ HUỆ
chí đã bị bắt. Tôi vô cùng băn khoăn, lo lắng. Không còn cách nào khác, với tư cách phó bí thơ Tỉnh ủy, tôi phải tiếp tục lãnh đạo cuộc khởi nghĩa. Hàng trăm anh chị em du kích có mặt tại đây, nôn nóng muổn tiếp tục hành động. Tôi động viên anh em trước mắt là phải ổn định tổ chức, nắm tin tức các nơi rồi có kế hoạch tiếp. Đang rối rắm trước những trở ngại của tình hình, bỏng thấy anh Hoàng xuất hiện. Lúc ấy lối tám, chín giờ sáng hai mươi ba tháng mười một. Anh Hoàng cùng tiểu đội du kích của anh đã chiếm được bót Gò Ân Nước Xoáy, diệt tên đồn trưởng, lấy được ba cầy súng. Anh cùng chúng tôi họp bàn kế hoạch chuẩn bị đánh trả quân tiếp viện, và tìm cách móc nối liên lạc với các quận.
Tại rạch cầy Trôm gần Rừng Dơi đêm hai mươi ba rạng hai mươi bốn tháng mười một chúng tôi đi đánh nhà việc Cái Nhum. Ngoài các anh Hoàng, Hồng Minh, Hồng Phước và tối còn một số du kích đi trên những chiếc xuồng năm lá, có khá đông anh em tại chỗ tham gia.
Nghe tin nhà việc Long Hồ bị quân khởi nghĩa chiếm, bọn hội tể ở Cái Nhum hoảng sỢ bỏ chạy. Bốn năm chục người dân bị chúng bắt canh gác nhà việc cũng định trốn chạy, khi đưỢc nghe anh em ta giải thích, bà con ở lại ráp vô đốt giấy tờ sổ sách, rạch mặt trống...
Đêm hai mươi bốn rạng hai mươi lăm tháng mười một, chúng tôi đi đánh chiếm trụ sở chánh Hội, thu được hai súng lửa. Sau đó, cứ đêm đêm đi hoạt động, ban ngày rút sâu vào Rừng Dơi khiến cho địch rất hoang mang, tể lính trốn chui trốn lủi.
Thực hiện kế hoạch được phân công, đổng chí Nguyễn Phương chỉ đạo lực lượng khởi nghĩa địa phương đánh chiếm nhà việc quận Tam Bình và thiêu hủy hổ sơ giấy tờ; Đồng chí Hiếu Tự kéo đội du kích xuống đánh chiếm nhà việc Cái Ngang, chiếm giữ đưỢc ba ngày. Các đổng chí còn cho anh em chận ghe xuồng qua lại ngã ba Cái Ngang để tuyên truyền bà con tự xé giấy thuế thân và nói rằng: “Thuế thân là của bọn thực dân, từ bây giờ sẽ không dùng đến nữa”. Các đổng chí còn nói thêm: “Giữ thuế thân là còn làm nô lệ cho giặc”, nhiều bà con nghe theo, rủ nhau xé bỏ giấy thuế thân, thả nổi trên sông. Chúng tôi thuở đó đểu hiểu phải hành động như vậy mới là “người cách mạng”.
Tiéng sóng bủa ghénh 7 5
ỉr
Bà Ngô Thị Huệ, ảnh chụp 1940.
Đồng chí Nguyễn Phương cùng với một số đồng chí được phân công tiếp tục chỉ đạo giành chính quyển các làng lân cận quận Tam Bình.
