🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành đồng - Tập 2
Ebooks
Nhóm Zalo
Chịu trách nhiệm xuất bản
GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
PGS.TS. PHẠM MINH TUẤN
Chịu trách nhiệm nội dung
ỦY VIÊN HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP - XUẤT BẢN TS. VÕ VĂN BÉ
Biên tập nội dung: TS. NGUYỄN THỊ QUỲNH NGA TS. HOÀNG MẠNH THẮNG
ThS. PHẠM VĂN THÔNG
ThS. NGUYỄN VĂN TUÂN
ThS. NGUYỄN CÔNG TÂY
LÊ THỊ THU HỒNG
PHAN KIM YẾN
TRẦN PHAN BÍCH LIỄU
Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Sửa bản in:
Đọc sách mẫu:
TRẦN QUYẾT THẮNG
TRẦN VĂN TIẾN
NGUYỄN VĂN TUÂN
PHÒNG BIÊN TẬP KỸ THUẬT VIỆT HÀ
PHẦN III
THẾ HỆ CHÚNG TÔI
ĐI THEO BÁC HỒ
Đã có một thế hệ những người con miền Nam, với lòng yêu nước, chuộng nghĩa khí, trước cảnh “nước mất nhà tan”, đã không cam tâm làm nô lệ cho ngoại bang và bọn tay sai, họ đã chọn lựa con đường dấn thân cùng dân tộc dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Và với họ, Hồ Chí Minh là biểu tượng của ý chí, của khát vọng dân tộc: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc dù phải hy sinh, gian khổ đến đâu, dù phải chịu cảnh chia cắt, ly tán, tù đày khắc nghiệt đến mấy, quân và dân hai miền vẫn quyết tâm bảo vệ từng tấc đất, bảo vệ sự trọn vẹn và thống nhất Tổ quốc thiêng liêng.
5
Thượng tướng Trần Văn Trà tại căn cứ (năm 1973)
6
THẾ HỆ CHÚNG TÔI ĐI THEO BÁC HỒ
Cuối năm 1948, lần đầu tiên tôi được gặp Bác Hồ ở chiến khu Việt Bắc, trước đó
tôi chỉ nghe tên Người với lòng yêu nước thương dân của Người. Sự ngưỡng vọng Bác Hồ từ đó đã ảnh hưởng đến tâm hồn và chí hướng của tôi cũng như thế hệ thanh niên chúng tôi hồi ấy.
Sống dưới chế độ thuộc địa tàn bạo, dân Việt Nam không còn chút quyền làm người. Từ tuổi 12, tôi đã mắt thấy lính lê dương, khố đỏ, khố xanh của Pháp xả súng bắn vào dòng người nông dân tay không đi biểu tình xin bớt xâu, giảm thuế những năm 1930 - 1931 ở quê tôi. Trí óc non nớt của tôi bàng hoàng kinh dị không sao hiểu nổi. Các bậc lớn tuổi đã giải thích, đã kể cho tôi nghe về những anh hùng vì nước quên thân ở địa phương như cử nhân Lê Trung Đình, Nguyễn Tự Tân, thời Cần Vương có cụ Phan Đình Phùng. Rồi cụ Đề Thám, tôi mến phục cụ chống Tây nhiều năm ở Yên Thế. Tôi đã được nghe về chí hướng của cụ Phan Chu Trinh, người mà cả nước đưa tang. Rồi những dòng thơ, đoạn văn thiết tha kêu gọi yêu nước thương nòi của cụ Phan Bội Châu như trách móc, như giục giã người trai phải nghĩ gì và làm gì: Hỏi đến nước còn không? Không biết. Gọi đến tên Việt Nam, không thưa! (Hải ngoại huyết thư). Đây quả là một quá trình lên men cách mạng. Mãi đến 4-5 năm sau, trên con đường đi tìm lẽ sống, một người bạn lớn tuổi thì thầm với tôi về cái tên một nhà yêu nước đã làm rung động tận đáy lòng tôi. Chúng tôi trao đổi: Dân ta không chịu làm nô lệ từ nghìn năm nay đã rõ. Nhưng các phong trào Văn Thân, Cần Vương, Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục..., đều thất bại. Các cuộc khởi nghĩa của các cụ đều bị dìm trong máu. Anh bạn nói: Có bầu máu nóng và có gan làm cũng chưa đủ. Cần có ý nghĩ và cách làm đúng. Phải có ngọn cờ chỉ hướng và trăm nghìn ngọn gió từ khắp bốn phương. Ngọn cờ đã có: Nguyễn Ái Quốc. Người đã đi khắp châu Á, châu Phi, châu Mỹ, châu Âu để tìm đường cứu nước, cứu dân. Người đã kết luận phải làm cách mạng theo kiểu Lênin. Chúng ta hãy góp làm gió. Câu chuyện thân tình và cái tên Nguyễn Ái Quốc đã lôi cuốn và ảnh hưởng quyết định đến phương hướng cuộc đời tôi từ ấy.
7
Chưa biết Người, nhưng lòng yêu nước thương dân, chí hướng cách mạng, tư tưởng của Người đã dần dần thấm sâu vào máu thịt của tôi cũng như của bạn bè tôi. Chưa trực tiếp đọc được tài liệu, tác phẩm nào của Người, nhưng con đường phải đi, Người đã vạch. Tôi và bạn bè lần theo tìm tòi, nghiền ngẫm trong những tài liệu hiếm hoi của những nhà cách mạng đi trước, của Mác, của Lênin. Trên con đường vạn dặm mới bước đi đoạn đầu, nhưng mỗi bước đi đều được dẫn dắt bằng hình ảnh mến phục về vị lãnh tụ kính yêu đang bôn ba vì dân, vì nước. Sung sướng biết bao trong cảnh mịt mùng đen tối đã lóe lên ánh sáng soi lối dẫn đường. Mỗi một đời người cần có đích để khỏi làm giá áo túi cơm, thời nào cũng vậy. Thời chúng tôi, dưới sự cai trị tàn khốc của thực dân, con người bản xứ biến thành nô lệ, yêu nước là một tội, làm cách mạng là một tội lớn. Tôi cùng bạn bè phải thoát ly gia đình, đi vận động giác ngộ quần chúng về quyền tự do của con người, giành độc lập cho Tổ quốc. Muôn vàn khó khăn, gian khổ. Nhiều khi chịu đói khát, trốn chạy bọn mật thám, quan làng. Có lúc tưởng như nản chí bỏ cuộc. Nhưng thường những lúc như vậy, hình ảnh tưởng tượng về một con người mà hào quang sáng chói, cụ Nguyễn Ái Quốc, lại hiện ra vẫy gọi. Ta vẫn ở đất mình, sống trong dân mình, còn cụ, cụ xa đồng bào và lũy tre quê hương, khổ gấp trăm mình, sao Người vẫn kiên gan, bền chí. Thế là dũng khí trở lại, con người minh mẫn hơn, chịu đựng hơn. Trong ngục tối, xà lim, dưới gông cùm, nhà tù của thực dân, đặc biệt trong Sở Mật thám, trước bọn “đầu trâu mặt ngựa”, Tây có, bản xứ có, sức mạnh giúp tôi vượt qua cảnh hiểm nghèo chết đi sống lại là tâm nguyện quyết đi theo Người. Có lần, tại Sở Mật thám Catinat của Pháp ở Sài Gòn, trong khi tra tấn tôi, tên trùm mật thám Đông Dương Bazin đã thốt ra: Mày chỉ là một tên quèn mạt hạng không đáng cho tao phải dơ tay. Nếu mày được một phần nào của Trần Phú thì tao mới phục, mới chịu thua. Lạ thật, một câu miệt thị nhục mạ lại trở thành một câu trấn tĩnh, khuyến khích: Sao ta lại không được một phần nhỏ của các đồng chí đi trước? Những người cùng “máu đỏ đầu đen” như ta, lại được kẻ thù tàn bạo nhất phải phục và chịu thua. Đó đúng là ý chí con người. Phải noi gương Trần Phú! Tên Bazin có ngờ đâu câu chửi rủa của nó lại trở thành một câu thần chú cho “kẻ mạt hạng” biết cách làm người cách mạng kiên trung.
Năm 1945, đồng bào cả nước đứng dậy làm Cách mạng Tháng Tám, đổi đời nô lệ thành người tự do. Làn sóng phấn khởi và tự hào của hàng chục triệu trái tim Việt Nam bừng lên bao trùm sông núi. Nhưng chưa đầy một tháng độc lập thì thực dân Pháp được quân Anh giúp sức, đánh chiếm trở lại, bắt đầu từ Sài Gòn.
Một sự kiện lịch sử quan trọng: ngày 02/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã long trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, nhấn mạnh:
8
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Lời tuyên bố thật là đanh thép và thiêng liêng. Đồng bào Hà Nội, thay mặt đồng bào cả nước đã tuyên thệ. Nhưng Hồ Chí Minh là ai? Tôi và bạn bè đều thắc mắc với cái tên mới xuất hiện. Năm 1944, khi tôi phụ trách cơ quan bí mật Kỳ bộ Việt Minh Nam Bộ còn in và phát hành lời kêu gọi đồng bào đứng lên làm cách mạng của cụ Nguyễn Ái Quốc ký năm 1941 và biết rõ rằng cụ vẫn là lãnh tụ tối cao của cách mạng Việt Nam cho tới ngày nay. Vậy thì Nguyễn Ái Quốc đâu rồi và giờ đây Hồ Chí Minh là ai? Không khỏi có những băn khoăn trong bạn bè chúng tôi và tất nhiên có phần nào cân nhắc hành động. Một ông bạn từ Hà Nội phái vào đã giải đáp thắc mắc kịp thời cho chúng tôi: Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc. Tin vui lan nhanh trên toàn mảnh đất đầu sóng ngọn gió. Tức thì cả rừng tầm vông vạt nhọn tủa lên khắp Sài Gòn và các tỉnh Nam Bộ theo lời kêu gọi của cụ Nguyễn Ái Quốc: “Việc cứu quốc là việc chung. Ai là người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác một phần trách nhiệm: Người có tiền góp tiền, người có của góp của, người có sức góp sức, người có tài năng góp tài năng”. Ôi! Những giờ phút nguy nan nhất của một dân tộc và cả những giờ phút vinh quang tột bậc nữa, cần biết bao một ngọn cờ lãnh đạo, cần biết bao một con người tiêu biểu cho toàn dân tin tưởng noi theo, cần biết bao một chủ trương sáng suốt cho triệu người hành động, sẵn sàng nhảy vào nước sôi, lửa bỏng. Những ngày tháng 9/1945, ta đã có con người Hồ Chí Minh vĩ đại như vậy!
Tháng 9 năm ấy, tôi bắt đầu cuộc đời người lính mặc dầu tôi chưa hề biết bắn súng nói gì đến hiểu biết sơ đẳng nhất về chiến tranh và quân đội. Tôi cầm ngọn tầm vông rồi khẩu súng, làm người lính rồi người chỉ huy vì tôi tâm đắc lời Bác: “Thà chết tự do hơn sống nô lệ”. Tôi nghe lời Bác dạy: “cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến của toàn dân cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân...” và “Chúng ta nhất định thắng lợi vì cuộc đấu tranh của chúng ta là chính đáng”. Tôi đã làm theo lời Bác và động viên bạn bè khắp nơi làm như vậy.
Từ một người dân bị áp bức trở thành người cách mạng, từ một người chính trị trở thành người quân sự không đơn giản chút nào. Thế mà tôi và bạn bè đã quyết định dứt khoát cho sự chuyển hướng của cuộc đời mình chỉ vì tôi và cả đồng đội của tôi trong thời kỳ đó tin vào Bác mà bước đi, nghe lời Bác mà hành động.
Cho đến năm 1948, chiến trường Nam Bộ đã vững vàng và phát triển thắng lợi. Đã qua rồi những năm sóng gió 1945 - 1946 tưởng chừng như cách mạng phải lùi bước và quân địch lên ngôi. Trong những năm ấy, quân Pháp tăng cường
9
bung ra khỏi Sài Gòn và lần lượt chiếm các tỉnh Nam Bộ. Ta càng nhiều lúng túng, chưa hiểu biết gì về chiến tranh, chưa kịp tổ chức có quy củ, lại bị bọn xấu, bọn cơ hội quấy rối trong những ngày đầu cách mạng thành công, nên tình hình có nhiều khó khăn. Đến nỗi cơ quan lãnh đạo cả Nam Bộ không còn hoạt động, mỗi người một ngả, thậm chí có người còn ra tới Hà Nội để “báo cáo”. Rõ ràng quần chúng nhân dân cách mạng có vai trò quyết định. Cán bộ chiến trường và cơ sở có rất nhiều sáng tạo và vững vàng kiên định. Lòng tin vào lãnh tụ Hồ Chí Minh, vào chính nghĩa, giương cao ngọn cờ của Bác, nhân dân một lòng hợp lực cùng cán bộ Đảng, cán bộ Việt Minh mà từ tay không gây dựng thành cơ đồ. Từ cuối năm 1946 qua đầu năm 1947, hệ thống tổ chức lãnh đạo từ cơ sở đến tỉnh, khu và toàn Nam Bộ đã được khôi phục, củng cố, các đơn vị chiến đấu từng bước trưởng thành. Đây là sức mạnh của lòng tin yêu lãnh tụ, sức mạnh của nhân dân một khi đã thức tỉnh. Từ năm 1947, chiến tranh du kích đã phát triển rộng và mạnh. Ở Khu 8 Nam Bộ, lúc ấy tôi là Khu trưởng, đã tổ chức ra đơn vị chủ lực đầu tiên cấp tiểu đoàn: Tiểu đoàn 307. Đã có trận đánh tập trung và tiêu diệt như trận Giồng Dứa, trận Mộc Hóa... Trung ương chỉ thị phải có người ra trực tiếp báo cáo tình hình miền Nam. Vì vậy, cần có đoàn cán bộ gồm đủ thành phần quân, dân, chính, từ Đồng Tháp Mười ra Việt Bắc. Tôi được chỉ định làm Trưởng đoàn, tôi vô cùng phấn khởi. Còn gì bằng, trong lúc tình hình chiến trường đang lên, ta có nhiều thắng lợi, tôi lại được gặp Bác Hồ, người mà mình ngưỡng mộ từ lúc mới giác ngộ, được báo cáo với Bác và Trung ương về những ngày gian khổ đã qua, những ấu trĩ vấp váp gặp phải, những thành công đã gặt hái và đặc biệt là tấm lòng của người dân Nam Bộ đối với Bác và Trung ương. Thật tình lúc mới được chỉ định đi, tôi cũng có nhiều băn khoăn, lo nghĩ. Chủ trương của quân khu vừa vạch ra không được tự mình thực hiện vì phải đi vắng, như tổ chức chủ lực mạnh hơn để đẩy mạnh chiến tranh du kích, mở những trận đánh tiêu diệt lớn hơn, những chiến dịch kết hợp chủ lực và du kích... và đường đi chưa được tổ chức thông suốt, có nhiều gian khổ hiểm nguy. Nhưng lòng mong mỏi được gặp lãnh tụ Hồ Chí Minh - đồng chí Nguyễn Ái Quốc kính yêu, và được hiểu biết tình hình thực tế cả nước đã thôi thúc tôi và anh em trong đoàn lên đường. Một trung đội vũ trang mạnh đi theo bảo vệ. Tôi trực tiếp điều khiển trinh sát đánh địch, mở đường để đi và nhờ từng địa phương hướng dẫn giúp đỡ. Sáu tháng trường liên tục, ngày đêm đi bộ dọc phía đông dãy Trường Sơn biết bao gian nan, nguy hiểm. Chúng tôi đã lội qua các sông suối đổ mạnh trong mùa mưa lũ, đã vượt qua nhiều ngọn núi cao trên nghìn mét, đã đi dọc các bãi cát nóng bỏng khô cằn, đã chèo thuyền lướt trong đêm tối qua biển Nha Trang, Cam Ranh, đã luồn qua vùng địch giữa các đồn bót chi chít, đã đánh trả phục kích dọc đường... Nhọc nhằn
10
và thiếu thốn, đau ốm, trở ngại, có lúc tưởng không đi được đến nơi. Một lần cả đoàn họp thảo luận nên đi tiếp hay trở lại. Trong đoàn có một linh mục trẻ: Cha Nguyễn Bá Kính, đại biểu cho đồng bào Công giáo yêu nước kháng chiến Nam Bộ. Cha phát biểu: “Tôi muốn được gặp Bác Hồ, con người suốt đời vì dân, vì nước mà đồng bào Công giáo đi theo, để báo cáo công cuộc tham gia kháng chiến của đồng bào. Vì vậy, gian khổ, hiểm nghèo mấy tôi cũng quyết tâm đi tới đích”. Tất cả mọi người đều chung ý nghĩ, biến thành sức mạnh lội suối, trèo đèo, xông pha nguy hiểm. Kẻ địch theo rất sát chúng tôi, phục kích, chặn đầu, truy đuổi, chúng dùng máy bay dội bom và cuối cùng nhảy dù chụp bắt chúng tôi ở vùng tự do Vân Đình, phía tây Hà Nội. Nhưng chúng đã thất bại. Rừng Việt Bắc mênh mông đã đón chào đoàn con từ bưng biền Đồng Tháp. Làm sao tả hết được niềm hạnh phúc của mỗi người khi lần đầu được gặp Bác Hồ, vị lãnh tụ kính yêu mà từ lâu tin tưởng. Đó là một buổi sáng đẹp. Mặt trời “niềm nở” xuất hiện. Những tia nắng ban mai ấm áp vừa kịp xuyên qua kẽ lá cây rừng. Đoàn chúng tôi được hướng dẫn lên hội trường để gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh và một số đồng chí trong Trung ương, Chính phủ và Bộ Tổng Tư lệnh.
Hội trường là một nhà lớn, thoáng, dựng bằng cây rừng, vách nứa và lợp bằng tranh trên một nền đất cứng dưới tàn cây xanh tươi, bên cạnh một con suối nhỏ hiền hòa, nước trong vắt. Chúng tôi hiểu đây là một buổi tiếp chính thức đoàn đại biểu Nam Bộ. Mỗi người đều vuốt lại quần áo ngay thẳng, sửa lại dáng điệu cho nghiêm trang, khi chúng tôi gần đến bậc thềm hội trường thì từ trong đó đi ra một cụ già mảnh khảnh, khỏe và nhanh nhẹn, đầu đã điểm sương, có chòm râu thưa phơ phất. Đồng chí hướng dẫn nói với đoàn đây là Bác Hồ. Tự nhiên, tất cả chúng tôi, không ai bảo ai, đều rảo bước tiến nhanh về phía Bác, vây chặt quanh Bác, lòng tràn đầy xúc động, giống như đàn con đi xa lâu ngày về gặp cha già. Chúng tôi quên cả lễ nghi cần có, ôm lấy Bác, sờ nắn tay Bác, vuốt bộ quần áo nâu cũ trên người Bác như để tìm hiểu tường tận một con người vĩ đại mà từ lâu chỉ tưởng tượng ra đủ mọi điều. Rất giản dị giống như trăm nghìn cụ già Việt Nam bình thường, Bác Hồ đứng đó thật gần gũi, vẻ mặt tươi cười, cặp mắt dịu hiền nhìn từng người chúng tôi trìu mến. Rồi, Bác chỉ tay vào trong nói: Thôi, các chú vào trong này, mọi người đang đợi kìa. Thế là Bác ung dung bước đi và cả chúng tôi đi theo không nói lên được một lời nào. Đúng là có những lúc không cần nói một lời nhưng cả dáng điệu, cặp mắt, từng cử chỉ đã nói lên tất cả, nói rất nhiều mà không lời nào có thể diễn đạt được. Vào đến trong, Bác chỉ tay và giới thiệu: Đây đồng chí Trường Chinh, đây đồng chí Hoàng Quốc Việt, đồng chí Phạm Văn Đồng, đồng chí Võ Nguyên Giáp. Và sau đó đồng chí Vũ Đình Huỳnh giới thiệu tiếp các vị khác... Thật là một cuộc gặp gỡ thắm đượm tình đồng chí, đồng đội,
11
không một kiểu cách nghi thức nào. Sau này, tôi nghe kể nhiều lần Bác tiếp khách, cả khách quốc tế, thường rất linh hoạt, đậm đà tình thân ái, để lại một ấn tượng sâu sắc, đẹp đẽ khó quên cho khách được tiếp, mặc dù có khi phá cả luật ngoại giao. Khi đã về Hà Nội cũng vậy, tôi được thấy Bác tiếp các đoàn Trung Quốc của Lưu Thiếu Kỳ... cùng một phong thái như vậy mà đạt kết quả rất cao trong việc củng cố tình anh em giữa các dân tộc.
Những ngày ở Việt Bắc, được gặp Bác, được Bác nhận xét về công việc, chỉ dẫn phương pháp cách mạng, nói về đạo đức của một cán bộ, tôi cảm thấy lòng vững tin hơn ở chiến thắng, chí vững bền hơn trước mọi khó khăn. Bác bảo đoàn kết là sức mạnh. Toàn dân đứng dậy thì không kẻ địch nào thắng được. Trên bàn tay có ngón ngắn ngón dài. Triệu người có người thế này thế khác nhưng tất cả đều ít nhiều có lòng ái quốc. Ngay với những người lầm đường, hãy lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Phải độ lượng, quý trọng từng con người. Sông sâu, bể rộng thì bao nhiêu nước cũng chứa được. Ôi! Tình thương người mênh mông của Bác, chính là tính nhân từ truyền thống của dân tộc ta. Nghe Bác nói, nhìn dung nhan Bác, tôi mường tượng đến cốt cách và tinh thần của Nguyễn Trãi “đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo”.
Bác bảo: Chúng ta, đồng bào ta, không ai muốn chiến tranh. Nhưng kẻ địch tàn bạo bắt ta phải chiến đấu. Ta chiến đấu chỉ vì quyền sống của dân tộc. Vũ khí của địch để giết người, của ta để bảo vệ người, vì nhân, vì nghĩa. Hai nhà tư tưởng của hai thời kỳ Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh lại gặp nhau ở điểm:
Quyền mưu bản thị dụng trừ gian
Nhân nghĩa duy trì quốc thể an...
(Quyền mưu vốn dĩ để trừ gian
Nhân nghĩa giữ gìn thế nước an).
Sau một thời gian làm việc với các ngành, các cấp, đoàn chúng tôi lại trở về Nam. Trong bữa tiệc của Bác, Trung ương và Chính phủ để chia tay với đoàn tại khu rừng Việt Bắc, chúng tôi rất cảm động trước tình cảm quyến luyến của mọi người. Bác nhìn chúng tôi từng người, trìu mến dặn dò: Các chú phải biết giữ gìn sức khỏe, phải tổ chức hành quân chu đáo, hết sức giúp đỡ nhau, phải giành thắng lợi ngay trong chuyến đi này. Hãy chuyển lời của Bác và Trung ương đến cán bộ và đồng bào Nam Bộ. Với tinh thần quật cường và lực lượng to lớn của dân tộc ta, của Quân đội ta, ta nhất định thắng. Rồi Bác kêu tôi lại, đưa ra một thanh gươm nói: “Bác trao chú thanh gươm quý này, đưa về cho đồng bào Nam Bộ để diệt thù. Chú báo cáo với đồng bào rằng lòng Bác, lòng Đảng lúc nào cũng bên cạnh đồng bào.
12
Chúng ta đồng lòng vì nước, nhất định chúng ta thắng”. Bác nói ít, khi nào cũng ngắn gọn nhưng chứa đựng rất nhiều. Mỗi lời của Bác là một căn cứ cho niềm tin, sưởi ấm cho mọi tấm lòng.
Đường về của chúng tôi còn gian nan vất vả hơn khi đi nhiều vì địch đã biết, đã chờ đợi khắp các chặng đường. Lúc này địch đã mở rộng chiếm đóng lên vùng núi rừng Bình Trị Thiên, nên chúng tôi phải đi vòng về phía tây xuyên dãy núi Phong Nha đầy đá tai mèo hiểm trở. Tuy vậy, nếu khi đi lòng mong muốn gặp Bác Hồ đã nung đúc cho chân cứng đá mềm để đi đến nơi thì lúc về, những lời dặn dò của Bác như thúc giục chúng tôi về mau tới chiến trường để giết giặc, giữ dân.
Những năm 1952 - 1953 là những năm Nam Bộ có nhiều khó khăn gian khổ, đặc biệt là chiến trường miền Đông. Vừa bị bão lụt lớn, nạn đói lan tràn, vừa bị địch đánh phá dữ dội, ta bị thiệt hại nhiều, chiến sĩ và đồng bào Nam Bộ vẫn không ngừng kiên trung chiến đấu. Mỗi khi chúng tôi đến đâu, báo cáo lại với đồng bào, đồng chí về cuộc gặp Bác, những lời Bác dặn thì ở đó có sự động viên, cổ vũ, là một dịp củng cố niềm tin tất thắng và khuấy lên phong trào hành động cách mạng sôi nổi quên mình.
Suốt những năm chiến tranh, Bác Hồ như có mặt khắp chiến trường, có sẵn trong trái tim mỗi chiến sĩ để củng cố quyết tâm chiến đấu, nâng đỡ, dìu dắt những khi yếu đuối, khắc phục mọi trở ngại khi gặp gian nan. Nhưng thời kỳ khó khăn nhất mà hàng triệu người dân miền Nam xao xuyến là thời kỳ bộ đội miền Nam phải tập kết ra Bắc năm 1954 theo quy định của Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương. Không thể ra lệnh mà được ai đi, ai ở. Anh bộ đội cầm súng chiến đấu chín năm trời những mong thắng lợi để trở về với xóm ấp quê hương, với mẹ già, vợ trẻ. Anh du kích căm thù quân giặc, quyết sống chết bảo vệ bà con làng mạc của mình. Nay hòa bình rồi lại phải xa hàng nghìn cây số, gia đình phân tán, sao mà lưu luyến cả từng bụi trúc, bờ kênh. Còn những người ở lại nữa. Gần chín năm trời sống ngẩng cao đầu, có chính quyền dân chủ, có bộ đội mình, nay sống tay không dưới quyền kẻ địch. Nó phản bội đàn áp thì sao? Hàng triệu con người đứng trước một quyết định không nhỏ: Ở lại và ra đi! Không một mệnh lệnh nào có thể bắt buộc mọi người tuân thủ. Chỉ có Bác Hồ mới giải quyết được. Đây là sự kết hợp của cả khối óc và con tim Bác đã giải thích. Bác đã kêu gọi, Bác nói: “vì lợi ích toàn quốc, lợi ích lâu dài mà tạm thời phải chịu đựng, đó là một điều vẻ vang, toàn quốc đều biết ơn... Tình hình mới, phải có chủ trương mới để tranh lấy thắng lợi mới”. Thế là mọi người nghe theo Bác, phấn khởi và tin tưởng, chấp hành nghiêm chỉnh việc ở và đi.
