🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Thường Thức Về Triết Học Mác - Lênin Quyển 2: Phép Biện Chứng Duy Vật
Ebooks
Nhóm Zalo
HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN
SÁCH XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN
THƯỜNG THỨC VỀ TRIẾT HỌC
MÁC - LÊNIN
QUYỂN 2
Phép biện chứng duy vật
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
THƯỜNG THỨC VỀ TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
QUYỂN 2
Phép biện chứng duy vật
HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN
Chủ tịch Hội đồng
Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương TRẦN THANH LÂM
Phó Chủ tịch Hội đồng
Giám đốc - Tổng Biên tập
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật PHẠM MINH TUẤN
Thành viên
NGUYỄN HOjI ANH
PHẠM THỊ THINH
NGUYỄN ĐỨC TjI
TỐNG VĂN THANH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
THƯỜNG THỨC VỀ TRIẾT HỌC
MÁC - LÊNIN
QUYỂN 2
Phép biện chứng duy vật
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
BAN CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN
BỘ SÁCH LÝ LUẬN PHỔ THÔNG TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN RỘNG RÃI CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH, ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC
TRƯỞNG BAN
GS.TS. Nguyễn Xuân Thắng
Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương
CÁC THÀNH VIÊN
PGS.TS. Dương Trung Ý Phó Trưởng ban PGS.TS. Nguyễn Duy Bắc Thành viên
PGS.TS. Hoàng Phúc Lâm Thành viên
PGS.TS. Lê Văn Lợi Thành viên
PGS.TS. Đinh Ngọc Giang Thành viên
PGS.TS. Hoàng Anh Thành viên
BIÊN SOẠN
PGS.TS. Lê Văn Lợi (Chủ biên)
PGS.TS. Đặng Quang Định
PGS.TS. Vũ Hồng Sơn
TS. Trần Sỹ Dương
TS. Phan Mạnh Toàn
4
Đ
LỜI GIỚI THIỆU
ại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (6/1991) khẳng định “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Từ đó đến nay, Đảng luôn luôn nhấn mạnh “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định “kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Cùng với khẳng định vai trò, giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với tư cách là học thuyết cách mạng và khoa học, là vũ khí tinh thần của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc, Đảng ta thường xuyên quan tâm, coi trọng tuyên truyền, giáo dục, phổ biến chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 09/10/2014 của Bộ Chính trị về “Công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030” đã xác định một trong những hướng
5
nghiên cứu chủ yếu là “Tiếp tục khẳng định và cụ thể hóa những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các giá trị bền vững phù hợp với thực tiễn Việt Nam; chỉ rõ vấn đề cần bổ sung, phát triển. Tiếp tục nghiên cứu có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, làm rõ sự bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin của Hồ Chí Minh”.
Thực hiện Nghị quyết của Đảng, trong thời gian qua công tác lý luận đã đạt được những kết quả quan trọng. Tư duy lý luận tiếp tục có bước phát triển. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tuyên truyền, phổ biến chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được đổi mới cả về nội dung và hình thức, đã góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới đất nước.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc giáo dục, tuyên truyền, phổ biến chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vẫn còn những hạn chế, bất cập nhất định. Nội dung, phương pháp tuyên truyền còn đơn giản; tài liệu tuyên truyền chưa đa dạng; thiếu những bộ tài liệu mang tính cẩm nang, thường thức chính trị, ngắn gọn, súc tích, dễ đọc, dễ
hiểu, dễ nhớ, phù hợp với trình độ và đáp ứng nhu cầu tìm hiểu, học tập của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Hiệu quả tuyên truyền, phổ biến chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chưa cao.
6
Một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chưa thật sâu sắc, toàn diện, hệ thống.
Chính vì vậy, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Quán triệt và thực hiện các nghị quyết của Đảng, với vai trò là trung tâm quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trung, cao cấp của hệ thống chính trị, trung tâm quốc gia nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, từ năm 2020, dưới sự chỉ đạo của GS.TS. Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, nhóm tác giả, các nhà khoa học ở các viện chuyên ngành thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã biên soạn bộ sách lý luận phổ thông về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới đất nước. Bộ sách gồm nhiều quyển, tập trung nghiên cứu 10 nhóm vấn đề:
1. Thường thức về triết học Mác - Lênin.
2. Thường thức về kinh tế chính trị Mác - Lênin. 3. Thường thức về chủ nghĩa xã hội khoa học. 4. Thường thức về tư tưởng Hồ Chí Minh. 5. Thường thức về lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 6. Thường thức về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam.
7
7. Thường thức về hệ thống chính trị Việt Nam. 8. Thường thức về nhà nước và pháp luật. 9. Thường thức về văn hóa.
10. Thường thức về dân tộc, tôn giáo.
Bộ sách được biên soạn công phu, khoa học, nội dung súc tích, bảo đảm tính cơ bản, hệ thống, cập nhật về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới đất nước nhằm đáp ứng yêu cầu công tác giáo dục, tuyên truyền, phổ biến lý luận rộng rãi cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trong bối cảnh mới.
Mặc dù đã rất cố gắng trong công tác biên soạn, biên tập, nhưng đây là những cuốn sách thường thức, phổ thông đòi hỏi phải có cách thức tiếp cận và thể hiện phù hợp, nên chắc chắn khó tránh khỏi hạn chế, thiếu sót. Ban Biên soạn và Nhà xuất bản mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để bộ sách được hoàn thiện hơn về nội dung trong những lần xuất bản sau.
Xin trân trọng giới thiệu bộ sách quý với bạn đọc.
Tháng 9 năm 2022
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
8
T
LỜI NÓI ĐẦU
riết học Mác - Lênin do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng tạo ra và được V.I. Lênin bổ sung, phát triển
trong điều kiện mới, trên cơ sở kế thừa những thành tựu quan trọng nhất của tư duy triết học trong lịch sử nhân loại.