Sau ba ngày chiếm Cái Ngang; qua ngày thứ tư địch cho ca nô chở lính tràn xuống Cái Ngang; du kích ta dùng dây thép ngăn ngầm dưới sông; làm ca nô bị ngáng chân vịt cứ quay vòng vòng không chạy đưỢc. Trên bờ du kích bắn xuống; bà con hô đả đảO; bọn địch phải ra sức chặt đứt dầy tháo chạy vể thị xã Vĩnh Long; chưa biết lực lượng ta mạnh yếu thế nào. Ba ngày saU; địch đem tàu lớn; chở lính lê dương xuống khủng bố, đàn áp khốc liệt nhân dân và lực lượng nghĩa quân. Chúng đốt chỢ; đốt nhà, bắt người; đánh đập nhân dân, chiếm lại đồn bót và đóng quản trở lại vùng này.
Tại Vũng Liêm, đổng chí Hồng (Hà Thị Lan) chỉ đạo ba cánh quần tập trung đánh chiếm được dinh quận, làm chủ năm giờ liền, bắt được
76 HỔI ức NGÔ THỊ HUỆ
tên quận Hải, nhưng do sơ suất để hắn trốn thoát. Ta phá khám thả tù nhân và đốt sổ sách, giấy tờ trong dinh quận. Lực lượng khởi nghĩa còn đánh vào Giồng Ké, chận xe tiếp viện của địch từ Trà Vinh lên, tên tỉnh trưởng Trà Vinh bị thương, được máy bay đưa lên Sài Gòn chữa trị. Trong trận này ta hy sinh một đồng chí. Bất chấp địch điên cuồng chống trả, quần chúng vẫn một lòng một dạ với Đảng, nêu nhiều tấm gương rất cảm động, như anh chị Chín Hóa ở rạch Cáy Trôm tận tình nuôi dưỡng che chở anh em du kích, cả đồng chí Quản Trọng Hoàng; như chị Đặng Thị Nhiên vỢ đổng chí Phan Văn Sỹ, tuy có con mọn vừa giữ con vừa giã gạo, nấu cơm đem vào Rừng Dơi tiếp tế cho nghĩa quân. Nhà chị bị giặc đốt, cha chị bị đày đi Bà Rá, chổng chị bị giặc bắt đi đày và hy sinh ở Côn Đảo. Cả hai người em của đồng chí Sỹ là Học và Kinh cũng đã làm mồi cho cá mập hoặc vùi xác trong lòng đất nghĩa trang Hàng Dương.
Nhắc tới sự hy sinh quá lớn của đồng bào đồng chí tham gia khởi nghĩa, tôi không khỏi nhớ vể đảo Hòn Khoai tỉnh Bạc Liêu. Theo lời kể của chị Quýt, chị Ký - nghĩa sĩ Hòn Khoai - tại khám Phú Mỹ, tuy chậm hơn các tỉnh trong đất liền cả chục ngày, đảo Hòn Khoai do đồng chí Phan Ngọc Hiển lãnh đạo đã phối hỢp cùng đổng chí Bông Văn Dĩa thổi bùng lên ngọn lửa Khởi nghĩa tiến hành nhanh gọn, bắt xử tội tên chúa đảo Olivier, thu nhiều vũ khí và chiếm đảo nhiểu giờ liển, giành thắng lợi trọn vẹn.
Khi giặc Pháp phản công, đàn áp dữ dội, chúng bắt đưỢc đổng chí Ngọc Hiển, và ngày mười hai tháng bảy năm 1941 chúng đưa mười nghĩa sĩ Hòn Khoai ra xử tại Cà Mau. Với thái độ hiên ngang, lẫm liệt, đồng chí Ngọc Hiển đã giật phăng mảnh vải bịt mắt, ngẩng cao đáu dõng dạc hô to:
- Đả đảo đế quốc Pháp!
- Đảng cộng sản muôn năm!
Bảy mươi năm đã trôi qua, nhưng khí thế sục sôi của những ngày Khởi nghĩa Nam kỳ vẫn sáng chói trong lòng tôi và nhiều đồng chí đã từng chen vai sát cánh với đổng bào trong khởi nghĩa.
Tiéng sóng bùa ghénh 77
Bà Ngô Thị Huệ và các đổng chí công tác ỏ Cà Mau trước tượng đài Nam kỳ khởi nghĩa ở Hòn Khoai.