13
Khó khăn chồng chất khó khăn. Hai năm qua rồi mà không có tổng tuyển cử thống nhất nước nhà, ngược với nguyện vọng sâu xa của cả một dân tộc. Mỹ - ngụy lại vô cùng tàn bạo: Bắn giết, tù đày, máy chém, máu chảy đầu rơi. Hàng triệu người từ miền Nam đòi quyền sống, hàng vạn người tập kết từ miền Bắc đòi trả thù. Tất cả sôi sục yêu sách hành động: Máu trả máu, đầu trả đầu! Không có sự lãnh đạo vững vàng của Đảng, uy tín tuyệt đối của Bác Hồ, không thể đợi mãi đến năm 1959 - 1960 mới có Đồng khởi miền Nam và vượt Bến Hải xẻ dọc Trường Sơn về Nam chiến đấu của cán bộ mùa Thu (cán bộ tập kết theo kế hoạch).
Nếu cuộc chiến tranh chống thực dân cũ rất khó khăn vì ta bắt đầu từ hai bàn tay trắng thì cuộc chiến tranh chống thực dân mới lại ác liệt gấp trăm lần. Lính của địch đông nghẹt đất miền Nam, lại có vũ khí hiện đại giết người hàng loạt. Thủ đoạn của chúng tàn ác, tinh vi hơn, mưu mô quỷ quyệt hơn. Chúng quyết chiếm miền Nam, phá hoại miền Bắc. Dân tộc Việt Nam đứng trước nguy cơ diệt vong, đất nước có nguy cơ “trở về thời đồ đá” như chúng hăm dọa. Nhân dân cả nước nhìn về Hà Nội, hướng về Bác Hồ, Bác đã tỏ rõ ý chí “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Bác đã hạ quyết tâm “dù phải chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn”. Bác khẳng định: “Sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta là chính nghĩa... Đồng bào cả nước hãy tin tưởng chắc chắn vào thắng lợi cuối cùng. Hãy quyết tâm vượt mọi khó khăn gian khổ... Ta nhất định thắng”.
Nghe theo lời Bác, lực lượng vũ trang cũng như nhân dân miền Nam yên tâm, quyết chí, không ngại hy sinh, anh dũng và sáng tạo trong chiến đấu, kiên quyết giành thắng lợi bằng niềm tin tuyệt đối vào Bác Hồ.
Ngày tôi trở về Nam với cương vị Chỉ huy trưởng các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam, Bác Hồ trong bữa cơm tiễn thân mật đã dặn dò đại ý: Địch rất tàn bạo, ỷ là nước đế quốc mạnh nhất, quân đội hiện đại nhất, chiến tranh sẽ vô cùng ác liệt. Ta là chính nghĩa, ta áp dụng chiến tranh nhân dân cách mạng. Chiến sĩ trong dân, dân là chiến sĩ, địch ở đâu cũng bị đánh, đến đâu cũng gặp quân ta, đi đâu cũng bị đánh. Quân Mỹ dù đông, trang bị dù mạnh nhưng chúng từ xa tới, cái gì cũng lạ, mạnh trở thành yếu. Ta ít, trang bị kém, nhưng lại ở nhà đánh giặc, thạo từ gốc cây bụi cỏ, ở đâu cũng được dân giúp đỡ, yếu trở thành mạnh. Nghe Bác nói, tôi liên tưởng đến vị anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo với chủ trương “lấy đoản binh chế trường trận” mà đánh bại quân Mông - Nguyên - một đội quân mạnh nhất thế giới thời ấy, và tới lúc đó chưa hề nếm mùi thất bại. Một lúc sau, Bác lại bảo: Các chú đã nghiên cứu cách đánh hiện đại của Hồng quân Xôviết, cần nghiên cứu và kết hợp với cách đánh thiên biến vạn hóa của ông cha ta ngày xưa như Trần Hưng Đạo
14
thắng quân Nguyên; Lê Lợi, Nguyễn Trãi thắng quân Minh; Nguyễn Huệ thắng quân Thanh... Phải hết sức sáng tạo về chiến thuật và chiến dịch. Đừng đánh theo cách đánh của chúng mà bắt chúng phải đánh theo cách đánh của ta thì sẽ nắm chắc phần thắng. Cứ bắt Tây cầm đũa ăn cơm với ta, chắc nó sẽ ngồi mà nhìn ta ăn hết món ngon này đến món ngon khác. Nó thua ta thôi. Trong khi ngồi uống nước, Bác nhìn thẳng vào tôi thong thả nói: Dân ta khổ nhiều rồi, bộ đội ta phải chiến đấu lâu dài, ta phải sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả từng hạt gạo, từng viên đạn. Các chú phải bảo đảm truyền thống của quân đội cách mạng. Lực lượng ta không nhiều nhưng tinh thần cao, chiến sĩ giỏi, chỉ huy và chiến sĩ thương nhau như con một nhà, tất cả là vì dân, vì nước, thì quân địch dù đông và hung hãn, ta cũng sẽ thắng. Hãy mở rộng đoàn kết và bằng mọi cách phát huy tài năng trí tuệ của từng con người. Bác mong nhận được nhiều tin vui.
Tôi vô cùng xúc động, hứa hẹn đem lời Bác dặn truyền đạt cho mọi người. Sẽ không ai dám làm sai lời Bác, nhưng làm đúng như lời Bác là cả một sự nỗ lực tìm tòi sáng tạo lớn lao và thường xuyên của cán bộ và chiến sĩ các cấp. Tôi còn nhớ, khi quân Mỹ mới vào Việt Nam năm 1965, tại Bộ Tham mưu Miền, chúng tôi họp với cán bộ tác chiến và chỉ huy đơn vị bàn về cách đánh của quân Mỹ và cách quân ta đánh Mỹ. Đánh quân ngụy có Mỹ cố vấn và chi viện, ta đã có được chiến thắng Ấp Bắc, Bình Giã, Đồng Xoài, Ba Gia. Còn từ nay đánh trực tiếp với quân Mỹ chính cống, trang bị hiện đại tận răng thì chiến thuật, chiến dịch phải thế nào để giành phần thắng. Rất nhiều ý kiến bung ra nhưng chưa có cơ sở nào để kết luận. Anh Nguyễn Chí Thanh - Chính ủy Bộ Chỉ huy Miền phát biểu: “Cứ đánh Mỹ đi tự khắc ta sẽ tìm cách đánh đúng nhất”. Tôi tán thành ngay và sực nhớ Napoleon - nhà quân sự lỗi lạc của nước Pháp cũng từng nói một câu tương tự: “On s’engage et puis on voit” (Lao vào trận đánh và qua đó thấy rõ”). Cuộc họp này Bác Hồ đã biết. Đầu năm 1966, tôi có dịp gặp Bác, Bác nói: “Chú Thanh nói thế là đúng. Đó là khoa học. Các chú đã có một số kinh nghiệm và lý luận, hãy đem kiểm nghiệm nó vào thực tế rồi rút ra kết luận. Sự việc luôn diễn biến đổi mới, phải qua thực tế mà sáng tạo không ngừng”. Bác không bỏ sót một dịp nào để giáo dục cán bộ. Bác nói ngắn gọn, dễ hiểu nhưng rất súc tích, nhiều nội dung. Mỗi lời nói của Bác trở thành những bài học vừa cao sâu, vừa đơn giản, dễ hiểu, vạch ra cho lực lượng vũ trang miền Nam cách tổ chức quân đội, cách đánh và sách lược, chiến lược phải theo. Bác dạy phải bày bố một thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc bao vây địch khắp chốn. Ta hoàn toàn chủ động lựa chọn địa điểm, thời cơ, phương pháp tấn công một quân địch đông hơn, trang bị nhiều hơn nhưng ngơ ngác như vào nhà người lạ, buộc địch phải tham chiến trong hoàn cảnh bất lợi, bị động. Bác bảo xây dựng quân đội cách mạng phải mạnh, ít nhưng tinh. Cán bộ và chiến sĩ như ruột thịt, xả thân
15
vì nước, phải phát huy tài năng và trí tuệ của mỗi người, phải luôn luôn dũng cảm và sáng tạo. Làm tướng cách mạng phải có đạo đức: Nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Nhân nghĩa đứng hàng đầu. Phải quý trọng từng con người, ngay với kẻ địch phải lấy lòng nhân mà cảm hóa họ. Tất cả những trận đánh thắng oanh liệt, tất cả những thành tích đạt được của lực lượng vũ trang miền Nam là nhờ Bác mà có, do Bác chỉ dạy phương hướng, phương châm để tự suy nghĩ và hành động. Khi quân Mỹ đã tham chiến được khoảng một năm, Bác nói với chúng tôi, những cán bộ thực hiện rằng, Mỹ rất ngoan cố, chúng có tiềm lực chiến tranh lớn, nhưng ta nhất định phải thắng chúng, không phải thắng kiểu thông thường của chiến tranh là diệt triệt để quân đội chúng, điều đó khó, mà là phải đuổi hết chúng ra khỏi đất nước ta để tính đến ngụy, điều này phức tạp đấy, nhưng chắc chắn làm được. Phải thắng chúng bằng cả chính trị, quân sự, ngoại giao... Không những trên chiến trường Việt Nam mà cả trên chính trường thế giới, ngay cả ở nước Mỹ nữa. Cách đánh quân sự phải thật đau nhằm mục tiêu ấy. Mỹ phải rút thì ngụy nhất định đổ. Với sự chỉ dẫn đó, lực lượng vũ trang miền Nam đã đánh địch bằng mọi cách, từ từng chiến sĩ một, đến cả trăm đơn vị lớn, từ vùng rừng rậm sình lầy đến vùng dân cư đô thị, từ từng trận chiến đấu, từng chiến dịch đến hàng loạt trận chiến đấu, chiến dịch trong cùng một lúc trên toàn bộ chiến trường, như Tết Mậu Thân, như Xuân 1975. Đối với quân ngụy, Bác chỉ ra rằng, không phải tất cả đều phản bội Tổ quốc, phản bội giống nòi mà họ có cả trăm nghìn nguồn gốc khác nhau. Rộng lượng và nhân ái, dũng cảm và kiên trì, vì chính nghĩa, dân tộc ta nhất định sẽ thắng và hòa bình, đoàn kết xây dựng đất nước.
Tiếc rằng ngày toàn thắng không còn có Bác để quân và dân Việt Nam ta được báo cáo với Bác. Tư tưởng, trí tuệ và lòng nhân ái của Bác đã được thực hiện nghiêm chỉnh và sáng tạo. Ngồi vào chiếc thuyền do Bác cầm lái sao mà vững vàng thế, cả những khi bão to, sóng lớn. Mỗi thủy thủ trên tàu cảm thấy tự tin, hoàn toàn tự do phát huy sáng tạo theo hiệu lệnh thống nhất để chiến thắng. Mỗi người đều thấy trách nhiệm của mình, đều đem hết tài năng phục vụ và tự hào rằng trong thắng lợi vĩ đại có một chút công sức nhỏ bé của mình. Đã 20 năm xa Bác, nhân dân có lúc nào không nhớ Bác. Nhất là hiện nay, ta đang gặp nhiều khó khăn: Đất nước đang khủng hoảng nhiều mặt, nhân dân đương gay go trong đời sống và sản xuất. Điều này hẳn Bác đã thấy rõ lúc Bác còn sống. Trong Di chúc của Bác viết từ năm 1965 cho đến năm 1969, Bác đã dặn dò: “Ngay sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của dân ta đã hoàn toàn thắng lợi, công việc toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải ra sức làm là mau chóng hàn gắn vết thương nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra trong cuộc chiến tranh xâm lược dã man. Đó là một công việc cực kỳ to lớn, phức tạp và khó khăn. Chúng ta phải có kế hoạch sẵn sàng, rõ ràng,
16
chu đáo, để tránh khỏi bị động, thiếu sót và sai lầm”. Chúng ta không làm đúng theo Di chúc ấy, chạy theo kế hoạch viển vông, duy ý chí, phạm phải nhiều khuyết điểm sai lầm.
Trong Di chúc của Bác, có đoạn viết: “Trong bao năm kháng chiến chống thực dân Pháp, tiếp đến chống đế quốc Mỹ, đồng bào ta, nhất là đồng bào nông dân đã luôn luôn hết sức trung thành với Đảng và Chính phủ ta, ra sức góp của góp người, vui lòng chịu đựng mọi khó khăn gian khổ. Nay ta đã hoàn toàn thắng lợi, tôi có ý đề nghị miễn thuế nông nghiệp 1 năm cho các hợp tác xã nông nghiệp để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất...”.
Đoạn này cũng như trong đoạn Bác viết rất cụ thể về công việc đối với con người: “Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong...)... Đối với các liệt sĩ... Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ)... phụ nữ đảm đang... những nạn nhân chế độ xã hội cũ...” đã chứng tỏ tấm lòng cao cả và ý sâu chiến lược xây dựng đất nước của Bác. Thật giống như Trần Quốc Tuấn, sau ba lần anh hùng thắng quân Nguyên đã khuyên vua Trần đừng tu sửa cung điện vội mà lo cho dân trước “chúng chí thành thành”, tức là ý chí của dân là bức thành kiên cố, bức thành đó mới cần sửa chữa ngay.
Rõ ràng việc giải phóng nước nhà trong chiến tranh cũng như việc xây dựng lại đất nước sau hòa bình, Bác luôn dạy dỗ và thực hiện: “Nước lấy dân làm gốc”. Ngay từ lúc còn trong những ngày chiến đấu gay go, Bác đã lo đến tương lai đất nước, vận mệnh của dân tộc nên trong Di chúc, Bác dặn rất kỹ về công việc hàn gắn vết thương nghiêm trọng của chiến tranh, việc lo cho con người, lo cho các tầng lớp nhân dân, miễn thuế cho nông dân đỡ khổ... Và cũng giống y như Nguyễn Trãi: “Phải coi chừng mối họa loạn, có khi do yên ổn mà nên. Phải đón ngăn ý kiêu xa, có khi do sung sướng mà đến”. Bác dặn việc trước tiên là củng cố lại Đảng.
Bác viết: “Theo ý tôi, việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng”. Sao mà Bác sáng suốt thế. Mỗi người, trước khi lên đường đi xa hẳn phải kiểm lại sức khỏe, xốc lại hành trang của mình, huống gì sắp bước vào cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng một đất nước lạc hậu đã bị 30 năm chiến tranh tàn phá. Một đảng lãnh đạo đã chiến thắng vang dội, đã nắm chính quyền trong cả nước cần chỉnh đốn lại cho trong sạch, vững mạnh để một lòng vì dân vì nước, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, xứng đáng do Bác Hồ sáng lập và rèn luyện.
Bác Hồ vô vàn kính yêu của dân tộc suốt đời lo cho dân, cho nước. Lúc mất đi vẫn để lại một Di chúc hết sức quan trọng, được viết kỹ lưỡng và đầy trách nhiệm trong 5 năm ròng, đến bây giờ nhân dân ta đã được biết trọn vẹn.
17
Hai mươi năm đã trôi qua trong đó có 15 năm xây dựng một Tổ quốc thống nhất, ta càng thấy nội dung Di chúc đúng đắn biết bao đối với đời sống đất nước, dân tộc sau chiến thắng.
Cả thế hệ của chúng tôi đã đi theo Bác, làm theo Bác, nên đã đóng góp một phần vào lịch sử oanh liệt của dân ta, giải phóng nước ta. Ngày nay, chấp hành nghiêm chỉnh Di chúc của Bác, toàn dân ra sức xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng theo đường lối đổi mới do Đảng đề xướng là đi đúng theo con đường mà Bác Hồ đã vạch ra lúc sinh thời. Bác sẽ sống mãi trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta.
Tháng 5/1989
18
HAI THỜI KỲ, HAI LỜI DẶN CỦA BÁC
Năm 1948, tôi làm Trưởng đoàn quân - dân - chính Nam Bộ từ Đồng Tháp Mười
ra Việt Bắc báo cáo tình hình với Trung ương và Bác. Khi trở về, Trung ương và Bác đã chiêu đãi phái đoàn. Trong buổi chiêu đãi, Bác trao cho tôi một thanh gươm quý, biểu tượng cho vũ trang và nói: Toàn dân đứng dậy thì không kẻ địch nào thắng được. Đoàn kết là sức mạnh. Bác trao chú thanh gươm quý này, đưa về cho đồng bào Nam Bộ để diệt thù. Chú báo cáo với đồng bào rằng lòng Bác, lòng Đảng lúc nào cũng bên cạnh đồng bào. Chúng ta đồng lòng vì nước, nhất định chúng ta thắng.
Năm 1963, tôi là Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, được chỉ định về Nam làm Chỉ huy trưởng các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam khi Mỹ tiến hành “Chiến tranh đặc biệt”. Bác kêu lại nhà và đãi một bữa cơm tiễn đưa đơn giản, nhưng thân tình. Bác trao cho tôi một hộp thuốc xì gà Cuba do Fidel gửi tặng Bác và bảo: Đưa về biếu cho các chú để biết thêm rằng, ta có sự ủng hộ của bè bạn và nhân dân thế giới, vì ta là chính nghĩa, ta có sự đoàn kết toàn dân và cả đoàn kết quốc tế, đoàn kết khi nào cũng là sức mạnh. Mỹ là một đế quốc giàu, có tiềm năng quân sự, rất ngoan cố và tàn bạo. Chiến tranh sẽ vô cùng ác liệt, ta sẽ phải hy sinh nhiều, nhưng ta phải thắng vì ta không muốn làm nô lệ mất nước. Ta phải thắng bằng cả quân sự, chính trị, ngoại giao... Ta phải đánh thế nào để đuổi hết quân Mỹ xâm lược về nước để ta thanh toán quân ngụy bán nước. Nước Việt Nam nhất định độc lập, thống nhất.
Hai thời kỳ, hai kẻ thù. Tư tưởng Bác rõ ràng: Đoàn kết toàn dân là sức mạnh. Phải hiểu địch, hiểu ta, phải biết cách đánh và biết thắng. Việt Nam phải độc lập và thống nhất.
Sau khi có Nghị quyết 15 của Trung ương về cách mạng miền Nam thì Bộ Chính trị quyết định cho cán bộ miền Nam lần lượt về Nam chiến đấu. Tôi là Phó Tổng Tham mưu trưởng, được Quân ủy Trung ương giao nhiệm vụ trực tiếp tổ chức huấn luyện và việc hành quân về Nam từ năm 1959 cho đến năm 1963
19
khi bản thân tôi cũng về Nam. Ngay từ đoàn đầu tiên chỉ gồm 25 đồng chí cán bộ quân sự do Trung tá Tăng Thiên Kim chỉ huy, Bác đến thăm khi liên hoan lên đường. Bác hỏi sức khỏe từng đồng chí, hỏi việc học tập, kế hoạch hành quân và dặn dò cách bảo đảm đi đến nơi về đến chốn. Và các đoàn về sau, trừ lúc Bác đi vắng hay quá bận, còn thường thì Bác vẫn đến thăm và dặn dò trước khi lên đường. Bác không nói nhiều nhưng mọi người thấy ở Bác một tình cảm sâu đậm của một người cha, người thầy, người chỉ huy, người lãnh đạo, một tình yêu thương đồng chí, một sự lo lắng chu đáo đối với nửa nước còn lại chưa được giải phóng, với đồng bào miền Nam còn bị đau khổ. Thực sự Bác đã truyền niềm tin chắc thắng cho từng người, nung sôi ý chí và quyết tâm vì nhân dân mà hy sinh, vì nhiệm vụ mà bất chấp gian lao, khổ cực.
Mỗi lời của Bác là một lời non sông Tổ quốc vọng lại, hình ảnh thân thương của Bác trong mỗi trái tim chiến sĩ, an ủi lúc khó khăn, khuyến khích khi thắng lợi. Bác không những lo cho các đoàn quân mà còn lo phương tiện cho họ chiến đấu. Đường 559 Trường Sơn cũng như Đường 759 trên Biển Đông thực sự là đường Hồ Chí Minh chiến lược vì Bác hết sức chú ý. Những năm đầu hình thành hai con đường này, tôi được Quân ủy Trung ương giao nhiệm vụ tổ chức nên Bác hay kêu tôi báo cáo từng chặng đường, từng giai đoạn. Mỗi người gùi trên lưng bao nhiêu vũ khí, lương thực khi còn đường mòn đi bộ, mỗi xe đạp thồ được mấy trăm ký hàng. Cả mỗi chuyến tàu chở vũ khí vào Nam, Bác cũng đến thăm, khuyến khích và đánh giá việc thành công. Căn cứ tàu, lúc đầu giữ bí mật cao, tại Đồ Sơn, Bác cũng đã đến thăm và chỉ dạy.
Tấm lòng bao la của Bác lo cả đất nước, miền Bắc cũng như miền Nam, lại còn lo cho những vấn đề cụ thể, từng vấn đề chiến lược, từng đơn vị vũ trang. Trong các năm 1956, 1957, 1958, khi nghe báo cáo về tình hình miền Nam, nhân dân bị khủng bố, bị bắt tù đày, bị nhốt vào khu trù mật, Bác đã khóc. Năm 1962 - 1963, khi nghe báo cáo tình hình miền Nam, nhân dân bị dồn ép trong các ấp chiến lược, chịu đựng các đợt càn quét trên bộ lẫn trực thăng, Bác đã khóc. Ở Bác, biểu hiện lòng nhân ái, thương yêu nhân dân, yêu thương bộ đội, chiến sĩ.
Ở Bác, biểu hiện tình đoàn kết với nhân dân và bè bạn quốc tế. Ở Bác, biểu hiện của một con người yêu chuộng hòa bình. Người luôn tìm mọi cách để gìn giữ hòa bình, chiến tranh chỉ là bắt buộc phải làm, không còn cách nào khác. Và khi đã chiến tranh ta buộc phải thắng để lập lại hòa bình.
20
TỔNG TƯ LỆNH BIẾT QUÝ
TỪNG GIỌT MÁU MỖI CHIẾN BINH1* (Về Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp)
Võ Nguyên Giáp đã trở thành nhân vật lịch sử lỗi lạc trên lĩnh vực quân sự
trong phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam và phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới suốt thế kỷ XX chống thực dân cũ và chủ nghĩa thực dân mới. Đồng thời, Võ Nguyên Giáp còn là một trong những gương mặt sáng ngời của nền văn hóa Việt Nam. Nói và viết về Võ Nguyên Giáp cũng như về bất cứ nhân vật lịch sử nào khác, chúng ta phải hết sức trung thực kẻo con cháu mai sau hiểu sai hôm nay và hôm qua.
Trước hết, tôi nghĩ rằng, không nên gọi Võ Nguyên Giáp là Đại tướng. Gọi “Đại tướng” không có gì sai nhưng không biểu hiện được vai trò đứng đầu toàn quân của Võ Nguyên Giáp và mối quan hệ rất khăng khít của Võ Nguyên Giáp với toàn quân. Nên gọi: Tổng Tư lệnh hoặc anh Văn.
Gọi “Tổng Tư lệnh” là gọi một cách trang trọng. Từ đầu kháng chiến chống Pháp, anh Văn đã được Ban Thường vụ Trung ương Đảng cử làm Bí thư Trung ương Quân ủy (về sau, lần lượt gọi là Bí thư Tổng Quân ủy, Bí thư Quân ủy Trung ương) và được Bác Hồ thay mặt Chính phủ cử giữ chức Tổng Chỉ huy (vài ba năm sau, đổi thành Tổng Tư lệnh). Anh Văn đã đứng vững ở cương vị Bí thư Quân ủy Trung ương và cương vị Tổng Tư lệnh để chỉ huy tất cả chính ủy, các tư lệnh và các tướng suốt hai cuộc kháng chiến dưới sự lãnh đạo của Bộ Chính trị, đứng đầu là Bác Hồ và sau này là anh Ba Duẩn. Vì vậy, nếu muốn gọi Võ Nguyên Giáp một cách trang trọng theo chức vị, tôi cho rằng gọi Tổng Tư lệnh là đúng hơn cả. Bác Hồ là
* Bài viết được trích từ bài báo “Tổng Tư lệnh biết quý từng giọt máu mỗi chiến binh” của nhà báo Nhật Hoa Khanh trong cuộc phỏng vấn Thượng tướng Trần Văn Trà năm 1992 và được đăng trên Báo Kiến trúc & Đời sống.
21
Tổng Tư lệnh cao nhất của cách mạng giải phóng dân tộc. Võ Nguyên Giáp là Tổng Tư lệnh của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Còn gọi “anh Văn” là gọi một cách thân mật. Hai chữ “anh Văn” vừa nói lên vai trò “anh cả” của Võ Nguyên Giáp trong quân đội vừa nói lên quan hệ vô cùng mật thiết của Võ Nguyên Giáp đối với toàn quân và giới trí thức cũng như giới văn nghệ sĩ.
Vấn đề lớn thứ hai về anh Văn là toàn quân từ các anh Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Văn Thái, Văn Tiến Dũng, Lê Trọng Tấn, Vương Thừa Vũ, Hoàng Cầm, Đồng Văn Cống đến những người lính bình thường, ai nấy đều đặc biệt yêu mến Võ Nguyên Giáp.
Phải công nhận một thực tế, anh Văn có hạnh phúc lớn là được hưởng niềm yêu mến gần như tuyệt đối của toàn quân. Nói một cách khác, trong toàn quân, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp là người giữ được uy tín gần như tuyệt đối từ ngày thành lập quân đội cuối tháng Chạp năm 1944 đến suốt hai cuộc kháng chiến thần thánh vừa qua và kể cả cho đến hôm nay.
Tôi còn biết nhiều anh chị em trí thức và văn nghệ sĩ danh tiếng cũng hết sức quý trọng Võ Nguyên Giáp. Giáo sư Tôn Thất Tùng, Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước chẳng hạn. Tiếc rằng ba nhân vật tài giỏi và mẫu mực này đã mất...
Vấn đề lớn thứ ba, nhiều ý kiến có tầm nhìn xa trông rộng, sắc sảo và độc đáo của Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp trong hai cuộc chống Pháp và chống Mỹ về chiến lược quân sự và chiến thuật quân sự cần được giới sử học nghiên cứu thật công khai, thật công bằng và thật công tâm.