Triết học Mác - Lênin là một hệ thống quan điểm khoa học về thế giới xung quanh, về những quy luật vận động, phát triển của thế giới, về xã hội và về bản thân con người trong thế giới ấy. Triết học Mác - Lênin là sự thống nhất chặt chẽ giữa chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng; giữa lý luận với thực tiễn; giữa tính khoa học với tính cách mạng. Triết học Mác - Lênin đã góp phần xây dựng thế giới quan và phương pháp luận trong nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người, đem lại những biến đổi vĩ đại trong sự phát triển của lịch sử nhân loại thời hiện đại. Việc nghiên cứu, học tập và vận dụng triết học Mác - Lênin là hết sức quan trọng và cần thiết. Tuy nhiên, là môn khoa học có tính khái quát hóa, trừu tượng hóa cao, nên việc nhận thức triết học không hề đơn giản. Để giúp đông đảo bạn đọc học tập, nghiên cứu triết học
9
Mác - Lênin có hiệu quả, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức biên soạn bộ sách Thường thức về triết học Mác - Lênin gồm nhiều quyển.
Xin trân trọng giới thiệu Quyển 2 - Phép biện chứng duy vật cùng bạn đọc.
TẬP THỂ TÁC GIẢ
10
Phần I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ PHÉP BIỆN CHỨNG
1. Biện chứng và phương pháp biện chứng
Biện chứng là phạm trù chỉ sự tác động, liên hệ, phụ thuộc, chuyển hóa giữa các mặt, các yếu tố của một sự vật, một hiện tượng hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
Quan điểm biện chứng nhìn thế giới như là một chỉnh thể thống nhất của các sự vật, hiện tượng. Các sự vật, hiện tượng cấu thành thế giới đó vừa tồn tại tách biệt, vừa có sự liên hệ qua lại, thâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau.
Khoa học đã chứng minh rằng, quan điểm biện chứng là quan điểm đúng đắn, vì các sự vật, hiện tượng trong thế giới luôn có sự tác động, liên hệ, phụ thuộc lẫn nhau, không có sự tồn tại độc lập, tách rời nhau.
Ví dụ: Trong xã hội mỗi cá nhân đều có liên hệ với cá nhân khác, không có cá nhân nào có thể tồn tại, phát triển nếu không có mối liên hệ với
11
các cá nhân khác và xã hội. Từ nhu cầu ăn, mặc, ở, đi lại cũng như quá trình hình thành những phẩm chất, nhân cách của mỗi con người. Phương pháp biện chứng
Phương pháp biện chứng là phương pháp xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ, ảnh hưởng, ràng buộc lẫn nhau.
Ví dụ: Phương pháp biện chứng xem xét phẩm chất, nhân cách của một con người được hình thành thông qua môi trường gia đình, nhà trường và xã hội, thông qua tổng hòa các quan hệ xã hội.
2. Siêu hình và phương pháp siêu hình
Siêu hình là cách nhìn nhận các sự vật, hiện tượng tồn tại độc lập, tách rời nhau, cái này bên cạnh cái kia, giữa chúng không có liên hệ gì với nhau và nếu có, thì đó cũng chỉ là liên hệ bên ngoài, ngẫu nhiên, không mang tính tất yếu.
Ví dụ: Những người có lối sống ích kỷ, coi nhẹ tinh thần tập thể, chỉ quan tâm vun vén đến lợi ích cá nhân là những người có quan điểm siêu hình trong cuộc sống.
Tư duy siêu hình luôn bị bó hẹp trong những giới hạn, những khuôn khổ nhất định. Nó đã không đủ sức nhìn nhận được các mối liên hệ đa dạng và phong phú trong thế giới hiện thực, không đủ sức để hình dung được tính vô tận của
12
thế giới xét về cả không gian và thời gian. Vì vậy, tư duy siêu hình thường giới hạn ở một thời điểm, ở cái khởi đầu và kết thúc, không nhìn thấy quá trình thay đổi của sự vật, hiện tượng.
Phương pháp siêu hình
Phương pháp siêu hình là phương pháp tách biệt đối tượng, cô lập, tĩnh tại đối tượng nhằm nghiên cứu những mặt cụ thể, những thuộc tính, những khía cạnh của sự vật, hiện tượng.
Phương pháp siêu hình chỉ nhìn thấy những sự vật, hiện tượng riêng biệt mà không nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những sự vật, hiện tượng ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những sự vật, hiện tượng mà không nhìn thấy sự phát sinh, phát triển của sự vật, hiện tượng ấy, “chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng”.
Ví dụ: Trong quá trình xây dựng nông thôn mới, nếu mỗi địa phương chỉ quan tâm đến lợi ích địa phương mình, không gắn với phong trào chung, tiến bộ chung của đất nước thì địa phương đó cũng không phát triển mạnh mẽ, toàn diện được.
3. Sự đối lập giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình
Phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình là hai phương pháp đối lập nhau khi xem xét về sự vật, hiện tượng là bởi vì:
13
Thứ nhất, phương pháp biện chứng nghiên cứu các sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ tác động qua lại giữa chúng. Phương pháp siêu hình nghiên cứu sự vật trong trạng thái tĩnh tại, bất biến, tách rời, cô lập, không thấy được mối liên hệ, tác động qua lại giữa các sự vật, hiện tượng đó. Nhưng trong thực tế, không có sự vật nào tồn tại độc lập, tách biệt tuyệt đối với sự vật khác. Mọi sự vật đều có liên hệ, tác động qua lại với nhau dù chúng ta không thể nhìn thấy bằng mắt thường được.
Thứ hai, thừa nhận sự vật, hiện tượng luôn vận động, biến đổi, phương pháp biện chứng đồng thời thừa nhận xu hướng của sự vận động đó là phát triển. Sự phát triển bao gồm cả sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng. Trong khi đó, phương pháp siêu hình không thừa nhận sự phát triển của sự vật, hiện tượng hoặc nếu thừa nhận thì cũng chỉ coi đó là sự thay đổi về lượng mà không có sự thay đổi về chất của các sự vật, hiện tượng.
Thứ ba, phương pháp biện chứng tìm nguyên nhân của mọi biến đổi từ chính trong bản thân sự vật, hiện tượng. Phương pháp siêu hình cho rằng nguyên nhân của sự biến đổi (nếu có) đó là do các yếu tố bên ngoài quy định.