78 HỔI ức NGỒ THỊ HUỆ
Cuộc khủng bố trắng khắp Nam kỳ, những trận càn quét, đàn áp khốc hệt, những cảnh tang thương sau các cuộc ném bom hủy diệt của giặc làm thiệt mạng biết bao đồng bào chiến sĩ cách mạng; hàng trăm đồng chí ta bị xử tử hình, hàng ngàn người khác bị đày ra Côn Đảo, thân thể vùi sầu ở nghĩa trang Hàng Dương. Tội ác này dán ta khắc cốt ghi xương... Đời đời trong tám khảm mỗi chiến sĩ Khởi nghĩa Nam kỳ in đậm tên người, tên đất làm rạng ngời trang sử vàng của Đảng, của dân tộc như Ngã Ba Giồng (Hóc Môn), Vĩnh Kim (Mỹ Tho), rạch Cây Trôm, Gò Ân Nước Xoáy, Vũng Liêm (Vĩnh Long), Cà Mau, Hòn Khoai (Bạc Liêu) v.v...
Hơn một tháng sau ngày Nam kỳ khởi nghĩa, ngày ba mươi tháng mười hai năm 1940, tôi nhận được giấy triệu tập của Xứ ủy họp bàn kế hoạch khởi nghĩa lần thứ hai. Do tình hình còn căng, đồng chí Quản Trọng Hoàng, bí thơ Liên tỉnh ủy Hậu Giang không thể đi được. Từ Vĩnh Long tôi sang Trà Vinh gặp đồng chí Dương Công Nữ (đại diện Xứ ủy), tôi cũng gặp đổng chí Phan Văn Bảy, Xứ ủy viên; đổng chí Hai Trà tức Hai Ho đại diện cho Tỉnh ủy Trà Vinh, tôi đại diện cho Tỉnh ủy Vĩnh Long. Vì chưa tới ngày họp chính thức, tôi tranh thủ quay trở lại để báo cáo nội dung cuộc họp ở Trà Vinh cho đổng chí Hoàng biết.
Để tránh địch theo dõi tôi đi lại bẳng đường sông và có chặng đi bộ. Đêm đó trời tối như mực. Dòng sông Măng Thít chảy xiết, tôi chèo xuồng năm lá ngưỢc dòng, bị nước cản, xuồng nhích lên hết sức khó khăn, đuối quá tôi muốn tấp xuồng vào rặng bần để chờ nước xuôi dòng. Nhưng lòng xốn xang nghĩ đến những tổn thất lớn trọng cuộc khởi nghĩa, bao đồng bào đổng chí ta hy sinh, bao nhiêu anh em bè bạn bị bắt.
Chèo xuồng dọc bờ sông, nhìn lên các lùm cây bần nối dài, từng bầy từng bầy đom đóm lập lòe chớp tắt, cảnh vật quen thuộc này sao đêm nay tôi như hờ hững, vì trong lòng đang ngổn ngang lo lắng, tình hình khởi nghĩa đã bị địch điên cuồng đàn áp. Xuồng đi ngược dòng, tay chân như muốn rã rời, nhưng nghĩ đến trách nhiệm, chí khí đảng viên tôi như có thêm sức đẩy mạnh mái chèo đưa xuồng có trớn lướt tới. Vào khoảng hai, ba giờ sáng, tôi vể đến Long Hổ, đầm mũi
Tiéng sóng bủa ghénh 7 9
xuồng ghé vào tạm nghỉ ở nhà anh Châu Ký. Anh mừng lắm, báo cho biết tình hình các nơi, nhất là đội du kích vẫn bám Rừng Dơi tiếp tục chiến đấu, bọn hội tể khống dám đụng tới. Trời sắp sáng rồi, tưởng như kiệt sức mà lòng cứ thấp thỏm không sao nhắm mắt được. Chợt nghe ở phía xa có tiếng súng nổ dồn dập, tôi đinh ninh đó là miệt rạch Cây Trôm, nơi có nhiểu cơ sở chí cốt từng nuôi dưỡng, che giấu cán bộ đi lại hoạt động.