Về phần mình, suốt hai cuộc kháng chiến, tôi chưa hề thấy Bí thư Quân ủy Trung ương kiêm Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp mắc một sai lầm nào về chiến lược và chiến thuật quân sự, tôi chỉ thấy anh Văn đi những nước cờ bậc thầy vây hãm và tiến công quân địch!
Vấn đề lớn thứ tư, Võ Nguyên Giáp là một Tổng Tư lệnh biết đau với từng vết thương của mỗi người lính, biết tiếc từng giọt máu của mỗi chiến binh. Trong cuộc đời Tổng Tư lệnh của mình, Võ Nguyên Giáp luôn luôn thực hiện một trong những quan điểm cốt tử của chiến tranh chính nghĩa: Dứt khoát phải giành bằng được chiến thắng với hiệu quả cao nhất nhưng phải đi đôi với hạn chế cao nhất sự hy sinh xương máu của tướng sĩ.
Anh Văn đã kiên nhẫn và kiên quyết đấu tranh cho quan điểm cốt tử đó. Chính tinh thần kiên nhẫn và kiên quyết bảo vệ quan điểm cốt tử này càng làm cho anh
22
Văn xứng đáng là người “anh cả” của toàn quân, càng làm cho anh Văn trở thành “một cây đa rợp bóng mát tình yêu thương đồng đội”.
Tôi muốn nói rõ thêm ý kiến của mình:
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước toàn thắng vừa qua đã ghi nhận vô số sáng tạo trên lĩnh vực quân sự của quân và dân ta. Nhưng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước toàn thắng vừa qua cũng ghi nhận một số bài học lịch sử vô cùng đau xót về vấn đề bảo toàn tính mạng và xương máu chiến sĩ. Có những trường hợp, chiến thắng tuy lớn hoặc rất lớn nhưng xương máu bộ đội bị mất mát quá nhiều. Những trường hợp này, nếu thực hiện cách đánh thận trọng hơn theo quan điểm của anh Văn thì chắc chắn số lượng thương binh và tử sĩ sẽ ít hơn và vì thế, chiến thắng sẽ lớn hơn nữa.
Vấn đề lớn thứ năm, Võ Nguyên Giáp là một con người bao dung và độ lượng. Trong những giai đoạn quyết liệt bậc nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, Bí thư Quân ủy Trung ương kiêm Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp bao giờ cũng đứng vững ở quan điểm cốt tử nói trên. Nhưng buồn bực biết bao, vì những lý do nào đó, sự kiên định và sáng suốt này đã bị một vài người hiểu lầm là đồng nghĩa với sự nhút nhát và thiếu tinh thần cách mạng tiến công (!). Tuy nhiên, điều đáng kính phục hơn nơi anh Văn là trong quan hệ với những người hiểu lầm mình, anh vẫn tiếp tục cư xử một cách nhã nhặn và bình thản!
Là cán bộ cấp dưới của anh Văn, tôi luôn thấy anh Văn nói về cái tốt, cái đúng của đồng đội, đồng thời chưa bao giờ thấy anh Võ Nguyên Giáp thanh minh một vấn đề nào về bản thân mình. Với Võ Nguyên Giáp, bất cứ công tác nào mà cách mạng trao phó cho anh, anh đều hoàn thành chu đáo.
Năm vấn đề lớn trên đây góp phần thể hiện tầm vóc “đại thụ” của Võ Nguyên Giáp. Cần nghiên cứu cặn kẽ những sự thật lịch sử đó để có thêm chất liệu góp phần khắc họa chân xác hình ảnh nhân vật lịch sử Võ Nguyên Giáp...
23
LỊCH SỬ VÀ CON NGƯỜI
(Về Luật sư Nguyễn Hữu Thọ)
Lịch sử Việt Nam thế kỷ XX là lịch sử giải phóng dân tộc. Cả một dân tộc vùng
dậy, sôi nổi như triều dâng, ầm ầm như bão tố, quét sạch mọi thế lực phản động, đập tan ách nô lệ thực dân, viết lên những trang sử hào hùng, dựng nên một nhà nước xã hội chủ nghĩa thực sự dân chủ để đi đến công bằng, hạnh phúc.
Mỗi người dân Việt Nam yêu nước đều gắn mình vào dòng lịch sử oanh liệt ấy, mỗi người một vị trí, hợp thành bức tường đồng kiên cố của Tổ quốc, không một sức mạnh nào lay chuyển nổi. Trong dòng lịch sử ấy nổi lên một ngọn cờ nửa đỏ nửa xanh với ngôi sao vàng năm cánh và một cái tên: Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Gắn liền với Mặt trận là tên tuổi không phai mờ của Luật sư Nguyễn Hữu Thọ - Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận.
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam sinh ra từ phong trào Đồng khởi thắng lợi vang dội của nhân dân miền Nam những năm 1959 - 1960, và tiếp tục thực hiện sứ mệnh lịch sử vận động và tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân từ nông thôn đến thành thị, vì mục đích chính nghĩa giành độc lập, tự do và thống nhất đất nước. Không những trong nước mà cả ngoài nước, uy tín của Mặt trận lan nhanh ngày càng lên cao trong suốt 15 năm chiến tranh chống đế quốc Mỹ vô cùng gay go, ác liệt. Ngọn cờ Mặt trận đã giương cao ở nhiều thủ đô các nước trên thế giới. Người đứng đầu Mặt trận, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ - một nhà trí thức yêu nước chân chính, một chiến sĩ cách mạng đấu tranh kiên cường trong cả hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nổi tiếng trong nhân dân cả nước Việt Nam và trong nhân dân các nước trên thế giới.
Có thể nói nhân dân miền Nam nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng đã sản sinh ra người con trung thành, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ. Mặt trận Dân tộc Giải phóng đã rèn luyện và tạo ra uy tín lớn lao ngang tầm với vai trò lịch sử của mình. Đồng thời, con người của Luật sư Nguyễn Hữu Thọ với tên tuổi và đức độ của mình đã làm cho thanh thế của Mặt trận nâng cao và vang xa khắp bốn phương. Thời thế đã tạo nên người anh hùng và người anh hùng cũng xây nên thời thế.
24
Phong trào cách mạng của nhân dân miền Nam đấu tranh để sống còn và tự do dân chủ, cơ hồ bị dập tắt trong máu vào những năm 1958 - 1959, khi mà Mỹ - Diệm đưa lên tột cùng việc “tố cộng, diệt cộng” dã man và quái gở, lê máy chém đi khắp nông thôn, chém đầu bất cứ ai có tư tưởng chống lại chúng. Nhưng nhân dân miền Nam vốn có truyền thống lâu đời đấu tranh bất khuất, không còn sống nổi dưới chế độ phátxít, cõng rắn cắn gà nhà, đã nổi dậy khởi nghĩa từng phần, chiếm chính quyền ở cơ sở thành công vang dội sau khi được lãnh đạo kịp thời và đúng đắn của Nghị quyết 15, Trung ương Đảng và trực tiếp của Trung ương Cục miền Nam. Các đoàn thể cách mạng của nhân dân khắp thành thị và nông thôn được tổ chức và lớn mạnh nhanh chóng. Yêu cầu của cách mạng đòi hỏi phải tập hợp rộng rãi hơn nữa các tầng lớp nhân dân yêu nước thành sức mạnh dời non lấp biển để giành thắng lợi triệt để.
Theo đúng tư tưởng Hồ Chí Minh “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công” và chủ trương sáng tạo của Người về Mặt trận dân tộc thống nhất, Trung ương Cục miền Nam đã thành lập ra một Mặt trận dân tộc thống nhất nhằm tập hợp mọi tầng lớp, mọi thành phần xã hội, mọi tôn giáo, đảng phái, nhân sĩ yêu nước vì mục đích chung “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Vì vậy, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời ngày 20/12/1960. Mặt trận được thành lập đúng lúc, nhưng ai là người đứng đầu lãnh trách nhiệm lịch sử thực hiện được đầy đủ tôn chỉ, mục đích, quy tụ được tối đa trí thức, công nhân, lao động ở thành thị, nông thôn, địa chủ yêu nước ở nông thôn, các tầng lớp giáo dân bất cứ tôn giáo nào và cả trong và ngoài nước, càng thêm bạn, càng bớt thù. Đâu phải bất kỳ ai đều có thể làm được, mặc dù có sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Đảng. Vai trò cá nhân trong lịch sử từ xưa đã rõ. Lịch sử đã tạo ra những con người, nhưng chính những con người, mỗi người một vị trí phù hợp đã làm nên lịch sử. Đảng không bao giờ tự tiện đặt để, tất cả nhân dân không thừa nhận thì công việc không thể thành công. Chính vì vậy mà Trung ương Cục, người có trách nhiệm trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng miền Nam cho đến thành công, phải cân nhắc mọi lẽ, tìm con người thích hợp nhất mà nhân dân chấp nhận: Đó là Luật sư Nguyễn Hữu Thọ. Nhưng Luật sư Thọ lúc ấy lại đang bị giam cầm ở một nơi xa xôi nào đó. Mặc, thà vị trí chủ tịch còn để trống trong ngày thành lập, phải đón cho được Luật sư về nhận vai trò lịch sử của mình. Đây là vì thành công của cách mạng.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ đã nổi tiếng và được đồng bào yêu mến khi đứng ra biện hộ tại tòa án thực dân cho những người bị ức hiếp và dũng cảm bênh vực những người yêu nước kháng chiến bị
25
thực dân bắt và đưa ra xử. Năm 1950, Luật sư thực sự là ngọn cờ đấu tranh của các giới trong phong trào Trần Văn Ơn và phong trào chống Mỹ tại Sài Gòn. Nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn bao gồm cả giới trí thức lúc ấy đều công nhận Luật sư là tiêu biểu cho tầng lớp trí thức yêu nước Việt Nam. Học luật tại Pháp, tiếp thu tinh thần “Tự do, bình đẳng, bác ái” của Pháp, Luật sư đã kịch liệt chống lại chế độ thực dân Pháp ở Việt Nam. Cho là “phần tử nguy hiểm”, chúng đã bắt Luật sư đày đi xa ra tận Mường Tè, thuộc tỉnh Lai Châu.
Sau Hội nghị Giơnevơ năm 1954, Pháp buộc phải trả tự do cho Luật sư. Lập tức Luật sư đứng ra thành lập Phong trào Hòa bình Sài Gòn - Chợ Lớn được giới trí thức và quần chúng tiến bộ nhiệt liệt hoan nghênh. Phong trào đòi chính quyền Sài Gòn và Pháp phải thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ, trao trả tù binh, thực hiện dân sinh, dân chủ. Phong trào còn ra tờ báo Hòa bình, vận động quần chúng. Ngày 01/8/1954, phong trào lãnh đạo một cuộc biểu tình lớn ở Sài Gòn, phản đối chính quyền Sài Gòn vi phạm Hiệp định, trả thù những người kháng chiến cũ. Ngày 15/11/1954, chúng lại bắt Luật sư Nguyễn Hữu Thọ cùng một số người khác của phong trào, nhưng không dám đưa ra xử mà lại đày Luật sư ra Hải Phòng. Một phong trào quần chúng rộng rãi đòi trả tự do cho Luật sư nổ ra không những ở Sài Gòn - Chợ Lớn mà cả ở một số tỉnh Nam Bộ. Chính quyền Sài Gòn buộc phải nhượng bộ, thả Luật sư tại Hải Phòng nhưng Luật sư đấu tranh đòi chúng phải thả mình ngay tại Sài Gòn. Nhờ có sự can thiệp của Ủy ban Giám sát và Kiểm soát việc thi hành Hiệp định Giơnevơ tại Việt Nam nên máy bay Pháp phải đưa Luật sư về Sài Gòn. Nhưng máy bay vừa hạ cánh ở Tân Sơn Nhất thì ngụy Sài Gòn lại bắt Luật sư đưa ra quản thúc ở Tuy Hòa (Trung Bộ) nhằm giam hãm suốt đời một nhân vật mà bọn phản dân hại nước sợ hãi còn hơn cú vọ sợ ánh sáng mặt trời.
Trung ương Cục đã có một quyết định sáng suốt: Phải giải thoát Luật sư Nguyễn Hữu Thọ khỏi nanh vuốt bọn phản động, trước khi bọn chúng ra tay hãm hại. Một số cán bộ được chỉ định, một đại đội vũ trang mạnh được thành lập và Tỉnh ủy địa phương (Phú Yên) phải chịu trách nhiệm tổ chức kế hoạch. Bao nhiêu khó khăn gian khổ, hai lần thất bại, hai liên lạc bị bắt, hai chiến sĩ bị hy sinh, lần thứ ba, có sự kết hợp, nỗ lực của bộ phận giải thoát và của chính bản thân Luật sư mới thành công mỹ mãn. Đường đi từ Phú Yên về đến căn cứ Trung ương Cục ở Bắc Tây Ninh chưa được tổ chức, phải vượt bao núi non, sông suối, ăn bụi nằm rừng, chống địch còn phải chống cả đói rét bệnh tật, thế mà một trí thức tuổi đã lớn, xưa nay ở đô thị với cương vị xã hội cao, đã vượt qua tất cả, hân hoan chia sẻ mọi gian truân như các chiến sĩ của đơn vị vũ trang để về tới đích. Đó là ý chí của con người yêu nước, sẵn sàng hy sinh vì nghĩa lớn.
26
Cuối năm 1961, về đến căn cứ và sau một thời gian ngắn lấy lại sức khỏe, Luật sư đã cùng các vị trong Mặt trận Dân tộc Giải phóng bắt tay chuẩn bị cho Đại hội lần thứ nhất vào ngày 16/02/1962. Đại hội chính thức đã nhất trí bầu Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Được sự chủ trì của Chủ tịch, Mặt trận phát triển nhanh và mạnh, phong trào cách mạng ngày càng giành thắng lợi lớn lao. Năm 1969, khi Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập để thay thế chức năng chính quyền nhân dân mà lâu nay Mặt trận Dân tộc Giải phóng đảm nhận, theo sự tín nhiệm của nhân dân, thì Luật sư Nguyễn Hữu Thọ lại được Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam Việt Nam bầu kiêm luôn chức Chủ tịch Hội đồng cố vấn Chính phủ cách mạng lâm thời cho tới ngày toàn thắng.
Đất nước đã độc lập, thống nhất, thanh bình và xây dựng cuộc sống đi lên. Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ lại được nhân dân toàn quốc bầu làm Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, rồi Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Một con người đã gắn cuộc sống và sự nghiệp của mình với một giai đoạn lịch sử oanh liệt của dân tộc, đã trải qua hai thời kỳ chiến tranh và hòa bình, tham gia hai cuộc cách mạng: Giai đoạn cuối cách mạng dân tộc dân chủ và giai đoạn đầu cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Một con người được nhân dân yêu mến, được thế giới biết tiếng và nể trọng, được kẻ thù lo sợ nhưng khâm phục. Con người ấy rất hiền hòa, dễ gần gũi, rất thương yêu nhân dân...
Cán bộ, chiến sĩ Quân giải phóng trong các lần gặp Chủ tịch và đơn vị đi theo Chủ tịch bảo vệ và phục vụ đã để ý người Chủ tịch Mặt trận Giải phóng: Con người rất bình dị, dễ gần gũi, vui vẻ, lạc quan, khi gần ai cũng thấy dễ chịu, chưa bao giờ nghe ông phiền trách ai về vấn đề gì. Rất hiền hòa nhưng rất can đảm. Mỗi lần địch đổ bộ trực thăng bên cạnh hay phi cơ địch oanh tạc, bao giờ cán bộ bảo vệ cũng thúc giục Chủ tịch xuống hầm núp hoặc di chuyển nhanh. Chủ tịch muốn nhìn thấy tận mặt kẻ địch và cười bảo: “Ta đánh Mỹ thì phải thấy mặt bọn Mỹ hành động ra sao và tiến hành oanh tạc như thế nào mới biết mà đánh Mỹ chứ”.
Cuộc đời của Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ thật là trong sáng, trọn vẹn, một lòng phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng đến cùng. Nhưng Chủ tịch cũng có một điều ân hận, chỉ một điều thôi, khi Chủ tịch trả lời câu hỏi: Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch có điều gì ân hận không?, Chủ tịch trả lời: “Có, có một điều tôi ân hận và tiếc mãi là suốt cuộc đời hoạt động của mình, tôi chưa một lần được gặp Bác Hồ, người mà tôi hết sức
27
kính trọng, ngưỡng mộ và biết ơn. Chính Bác Hồ là động lực giúp tôi lựa chọn và con đường đi với nhân dân lao động làm cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa... Tầm nhìn xa, trông rộng, tấm lòng và tình cảm ưu ái của Bác Hồ để lại một ấn tượng sâu sắc không phai mờ trong trái tim tôi”.
Cái ân hận của Chủ tịch cũng là đại diện cho đa số nhân dân miền Nam ân hận chưa được gặp Bác Hồ. Nhưng chính Bác Hồ cũng ân hận chưa được vào tận miền Nam trong những năm khói lửa chiến tranh để trực tiếp nhìn núi, sông, cây cỏ, nhìn và thăm hỏi đồng bào miền Nam đang chiến đấu sống còn cho độc lập và thống nhất Tổ quốc. Khi Bác còn khỏe, trước năm 1969, Bác đã nhiều lần chuẩn bị thực sự để vào tận miền Nam, tự đánh giá tình hình, tự mình nhìn thấy tận mắt cuộc đấu tranh không tiếc máu xương của đồng bào miền Nam ruột thịt (phương châm của Bác luôn luôn là đi đến tận nơi, nhìn tận mắt, nghiên cứu tại chỗ, thực tế và chính quan mà!). Nhưng Bộ Chính trị Đảng ta không đồng ý vì không dám mạo hiểm bởi “Việt Nam chỉ có một lãnh tụ, chỉ có một Bác Hồ”.
28
VÀI KỶ NIỆM VỀ NGƯỜI CON GÁI KIÊN CƯỜNG CỦA BẾN TRE:
CHỊ NGUYỄN THỊ ĐỊNH
Tôi gặp chị lần đầu tiên ngay trên đất Bến Tre, quê hương của chị vào cuối
năm 1946 tại căn cứ kháng chiến của tỉnh, rừng Thạnh Phú nổi tiếng trong cả hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ. Chị ở trong một chòi lá vừa mới dựng để chứa vũ khí nhẹ bộ binh, lựu đạn, chất nổ... và một số tài liệu mà chị vừa vượt biển đưa về trên một chiếc ghe ngụy trang từ miền Nam Trung Bộ. Tuy tôi và chị chưa hề biết nhau từ trước nhưng khi gặp mặt chúng tôi vô cùng vui mừng và xúc động như gặp người thân lâu ngày xa cách. Chị vui mừng vì đã gặp được tôi, Khu trưởng Khu 8 Nam Bộ lúc ấy, mà chị phải trao vũ khí và tài liệu tận tay theo lệnh của trên. Như vậy là khâu chót của một nhiệm vụ nặng nề và anh dũng của chị đã hoàn tất trọn vẹn. Có gì vui sướng bằng việc hoàn thành thắng lợi một trách nhiệm kháng chiến cứu nước đầy gian khổ, hiểm nguy có thể hy sinh cả tính mệnh mình. Còn tôi xiết bao xúc động khi được gặp người con gái anh hùng sẵn sàng hy sinh thân mình vì nhiệm vụ của Tổ quốc, của nhân dân. Lúc ấy, chị còn trẻ lắm, mới 26 tuổi đời tươi đẹp, khỏe mạnh, hồn nhiên, nước da ngăm đen, có vẻ vì nhuộm màu nắng gió biển khơi. Tôi càng cảm kích vì biết chị đã từng tham gia cách mạng sớm, từng bị tù tội bởi thực dân Pháp trước Cách mạng Tháng Tám và chồng chị là một người cộng sản trung kiên đã hy sinh ở Côn Đảo. Tôi vui mừng nhận số vũ khí đạn dược mà chị đã cùng với số anh em từ miền Nam Trung Bộ mất bao công lao nguy hiểm mới đưa được đến Nam Bộ đang hồi cần thiết. Cuộc kháng chiến ở Khu 8 cũng như Nam Bộ mới vừa được củng cố, cả hệ thống lãnh đạo và lực lượng chiến đấu, ngay từ sau Hiệp ước 6/3, đang “thiếu đói” súng đạn, dù giàu lòng yêu nước và tràn đầy ý chí diệt thù. Đây là món quà vô cùng quý giá từ Trung ương, của Bác gửi cho đồng bào Nam Bộ
29
lần đầu tiên tới tay chiến sĩ. Đây thật sự là mệnh lệnh của Tổ quốc, là “gươm báu trao tay” của vị Chủ tịch, cha già dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh, linh hồn của toàn dân kháng chiến. Có thể nói, chị đã thành công trong một chuyến tải vũ khí mạo hiểm để tăng cường đúng lúc sức mạnh vật chất cho kháng chiến Nam Bộ nhưng cái quý giá hơn nữa là tin này đưa ra là cả một sự động viên tinh thần rất lớn đối với đồng bào và chiến sĩ Nam Bộ trong những ngày gian khổ khó khăn hồi ấy. Cái tên chị Ba Định, một người con gái Bến Tre đã được cán bộ và chiến sĩ, bộ đội Khu 8 biết lần đầu tiên khi được nhận những khẩu súng, những viên đạn Trung ương gửi vào năm đó.
Cả ngày và đêm sau, trong khi tổ chức việc vận tải và phân phối vũ khí cho các đơn vị, tôi tranh thủ hỏi chuyện chị về Bác Hồ, về tình hình miền Bắc, về chuyến đi gian lao của chị. Chị kể chuyện mà mắt cứ sáng lên rạng rỡ: Bác Hồ hay lắm, tới thăm chúng tôi ngay tận nơi ở. Người dong dỏng cao, tóc hoa râm, nhưng dáng đi thoăn thoắt nhanh nhẹn, còn khỏe lắm. Bác rất giản dị và phúc hậu làm sao! Bác thương dân mình lắm anh ơi, chúng tôi kể chuyện kháng chiến gian khổ, giặc hoành hành, Bác rất chăm chú và Bác khóc nữa. Bác nói chắc nịch: “Cả nước đồng lòng đánh giặc Pháp, chúng ta nhất định thắng lợi”. Bác còn bảo tôi: “Cô và các chú có giỏi cũng chỉ chở được vài ba tấn vũ khí về thôi, ít lắm, muốn đủ phải cướp của giặc mà đánh lại chúng”. Anh điện ra báo với Bác là tôi đã trao đầy đủ vũ khí và tài liệu cho anh rồi để Bác mừng. Và nói là con gái của Bác vẫn khỏe mạnh, đang tích cực tham gia kháng chiến cho Bác vui.
Tôi xúc động hình dung vẻ người của Bác (vì chưa được gặp Bác bao giờ), đức độ của Bác, ghi nhớ những lời Bác dạy. Tôi cũng xúc động tưởng tượng lại cảnh con thuyền vũ khí của chị Định vật lộn với sóng gió, biển khơi, đối đầu với địch và liều lĩnh cập bến giữa đêm khuya như một huyền thoại. Tôi nghĩ, nhiệm vụ khó khăn, vượt trùng dương xuyên lòng địch, chi viện vũ khí cho chiến tranh lại rơi trên vai một phụ nữ trẻ như chị trong lúc một vài người có trách nhiệm vào lúc ấy lại rời bỏ chiến trường. Rõ ràng là dũng khí của con cháu Bà Trưng, Bà Triệu thể hiện ở người con gái này.
