🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Thường Thức Về Xây Dựng Đảng: Chủ Nghĩa Mác - Lênin, Tư Tưởng Hồ Chí Minh Về Xây Dựng Đảng Ebooks Nhóm Zalo HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN SÁCH XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN THƯỜNG THỨC VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT THƯỜNG THỨC VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN Chủ tịch Hội đồng Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương TRẦN THANH LÂM Phó Chủ tịch Hội đồng Giám đốc - Tổng Biên tập Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật PHẠM MINH TUẤN Thành viên NGUYỄN HOÀI ANH PHẠM THỊ THINH NGUYỄN ĐỨC TÀI TỐNG VĂN THANH 2 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH THƯỜNG THỨC VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT BAN CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN BỘ SÁCH LÝ LUẬN PHỔ THÔNG TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN RỘNG RÃI CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH, ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC TRƯỞNG BAN GS.TS. Nguyễn Xuân Thắng Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương CÁC THÀNH VIÊN PGS.TS. Nguyễn Duy Bắc Phó Trưởng ban PGS.TS. Lê Văn Lợi Thành viên PGS.TS. Dương Trung Ý Thành viên GS.TS. Trần Văn Phòng Thành viên PGS.TS. Trần Minh Trưởng Thành viên BAN BIÊN SOẠN PGS.TS. Nguyễn Minh Tuấn (Chủ biên) PGS.TS. Trần Khắc Việt PGS.TS. Ngô Huy Tiếp 4 Đ LỜI GIỚI THIỆU ại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (6/1991) khẳng định “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Từ đó đến nay, Đảng luôn luôn nhấn mạnh “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định “kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”. Cùng với khẳng định vai trò, giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với tư cách là học thuyết cách mạng và khoa học, là vũ khí tinh thần của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc, Đảng ta thường xuyên quan tâm, coi trọng tuyên truyền, giáo dục, phổ biến chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 09/10/2014 của Bộ Chính trị về “Công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030” đã xác định một trong những hướng nghiên cứu 5 chủ yếu là “Tiếp tục khẳng định và cụ thể hóa những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các giá trị bền vững phù hợp với thực tiễn Việt Nam; chỉ rõ vấn đề cần bổ sung, phát triển. Tiếp tục nghiên cứu có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, làm rõ sự bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin của Hồ Chí Minh”. Thực hiện Nghị quyết của Đảng, trong thời gian qua công tác lý luận đã đạt được những kết quả quan trọng. Tư duy lý luận tiếp tục có bước phát triển. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tuyên truyền, phổ biến chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được đổi mới cả về nội dung và hình thức, đã góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới đất nước. Bên cạnh những kết quả đạt được, việc giáo dục, tuyên truyền, phổ biến chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vẫn còn những hạn chế, bất cập nhất định. Nội dung, phương pháp tuyên truyền còn đơn giản; tài liệu tuyên truyền chưa đa dạng; thiếu những bộ tài liệu mang tính cẩm nang, thường thức chính trị, ngắn gọn, súc tích, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ, phù hợp với trình độ và đáp ứng nhu cầu tìm hiểu, học tập của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Hiệu quả tuyên truyền, phổ biến chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chưa cao. Một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức 6 chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chưa thật sâu sắc, toàn diện, hệ thống. Chính vì vậy, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Quán triệt và thực hiện các nghị quyết của Đảng, với vai trò là trung tâm quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trung, cao cấp của hệ thống chính trị, trung tâm quốc gia nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, từ năm 2020, dưới sự chỉ đạo của GS.TS. Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, nhóm tác giả, các nhà khoa học ở các viện chuyên ngành thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã biên soạn bộ sách lý luận phổ thông về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới đất nước. Bộ sách gồm nhiều quyển, tập trung nghiên cứu 10 nhóm vấn đề: 1. Thường thức về triết học Mác - Lênin. 2. Thường thức về kinh tế chính trị Mác - Lênin. 3. Thường thức về chủ nghĩa xã hội khoa học. 4. Thường thức về tư tưởng Hồ Chí Minh. 5. Thường thức về lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 6. Thường thức về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. 7 7. Thường thức về hệ thống chính trị Việt Nam. 8. Thường thức về nhà nước và pháp luật. 9. Thường thức về văn hóa. 10. Thường thức về dân tộc, tôn giáo. Bộ sách được biên soạn công phu, khoa học, nội dung súc tích, bảo đảm tính cơ bản, hệ thống, cập nhật về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới đất nước nhằm đáp ứng yêu cầu công tác giáo dục, tuyên truyền, phổ biến lý luận rộng rãi cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trong bối cảnh mới. Mặc dù đã rất cố gắng trong công tác biên soạn, biên tập, nhưng đây là những cuốn sách thường thức, phổ thông đòi hỏi phải có cách thức tiếp cận và thể hiện phù hợp, nên chắc chắn khó tránh khỏi hạn chế, thiếu sót. Ban Biên soạn và Nhà xuất bản mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để bộ sách được hoàn thiện hơn về nội dung trong những lần xuất bản sau. Xin trân trọng giới thiệu bộ sách quý với bạn đọc. Tháng 9 năm 2022 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 8 T LỜI NÓI ĐẦU ư tưởng về Đảng và xây dựng Đảng là một trong những nội dung căn bản, quan trọng nhất trong toàn bộ di sản lý luận của học thuyết Mác - Lênin. Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn trung thành và vận dụng sáng tạo nguyên lý về xây dựng Đảng của học thuyết Mác - Lênin, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành được những thắng lợi vĩ đại. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng ta luôn nhất quán quan điểm chỉ đạo về công tác xây dựng Đảng là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, gắn bó mật thiết với nhân dân là những nhân tố có ý nghĩa 9 quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, góp phần đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Thường thức về xây dựng Đảng: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng. Cuốn sách gồm 3 chương: Chương I: Tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen về Đảng Cộng sản và xây dựng Đảng Cộng sản Chương II: Tư tưởng của V.I. Lênin về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân Chương III: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng và xây dựng Đảng. Mặc dù đã cố gắng trình bày giản dị, ngắn gọn, dễ hiểu để có thể đến gần nhất với đông đảo bạn đọc, nhưng nội dung cuốn sách khó tránh khỏi những hạn chế, rất mong bạn đọc cảm thông, chia sẻ, góp ý để lần sau cuốn sách tái bản được tốt hơn. BAN BIÊN SOẠN 10 Chương I TƯ TƯỞNG CỦA C. MÁC VÀ PH. ĂNGGHEN VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VÀ XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN 1. Vì sao phải thành lập đảng cộng sản? Đến giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản ở các nước châu Âu phát triển mạnh mẽ. Giai cấp tư sản ở các nước này tiến hành nhiều phương thức, biện pháp bóc lột thậm tệ giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân ở các nước rơi vào tình cảnh hết sức khốn khổ. Không cam chịu sự áp bức, bóc lột bất công, công nhân ở nhiều nhà máy, xí nghiệp đứng lên đấu tranh bằng các hình thức bãi công, đình công, biểu tình, đập phá máy móc..., tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa của công nhân Liông ở Pháp (năm 1831), phong trào Hiến chương ở Anh (1836 - 1848) và cuộc khởi nghĩa của thợ dệt Xilêdi ở Đức (năm 1844). Công nhân đã hình thành các tổ chức đầu tiên để phối hợp hành động, như tổ chức “Liên minh những người xấu số” vào năm 1834, 11 đến năm 1836 được đổi tên thành “Liên minh những người chính nghĩa”. Tuy nhiên, các phong trào đấu tranh của công nhân không thu được kết quả, không làm thay đổi được tình cảnh của mình. Công đoàn và các tổ chức khác của công nhân mới chỉ giới hạn cuộc đấu tranh của công nhân trong lĩnh vực kinh tế, vì những mục tiêu kinh tế: đòi tăng lương, giảm giờ làm, cải thiện các điều kiện làm việc... Về thực chất, các phong trào đấu tranh của công nhân ở các nước vẫn mới chỉ là đấu tranh với giới chủ tư bản, chưa đặt vấn đề đấu tranh chống chính quyền của giai cấp tư sản, nên chính quyền tư sản có thể sử dụng luật pháp, bộ máy cai trị, cảnh sát, nhà tù... để đàn áp phong trào. Thậm chí, giới chủ tư bản có thể có những nhượng bộ nhất định (tăng tiền công, giảm giờ làm xuống còn 8 giờ/ngày, cải tiến máy móc...) để mua chuộc một bộ phận công nhân, xoa dịu phong trào đấu tranh. Thực tiễn đó đòi hỏi phải có một tổ chức chính trị để định hướng, dẫn dắt và tổ chức phong trào công nhân trong cuộc đấu tranh bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Sau quá trình nghiên cứu triết học, kinh tế chính trị học và các trào lưu tư tưởng xã hội chủ nghĩa đã hình thành, C. Mác và Ph. Ăngghen đã hình thành hệ thống quan điểm lý luận tương đối hoàn chỉnh, với ba bộ phận cấu thành là: chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; 12 kinh tế chính trị học mácxít; chủ nghĩa xã hội khoa học. Hệ thống lý luận khoa học đó là cơ sở để C. Mác và Ph. Ăngghen nghiên cứu, phân tích đời sống chính trị và phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở các nước tư bản lúc bấy giờ. Chủ nghĩa duy vật lịch sử do C. Mác và Ph. Ăngghen xây dựng nên đã chỉ ra quá trình phát triển tự nhiên, khách quan của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Sau xã hội cộng sản nguyên thủy không có giai cấp, từ chế độ chiếm hữu nô lệ xã hội đã hình thành các giai cấp, sự phân chia thành các giai cấp có địa vị xã hội và lợi ích khác nhau. Trong quá trình cùng tồn tại, giữa các giai cấp không tránh khỏi nảy sinh các mâu thuẫn giai cấp và nổ ra các cuộc đấu tranh giai cấp. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa tồn tại mâu thuẫn giữa các giai cấp, tiêu biểu là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Mặc dù hai giai cấp này phải nương tựa vào nhau, giai cấp tư sản tồn tại nhờ bóc lột giai cấp vô sản và giai cấp vô sản chỉ tồn tại khi bán được sức lao động cho nhà tư bản, nhưng đây là hai giai cấp có địa vị xã hội và lợi ích đối lập nhau. Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ngày càng trở nên gay gắt, nên tất yếu đã nổ ra cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản phát triển dần từ thấp đến cao; từ phạm vi nhỏ 13 đến phạm vi lớn; từ đấu tranh thuần túy về kinh tế, vì các mục tiêu kinh tế và đời sống đến đấu tranh về chính trị; từ đấu tranh chống giới chủ tư bản đến đấu tranh với cả chính quyền nhà nước tư sản. Khi cuộc đấu tranh giai cấp phát triển đến đỉnh cao sẽ nổ ra cách mạng xã hội, giai cấp cách mạng tiến hành cuộc cách mạng xã hội lật đổ sự thống trị, chính quyền nhà nước của giai cấp thống trị. Theo C. Mác và Ph. Ăngghen, phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản ở các nước tư bản tất yếu dẫn đến cuộc cách mạng vô sản, giai cấp vô sản sẽ tiến hành cách mạng vô sản nhằm lật đổ chính quyền tư sản và cả chế độ tư bản chủ nghĩa, thay thế phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn, thay thế chế độ chính trị tư bản chủ nghĩa bằng chế độ chính trị, trong đó quyền thống trị về chính trị thuộc về giai cấp vô sản, tức nền chuyên chính vô sản. Khi cuộc đấu tranh giai cấp đã tiến tới cuộc cách mạng xã hội, không chỉ đấu tranh về kinh tế mà trở thành đấu tranh chính trị, vấn đề quyết định là phải có sự dẫn dắt của một đảng chính trị; theo đó, lực lượng dẫn dắt giai cấp vô sản trong quá trình đấu tranh tiến tới cách mạng vô sản chính là đảng cộng sản. Điều này là tất yếu khách quan, cũng giống như trong xã hội phong kiến, giai cấp tư sản muốn tiến hành đấu tranh chống giai cấp phong kiến, thực hiện cuộc cách mạng tư sản để lật đổ chế độ 14 phong kiến nhất thiết phải thành lập các đảng chính trị tư sản để dẫn dắt. Theo C. Mác và Ph. Ăngghen, trong cuộc đấu tranh của mình chống quyền lực liên hợp của các giai cấp hữu sản, chỉ khi giai cấp công nhân được tổ chức thành một chính đảng độc lập với tất cả các chính đảng cũ do các giai cấp hữu sản lập nên, thì mới có thể hành động với tư cách là một giai cấp; việc tổ chức giai cấp công nhân thành một chính đảng là cần thiết để bảo đảm thắng lợi của cách mạng xã hội và giành được mục đích cuối cùng là thủ tiêu các giai cấp. Sự luận giải của C. Mác và Ph. Ăngghen về tính tất yếu khách quan của sự ra đời đảng cộng sản không chỉ đơn thuần từ sự phân tích lý luận, mà còn xuất phát từ trải nghiệm thực tế của hai ông trong phong trào công nhân. Trước nhu cầu cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, vào năm 1836, tại Pari (Pháp) “Liên đoàn những người chính nghĩa” đã được thành lập. Vào mùa xuân năm 1847, các lãnh tụ của tổ chức này mời C. Mác và Ph. Ăngghen tham gia. Lúc đầu, các ông không tham gia, vì thấy tổ chức này chưa có lý luận khoa học soi đường và mục tiêu của tổ chức này vẫn chỉ là chia sẻ tình cảm giai cấp giữa những người cùng bị áp bức, bóc lột. Khi nhận thấy lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học đã chín muồi và cần được truyền bá vào phong trào công nhân, hai ông đã 15 nhận lời tham gia tổ chức này với điều kiện tổ chức này phải được cải tổ. Với sự tham gia của C. Mác và Ph. Ăngghen, Đại hội lần thứ I Liên đoàn những người chính nghĩa được tổ chức vào tháng 6/1847 tại Luân Đôn đã quyết định đổi tên tổ chức này thành “Liên đoàn những người cộng sản”. Đây chính là đảng cộng sản đầu tiên trên thế giới. 2. Đảng cộng sản ra đời trên cơ sở nào? Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và từ thực tiễn thành lập đảng cộng sản đầu tiên, C. Mác và Ph. Ăngghen đã khái quát: Đảng cộng sản ra đời là kết quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào công nhân. Đây là hai yếu tố cần thiết bắt buộc để ra đời đảng cộng sản, thiếu một trong hai yếu tố này thì không thể ra đời đảng cộng sản hoặc tổ chức của công nhân không đúng là đảng cộng sản. Chủ nghĩa xã hội khoa học là sự kế thừa những nhân tố hợp lý trong các tư tưởng xã hội chủ nghĩa đã được hình thành, bổ sung và phát triển, làm cho nó trở thành khoa học. Chủ nghĩa xã hội khoa học do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập nên là hệ thống các quan điểm khoa học về lịch sử tồn tại và phát triển của xã hội loài người, về đời sống kinh tế và đời sống chính trị của xã hội, hệ thống lý luận về cách mạng vô sản, mô hình xã hội cộng sản trong tương lai và con đường đi tới xã hội cộng sản. 16 Chủ nghĩa xã hội khoa học thâm nhập vào phong trào công nhân sẽ đem lại cho giai cấp công nhân những nhận thức mới, căn bản: Một là, giúp giai cấp công nhân giác ngộ về địa vị và sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của mình là người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản và là giai cấp xây dựng xã hội tương lai sau xã hội tư bản; Hai là, ý thức được cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân không chỉ là cuộc đấu tranh kinh tế, mà là cuộc đấu tranh chính trị nhằm lật đổ chế độ chính trị và chính quyền của giai cấp tư sản, giành lấy chính quyền, giải phóng giai cấp công nhân và các tầng lớp lao động khác, thiết lập nên chế độ xã hội mới, chính quyền mới, trong đó giai cấp vô sản giữ địa vị thống trị; Ba là, hiểu được tính tất yếu phải lập ra chính đảng độc lập của giai cấp mình để lãnh đạo cuộc đấu tranh thủ tiêu nền chuyên chính tư sản, thiết lập nền chuyên chính vô sản. Vì thế, chủ nghĩa xã hội khoa học là yếu tố không thể thiếu cho sự ra đời đảng cộng sản. Tuy nhiên, nếu chủ nghĩa xã hội khoa học không kết hợp với phong trào công nhân thì lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học vẫn chỉ là lý luận, không có lực lượng vật chất để thực hiện; về mặt tổ chức, nhiều lắm cũng chỉ hình thành nên các câu lạc bộ bàn cãi, tranh luận về lý luận, cao nhất là các hội truyền bá chủ nghĩa xã hội khoa học. Chính phong trào đấu tranh của công nhân là lực lượng 17 hiện thực hóa những tư tưởng của chủ nghĩa xã hội khoa học thành phong trào đấu tranh trên thực tế; là hiện thân của lý tưởng, ý chí, nguyện vọng của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh lật đổ chủ nghĩa tư bản, xây dựng xã hội cộng sản; từ thực tiễn của phong trào công nhân, nhất là qua các thất bại, giai cấp công nhân hiểu rõ sự cần thiết phải có chủ nghĩa xã hội khoa học soi sáng, dẫn đường. Đặc biệt, phong trào công nhân là nơi phát hiện, đào luyện nên những công nhân ưu tú, có tinh thần hăng hái cách mạng, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì mục tiêu, lý tưởng của giai cấp công nhân, trở thành các đảng viên cộng sản. Nếu không có những con người này, đảng sẽ không thật sự trở thành một tổ chức chiến đấu, một tổ chức hành động, một tổ chức cách mạng. Mặc dù phong trào đấu tranh của công nhân đã nổ ra từ nhiều năm trước, ở nhiều nước và có thu được một số kết quả nhất định, nhưng về cơ bản vẫn trong khuôn khổ của chế độ tư bản chủ nghĩa, trong giới hạn luật pháp tư sản, chưa làm lung lay tận gốc cơ sở kinh tế và chính trị của chủ nghĩa tư bản, thậm chí chưa phải chống kẻ thù của mình mà đi chống kẻ thù của kẻ thù mình. Có một số công nhân vì các mục đích thực dụng, được giới chủ tư bản ban phát cho một số quyền lợi, mua chuộc, dụ dỗ đã quay sang cản trở cuộc đấu tranh của công nhân, biến một số tổ chức công đoàn thành 18 “công đoàn vàng”. Nếu phong trào công nhân không kết hợp với chủ nghĩa xã hội khoa học, không có chủ nghĩa xã hội soi đường, thì sẽ không vượt ra khỏi chủ nghĩa công đoàn. Vì vậy, sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào công nhân là cơ sở bảo đảm để đảng cộng sản thật sự là một tổ chức có giác ngộ về lý luận khoa học, đồng thời là một tổ chức tiêu biểu cho tinh thần cách mạng của giai cấp công nhân, gắn bó với phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân. 3. Đảng cộng sản có những vai trò gì đối với phong trào công nhân và cách mạng vô sản? Trước khi có đảng cộng sản, phong trào công nhân đã có các tổ chức công đoàn và các hiệp hội công nhân đóng vai trò là tổ chức tập hợp, hướng dẫn, động viên công nhân đấu tranh với giới chủ vì những quyền lợi của mình. Tuy nhiên, khi có đảng cộng sản, đảng cộng sản đem lại cho phong trào công nhân những chuyển biến về chất. Một là, đảng cộng sản giác ngộ tư tưởng cho giai cấp công nhân về cuộc đấu tranh giai cấp chống giai cấp tư sản và chế độ tư bản chủ nghĩa. Sự ra đời và hoạt động của đảng cộng sản có vai trò đặc biệt quan trọng, đem lại cho cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân sự thay đổi cơ bản về nhận thức, tư tưởng như: 19 - Đảng cộng sản giúp công nhân nhận thấy, không chỉ đấu tranh vì căm thù sự áp bức, bóc lột của giới chủ tư bản, mà phải đấu tranh để thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là giải phóng giai cấp mình khỏi chế độ tư bản, thủ tiêu chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng xã hội mới cộng sản chủ nghĩa, tức là chuyển từ đấu tranh tự phát lên thành đấu tranh tự giác. - Đảng cộng sản giúp công nhân hiểu, để giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh, công nhân ở các nhà máy, xí nghiệp, địa phương và dân tộc cần tập hợp, đoàn kết thành lực lượng trên quy mô rộng lớn ở cả quốc gia và toàn thế giới, có tổ chức chặt chẽ. - Đảng cộng sản chỉ cho công nhân hiểu, công nhân không chỉ đấu tranh để thay đổi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, mà phải đấu tranh lật đổ cả phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, thay thế nó bằng phương thức sản xuất mới cộng sản chủ nghĩa. - Đảng cộng sản chỉ cho công nhân biết, công nhân không chỉ đấu tranh vì các mục đích kinh tế trước mắt, mà phải tiến lên đấu tranh vì mục đích chính trị là lật đổ chính quyền nhà nước tư sản, nền chuyên chính tư sản và chế độ chính trị tư bản chủ nghĩa, thiết lập nên nhà nước vô sản, nền chuyên chính vô sản và chế độ chính trị cộng sản chủ nghĩa, trong đó xác lập quyền thống trị về chính trị 20 của giai cấp vô sản, nhằm tiến tới xây dựng hình thái kinh tế - xã hội mới cộng sản chủ nghĩa. Hai là, đảng cộng sản chỉ rõ mục tiêu và con đường đấu tranh đúng đắn của phong trào công nhân. Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C. Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ rõ: Mục đích trước mắt của những người cộng sản và tất cả các đảng vô sản khác là tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền1; cuộc cách mạng vô sản sẽ trải qua hai giai đoạn: giai đoạn thứ nhất, giai cấp vô sản đấu tranh giành lấy chính quyền, trở thành giai cấp thống trị; giai đoạn tiếp theo, giai cấp vô sản dùng sự thống trị chính trị của mình để từng bước một đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước, tăng thật nhanh lực lượng sản xuất, thủ tiêu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, xây dựng nền kinh tế mới và xã hội mới. Ba là, các tổ chức của đảng cộng sản trực tiếp tổ chức, lãnh đạo công nhân trong phong trào đấu tranh và trong cuộc cách mạng vô sản. Trong đảng cộng sản hình thành hệ thống tổ chức đảng, từ chi bộ ở các nhà máy, xí nghiệp đến __________ 1. Xem C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr.615. 21 khu bộ ở các tỉnh, thành phố, tổng khu bộ ở mỗi quốc gia và tổ chức quốc tế của các đảng cộng sản. Hệ thống tổ chức đảng này gắn với lực lượng công nhân, là lực lượng trực tiếp tuyên truyền, giác ngộ, tập hợp, tổ chức và lãnh đạo công nhân đấu tranh. Sự liên lạc giữa các tổ chức đảng trong toàn đảng tạo thành sự liên lạc, phối hợp hành động của công nhân giữa các nhà máy, xí nghiệp, địa phương và các quốc gia. Thông qua hệ thống tổ chức của đảng, các chủ trương của ban chấp hành trung ương đảng được phổ biến đến từng chi bộ và truyền bá đến công nhân. Bốn là, đảng cộng sản bao gồm những chiến sĩ tiên phong, đi đầu trong cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân. Do được lựa chọn kỹ càng khi kết nạp vào đảng cộng sản, các đảng viên không chỉ là những người thừa nhận, có giác ngộ chủ nghĩa cộng sản, mà còn là những người có nghị lực cách mạng và lòng nhiệt tình, luôn đi đầu trong cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân. Trong đảng cộng sản, các đảng viên được đảng thường xuyên giáo dục, rèn luyện, nên luôn thể hiện vai trò tiên phong, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì lợi ích của giai cấp công nhân; không quản khó khăn, gian khổ, luôn hăng hái đi đầu trong mọi phong trào đấu tranh. Những vai trò trên thể hiện sự khác biệt căn bản giữa đảng cộng sản với các tổ chức khác của 22 công nhân. Các tổ chức công đoàn, liên đoàn công nhân, đảng công nhân... được thành lập trước khi đảng cộng sản ra đời có vai trò nhất định đối với phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, nhất là trong việc chia sẻ tình hữu ái giai cấp của những người cùng cảnh ngộ bị áp bức, bất công; động viên công nhân đấu tranh chống giới chủ tư bản để bảo vệ quyền lợi của mình; tổ chức các cuộc bãi công, đình công, biểu tình phản đối giới chủ và chính quyền; v.v.. Tuy nhiên, do không có lý luận khoa học dẫn đường, các tổ chức này không định hướng đúng cho phong trào công nhân, chỉ dừng lại ở các khẩu hiệu đấu tranh vì các mục tiêu thuần túy kinh tế cụ thể và trước mắt, chấp nhận khuôn khổ pháp luật của chính quyền tư sản. Vì thế, mặc dù đến giữa thế kỷ XIX, giai cấp công nhân ở các nước Pháp, Anh, Mỹ... đã tiến hành nhiều cuộc biểu tình, đình công quy mô khá lớn, nhưng cuối cùng đều thất bại, không đạt được các yêu sách cơ bản của mình. 4. Bản chất của đảng cộng sản là gì? Thứ nhất, là một đảng chính trị, đội tiên phong của giai cấp công nhân, nên đảng cộng sản mang bản chất giai cấp công nhân rõ rệt. Một giai cấp có thể hình thành nhiều đảng chính trị, nhưng một đảng chính trị bao giờ cũng mang