Tôi bổn chồn lo lắng... Như linh tính báo trước, đúng sáng hôm đó giặc xua lính lê dương vào càn quét rạch Cây Trôm, chúng bắt giữ một số người của ta, lục xét nhà đổng chí Chín Hóa, nơi lực lượng khởi nghĩa làm trụ sở đóng quân, tìm thấy một cây súng giấu trong thần cây chuối, chúng lôi đổng chí Chín Hóa ra bắn tại chỗ. Tiếp tục lục soát khắp nơi, chúng bắt được anh Quản Trọng Hoàng đang núp trong ruộng lúa, còn bọc trong mình tấm bản đổ khởi nghĩa của Vĩnh Long...
ĐưỢc tin anh Hoàng bị bắt, anh vừa là lãnh đạo, chỉ huy, vừa là người anh cả, lòng đau nhói, nhưng phải xốc tới. Tôi cùng Hồng Phước chèo xuồng vượt qua sông Bát Sắc quyết đến cơ sở tiệm may Ánh Hồng bắt liên lạc với đồng chí Lý Hồng Thanh, Liên tỉnh ủ y viên phụ trách bí thơ Tỉnh ủy Cẩn Thơ để nắm thêm tình hình các nơi khác.
Không gặp đưỢc anh Thanh, chúng tôi đành chèo xuồng băng qua sông lớn trở lại Vĩnh Long.
Để lập dự cuộc họp Xứ ủy vào cuối tháng mười hai, theo lệnh triệu tập, tôi gấp rút lên Sài Gòn nhờ số tiển bà con góp nhóp trao cho. Tôi đến cầu Cây Gõ tìm số nhà liên lạc của văn phòng Xứ ủy theo địa chỉ hướng dẫn. Khi bước vào nhà, nhìn thấy một người nằm ngủ đắp chiếc khăn rằn, ngỡ là người của ta, tôi trở cán dù khẽ đập lên chân của anh ta. Anh ta bật ngồi dậy. Tôi sững sờ nhận ra bên cạnh anh ta đang có mấy chiếc còng để sẵn!
Biết mình sập bẫy, tôi vội quay ra phân bua:
- Xin lỗi, tôi đến lộn nhà.
Anh ta cười rất đểu:
80 HỒI ức NGÔ THỊ HUỆ
- Đến đúng địa chỉ rổi đó, không có lộn đâu!
Thì ra cơ sở của Xứ ủy đã bị lộ rồi. Hôm đó là ngày thứ bảy, tôi bị giữ lại đây một ngày một đêm. Trong thời gian này, tôi suy nghĩ sắp đặt lời khai báo sao cho hỢp lý. Tôi nhớ tới người chị họ ở quê tên là Huệ, vốn là người làm ăn chân chất, không dính líu gì đến quốc sự. Tôi sẽ nhận tên mình là Ngô Thị Huệ, vì bọn hội tể ở quê đều biết rất rõ cả gia đìiủi tôi thoát ly đi làm cách mạng.
Sáng sớm ngày thứ hai, tôi bị đưa về bót Catinat*. Tôi bị chúng khảo tra bằng đủ mọi đòn hiểm độc. Tôi một mực khai tên Ngô Thị Huệ, là gái đã có chồng, tên Dương Công Nữ, làm thầy thuốc bắc, quê ở Mỹ Quới. Tôi nhận được thư của chồng gọi lên Sài Gòn để cùng anh mở tiệm may tìm kế sinh nhai.