Nhưng chỉ huy một chiếc thuyền chở vũ khí vượt bão tố, qua mắt địch phục vụ chiến trường không thấm vào đâu so với tổ chức và lãnh đạo cả một phong trào quần chúng Đồng khởi của một tỉnh, tỉnh Bến Tre năm 1960, sau một thời gian bị địch đàn áp khủng bố và đặt xong cả một bộ máy ngụy quyền cảnh sát vô cùng khắc nghiệt. Đành rằng lãnh đạo phong trào này là do cả một tập thể Tỉnh ủy
30
nhưng mỗi cá nhân có vai trò nhất định trong cái tập thể ấy. Chị là người trực tiếp nhận nhiệm vụ cấp trên, trực tiếp chỉ đạo triển khai tiến hành cuộc Đồng khởi nổi tiếng ấy. Khi nghiên cứu cụ thể, có hệ thống về cuộc Đồng khởi ở Bến Tre, tôi không khỏi ngạc nhiên về tài tổ chức, huy động lực lượng, về trình độ và kế hoạch triển khai thực hiện, về nghệ thuật lãnh đạo và ứng phó tình hình, về phương châm, phương thức đối phó với phản ứng tàn bạo và quyết liệt của địch. Không có một lòng tin vững chắc vào tinh thần cách mạng của nhân dân, vào khả năng và lực lượng quyết định của quần chúng, cũng như không có một tinh thần trách nhiệm, một dũng khí cao thì khó mà có chủ trương và quyết tâm chỉ đạo phong trào thành công lớn như vậy. Rõ ràng qua phong trào này, nổi bật lên tài thao lược, ý chí cao, nghệ thuật chỉ huy của một nữ tướng cầm quân, đội quân nhân dân, “đội quân tóc dài”, vừa hình thành tổ chức và tác chiến ngay tại chiến trường vô cùng phức tạp và đã đem lại thắng lợi vẻ vang. Chính vì vậy, vào năm 1965, khi đồng chí Đại tướng Nguyễn Chí Thanh - Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng được phái vào chiến trường làm Chính ủy Bộ Chỉ huy Miền, tôi đã báo cáo lại mọi nhận định này với đồng chí. Chúng tôi đã thảo luận về tính chất và phương pháp tiến hành một cuộc chiến tranh nhân dân chống Mỹ. Căn cứ vào tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, đây phải là cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện. Ta yếu, nhỏ, phải đánh thắng một kẻ địch lớn và mạnh thì không được từ bất cứ một kiểu cách tác chiến nào, mà cũng không được bám vào một kiểu cách nào nhất định. Ta phải đánh địch bằng mọi thứ mà ta có và sáng tạo ra, bằng mọi lực lượng của nhân dân, vũ trang và không vũ trang, từ từng người cho đến từng đơn vị lớn nhỏ, đánh địch ở bất cứ đâu và vào lúc nào. Một bộ chỉ huy chiến trường trong một cuộc chiến như vậy không phải chỉ hiểu biết có mặt quân sự mà phải toàn diện, quân sự, chính trị, văn hóa..., không phải chỉ thông thạo chỉ huy chiến dịch chiến đấu của quân đội chính quy mà cả các lực lượng du kích, phải biết tổ chức và lãnh đạo lực lượng khởi nghĩa của quần chúng, lực lượng đấu tranh chính trị trực diện với kẻ thù, đặc biệt nhất là “đội quân tóc dài” đã nổi tiếng trong phong trào Đồng khởi. Chỉ huy lực lượng tổng hợp theo phương châm kết hợp hai chân (chính trị và quân sự), ba mũi (tấn công bằng vũ trang, bằng đấu tranh chính trị và bằng binh vận), trong mọi cuộc chiến đấu và trong từng trận đánh đòi hỏi phải bổ sung cho Bộ Tư lệnh các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam những kiến thức và khả năng mới. Cả Quân ủy và Trung ương Cục miền Nam đều nhất trí đề nghị với Trung ương và Quân ủy bổ nhiệm chị Nguyễn Thị Định là Phó Tư lệnh Miền. Sự xuất hiện một nữ tướng chỉ huy
31
Quân giải phóng vào thời điểm “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ vô cùng ác liệt và đẫm máu đã tạo sự phấn khởi lớn trong quân và dân miền Nam, sự tin tưởng vào đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng ta. Và có lẽ việc ấy đã gây nên sự bất ngờ và khó hiểu về phía Mỹ - ngụy. Lần đầu tiên đến nhận nhiệm vụ ở Chỉ huy sở Bộ Chỉ huy Miền, chị gặp tôi và nói ngay: “Tôi biết gì về quân sự đâu mà các anh đưa tôi về đây?”. Tôi đã vui vẻ trả lời chị: “Những điều chị chưa biết thì rồi đây thực tế và chúng tôi sẽ giúp chị biết, nhưng cái cấp bách hiện nay là chị giúp chúng tôi hiểu biết về đấu tranh chính trị của quần chúng tay không, về tổ chức và chỉ huy “đội quân tóc dài” đông đảo, kết hợp trong mọi mặt hoạt động trên chiến trường. Nếu không vậy chúng ta sẽ bị què đi một chân và mất đi một mũi, vừa bị tàn tật vừa có tội với nhân dân. Muốn thắng trong cuộc chiến tranh này, trước hết chúng ta phải là những con người có đầy đủ mặt, mũi, tay, chân, có trái tim và khối óc hoàn chỉnh”. Chị cười hồn nhiên, đầy khiêm tốn: “Tôi chỉ sợ quá sức mình và làm hư chuyện các anh thôi”. Sự thực là nhờ có chị, nhiều việc cụ thể tại chiến trường ngày càng sáng tỏ. Dưới sự chỉ đạo của anh Nguyễn Chí Thanh - Chính ủy (năm 1966, khi anh Thanh bệnh, phải trở ra miền Bắc rồi mất, thì anh Nguyễn Văn Linh thay và đến giai đoạn 1968 - 1975 thì anh Phạm Hùng là Chính ủy Bộ Tư lệnh Miền), chúng tôi được phân công giúp chị hiểu những vấn đề cơ bản về chỉ huy và công tác tham mưu quân đội, về công tác chính trị trong lực lượng vũ trang và chúng tôi học tập chị trong các mặt đấu tranh chính trị và phong trào quần chúng. Chúng tôi không khỏi ngạc nhiên về sự thông minh và hiểu biết nhanh chóng của chị về các vấn đề quân sự và chỉ sau một thời gian, chị đã có thể đóng góp nhiều ý kiến có giá trị trong việc chỉ huy lực lượng tổng hợp trên chiến trường. Chị rất tích cực hoạt động, hầu như chị đã tham gia tất cả các cuộc hội nghị tổng kết về chiến tranh du kích và các đại hội anh hùng và các chiến sĩ thi đua toàn Miền. Chị đã đến thăm khắp các trung, sư đoàn chủ lực và các đơn vị binh chủng trong lúc đóng quân và ngay các đơn vị đang tác chiến. Không phải chị chỉ chăm sóc việc tổ chức, huấn luyện tác chiến của đơn vị mà còn chăm lo cụ thể việc ăn, ở, giải trí của chiến sĩ. Anh em tiếp chị như người chỉ huy, đồng thời như người chị cả thân thương, họ thường gọi chị là “chị Ba” một cách trìu mến. Anh Thanh có lần nói đùa với chị: “Chúng tôi ghen với chị về lòng yêu thương của cán bộ, chiến sĩ đấy. Nhưng tôi khuyến khích vì đã giúp nâng thêm bản chất “Bộ đội Cụ Hồ”, là những lực lượng vũ trang có kỷ luật, có quyết tâm thắng giặc cao và có tình thương yêu lẫn nhau, cả cán bộ và chiến sĩ, như con em một nhà”.
32
Ngày chị trở thành Phó Chủ tịch nước, tôi đã nghỉ hưu. Thỉnh thoảng chị ghé thăm tôi tại nhà, tôi vẫn thấy chị thường để tâm đến lực lượng vũ trang với một tình cảm không suy giảm. Chị nói: “Làm thế nào trong thời bình với cơ chế thị trường hiện nay, bộ đội ta vẫn mãi mãi là “Bộ đội Cụ Hồ”?”. Chị tâm sự: “Phải tăng cường giáo dục nhưng quan trọng hơn là cán bộ phải gương mẫu, đặc biệt là cán bộ cao cấp đang giữ những cương vị chủ chốt. Đã là cán bộ quân đội cách mạng phải có đạo đức cách mạng như Bác dạy: Nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm”. Rồi chị sôi nổi nói tiếp: “Thời chiến tranh đẹp quá anh hả. Cả lý, cả tình. Không một suy nghĩ riêng tư. Không danh, lợi, chức quyền. Sẵn sàng hy sinh vì đồng đội, vì nhân dân, vì Tổ quốc. Tự hào thay người lính Cụ Hồ”.
Dân ta thật là anh hùng. Ngày xưa có Bà Trưng, ngày nay có Bà Định.
33
Thượng tướng Trần Văn Trà thăm Côn Đảo năm 1976
34
PHẦN IV
HẠNH PHÚC MỘT ĐỜI NGƯỜI
Với Thượng tướng Trần Văn Trà, trải qua hơn 30 năm trong chiến tranh và là người trực tiếp cầm quân, sau ngày hòa bình lập lại, niềm vui lớn của một người lính là được nhìn thấy quê hương thôi tiếng súng, được cùng đồng bào của mình sống những ngày bình an và chung sức chung lòng góp phần xây dựng lại quê hương, đất nước “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như mong ước của Bác Hồ. Là một cựu chiến binh, hơn thế, một lãnh đạo của Hội Cựu chiến binh Thành phố Hồ Chí Minh, tranh thủ thời gian quý báu còn lại của một đời người, tận dụng thế mạnh và uy tín cá nhân, bằng khả năng của mình, ngoài công trình đồ sộ “Tổng kết cuộc chiến tranh 30 năm”, ông còn tham gia viết giáo trình giảng dạy, viết các bài nhận định, đánh giá về các trận đánh, tham gia góp ý kiến về các hoạt động của Trung ương, thành phố, địa phương nơi ông cư trú, trả lời các cuộc phỏng vấn, viết lời tựa cho các công trình sách của đồng chí, đồng đội... Tuổi cao, sức yếu, nhưng ông vẫn xông pha, đi về như con thoi để lo toan việc chăm lo và nghĩa tình với đồng đội...
Với ông, tất cả đã mang đến cho ông những cảm xúc được tận hưởng “hạnh phúc của một đời người”.
35
TƯ TƯỞNG QUÂN SỰ HỒ CHÍ MINH1*
Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là một bộ phận của tư tưởng cách mạng Hồ
Chí Minh, xuất phát từ: Vì quyền lợi con người, cốt giải phóng con người, phát triển tiềm năng con người làm chủ vạn vật, vì hạnh phúc con người; kết tinh từ thực tiễn đấu tranh của con người để thoát khỏi mọi ràng buộc, áp bức của thiên nhiên và của con người; hàm chứa tinh túy của triết học phương Đông, văn hóa phương Tây, truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam và khoa học hiện đại của thế giới.
Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh hình thành từ rất sớm, luôn luôn phát triển trong quá trình áp dụng vào thực tế, trong cả cuộc đời hoạt động của Người; đã chỉ đạo dân tộc Việt Nam đấu tranh thoát ách nô lệ gần một thế kỷ bằng chiến lược khởi nghĩa vũ trang; nước nhỏ, người ít đánh thắng hai cuộc chiến tranh xâm lược của hai đế quốc to và mạnh là Pháp và Mỹ, giữ vững nền độc lập, tự do và phẩm giá con người.
Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh đã đóng góp cho các dân tộc bị áp bức ở thế kỷ XX kinh nghiệm đánh bại chủ nghĩa thực dân cũ và bước đầu đánh bại chủ nghĩa thực dân mới, đứng lên tự giải phóng.
Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh đã góp phần quan trọng xây dựng nền khoa học quân sự Việt Nam hiện đại, ưu việt cả về lý luận và thực tiễn, trở thành căn bản cho học thuyết và bí quyết giữ nước từ nay và mãi mãi về sau cho dân tộc Việt Nam cũng như cho các dân tộc muốn giữ vững bờ cõi đất nước và tự do con người chống mọi thế lực ngoại xâm.
PHẦN I
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN
VÀ NGUỒN GỐC TƯ TƯỞNG QUÂN SỰ HỒ CHÍ MINH
Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh hình thành từ những năm 1920, được phát triển * Bài giảng lớp Cao học lịch sử.
37
về lý thuyết hàng chục năm liên tiếp và được áp dụng và phát triển trong thực tiễn đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam hơn 40 năm qua.
1. Ảnh hưởng của giáo dục gia đình và phong trào yêu nước ở trong nước từ lúc thiếu thời
- Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Huy, thân sinh Nguyễn Tất Thành là nhà Nho tiến bộ. Cụ phủ nhận cái thuyết trung quân của nhà Nho và cho trung quân không phải là ái quốc. Ái quốc là yêu nước, mà nước là dân. Vậy ái quốc có nghĩa là ái dân...
- Khâm phục hoạt động của Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám và các phong trào Đông Du, vận động Duy Tân, Đông Kinh nghĩa thục nhưng hoàn toàn không tán thành cách làm của một người nào. Cho rằng cách làm của cụ Phan Bội Châu “e rằng đưa hổ cửa trước rước beo cửa sau”, cụ Phan Chu Trinh có vẻ “xin giặc rủ lòng thương”, cụ Hoàng Hoa Thám “thực tế hơn vì trực tiếp đấu tranh chống Pháp... nhưng còn nặng cốt cách phong kiến”1.
- Nguyễn Tất Thành quyết chí tự mình tìm con đường cứu nước, cứu dân. Sang phương Tây (Pháp, Anh, Mỹ...), xem nước Pháp và các nước khác làm ăn ra sao rồi trở về giúp đồng bào (1911).
2. Sự hình thành và phát triển tư tưởng cách mạng, tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh
- Từ năm 1920, Nguyễn Ái Quốc tích cực tham gia các tổ chức chính trị, xã hội nổi tiếng của nước Pháp và các nước khác, tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, viết báo và ra Báo Người cùng khổ (1922) với lời ra mắt: ...Tiếng nói chính nghĩa của giai cấp vô sản và nhân dân bị áp bức các nước thuộc địa... Sứ mệnh của nó đã rõ ràng: Giải phóng con người!
- Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc sang Liên Xô. Qua nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, cuộc Cách mạng Tháng Mười, kinh nghiệm hoạt động của phong trào cộng sản và dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đi đến khẳng định: Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, vào lực lượng của bản thân mình.
Từ năm 1925 đến năm 1927, Nguyễn Ái Quốc hoạt động phía Nam Trung Quốc, viết tác phẩm Đường cách mệnh để huấn luyện cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Bài viết “Công tác quân sự của Đảng trong nông dân” nêu lên một luận điểm mới rất quan trọng: Cuộc cách mạng vô sản không thể thắng lợi ở những nước
1. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1983, tr.10.
38
nông nghiệp và nửa nông nghiệp nếu như giai cấp vô sản cách mạng không được quần chúng nông dân ủng hộ tích cực... Một phong trào cách mạng nghiêm chỉnh nào trong nông dân đều nhất thiết phải sử dụng hình thức hoạt động vũ trang.
- Từ năm 1940 đến năm 1945, Nguyễn Ái Quốc viết nhiều tài liệu về lý luận và chỉ đạo thực tiễn cách mạng Việt Nam chuẩn bị cho công cuộc giải phóng đất nước. Tài liệu Con đường giải phóng của Người đánh dấu một bước phát triển hoàn chỉnh lý luận về khởi nghĩa vũ trang. Người viết: Ở các nước Âu - Mỹ, khởi nghĩa bắt đầu từ tổng bãi công, thị uy rồi tiếp đến khởi nghĩa. Ở nước ta, khởi nghĩa có thể bùng lên ở một nơi rồi lan dần ra khắp nước. Lý luận trên được áp dụng thành công trong Cách mạng Tháng Tám. Người cũng đã viết một loạt tài liệu về quân sự như: Cách đánh du kích, Kinh nghiệm du kích Tàu, Kinh nghiệm du kích Pháp, Kinh nghiệm du kích Nga. Sách Cách đánh du kích chia thành 13 chương bao gồm nhiều vấn đề quan trọng từ tổ chức lực lượng đến tác chiến, không những có giá trị cho các đội du kích mà cả lực lượng chính quy.
- Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh càng được phát triển phong phú, đặc biệt là lý thuyết về chiến tranh nhân dân: Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc... Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm dùng cuốc, thuổng, gậy gộc (1946); Dùng chiến tranh trường kỳ chống lại chiến tranh chớp nhoáng của thực dân Pháp (1947); Giữ vững chủ động, kiên quyết buộc địch phải phân tán lực lượng. Tiêu diệt sinh lực địch bồi dưỡng lực lượng ta (1959).
- Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: Muốn dựng ngôi nhà tốt, thì phải xây nền cho thật vững... Miền Bắc là cái nền, cái gốc của cuộc đấu tranh hoàn thành giải phóng dân tộc, thực hiện thống nhất nước nhà. Ở miền Nam... tấn công địch bằng cả hai mặt chính trị và quân sự (1961); Đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang đều đóng vai trò rất cơ sở và rất quyết định, nhưng đấu tranh quân sự đóng vai trò quyết định trực tiếp (1963); Chúng ta phải đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, tiêu diệt và làm tan rã quân ngụy quyền (1965); Phải chú ý đến giữ sức dân. Sức người sức của cạn kiệt thì quân nhiều cũng không đánh được (1966). Đối với đế quốc Mỹ, phải có cách chủ động đi tới chỗ nó rút ra... một tay đánh, một tay mở cho nó ra (1967); Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào (Thư chúc mừng năm mới, năm 1969).
- Từ năm 1969, khi Người qua đời, cho đến năm 1975, tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục chỉ đạo cuộc chiến đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đi đến thắng lợi hoàn toàn.
39
3. Nguồn gốc tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh
- Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh xuất phát từ lòng thương yêu con người, quyết giải phóng con người khỏi mọi áp chế, làm cho con người hoàn toàn tự do, phát huy khả năng vô tận của mình. Con người cần giải phóng trước mắt là dân tộc Việt Nam vì “Chưa có bao giờ ở một thời đại nào, ở một nước nào, người ta lại vi phạm mọi quyền làm người một cách độc ác trơ tráo đến thế”.
- Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh bắt nguồn từ tinh hoa triết học và văn hóa lâu đời của phương Đông, từ tư tưởng đại đồng của Khổng giáo “dân vi quý, xã tắc thứ chi” đến lòng bác ái vị tha của Phật giáo; đúc kết những tinh túy của binh pháp Tôn Tử, của Khổng Minh của Trung Quốc xưa, cho đến tài dùng binh của Lý Thường Kiệt, binh pháp của Trần Hưng Đạo, kết hợp quân sự, chính trị, ngoại giao đánh vào lòng người của Nguyễn Trãi, tấn công chủ động thần tốc của Nguyễn Huệ... Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh cũng bắt nguồn từ nền văn hóa phương Tây, những cái hay cái đúng của lý luận Claudơvít của Phổ, của Napôlêông của Pháp, Đenxơn của Anh...
- Nguồn gốc tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mác - Lênin với những nguyên lý giải phóng giai cấp, dân tộc, con người; tiếp thu lý luận và kinh nghiệm khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh du kích, chiến tranh chính nghĩa, chiến tranh cách mạng, vận dụng sáng tạo vào cách mạng giải phóng dân tộc ở một nước nông nghiệp lạc hậu.
Tư tưởng cách mạng, tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh được thể hiện thành lý luận, đem lý luận áp dụng vào thực tế. Và qua vận dụng thực tiễn mà kiểm nghiệm, bổ sung cho lý luận ngày một hoàn chỉnh.
PHẦN II
NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA TƯ TƯỞNG QUÂN SỰ HỒ CHÍ MINH
Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh bao gồm nhiều vấn đề rộng lớn. Dưới đây nêu lên 7 vấn đề cơ bản nhất:
1. Chiến tranh chính nghĩa, chiến tranh cách mạng
Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh thực hiện chiến tranh cách mạng chính nghĩa nhằm bảo vệ quyền sống tự do độc lập, giải phóng con người, chống mọi áp bức bóc lột. Để “giữ sinh mệnh của dân” và “làm chủ an nguy của đất nước”, “không đến nguy cơ, ta chớ chiến tranh”. Chỉ tiến hành chiến tranh khi tất cả các nỗ lực đấu tranh chính trị, ngoại giao hòa bình không còn hiệu quả, đều bị thất bại.
40
Khi buộc phải tiến hành chiến tranh chính nghĩa thì “dù hy sinh tất cả” cũng quyết tâm giành thắng lợi cuối cùng. “Trong hai phe giao chiến, phe nào có đầy đủ điều kiện nhân hòa là phe ấy thắng. Chỉ phe nào vì chính nghĩa mà chiến đấu, phe ấy mới có đủ điều kiện nhân hòa”.
2. Khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh du kích
a. Khởi nghĩa vũ trang:
Khởi nghĩa vũ trang là nhân dân nổi dậy dùng vũ khí đánh đuổi quân cướp nước, đoạt lại chính quyền. Ở những nước nông nghiệp lạc hậu, khởi nghĩa có thể bùng lên ở một vài địa phương rồi lan dần ra khắp nước. Việt Nam 90% dân chúng là nông dân. Họ có thể nổi dậy và tiến hành đấu tranh, nhưng một mình họ thì không thể chiếm được bộ máy nhà nước và giữ được bộ máy đó. Trong thời đại hiện nay giai cấp công nhân là giai cấp độc nhất và duy nhất có sứ mệnh lịch sử là lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi cuối cùng, bằng cách liên minh với giai cấp nông dân.
Khởi nghĩa vũ trang chỉ có thể thành công khi lực lượng thống trị lung lay, bối rối, không đủ sức giữ địa vị của chúng như trước, khi lực lượng đông đảo của quần chúng được giác ngộ, được tổ chức, quyết hy sinh nổi dậy đấu tranh đến cùng, phải có một chính đảng cách mạng có đường lối đúng đắn, được dân chúng tin cậy lãnh đạo.
Trong khởi nghĩa phải tấn công kiên quyết, do dự một chút là thất bại. Sau khởi nghĩa thắng lợi phải lập ngay chính phủ cách mạng của nhân dân. Nhiệm vụ của chính phủ cách mạng là: Thủ tiêu chính quyền cũ, diệt trừ các hạng phản động, ban bố quyền tự do dân chủ cho nhân dân, lập quân đội cách mạng.
b. Chiến tranh du kích:
Du kích là một cách chiến tranh của dân chúng dùng khí giới ít và kém chống với đế quốc có khí giới tốt và nhiều (Con đường giải phóng). Chiến tranh du kích đi liền với khởi nghĩa vũ trang, bảo đảm cho khởi nghĩa thành công và bảo vệ thành quả cách mạng của khởi nghĩa.
Đấu tranh du kích không phải là những hoạt động của cá nhân hay những nhóm nhỏ dựa vào âm mưu, mà là hoạt động của các tổ chức vũ trang cách mạng, có kỷ luật chặt chẽ, dựa vào đường lối chính trị đúng đắn của đoàn thể cách mạng tiền phong và dựa vào cao trào cách mạng của quần chúng.
Nguyên tắc tác chiến của du kích là: Bao giờ cũng giữ thế công, giữ quyền chủ động và có kế hoạch thích hợp, chu đáo, hết sức nhanh chóng.
Thủ đoạn tác chiến của du kích là: Tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu; không sống chết giữ đất; hóa chỉnh vi linh, hóa linh vi chỉnh...
41
Hình thức tác chiến du kích là: Tập kích, phục kích, truy kích, đánh úp, đánh lén, đánh lúc quân thù không ngờ...
3. Chiến tranh nhân dân
Chiến tranh nhân dân là một cuộc chiến tranh tiến hành bởi đông đảo quần chúng được giác ngộ chính trị, giác ngộ cách mạng cao, đứng lên dùng vũ khí và đủ mọi phương tiện, bằng mọi phương pháp chống kẻ thù vì mục đích chung, dưới sự lãnh đạo thống nhất của đảng cách mạng chân chính, kiên cường, có đường lối đúng đắn, được dân tin. Dân mà biết đồng tâm hiệp lực, biết đoàn kết tổ chức thì chủ nghĩa đế quốc tuy có mấy vạn máy bay, đạn pháo cũng không làm gì nổi. Có dân thì có tất cả1. “Mỗi quốc dân phải là một chiến sĩ. Mỗi làng phải là một chiến hào”.
Muốn toàn dân đánh giặc thì phải “đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”. Câu nói bất hủ của Hồ Chí Minh: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công, đại thành công” có giá trị vĩnh viễn cả về lý luận và thực tiễn. Chiến tranh nhân dân là phải chiến đấu toàn diện, “bất kỳ già, trẻ, trai, gái; bất kỳ giàu, nghèo, lớn, nhỏ, đều cần phải trở nên một chiến sĩ tranh đấu trên mặt trận: Quân sự, Kinh tế, Chính trị, Văn hóa”.
Toàn dân chiến đấu, chiến đấu toàn diện, tạo một thế trận của chiến tranh nhân dân vô địch với lực lượng tổng hợp bao vây và tiêu diệt bất cứ kẻ thù nào.
4. Quân đội nhân dân, lực lượng vũ trang nhân dân
Toàn dân chiến đấu, toàn diện đấu tranh trên mọi mặt trận, trong đó mặt trận quân sự là nòng cốt trong chiến tranh, vì vậy lực lượng vũ trang nhân dân là nòng cốt của lực lượng toàn dân chiến đấu toàn diện.
Lực lượng vũ trang nhân dân, về tổ chức cơ bản bao gồm 3 lực lượng: Dân quân du kích, đơn vị tập trung của địa phương và chủ lực cơ động chiến trường. Ngoài 3 tổ chức cơ bản trên, tuỳ theo chiến trường, điều kiện, mục tiêu và nhiệm vụ mà có những tổ chức chiến đấu thích hợp khác như đặc công, biệt động...
a. Dân quân du kích: Là “một lực lượng rất rộng rãi, khắp cả nước... Nó là như một tấm lưới rộng mênh mông, bao trùm cả nước”. “Dân quân, tự vệ và du kích là lực lượng của toàn dân tộc, là một lực lượng vô địch, là một bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận địch nhân hung bạo thế nào, hễ đụng vào lực lượng đó, bức tường đó, thì địch nào cũng tan rã”. Đội viên du kích được tuyển chọn từ các hội viên các đoàn thể quần chúng cách mạng. Du kích không thoát ly sản xuất.
1. Theo tư liệu H6-09/02 lưu tại Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh.
42
Du kích chiến đấu nhỏ lẻ. Một đội, một tổ, có khi một người cũng tổ chức được một trận đánh.
Vũ khí của du kích vô cùng đa dạng: Từ một chiếc gậy, con dao đến khẩu súng, trái mìn, đạn pháo lép của địch được tái chế lại... Từ năm 1941, Hồ Chí Minh đã dạy cán bộ 2 nguồn tìm vũ khí: Một từ trong tay giặc, hai là ở trong dân. Nhân dân sẽ tìm mọi cách tự tạo ra vũ khí cho con em mình chiến đấu.
Du kích rất coi trọng công tác chính trị. Không có công tác chính trị đúng, các đội du kích dễ mất tính chất cách mạng, dễ đi vào sai lầm có hại cho cách mạng (sách Công tác chính trị trong quân đội cách mạng của Hồ Chí Minh).
b. Bộ đội địa phương: Là đơn vị chiến đấu tập trung của một địa phương như huyện, tỉnh, được tổ chức chặt chẽ hơn và trang bị mạnh hơn du kích, được huấn luyện kỹ hơn về chiến thuật, kỹ thuật.
Bộ đội địa phương có nhiệm vụ giúp và phối hợp với du kích đánh những trận tiêu diệt nhỏ tại địa phương mình, vừa hợp đồng với bộ đội địa phương bạn hay chủ lực tác chiến lớn hơn; giúp phát triển, xây dựng và huấn luyện du kích và nhận sự giúp đỡ mọi mặt của chủ lực. Du kích là tai mắt rộng rãi cho bộ đội địa phương, bộ đội địa phương phải tạo điều kiện cho chủ lực tác chiến trong địa phương mình.
c. Chủ lực: Là những đơn vị vũ trang tập trung và cơ động của từng chiến trường hay trong toàn quốc, thường được tổ chức từ trung đoàn trở lên sư đoàn, quân đoàn. Đó là những đơn vị chính quy, binh chủng hợp thành và hiện đại tùy điều kiện và mức độ cho phép.
Quân đội đó số lượng là quan trọng nhưng chủ yếu là chất lượng, cốt tinh không cốt nhiều. “Phải luôn luôn phát triển các kỷ luật nghiêm như sắt, cái tinh thần vững như đồng, cái chí khí quật cường tất thắng, cái đạo đức: trí, dũng, liêm, trung của giải phóng quân”. “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”, “Mỗi người chỉ huy về quân sự cũng như về chính trị, phải làm kiểu mẫu. Phải giữ đúng đạo đức của quân nhân”.
Trong chiến tranh nhân dân, quân đội nhân dân (chính quy) là nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân rộng mạnh, lực lượng vũ trang là nòng cốt của toàn dân đánh địch toàn diện.
5. Hậu phương chiến tranh, hậu phương quân đội, căn cứ địa cách mạng, căn cứ du kích
+ Không một quân đội nào không có hậu phương vững chắc mà có thể chiến thắng được. Không có một hậu phương vững chắc thì không thể sinh ra quân đội nhân dân.