Thứ tư, phương pháp biện chứng thể hiện tư duy mềm dẻo, linh hoạt. Nó thừa nhận một chỉnh
14
thể trong tính đa dạng, bao gồm cả cái khẳng định và cái phủ định, vừa loại trừ nhau lại vừa gắn bó với nhau. Phương pháp biện chứng phản ánh sự vật, hiện tượng đúng như nó tồn tại. Nhờ
vậy, phương pháp tư duy biện chứng trở thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới.
Mặc dù vậy, phương pháp siêu hình vẫn được sử dụng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người ở những lĩnh vực, phạm vi nhất định. Chẳng hạn, khi nghiên cứu về một sự
vật, hiện tượng chúng ta phải khu biệt sự vật, hiện tượng ở một thời gian, phạm vi nhất định mới có thể nghiên cứu được những thuộc tính của chúng và so sánh sự biến đổi của chúng ở những thời điểm khác nhau.
Ví dụ: C. Mác và Ph. Ăngghen đã phân kỳ lịch sử xã hội loài người thành các giai đoạn khác nhau thông qua học thuyết hình thái kinh tế - xã hội. Đó là các hình thái kinh tế - xã hội: cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Từ đó chỉ ra những yếu tố chủ đạo cho sự thay đổi, sự kế tiếp của mỗi hình thái, đó là sự thay đổi của các phương thức sản xuất, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng, ở mỗi thời kỳ lịch sử ấy. Đây là sự gián đoạn trong tính liên tục, chứ bản thân lịch sử không phải là sự gián đoạn.
15
4. Biện chứng khách quan, biện chứng chủ quan
Biện chứng khách quan là biện chứng của bản thân các sự vật, hiện tượng, quá trình tồn tại độc lập với ý thức con người.
Chẳng hạn, trái đất xoay quanh mặt trời và tự xoay xung quanh mình, dù con người có biết được hay không.
Biện chứng chủ quan là sự phản ánh biện chứng khách quan vào trong bộ óc con người, là tư duy biện chứng.
“Biện chứng gọi là khách quan thì chi phối trong toàn bộ giới tự nhiên, còn biện chứng gọi là chủ quan, tức là tư duy biện chứng, thì chỉ là phản ánh sự chi phối, trong toàn bộ giới tự nhiên, của sự vận động thông qua những mặt đối lập, tức là những mặt, thông qua sự đấu tranh thường xuyên của chúng và sự chuyển hóa cuối cùng của chúng từ mặt đối lập này thành mặt đối lập kia, với những hình thức cao hơn, đã quy định sự sống của giới tự nhiên”1.
Chẳng hạn, những nguyên lý, quy luật và những cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin
__________
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20, tr.694.
16
sáng lập được khái quát từ quá trình biện chứng của tự nhiên, xã hội và tư duy. Không có biện chứng khách quan thì không có biện chứng chủ quan đúng đắn.
5. Phép biện chứng và các hình thức của phép biện chứng trong lịch sử
Phép biện chứng là hệ thống quan điểm về sự liên hệ, tác động, phụ thuộc, chuyển hóa giữa các mặt, các yếu tố của một sự vật, hiện tượng hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
Cho đến nay, phép biện chứng có ba hình thức cơ bản:
Một là, phép biện chứng cổ đại (thế kỷ VIII-VI TCN), điển hình trong triết học Hy Lạp, đại biểu tiêu biểu là Hêraclit (khoảng 530-470 TCN). Do khoa học chưa phát triển nên phép biện chứng thời kỳ này còn mộc mạc, chất phác, phản ánh những sự thay đổi quan sát được bằng cảm tính.
Hai là, phép biện chứng thế kỷ XVIII-XIX, điển hình trong triết học cổ điển Đức, đại biểu tiêu biểu là G.V.F. Hêghen. Đây là thời kỳ khoa học tự nhiên lý luận đã hình thành và phát triển sâu sắc. Tuy nhiên, do đứng trên thế giới quan duy tâm nên G.V.F. Hêghen cho rằng, sự vận động của các sự vật, hiện tượng do tinh thần thế giới quy định.
17
Ba là, phép biện chứng thế kỷ XIX-XX do C. Mác, Ph. Ăngghen sáng lập và được V.I. Lênin bổ sung, phát triển. Đó là phép biện chứng duy vật. Đây là phép biện chứng khoa học, phản ánh đúng bản chất của sự vận động, phát triển của tự
nhiên, xã hội và tư duy.
6. Biện chứng duy tâm và đại biểu tiêu biểu
Quan điểm biện chứng thừa nhận sự vật có mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, song mọi sự liên hệ, tác động đó do yếu tố tinh thần, lực lượng tinh thần quy định, gọi là biện chứng duy tâm.
G.V.F. Hêghen (1770-1831) là đại biểu tiêu biểu của quan điểm biện chứng duy tâm. Ông lấy tinh thần thế giới làm cơ sở cho mọi quá trình, mọi hiện tượng của cả tự nhiên và xã hội. Theo ông, tinh thần thế giới là có trước và vĩnh viễn; tự nhiên là có sau và do tinh thần thế giới mà ra. Nói cách khác, tự nhiên chỉ là sự “tồn tại khác”; “sự tha hoá” của tinh thần thế giới. Xã hội lịch sử loài người cũng chỉ là kết quả của sự vận động, phát triển, “tha hoá” của tinh thần thế giới mà thôi. Tinh thần thế giới ở G.V.F. Hêghen chỉ là khái niệm trừu tượng được đem tuyệt đối hoá, được mô tả dưới hình thức một thực thể độc lập, riêng biệt. Sau khi đã trải qua những giai đoạn “tồn tại khác” ấy của nó, tinh thần thế giới
18
“mới trở lại bản thân mình” và trở thành ý niệm tuyệt đối.
Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, Ph. Ăngghen đã chỉ rõ, G.V.F. Hêghen là người đầu tiên trong lịch sử triết học trình bày toàn bộ giới tự nhiên lịch sử và tinh thần dưới dạng một quá trình, tức là trong sự vận động và phát triển. Tuy nhiên, sự
vận động và phát triển trong hệ thống triết học của G.V.F. Hêghen là sự vận động, phát triển trong một vòng tròn khép kín. Bởi bản thân triết học của G.V.F. Hêghen là hệ thống khép kín. G.V.F. Hêghen là người đã dự đoán cho rằng mâu thuẫn là động lực của phát triển. Tư tưởng này bị
che đậy dưới cái vỏ thần bí, với những suy luận về sự tự vận động của các khái niệm.
7. Biện chứng duy vật và đại biểu tiêu biểu
Quan điểm biện chứng thừa nhận sự vật, hiện tượng có mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, sự liên hệ, tác động mang tính khách quan, nằm trong chính bản thân sự vật, hiện tượng, gọi là biện chứng duy vật.
Đại biểu tiêu biểu của quan điểm biện chứng duy vật là C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin. Trên cơ sở của sự phát triển của nhận thức khoa học thông qua những phát minh quan trọng (như
định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng,
19
thuyết tế bào, thuyết tiến hóa) và giá trị tư tưởng biện chứng của các nhà triết học trước đó, các ông đã xây dựng nên phép biện chứng duy vật. Phép biện chứng duy vật với tính cách là học thuyết về
mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất.
8. Phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật là khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Trong các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy đều có những quy luật vận động riêng. Chẳng hạn, quy luật của thế giới động vật (sinh, lão, bệnh, tử, đồng hóa, dị hóa), các quy luật của tư
duy. Nhưng cả ba lĩnh vực này đều có quy luật chung nhất, như: quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại, quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, quy luật phủ định của phủ định.
Ph. Ăngghen viết: “Phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến. Những quy luật chủ yếu: sự chuyển hóa lượng thành chất, - sự xâm nhập lẫn nhau của các mâu thuẫn đối cực và sự chuyển hóa từ mâu thuẫn này sang mẫu thuẫn khác khi mâu thuẫn đó lên tới cực độ, -
20
sự phát triển bằng mâu thuẫn hoặc phủ định của phủ định”1.
Phép biện chứng trình bày một cách có hệ thống, chặt chẽ tính chất biện chứng của thế giới thông qua những nguyên lý, những quy luật và những phạm trù. Vì vậy, phép biện chứng duy vật vừa là lý luận duy vật biện chứng, vừa là lý luận nhận thức, và là lôgic học của chủ nghĩa Mác. Phép biện chứng duy vật là lý thuyết triết học và đồng thời cũng là phương pháp phổ biến của tư duy, của sự nhận thức khoa học, “nó cung cấp cho loài người và nhất là cho giai cấp công nhân những công cụ nhận thức vĩ đại”2, đồng thời là phương pháp để cải tạo xã hội.
Phép biện chứng duy vật trở thành phương pháp luận khoa học vì nó là một hệ thống lý luận phản ánh những mối liên hệ, những quá trình biến đổi của bản thân thế giới hiện thực, căn cứ
vào những kết quả của nhận thức khoa học thông qua thực tiễn hoạt động của con người. Vì vậy, phép biện chứng duy vật cho thấy một bức tranh tổng quát về các mối liên hệ của thế giới khách quan với các nguyên lý, quy luật và phạm trù.
Phép biện chứng duy vật bao gồm hai nguyên lý, ba quy luật và sáu cặp phạm trù cơ bản. __________
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.20, tr.455. 2. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.23, tr.54.
21
Thế giới thống nhất ở tính vật chất nên giữa chúng không bao giờ có sự tồn tại biệt lập tuyệt đối. Bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào, dù vô cùng nhỏ hoặc vô cùng lớn cũng đều chỉ có thể tồn tại trong mối liên hệ và thông qua những mối liên hệ. Đó là những sự quy định ràng buộc lẫn nhau, sự tác động qua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau. Đó là những “mối liên hệ tất yếu, khách quan của tất cả các mặt, các lực lượng, các xu hướng” của mỗi lĩnh vực, của “mỗi bộ phận của sự tiến triển vô hạn” và của toàn thế giới khách quan. Đó là những mối liên hệ vừa có tính toàn diện lại vừa có tính bao trùm. Vì vậy, phép biện chứng duy vật được xem là khoa học về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển.
Phép biện chứng duy vật còn đi sâu nghiên cứu những mối liên hệ bản chất giữa các sự vật, hiện tượng dưới hình thức các quy luật cơ bản. Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật được hiểu là các quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Những quy luật ấy bao gồm: Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại; Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập; Quy luật phủ định của phủ định.
Bên cạnh những quy luật cơ bản, phép biện chứng duy vật trình bày các cặp phạm trù thể hiện mối liên hệ, thể hiện thuộc tính bản chất của các sự vật, hiện tượng.
22
Phần II
NỘI DUNG CƠ BẢN
CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Cơ sở và tính chất của mối liên hệ
Liên hệ là phạm trù dùng để chỉ sự nương tựa vào nhau, thâm nhập, chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố của một sự vật, hiện tượng hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau. Ví dụ: các bộ phận trong cơ thể con người luôn tác động qua lại lẫn nhau, mặc dù chúng có cấu tạo và chức năng khác nhau.
Ví dụ: Con người và môi trường có mối liên hệ mật thiết với nhau.
Cơ sở của mối liên hệ là tính thống nhất vật chất của thế giới. Vì thế giới là vật chất nên các sự vật, hiện tượng đều tồn tại, biến đổi theo các quy luật của vật chất. Cỏ cây, hoa lá, thế giới động vật và con người đều là những dạng vật chất, có liên hệ với nhau thông qua việc trao đổi chất, chuyển hóa. Bản thân cuộc sống của con người cũng gắn bó mật thiết với tự nhiên.
23
Liên hệ có các tính chất sau:
Tính khách quan vì liên hệ không phụ thuộc vào ý muốn của con người, chỉ phụ thuộc vào bản thân sự vật, hiện tượng. Chẳng hạn, trái đất luôn xoay quanh mặt trời dù chúng ta biết hay không biết điều đó.