bản chất giai cấp của một giai cấp nhất định, 23 không có chính đảng nào mang bản chất của nhiều giai cấp. Theo đó, ngay từ khi ra đời và trong suốt quá trình tồn tại hoạt động của mình, đảng cộng sản mang đậm bản chất giai cấp công nhân và có thể hiện đúng bản chất giai cấp công nhân thì đảng mới là một đảng cộng sản chân chính. Bản chất giai cấp công nhân của đảng cộng sản thể hiện trên nhiều mặt: - Đảng cộng sản xuất thân từ giai cấp công nhân, đảng kết nạp vào tổ chức của mình những công nhân ưu tú nhất, đa số đảng viên là công nhân. - Mục tiêu, lý tưởng của đảng cộng sản là đấu tranh lật đổ chế độ tư bản và nhà nước tư sản, giải phóng giai cấp công nhân, thiết lập nên nền chuyên chính của giai cấp vô sản, giai cấp công nhân. - Hệ tư tưởng của đảng cộng sản là hệ tư tưởng vô sản. - Đảng cộng sản có kỷ luật nghiêm minh, kỷ luật của giai cấp công nhân công nghiệp hiện đại. Thứ hai, các đảng cộng sản được thành lập ở từng quốc gia, dân tộc, nên đảng cộng sản cũng mang tính dân tộc. C. Mác và Ph. Ăngghen chỉ ra rằng, cuộc cách mạng công nhân, về nội dung, không phải là cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng giai cấp vô sản phải thực hiện cách mạng trên mảnh đất của dân tộc mình, nên nó có tính dân tộc; đương nhiên là, giai cấp vô sản mỗi nước phải lật đổ sự thống trị của giai cấp 24 tư sản nước mình đã. Điều đó đồng nghĩa với việc đảng cộng sản ở mỗi nước phải lãnh đạo giai cấp công nhân nước mình trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản dân tộc, phải giải quyết những nhiệm vụ lịch sử đặt ra cho giai cấp công nhân nước mình. Trong xã hội tư bản, giai cấp tư sản là người đại diện cho dân tộc, Tổ quốc khi đó là Tổ quốc của giai cấp tư sản. Khi đảng cộng sản lãnh đạo cách mạng vô sản thành công, giai cấp vô sản giành được chính quyền, giai cấp vô sản phải vươn lên thành giai cấp chủ đạo trong dân tộc, lúc đó đảng cộng sản không chỉ đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, mà còn đại diện cho lợi ích của dân tộc mình nữa. Như vậy, đảng cộng sản đảm đương sứ mệnh kép: lãnh đạo giai cấp công nhân vừa đấu tranh giải phóng giai cấp, vừa đấu tranh giành lấy quyền đại diện cho dân tộc. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân về nội dung mang tính quốc tế, nhưng về hình thức, mang tính dân tộc. Muốn giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh, giai cấp công nhân phải tự tổ chức lại lực lượng ở trong nước và đối tượng đấu tranh trực tiếp của công nhân là giai cấp tư sản và nhà nước tư sản ở từng nước. Chính vì thế, đảng cộng sản ở từng nước mang tính chất dân tộc. Hơn nữa, trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, giai cấp công nhân là lực lượng đi đầu, 25 đại diện cho lợi ích của các giai cấp, tầng lớp lao động khác trong xã hội tư bản; cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân không chỉ nhằm giải phóng giai cấp mình, mà còn đồng thời giải phóng các tầng lớp lao động khác. Trong cuộc đấu tranh đó, giai cấp công nhân cũng cần có sự ủng hộ, tăng cường lực lượng của các tầng lớp xã hội khác trong dân tộc. C. Mác và Ph. Ăngghen chỉ dẫn: Giai cấp vô sản phải trở nên đủ mạnh để đặt sự vươn mình của toàn dân tộc lệ thuộc vào sự vươn mình của giai cấp vô sản; lợi ích của giai cấp vô sản phải trở thành lợi ích dân tộc, bản thân giai cấp vô sản lúc này phải trở thành người đại biểu cho dân tộc. Với tư cách là lãnh tụ của giai cấp công nhân, đảng cộng sản phải vươn lên trở thành đại diện cho tất cả các giai cấp lao động của dân tộc1. Thứ ba, xét về đặc trưng, đảng cộng sản mang tính cách mạng và tính khoa học sâu sắc. Với tính cách là con đẻ của nền công nghiệp hiện đại, giai cấp công nhân là giai cấp đại diện cho một phương thức sản xuất tiên tiến nhất trong lịch sử nhân loại - phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa dựa trên quan hệ sở hữu công cộng về những tư liệu sản xuất chủ yếu. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân không phải để duy trì phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, mà mục tiêu trước mắt __________ 1. Xem C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.80. 26 và lâu dài là xóa bỏ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và chế độ xã hội tư bản, xây dựng phương thức sản xuất mới về chất và xây dựng xã hội cộng sản. Chỉ có làm cách mạng, bằng đấu tranh cách mạng, giai cấp công nhân mới tự giải phóng được mình và thực hiện được các mục tiêu đó. Sở dĩ giai cấp công nhân có tinh thần cách mạng, vì giai cấp này đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến. Là đội tiên phong của giai cấp công nhân, lực lượng lãnh đạo phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, đương nhiên đảng cộng sản phải mang tính cách mạng, là một đảng cách mạng, một đảng chiến đấu, một đảng chủ trương cách mạng không ngừng cho đến khi đạt được mục đích cuối cùng. Mục đích của đảng cộng sản là lật đổ giai cấp tư sản, thiết lập nền thống trị của giai cấp vô sản, thủ tiêu xã hội tư bản và xây dựng một xã hội mới. Điều này thể hiện rõ tính cách mạng của đảng cộng sản và là đặc trưng phân biệt giữa đảng cộng sản với các phe nhóm cơ hội trong phong trào công nhân. Cùng với tính cách mạng, đảng cộng sản được thành lập và hoạt động dựa trên cơ sở khoa học. Khi chủ nghĩa xã hội khoa học được truyền bá vào phong trào công nhân, giai cấp công nhân sẽ giác ngộ sứ mệnh lịch sử của mình, trở thành một giai cấp cách mạng, tự giác và lập ra các chính đảng làm lực lượng lãnh đạo cuộc đấu tranh của giai cấp 27 công nhân chống giai cấp tư sản. Bản thân chủ nghĩa xã hội khoa học - cấu phần cơ bản của sự ra đời đảng cộng sản - đã là đỉnh cao của khoa học, kết tinh trong đó những thành tựu cao nhất của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Để thực hiện được vai trò lãnh tụ tinh thần, tổ chức chính trị tiên phong, lực lượng lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong quá trình đấu tranh cách mạng, đảng cộng sản phải có trình độ trí tuệ, lý luận khoa học vượt lên trên trình độ chung của giai cấp. Tính khoa học của đảng cộng sản được xây dựng nên ngay từ cơ sở ra đời của đảng cộng sản và hệ tư tưởng, cương lĩnh, đường lối, hành động của đảng dựa trên lý luận khoa học về quy luật vận động, phát triển khách quan của xã hội loài người; về sự thay thế tất yếu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng phương thức sản xuất mới, thay thế xã hội tư bản chủ nghĩa bằng xã hội cộng sản; về vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân - giai cấp tiên tiến nhất trong xã hội tư bản; v.v.. 5. Đảng cộng sản khác với toàn bộ giai cấp công nhân ở những điểm nào? Xuất thân từ giai cấp công nhân, nhưng đảng cộng sản không phải là toàn bộ giai cấp công nhân, đảng chỉ kết nạp vào hàng ngũ của mình những người ưu tú nhất trong giai cấp công nhân. Đó phải là những người tán thành cương lĩnh chính trị và 28 điều lệ của đảng, có tinh thần và nghị lực đấu tranh cách mạng theo mục đích của đảng, có khả năng làm công tác tuyên truyền cộng sản... Vì thế, đảng cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân. Tính tiên phong của đảng cộng sản là đặc trưng nổi bật, tạo nên sự khác biệt giữa đảng cộng sản với các đảng công nhân khác, giữa những người cộng sản với những người vô sản. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C. Mác và Ph. Ăngghen viết: “Về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên; về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản”1. Như vậy, tiên phong về lý luận và tiên phong trong hoạt động thực tiễn là những đặc trưng cơ bản của đảng cộng sản. Đó là những điểm khác biệt căn bản giữa đảng cộng sản với các đảng công nhân và các tổ chức công đoàn của công nhân; thể hiện rõ sự ưu trội của các đảng viên đảng cộng sản so với những người công nhân khác và các thành viên của các đảng, tổ chức chính trị khác của giai cấp công nhân. Tính tiên phong về lý luận mà đảng cộng sản có được là nhờ đảng được trang bị lý luận chủ nghĩa __________ 1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.614-615.29 xã hội khoa học do C. Mác và Ph. Ăngghen xây dựng nên trên cơ sở đúc kết những thành tựu khoa học hiện đại nhất của thời đại cho đến giữa thế kỷ XIX và sau đó kế thừa, phát triển các trào lưu tư tưởng xã hội chủ nghĩa tiên tiến nhất lúc bấy giờ và không ngừng được bồi đắp bằng những phân tích, luận giải một cách khoa học những biến đổi mới của thế giới. Tính tiên phong trong hoạt động thực tiễn của đảng cộng sản thể hiện ở sự đúng đắn trong cương lĩnh của đảng và sự gương mẫu, đi đầu trong phong trào đấu tranh cách mạng của các đảng viên cộng sản. Tính tiên phong của đảng là nhân tố quyết định bảo đảm cho đảng luôn giữ vững được vai trò lãnh đạo, tập hợp được đông đảo công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh để thực hiện mục tiêu cao cả của cách mạng vô sản. Tính tiên phong của đảng cộng sản là đòi hỏi khách quan của sự nghiệp cách mạng vô sản do giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động tiến hành, dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Đây là sự nghiệp cách mạng vĩ đại của những người lao động bị áp bức, bóc lột đứng lên tự giải phóng bản thân mình thoát khỏi ách áp bức giai cấp, sáng tạo một xã hội mới không có áp bức giai cấp, do đó tiến tới xóa bỏ tất cả các giai cấp. Sự nghiệp cách mạng đó đòi hỏi sức sáng tạo lớn, nên lực lượng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng phải luôn 30 tiên phong cả về trí tuệ, đường lối và hành động. Có tiên phong về trí tuệ, đề ra được đường lối, chiến lược và sách lược đấu tranh đúng đắn, đảng cộng sản mới có thể định hướng, dẫn dắt được phong trào đấu tranh; mới thu hút được giai cấp công nhân và các tầng lớp lao động khác tham gia cách mạng; mới không ngừng nâng cao được trình độ giác ngộ của giai cấp công nhân; v.v.. Đồng thời, có tiên phong và kiên quyết trong hoạt động thực tiễn, nhất là trước sự đàn áp của chính quyền tư sản và những thủ đoạn đối phó của giới chủ tư bản, những người cộng sản mới thu phục, tập hợp và động viên được công nhân tham gia đấu tranh, đem lại niềm tin của quần chúng vô sản; đảng mới thể hiện được ý chí, quyết tâm và sự kiên định với mục đích, lý tưởng của mình, không bị dao động, do dự khi gặp khó khăn, trở ngại, lãnh đạo thành công cách mạng vô sản. 6. Quan hệ giữa đảng cộng sản với các đảng chính trị khác và với các tổ chức khác của giai cấp công nhân ra sao? Đảng cộng sản phải là và chỉ có thể là một chính đảng độc lập của giai cấp công nhân, tuyệt đối không bị lệ thuộc vào giai cấp tư sản và các đảng chính trị tư sản. C. Mác và Ph. Ăngghen phân tích rằng, để chống lại quyền lực liên hiệp của các giai cấp hữu sản, giai cấp công nhân chỉ có thể hành động với 31 tính cách giai cấp được tổ chức lại thành một chính đảng độc lập đối với tất cả các đảng phái cũ do các giai cấp hữu sản lập ra; để giành được thắng lợi cuối cùng, tự những người cộng sản phải chiếm lĩnh càng nhanh càng tốt vị trí độc lập của đảng mình và không một phút giây nào để cho phái dân chủ tiểu tư sản đẩy mình đi chệch con đường tổ chức độc lập của đảng của giai cấp vô sản. Tính độc lập của đảng cộng sản thể hiện trên tất cả các phương diện chính trị, tư tưởng và tổ chức. Về chính trị, lập trường, cương lĩnh, đường lối chính trị của đảng cộng sản hoàn toàn đối lập với các đảng tư sản và khác biệt căn bản với các đảng tiểu tư sản khác. Về tư tưởng, hệ tư tưởng của đảng cộng sản đối lập hoàn toàn với hệ tư tưởng tư sản và các trào lưu tư tưởng khác. Về tổ chức, đảng cộng sản hình thành một hệ thống tổ chức độc lập, có nguyên tắc tổ chức và hoạt động riêng, có kỷ luật nội bộ nghiêm minh, các đảng viên tuyệt đối không được đồng thời tham gia bất kỳ một đảng chính trị nào khác... Có giữ vững được tính độc lập ấy, đảng cộng sản mới tồn tại và hoạt động đúng với tư cách là đảng của giai cấp công nhân và được giai cấp công nhân coi là lực lượng lãnh đạo. Mặt khác, đối với giai cấp công nhân, đảng cộng sản phải có quan hệ thân thiết với các tổ chức của công nhân. Đảng cộng sản không phải là một đảng đối lập với các đảng công nhân khác, vì đảng cộng sản 32 tuyệt nhiên không