43
Hậu phương của lực lượng vũ trang nhân dân là một hậu phương đồng nhất, toàn diện, toàn dân với ý chí cao, cùng quân đội chiến đấu, ủng hộ hết mình về tinh thần và vật chất. Quân và dân một ý chí bảo đảm thắng lợi trong chiến tranh. Và chỉ có chiến tranh chính nghĩa mới đạt yêu cầu ấy.
Xây dựng hậu phương vững chắc là vấn đề hết sức trọng yếu của chiến tranh nhân dân và quân đội nhân dân. Ngay từ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh đã kêu gọi: Kháng chiến và kiến quốc đi đôi, kêu gọi chống giặc đói, giặc dốt và chống giặc ngoại xâm. Năm 1947, thăm tỉnh Thanh Hóa, Người đã vạch phương hướng xây dựng hậu phương:
“Làm cho người nghèo thì đủ ăn.
Người đủ ăn thì khá giàu.
Người khá giàu thì giàu thêm.
Người nào cũng biết chữ.
Người nào cũng biết đoàn kết, yêu nước.
CÁCH LÀM: Đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân...”. Xây dựng một hậu phương vững chắc, toàn diện về chính trị, quân sự, văn hóa, kinh tế... như vậy mới động viên được tinh thần, cung cấp sức người, sức của cho quân đội chiến đấu lâu dài, càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng, bảo đảm thắng lợi hoàn toàn.
+ Trong cái hậu phương rộng lớn còn phải xây dựng căn cứ địa, căn cứ du kích. Đó là: Một vùng khá rộng và hiểm trở, ở đó dân chúng được tổ chức vững vàng, quân lính đế quốc khó vào được. Du kích dùng nơi đó làm chỗ đứng chân, tiến có thể đánh và phát triển lực lượng, lui có thể đứng và giữ gìn lực lượng (các căn cứ như: Việt Bắc trong chống Pháp; Tây Nguyên, Đồng Nai, Bắc Tây Ninh, Đồng Tháp, U Minh trong chống Mỹ).
+ Ngoài các căn cứ lớn còn có các căn cứ nhỏ của du kích và bộ đội địa phương, “căn cứ chính trị” ngay trong lòng địch ở nông thôn và đô thị. Các loại căn cứ như trên cấu thành một thế trận chiến tranh nhân dân bao trùm toàn bộ chiến trường, bao vây quân thù, xen kẽ với giặc, bảo đảm phối hợp ba mũi giáp công, ba vùng chiến lược rừng núi, nông thôn và đô thị, liên tục tấn công địch ở mọi nơi, mọi lúc.
6. Nghệ thuật quân sự, chiến lược, chiến thuật của chiến tranh nhân dân Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh không những nêu lên những vấn đề về lý luận và chỉ đạo về đường lối, chủ trương mà còn là nghệ thuật quân sự, chiến dịch và
44
chiến thuật của chiến tranh nhân dân. Nước ta là một nước nhỏ, nghèo, dân số không đông, quân đội không nhiều đã thắng 2 đế quốc to, ngoài đường lối, chủ trương đúng đắn, sáng suốt còn là sự chỉ đạo thực hành chiến tranh, chiến đấu quân sự trở thành một nghệ thuật, đồng thời là một khoa học.
Nghệ thuật quân sự theo tư tưởng Hồ Chí Minh có các nguyên tắc cơ bản như sau: a. Biết mình biết người: Là nguyên tắc đầu tiên để tiến hành chiến tranh cũng như thực hiện từng trận chiến đấu. Hồ Chủ tịch đã viết: “Trước khi khai chiến, phải biết mình, biết người, biết tình hình thiên thời, địa lợi để định kế hoạch hành động, mới có thể thắng được”. Cần phải khiêm tốn, thấy cái gì yếu kém của mình để khắc phục, thấy cái gì ưu điểm để khuếch trương lên, đánh giá đúng khả năng của mình để hành động phù hợp nhất cho từng trường hợp. Còn biết người, Hồ Chí Minh viết: “Không biết rõ tình hình bên địch mà dám khai chiến thời có khác gì đánh bạc với chiến tranh”; phải biết được khả năng tác chiến mọi mặt của địch, điểm mạnh của quân địch để hạn chế chúng, điểm yếu của địch để khoét sâu và đánh vào đó, trong điểm mạnh có chỗ nhược nào để lợi dụng.
b. Nhân hòa, địa lợi, thiên thời là 3 nhân tố quyết định thắng lợi trong chiến tranh: Hồ Chí Minh viết:“Trong hai phe giao chiến, phe nào có đầy đủ điều kiện nhân hòa là phe ấy thắng”. Chiến tranh nhân dân chính nghĩa, toàn dân toàn diện là có đầy đủ điều kiện nhân hòa mà nhân hòa là yếu tố quyết định quan trọng nhất trong chiến tranh.
Thiên thời như Hồ Chí Minh đã phân tích: Khí hậu của ta không thuận cho giặc, ta còn lợi dụng ngày, đêm, sớm, tối, mưa, nắng, nóng rét để đánh địch. Thiên thời còn là thời gian và thời gian là lực lượng.
c. Về chiến lược đánh lâu dài, về chiến thuật đánh nhanh thắng nhanh, giải quyết nhanh:
Về chiến lược, ta bắt đầu từ yếu dần trở thành mạnh, từ ít dần trở thành nhiều nên phải có thời gian tích lũy quân nhu, kinh nghiệm, giành từ thắng lợi nhỏ đến thắng lợi lớn đi đến thắng lợi hoàn toàn. Hồ Chí Minh đã giải thích: “Với binh nhiều, tướng đủ, khí giới tối tân, chúng định đánh mau thắng mau. Với quân đội mới tổ chức, với vũ khí thô sơ, ta quyết kế trường kỳ kháng chiến... Địch có tàu bay, tàu bò, tàu thủy nhưng nó có chừng nên nó muốn đánh chớp nhoáng... Ta lợi hơn nó là nó không thể kéo dài được, mà ta thì có thể kéo dài”1.
1. Q.T.: “Phương pháp tác chiến”, Báo Cứu quốc, ngày 14/6/1946.
45
Về chiến thuật, từng trận đánh phải thắng nhanh. Trong bài thơ Học đánh cờ, Hồ Chí Minh có câu: “Tấn công, thoái thủ nên thần tốc”. Trong bài Binh pháp Tôn Tử - Phương pháp tác chiến, Người nêu: “Phải vừa nhanh vừa có mưu mới quyết định được thắng lợi”.
Để bảo đảm được thần tốc và chiến thắng phải tôn trọng một số nguyên tắc: - Bí mật, bất ngờ: “Ta biết rõ giặc, giặc không rõ ta. Đi nhẹ không tăm, về nặng không tiếng. Tiến nhanh như gió, thoái kín như đêm. Phục giặc không biết, đánh giặc không ngờ”.
- Nghi binh, lừa địch: Trong chiến tranh, đôi bên đều tìm mọi cách che kín mình và tìm rõ địch. Ai khéo ngụy trang thì người đó lừa được đối phương mà giành phần thắng. Trong bài Đặt kế hoạch tác chiến (Báo Cứu quốc, ngày 07/6/1946) Hồ Chí Minh viết: “Tiến đánh chỗ địch không phòng bị hay thấy địch không để ý, mình tiến đánh một cách bất ngờ” (Chiến dịch Nguyễn Huệ bằng nhiều cách ta đã làm địch hiểu lầm hướng Xa Mát - Thiện Ngôn là hướng chính, ta tấn công hướng chính giải phóng Lộc Ninh. Tháng 3/1975, ta nghi binh ở Kon Tum, Pleiku, địch tập trung đối phó, ta tấn công giải phóng Buôn Ma Thuột, đẩy địch hoàn toàn bị động).
d. Chiến dịch tấn công và chủ động chiến trường:
Khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân đòi hỏi áp dụng chiến lược tấn công. Tấn công để giữ thế chủ động chiến trường, chủ động cả về chiến lược và chiến thuật.
“Giữ quyền chủ động là khôn khéo sử khiến quân thù, muốn đánh nó ở chỗ nào thì đưa nó đến đó mà đánh, muốn đưa nó vào bẫy của mình có thể đưa được”. “Du kích mà để cho quân thù đến đánh, mình phải phòng ngự, là không tốt rồi, là phải ở vào thế khó rồi...”. Tuy vậy có lúc phải ngự phòng. “Nhưng lối phòng ngự này là lối phòng ngự thế công không phải rút vào một chỗ để cho quân thù tha hồ đánh phá”.
e. Cơ động, linh hoạt, biết phân tán, biết tập trung, không giữ đất: Bất cứ chủ lực, địa phương hay du kích đều phải tích cực tìm địch mà đánh, chủ động tấn công quân địch. Hết sức linh hoạt trong tổ chức chiến đấu trên từng chiến trường nông thôn, rừng núi hay đô thị tùy điều kiện và hoàn cảnh mà khi phân tán, khi tập trung.
Lực lượng nhỏ hay lớn đều phải luôn luôn cơ động, không bao giờ ở lâu một chỗ, không bao giờ đánh địch một nơi, trừ đơn vị chuyên trách mục tiêu, có như vậy
46
mới chủ động tấn công địch. Hồ Chí Minh đã dạy: “Tài giỏi của du kích chính là xếp đặt kế hoạch ấy, thật là thiên biến vạn hóa, kẻ thù không biết đâu mà ngờ, mà phòng”.
Không chiếm giữ đất đai. Trong lúc quân địch phải rải ra chiếm đóng khắp nơi và phải phòng ngự giữ mình thì lực lượng ta hoàn toàn tự do cơ động khắp rừng núi nông thôn, thành thị để chủ động tấn công địch. Hồ Chí Minh đã viết: “Chúng ta không cố chiếm hoặc cố giữ trận địa, trừ khi nào cần và có lợi. Để tiến hành vận động chiến một cách lợi, có khi chúng ta rút lui ở một nơi nào, để làm phân tán binh lực của địch quân”, “sự chiếm đoạt một khoảng đất hay một thành thị, chưa thể quyết định được hơn thua”.
g. Kết hợp chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy:
Trong chiến tranh nhân dân, ta đánh địch bằng lực lượng tổng hợp. Ba mũi giáp công là phương pháp tiến công nổi tiếng trong chiến tranh chống Mỹ (vũ trang, chính trị và binh vận).
Chiến tranh chính quy do quân chủ lực tiến hành luôn luôn kết hợp với chiến tranh du kích:
Hồ Chí Minh đã chỉ thị: “phải mở rộng du kích chiến để tiêu diệt và tiêu hao những bộ phận nhỏ của địch; để chống địch càn quét, bảo vệ tính mạng, tài sản cho dân; để khuấy rối, phá hoại, kiềm chế địch, tuyên truyền và giáo dục quần chúng những vùng đó, thu hẹp nguồn ngụy binh của địch, mở rộng vùng du kích và căn cứ du kích...”.
Chiến tranh chính quy, “dùng vận động chiến linh hoạt, để tiêu diệt từng mảng sinh lực địch, làm cho địch yếu đi, phối hợp với công kiên chiến từng bộ phận, để tranh lấy những cứ điểm và thị trấn nhỏ ở đó địch sơ hở, yếu ớt...”. Chủ lực là đánh chắc thắng, đánh tiêu diệt, “tiêu hao lực lượng địch là để bồi dưỡng lực lượng ta”, “làm thương tổn 10 ngón tay không đau đớn bằng cắt đứt hẳn đi 1 ngón tay... đánh bại 10 sư đoàn không bằng trừ diệt 1 sư đoàn”.
Sự vận dụng tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh về sự kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy được vận dụng trong suốt hai cuộc kháng chiến, nổi bật với Chiến dịch Biên giới năm 1950, Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, Đại thắng mùa Xuân năm 1975.
7. Lấy nhân nghĩa thắng bạo tàn
Nhân nghĩa, độ lượng là tính cách đạo đức Hồ Chí Minh. Quý trọng con người chân chính, khoan dung, độ lượng với người sai quấy, với kẻ địch sa cơ.
47
Chiến tranh của ta là chính nghĩa, đúng đạo lý, hợp lòng người. Cần tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân và quân đội đôi bên chiến tuyến, với nhân dân toàn thế giới để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ rộng rãi. Sự ủng hộ đó là sức mạnh góp phần đánh vào kẻ địch phi nghĩa. Cần vận động binh sĩ địch, thức tỉnh họ đứng về phía chân lý, không gây tội ác, không chiến đấu vì mục đích sai lầm. Binh địch vận là một mặt trận không kém phần quan trọng. Một khi ánh sáng chính nghĩa soi rọi được vào binh sĩ quân đội đối địch phi nghĩa thì quân đội ấy sẽ bị phân hóa, giảm sức chiến đấu, có lợi cho ta. Đó là đánh vào lòng người, có khi ta không đánh mà thắng.
Thêm bạn bớt thù là phương châm hành động trong chiến tranh cũng như trong hòa bình.
Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là một tri thức tổng hợp, một học thuyết vô giá của dân tộc ta và các dân tộc bị áp bức. Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh dựa vào con người, nhằm phát huy năng lực vô biên của con người khi được giác ngộ và được giải phóng. Không phải sức mạnh của vũ khí, dù loại vũ khí gì, uy lực đến đâu, không phải sức mạnh tàn bạo của một tổ chức quân đội nào, mà là sức mạnh của con người, của cả một tập thể con người quyết định thắng bại trên chiến trường. Con người làm nên lịch sử.
PHẦN III
GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG QUÂN SỰ HỒ CHÍ MINH
NGÀY NAY VÀ NGÀY MAI
1. Chiến tranh là một hiện tượng xã hội, là sản phẩm của loài người khi xã hội ấy còn có bóc lột, bất công, bất bình đẳng, khi trên thế giới còn có nước này muốn lấn chiếm đất đai, bờ cõi của nước khác, dân tộc này muốn nô dịch dân tộc khác.
Nhận thức như vậy, tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh dự liệu những phương pháp đấu tranh chính trị, ngoại giao, đối thoại để giải quyết một cách hòa bình mọi mâu thuẫn có thể có giữa các dân tộc, cố tránh chiến tranh đi đến tiêu diệt chiến tranh. Điểm cơ bản của tư tưởng đó là lòng nhân ái, thương yêu quý trọng con người, tôn trọng quyền con người được sống tự do và hạnh phúc trên giang sơn của mình. Đồng thời, tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh cũng đề cao cảnh giác trong một thế giới còn đầy rẫy mầm mống chiến tranh, dự liệu trước đường lối, phương pháp chiến tranh bảo đảm chắc thắng cho chiến tranh chính nghĩa, tự vệ khi buộc phải chiến tranh.
48
Ngày nay thế giới không còn chia làm hai cực đối đầu lẫn nhau, vũ khí và chiến tranh không còn là phương tiện định đoạt vận mệnh con người mà chính con người với năng lực vô biên mới định đoạt số phận của mình (chiến tranh Việt - Mỹ 1954 - 1975, chiến tranh vùng Vịnh...). Nhân tố kinh tế, quyền lợi kinh tế của mỗi nước, mỗi khu vực đã vươn lên giữ vai trò quan trọng trong diễn biến tình hình thế giới. Nó ảnh hưởng đến quyết định chính trị, quân sự, quan hệ quốc tế. Nhu cầu về một sự ổn định về chính trị để phát triển về kinh tế, nâng cao đời sống con người là tối cần thiết.
Nhưng thế giới còn đó hai tư tưởng, hai chế độ khác nhau: tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa.
- Tư bản chủ nghĩa đã bộc lộ sự già cỗi, lỗi thời. Tuy nó đã lợi dụng sự phát triển thần kỳ của khoa học và kỹ thuật để nâng cao sản xuất của cải vật chất, vũ khí công nghệ tiên tiến nhưng chưa hề thỏa mãn được nhu cầu của con người cả vật chất và tinh thần. Ngược lại, nó đã đem lại không ít tai họa cho nhân loại: nghèo đói, thất nghiệp, tội ác, kỳ thị chủng tộc, đồi trụy tinh thần. Nó không hề thay đổi bản chất tham lam. Nó chỉ muốn bảo tồn quyền lợi và hưởng thụ của một thiểu số, áp bức bóc lột đại đa số bằng mọi cách, không loại trừ tiến hành chiến tranh xâm lược, nô dịch các nước, các dân tộc.
- Đảng Cộng sản Việt Nam tuyên bố: Việt Nam muốn làm bạn của tất cả các nước, tiến hành đường lối đối ngoại hữu nghị và hòa bình với các dân tộc, tìm mọi cách tránh chiến tranh, giữ vững hòa bình, xây dựng kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, bảo tồn bản sắc dân tộc. Đồng thời đề cao cảnh giác, thực hiện dựng nước đi đôi với giữ nước. Đó là đường lối đúng đắn theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
2. Ngày nay trong một thế giới mà mầm mống chiến tranh vẫn còn, âm mưu thôn tính và bành trướng chưa hết, luôn luôn đề cao cảnh giác, “kiến quốc phải đi đôi với bảo vệ Tổ quốc”, bảo vệ con đường xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta theo tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là vô cùng quan trọng. “Không đến nguy cơ, thì chớ chiến tranh”, nhưng khi phải chiến tranh thì nhất định phải thắng. Muốn vậy phải chuẩn bị sẵn:
- Một chiến lược quốc phòng phù hợp.
- Một hậu phương vững chắc.
- Một lực lượng tổng hợp của chiến tranh nhân dân.
- Những bảo đảm để thực hiện chiến dịch, chiến thuật, nghệ thuật quân sự theo tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh.
49
Chiến lược quốc phòng phải phù hợp với tình hình trong nước và thế giới đến đầu thế kỷ XXI và phù hợp với từng thời kỳ sau đó. Xác định đúng đối tượng, kẻ thù chính và phụ trong từng thời kỳ, luôn thêm bạn, bớt thù, xác định đúng nhiệm vụ từng chiến trường mà tổ chức và bố trí lực lượng phù hợp. Phân tích chính xác các mâu thuẫn có thể gây ra xung đột, chiến trường phải tác chiến, để có sẵn kế hoạch và biện pháp chính trị, quân sự, tổng hợp, luôn giữ thế chủ động trong bất kể tình huống nào.
Hồ Chí Minh đã từng dạy: “Bất kỳ hòa bình hoặc chiến tranh, ta cũng phải nắm vững chủ động, phải thấy trước, chuẩn bị trước”.
3. Trước kia có hai siêu cường, nay có nhiều siêu cường tranh nhau về kinh tế để làm bá chủ thiên hạ. Mâu thuẫn trước mắt là kinh tế, chính trị cũng có thể dẫn đến mâu thuẫn đối chọi về vũ trang, cục bộ nơi này, nơi khác. Thế giới còn có thể phức tạp hơn nhiều. Nhưng phức tạp đến đâu, tranh giành kinh tế, chính trị, chiếm đoạt bằng vũ trang hay “diễn biến hòa bình”, theo tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, con người vẫn giữ vai trò quyết định.
Một khi con người được giác ngộ, đoàn kết chặt chẽ, quyết tự đứng lên bảo vệ quyền lợi của mình thì không một kẻ thù nào, không một thủ đoạn kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa nào có thể thắng nổi. Đó là truyền thống của dân tộc ta, là tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh. Vận động, giáo dục, giác ngộ nhân dân, tổ chức họ lại, đoàn kết trong một mặt trận vì quyền lợi của Tổ quốc, của dân tộc là nhiệm vụ của các đoàn thể chính trị - xã hội. Vai trò của các đoàn thể ấy là rất quan trọng trong bất cứ thời kỳ nào. “Có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có thì việc gì làm cũng không xong”. Một đảng cách mạng thực sự vững mạnh, ngoài lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp, của dân tộc, không có lợi ích nào khác, thì nhất định tập hợp và lãnh đạo được toàn dân đấu tranh giành thắng lợi.
Một chính quyền do dân, vì dân, dựa vào dân nhất định điều hành có hiệu quả đất nước trong mọi tình huống.
Đó là một cơ chế của một chế độ đi lên xã hội chủ nghĩa, lấy dân làm gốc, có sự lãnh đạo và điều hành chặt chẽ của một đảng, một chính quyền vì dân nhất định có thể đối đầu với bất kỳ khó khăn nào, có thể giành toàn thắng trong “diễn biến hòa bình” hay chiến tranh.
Đó là điều cơ bản của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh bảo đảm giành toàn thắng bất cứ kẻ thù nào, vũ khí nào, ở thời đại nào.
50
CÂU HỎI:
Phần I:
1. Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh hình thành từ bao giờ? Phát triển như thế nào trước Cách mạng Tháng Tám, trong hai cuộc kháng chiến? 2. Nguồn gốc tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh?
Phần II:
1. Vì sao tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh lại đặt vấn đề chỉ tiến hành chiến tranh cách mạng khi tất cả các biện pháp đấu tranh chính trị, ngoại giao hòa bình không còn hiệu quả, “không đến nguy cơ, thì chớ chiến tranh”?
2. Khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân khác nhau như thế nào? Nội dung tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh về hai vấn đề trên? 3. Phân tích sự khác nhau, đồng thời mối liên hệ hữu cơ của hậu phương chiến tranh, hậu phương quân đội, căn cứ địa và căn cứ du kích? Nêu ví dụ?
Phần III:
1. Vì sao ngày nay các siêu cường có đủ vũ khí giết người hàng loạt, chuẩn bị cả chiến tranh trên các vì sao, Đảng ta vẫn chủ trương thực hiện tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh: Con người vẫn là yếu tố quyết định thắng lợi trong “diễn biến hòa bình” hay chiến tranh?
2. Làm thế nào để chiến lược quốc phòng của ta phù hợp với tình hình trong nước và trên thế giới đến đầu thế kỷ XXI và phù hợp với từng thời kỳ sau đó?
51
Đồng chí Trần Văn Trà - Khu trưởng Khu 8, Trưởng đoàn cán bộ quân - dân - chính (ngồi hàng đầu, ở giữa) chụp ảnh với Bác Hồ và đồng đội tại chiến khu Việt Bắc
52
NGHĨ VỀ ẤP BẮC
Ấp Bắc, một thôn nhỏ, dân cư thưa thớt, nằm ven Đồng Tháp Mười, một thôn
nghèo bị lùi sâu vào vùng đất bờ bắc của Tiền Giang, bỗng nhiên nổi tiếng trong mùa xuân năm 1963. Mùa xuân ấy, hàng đàn trực thăng, những “cá rô”, “cá lẹp”, “cán gáo” gầm rít, quần thảo làm vẩn đục bầu trời Ấp Bắc; từng bầy xe thiết giáp lội nước chở quân ngụy như bầy cua đồng xẻ dọc xẻ ngang ruộng vườn; những loạt bom và đại bác nổ đinh tai nhức óc, cày xới đất đai, sập nhà sập cửa. Và nữa, trên kinh (kênh) Nguyễn Tấn Thành vòng từ phía đông ra phía sau Ấp Bắc, cả đoàn tàu chiến rầm rộ tiến hành bao vây, quyết không để một Việt cộng, một người dân nào chạy thoát. Nhưng họ nào có chạy. Họ trụ lại và chuẩn bị đón chờ cuộc “hội ngộ” từ mấy ngày nay. Không phải họ mình đồng da sắt gì để mà chọi lại với bom đạn sắt thép Huê Kỳ1. Họ có trái tim và trí tuệ. Nhờ trái tim trong sáng vì nước vì dân, quên mình mà đẻ ra trí thông minh sáng tạo, biết dựa vào lòng đất, lòng dân, xây nên sức mạnh tổng hợp để ít hóa ra nhiều, yếu trở thành mạnh mà thắng oanh liệt quân thù. Kể cũng lạ, kẻ bị phơi thây trên chiến địa, nhiều trực thăng tan xác, nhiều xe thiết giáp chỏng gọng, kẻ phải rút chạy lại chính là bầy quỷ dữ xâm lăng và bán nước đông đặc, được trang bị hiện đại và dồi dào, được trực thăng vận và thiết xa vận tân kỳ, hùng hùng hổ hổ lúc đầu tưởng như ăn tươi nuốt sống tất cả Việt cộng và người dân Ấp Bắc.
Sau trận Ấp Bắc còn nhiều trận lớn hơn, ác liệt hơn và thắng to hơn, nhưng sao Ấp Bắc lại danh tiếng vang lừng hơn? Cả nước từ thành thị đến thôn quê, ai ai cũng biết đến Ấp Bắc. Cả miền Nam từ đơn vị chủ lực đến anh du kích, biệt động đều “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công”. Ấp Bắc trở thành ngọn cờ đầu lúc ấy cho bộ đội, nhân dân ta tiến lên đánh ngụy, đánh Mỹ. Ấp Bắc đã đem lại niềm tin chiến thắng, lòng can đảm và mưu trí cao trong việc hạ trực thăng, chôn vùi thiết giáp Mỹ. Cái tên thôn hẻo lánh Ấp Bắc ấy được lính ngụy, lính Mỹ nhắc đến một cách sợ hãi và cũng được các nhân vật ở tận Lầu Năm Góc bên Mỹ nói đến một cách ngạc nhiên.