Tính phổ biến vì mối liên hệ tồn tại cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy; có ở mọi lúc, mọi nơi. Có thể các hình thức liên hệ thay đổi, nhưng liên hệ không mất đi. Ví dụ: Khi chúng ta ngủ, cơ thể vẫn trao đổi chất với thế giới bên ngoài.
Tính phong phú, đa dạng vì sự vật, hiện tượng có rất nhiều mối liên hệ. Tùy vào góc độ xem xét có thể chia thành những mối liên hệ khác nhau: có mối liên hệ bên trong - bên ngoài, mối liên hệ bản chất - không bản chất, mối liên hệ
tất yếu - ngẫu nhiên, mối liên hệ chủ yếu - thứ yếu, mối liên hệ trực tiếp - gián tiếp, mối liên hệ đồng đại - lịch đại...
Dĩ nhiên, sự phân loại các mối liên hệ chỉ có ý nghĩa tương đối, do góc độ của sự xem xét, đánh giá và các loại liên hệ khác nhau có thể chuyển hóa lẫn nhau. Chẳng hạn, cái là ngẫu nhiên trong quan hệ này, nhưng lại là tất nhiên trong mối quan hệ khác. Ví dụ: trao đổi vật phẩm tiêu dùng trong thời kỳ nguyên thủy mang tính ngẫu nhiên, nhưng trong thời kỳ kinh tế hàng hóa thì nó mang tính tất nhiên.
24
Mặt khác, trong quá trình vận động, phát triển mối liên hệ ngẫu nhiên có thể chuyển hóa thành tất nhiên và ngược lại.
Các loại liên hệ khác nhau có vai trò khác nhau đối với sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Ví dụ: Giữa mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ bên trong bao giờ cũng giữ vai trò quyết định, còn mối liên hệ
bên ngoài không có ý nghĩa quyết định, thậm chí nó phải thông qua mối liên hệ bên trong mà phát huy tác dụng đối với sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Như vậy, sự liên hệ tác động qua lại của sự vật, hiện tượng trên thế giới rất phong phú, đa dạng và phức tạp. Đặc biệt trong lĩnh vực đời sống xã hội, tính phức tạp của sự liên hệ được nhân lên do sự đan xen, chồng chéo, chằng chịt của vô vàn các hoạt động có mục đích, có ý thức của con người. Chính vì vậy, nhận thức và phân loại đúng đắn các mối liên hệ trong xã hội khó khăn hơn nhiều so với trong giới tự nhiên.
2. Ý nghĩa của việc nhận thức được mối liên hệ phổ biến của sự vật, hiện tượng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn
Nhận thức được mối liên hệ phổ biến của sự vật, hiện tượng sẽ rút ra được quan điểm toàn
25
diện và quan điểm lịch sử - cụ thể trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Quan điểm toàn diện chỉ ra rằng, muốn nhận thức được bản chất của sự vật, hiện tượng chúng ta phải xem xét sự tồn tại của nó trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố, thuộc tính khác nhau trong tính chỉnh thể của sự vật, hiện tượng ấy và trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với sự vật, hiện tượng khác; tránh xem xét phiến diện, một chiều.
Ví dụ: Để đánh giá đúng được bản chất của một con người cần phải xem xét tất cả các mối quan hệ trong đời sống của họ, không thể chỉ nhìn một khía cạnh ở một thời điểm nhất định.
Quan điểm này đòi hỏi cần xem xét, đánh giá từng mặt, từng mối liên hệ, và phải nắm được đâu là mối liên hệ chủ yếu, bản chất, quy định sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng. Ví dụ: trong vô vàn các mối liên hệ của con người, cần nắm lấy những mối liên hệ lặp đi, lặp lại, ổn định, thể hiện bản chất, như: gia đình, bạn bè, đồng chí, đồng nghiệp…
Quan điểm này chống quan điểm phiến diện, chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện. Phiến diện là quan điểm chỉ thấy từng mặt, từng khía cạnh của sự vật, hiện tượng. Ví dụ: nếu chỉ đánh giá con người ở một mặt, một khía cạnh sẽ dẫn đến phiến diện, không đầy đủ.
26
Chiết trung: quan điểm kết hợp vô nguyên tắc những cái trái ngược với nhau vào với nhau. Những người có quan điểm chiết trung thường thể hiện ra là những người thiếu chính kiến, thiếu bản lĩnh, lập trường, không có thái độ rõ ràng trong lời nói và việc làm. Mỗi quan điểm của họ thường làm hài lòng tất cả mọi người. Những người có quan điểm chiết trung thường dẫn đến chủ nghĩa cơ hội, xét lại.
Nguỵ biện: quan điểm đánh tráo một cách có chủ đích vai trò của các mối liên hệ, coi cái cơ bản thành cái không cơ bản, không bản chất thành bản chất, hoặc ngược lại, dẫn đến sự nhận thức sai lệch, xuyên tạc bản chất của sự vật, hiện tượng. Ví dụ: những người nâng quan điểm khi đánh giá sự vật, hiện tượng, “bé xé ra to”.
Người lãnh đạo, quản lý mắc bệnh này sẽ biểu hiện ra là người độc đoán, chuyên quyền hoặc những người yếu năng lực lãnh đạo phải nịnh nọt, bợ đỡ. Khi thấy cái sai của người không cùng phe cánh thì lợi dụng trù dập, nói xấu, kỷ luật. Đối với cái sai của những người cùng phe cánh thì bỏ qua hoặc chỉ rút kinh nghiệm. Trong đánh giá cán bộ, người cán bộ lãnh đạo, quản lý ngụy biện, không công tâm, khách quan, dẫn đến đánh giá sai năng lực, phẩm chất của người cán bộ.
Chiết trung và ngụy biện có vẻ như toàn diện, nhưng thực chất là đối lập với quan điểm
27
toàn diện. Chiết trung và ngụy biện đều là những biểu hiện khác nhau của phương pháp luận sai lầm trong việc xem xét các sự vật, hiện tượng. Nói về sự khác nhau này, V.I. Lênin viết: “Tính linh hoạt đó áp dụng một cách chủ quan = chủ nghĩa chiết trung và ngụy biện. Tính linh hoạt áp dụng một cách khách quan, nghĩa là phản ánh tính toàn diện của quá trình vật chất và sự thống nhất của quá trình đó, thì đó là phép biện chứng, là sự phản ánh chính xác sự phát triển vĩnh viễn của thế giới”1.