có một lợi ích nào tách khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp công nhân. Đảng cộng sản là một chính đảng độc lập, nhưng không cô độc, biệt lập với toàn thể giai cấp công nhân và quần chúng lao động; trái lại, đảng phải hợp tác với các đảng công nhân, gắn bó chặt chẽ với giai cấp công nhân và các tầng lớp vô sản. Đảng cộng sản mang bản chất giai cấp công nhân và đại diện cho lợi ích của toàn thể giai cấp công nhân, nhưng tuyệt nhiên không có bất kỳ một lợi ích nào khác tách khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp công nhân. Bởi vì, giai cấp công nhân không thể tự giải phóng mình nếu không đồng thời giải phóng toàn thể xã hội khỏi sự áp bức giai cấp. Chính sự thống nhất giữa mục đích của đảng cộng sản với mục tiêu đấu tranh của các đảng công nhân và giai cấp công nhân, giữa lợi ích của đảng cộng sản với lợi ích của giai cấp công nhân là cơ sở để đảng cộng sản luôn giữ mối quan hệ mật thiết với giai cấp mà mình là đại biểu và có được sức mạnh trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản. Trong xã hội tư bản, giai cấp tư sản không chỉ áp bức, bóc lột giai cấp công nhân, mà còn áp bức, bóc lột các tầng lớp vô sản khác. Giai cấp công nhân đấu tranh giải phóng giai cấp mình, đồng thời cũng giải phóng các giai cấp, tầng lớp vô sản khác. Để thực hiện thành công mục đích chính trị đó, đảng cộng sản phải liên hệ và tích cực tham gia 33 hoạt động trong các tổ chức của giai cấp công nhân, qua đó hướng hoạt động của các tổ chức này đi theo quỹ đạo cách mạng vô sản. 7. Đảng cộng sản được xây dựng trên nguyên tắc nào? Trong quá trình thành lập, chỉ đạo đảng cộng sản đầu tiên trên thế giới, C. Mác và Ph. Ăngghen đặc biệt quan tâm đến vấn đề tổ chức của đảng. Tuy chưa sử dụng khái niệm nguyên tắc tập trung dân chủ, nhưng C. Mác và Ph. Ăngghen đã nêu những tư tưởng cơ bản về nguyên tắc tập trung dân chủ trong đảng cộng sản, thể hiện rõ nhất, tập trung nhất trong Điều lệ tạm thời của Liên đoàn những người cộng sản do hai ông soạn thảo, được Đại hội lần thứ I của Liên đoàn những người cộng sản (tháng 6/1847) thông qua và Điều lệ chính thức của Liên đoàn những người cộng sản do hai ông soạn thảo, được Đại hội lần thứ II của Liên đoàn những người cộng sản (tháng 12/1847) thông qua. Điều lệ của Liên đoàn những người cộng sản đã thể hiện rõ tinh thần của nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng tổ chức và hoạt động của đảng cộng sản. Đại hội có quyền lập pháp đối với toàn Liên đoàn. Tất cả những đề nghị về sửa đổi điều lệ được chuyển qua các tổng khu bộ lên Ban chấp hành trung ương và cuối cùng được đưa ra đại hội. Đại hội có quyền ban hành các quy định cho toàn 34 Liên đoàn. Các khu bộ của một nước hoặc một tỉnh phải phục tùng một tổng khu bộ. Ban chấp hành trung ương là cơ quan chấp hành quyền lực của toàn Liên đoàn và phải báo cáo công tác với đại hội. Ban chấp hành trung ương giữ liên lạc với các tổng khu bộ; cứ ba tháng một lần Ban chấp hành trung ương lập bản báo cáo về tình hình của toàn Liên đoàn. Việc phân chia các khu bộ của Liên đoàn theo tỉnh và việc chỉ định tổng khu bộ do Đại hội tiến hành theo đề nghị của Ban chấp hành trung ương. Các tổng khu bộ phải báo cáo công tác với cơ quan quyền lực tối cao là đại hội, còn giữa các kỳ đại hội thì báo cáo với Ban chấp hành trung ương. Mỗi khu bộ đều được cử đại biểu tham dự đại hội; mỗi khu bộ có số hội viên không quá 30 người được cử 1 đại biểu, có số hội viên lên tới 60 người được cử 2 đại biểu, lên tới 90 người được cử 3 đại biểu, v.v.. Khu bộ có thể bầu làm đại biểu của mình những hội viên của Liên đoàn không thuộc địa phương mình. Tuy nhiên, trong trường hợp đó, khu bộ này phải giao toàn quyền cho đại biểu của mình với những chỉ thị tường tận. Tổng khu bộ là cơ quan chấp hành quyền lực đối với tất cả các khu bộ của một tỉnh. Ban chấp hành khu bộ là cơ quan chấp hành quyền lực đối với tất cả các chi bộ thuộc khu bộ. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Liên đoàn từ chi bộ đến Đại hội Liên đoàn đều do bầu cử dân chủ lập ra hằng năm, có quyền được 35 bầu lại và có thể bị những người bầu ra mình bãi miễn bất cứ lúc nào. Các chủ tịch và phó chủ tịch của các chi bộ (cách gọi người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu chi bộ khi đó) ấy họp thành ban chấp hành khu bộ, ban chấp hành khu bộ bầu ra người lãnh đạo trong số ủy viên của mình, ban chấp hành khu bộ liên lạc với các chi bộ của mình và với tổng khu bộ. Các ban chấp hành khu bộ phải lãnh đạo các cuộc thảo luận tiến hành ở các chi bộ cho phù hợp với mục đích của Liên đoàn. Nếu Ban chấp hành trung ương thấy rằng việc thảo luận một số vấn đề nào đó là mối quan tâm chung và trực tiếp, thì có thể đưa những vấn đề ấy ra cho toàn Liên đoàn thảo luận. Ít nhất là cứ hai tháng một lần, mỗi khu bộ phải báo cáo tình hình công tác của địa phương mình với tổng khu bộ; ít nhất ba tháng một lần, mỗi tổng khu bộ phải báo cáo tình hình công tác của địa phương mình với Ban chấp hành trung ương. Tất cả các hội viên của Liên đoàn đều bình đẳng, là anh em và trong mọi trường hợp, đều có nghĩa vụ giúp nhau như anh em; đều có quyền được tự do thảo luận, tranh luận trong khuôn khổ tổ chức của Liên đoàn. Tuy vậy, việc thực thi dân chủ gắn liền với việc giữ vững kỷ cương trong tổ chức của Liên đoàn. Mọi hội viên đều phải chấp hành nghị quyết của Liên đoàn; hội viên phải tự giác tham gia sinh hoạt đảng và phải nộp đảng phí. Kỷ luật đảng cũng đã được quy định 36 cụ thể: người vi phạm Điều lệ, kỷ luật của Liên đoàn sẽ bị khai trừ; kiên quyết chống các phần tử vô tổ chức, các phần tử cơ hội, xét lại và các quy định nghiêm ngặt về thu, chi tài chính đảng. Về chế độ hội họp, báo cáo, Điều lệ của Liên đoàn quy định: các tổng khu bộ phải báo cáo công tác với cơ quan quyền lực tối cao là đại hội, còn giữa các kỳ đại hội thì báo cáo với Ban chấp hành trung ương... Các chi bộ và các ban chấp hành khu bộ cũng như Ban chấp hành trung ương họp ít nhất hai tuần một lần; ít nhất là cứ hai tháng một lần, mỗi khu bộ phải báo cáo tình hình công tác của địa phương mình với tổng khu bộ; ít nhất ba tháng một lần, mỗi tổng khu bộ phải báo cáo tình hình công tác của địa phương mình với Ban chấp hành trung ương. Có thể thấy, những quy định đó trong Điều lệ của Liên đoàn những người cộng sản đã thể hiện rõ những nội dung rất cơ bản tinh thần của nguyên tắc tập trung dân chủ trong đảng cộng sản. 8. Người vào đảng phải có những tiêu chuẩn và điều kiện gì? Đối với một tổ chức như đảng cộng sản, vấn đề tư cách, tiêu chuẩn đảng viên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vì đảng viên là tế bào của cơ thể đảng, chất lượng đảng viên ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng chung của đảng. Đảng chỉ có thể kết nạp vào 37 đội ngũ của mình những người thật sự tiên phong, tiêu biểu nhất trong giai cấp công nhân, trong cuộc đấu tranh vì lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Để có thể đảm đương được sứ mệnh lịch sử là tổ chức, lãnh đạo phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, đảng cộng sản phải bao gồm những người tiên phong và để đảm bảo tính tiên phong của đảng thì việc lựa chọn, kết nạp người vào đảng phải được đặc biệt thận trọng. Theo C. Mác và Ph. Ăngghen, người có thể được kết nạp vào đảng cộng sản phải có các điều kiện sau: Một là, thừa nhận chủ nghĩa cộng sản. Đảng cộng sản là một tổ chức mang tính tự nguyện, không hề có sự bắt buộc, nên người vào đảng phải thừa nhận chủ nghĩa cộng sản, tức là tán thành, ủng hộ và đi theo chủ nghĩa xã hội khoa học, hệ tư tưởng cộng sản của đảng; từ bỏ các lập trường, tư tưởng khác với hệ tư tưởng cộng sản. Bản thân tên đảng cộng sản đã đòi hỏi người vào đảng trước hết phải tán thành, tin tưởng vào tính đúng đắn của chủ nghĩa cộng sản. Hai là, có lối sống và hành động phù hợp với mục đích của đảng. Đây là điều kiện để bảo đảm đảng viên luôn trung thành với lý tưởng, mục đích của đảng và thể hiện được tính tiên phong về lý luận, tư tưởng và hành động đối với giai cấp công nhân và các 38 tầng lớp lao động khác. Đảng viên của đảng cộng sản phải sống và hành động theo đúng mục đích của đảng, tuyệt đối không vì mục đích nào khác, không vì mục đích cá nhân. Ba là, có nghị lực cách mạng và lòng nhiệt thành trong công tác tuyên truyền hệ tư tưởng, đường lối của Đảng. Đảng viên của đảng cộng sản phải luôn thể hiện tinh thần hăng hái, nhiệt tình cách mạng, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, sẵn sàng nhận và thực hiện tốt các công việc của đảng, trong đó có công tác tuyên truyền hệ tư tưởng, đường lối của đảng. Bốn là, không tham gia vào các tổ chức - tổ chức chính trị hoặc tổ chức dân tộc chống cộng sản và có nghĩa vụ phải báo cáo với cơ quan lãnh đạo hữu quan về việc mình tham gia vào một tổ chức nào đó. Là thành viên của tổ chức đảng, đảng viên của đảng cộng sản tuyệt đối không được tham gia vào bất kỳ một đảng phái, tổ chức chính trị hoặc tổ chức dân tộc nào có âm mưu, hành động chống lại cộng sản; có thể tham gia tổ chức nào đó của công nhân, nhưng phải báo cáo với cơ quan lãnh đạo của đảng. Năm là, phục tùng các nghị quyết của đảng. Đảng viên phải tuyệt đối phục tùng các nghị quyết của đảng, bao gồm cương lĩnh, điều lệ, các nghị quyết, chỉ thị của đại hội đảng, ban chấp hành 39 trung ương và các tổ chức đảng. Điều kiện này bảo đảm cho đảng luôn là một khối thống nhất về tư tưởng, ý chí và hành động. Sáu là, giữ bí mật mọi công việc của đảng. Các đảng cộng sản được thành lập vào giữa thế kỷ XIX đều là các đảng chính trị đối lập, ngoài vòng pháp luật tư sản, nên phải hoạt động trong điều kiện tuyệt đối bí mật. Vì vậy, một trong những yêu cầu đối với đảng viên là phải tuyệt đối giữ bí mật mọi công việc của đảng và các đảng viên đều không được dùng tên thật, mà phải dùng bí danh. Các chi bộ của các địa phương khác nhau không được biết lẫn nhau. Những quy định này là phù hợp với hoàn cảnh hoạt động của đảng cộng sản đầu tiên và cũng là phù hợp với các đảng cộng sản được thành lập trong điều kiện bị chính quyền tư sản truy bức. Bảy là, được một chi bộ nhất trí kết nạp. Người xin vào đảng phải được một chi bộ xem xét, nếu thấy đủ tiêu chuẩn, điều kiện thì chi bộ thảo luận và nhất trí kết nạp; sau khi được kết nạp, đảng viên phải sinh hoạt trong một chi bộ, chịu sự quản lý của chi bộ. Cách thức, thủ tục tổ chức kết nạp đảng viên phải được thực hiện nghiêm túc: bí thư chi bộ đọc cho người được kết nạp nghe điều lệ đảng, đặc biệt nhấn mạnh những nghĩa vụ mà người được kết nạp phải đảm nhiệm; sau đó, người này phải trả lời ”có” đồng ý gia nhập đảng, 40 nói lời thề danh dự là sẽ hoàn thành mọi nghĩa vụ đảng viên; bí thư chi bộ tuyên bố người đó là đảng viên và đưa vào danh sách đảng viên của chi bộ. Quy định này thể hiện đảng là một tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật nghiêm minh, chứ không phải chỉ là một câu lạc bộ, một hội đoàn, bảo đảm đảng viên có sự gắn bó chặt chẽ, thường xuyên với đảng. Các điều kiện trên đều là cần thiết bắt buộc, không thể thiếu bất kỳ điều kiện nào và chúng có quan hệ mật thiết với nhau. Ai không còn đủ những điều kiện ấy sẽ bị khai trừ ra khỏi đảng. 9. Đảng cộng sản có những yêu cầu gì về tổ chức và tư tưởng? Thứ nhất, đảng cộng sản phải thường xuyên được củng cố vững chắc về tổ chức. Là những người thành lập đảng cộng sản đầu tiên trên thế giới, C. Mác và Ph. Ăngghen là những người đầu tiên nêu những nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của đảng cộng sản. Những tổ chức cách mạng đầu tiên của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế Liên đoàn những người cộng sản (1847 - 1852) và Hội liên hiệp công nhân quốc tế (Quốc tế I, 1864 - 1876) - dưới sự lãnh đạo của C. Mác và Ph. Ăngghen - đã được tổ chức một cách chặt chẽ. Về mặt tổ chức, hai ông đòi hỏi đảng cộng sản phải là một tổ chức hết sức chặt chẽ, có kỷ luật nghiêm minh và bắt buộc đối với mọi đảng viên; 41 trong bất cứ hoàn cảnh nào, đảng cũng phải giữ vững sự thống nhất về tổ chức, vì thành công của phong trào công nhân mỗi nước chỉ có thể được đảm bảo bằng lực lượng đoàn kết và tổ chức. Đảng không chỉ phải thống