Rất may là nhờ từng công tác ở Cầu Ngang, Trà Vinh, quê đồng chí Nữ, nên chúng hỏi gì về quê quán, nhân thân của anh tôi đểu biết cả. Đổng chí Dương Công Nữ đã bị địch bắt trước đó. Tám tháng sau địch mới cho tôi gặp đồng chí Nữ để đối chất, giữa lúc đổng chí Dương Công Nữ tỏ ra rất lúng túng cứ nhìn tôi, do không biết trước lời khai bịa của tôi, tôi vọt miệng nói luôn:
- Các ông lớn đã biết hết rồi, tôi đã khai, tôi tên là Ngô Thị Huệ, quê ở Mỹ Quới, làm nghể thợ may, lên đây tìm anh để mở tiệm may thêu, còn anh hốt thuốc bắc...
Chúng truy manh mối bâng cách hỏi:
- Ai làm mai?
Tôi nói:
- Chúng tôi làm ăn gặp nhau, không ai làm mai cả...
Trong suốt tám tháng bị giam ở khám Catinat, bót Giếng Nước... tôi bị khảo tra đánh đập rất dã man, chúng buộc tôi phải trả lời nhiều vấn để, trong đó có mối quan hệ giữa tôi và anh Quản Trọng Hoàng mà chúng biết đã bị bắt với tội danh đương chức bí thơ Liên tỉnh ủy
1. Nay là trụ sở của Sở Ván hóa Thể thao, số 164 đường Đổng Khởi Qxaận 1 TP. Hồ Chí Minh
Tiéng sóng bủa ghénh 81
Hậu Giang, chỉ huy khởi nghĩa ở miền đất này. Tôi một mực khai không biết ông Quản Trọng Hoàng là ai. Bọn mật thám bót Catina không cam chịu thua mà gấp rút gởi hình tôi về Cẩn Thơ để thẩm tra các tù nhân cộng sản, và cuối cùng chúng hả hê nhận đưỢc lời khai báo tông tích của tôi là "người yêu” của Quản Trọng Hoàng. Chúng lập tức bày ra một cuộc “đối chất”.
Hôm chúng giải tôi qua Tòa án Sài Gòn trên đường Mac Mahon* gặp bồi thẩm để "đối chất” với Quản Trọng Hoàng. Vừa trông tháy anh, tôi cố gắng hết sức tự trấn tĩnh, tỏ ra dửng dưng xa lạ. Tên bổi thẩm ra hiệu bảo anh ngổi trước một bàn nhỏ rổi hất hàm ngó vể phía tôi:
- Có biết người này không?
Tôi lắc đầu:
- Không, tôi không biết người này.
Anh Hoàng cũng quả quyết:
- Tôi không biết cô này. Hôm trước do bị mấy ông đánh đau quá, nên khai đại vậy, chớ thật tình tôi không biết cô ấy.
Vặn đi hỏi lại đủ mẹo, tên bồi thẩm chẳng moi ra được sơ hở nào trong lời khai của tôi và anh Hoàng, chúng đành đưa chúng tôi vể khám lớn^ trên một chiếc xe trùm kín. Tôi định hỏi thăm sức khỏe của anh và các đổng chí thân quen, nhưng chưa kịp nói, anh nhìn tôi chậm rãi như đã từng nói với nhau:
- Chắc chị bị khảo tra, đánh đập nhiểu lắm phải không? - Đã rơi vào chốn này sao tránh khỏi đòn roi, còn anh? - Chúng nó tra tấn dữ lắm, nay cũng đỡ rồi. Chắc sẽ không khỏi chúng nó kêu án... có thể “tử hình”.
Nghe hai tiếng “tử hình”, tôi lặng thinh trong phút giây, nhìn anh,
1. Nay là đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa Qụận ITP. Hổ Chí Minh.
2. Nằm trên đường La Grandière, nay là Thư viện Tổng hợp nâm trên đường Lý Tự Trọng Quận 1 TP. Hồ Chí Minh.
82 HỔI ứ c NGÔ THỊ HUỆ