Quan điểm này cũng chỉ ra rằng, nhận thức của con người về sự vật, hiện tượng cũng chỉ mang tính tương đối, không đầy đủ, trọn vẹn. Bởi lẽ, trong quá trình vận động, phát triển, sự vật, hiện tượng không phải lúc nào cũng bộc lộ hết các thuộc tính của nó ra bên ngoài.
Mặt khác, bản thân chủ thể nhận thức lại luôn bị chế ước bởi những điều kiện xã hội, lịch sử gắn với nhu cầu thực tiễn và mục đích của con người. Nếu nhận thức rõ điều này chúng ta sẽ tránh tuyệt đối hoá tri thức về sự vật, hiện tượng và tránh coi những tri thức đã có là những chân lý bất biến, tuyệt đối, cuối cùng về sự vật, hiện tượng mà không bổ sung phát triển nữa.
__________
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.29, tr.118.
28
Quan điểm lịch sử - cụ thể đòi hỏi để nhận thức được đầy đủ về sự vật, hiện tượng, chúng ta phải xem xét sự vật, hiện tượng trong quá trình phát sinh, phát triển, chuyển hoá trong các hình thức biểu hiện, với những bước quanh co, với những ngẫu nhiên gây tác động lên quá trình tồn tại của sự vật, hiện tượng trong không gian và thời gian cụ thể; gắn với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mà trong đó sự vật, hiện tượng tồn tại. Ví dụ: mỗi người sống trong một gia đình, một quốc gia, dân tộc với hoàn cảnh cụ thể, nên khi đánh giá con người đó cần tính tới tất cả các yếu tố lịch sử - cụ thể để tránh giáo điều, máy móc.
Nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong sự vận động và phát triển trong từng giai đoạn cụ thể của nó; biết phân tích tình hình cụ thể trong hoạt động nhận thức là yếu tố quan trọng nhất trong quan điểm lịch sử - cụ thể.
Đối với việc nghiên cứu quá trình nhận thức, quan điểm lịch sử - cụ thể cũng đòi hỏi phải tính đến sự phụ thuộc của quá trình đó vào trình độ phát triển xã hội, trình độ phát triển của sản xuất và thành tựu của các khoa học trước đó. Tóm lại, giá trị của quan điểm lịch sử - cụ thể là ở chỗ, nhờ phản ánh được sự vận động lịch sử phong phú và đa dạng của các hình thức biểu hiện cụ thể của sự vật, hiện tượng mà nhận thức được bản chất của nó.
29
3. Quan điểm phát triển
Dưới góc độ thế giới quan, quan điểm duy vật cho rằng, sự phát triển có nguồn gốc từ bản thân thế giới vật chất, đó là sự vận động của bản thân thế giới vật chất. Ngược lại, quan điểm duy tâm cho rằng, sự phát triển do ý thức, tinh thần (ý niệm tuyệt đối, tinh thần thế giới, hoặc chúa trời, thượng đế...) quyết định.
Dưới góc độ phương pháp luận, có hai quan điểm xem xét sự phát triển là quan điểm biện chứng hay quan điểm siêu hình.
Quan điểm siêu hình phủ nhận sự phát triển, họ xem xét các sự vật, hiện tượng trên thế giới trong sự đứng im, tĩnh tại, không thay đổi. Hoặc, nếu có cũng chỉ diễn ra theo vòng tròn khép kín; phát triển chỉ là sự tăng đơn giản về lượng, là sự
tuần hoàn lặp đi lặp lại chứ không có sự biến đổi về chất. Quan điểm siêu hình không phản ánh đúng sự vận động, phát triển của thế giới khách quan. Ví dụ: Quan điểm này cho rằng, một người sinh ra chỉ thay đổi về chiều cao, cân nặng, chứ
không có sự thay đổi về chất.
Quan điểm biện chứng khẳng định phát triển là quá trình vận động từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Đó không chỉ là sự thay đổi về lượng mà bao hàm cả sự thay đổi về chất.
30
Phát triển là một hình thức đặc biệt của sự vận động, đó là vận động theo hướng đi lên, ngày càng hoàn thiện hơn của các sự vật, hiện tượng. Đây là quan điểm đúng đắn, phản ánh đúng thế giới khách quan. Ví dụ: Con người sinh ra có sự thay đổi về chất qua các giai đoạn khác nhau, từ ấu thơ, trưởng thành đến khi già đi. Đó là sự thay đổi các chức năng và nội tiết tố trong mỗi con người.
4. Phân biệt vận động với phát triển và thoái bộ
Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan không đứng im mà luôn vận động không ngừng. Sự vận động của các sự vật, hiện tượng là vô cùng, vô tận, có nhiều khuynh hướng khác nhau tùy thuộc điều kiện, hoàn cảnh cụ thể và sự
liên hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Sự vận động từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện của các sự vật, hiện tượng được coi là sự phát triển.
Sự vận động dẫn đến sự thoái hóa, sự tan rã, theo hướng thụt lùi, đi xuống, gọi là sự thoái bộ. Về hình thức, khuynh hướng “phát triển” và khuynh hướng “thoái bộ” dường như tách rời nhau, nhưng thực ra khuynh hướng “thoái bộ” lại là điều kiện cho sự “phát triển” và cũng nằm trong quá trình phát triển.
31
Sự phát triển mang tính quanh co, phức tạp. Phát triển là khuynh hướng chung, chủ yếu của mọi sự vật, hiện tượng.
5. Tính khách quan của sự phát triển
Theo quan điểm biện chứng duy vật, nguyên nhân của sự phát triển nằm ngay trong sự vật, hiện tượng. Đó là việc giải quyết mâu thuẫn liên tục nảy sinh trong quá trình tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng. Nhờ đó cái mới ra đời thay thế cái cũ, làm cho sự vật luôn phát triển. Ví dụ: đồng hóa và dị hóa trong cơ thể động vật, cực bắc - cực nam của một thanh nam châm...