nhất về chính trị, tư tưởng, mà phải là một tổ chức đoàn kết, thống nhất chặt chẽ về tổ chức. Các đảng viên và tổ chức đảng hoạt động ở các địa bàn khác nhau, ở rải rác trong các nhà máy, công xưởng, thành phố, quốc gia khác nhau, nên giữa các đảng viên và các tổ chức đảng phải hình thành mối liên hệ thường xuyên theo những nguyên tắc tổ chức thống nhất; mọi tổ chức đảng và đảng viên phải tôn trọng, tuân thủ nghiêm các nguyên tắc đó. Thậm chí, mọi đảng viên khi thay đổi chỗ ở đều phải báo cáo trước việc đó với chi bộ. Chỉ có sự phối hợp hành động một cách chặt chẽ, thống nhất về tổ chức, chính đảng vô sản mới trở thành lực lượng có sức mạnh, đủ sức vượt qua những khó khăn, thách thức của cuộc đấu tranh giai cấp giành chính quyền về tay giai cấp công nhân; mới có khả năng thu hút, tập hợp đông đảo công nhân và các tầng lớp lao động khác đi theo giai cấp vô sản, tiến hành cuộc đấu tranh lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa. Mọi sự chia rẽ về tổ chức đều là nguy hại, làm suy yếu sức mạnh của đảng. Sự vững chắc về tổ chức của đảng thể hiện ở nhiều nội dung: các đảng viên phải thường xuyên giữ 42 liên hệ với chi bộ; ban chấp hành khu bộ, tổng khu bộ phải liên hệ chặt chẽ với các tổ chức đảng trực thuộc và phục tùng ban chấp hành cấp trên; các chi bộ và các ban chấp hành khu bộ cũng như ban chấp hành trung ương họp định kỳ; các khu bộ phải báo cáo tình hình công tác của địa phương mình với tổng khu bộ, các tổng khu bộ phải báo cáo tình hình công tác của địa phương mình với ban chấp hành trung ương; ban chấp hành trung ương lập bản báo cáo về tình hình của toàn đảng; các ủy viên ban chấp hành khu bộ và ban chấp hành trung ương được bầu hằng năm, có quyền được bầu lại và có thể bị những người bầu ra mình bãi miễn bất cứ lúc nào; mỗi đảng viên phải thường xuyên liên lạc với chi bộ, các chi bộ phải thường xuyên liên lạc với ban chấp hành khu bộ của mình; ai vi phạm những điều kiện của hội viên sẽ tùy tình hình mà bị khai trừ ra khỏi đảng, người bị khai trừ thì không được kết nạp lại; v.v.. Thứ hai, đảng cộng sản phải thường xuyên củng cố sự thống nhất về tư tưởng. Đảng cộng sản không chỉ phải thống nhất về tổ chức, mà còn phải thống nhất về tư tưởng trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học và cương lĩnh, điều lệ, nghị quyết của đảng. Sự thống nhất về tư tưởng trong đảng là cơ sở quan trọng hàng đầu để tạo lập sự thống nhất về chính trị của đảng. Cương lĩnh, đường lối, chủ trương của đảng 43 chỉ có thể được hình thành dựa trên một quan điểm, lập trường thống nhất về những vấn đề cơ bản nhất và phải được mọi tổ chức đảng và đảng viên đồng tình, nhận thức thống nhất, từ đó có sự thống nhất trong hành động. Thái độ tán thành chủ nghĩa cộng sản như một điều kiện bắt buộc đối với người xin gia nhập đảng cộng sản, là tiền đề để có sự thống nhất về tư tưởng trong toàn đảng. Trong quá trình tồn tại, hoạt động của mình, đảng phải thường xuyên giải quyết những vấn đề đặt ra trong phong trào cộng sản và công nhân, phải đấu tranh chống các quan điểm lệch lạc trong nội bộ và sự công kích của các nhà tư tưởng tư sản, nên đảng phải thường xuyên củng cố sự thống nhất về tư tưởng, kịp thời phát hiện và kiên quyết chống lại mọi sự phân hóa, chia rẽ về tư tưởng trong nội bộ và sự chống phá của kẻ thù. Sự thống nhất về tổ chức và sự thống nhất về tư tưởng trong đảng cộng sản có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, là tiền đề cho nhau. Sự thống nhất về tổ chức phải dựa trên sự thống nhất về tư tưởng và chỉ có được khi trong đảng thật sự thống nhất trên quan điểm, lập trường của chủ nghĩa xã hội khoa học, cương lĩnh chính trị của đảng; đồng thời, sự thống nhất về tổ chức trong đảng là sự bảo đảm cho việc tạo lập sự thống nhất về tư tưởng của đảng. Sự thống nhất về tư tưởng trong đảng, bao gồm cả sự thống nhất về cương lĩnh, đường lối và về các 44 nguyên tắc tổ chức của đảng, là cơ sở quan trọng để củng cố sự thống nhất về tổ chức của đảng. 10. Cơ cấu tổ chức của đảng cộng sản phải thế nào? Về cơ cấu tổ chức của đảng cộng sản, bản thân Liên đoàn những người cộng sản - đảng cộng sản đầu tiên trên thế giới - đã bao gồm các tổ chức đảng được thành lập ở các nước, ở các thành phố, công xưởng, nhà máy trong các nước, với số lượng đảng viên khác nhau. Để đảm bảo sự thống nhất về tổ chức và hoạt động trong phạm vi toàn đảng, C. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng: đảng cộng sản phải được tổ chức phù hợp với số lượng đảng viên, với đặc điểm và nhiệm vụ mà đảng phải giải quyết trong từng thời kỳ; hình thành một hệ thống chặt chẽ, từ dưới lên và từ trên xuống dưới. Điều lệ của Liên đoàn những người cộng sản quy định: về cơ cấu, Liên đoàn gồm chi bộ, khu bộ, tổng khu bộ, Ban chấp hành trung ương và Đại hội, trong đó chi bộ là tổ chức đảng thấp nhất, tổ chức cơ sở của đảng; nhiều chi bộ hợp thành khu bộ; nhiều khu bộ hợp thành tổng khu bộ; Đại hội Liên đoàn là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Liên đoàn. Chi bộ gồm ít nhất là 3 và nhiều nhất là 20 hội viên; mỗi chi bộ bầu bí thư và phó bí thư (lúc đó gọi là chủ tịch và phó chủ tịch chi bộ), bí thư lãnh đạo các cuộc họp, phó bí thư thay thế bí thư trong trường hợp bí thư 45 vắng mặt. Khu bộ gồm ít nhất là 2 và nhiều nhất là 10 chi bộ. Ban chấp hành khu bộ gồm các bí thư và phó bí thư chi bộ trong khu bộ. Các khu bộ của một nước hoặc một tỉnh phải phục tùng một tổng khu bộ. Các tổng khu bộ phải báo cáo công tác với Đại hội, giữa các kỳ đại hội thì báo cáo với Ban Chấp hành Trung ương. Trong hoàn cảnh hoạt động bí mật và phân tán, lực lượng của những người cộng sản mỗi nước còn ít về số lượng, non trẻ về lý luận và kinh nghiệm, thì việc thành lập một đảng cộng sản chung cho nhiều nước như Liên đoàn những người cộng sản và Ban chấp hành trung ương của Liên đoàn chỉ có ít nhất là 5 ủy viên, chỉ do ban chấp hành khu bộ của địa phương đã được Đại hội xác định là nơi đóng trụ sở của Ban chấp hành trung ương, bầu ra... là phù hợp. Sau này, khi lực lượng những người cộng sản các nước đã lớn mạnh, phong trào công nhân mỗi nước đặt ra những nhiệm vụ riêng, thì việc giai cấp công nhân ở mỗi nước lập ra đảng cộng sản riêng về tổ chức của đảng là tất yếu khách quan. 11. Các đảng cộng sản ở mỗi nước quan hệ với các đảng cộng sản và giai cấp vô sản các nước như thế nào? Trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh ngày càng phát triển mạnh mẽ từ những năm 46 giữa thế kỷ XIX, C. Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ rõ, lực lượng sản xuất đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa đã mang tính quốc tế, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được áp dụng phổ biến ở tất cả các nước tư bản. Đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa tạo ra ở khắp nơi những quan hệ như nhau giữa các giai cấp xã hội, do đó xóa bỏ tính chất riêng biệt của những dân tộc khác nhau; mặc dù khi giai cấp tư sản của mỗi dân tộc còn duy trì những lợi ích dân tộc riêng biệt, nhưng đại công nghiệp đã tạo ra một giai cấp tư sản quốc tế cùng có những lợi ích như nhau trong tất cả các dân tộc. Theo đó, giai cấp vô sản chỉ có thể tồn tại trên quy mô của lịch sử thế giới. Sở dĩ các đảng cộng sản và phong trào cộng sản các nước phải đoàn kết lại, cần hiệp lực trong cuộc đấu tranh chung và cần đem liên minh anh em của công nhân tất cả các dân tộc đối lập với cái liên minh anh em của giai cấp tư sản tất cả các dân tộc là bởi lẽ tình cảnh của công nhân tất cả các nước đều giống nhau, lợi ích của họ là thống nhất, những kẻ thù của họ cùng là một. Chủ nghĩa tư bản mang tính quốc tế không chỉ về kinh tế, mà cả về chính trị, giai cấp tư sản các nước hình thành liên kết quốc tế chống giai cấp vô sản. Sự đoàn kết, phối hợp hành động của các đảng cộng sản và giai cấp công nhân các nước sẽ thủ tiêu cơ sở kinh tế của chủ nghĩa tư bản thế giới cùng dựa trên quan hệ tư hữu tư bản chủ nghĩa. Hơn nữa, sự đoàn kết ấy còn 47 khắc phục tình trạng một số dân tộc này bóc lột một số dân tộc khác, khắc phục tất cả những cuộc xung đột dân tộc và sự thù hằn giữa các dân tộc. Chính sự phát triển của giai cấp vô sản trên phạm vi toàn thế giới, mục tiêu của đảng cộng sản và phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản - giải phóng toàn nhân loại, xây dựng xã hội cộng sản có sự bình đẳng giữa các dân tộc - đã quy định tính quốc tế của đảng cộng sản ngay từ khi nó ra đời và tạo thành một thuộc tính cơ bản trong bản chất của đảng cộng sản. Tính quốc tế của đảng cộng sản thể hiện ở sự thống nhất trên lập trường của chủ nghĩa cộng sản, sự phối hợp hành động, sự đoàn kết giữa các đảng cộng sản, các phong trào cộng sản và công nhân của tất cả các dân tộc trong cuộc đấu tranh chung chống giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản ở tất cả các nước. Tinh thần quốc tế vô sản của đảng cộng sản được thể hiện trong khẩu hiệu nổi tiếng mang tính hiệu triệu của C. Mác và Ph. Ăngghen “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!” được ghi trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Tuy nhiên, chủ nghĩa quốc tế của các đảng cộng sản và phong trào công nhân thế giới không phủ nhận tính chất dân tộc của cuộc đấu tranh mà từng đảng cộng sản và công nhân mỗi nước tiến hành. Giai cấp công nhân đấu tranh để giải phóng mình trước tiên là trong khuôn khổ từng quốc gia dân tộc, 48 nhưng điều quan trọng là, đảng cộng sản không đặt ra những mục tiêu riêng biệt cho giai cấp vô sản nước mình, mà trong các cuộc đấu tranh của những người vô sản thuộc các dân tộc khác nhau, họ đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích chung cho toàn thể giai cấp vô sản, không phụ thuộc vào dân tộc. Thành công của phong trào công nhân ở mỗi nước chỉ có thể được bảo đảm bằng lực lượng đoàn kết của giai cấp vô sản toàn thế giới. Đối với các dân tộc thuộc địa, giải quyết vấn đề độc lập dân tộc là một tiền đề để giai cấp công nhân thực hiện tốt chủ nghĩa quốc tế; không giành lại được độc lập và thống nhất cho từng dân tộc thì trên bình diện quốc tế, không thể thực hiện được sự đoàn kết của giai cấp vô sản và sự hợp tác hòa bình, tự giác giữa các dân tộc để đạt tới những mục đích chung. Mặt khác, tính quốc tế của đảng cộng sản không chấp nhận, không điều hòa với các thứ chủ nghĩa dân tộc; các đảng cộng sản cần giữ vững tinh thần quốc tế chân chính, tinh thần đó sẽ loại trừ sự xuất hiện của mọi thứ chủ nghĩa sôvanh, chủ nghĩa dân tộc cực đoan. 49 Chương II TƯ TƯỞNG CỦA V.I. LÊNIN VỀ ĐẢNG KIỂU MỚI CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN 1. Tại sao nói đảng cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân? Theo quan điểm của V.I. Lênin, đảng là đội tiên phong, lực lượng chính trị lãnh đạo giai cấp, không được nhầm lẫn đảng với toàn bộ giai cấp. Nếu ai nghĩ rằng, dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, hầu như toàn bộ giai cấp một ngày kia sẽ đủ sức vươn mình lên đến chỗ đạt tới trình độ giác ngộ và tính tích cực của đội tiền phong, của đảng dân chủ - xã hội, thì người ấy sẽ mắc cái bệnh của “chủ nghĩa theo đuôi”. Dưới chế độ tư bản, ngay cả tổ chức công đoàn cũng không đủ sức bao trùm hầu như toàn bộ, hay toàn bộ giai cấp công nhân. Chưa có một người dân chủ - xã hội nào biết suy nghĩ lại nghi ngờ điều đó cả. Chúng ta sẽ chỉ tự lừa dối mình, nhắm mắt trước những nhiệm vụ bao la của chúng ta, thu hẹp những nhiệm vụ đó lại, nếu chúng ta 50 quên mất sự khác nhau giữa đội tiền phong và tất cả số quần chúng hướng theo đội tiền phong đó; nếu chúng ta quên mất rằng, đội tiền phong có nghĩa vụ thường xuyên phải nâng các tầng lớp ngày càng đông đảo đó lên trình độ tiên tiến ấy. Giai cấp công nhân ở các nước nói chung, giai cấp công nhân ở Nga nói riêng, luôn có các đảng công nhân, tổ chức công đoàn và các tổ chức xã hội khác nhau hoạt động trong phong trào công nhân; Đảng Công nhân dân chủ - xã hội Nga (tiền thân của Đảng Cộng sản Nga) là một trong số các tổ chức đó của giai cấp. Song, Đảng Công nhân dân chủ - xã hội Nga phải được xây dựng và rèn luyện để trở thành đội tiền phong, bộ tham mưu và lãnh tụ của giai cấp công nhân. Đảng cách mạng, chiến đấu