1. Tức Hoa Kỳ (B.T).
53
Nguyên do là thế này: Sau phong trào Đồng khởi năm 1960, nhân dân ta đã làm chủ hàng nghìn làng mạc, đặc biệt là ở khắp vùng đồng bằng sông Cửu Long. Chính quyền Diệm được Mỹ xây dựng và lãnh đạo đã bị lung lay tận gốc và có nguy cơ sụp đổ. Để cứu vãn tình thế, Mỹ buộc phải tiến hành chiến tranh thực sự chống lại cách mạng, chống lại nhân dân Việt Nam. Chúng chủ trương tiến hành kiểu “Chiến tranh đặc biệt”, nghĩa là dùng xương máu thanh niên Việt Nam do ngụy quyền cung cấp cộng với vũ khí và tiền vàng của Mỹ, do Mỹ lãnh đạo và chỉ huy. Từ năm 1961, chúng đưa mạnh các loại vũ khí và phương tiện chiến tranh vào miền Nam nước ta trong đó có nhiều loại trực thăng và xe thiết giáp, xe tăng. Với phương tiện hiện đại như vậy, quân lính ngụy do cố vấn Mỹ tổ chức, trang bị, huấn luyện và chỉ huy chiến đấu, được chở bằng máy bay lên thẳng và xe bọc thép, có thể rất nhanh chóng đến bất cứ nơi nào trên chiến trường trong vòng một vài tiếng đồng hồ, bất chấp địa hình nơi đó có sông ngòi ngăn cách, có sình lầy nước đọng, hay rừng sâu núi cao, tiền tuyến, hậu phương như vậy mà khó phân biệt. Chúng đã tăng cường được cho quân đội chúng tính cơ động nhanh, sức đột phá mạnh và hỏa lực dồi dào, ưu thế hơn gấp trăm lần đối phương. Chúng có thể tiến hành bao vây mau và chặt, hủy diệt nơi nào chúng muốn và khi cần thì rút chạy cũng nhanh. Ai đã từng sống trong những ngày đầu “Chiến tranh đặc biệt” ấy, năm 1961 - 1962, không thể quên được sự tung hoành của trực thăng trên bầu trời. Có khi chỉ một chiếc trực thăng thôi mà chúng kiểm soát được cả một vùng rộng trống trải ở đồng bằng. Trực thăng đã từng hạ thấp, đứng nguyên một chỗ, kêu người nông dân đang làm ruộng đưa giấy tờ cho chúng xét, vạch áo cho chúng xem lưng để xác định có phải là Việt cộng, có mang vũ khí không. Trong những ngày ấy, bộ đội chủ lực ta mới bắt đầu hình thành, trang bị của các lực lượng ta chỉ là súng bộ binh nhẹ và còn rất ít súng có hiệu lực cao. Về chiến thuật, ta còn rất bỡ ngỡ khi phải đối phó với một lực lượng hợp thành nhiều binh chủng hiện đại như vậy của địch. Gặp những cuộc càn quét của địch có nhiều xe tăng, thiết giáp và trực thăng thì du kích và bộ đội địa phương của ta buộc phải phân tán, bắn tỉa hoặc rút tránh nơi khác, chờ cơ hội đánh phục kích hay tập kích bất ngờ. Nhưng không lẽ cứ rút tránh mãi thì làm sao diệt nhiều địch, phá được chiến thuật của chúng để giành thắng lợi, giải phóng quê hương. Nếu bất thình lình giặc tới, bộ đội ta đánh để tồn tại rồi nhanh chóng thoát khỏi trận địa đi nơi khác để cho dân chúng ở đó bị địch khủng bố và kìm kẹp thì sao? Khi đã quyết bảo vệ dân, làm chủ đất nước thì phải nghĩ ra cách đánh để thắng, bất cứ tình huống khó khăn mấy, có khi tưởng như vượt quá sức lực và trí óc của mình. Thế là các đồng chí chỉ huy Khu 2 của ta (miền Trung Nam Bộ) thời kỳ ấy đã cùng chỉ huy các tiểu đoàn (lúc ấy mới có biên chế đến tiểu đoàn) thảo luận tìm kiếm cách đánh thích hợp nhất, hay nhất. Họ hạ
54
quyết tâm trụ lại đánh trả, bộ đội không rút, tránh đi nơi khác, nhân dân không tản cư nữa mà cùng nhau ở lại chống giặc giữ làng. Đó là Tiểu đoàn 261 của Khu 2 (sau này được đặt tên là Tiểu đoàn Gironde), Tiểu đoàn trưởng là Hai Hoàng. Họ đã bàn bạc, vận động nhân dân vùng Ấp Bắc để thống nhất ý chí, đồng tâm hiệp lực, đánh giặc bằng vũ trang, đấu tranh bằng chính trị và vận động binh lính địch không bắn đồng bào mình, theo phương châm chỉ đạo của trên: Hai chân, ba mũi - phương châm đã được đúc kết từ thực tế của quần chúng các địa phương, từ ngày Đồng khởi đến nay. Kế hoạch được hình thành. Bộ đội phác họa trận địa bố trí các lực lượng của tiểu đoàn, của bộ đội địa phương huyện, của du kích xã, ấp theo dự đoán về địch và phương án tác chiến của ta. Nhân dân cùng bộ đội đào công sự, lo nấu ăn, tiếp tế, cứu thương... Các đoàn thể tổ chức ra lực lượng sẵn sàng trực diện đấu tranh chính trị và binh vận. Họ đã gấp rút chuẩn bị và chờ đợi. Địch đã đi tới theo dự đoán. Tất cả các cánh ngụy đều bị chặn đánh kịch liệt, xe thiết giáp bị nổ tung, trực thăng đổ quân bị bắn rơi. Trong lúc bom đạn đôi bên rền trời thì một đoàn các chị và các mẹ lớn tuổi đã ra Đường 4, cách đấy 4-5km, nơi trận địa pháo địch bắn chi viện cho các cánh quân của chúng, vận động binh lính đừng bắn vào làng, vào đồng bào mình. Vừa thuyết phục, các bà vừa xông tới đỡ nòng pháo lên cao, trì kéo với lính ngụy không cho bắn... Không được chi viện bằng pháo, bộ binh mất tinh thần, bị bộ binh ta xung phong mãnh liệt, hàng ngũ chúng rối loạn, lớp bị thương vong, lớp rút chạy, cuối cùng quân dân ta làm chủ trận địa. Trận đánh kết thúc, thắng lợi vẻ vang về ta.
Lần đầu tiên, chiến thuật tân kỳ của Huê Kỳ, trực thăng vận và thiết xa vận bị đập tan từng mảnh. Lần đầu tiên quân ngụy hiểu ra rằng những khối thép cơ động không che chở được cho chúng, máy bay lên thẳng đổ quân thẳng đứng từ trên trời xuống cũng không thể thoát chết, những bàn tay nhăn nheo và lời nói nhân từ của mẹ già cũng làm câm được thần đại bác.
Cũng lần đầu tiên, dân và quân ta hiểu rõ bằng thực tế sức mạnh thần kỳ của quân và dân đồng tâm nhất trí, trong một trận đánh quyết liệt, ba mũi giáp công vỏ quýt dày đã có móng tay nhọn. Kỹ thuật hiện đại, chiến thuật tân kỳ của Mỹ - ngụy đã bị quân và dân cách mạng Ấp Bắc phá tan bằng cách đánh và đấu tranh gan dạ, sáng tạo, bằng lực lượng tổng hợp của mình.
Trận đánh Ấp Bắc, một trận đánh trả càn quét thắng lợi, trở thành một sự kiện trong “Chiến tranh đặc biệt” có ý nghĩa lớn lao, một căn cứ thực tế để giúp lãnh đạo tối cao giải đáp được câu hỏi ray rứt từ gần hai năm nay: Liệu ta có chống nổi quân đội nhà nghề đông đảo và phương tiện chiến tranh hiện đại của Mỹ - ngụy? Liệu ta có thắng được cuộc “Chiến tranh đặc biệt” của chúng? Bây giờ thì câu trả lời
55
dứt khoát là được. Từ đó mà khẳng định quyết tâm chiến lược: Đánh bại “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ, giành thắng lợi, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Trận Ấp Bắc không chỉ còn là một trận đánh ở một thôn hẻo lánh mà là phương hướng chiến thuật, phương châm tác chiến, phương thức tiến hành chiến tranh hai chân, ba mũi. Một lần nữa quần chúng hành động, sáng tạo từ cơ sở bên dưới (đại đội, tiểu đoàn và nhân dân một ấp) đã giúp cho trên xác định chủ trương lãnh đạo cuộc chiến tranh và củng cố niềm tin ở thắng lợi.
Trận Ấp Bắc là một sự kiện của quá khứ trong lịch sử chiến tranh chống Mỹ. Trong một tình huống vô cùng khó khăn, nguy hiểm của chiến tranh mà quân địch có ưu thế gấp bội về nhiều mặt như quân số, vũ khí, kỹ thuật, tiền tài... và có một quyết tâm của một “dã thú độc ác” trước con mồi béo bở, nhân dân (chiến sĩ và nhân dân trong ấp) đã sáng suốt và dũng cảm tìm ra con đường đi đến thắng lợi. Vậy thì trong một hoàn cảnh không phải nước sôi lửa bỏng như vậy, trong xây dựng hòa bình, trong sản xuất chẳng hạn, làm cho dân hiểu, bàn bạc với dân và cùng làm với dân thì chắc chắn sẽ đem lại kết quả mong muốn.
Sự kiện Ấp Bắc còn chỉ rõ rằng, đường lối, chính sách của trên khi nào cũng dựa vào thực tế từ bên dưới mà không phải từ giáo điều sách vở nào hay từ tư duy của một cái đầu thần thánh nào. Đúng là phải từ tư duy của hàng trăm ngàn cái đầu con người và được kiểm nghiệm từ thực tế. “Lịch sử là một tấm gương sống đồng thời là một nguồn kinh nghiệm”, nhà văn nổi tiếng Xôviết A. Rưbakop đã nói đúng.
56
CHIẾN THẮNG BA GIA - ĐÒN ĐÁNH BỒI LÀM PHÁ SẢN “CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT” CỦA ĐỊCH
“Chiến tranh đặc biệt” với công thức là vũ khí Mỹ cộng với máu người bản xứ đến thôn tính nước người, khâu đầu tiên trong chiến lược “Phản ứng linh hoạt” của đế quốc Mỹ, mở ra ở miền Nam năm 1961. Đầu năm 1963, chiến thắng Ấp Bắc của ta ở Mỹ Tho đã chỉ rõ nhân dân Việt Nam có thể dùng chiến tranh cách mạng chống lại chiến tranh phản cách mạng. Thực tế hành động tại chiến trường đã làm cho ta hiểu rõ địch, sức mạnh và khả năng, chỗ mạnh và chỗ yếu của nó, nhưng quan trọng hơn là làm cho ta biết ta rõ hơn để vững vàng xác định quyết tâm chiến đấu.
Cuối năm 1964 đầu năm 1965, ta chủ động mở chiến dịch kết hợp quân sự, chính trị, kết hợp ba thứ quân mà chủ lực Quân giải phóng làm nòng cốt tấn công quân ngụy tại chiến trường Bình Giã thuộc Bà Rịa - Long Khánh, tiêu diệt và đánh thiệt hại hàng loạt tiểu đoàn ngụy trong đó có các tiểu đoàn biệt động dù và thủy quân lục chiến là lực lượng tổng trừ bị của quân ngụy. Chiến thắng Bình Giã đã chứng tỏ quân ngụy “không đủ sức đương đầu với Việt cộng” (theo Bộ Quốc phòng Mỹ) và là đòn quyết định “làm thất bại cơ bản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”” (theo Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp). Vì vậy, Mỹ phải chữa cháy, cứu ngụy quân bằng cách đưa quân viễn chinh Mỹ vào trực tiếp chiến đấu ở miền Nam Việt Nam, mở đầu là Lữ 9 thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng ngày 08/3/1965.
Được thế hỗ trợ của Mỹ, quân ngụy mở cuộc tấn công vào vùng Ba Gia, miền tây tỉnh Quảng Ngãi vào tháng 5/1965. Ở đây, Quân giải phóng không phải phòng ngự, chống đỡ mà là chủ động gài thế trận tấn công lại quân địch bằng chiến thuật vận động của quân chủ lực kết hợp với du kích, bộ đội địa phương tại chỗ. Cuộc chiến tranh nhân dân của ta đã tiến triển về mặt quân sự là sự kết hợp quân chủ lực với quân du kích, kết hợp với chính quy chiến... Với chiến thắng Ba Gia, trong một
57
thời gian ngắn, ta tiêu diệt 4 tiểu đoàn quân ngụy, đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn tổng trừ bị thủy quân lục chiến ngụy, giải phóng gần 200.000 dân, là một thành tích vang dội trong thời kỳ ấy. Đòn tấn công Ba Gia cùng với đòn tấn công Đồng Xoài tiêu diệt đồng thời quân địch ngoài công sự và trong công sự là những đòn đánh bồi tiếp theo trận Bình Giã, có ý nghĩa lớn cả về chiến thuật và chiến lược.
Chiến thắng Ba Gia cho thấy sự trưởng thành nhanh chóng trong tác chiến của Quân giải phóng, sự dũng cảm và sáng tạo của cán bộ và chiến sĩ ta. Để đánh quân ngụy đông, được trang bị mạnh và được yểm trợ của không quân và pháo binh, chủ lực Quân giải phóng đã nắm vững thời cơ, bao vây chia cắt, vận động đánh tiêu diệt gọn nhanh, làm chủ chiến trường. Đó là một tiến bộ vượt bậc trong thời kỳ cuối của “Chiến tranh đặc biệt”.
Ba đòn liên tiếp Bình Giã - Ba Gia - Đồng Xoài đã đập tan mưu kế độc ác dùng thanh niên người bản xứ sử dụng vũ khí tiêu diệt người bản xứ cho đế quốc thống trị. “Chiến tranh đặc biệt” hoàn toàn bị phá sản.
Cũng là người Việt Nam nhưng quân lính ngụy Sài Gòn mặc dù có nhiều vũ khí mạnh, đôla nhiều vẫn khác xa Quân giải phóng về ý chí chiến đấu, về dũng trí. Đó là chính nghĩa thắng phi nghĩa.
Bản chất đế quốc không thay đổi: Thống trị dân tộc khác bằng mọi cách, thực dân cũ hay mới, chiến tranh hay “diễn biến hòa bình”. Trước nguy cơ ngụy quân, ngụy quyền sụp đổ, để thực hiện ý định, Mỹ phải vượt qua “ngưỡng cửa (cấm kỵ) bước vào cuộc chiến tranh trên bộ ở châu Á” bằng cách bị động đưa quân Mỹ vào tiến hành “Chiến tranh cục bộ” ác liệt chưa từng thấy, khâu thứ hai trong chiến lược “Phản ứng linh hoạt”.
Quân và dân Việt Nam đứng trước một vấn đề khó khăn, liệu ta có đủ sức đối đầu với quân viễn chinh Mỹ, một đội quân nhà nghề thiện chiến được trang bị đến tận răng, đủ loại vũ khí hiện đại nhất kể cả vũ khí giết người hàng loạt, một đội quân chưa hề bị thua bao giờ.
Bác Hồ đã từng chỉ rõ, phải biết sức ta, biết sức người, biết chắc lợi hại của tình hình đôi bên, người tướng giỏi phải biết có thể đánh và biết không thể đánh. Ta phải nghiên cứu, phân tích, đánh giá chính xác. Ta biết rõ địch bị động mà mở ra “Chiến tranh cục bộ”, đưa quân Mỹ tham chiến vội vàng. Quân Mỹ lạ người, lạ vật, xa quê hàng vạn dặm, không có thiên thời, địa lợi, đặc biệt là không có nhân hòa.
Nhưng “chỉ có thực tiễn mới là tiêu chuẩn cuối cùng của chân lý”.
58
Chiến thắng Vạn Tường (Quảng Ngãi) cùng với các chiến thắng Núi Thành (Quảng Nam) và Bàu Bàng - Dầu Tiếng (Sông Bé) là những thực tiễn hùng hồn giúp ta có quyết định chiến lược đúng đắn. Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta đã có nhận định và hạ quyết tâm: “Mỹ đông, giàu nhưng không mạnh vì bị động về chiến lược, tiến hành chiến tranh phi nghĩa, có nhiều điểm yếu cơ bản, ta quyết tâm đánh Mỹ, vẫn giữ vững chiến lược tấn công của chiến tranh nhân dân”.
Đó là ý nghĩa chiến lược của những trận đánh có tính quyết định ngay từ những ngày tháng đầu tiên của “Chiến tranh cục bộ” khi quân viễn chinh Mỹ mới chân ướt chân ráo bước vào chiến trường Việt Nam, chiến trường trên bộ ở lục địa châu Á. Từ chỗ đánh vào quân ngụy được Mỹ trang bị huấn luyện, chi viện và chỉ huy, ta phải đánh thẳng vào quân Mỹ trang bị mạnh gấp bội về nhiều mặt, đã từng chiến thắng những đội quân phátxít trong Chiến tranh thế giới thứ hai, các trận ban đầu thắng lợi giòn giã là vô cùng quý giá giúp ta hiểu rõ địch, hiểu rõ ta để xác định đường lối, chiến lược chiến tranh.
Trận Núi Thành, ta dùng đặc công bất ngờ tiêu diệt 1 đại đội quân Mỹ đóng trong công sự. Chiến dịch Bàu Bàng - Dầu Tiếng, ta chủ động dùng một sư đoàn chủ lực Quân giải phóng tập kích tiêu diệt một chiến đoàn mạnh của quân Mỹ đang đóng cụm dã ngoại để hôm sau phối hợp quân ngụy tấn công vào vùng của ta, có máy bay chiến lược B52 lần đầu tiên phối hợp chuẩn bị chiến trường cho Mỹ - ngụy ở Việt Nam. Còn trận Vạn Tường là trận vận động chiến của một trung đoàn chủ lực Quân giải phóng cùng bộ đội địa phương, từ chỗ bị tấn công chuyển thành tấn công, từ bị động chuyển thành chủ động, trong một tình thế quân địch có nhiều ưu thế, đông hơn, trang bị mạnh, được chi viện bằng xe tăng thiết giáp, pháo binh và không quân, cả pháo binh của hải quân từ biển. Ta lại phải chiến đấu ban ngày trên một địa hình mấp mô trung bình, ven biển, không được che khuất. Trận đánh không cân sức đã diễn ra quyết liệt mà thắng lợi thuộc về Quân giải phóng, gây thiệt hại nặng cho quân Mỹ, máy bay bị hạ, bỏ nhiều xác xe tăng tại chiến trường.
Đây là trận đánh “tìm và diệt” đầu tiên của quân Mỹ mới vừa đến Việt Nam trong khí thế hung hăng kiêu ngạo, ỷ lại hỏa lực tuyệt đối và cơ động nhanh trên mọi địa hình bằng phương tiện chiến tranh hiện đại nhất. Chúng đã huy động hàng trăm máy bay chiến đấu và trực thăng, hàng trăm xe tăng và xe thiết giáp lội nước, nhiều tàu chiến và tàu đổ bộ từ biển và đổ bộ đường không, nhanh chóng tiến hành bao vây chặt Quân giải phóng từ bốn phía. Tên tư lệnh lính thủy đánh bộ Mỹ đã huênh hoang: “Việt cộng sẽ không một ai lọt ra được”.
59
Nhưng kết quả cuối cùng là trung đoàn Quân giải phóng cùng bộ đội địa phương Quảng Ngãi đã dũng cảm và mưu trí chiến đấu oanh liệt diệt và làm bị thương gần 1.000 quân Mỹ, hạ tại chỗ nhiều trực thăng và xe tăng, thiết giáp, vượt vòng vây an toàn, đánh bại cuộc tấn công “tìm và diệt” đầu tiên của quân viễn chinh Mỹ. Tờ Nữu Ước thời báo1 lúc đó đã bình luận: “Mỹ phải trả giá rất đắt”.
Như vậy là ngay từ những ngày đầu đi xâm lược, quân Mỹ dù đóng công sự kiên cố (Núi Thành), đóng cụm dã ngoại (Bàu Bàng) và đặc biệt là ở Vạn Tường, xua quân đi tấn công, dựa vào sức mạnh của không quân, hải quân, cơ giới và pháo binh rất đông đảo, rất hiện đại vẫn phải chuốc lấy thất bại thảm hại.
Những chiến thắng quan trọng đó có giá trị lớn lao về mặt chiến thuật, như đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã từng phát biểu: “Dám đánh Mỹ thì ta sẽ tìm ra cách đánh Mỹ và thắng Mỹ”. Ở đây rõ ràng là quân dân ta đã dám đánh, đặc biệt là trong trận Vạn Tường, ta từ các thế rất nguy nan đã chuyển thành thế có lợi, diệt địch, thắng lợi rất vẻ vang. Và qua những chiến thắng đó, ta đã tìm ra kinh nghiệm quý báu về cách đánh trong mọi hoàn cảnh, làm giàu thêm nghệ thuật quân sự Việt Nam. Hơn thế, các chiến thắng đó là những thực tiễn hùng hồn có giá trị chiến lược lớn lao cho phép ta tin tưởng rằng Quân giải phóng có khả năng đánh thắng quân nhà nghề Mỹ chưa từng bị thua ai, khẳng định chiến tranh nhân dân của ta có thể thắng chiến tranh xâm lược đế quốc dù là chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” hay “Chiến tranh cục bộ”.
1. The New York Times (B.T).
60
MỘT TRẬN CHIẾN HAI CÁCH ĐÁNH, HAI NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ KHÁC NHAU (Trận Junction City)
Cuộc chiến tranh giải phóng, chống xâm lược Mỹ của nhân dân Việt Nam là
một cuộc chiến tranh khốc liệt, đẫm máu, kéo dài do Mỹ khởi xướng và leo thang qua nhiều giai đoạn. Từ giai đoạn đầu, một bên dùng bạo tàn cảnh sát và quân sự và một bên dùng đấu tranh chính trị hòa bình tới giai đoạn gọi là “Chiến tranh đặc biệt”, rồi “Chiến tranh cục bộ”, rồi “Việt Nam hóa chiến tranh”, với mục đích nô dịch dân tộc Việt Nam, biến miền Nam Việt Nam thành một bộ phận của nước Mỹ mà “ranh giới kéo dài đến vĩ tuyến 17” (lời Ngô Đình Diệm). Nó còn có mục đích cao hơn là tạo lập một bàn đạp đầu cầu vững chắc trên đất liền châu Á, khống chế bằng sức mạnh một vùng chiến lược quan trọng của thế giới: Vùng Đông Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương. Đây cũng là sản phẩm của tư tưởng chống cộng “Mc Carthy” ở Mỹ thập niên 1940 mà chính quyền Mỹ tự nguyện làm tên “Sen đầm quốc tế” thực hiện “chiến lược ngăn chặn” chống lại ảnh hưởng lan rộng của chủ nghĩa cộng sản. Nước Việt Nam nhỏ bé, nhân dân Việt Nam nghèo nàn, lại phải đảm đương hai nhiệm vụ lịch sử trọng đại: Giành độc lập, tự do cho dân tộc mình và bảo vệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa: Quyền con người được sống theo cách mình muốn, bình đẳng, công bằng, không bóc lột và nô dịch, người với người là bạn.
Bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, nhân dân Việt Nam đã phải bao phen chống xâm lược, bảo toàn bờ cõi và cuộc sống tự do của dân tộc mình. Và lần nào cũng vậy Việt Nam ở vào cái thế một nước nhỏ, kém phát triển, phải đương đầu với nước lớn, giàu hơn, cái thế phải lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh. Tiêu biểu nhất trong lịch sử quá khứ là quân, dân nhà Trần vào thế kỷ XIII đã phải đánh với quân xâm lược Mông - Nguyên mạnh nhất, tàn bạo nhất, thiện chiến nhất thế giới, đã từng thắng tất cả các đội quân đương thời từ Âu sang Á và lập nên
61
một đế quốc khổng lồ. Trải qua liên tiếp ba cuộc chiến tranh trong vòng 30 năm từ năm 1258 đến năm 1288, quân dân ta với nghệ thuật quân sự độc đáo của Trần Quốc Tuấn: “Lấy đoản binh chế trường trận”, đã 3 lần toàn thắng hết sức oanh liệt một đội kỵ binh nhà nghề, binh chủng ưu việt của thời đại ấy từ trước chưa bao giờ biết thua là gì và đông gấp 3 - 4 lần quân ta. Rồi tới thời kỳ lịch sử cận hiện đại, 1945 - 1975 nhân dân Việt Nam lại phải tiến hành chiến tranh chống quân xâm lược suốt 30 năm liên tục chống lại kẻ địch càng lớn mạnh hơn mình gấp hàng chục hàng trăm lần: Thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Lần này, trong thời đại mà kỹ thuật, vũ khí và phương tiện chiến tranh phát triển cao độ, tuyệt vời, hơn xa cả những phép tiên mơ ước táo bạo nhất của thời xưa, nhân dân Việt Nam lại thắng lợi vô cùng oanh liệt và vẻ vang, đánh dấu bằng trận Điện Biên Phủ vang lừng và ngày 30/4/1975 bất diệt. Nghệ thuật đánh giặc truyền thống của ông cha đã được kết hợp hết sức sáng tạo với nghệ thuật quân sự hiện đại, trên cơ sở tư tưởng cách mạng và khoa học thành cuộc chiến tranh nhân dân, chiến tranh cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức và lãnh đạo. Với lòng tin sắt đá: Chính nghĩa nhất định thắng phi nghĩa, toàn dân thực hiện chiến lược chiến tranh nhân dân, lấy con người làm gốc, vì lợi ích và phẩm giá con người, dựa vào đạo lý nhân nghĩa triệt bạo tàn, đã giành toàn thắng vẻ vang.
Chiến tranh nhân dân cách mạng được phát triển sáng tạo, phù hợp với thực tế của thời đại, có thể thắng bất cứ kẻ địch nào với loại vũ khí, phương tiện nào. ***
Phạm vi bài này lấy việc nghiên cứu, phân tích một trận đánh lớn có tính quyết định về chiến lược trong chiến tranh để rút ra một số điểm của hai nền nghệ thuật quân sự khác nhau (không phải diễn tả trận đánh).
Đó là trận Junction City của quân đội Mỹ vào năm 1967 nằm trong chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ ở Việt Nam. Sở dĩ chọn trận đánh này vì đây là trận đánh lớn nhất và quyết định nhất của chiến lược “tìm và diệt” của tướng Westmoreland - Tư lệnh quân đội Mỹ ở Đông Dương, một chiến lược được thực hiện suốt thời kỳ “Chiến tranh cục bộ” nghĩa là thời kỳ quân đội Mỹ tham chiến và trở thành lực lượng chủ yếu trên chiến trường. “Chiến tranh cục bộ” lại là cái lõi của toàn bộ cuộc chiến tranh Việt Nam. Thực sự chính quyền Mỹ và bộ máy lãnh đạo chiến tranh của họ tin chắc vào thắng lợi trong chiến tranh Việt Nam nếu họ dùng chiến lược “tìm và diệt”. Tài liệu mật Lầu Năm Góc đã tiết lộ: “Tướng Westmoreland hồi tháng 7/1965 đã nói với Washington rằng, áp dụng chiến lược “tìm và diệt”, ông có thể đánh bại kẻ địch vào cuối năm 1967”. Cùng tháng ấy, Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân bảo đảm với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
62
Mc Namara rằng: “Không có lý do gì chúng ta không thể thắng nếu đó là quyết tâm của chúng ta”. Đó thật là quyết tâm của cả Bộ Quốc phòng Mỹ và Nhà Trắng vì Bộ Quốc phòng và Tổng thống Johnson đều đã tán thành dùng chiến lược “tìm và diệt”, chấp thuận nhanh chóng việc tăng quân theo kế hoạch của Westmoreland, đồng thời hỗ trợ cho sự thành công của chiến lược bằng các chiến dịch ném bom miền Bắc Việt Nam để “làm các hoạt động nổi loạn xẹp đi vì thiếu sự hỗ trợ”.