Sự phát triển mang tính khách quan vì nó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Chẳng hạn, sự hình thành và phát triển của trái đất, đến khi xuất hiện sự sống đầu tiên, rồi đến thực vật, động vật, cuối cùng là sự xuất hiện của con người đều là sự phát triển của bản thân thế giới vật chất, không do bất kỳ ý thức nào sinh ra, nó mang tính khách quan.
6. Tính phổ biến của sự phát triển
Tính phổ biến của sự phát triển biểu hiện ở chỗ nó diễn ra trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội, tư duy; mọi không gian, thời gian.
32
Trong giới vô cơ, sự phát triển được thể hiện qua sự biến đổi của các yếu tố và hệ thống vật chất, sự tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng, cụ thể đó là quá trình hóa hợp và phân giải các chất vô cơ từ đơn giản đến phức tạp, dẫn đến hình thành các nguyên tử, phân tử và các hợp chất có cấu trúc ngày càng phức tạp hơn. Sự tương tác giữa các chất, các hợp chất, giữa các sự vật, hiện tượng theo một cách nào đó, liên kết với nhau theo một trình tự nhất định hình thành nên các tinh tú, thiên hà, siêu thiên hà. Nằm trong quá trình ấy, trái đất của chúng ta xuất hiện cách đây khoảng 5 tỷ năm. Từ sự tương tác của các nguyên tố cơ bản C, H, O, N trong những điều kiện nhất định, sự sống ra đời. Thế giới thực vật, động vật tiến hóa ngày càng cao hơn, phức tạp hơn.
Trong giới hữu cơ, sự phát triển trong giới sinh vật được thể hiện ở khả năng thích nghi của chúng trước sự thay đổi của môi trường sống, thể hiện ở sự tự hoàn thiện không ngừng của quá trình trao đổi chất, của quá trình biến dị, di truyền, duy trì, phát triển nòi giống. Sự phát triển của thế giới sinh vật là quá trình tiến hóa liên tục từ cơ thể đơn bào đến đa bào, xuất hiện những loài thực vật, động vật mới ngày càng hoàn thiện hơn.
Trong xã hội, sự phát triển thể hiện ở sự thay thế lẫn nhau của các phương thức sản xuất, từ đó kéo theo sự thay thế lẫn nhau của các hình thái
33
kinh tế - xã hội từ thấp đến cao, từ hình thái kinh tế - xã hội cộng sản nguyên thủy, lên hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ, hình thái kinh tế - xã hội phong kiến, hình thái kinh tế - xã hội tư
bản chủ nghĩa và hiện nay đang quá độ lên hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Sự phát triển của hình thái kinh tế - xã hội sau cao hơn so với hình thái kinh tế - xã hội trước thể hiện ngày càng rõ nét.
C. Mác đã viết, “giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”1. Đến chủ nghĩa xã hội, sự phát triển càng được thể hiện rõ rệt hơn nữa, con người được giải phóng khỏi mọi áp bức, bóc lột, được phát triển tự do, toàn diện, tạo nên sự thay đổi lớn lao so với các hình thái kinh tế - xã hội trước đó.
Thời đại ngày nay, loài người đã đạt tới nền văn minh rất cao. Con người ngày càng đi sâu tìm hiểu thế giới vi mô, khám phá thế giới vĩ mô, tìm ra những bí mật của thế giới, sáng tạo ra nhiều phương tiện, tạo điều kiện để khám phá, chinh phục thế giới. Cùng với quá trình đó, tư duy, trí tuệ của con người cũng ngày càng hoàn thiện, phát triển.
__________
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.603. 34
Trong tư duy, sự phát triển biểu hiện ở khả năng nhận thức của con người ngày càng phản ánh đúng đắn, đầy đủ và sâu sắc về thế giới. Các sự vật, hiện tượng trên thế giới luôn vận động, biến đổi, phát triển, nên tư duy của con người phản ánh thế giới đó cũng không ngừng vận động, phát triển. Không chỉ nội dung của các khái niệm, phạm trù không ngừng được hoàn thiện, mà còn thường xuyên xuất hiện những khái niệm, phạm trù mới, nói cách khác là mọi hình thức của tư duy luôn phát triển. Chỉ dựa trên sự phát triển của các hình thức tư duy, thì con người mới có thể phản ánh đúng đắn hiện thực luôn vận động, phát triển.
7. Tính phong phú, đa dạng của sự phát triển
Phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng. Song, mỗi sự vật, hiện tượng lại có hình thức phát triển không giống nhau. Các sự vật trong những môi trường, hoàn cảnh khác nhau, sẽ có những sự phát triển khác nhau. Trong quá trình phát triển của mình, các sự vật, hiện tượng còn chịu tác động của môi trường, hoàn cảnh khác nhau, trong đó có những tác động thúc đẩy, nhưng cũng có tác động kìm hãm sự phát triển của sự vật, hiện tượng, thậm chí có những tác động lại làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật, hiện tượng.
35
Ví dụ: Trong giới tự nhiên hữu sinh, phát triển thể hiện ở khả năng thích nghi, bảo tồn, duy trì sự sống của mỗi loài khác nhau... Trong xã hội, trình độ tổ chức xã hội ở mỗi quốc gia khác nhau do trình độ phát triển của văn minh, văn hóa... quy định.
8. Nguồn gốc, cách thức, khuynh hướng của sự phát triển
Nguồn gốc của sự phát triển là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong bản thân sự vật, hiện tượng.
Hai mặt đối lập trong cùng một sự vật, hiện tượng, trong cùng một thời gian và thường xuyên tác động qua lại lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Nói cách khác, mâu thuẫn biện chứng là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập luôn diễn ra trong bản thân sự vật, hiện tượng. Khi các mặt đối lập thống nhất với nhau thì sự vật, hiện tượng còn là nó. Khi các mặt đối lập đấu tranh gay gắt, sự thống nhất của sự vật, hiện tượng mất đi, mâu thuẫn được giải quyết, tạo ra sự thống nhất mới. Trong sự thống nhất mới, các mặt đối lập lại thống nhất và đấu tranh với nhau, mâu thuẫn lại được giải quyết, cứ như vậy sự vật, hiện tượng vận động, biến đổi, phát triển không ngừng.