của giai cấp công nhân được phân biệt với các đảng công nhân và các tổ chức khác của giai cấp công nhân chỉ ở tính tiền phong của đảng mà thôi. Tính tiền phong của đảng cộng sản thể hiện trên ba mặt chủ yếu: tiền phong về chính trị; tiền phong về tư tưởng và tiền phong về tổ chức. Vào những năm đầu xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân Nga (thời kỳ 1903 - 1906), phái cơ hội chủ nghĩa trong Đảng phê phán quan điểm của V.I. Lênin về tính tiền phong của Đảng, họ cho rằng: đề cao tính tiền phong của đảng trong giai cấp tựa như muốn cho đảng ngồi trên ghế cao, còn các tổ chức khác ngồi ở ghế thấp; vì vậy, giữa đảng 51 và các tổ chức khác của giai cấp không thể liên hệ được với nhau. V.I. Lênin chỉ ra rằng, đây không phải là vấn đề ngồi ở ghế cao hay ngồi ở ghế thấp, mà là vấn đề đại diện cho lợi ích của giai cấp. Đảng của giai cấp công nhân không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của toàn bộ giai cấp, vì vậy, đảng càng nêu cao tính tiền phong, đảng càng đại diện trung thành cho lợi ích của giai cấp, do đó quần chúng của giai cấp sẽ càng hướng theo đảng, chịu sự lãnh đạo của đảng. Ngược lại, nếu làm suy giảm tính tiền phong của đảng, thì quần chúng của giai cấp sẽ rời xa đảng. Trong mối quan hệ với toàn bộ giai cấp công nhân, đảng không bao giờ được hạ thấp trình độ của mình xuống trình độ của giai cấp, ngược lại, đảng phải không ngừng nâng cao trình độ của giai cấp lên trình độ của đảng. Chỉ có như vậy, đảng mới đủ sức hoàn thành vai trò lãnh đạo của đội tiền phong. Khi trở thành đảng cầm quyền, nhiệm vụ chủ yếu của đảng tiên phong là lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa và quản lý đất nước. Đây là nhiệm vụ hết sức mới mẻ, đầy khó khăn đặt ra trước đội tiên phong; giờ đây đảng phải tổ chức, theo phương thức mới, những cơ sở kinh tế cho hàng chục, hàng trăm triệu con người. Trước yêu cầu mới đó, V.I. Lênin đã phát triển quan điểm của mình về tiêu chuẩn, hình mẫu của người đảng viên cộng sản, 52 những chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong, trên bốn nội dung sau: Thứ nhất, đảng viên cộng sản là người giác ngộ lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, trung thành tuyệt đối với mục tiêu, lý tưởng của đảng, với sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Sự giác ngộ ấy phải được thể hiện bằng sự nhất trí, tin tưởng, gương mẫu chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương của đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, không đòi hỏi lợi lộc, sẵn sàng gánh vác một công tác gian khổ hơn và nguy hiểm hơn. Thứ hai, đảng viên cộng sản phải có trình độ văn hoá, lý luận, chuyên môn nghiệp vụ và năng lực hoàn thành nhiệm vụ được giao. Vì vậy, họ phải thấu hiểu công việc của mình, nghĩa là phải có tri thức, thông thạo chuyên môn. V.I. Lênin chỉ rõ: người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra. Muốn thế, phải không ngừng học tập một cách kiên trì và nghiêm túc, đừng bằng lòng với những kinh nghiệm của mình, kiêu ngạo cộng sản là báo hiệu sự tụt hậu. Thứ ba, người đảng viên cộng sản phải có ý thức tổ chức kỷ luật cao. Người phê phán kịch liệt những thói quen dẫn đến vi phạm kỷ luật đảng như: tính tự do tiểu tư sản, tính tản mạn, vô tổ chức 53 kỷ luật, chia rẽ, bè phái... Đảng cầm quyền lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở những nước mà giai cấp vô sản chiếm thiểu số trong dân cư thì chính đảng của giai cấp vô sản phải thực hiện được, trong nội bộ của mình, một chế độ tập trung chặt chẽ và một kỷ luật nghiêm ngặt. Thứ tư, người đảng viên cộng sản phải gắn bó mật thiết với quần chúng, giáo dục, tổ chức quần chúng thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng, là tấm gương mẫu mực cho quần chúng noi theo. V.I. Lênin cho rằng, việc xây dựng chủ nghĩa xã hội không phải là việc riêng của đảng cộng sản... mà là việc của tất cả quần chúng lao động. Sức mạnh của đảng là ở sự gắn bó mật thiết giữa đảng với nhân dân, giữa những người cộng sản với quần chúng nhân dân lao động. Trong quan hệ với quần chúng, đảng viên phải tìm hiểu, nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng và các sáng kiến của họ, phải giải quyết các nhu cầu chính đáng của nhân dân, nhưng không được hạ thấp trình độ của mình xuống ngang với quần chúng, không được mị dân, theo đuôi quần chúng. 2. Tại sao nói đảng là tổ chức cao nhất của giai cấp? Để bảo đảm tính tiền phong của mình, đảng phải thường xuyên thu hút vào đội ngũ của đảng những quần chúng ưu tú nhất, tiêu biểu nhất trong 54 giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đồng thời, đào tạo họ trở thành những chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong, suốt đời phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của đảng. Do vậy, không phải bất kỳ ai có nguyện vọng gia nhập đảng, đều có thể trở thành đảng viên, mà muốn trở thành đảng viên của đảng, người vào đảng, theo V.I. Lênin, phải tuân thủ ba điều kiện bắt buộc sau đây: thứ nhất, thừa nhận cương lĩnh, điều lệ của đảng; thứ hai, đóng góp vật chất cho đảng; thứ ba, tự nguyện hoạt động trong một tổ chức của đảng. Việc “thừa nhận cương lĩnh, điều lệ” của đảng đã hàm ý: có am hiểu cặn kẽ về đảng và có trình độ nhận thức lý luận về mục tiêu, đường lối, chiến lược cách mạng; “thừa nhận” còn có nghĩa sự am hiểu cái tất yếu và tự giác hành động theo cái tất yếu đó. Song, chỉ công khai tuyên bố thừa nhận thôi thì cũng chưa đủ, mà còn phải hành động trong thực tiễn bằng tinh thần tự giác, phục tùng và chịu sự quản lý giáo dục của tổ chức đảng. V.I. Lênin còn nhấn mạnh rằng, trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, giai cấp công nhân không có vũ khí nào tốt hơn là sự tổ chức; tổ chức quả là một vũ khí nhờ đó mà giai cấp vô sản sẽ tự giải phóng; đối với giai cấp công nhân thì tổ chức là vũ khí đấu tranh giai cấp. Người cho rằng, trong cuộc đấu tranh để giành chính quyền, giai cấp vô sản không có vũ khí nào khác hơn là sự tổ chức. 55 Trong điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hành chuyên chính vô sản, V.I. Lênin chỉ rõ: ngoài đảng cộng sản, bộ máy nhà nước, giai cấp vô sản còn có nhiều tổ chức khác nữa như: công đoàn, đoàn thanh niên, các hợp tác xã, các tổ chức văn hoá - giáo dục... Tất cả các tổ chức đó đều cần thiết đối với giai cấp công nhân. Nếu như không có những tổ chức đó, thì giai cấp công nhân không thể đấu tranh giành thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, đảng phải đảm nhận việc lãnh đạo tất cả những tổ chức đó hoạt động có tổ chức, kỷ luật và có kế hoạch. Sở dĩ, đảng có trách nhiệm và khả năng lãnh đạo tất cả các tổ chức của giai cấp công nhân, hướng mọi hoạt động của tất cả các tổ chức của giai cấp công nhân vào một mục đích chung là thủ tiêu chế độ bóc lột, xây dựng chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa, vì đảng bao gồm những phần tử tiên tiến giác ngộ nhất, được vũ trang lý luận khoa học và có tổ chức chặt chẽ. 3. Tại sao đảng phải có kỷ luật nghiêm minh? Theo V.I. Lênin, một đảng được tổ chức chặt chẽ, thống nhất của giai cấp công nhân phải là một đảng có kỷ luật. Nếu như không có một kỷ luật thống nhất và những trách nhiệm thống nhất trong khi thi hành nghị quyết và các yêu cầu của điều lệ đảng thì sẽ không thể tránh khỏi biểu hiện bè phái và phe nhóm trong các đội ngũ của đảng, những 56 biểu hiện đó sẽ dẫn đảng đến chỗ tan rã. Kỷ luật phải bắt buộc áp dụng như nhau đối với tất cả mọi đảng viên; trong đảng không thể chia thành “những người được lựa chọn”, “những nhân vật cấp trên” và “những đảng viên thường”. Sau khi Cách mạng Tháng Mười thành công, trong điều kiện chính quyền Xôviết gặp muôn vàn khó khăn, tình thế cách mạng như ngàn cân treo sợi tóc, song dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản (Bônsêvích), cách mạng vô sản Nga đã vượt qua và thắng lợi kỳ diệu. Tổng kết kinh nghiệm này, V.I. Lênin chỉ rõ một trong những nguồn gốc sức mạnh của Đảng là đã xây dựng được một kỷ luật sắt và thực hiện chế độ tập trung tuyệt đối. Nhưng điều gì làm cho kỷ luật của đảng được xây dựng vững chắc như vậy? V.I. Lênin cho rằng: thứ nhất, đó là sự giác ngộ của đội tiên phong và lòng trung thành đối với cách mạng, tính kiên cường, tinh thần hy sinh và chí khí anh dũng. Thứ hai, là khả năng biết liên hệ, gần gũi quần chúng lao động rộng rãi nhất, trước hết là với quần chúng vô sản và cả với quần chúng lao động không phải vô sản. Thứ ba, là sự lãnh đạo đúng đắn mà đội tiên phong ấy đã thực hiện chiến lược, sách lược đúng đắn, nhưng điều cần thiết là quảng đại quần chúng, do kinh nghiệm bản thân, tin tưởng vào sự đúng đắn ấy. 57 V.I. Lênin chỉ ra rằng: “Chắc chắn là ngày nay, hầu hết mọi người đều thấy rằng những người bônsêvích sẽ không giữ vững được chính quyền, tôi không nói được tới hai năm rưỡi, mà ngay cả đến hai tháng rưỡi cũng không được nữa, nếu đảng ta không có kỷ luật hết sức nghiêm minh, kỷ luật sắt thật sự, không được sự ủng hộ đầy đủ nhất và hết lòng của quảng đại quần chúng giai cấp công nhân, tức là của tất cả những người nào trong giai cấp ấy biết suy nghĩ, trung thực, có lòng hy sinh quên mình, có uy tín, có khả năng dẫn dắt theo mình hoặc lôi cuốn được những tầng lớp chậm tiến”1. V.I. Lênin đã chỉ cho chúng ta thấy việc thực hiện chế độ tập trung tuyệt đối và kỷ luật hết sức nghiêm minh của giai cấp vô sản là một trong những điều kiện căn bản để chiến thắng giai cấp tư sản. 4. Chủ nghĩa Mác hình thành và phát triển trên cơ sở những thành tựu tư tưởng và khoa học nào của nhân loại? Trong cuộc đấu tranh chống những luận điểm cơ hội chủ nghĩa để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Công nhân dân chủ - xã hội Nga, V.I. Lênin đã vạch rõ: Học thuyết xã hội chủ nghĩa và cuộc __________ 1. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.41, tr.6. 58 đấu tranh của giai cấp công nhân có chung một nguồn gốc - những quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa và cuộc đấu tranh chống sự nghèo khổ và lầm than của quần chúng do chủ nghĩa tư bản gây nên. Nhưng học thuyết xã hội chủ nghĩa và phong trào công nhân lại ra đời từ những tiền đề khác nhau, cái nọ không sinh ra cái kia được. Học thuyết xã hội chủ nghĩa chỉ có thể ra đời từ những tiền đề khoa học tự nhiên, xã hội và tư duy mà nhân loại đã đạt tới vào giữa thế kỷ XIX. Trên cơ sở những hiểu biết sâu sắc về triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học của Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng của Pháp, C. Mác và Ph. Ăngghen đã sáng tạo ra chủ nghĩa xã hội khoa học làm vũ khí lý luận cho giai cấp vô sản cách mạng đấu tranh giải phóng người lao động khỏi ách áp bức, bóc lột của tư bản chủ nghĩa. 5. Tại sao các đảng cộng sản phải lấy chủ nghĩa Mác làm cơ sở tư tưởng của đảng? Chủ nghĩa xã hội khoa học là yếu tố từ bên ngoài đưa vào cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, nó không thể tự phát hình thành trong cuộc đấu tranh đó; nhưng giai cấp vô sản dễ dàng và nhanh chóng tiếp thu những tư tưởng của chủ nghĩa xã hội khoa học, vì chính học thuyết này đã phản ánh về mặt lý luận những lợi ích cơ bản, sống còn của chính giai cấp vô sản. Nói về vấn đề này, 59 theo V.I. Lênin, công nhân trước đây không thể có ý thức dân chủ - xã hội được. Ý thức này chỉ có thể là từ bên ngoài đưa vào. Lịch sử tất cả các nước chứng thực rằng, chỉ do lực lượng của riêng bản thân mình thôi thì giai cấp công nhân chỉ có thể đi đến ý thức công liên chủ nghĩa, tức là đi đến chỗ tin rằng phải đoàn kết lại thành hội liên hiệp, phải đấu tranh chống bọn chủ, phải đòi hỏi chính phủ ban hành những luật này hay luật khác cần thiết cho công nhân, v.v.. Còn học thuyết xã hội chủ nghĩa thì phát sinh từ các lý luận triết học, lịch sử, kinh tế do những người có học thức trong các giai cấp hữu sản và những trí thức xây dựng nên. Do chủ nghĩa xã hội khoa học được hình thành ở bên ngoài phong trào công nhân, nên việc phái cơ hội tán dương tính tự phát của phong trào công nhân, phủ nhận sự cần thiết phải giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho giai cấp công nhân, tức là phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng - người đưa yếu tố tự giác vào phong trào công nhân. Làm như vậy là dọn đường cho hệ tư tưởng tư sản thâm nhập và thống trị phong trào công nhân, thủ tiêu quan niệm phải kết hợp phong trào công nhân với chủ nghĩa xã hội khoa học. Nhưng muốn đưa được chủ nghĩa Mác vào phong trào công nhân, đảng phải tiến hành công tác tư tưởng một cách hết sức tỉ mỉ, tinh tế, bằng nhiều hình thức và phương pháp khác nhau; 60 kết hợp hoạt động tuyên truyền lý luận với hoạt động thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân. Chỉ bằng cách như vậy mới có thể làm cho chủ nghĩa xã hội khoa học thâm nhập được vào phong trào công nhân và làm cho nó trở thành thế giới quan, phương pháp nhận thức và hành động khoa học của giai cấp cách mạng. 6. Vai trò của chủ nghĩa Mác trong xây dựng cương lĩnh, đường lối, chính sách của đảng như thế nào? Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng, chính đảng vô sản muốn làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong thì phải có lý luận tiên phong dẫn đường; lý luận tiên phong trong thời đại cách mạng vô sản là chủ nghĩa xã hội khoa học, do C. Mác và Ph. Ăngghen là đại biểu. Lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học có vai trò to lớn đối với sự phát triển của tiến trình lịch sử. So sánh với tất cả lý luận trước nó, chủ nghĩa Mác lần đầu tiên đã đem đến cho nhân loại một công cụ nhận thức khoa học về những quy luật khách quan của sự phát triển xã hội. Vũ khí phê phán không thể thay thế sự phê phán bằng vũ khí, nhưng lý luận một khi đã thâm nhập vào quần chúng thì sẽ biến thành sức mạnh vật chất, cải tạo được xã hội trên nguyên tắc xã hội chủ nghĩa. 61 Trong nhiều tác phẩm của mình, V.I. Lênin chỉ rõ: không thể có một đảng xã hội chủ nghĩa vững mạnh, nếu đảng đó thiếu một căn cứ lý luận vững chắc, để thông qua lý luận, đảng đoàn kết tất cả những người xã hội chủ nghĩa lại, giúp họ rút ra từ trong lý luận đó những luận cứ khoa học áp dụng vào thực tiễn, hình thành các phương pháp đấu tranh và phương sách hành động cách mạng đúng đắn1. Theo V.I. Lênin, không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng và chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong dẫn đường thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong. V.I. Lênin đánh giá rất cao vai trò của lý luận cách mạng trong việc nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Nhờ có lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học, giai cấp công nhân mới giác ngộ được sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của mình; thấu suốt được mục tiêu cuối cùng và mục tiêu trước mắt của sự nghiệp cách mạng vô sản qua từng giai đoạn lịch sử. Lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học đã giúp cho các đảng công nhân dân chủ - xã hội phân tích được một cách sâu sắc, trên cơ sở khoa học, những đặc điểm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lịch sử của các giai cấp và dân tộc; mới có thể đánh giá đúng so sánh lực lượng giữa các lực lượng __________ 1. Xem V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.232. 62 cách mạng và phản cách mạng trên phạm vi toàn cầu, từ đó vận dụng những nguyên lý phổ biến vào việc quyết định đường lối chiến lược và sách lược cách mạng. Chính vì tầm quan trọng to lớn của chủ nghĩa Mác đối với cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, nên V.I. Lênin đã không ngừng đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội trên phạm vi quốc tế và ở Nga để bảo vệ chủ nghĩa Mác. Ông khẳng định trong thời đại ngày nay, không có lý luận cách mạng nào vượt qua được chủ nghĩa Mác. Tất cả những mưu toan chống chủ nghĩa Mác, xét lại chủ nghĩa Mác đều sẽ thất bại, vì tính đúng đắn khách quan của chủ nghĩa Mác. Tuy nhiên, V.I. Lênin cũng hết sức lưu ý những người cộng sản rằng: không được coi lý luận của chủ nghĩa Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn, hoặc bất khả xâm phạm; trái lại, phải tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải tiếp tục nghiên cứu, phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống1. 7. Tại sao nói đảng cộng sản theo chủ nghĩa Mác - Lênin phải được xây dựng theo nguyên tắc tập trung dân chủ? Theo V.I. Lênin, để bảo đảm cho đảng cộng sản có đủ sức mạnh làm tròn vai trò của đội tiên phong __________ 1. Xem V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.232. 63 trong lãnh đạo cách mạng vô sản, về mặt tổ chức, đảng phải được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong điều kiện hoạt động bí mật, do chưa có tự do chính trị, nên việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong đảng sẽ bảo đảm cho việc xây dựng đảng từ trên xuống diễn ra thuận lợi. Xây dựng đảng từ trên xuống là một chủ trương lớn của những người bônsêvích Nga. Theo chủ trương này, việc xây dựng đảng sẽ bắt đầu từ triệu tập đại hội đại biểu toàn quốc - cơ quan lãnh đạo cao nhất của đảng. Đại hội đại biểu toàn quốc sẽ bầu ra ban chấp hành trung ương làm cơ quan lãnh đạo của đảng giữa hai nhiệm kỳ đại hội; ban chấp hành trung ương chỉ định các ban chấp hành đảng bộ địa phương; ban chấp hành đảng bộ địa phương chỉ định các tổ chức cơ sở của đảng. Thực hiện nguyên tắc này sẽ làm cho toàn đảng trở thành một khối thống nhất vững chắc; vừa phát huy được sức mạnh trí tuệ, ý chí và nghị lực của mỗi đảng viên, vừa phát huy được sức mạnh của toàn đảng. Tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ bảo đảm cho ban chấp hành trung ương có điều kiện lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm soát được hoạt động của toàn đảng, phát huy được sức mạnh của toàn đảng, đồng thời ngăn ngừa được tình trạng phe phái, làm tổn hại cho đảng. Chỉ có tuân theo những yêu cầu của nguyên tắc tập trung dân chủ thì đảng mới thực hiện được vai trò lãnh tụ của giai cấp công nhân. 64 8. Bản chất, nội dung, mối quan hệ giữa tập trung và dân chủ trong nguyên tắc tập trung dân chủ là gì? Về bản chất, tập trung và dân chủ là hai mặt của một nguyên tắc thống nhất, không thể coi nhẹ mặt này hay mặt kia, giữa hai mặt có quan hệ tác động qua lại với nhau, bổ sung cho nhau và là tiền đề của nhau. Thực hiện tập trung phải gắn liền với dân chủ để phát triển dân chủ và phát triển dân chủ rộng rãi là củng cố cho sự tập trung thống nhất cao. Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng đảng là để đảm bảo cho đảng có sự thống nhất về tổ chức. Theo V.I. Lênin, sự thống nhất trong những vấn đề cương lĩnh và sách lược là điều kiện tất yếu, nhưng chưa đầy đủ để đảm bảo sự thống nhất của đảng và sự tập trung hóa công tác của đảng. Muốn đạt được sự thống nhất trên, còn phải có sự thống nhất về tổ chức, điều đó có nghĩa là phải thực hiện nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số, bộ phận phục tùng toàn bộ. Về nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ, theo V.I. Lênin, nhất định phải là: 1- Thiểu số phải phục tùng đa số...; 2- Cơ quan tối cao của đảng phải là đại hội, tức là cuộc họp của những người được tất cả các tổ chức có thẩm quyền bầu ra và các nghị quyết của những người ấy phải có tính chất tối hậu quyết định (đó là nguyên tắc đại diện dân chủ, 65 trái với nguyên tắc hội nghị tư vấn và bỏ phiếu cho các nghị quyết của hội nghị đó trong từng tổ chức, tức là trưng cầu ý kiến); 3- Bầu cử cơ quan trung ương của đảng (hay các cơ quan trung ương của đảng) phải trực tiếp và tiến hành tại đại hội; bầu cử ngoài đại hội, bầu cử qua hai cấp, v.v. đều không thể chấp thuận được; 4- Tất cả mọi thứ sách báo đảng, của trung ương cũng như của địa phương, tuyệt đối phải phục tùng đại hội của đảng và phục tùng tổ chức tương đương của đảng ở trung ương hay ở địa phương. Không thể cho phép tồn tại những sách báo nào của đảng không có liên hệ về mặt tổ chức với đảng; 5- Khái niệm tư cách đảng viên phải được quy định thật rõ ràng; 6- Quyền hạn của mọi phái thiểu số trong đảng cũng phải được quy định rõ ràng như thế trong điều lệ đảng. * Mặt tập trung trong nguyên tắc tập trung dân chủ: Mặt tập trung trong nguyên tắc tập trung dân chủ của đảng được thể hiện ở các nội dung: đại hội đại biểu toàn quốc là cơ quan tối cao của đảng; ban chấp hành trung ương thống nhất và hướng dẫn mọi hoạt động thực tiễn của đảng, mọi đảng viên phải chấp hành nghị quyết của đại hội, cá nhân phải phục tùng tổ chức, tổ chức đảng cấp dưới phải phục tùng tổ chức đảng cấp trên, địa phương phải phục tùng trung ương..., chỉ có như vậy ban chấp hành trung ương của đảng mới lãnh đạo được toàn đảng. 66 * Mặt dân chủ trong nguyên tắc tập trung dân chủ: Mặt dân chủ trong nguyên tắc tập trung dân chủ của đảng là nhằm bảo đảm cho mặt tập trung được thực thi nghiêm túc; dân chủ trong đảng càng rộng - tức là đảng viên và tổ chức đảng được tham gia vào việc thảo luận, bàn bạc, góp ý kiến đối với các công việc của đảng, những chỉ thị, nghị quyết của đảng làm cho các công việc của đảng sát hợp và đúng đắn hơn, có hiệu quả cao. Theo V.I. Lênin, đảng cộng sản được tổ chức một cách dân chủ có nghĩa là tất cả mọi công việc của đảng đều được toàn thể các đảng viên, hoàn toàn bình quyền và không có ngoại lệ nào, tiến hành trực tiếp hoặc thông qua các đại biểu; đồng thời tất cả những người có trách nhiệm trong đảng, tất cả các ban lãnh đạo của đảng, tất cả các cơ quan của đảng đều được bầu ra, đều có trách nhiệm phải báo cáo và có thể bị bãi miễn. * Quan hệ giữa tập trung và dân chủ trong nguyên tắc tập trung dân chủ: Tập trung và dân chủ là hai mặt của một nguyên tắc thống nhất, có quan hệ tác động qua lại mật thiết với nhau, vì vậy, khi thực hiện phải dựa vào hoàn cảnh cụ thể trong từng giai đoạn và đặc điểm của địa phương, lĩnh vực hoặc ngành nghề; tuyệt đối hoá mặt này hay mặt kia sẽ dẫn đến sai lầm, thậm chí có hại cho đảng, tuyệt đối hóa tập trung sẽ dẫn đến tập trung quan liêu, tuyệt đối hoá 67 dân chủ sẽ trở thành dân chủ không có tổ chức, không có người lãnh đạo và dẫn tới vô chính phủ, hỗn loạn. Theo V.I. Lênin, cần phát triển dân chủ đến cùng, tìm ra những hình thức của sự phát triển ấy, đem thí nghiệm những hình thức ấy trong thực tiễn, v.v., đó là một trong những nhiệm vụ cấu thành cuộc đấu tranh vì cách mạng xã hội. Tách riêng ra, thì bất cứ chế độ dân chủ nào cũng không thể sinh ra chủ nghĩa xã hội được, nhưng trong đời sống chế độ dân chủ không bao giờ “tách riêng” được mà nó sẽ “đứng trong toàn bộ”, cũng sẽ ảnh hưởng đến kinh tế, sẽ thúc đẩy sự cải tạo kinh tế; sẽ chịu ảnh hưởng của sự phát triển kinh tế, v.v.. Đó là biện chứng của lịch sử sinh động. Giải quyết mối quan hệ giữa tập trung và dân chủ trong thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ là phải sáng tạo, biết vận dụng phù hợp với đặc điểm hoàn cảnh cụ thể. V.I. Lênin yêu cầu phải đấu tranh chống xu hướng rập khuôn, cứng nhắc và ý định gò theo một kiểu thống nhất từ trên ban xuống. Sự rập khuôn, cứng nhắc và ý định gò theo một kiểu thống nhất từ trên ban xuống không dính dáng gì tới chế độ tập trung dân chủ và chủ nghĩa xã hội. 9. Biểu hiện của chế độ tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của đảng là gì? Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của đảng phải dựa trên 68 một điều lệ thống nhất; từ một trung tâm lãnh đạo thống nhất (đại hội đảng và khoảng thời gian giữa các đại hội là ban chấp hành trung ương); có kỷ luật thống nhất; thiểu số phục tùng đa số; việc bầu cử các cơ quan lãnh đạo phải tiến hành từ dưới lên trên; các cơ quan lãnh đạo của đảng phải báo cáo công tác thường kỳ trước các tổ chức của mình. Trong khi nhấn mạnh ý nghĩa của chế độ tập trung trong Đảng, V.I. Lênin hết sức coi trọng vấn đề dân chủ trong công tác tổ chức và hoạt động của đảng, nhất là việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan lãnh đạo cấp cao của đảng. Người chưa bao giờ đối lập giữa tập trung và dân chủ với tư cách là một nguyên tắc, song việc vận dụng nguyên tắc phải căn cứ vào thực tiễn chính trị của Đảng. Sau Cách mạng Tháng Mười thành công, Đảng Cộng sản Nga (b) trở thành đảng cầm quyền. Trong điều kiện lịch sử mới, Đảng vừa phải lãnh đạo xây dựng chính quyền cách mạng non trẻ, xây dựng và kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng, vừa phải lãnh đạo cuộc đấu tranh chống lại sự can thiệp vũ trang trên quy mô lớn của chủ nghĩa đế quốc và bọn phản loạn trong nước. Trong hoàn cảnh khốc liệt đó, nước Nga Xôviết phải thực hiện chính sách cộng sản thời chiến để đưa đất nước vượt qua hoàn cảnh hiểm nghèo lúc bấy giờ, theo V.I. Lênin, Đảng Bônsêvích và chính quyền Xôviết phải thực hiện “chế độ tập trung tuyệt đối”, 69 vô điều kiện. Tuy nhiên, sau khi củng cố được chính quyền vững mạnh, xây dựng đất nước trong hoàn cảnh hòa bình, việc thực hiện “chế độ tập trung tuyệt đối” lại là lực cản đối với việc phát huy quyền dân chủ, sáng tạo của quần chúng trong phát triển lực lượng sản xuất. V.I. Lênin đã đề xuất một loạt quan điểm để xây dựng tổ chức và dân chủ hoá chống chủ nghĩa tập trung, quan liêu. Nguyên tắc tập trung dân chủ vận dụng trong sự lãnh đạo và chỉ đạo thực tiễn của đảng được thể hiện ở chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Tập thể lãnh đạo không thể tách rời cá nhân phụ trách. V.I. Lênin đòi hỏi phải phân biệt thật rõ rằng, lãnh đạo thì nhất thiết phải do tập thể, nhưng tổ chức thực hiện thì phải giao cho một người phụ trách, một cá nhân điều khiển, chỉ huy, ra lệnh. Người cho rằng, việc lãnh đạo thực tiễn cơ quan, xí nghiệp, công tác, nhiệm vụ chỉ nên giao cho một đồng chí, một đồng chí có tiếng là cương nghị, có tinh thần quả quyết, mạnh dạn, có khả năng lãnh đạo công tác thực tiễn và được tín nhiệm nhất1. Trong khi nhấn mạnh nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức, hoạt động căn bản của đảng cộng sản, V.I. Lênin đặc biệt chú trọng đến vấn đề dân chủ hoá trong hoạt động của đảng trên ba điểm: Thứ nhất, đảm bảo quyền dân chủ của __________ 1. Xem V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.39, tr.53. 70 người đảng viên là hạt nhân của việc thực hiện nền chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa; Thứ hai, tập trung hoá trong sinh hoạt đảng có quan hệ mật thiết với chống chủ nghĩa quan liêu; Thứ ba, dân chủ hoá trong sinh hoạt đảng mà điểm trọng yếu là phải kiểm tra, giám sát, kiểm soát cơ quan lãnh đạo và lãnh tụ của đảng. 10. Tại sao nói đảng cộng sản phải gắn bó chặt chẽ với giai cấp công nhân và nhân dân lao động? Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đảng không bao gồm toàn bộ giai cấp. Nhưng đội tiên phong muốn tồn tại, phát triển và có đủ lực lượng, sức mạnh để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình thì đảng phải liên hệ chặt chẽ với toàn thể quần chúng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Sự khác nhau giữa đội tiên phong của giai cấp công nhân và toàn thể quần chúng công nhân chưa thể mất đi khi xã hội còn giai cấp. Nhưng cũng không thể để sự khác nhau đó trở thành sự cách biệt. Đảng không thể lãnh đạo được giai cấp nếu như đảng không có sự liên hệ với quần chúng công nhân ngoài đảng và các tầng lớp lao động khác; đồng thời nếu đảng không được quần chúng tin cậy về mặt chính trị, tinh thần thì cũng sẽ không nhận được sự ủng hộ của họ. Trong mối liên hệ với quần chúng, đảng phải khắc phục khuynh hướng lệch lạc, xa rời quần chúng, 71 đồng thời cũng đề phòng khuynh hướng “theo đuôi” quần chúng, hạ thấp trình độ đảng xuống ngang trình độ quần chúng. V.I. Lênin chỉ rõ: đảng cộng sản sẽ chỉ tự lừa dối mình, nhắm mắt trước những nhiệm vụ bao la của đảng, thu hẹp những nhiệm vụ đó lại, nếu đảng quên mất sự khác nhau giữa đội tiền phong và tất cả số quần chúng hướng theo đội tiền phong đó; nếu chúng ta quên mất rằng đội tiền phong có nghĩa vụ thường xuyên phải nâng các tầng lớp ngày càng đông đảo đó lên trình độ tiên tiến ấy1. Khi trở thành đảng cầm quyền, đảng có điều kiện thuận lợi để tăng cường mối liên hệ giữa đảng với nhân dân; nhưng khi đó đảng viên cũng dễ nảy sinh bệnh quan liêu, tham nhũng dẫn đến thoái hoá, biến chất, xa rời nhân dân. V.I. Lênin coi đây là một trong những nguy cơ tiềm tàng mà đảng cầm quyền cần đề phòng, khắc phục, Người chỉ rõ: “Một trong những nguy hiểm lớn nhất và đáng sợ nhất là tự cắt đứt liên hệ với quần chúng...”2. Để đảng luôn giữ được mối liên hệ mật thiết với nhân dân, theo V.I. Lênin, trước hết đảng phải đổi mới lối làm việc của mình, phải làm cho đảng thật sự là đội tiên phong của giai cấp vô sản cách mạng. __________ 1. Xem V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.289-290. 2. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.44, tr.426. 72 11. Đảng gắn bó mật thiết với giai cấp và quần chúng nhân dân như thế nào? Theo V.I. Lênin, đảng gắn bó mật thiết với giai cấp và nhân dân thể hiện ở chỗ: đảng phải không ngừng nâng cao trình độ mọi mặt của quần chúng nhân dân lao động và dựa vào quần chúng nhân dân để xây dựng đảng. Khi trở thành đảng cầm quyền, đảng cộng sản phải có trách nhiệm lãnh đạo toàn thể giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đây là nhiệm vụ hết sức khó khăn, phức tạp, lâu dài và gian khổ. Muốn thực hiện được nhiệm vụ lớn lao này, đảng phải giác ngộ tính tích cực cách mạng của hàng chục, hàng trăm triệu quần chúng lao động, làm cho họ nhận thức rõ đó là con đường duy nhất đúng đắn đi tới tương lai, hạnh phúc của mình và do chính quần chúng lao động thực hiện. Mặt khác, để tập hợp được lực lượng cách mạng hùng hậu, theo V.I. Lênin, ngoài việc lôi kéo, thu hút, động viên quần chúng đảng, cần phải tiến hành công tác giáo dục, đào tạo nâng cao trình độ cho quần chúng lao động, giúp họ không chỉ có ý thức giác ngộ cao, mà còn có năng lực để thực hiện sự nghiệp vẻ vang của chính mình. Cùng với nâng cao trình độ giác ngộ mục tiêu, lý tưởng và năng lực chuyên môn cho quần chúng nhân dân lao động, V.I. Lênin còn đặc biệt quan tâm 73 chăm lo xây dựng khối liên minh công nông trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Người chỉ ra rằng: “Nếu không liên minh với nông dân thì không thể có được chính quyền của giai cấp vô sản, không thể nghĩ được đến việc duy trì chính quyền đó”1. Củng cố khối liên minh này sẽ làm cho cơ sở giai cấp - xã hội của đảng cộng sản trở nên vững chắc, mối liên hệ giữa đảng với quần chúng nhân dân tạo thành sức mạnh vô địch để chiến thắng mọi kẻ thù và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. 12. Tại sao nói đảng cộng sản phải là một tổ chức đoàn kết, thống nhất? Đoàn kết, thống nhất là nguồn sức mạnh của đảng cộng sản, là điều kiện để đoàn kết giai cấp. V.I. Lênin chỉ ra rằng: “Bất cứ sự bất đồng nào, ngay cả một sự bất đồng không đáng kể, cũng có thể trở thành nguy hiểm về mặt chính trị”2. Trong điều kiện đảng cầm quyền, V.I. Lênin lại càng quan tâm hơn đến củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong đảng, Người khẳng định: “chuyên chính vô sản không thể thực hiện được nếu không có sự đoàn kết nhất trí của những người lao động”3. __________ 1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.44, tr.57. 2. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.42, tr.336. 3. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.40, tr.260. 74 13. Cơ sở khách quan của sự đoàn kết, thống nhất trong đảng cộng sản là gì? Theo V.I. Lênin, khi đã trở thành đảng cầm quyền, thực hiện chuyên chính vô sản, đảng phải khắc phục mọi sự bất đồng mâu thuẫn, nguồn gốc của sự chia rẽ trong nội bộ giai cấp vô sản hoặc giữa đảng với quần chúng vô sản. Đoàn kết, thống nhất trong đảng là cơ sở đoàn kết giai cấp; sự đoàn kết toàn giai cấp không thể có được nếu không có sự đoàn kết trong đảng. Kinh nghiệm của tất cả các cuộc cách mạng chứng tỏ, ở thời kỳ chuyên chính vô sản, đảng nào dung thứ cho phe nhóm, bè phái trong đảng là mở đường cho chủ nghĩa cơ hội tấn công, phá hoại tổ chức đảng. Vấn đề chia rẽ nội bộ đảng, chia rẽ đảng với quần chúng lại càng nguy hiểm hơn vì nó tự phá hoại sức mạnh của đảng. Lực lượng phân tán thì đường lối, nhiệm vụ có đúng đến đâu cũng không thể thực hiện được. Đoàn kết, thống nhất trong đảng tự thân nó không dung nạp các phe nhóm, mà đòi hỏi thiểu số phải phục tùng đa số, toàn đảng phải phục tùng đại hội đảng toàn quốc; tổ chức đảng cấp dưới phải phục tùng tổ chức đảng cấp trên. Mọi tổ chức của đảng, mọi đảng viên không thừa nhận và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ thì không thể thống nhất được. Thực hiện đoàn kết, thống nhất trong đảng phải trên nguyên tắc là: phải dựa trên cơ sở cương lĩnh, điều lệ, đường lối, 75 chính sách của đảng; trên cơ sở lợi ích chung của giai cấp; trên cơ sở nguyên tắc, chế độ tổ chức và sinh hoạt của đảng. 14. Nội dung, vai trò của đoàn kết, thống nhất trong đảng là gì? Về nội dung, đoàn kết, thống nhất trong đảng là sự đoàn kết, thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Quá trình củng cố và phát triển đoàn kết, thống nhất trong đảng là quá trình đổi mới cương lĩnh, đường lối, nghị quyết, chính sách của đảng sao cho phù hợp với nguyện vọng của đảng viên và quần chúng, phù hợp với thực tiễn phát triển không ngừng của phong trào công nhân, nhân dân lao động trong nước và quốc tế. Sự thống nhất không thể thực hiện được bằng mệnh lệnh mà phải trên cơ sở tự do thảo luận và phê bình. Đồng thời phải đấu tranh kiên quyết loại trừ những âm mưu chống đối, kích động nhằm phân hoá, chia rẽ sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ đảng. Bởi “hoạt động bè phái đó nhất định sẽ làm yếu sự đồng tâm hợp lực trong công tác”1. Trong bất kỳ tình huống nào, đảng cộng sản phải luôn đạt tới sự nhất trí cao về đường lối chính trị, vì đó là cơ sở để đảm bảo sự đoàn kết, thống nhất về tư tưởng và hành động. __________ 1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.43, tr.104. 76 Về vai trò, đoàn kết thống nhất là quy luật trưởng thành của đảng. Đoàn kết thống nhất trong đảng là bản chất cách mạng và là nguồn sức mạnh vô địch của đảng cộng sản. Theo V.I. Lênin, khi đã trở thành đảng cầm quyền, thực hiện chuyên chính vô sản thì phải khắc phục mọi sự bất đồng mâu thuẫn, nguồn gốc của sự chia rẽ trong nội bộ giai cấp vô sản hoặc giữa đảng với quần chúng vô sản. Đoàn kết thống nhất trong đảng là cơ sở đoàn kết giai cấp. Sự đoàn kết toàn giai cấp không thể có được nếu không có sự đoàn kết trong đảng. Đoàn kết, thống nhất trong đảng luôn là tấm gương và hạt nhân để đoàn kết giai cấp, đoàn kết toàn dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. 15. Vì sao nói tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của đảng cộng sản? Theo V.I. Lênin, nếu một đảng không dám nói thật căn bệnh của mình, không dám chẩn đoán bệnh một cách thẳng tay và tìm phương thuốc cứu chữa bệnh đó, thì đảng đó khó lòng mà tồn tại được, cũng như khó lòng được quần chúng tôn trọng và tin theo. Người chỉ ra rằng, đảng không được giấu giếm những sự thật đối với quần chúng, không được che giấu những sai lầm và khuyết điểm đã mắc phải, đảng phải mạnh dạn tiến hành công tác tự phê bình của mình và tiếp tục bóc trần 77 một cách không khoan nhượng những thiếu sót của bản thân mình. Đảng cộng sản ra đời, tồn tại và phát triển là để lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động làm cách mạng vô sản. Nhưng, để thực hiện tốt vai trò vẻ vang này, đảng phải được xây dựng ngày càng vững mạnh. Thực tiễn cách mạng không ngừng vận động, biến đổi, nhiệm vụ cách mạng ngày càng nặng nề, phức tạp, hoạt động lãnh đạo cách mạng của đảng tuy đã được chủ nghĩa Mác soi sáng, dẫn dắt, nhưng không bao giờ có đủ những chỉ dẫn cặn kẽ trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng, cũng như trong xây dựng nội bộ đảng, vì vậy, đảng khó tránh khỏi sai lầm, khuyết điểm. Để khắc phục điều này, đảng phải vừa làm, vừa tổng kết, rút kinh nghiệm, phải coi trọng phê bình và tự phê bình, trước hết là tự phê bình. Đây là quy luật bất di, bất dịch về sự phát triển của đảng cộng sản. V.I. Lênin chỉ rõ: “Tất cả những đảng cách mạng đã bị tiêu vong cho tới nay, đều bị tiêu vong vì tự cao tự đại, vì không biết nhìn rõ cái gì tạo nên sức mạnh của mình, và vì sợ sệt không dám nói lên những nhược điểm của mình”1. Tự phê bình và phê bình phải cụ thể, thiết thực và kịp thời. Tự phê bình và phê bình có hiệu quả khi có nội dung, địa chỉ, phải chỉ được đúng, sai, __________ 1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.45, tr.141. 78