Vậy chiến lược “tìm và diệt” là thế nào? Cũng theo tài liệu mật Lầu Năm Góc, “ý nghĩa cơ bản nêu rõ trong chiến lược “tìm và diệt” là muốn đưa cuộc chiến tranh đến tận xứ sở của kẻ địch, làm cho kẻ địch không thể tự do đi lại ở bất kỳ nơi nào trên đất nước... và giáng cho địch những đòn thật nặng nề”. Để thực hiện chiến lược ấy Westmoreland đã vạch kế hoạch gồm ba giai đoạn:
Giai đoạn I: Lực lượng quân sự Mỹ và lực lượng quân sự của “thế giới tự do” ngăn chặn chiều hướng thua, từ hồi cuối năm 1965.
Giai đoạn II: Mở các cuộc tấn công trong sáu tháng đầu năm 1966 ở các vùng đặc biệt ưu tiên để tiêu diệt các lực lượng địch và tổ chức lại các hoạt động xây dựng nông thôn.
Giai đoạn III: Nếu địch còn ngoan cố thì cần một năm đến một năm rưỡi tiếp theo giai đoạn II để đánh bại và tiêu diệt các lực lượng địch còn lại và các khu căn cứ.
Việc rút lui của lực lượng Mỹ và “thế giới tự do” bắt đầu sau giai đoạn III, khi đó Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã có đủ khả năng thiết lập và duy trì trật tự trong nước và bảo vệ biên giới của mình.
Trận đánh Junction City nằm trong giai đoạn III của kế hoạch nhằm “đánh bại và tiêu diệt các lực lượng địch còn lại và các khu căn cứ”, kết thúc cuộc chiến tranh vào cuối năm 1967 để sau đó rút hết quân Mỹ và quân chư hầu về nước. Vì vậy, trận đánh Junction City có tính chất quyết chiến chiến lược để kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh theo đúng kế hoạch của Westmoreland.
Trận đánh là một nỗ lực tối đa của quân đội Mỹ. Westmoreland huy động sử dụng vào đây những đơn vị thiện chiến nhất có trong tay, như Sư đoàn bộ binh số 1 mệnh danh “Anh cả đỏ”, Sư đoàn bộ binh số 25 mệnh danh “Tia chớp nhiệt đới”, Sư đoàn bộ binh số 4, Sư đoàn bộ binh số 9, Lữ bộ binh 196, Lữ dù 173 cùng với Lữ A thủy quân lục chiến ngụy, và 4 tiểu đoàn biệt kích và Make-force, tất cả khoảng 30 tiểu đoàn và trên 45.000 quân. Để hợp đồng chiến đấu và chi viện cho bộ binh có các đơn vị xe tăng và thiết giáp khoảng 1.200 chiếc, 256 khẩu pháo 105 ly, 155 ly, 203 ly và “vua chiến trường” 175 ly cũng như các pháo tự hành, 10 tiểu đoàn công binh
63
bảo đảm. Không quân hầu như không hạn chế, có khoảng gần 200 máy bay chiến đấu, 300 trực thăng các loại, 45 máy bay vận tải, nhiều máy bay trinh sát L19, RF 101, Mohawk... Không kể hàng loạt các phi vụ của máy bay chiến lược B52 dùng cho rải thảm hủy diệt và cả chi viện chiến đấu trước và trong trận đánh.
Một lực lượng tập trung lớn như vậy được sử dụng vào một vùng địa hình bằng phẳng có rừng cây che khuất, xen kẽ nhiều trảng trống lớn nhỏ, rộng chỉ khoảng 1.500km2 nằm giữa sông Vàm Cỏ ở nhánh tây, sông Sài Gòn ở phía đông, biên giới Campuchia ở phía bắc và thị xã Tây Ninh với Liên tỉnh lộ 13 ở phía nam. Toàn bộ khu vực có nhiều đường rải đá và đất, xẻ dọc, ngang thành nhiều mảnh, thuận lợi cho cơ giới, chủ yếu là Đường 22, Đường 4, Đường liên tỉnh 13 và đường dọc theo biên giới. Phía nam khu vực có quả núi đơn độc - núi Bà Đen, cao 968m mà từ lâu Mỹ đã thiết lập trên đỉnh một trung tâm thông tin và trinh sát kỹ thuật rất mạnh, rất hiện đại.
Toàn bộ khu vực phía bắc tỉnh Tây Ninh là khu căn cứ của ta trong suốt chiến tranh chống thực dân Pháp cũng như chiến tranh chống đế quốc Mỹ. Vào thời điểm trận đánh Junction City, ở đây ta có các cơ quan của Trung ương Cục, của Mặt trận Dân tộc Giải phóng và của Bộ Chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam. Ở đây ta còn có Đài Phát thanh giải phóng và hệ thống kho tàng các loại. Sư đoàn chủ lực số 9 của ta cũng được điều về đứng chân ở đây để chờ địch. Westmoreland đặt nhiều kỳ vọng vào trận Junction City để đạt giấc mơ kết thúc chiến tranh nên đã chỉ định Trung tướng Jonathan Seaman - Tư lệnh dã chiến II của Mỹ trực tiếp chỉ huy với những mục tiêu rất lớn như:
- Tiêu diệt cơ quan đầu não lãnh đạo kháng chiến miền Nam của đối phương, chiếm Đài Phát thanh giải phóng, tiêu diệt Sư đoàn chủ lực số 9 của Quân giải phóng và các lực lượng khác còn lại.
- Triệt phá toàn bộ kho tàng dự trữ hậu cần của địch và bịt chặt biên giới Campuchia.
- Chiếm đóng khu căn cứ quan trọng của Việt cộng mà từ lâu nổi tiếng là “Đất thánh bất khả xâm phạm”.
Mục tiêu đặt ra như vậy đã nói rõ ý nghĩa quyết định của nó, một trận đánh mang tính chiến dịch và chiến lược.
Về phía ta, Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Quân giải phóng đã đánh giá được tầm quan trọng của trận đánh này, hiểu rõ ý định của địch, quy mô lực lượng sử dụng và đặc biệt là tính chất quyết định của nó theo chiến lược của địch. Ta nhận định, kết thúc trận đánh này với thắng lợi thuộc về bên nào thì bên đó sẽ quyết định chiều hướng phát triển của cuộc chiến tranh có lợi cho mình.
64
Do đó, đôi bên đều nỗ lực tối đa cả sức lực lẫn trí tuệ vào một trận đánh mà cả hai đều chuẩn bị sẵn, cả hai đều hành động kiên quyết theo kế hoạch đã định với nghệ thuật quân sự mà mình cho là ưu việt hơn địch để quyết tâm giành thắng lợi.
Công tác chuẩn bị trận đánh của đôi bên đều rất công phu và chu đáo trong nhiều ngày:
- Về phía Mỹ, học thuyết quân sự của quân đội Mỹ lấy cơ động và hỏa lực là những yếu tố quyết định thắng lợi trên chiến trường, vì vậy phải tập trung cao độ vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại nhất, phải tạo mọi điều kiện để hỏa lực và quân đội có thể ập đến mãnh liệt và vận động nhanh nhất trên chiến trường hòng nghiền nát kẻ địch tức khắc. Nói theo ngôn từ của tướng Harkins từ năm 1962: “Hoa Kỳ chủ trương dựng lên một cỗ máy giết người có khả năng khuất phục đối phương bằng một hỏa lực kinh khủng mà nền kỹ thuật hiện đại có thể cung cấp” (Neil Sheehan: Sự lừa dối hào nhoáng - Một người Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam).
Ngay từ những tháng cuối năm 1966, Mỹ đã khẩn trương xây dựng và mở rộng các chốt biệt kích, các căn cứ của quân đội Mỹ - ngụy bao quanh sát vùng hành quân để làm bàn đạp xuất phát gần nhất, dự trữ hậu cần và bảo đảm vật chất đầy đủ và kịp thời nhất. Đó là căn cứ Trảng Lớn cho Lữ đoàn 196, căn cứ Dầu Tiếng cho Lữ đoàn 3 Sư đoàn 4, căn cứ Quản Lợi (Bình Long) cho Lữ đoàn 2 Sư đoàn 1, các căn cứ của Sư đoàn 5 ngụy ở Hớn Quản, Chơn Thành, yếu khu biệt kích Minh Thạnh và các trại biệt kích Suối Đá, Trảng Sụp, Trại Bí, Mỏ Công. Các sân bay Trảng Lớn, Suối Đá, Dầu Tiếng, Minh Thạnh, Quản Lợi cũng được sửa chữa. Chưa kể các căn cứ xa hơn một chút nhưng vẫn rất thuận lợi cho cuộc hành quân này là căn cứ Đồng Dù ở Củ Chi, căn cứ Lai Khê trên Đường 13, căn cứ Phước Vĩnh ở Phước Thành và các sân bay nằm ở các căn cứ đó. Lại còn các sân bay lớn Tân Sơn Nhất và Biên Hòa đều có đủ điều kiện hỗ trợ cho cuộc hành quân vì chỉ cách trung tâm khu hành quân trên dưới 100km. Các con đường quan trọng chạy về khu vực Bắc Tây Ninh dùng cho hành quân và vận tải cũng được sửa chữa như Đường 19, 22, 26 từ phía Nam, đường nối liền Hớn Quản và Minh Thạnh với tả ngạn sông Sài Gòn.
Từ tháng 12/1966, những đoàn xe vận tải liên tục đi về trên hai trục đường chính từ Sài Gòn, Long Bình theo Đường 22 lên Tây Ninh và Đường 13 lên hướng Dầu Tiếng, Hớn Quản, chở hàng chục nghìn tấn hàng gồm súng đạn, máy truyền tin, cầu dã chiến, xe ủi đất cho đến ximăng, bao cát, kẽm gai, gỗ đá, ống cống, cốt sắt, máy phát điện, tủ ướp lạnh... Ngoài ra, các loại máy bay C130, C123, mỗi ngày
65
từ 10 - 15 chuyến, chở hàng từ Biên Hòa lên Dầu Tiếng, Trảng Lớn, Suối Đá, Minh Thạnh, Quản Lợi.
Đó là về bảo đảm vật chất kỹ thuật, hậu cần. Còn lại công tác chuẩn bị chiến trường mọi mặt cũng không kém khẩn trương và quy mô.
Từ ngày 01/02 đến ngày 21/02, đã có trên 30 phi vụ L19, Mohawk, RB57, RC47, RC123 quan sát và chụp ảnh địa hình, dò hướng vô tuyến điện của ta, thả máy thu tiếng động theo các tuyến đường bộ lớn nhỏ, dọc sông suối, ven biên giới và cả ở trung tâm căn cứ. Trực thăng thả các toán thám báo, biệt kích thuộc Liên đoàn 77 ngụy vào các khu vực Sóc Tâm, Suối Ngô, Kà Tum, Bổ Túc, Sóc Mới, Trảng Chiên, sóc Con Trăng, bàu Tần Ken..., nghĩa là khắp các vùng trong toàn bộ khu căn cứ và sẽ là bãi chiến trường.
Không những thế, suốt từ tháng 9/1966 đến tháng 02/1967, Mỹ đã dùng trên 60 phi vụ C47 và C123 rải chất độc hóa học theo dọc Lộ 4, Tỉnh lộ 13, Đường 22, đường dọc biên giới, hầu hết các trục giao thông, và nơi chúng nghi ngờ có cơ quan, bộ đội ta đóng, và dọc các sông Sài Gòn, Vàm Cỏ, sông Tha La, Suối Mây.
Máy bay còn thả bom cháy, phát quang các khu vực chúng dự định sẽ đổ bộ trực thăng hay sẽ đem quân đóng chốt làm chỗ dựa cho hành quân. Từ ngày 01/02 đến ngày 21/02, có 50 lần chiếc máy bay chiến lược B52 ném bom rải thảm và 90 lần chiếc phản lực oanh tạc các khu vực Bàn Cờ, Trảng Chiên, Tà Cho, Đất Đỏ, Sóc Mới, suối Nước Đục... nhằm tiêu diệt, tiêu hao trước một số mục tiêu quan trọng và cũng là chuẩn bị hỏa lực trước để giảm thương vong cho quân Mỹ lúc vào trận.
Việc chuẩn bị sớm sủa, ào ạt, quy mô lớn về tất cả các mặt như vậy, hẳn bộ tham mưu của tướng Westmoreland muốn bảo đảm đầy đủ thuận lợi cho trận đánh chắc thắng, đồng thời cũng muốn đánh lạc hướng làm cho đối phương tưởng rằng đây là việc chuẩn bị cho toàn bộ chiến trường rộng lớn và cho cả chiến cuộc mùa khô năm 1967, còn cho một chiến dịch thì thật quá thừa thãi.
- Về phía Quân giải phóng, từ trước cho đến cuối năm 1966, Quân giải phóng luôn giữ chủ động trên chiến trường: Đánh hay không đánh và buộc địch phải đánh đều vì ý định và kế hoạch có lợi cho mình. Trước ngưỡng cửa mùa khô 1966 - 1967, ta đã có sự chuẩn bị các mặt cho mùa hoạt động tấn công. Việc theo dõi ý đồ, kế hoạch và mỗi một hành động của địch đều không bỏ sót. Khoảng tháng 10/1966, đã có tin tình báo đáng tin cậy từ Sài Gòn về đến Bộ Tư lệnh Miền rằng địch đã thảo xong kế hoạch hành quân “tìm và diệt” mùa khô 1966 - 1967. Kế hoạch hoạch định một loạt các cuộc hành quân liên kết với nhau nhằm đạt
66
được mục tiêu chiến lược rất quan trọng... Bộ Tham mưu Miền đã tổng hợp và phân tích mọi hành động của địch trong toàn Miền đặc biệt là ở miền Đông Nam Bộ và tăng cường theo dõi chặt chẽ địch ở các hướng. Thật không khó khăn gì để xác định rõ ý đồ và mục tiêu chủ yếu mà địch nhắm tới. Cung cách ào ạt và quy mô chuẩn bị vật chất, kỹ thuật, hậu cần, chuẩn bị chiến trường, việc vận chuyển trên các trục đường và các hoạt động ở các căn cứ hành quân của địch càng chu đáo, nhộn nhịp bao nhiêu càng sơ hở bấy nhiêu, giúp ta đánh giá đúng hướng và mục tiêu địch định đánh, quy mô và tầm mức quan trọng của trận đánh. Chính vì vậy mà ta điều chỉnh kế hoạch chuẩn bị thật sẵn sàng để chờ và tiến hành phản công lại địch một cách thành công nhất.
Ta quyết tâm giành và giữ thế chủ động từ đầu trận đánh cho đến khi kết thúc và biến thế chủ động của địch thành bị động hoàn toàn. Ta nhất định phải thắng. Ở khu căn cứ Bắc Tây Ninh này, từ lâu cả ngụy lẫn Mỹ mới đánh được vào vùng ven phía Nam. Lần này là lần đầu tiên thử lửa, thực sự sống mái, ở toàn bộ khu căn cứ, giữa quân Mỹ có ưu thế tuyệt đối về nhiều mặt, cả số lượng cũng như phương tiện và vũ khí đi tìm diệt, với Quân giải phóng ít hơn và trang bị kém hơn nhiều lần nhưng dựa vào tinh thần quyết thắng và chiến lược tấn công cách mạng của chiến tranh nhân dân. Việc phản công của Quân giải phóng trong thế ít phải địch nhiều, yếu phải thắng mạnh, không thể dựa vào sức mạnh đơn thuần của quân số và vũ khí mà là phải có một nghệ thuật ưu việt hơn, trong đó trí tuệ con người, lòng dũng cảm và quyết tâm cao phải là cơ sở. Muốn vậy việc chuẩn bị trước nhất là phải tạo lập cho được một thế trận chiến tranh nhân dân trong toàn vùng căn cứ, phát huy cao độ khả năng bảo toàn mình và tiêu diệt nhiều địch của từng người một, từng toán nhỏ cho đến đơn vị tập trung lớn. Lấy con người trí dũng và quyết tâm cao làm trung tâm của chiến thuật và chiến dịch. Liên kết hàng nghìn trận đánh lẻ, nhỏ, vừa và lớn theo một kế hoạch phối hợp nhịp nhàng, tự giác, chủ động về địa điểm, thời gian trong toàn chiến dịch phản công, có sự chỉ huy thống nhất, chặt chẽ. Trong thế trận đó, địch tưởng bao vây ta hóa ra ta bao vây địch khắp mọi nơi, mọi lúc, địch không hề trông thấy Quân giải phóng ở đâu mặc dù có đủ cả phương tiện hiện đại nhưng đi đến đâu cũng bị đánh, ở nơi đâu cũng bị đánh, ngày hay đêm đều bị đánh. Mỗi viên đạn lớn, nhỏ của ta phải trúng đích trong lúc địch phần lớn đánh vào chỗ trống, đánh hụt, vồ hụt. Những nơi địch tới được, chúng không gặp người mà chỉ thấy truyền đơn và ápphích kêu gọi hòa bình, hữu nghị, tôn trọng cuộc sống tự do của mỗi dân tộc, hãy rút về Mỹ để cho người Việt Nam tự giải quyết với nhau... Toàn bộ khu căn cứ được tổ chức thành 13 khu vực tạm gọi là “huyện” mỗi “huyện” có một đại đội
67
chiến đấu do các đơn vị bảo vệ cơ quan phân ra. “Huyện” lại chia ra làm nhiều “xã”, mỗi “xã” có nhiều tổ du kích do nhân dân tại chỗ và cán bộ, nhân viên các cơ quan của Trung ương Cục, Mặt trận và Bộ Tư lệnh Miền chuyển thành. Mỗi tổ du kích được trang bị súng chống tăng B40, tiểu liên AK, nhiều mìn chống tăng, chống bộ binh, mìn định hướng và nhiều lựu đạn, thủ pháo. Các đại đội chiến đấu của “huyện” cơ động trong “huyện” phối hợp với các tổ du kích “xã”, cũng được trang bị mạnh, nhiều súng chống tăng cầm tay, trung liên và cối nhẹ. Ban chỉ huy xã đội và huyện đội là những cán bộ phụ trách ban, phòng, cục, kho, xưởng, bệnh viện... bám trụ tại chỗ. Số lượng du kích như vậy có vào khoảng gần 10.000 người rải ra khắp vùng căn cứ, trang bị mạnh nhất là các mìn và các loại súng chống tăng hiện đại nhẹ và hiệu quả cao. Nhưng đặc biệt nhất là chất lượng chiến đấu tuyệt vời vì toàn là cán bộ, nhân viên, chiến sĩ có trình độ, có tri thức quân sự, quyết tâm cao và bản lĩnh chiến đấu vững vàng, lại đánh địch ngay tại địa điểm cơ quan của mình, có công sự chuẩn bị chu đáo từ lâu và quen thuộc từng cụm rừng, gốc cây, gò mối. Trong quá trình chuẩn bị, ta đào được nhiều giao thông hào nối liền nhiều ụ chiến đấu, hầm tránh bom, đạn, hầm bí mật, hầm dự trữ vũ khí, lương thực, thuốc men và đều được ngụy trang kỹ. Có thể nói, mỗi “xã” là một pháo đài kiên cố mà địch không thể phát hiện, cứ tưởng như một khoảnh rừng không người yên bình, ở đó, các tổ du kích như sống bình thường ở nhà mình, rất an toàn và khỏe khoắn, chờ đánh một cách mưu trí và bất ngờ một kẻ địch như bị mù, từ xa đến, lạ lùng và mệt nhọc.
Kế “dĩ dật đãi lao” (lấy nhàn chống nhọc) của ông cha ta ngày xưa hẳn cũng như vậy. Nhiều chiếc xe tăng đang đi bất thình lình bị nổ, cháy; nhiều toán quân đang tiến bị mìn, súng chống tăng tiêu diệt mà không nhìn thấy một kẻ địch nào. Khắp rừng là như vậy, cái chết từ đâu đến không hay biết, khiến cho quân Mỹ mỗi ngày hay mỗi giờ đều gặp bất ngờ, số chết không kịp hiểu, số sống sót mất dần tinh thần. Một cuộc chiến kỳ lạ như hoang đường mà đối phương xuất quỷ nhập thần, Mỹ đi đâu cũng bị đánh, bị chết, về đóng quân nghỉ đêm, cũng bị đánh, chúng lúc nào cũng căng thẳng lo lắng, ăn không ngon, ngủ không yên. Xây dựng được một thế trận chiến tranh nhân dân như vậy tại nơi rừng cây bị băm nát vì bom B52 và chất độc hóa học, với những chiến sĩ dày dạn xen lẫn trong cây rừng, lán trại từ nhiều năm, không phải chỉ lý luận là đủ mà còn phải được trui rèn qua thực tế lửa đạn và kinh nghiệm đúc kết, đặc biệt là với đầu óc hết sức sáng tạo, sáng tạo của từng chỉ huy, của từng chiến sĩ. Ý định và kế hoạch chuẩn bị chu đáo như vậy nhưng thực tế diễn biến chiến đấu còn sáng tạo và phong phú hơn rất nhiều.
68
Phối hợp với mặt trận du kích lúc đó, Sư đoàn 9 chủ lực được tăng cường Trung đoàn 16 và các đơn vị pháo binh, đặc công, thanh niên xung phong bảo đảm, chia ra đóng quân từng trung đoàn ở những nơi tránh gặp địch nhưng luôn ở tư thế sẵn sàng tập trung đánh lớn như “những quả đấm thôi sơn”, theo kế hoạch của sư đoàn và của chỉ huy chiến dịch. Sư đoàn và trung đoàn trong lúc nghỉ ngơi, chờ lệnh, lại phái các trinh sát, một ít đơn vị nhỏ bám theo các cánh quân địch để luôn nắm chắc tình hình địch, đánh tỉa, nhỏ, kiểu du kích, cũng để hiểu rõ cách thức hành động của địch và nơi đóng quân của chúng về đêm. Chủ lực của ta rất ung dung chờ thời cơ ra tay, thời cơ thường là vào những ngày cuối một đợt chiến dịch của địch khi quân Mỹ đã qua nhiều ngày hành quân mệt mỏi, căng thẳng, bị tiêu hao nhiều bởi du kích. Chiến dịch Junction City chia làm 2 đợt: Đợt I từ ngày 22/02 đến ngày 15/3/1967 và đợt II từ ngày 18/3 đến ngày 15/4/1967. Những trận đánh của chủ lực ta gồm có trận tập kích ở Đồng Pan đêm 10/3 khi quân Mỹ hành quân cả ngày về đóng quân ở đó, trận Đồng Rùm đêm 20/3 và trận Ba Vũng đêm 31/3. Còn một số trận nhỏ hơn cấp tiểu đoàn tăng cường. Thực ra số trận đánh tập trung của chủ lực ta chưa nhiều, quyết tâm của đơn vị chưa thực cao và đánh diệt chưa gọn, nhưng trong lúc quân địch hung hăng đi tìm diệt mà không được lại bị du kích đánh, tiêu hao nặng nề, mệt mỏi, thì nay lại bị kẻ địch lớn tìm diệt, mỗi trận chết và bị thương hàng trăm người và nhiều xe cộ, pháo binh bị phá hủy khiến cho quân Mỹ càng hoang mang lo sợ, tinh thần xuống trông thấy.
Chiến dịch Junction City diễn biến đúng như ta đã dự liệu. Ta càng nắm chắc tình hình, sau khi theo dõi một số trận đánh liên tiếp trước đó của quân đội Mỹ, có mục đích diệt và dồn đối phương về phía Bắc Tây Ninh để “cất vó”, diệt gọn và cũng để thăm dò và rút kinh nghiệm. Như trận “Atteleboro” dùng trên 20 tiểu đoàn Mỹ - ngụy, chủ yếu là Mỹ, cùng 10 tiểu đoàn pháo và 400 xe tăng, thiết giáp, có cả đổ bộ trực thăng đánh vào căn cứ Dương Minh Châu, phía đông nam căn cứ Bắc Tây Ninh, từ ngày 02/11/1966 đến ngày 26/11/1966, bị thất bại thảm hại. Toàn bộ Lữ 196 Mỹ bị thiệt hại nặng, bị loại khỏi vòng chiến đấu và tướng chỉ huy lữ De Chaussures bị cách chức ngay tại trận. Tiếp theo là cuộc hành quân “Big Spring” từ ngày 01/02 đến ngày 16/02/1967, đánh vào Chiến khu Đ của ta ở Tân Uyên. Cuộc hành quân “Túc Sơn” đánh vào chiến khu Long Nguyên, phía đông sông Sài Gòn, từ ngày 14/02 đến ngày 18/02.
Cuộc hành quân “Gardsen” của Lữ 1 Sư đoàn 25 Mỹ đánh vào vùng căn cứ phía tây Đường 22 và sát biên giới Campuchia từ ngày 02/02 cho đến ngày 21/02/1967. Cuộc hành quân này có mục đích quét dọn trước khu vực phía tây vùng căn cứ sát sông Vàm Cỏ, diệt và dồn đối phương còn lại về khu trung tâm, đồng thời
69
khi kết thúc trận này, ngày 21/02, toàn bộ Lữ 1 Sư đoàn 25 tập trung đóng chốt từ Lò Gò - Tà Xia đến Cần Đăng, nhằm triển khai sẵn lực lượng trên suốt Đường 22 tới sát biên giới, hình thành bức tường bao vây sẵn phía tây cho trận chính thức Junction City mở màn vào ngày 22/02.
Ngày 22/02, từ sáng sớm địch chuẩn bị hỏa lực ác liệt trên chiến trường bằng 200 lượt chiếc máy bay ném bom và B52 chiến lược rồi lập tức máy bay C130 chở Lữ dù 173 nhảy xuống Séslo - Katum, điểm quan trọng gần sát biên giới và đầu Đường 4. Tiếp theo là 250 lần chiếc trực thăng chở Lữ 1 và Lữ 2 Sư đoàn 1 “Anh cả đỏ” đổ bộ xuống Sóc Mới - Rùm Đuôn - An Khắc. Vậy là tuyến biên giới với Campuchia bị bịt chặt, chúng quyết không để một người nào lọt lưới vượt qua đường biên giới. Trong lúc đó, Lữ đoàn 2 Sư đoàn 25 cùng với toàn bộ Trung đoàn tăng thiết giáp số 11 của Mỹ theo Đường 4 từ Tây Ninh đến lên Đồng Pan, Katum hình thành bức tường phía đông. Khu trung tâm căn cứ của ta mà Mỹ được biết là gồm toàn bộ đầu não Trung ương Cục, Mặt trận Giải phóng, Bộ Tư lệnh Miền và Sư đoàn 9 chủ lực ở đây, đã bị bao vây chặt chẽ bốn mặt, không một lối thoát nhỏ. Đã đến lúc có thể “cất vó” diệt và bắt trọn đối phương. Từ Đường 22 cũng như từ Đường 4 cả hai bên sườn tây và đông, hàng nghìn xe tăng thiết giáp Mỹ có bộ binh ngồi trên xe, chia thành nhiều mũi thọc vào rừng, băm nát từng khu vực nhỏ. Nhưng quân Mỹ không hề gặp Quân giải phóng ở đâu cả. Trong lúc đang hành quân chưa tới đích, từng xe tăng đã bị súng chống tăng diệt, từng toán binh sĩ bị mìn tan xác, nhiều mũi đột phá phải đối phó liên tục với kẻ địch vô hình. Không những thế, Lữ dù 173 mở đầu trận đánh bằng một cuộc nhảy dù ngoạn mục mà lúc ấy báo chí đã đánh giá là “một cuộc nhảy dù lớn nhất và lần đầu tiền ở miền Nam Việt Nam”, được đối phương “đón tiếp” cũng không kém ngoạn mục. Chiến sĩ du kích và bộ đội địa phương của ta sẵn sàng trong công sự chiến đấu, ngay nơi quân Mỹ nhảy dù xuống, đã điềm tĩnh dùng liên thanh các cỡ và mìn định hướng đón tiếp quân của Lữ 173 ngay từ trên không. Hàng loạt dù bị thủng rách, hàng trăm lính dù chết, bị thương khi chân chưa chạm đất. Nhiều thây chết và cả lính còn sống mắc trên cành cây. Một số máy bay bị bắn rơi. Ngay trong ngày đầu, chủ lực ta chưa ra quân, mới chỉ có du kích và bộ đội địa phương tác chiến, quân Mỹ đã thiệt hại đến 30 xe tăng và thiết giáp, trên 20 máy bay các loại bị bắn rơi và gần 400 quân Mỹ chết và bị thương. Thật là quá bất ngờ cả với quân và tướng Mỹ khi bước chân vào căn cứ Việt cộng, ngay từ những phút ban đầu. Họ đã quen đánh giá quá mức hiệu quả hủy diệt của các loại hỏa lực khi đã tập trung cao độ vào mục tiêu cũng như đánh giá quá mức vào độ “trí khôn” và mức chính xác của các phương tiện trinh sát hay điều khiển hiện đại. Không, chúng ta khẳng định rằng, không có gì có thể thay thế và bằng được con người. Rằng trí tuệ
70
và năng lực hành động của con người có thể chiến thắng tất cả, từ thiên nhiên đến máy móc siêu việt mà con người đã tạo ra. Học thuyết quân sự, nghệ thuật quân sự của Mỹ dựa vào máy móc, phương tiện vũ khí, cả vũ khí hạt nhân, làm cơ sở cho chiến lược, chiến thuật còn Quân giải phóng thì dựa vào con người, vào trí tuệ, sáng tạo, năng lực hành động và quyết tâm của con người làm trung tâm của chiến lược chiến thuật. Cách mạng là phát huy đến vô tận sức mạnh của con người làm chủ trên mọi phương diện. Bom hạt nhân không thể hủy diệt toàn bộ nhân loại và một khi nhân loại còn một bộ phận thì bộ phận loài người ấy sẽ chiến thắng tội ác và tất cả những kẻ gây ra tội ác.
Cũng chính vì vậy, nghệ thuật quân sự Việt Nam không phải nhằm hủy diệt mạng sống con người làm đích chiến thắng theo kiểu “đếm xác” ghi công, trải thảm, hủy diệt, ủi trắng làng mạc, đốt sạch, giết sạch, đày ải dân làng vào ấp chiến lược... theo kiểu quân đội Mỹ - ngụy; mà ngược lại, lấy nhân nghĩa thắng bạo tàn, quý trọng từng con người, thuyết phục hơn tiêu diệt, chọn hòa hơn chiến, nếu có thể, để đạt mục tiêu.
Cuộc hành quân Junction City diễn ra được chục ngày thì Bộ Chỉ huy quân Mỹ đã thất vọng nặng nề. Chính giới truyền thông của Mỹ, ngày 03/3 phải thú nhận: Hành quân thất bại, tốn kém 25 triệu đôla, quân số hao hụt quá mức dự định, bệnh tật nhiều (từ 5% lên 12% rồi đến 16%), tinh thần binh lính quá căng thẳng, chủ lực đối phương tránh né, chỉ để lại một bộ phận đánh du kích còn lại bộ phận luồn ra phía sau; các căn cứ đều bỏ trống. Chính lúc này, Sư đoàn 9 chủ lực xuất hiện, thực hiện những trận đánh vừa, diệt nhiều lính Mỹ và phá nhiều pháo, thiết giáp ngay trong các cụm đóng quân hoặc phục kích trên đường hành quân. Đêm 06/3 pháo kích nặng nề cụm quân ở Tà Xua và ở truông Bình Linh. Ngày 09/3 chặn đánh cánh quân ở Lovia. Đêm 10/3, tập kích cụm Đồng Pan và Bàu Cỏ.
Sau khi công nhận “Sư 1 bộ binh, Lữ dù 173 và Trung đoàn tăng và thiết giáp số 11 bị đánh dữ dội và thiệt hại nặng nề”, ngày 15/3, quân Mỹ bắt đầu rút lui khỏi căn cứ để kết thúc đợt I, chỉ để lại các cụm ở Đồng Pan, Bàu Cỏ trên Đường 4 giữ sườn phía tây cho đợt II, chuyển về phía đông căn cứ sát sông Sài Gòn.
Ngay ở đợt I này, Mỹ đã thất bại thấy rõ, như hãng tin Pháp AFP đã đưa tin: “Cuộc hành quân Junction City được coi là một trong những hy vọng lớn của Mỹ trong giai đoạn trước mắt, cuộc hành quân có nhiều tham vọng nhất trong cuộc chiến tranh, nhưng kết quả thật đáng buồn; không thấy dấu vết nhà lãnh đạo Mặt trận Dân tộc Giải phóng đâu cả... Đài Phát thanh Mặt trận Dân tộc Giải phóng vẫn tiếp tục hoạt động, mặc dù một trong những mục tiêu của cuộc hành quân này là làm cho nó câm đi... Bộ Chỉ huy Mỹ đang chuẩn bị thú nhận cuộc mạo hiểm
71
lớn này là thất bại”. Mặc dù thế, Bộ Chỉ huy quân Mỹ điên đầu, cay cú vẫn cố dốc sức thực hiện đợt II. Chúng lại vận chuyển rầm rộ trên Đường 13, Đường 22, mỗi ngày có đến 200-300 chuyến xe tải nặng và cả các loại phi cơ C123, C130 chở vũ khí bom đạn bổ sung lên các căn cứ Quản Lợi, Minh Thạnh, Dầu Tiếng, Tây Ninh trong những ngày 15 - 18/3. Phi cơ chiến đấu và B52 lại rải bom không hạn chế vào các trục lộ, ven sông Sài Gòn, dọc biên giới với Campuchia và khắp nơi nghi ngờ trong căn cứ phía đông. Tuy vậy, cuộc hành quân đợt II còn tệ hại hơn đợt I vì lần này Sư 9 chủ lực Quân giải phóng đã đánh nhiều trận lớn hơn, quân du kích ở khắp vùng địch đã rút lại phát động phong trào “săn cơ giới” với các đội trang bị mìn và súng chống tăng mạnh, lùng sục đón đầu và đuổi theo quân Mỹ khắp rừng từ ngày 01/4, nhiều cánh quân Mỹ phải co cụm phòng ngự để khỏi bị diệt, cuộc tấn công chủ động bị phản công đã phải cố thủ bị động. Và cũng từ ngày 01/4, từng cánh quân Mỹ đã bắt đầu rút lui. Đến ngày 13/4 thì toàn bộ quân Mỹ đều rút chạy khỏi khu căn cứ.
Giai đoạn truy kích và chặn đánh quân địch rút lui bằng đường bộ của Quân giải phóng bắt đầu sôi nổi, nhưng hiệu quả không nhiều vì Mỹ ra sức nghi binh và rút nhanh.
Trong cả hai đợt đánh vào căn cứ, quân Mỹ còn bị đánh ở phía sau như các căn cứ Quản Lợi, Đồng Dù, Suối Đá và chỉ huy sở cuộc hành quân ở Dầu Tiếng đều bị pháo kích, các xe vận chuyển trên Đường 22 và Đường 13 bị đánh mìn, phục kích và đặc biệt là ngày 19/3 khi Lữ 1 Sư đoàn 9 Mỹ vừa tập kết ở Bàu Bàng trên Đường 13 thì bị tập kích mãnh liệt, bị thiệt hại nặng trước khi hành quân. Một trung đoàn chủ lực của Sư đoàn 9 Quân giải phóng đã cùng lực lượng địa phương của các tỉnh Tây Ninh, Bình Dương, Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn theo lệnh của Bộ Chỉ huy Miền phối hợp chiến đấu sau lưng địch.
Cuộc hành quân “tìm và diệt” Junction City quan trọng nhất đã bị thất bại nặng nề. Tất cả các mục tiêu đề ra đều không đạt: Lãnh đạo và chỉ huy Quân giải phóng, Mặt trận Dân tộc Giải phóng vẫn ung dung điều khiển cuộc chiến như bình thường, Đài Phát thanh Giải phóng vẫn loan báo những tin tức thắng trận không hề đứt đoạn, các kho tàng vật tư trong căn cứ không bị suy suyển vì bom B52 hay xe tăng Mỹ, chủ lực Quân giải phóng đã không bị “gãy xương sống” mà còn có dịp lập thêm nhiều chiến công oanh liệt. Đặc biệt là quân du kích gồm cả nhân dân và cán bộ nhân viên các cơ quan quân sự và dân sự của Mặt trận Dân tộc Giải phóng (bao gồm cả các bác sĩ, y tá, văn công, điện ảnh...) đã chứng tỏ kỹ năng chiến đấu không kém năng lực chuyên môn thường ngày của mình. Căn cứ Bắc Tây Ninh vẫn là “đất thánh” bất khả xâm phạm.
72
Quân Mỹ là người đi tìm diệt trở thành bị tìm diệt, bị săn lùng. Mức thiệt hại cao, cả về người và vũ khí phương tiện. Có trên 10 nghìn quân chết và bị thương, 992 xe các loại trong đó có 775 xe tăng và thiết giáp tan xác, 160 máy bay bị rơi và hủy diệt ở mặt đất (có 144 trực thăng), 112 khẩu pháo từ cỡ 105 ly trở lên bị hủy. Thế là Mỹ mất đi qua cuộc hành quân gần 1/3 quân số, 2/3 xe tăng và thiết giáp, gần 1/2 trực thăng và pháo binh. Đặc biệt trong thành tích diệt giặc của Quân giải phóng trong toàn bộ trận Junction City này thì cỡ 1/2 các loại bị diệt, trừ pháo, là thành tích của du kích và bộ đội địa phương.
Quân Mỹ dựa vào việc sử dụng tập trung cao độ hỏa lực vào những mục tiêu đã nắm chắc bằng phương tiện hiện đại, tưởng có thể tiêu diệt về cơ bản kẻ địch trên chiến trường, bộ binh Mỹ khi tiến vào chỉ là để kiểm nhận kết quả và “lượm” những kẻ hiếm hoi còn sống sót hay bị thương và bắt sống kẻ địch đã mất tinh thần. Sự thật trong trận Junction City đã không diễn ra như vậy mà bộ binh cơ giới Mỹ đi đến đâu cũng gặp du kích tấn công, bị chủ lực Quân giải phóng đánh diệt. Chính tướng Westmoreland đã phải than thở sau một số ngày hành quân rằng: “Chẳng thấy bóng du kích ở đâu cả nhưng bất cứ ở đâu quân Mỹ cũng đều bị quân du kích chặn đánh...”. Con người có kỹ năng, có quyết tâm, có trí tuệ, hoàn toàn biết tạo các biện pháp cần thiết để bảo toàn mình và chờ diệt địch. Con người quyết định chớ không phải vũ khí.
Quân Mỹ dựa vào sức cơ động nhanh trên mọi địa hình, mọi thời tiết bằng máy bay và trực thăng các loại, bằng cơ giới tối tân. Trong trận Junction City, chỉ một thời gian rất ngắn, quân Mỹ đã có mặt, bao vây chặt chẽ toàn bộ khu vực chiến trường đã định và dùng xe tăng, thiết giáp đột phá thọc sâu nhanh chóng vào mục tiêu. Nhưng chiến trường không chiến tuyến tưởng như trống rỗng không người, rồi phút chốc bất ngờ ở đâu cũng có đối phương nổ súng. Như vậy phải chăng Quân giải phóng cơ động bằng chân lại nhanh hơn quân Mỹ, có mặt khắp nơi khi nào muốn đánh, cả từng người cho đến từng đơn vị trung đoàn, sư đoàn. Và quân Mỹ cũng không hề thấy địch trước và sau trận đánh. Thế trận chiến tranh nhân dân của quân cách mạng là như vậy đó.
Cả đôi bên đều coi trọng công tác chuẩn bị chu đáo trận đánh theo kế hoạch của mình, mà việc đầu tiên là phải hiểu địch hiểu ta. Cách đây trên 2.000 năm, Tôn Tử đã nói: “Biết mình biết địch, trăm trận không thua” (tri kỷ tri bỉ, bách chiến bất bại). Quân giải phóng đã hiểu rõ địch, cách sống, cách đánh của chúng, chỗ mạnh của chúng để kiềm chế, chỗ yếu của chúng để lợi dụng; còn hiểu rõ ý định mục tiêu và hành động của chúng, các loại vũ khí chúng sẽ sử dụng, binh pháp mà chúng sẽ thực hành. Quân giải phóng cũng biết rõ mình
73
ít mà yếu, không đương nổi với sức mạnh của địch, mà phải tổng hợp dùng sức, trí, thời, thế như Bác Hồ đã dạy: “Lạc nước, hai xe đành bỏ phí/ Gặp thời, một tốt cũng thành công”. Trong trận Junction City, “xe” của Mỹ lạc nước nên không có tác dụng, mà “tốt” của Quân giải phóng gặp thời rõ ràng phát huy hiệu quả, “thời” thuận lợi đó là thế trận chiến tranh nhân dân bày sẵn, để địch lạc vào một “mê hồn trận” không biết đâu mà lần, không thấy địch đâu mà đánh, mất cả sức và mất cả hồn, bị động và bất ngờ.
Trận Junction City là một trận tiêu biểu của cuộc chiến tranh Việt Nam. Những gì đã diễn ra trong chiến dịch này cũng đã diễn ra gần như trong chiến lược của chiến tranh. Kết quả, ít đã thắng nhiều, yếu đã thắng mạnh, chính nghĩa thắng phi nghĩa. Cuộc đấu sức và đấu trí có tính thời đại của chiến tranh Việt Nam vẫn còn nguyên trong trí nhớ mọi người, và còn nguyên giá trị thực tế lâu dài.
74
TỔNG TẤN CÔNG VÀ NỔI DẬY NĂM 1968
1968 - 1988 - Cuộc Tổng tấn công và nổi dậy đồng loạt của quân và nhân dân ta trên toàn miền Nam Mậu Thân năm 1968 đến nay đã vừa tròn 20 năm. 20 năm, phải chăng thời gian đã chín muồi cho việc đánh giá lại đầy đủ ý nghĩa thắng lợi, những thành công và cả những mặt thất bại, thiếu sót về nghệ thuật chỉ đạo và thực hành chiến tranh trong cuộc tập kích chiến lược vang dội này. Nhân dịp kỷ niệm 20 năm cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Mậu Thân, tôi xin được phép tái hiện lại toàn bộ diễn biến cuộc chiến đấu sôi sục và anh dũng của quân và dân ta ở chiến trường B2, trong đó có Sài Gòn - Gia Định là trọng điểm của toàn miền Nam với lòng mong mỏi từ thực tiễn sinh động của chiến trường đóng góp một phần nào vào việc nghiên cứu, làm phong phú thêm kho tàng lý luận nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Bối cảnh lịch sử dẫn đến cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968 Cho đến nay, vẫn còn có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau về thắng lợi của cuộc Tổng tấn công và nổi dậy năm 1968, những thành công và thất bại của nó. Để đánh giá đúng thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của nó, cần phải điểm lại bối cảnh lịch sử dẫn đến cuộc Tổng tấn công và nổi dậy năm 1968.
Giữa năm 1965, những chiến thắng vang dội của quân và dân ta ở Bình Giã, Ba Gia, Đồng Xoài... báo hiệu sự sụp đổ hoàn toàn của ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn. Tổng thống Johnson và Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ đã phải quyết định đưa quân viễn chinh Mỹ và huy động quân chư hầu nhảy vào miền Nam Việt Nam.
Với việc nhanh chóng làm thay đổi tương quan lực lượng trên chiến trường, đế quốc Mỹ đã có tham vọng rất lớn, không những cứu nguy cho ngụy mà còn có ảo tưởng trong vòng từ 2 đến 3 năm sẽ tiêu diệt chủ lực và du kích ta, giành thắng lợi quyết định với kế hoạch gồm 3 giai đoạn:
75
- Giai đoạn 1: Từ tháng 7/1965 đến cuối năm 1965, ngăn chặn tiến công của ta, triển khai lực lượng quân Mỹ trên toàn chiến trường miền Nam. - Giai đoạn 2: Từ đầu năm 1966 đến tháng 9/1966, sẽ tấn công lớn giành thế chủ động, phá chiến tranh du kích, diệt chủ lực ta, bình định miền Nam. - Giai đoạn 3: Từ tháng 9/1966 đến giữa hoặc cuối năm 1967, hoàn thành tiêu diệt chủ lực ta và các căn cứ kháng chiến, bắt đầu giao cho quân ngụy tiếp tục bình định miền Nam, quân Mỹ rút về nước.
Thực tiễn chiến trường đã diễn ra hoàn toàn ngược lại tham vọng của Mỹ. Chúng đã đụng phải ý chí sắt thép, sức mạnh vô địch của toàn quân, toàn dân ta. Đúng như lời kêu gọi và cũng là dự đoán tài tình của Bác Hồ ngày 20/7/1965: “Dù phải chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn”. Đế quốc Mỹ đã phải chịu hết thất bại này đến thất bại khác, thất bại sau đau hơn thất bại trước.
Từ giữa năm 1965 đến giữa năm 1967, Mỹ - ngụy đã tiến hành 2 cuộc phản công chiến lược.
Cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất 1965 - 1966 được triển khai bằng kế hoạch “5 mũi tên” trên 5 hướng hòng “buộc Việt cộng từ người đi săn trở thành người bị săn”, đẩy ta từ thế chủ động vào thế bị động về chiến lược.
Ở miền Đông Nam Bộ, ngay từ khi quân Mỹ mới nhảy vào đã tổ chức hàng loạt cuộc hành quân đánh phá các căn cứ quan trọng của ta như Dương Minh Châu, Bời Lời, Củ Chi, Long Nguyên, Chiến khu Đ, Xuyên Mộc, Hắc Dịch... hòng triệt phá nơi đứng chân của cơ quan đầu não và chủ lực ta, làm lá chắn hỗ trợ cho quân ngụy bình định.
Quân ta không quay về “đánh du kích” như chúng mong tưởng mà lại tiếp tục chiến lược tấn công. Với phong trào thi đua sôi nổi lan rộng khắp nơi, nổi lên những chiến thắng vang dội ở Bàu Bàng, Đất Cuốc, Dầu Tiếng, Plây Me, Núi Thành, Chu Lai, Đà Nẵng..., quân và dân ta đã làm cho cả quân Mỹ và quân ngụy bị tổn thất nặng nề.
Ngày 05/5/1966, đế quốc Mỹ phải kết thúc cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất. Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn, Cabot Lodge phải báo cáo về Mỹ “cuộc phản công không làm hao tổn được Việt cộng, không ngăn chặn được du kích phát triển, hậu phương không ổn định, quân đội Sài Gòn giảm chất lượng nhanh chóng, lực lượng Mỹ tăng cường bổ sung không kịp, khả năng tiếp viện hạn chế, quân chính quy Việt cộng cơ động...”.
76
Tuy đã bị thất bại nặng nề, nhưng đế quốc Mỹ lại mở cuộc phản công chiến lược lần thứ hai 1966 - 1967 với tham vọng còn rất lớn. Chúng thay chiến lược “tìm diệt” bằng chiến lược “hai gọng kìm” là “tìm diệt” và “bình định”, tăng quân Mỹ từ 20 vạn lên 48 vạn với ý đồ giành thắng lợi quyết định, làm chuyển biến cục diện chiến trường vào giữa hoặc cuối năm 1967 hoặc buộc ta phải thương lượng theo điều kiện của Mỹ. Trọng điểm phản công là Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ.
Ở miền Đông Nam Bộ, địch đã tiến hành hàng loạt cuộc hành quân với quy mô lớn hơn nhiều so với mùa khô lần thứ nhất. Chúng tập trung chủ yếu quân Mỹ đánh phá hướng bắc Sài Gòn và Tây Ninh nhằm triệt phá các cơ quan đầu não của hai quân khu miền Đông và Sài Gòn, tiêu diệt một bộ phận chủ lực cơ động của ta, kết hợp quân ngụy bình định, mở rộng vành đai an ninh quanh Sài Gòn, như: Từ ngày 14/9 đến ngày 20/9/1966 đánh Dương Minh Châu; ngày 08/01/1967 hành quân Xêđaphôn đánh vùng “Tam giác sắt”; ngày 01/02/1967 hành quân “Cái bẫy” đánh Chiến khu Đ; từ ngày 02 đến ngày 12/02/1967 hành quân “Gác Đơn” đánh vào vùng Lò Gò, Cần Đăng (Tây Ninh); từ ngày 14 đến ngày 18/02/1967 hành quân “Tức Sơn” đánh hai bờ sông Sài Gòn và đông Dầu Tiếng. Tất cả các cuộc hành quân trên vừa để triệt phá căn cứ cấp khu, đồng thời cũng để chuẩn bị cho cuộc hành quân lớn nhất vào căn cứ Bắc Tây Ninh mang tên Junction City. Trong cuộc hành quân này địch đã sử dụng 45.000 quân chủ yếu là quân Mỹ, 1.200 xe tăng và thiết giáp, hơn 500 máy bay các loại, 250 khẩu pháo cối hạng nặng. Westmoreland - Tổng Chỉ huy quân viễn chinh Mỹ ở miền Nam Việt Nam đã ra thông báo công khai trước cuộc hành quân nêu rõ mục tiêu cuộc hành quân là để diệt cơ quan lãnh đạo miền Nam, phá Đài Phát thanh và diệt Sư đoàn 9 của ta.
Có thể nói đây là cuộc hành quân quy mô lớn nhất và cũng là thất bại nặng nề nhất trong chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ ở miền Nam, đúng như báo chí phương Tây đã bình luận: “quy mô voi, kết quả chuột”. Hơn một vạn quân Mỹ, gần 1.000 cơ giới, hàng trăm máy bay, hàng trăm khẩu pháo bị loại ra ngoài vòng chiến đấu.
Trong cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của địch, ở Tây Nguyên và ven biển miền Trung, quân và dân ta cũng thắng lớn, gây cho địch tổn thất nặng nề. Trên mặt trận bình định, ta đã phá rã gần 3.000 ấp chiến lược, địch chỉ còn kiểm soát 20% tổng số ấp ở miền Nam. Phong trào đấu tranh ở các đô thị lớn phát triển mạnh, lôi cuốn hàng triệu quần chúng xuống đường đòi lật đổ chế độ tay sai Mỹ. Ở hậu phương lớn, quân và dân ta đã bắn rơi hơn 1.000 máy bay, bắt gần 700 giặc lái. Ở Mỹ, phong trào chống chiến tranh xâm lược lên cao chưa từng thấy, lan rộng ở 50 thành phố lớn.
77
Dean Rusk - Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ phải thú nhận: “Năm 1967 là năm đau khổ và khốc liệt đối với Mỹ trong chiến tranh Việt Nam”.
Như vậy, đến giữa năm 1967, sau ba năm tiến hành “Chiến tranh cục bộ”, tổng số quân Mỹ đưa vào miền Nam lên đến 48 vạn tên gồm đến 9 sư đoàn, 3 lữ đoàn, đem ra thi thố hầu như toàn bộ mọi thứ vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại nhất, trừ bom nguyên tử, đế quốc Mỹ chẳng những không hề tiêu diệt được chủ lực và du kích ta, không giành lại được thế chủ động trên chiến trường mà ngày càng lún sâu vào thế phòng ngự, bị động và thất bại cả về quân sự, chính trị, ở cả miền Nam, nước Mỹ và trên thế giới.
Tình thế trên đây rõ ràng đã đẩy đế quốc đứng trước ngã ba đường: Tiếp tục chiến tranh để rồi chuốc thêm thất bại nặng nề, chua cay hơn hoặc phải chịu rút quân Mỹ về nước và ngồi lại thương lượng với ta.
Tình thế đó đã dẫn đến cuộc Tổng tấn công và nổi dậy năm 1968.
Quyết tâm chiến lược của Đảng: dùng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định
Vấn đề tổng công kích và tổng khởi nghĩa đã được Đảng ta xác định từ trước. Trong Nghị quyết của Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tháng 12/1963, đã nêu rõ: “Phương châm kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang không phải chỉ áp dụng tạm thời mà phải áp dụng lâu dài. Quá trình thực hiện phương châm ấy cũng là quá trình tích cực chuẩn bị để tiến tới bước quyết định đánh đổ toàn bộ nền thống trị của địch ở miền Nam bằng tổng công kích kết hợp với tổng khởi nghĩa... Tổng công kích về quân sự và tổng khởi nghĩa là điểm tiến tới tất yếu của phương châm kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự”.
Năm 1964, khi Ban Quân sự R được đổi thành Bộ Tư lệnh các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam, kế hoạch tổng công kích và tổng khởi nghĩa đồng loạt trên ba vùng chiến lược ở miền Nam đã được triển khai. Ở Sài Gòn - Gia Định, trọng điểm của cuộc tổng công kích và tổng khởi nghĩa đã được chuẩn bị cụ thể về tổ chức và lực lượng. Lúc đó, Bộ Tư lệnh Miền đã xác định 5 mục tiêu chủ yếu trong nội thành Sài Gòn phải chiếm ngay từ đầu, trên cơ sở đó chuẩn bị 5 hướng tiến công và lực lượng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trên. Ngoài các đơn vị đặc công, biệt động đã được xây dựng từ trước, năm 1964 đã tổ chức các tiểu đoàn mũi nhọn, đến năm 1965 đưa về đứng chân trên 5 hướng ở các bàn đạp ven đô.
78