36
Cách thức của sự phát triển là đi từ những biến đổi về lượng (tăng lên hay giảm đi) dẫn đến sự biến đổi về chất và ngược lại. Sự thống nhất giữa lượng và chất trong sự vật tạo thành độ của sự vật. Những thay đổi về lượng dần dần đến giới hạn nhất định (điểm nút) thì xảy ra bước nhảy, chất cũ mất đi, chất mới ra đời cùng với độ mới. Quá trình này diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng vận động, biến đổi.
Khuynh hướng của sự phát triển là quá trình phủ định của phủ định. Sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng thông qua nhiều lần phủ định biện chứng gọi là phủ định của phủ định, làm cho cái mới ra đời thay thế cái cũ. Sự vật, hiện tượng dường như quay trở lại điểm xuất phát ban đầu nhưng ở trình độ cao hơn.
9. Ý nghĩa của việc nghiên cứu sự phát triển trong nhận thức và hoạt động thực tiễn
Nghiên cứu sự phát triển của sự vật, hiện tượng sẽ rút ra được quan điểm phát triển trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Quan điểm phát triển chỉ ra rằng, khi nhận thức sự vật, hiện tượng phải nhận thức nó trong sự vận động, phát triển, không đánh giá sự vật ở trạng thái đứng im, không vận động, chết cứng. Quan điểm phát triển đòi hỏi phải chống lại quan
37
điểm bảo thủ, trì trệ, ngại khó, ngại đổi mới, dễ bằng lòng với thực tại. Đồng thời phải thấy phát triển là khó khăn, phức tạp. Nhận thức được điều này sẽ tránh tình trạng chủ quan, giản đơn khi đề ra con đường, biện pháp thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển. Và khi gặp khó khăn, thất bại tạm thời phải bình tĩnh, tin tưởng vào tương lai. Quan điểm phát triển cũng yêu cầu tư duy phải mềm dẻo, linh hoạt để phù hợp với sự thay đổi của sự vật, hiện tượng. Nắm vững điều này sẽ khắc phục được bệnh giáo điều trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
10. Phân biệt khái niệm, phạm trù, phạm trù triết học
Khái niệm là một hình thức cơ bản của tư duy phản ánh những thuộc tính chung, bản chất của các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan, được thể hiện thông qua một từ hoặc một cụm từ. Ví dụ: Con người là khái niệm chỉ loài động vật có khả năng lao động và có ý thức.
Phạm trù là khái niệm rộng nhất, phản ánh những mặt, những mối liên hệ chung nhất, cơ bản nhất của các sự vật, hiện tượng thuộc một lĩnh vực hiện thực nhất định. Đó là phạm trù của các bộ môn khoa học cụ thể. Ví dụ: Giới tự nhiên hữu
38
sinh, chỉ cả thế giới động vật và thực vật, có đặc điểm chung là tế bào.
Phạm trù triết học là phạm trù khái quát nhất, chung nhất, phản ánh thuộc tính chung của toàn bộ thế giới vật chất. Ví dụ: Phạm trù vật chất dùng để chỉ toàn bộ thực tại khách quan (những gì tồn tại thực, khách quan, độc lập với ý thức của con người).
Khái niệm, phạm trù giống nhau ở chỗ chúng đều là những bậc thang của quá trình nhận thức, là kết quả ở giai đoạn cao của nhận thức, đều là những hình thức cơ bản của tư duy, đều là sự
phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ não con người. Vì thế, nội dung của khái niệm, phạm trù mang tính khách quan, bị quy định bởi thế giới khách quan, dù rằng hình thức tồn tại của chúng là chủ quan.
11. Cái chung, cái riêng, cái đơn nhất
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng:
Cái riêng là phạm trù dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình hay một hệ thống sự vật cụ thể, tồn tại như một chỉnh thể, độc lập tương đối so với những cái riêng khác.
Ví dụ: mặt trăng, mặt trời, một con người cụ thể.
39
Cái chung là phạm trù dùng để chỉ những mặt, những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định lặp lại, giống nhau ở nhiều sự vật, hiện tượng hay ở một nhóm các sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: Thủ đô của mỗi quốc gia là trung tâm kinh tế, chính trị, hành chính, văn hóa của một nước. Thủ đô nước nào cũng mang thuộc tính chung đó.
Lưu ý, cái riêng là sự vật cụ thể, cái chung chỉ là thuộc tính của sự vật ấy.
Cái đơn nhất là phạm trù dùng để chỉ những mặt, những đặc điểm, những thuộc tính chỉ tồn tại ở một sự vật, hiện tượng, không lặp lại ở bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào khác.
Ví dụ: Dấu vân tay là cái đơn nhất của mỗi người. Cần phân biệt cái đơn nhất và cái riêng. Cái riêng được quan niệm là một chỉnh thể với đầy đủ các yếu tố, các thuộc tính, các đặc điểm, các tính quy định, các bộ phận cấu thành sự vật, hiện tượng. Còn cái đơn nhất chỉ là một đặc điểm, một thuộc tính, một tính quy định, một bộ phận của một sự vật, hiện tượng và không lặp lại ở các sự vật, hiện tượng khác.
Phân biệt cái đơn nhất với cái chung: cái đơn nhất và cái chung đều đề cập đến một đặc điểm, một thuộc tính, một yếu tố của cái riêng, song chúng khác nhau ở chỗ, cái đơn nhất dùng để chỉ
đặc điểm, thuộc tính, yếu tố chỉ có ở một cái riêng, 40
còn cái chung để chỉ đặc điểm, thuộc tính, yếu tố lặp lại, giống nhau ở nhiều cái riêng hay ở một nhóm những cái riêng.
Ngoài ra, cũng cần chú ý, cái riêng tồn tại như một chỉnh thể, độc lập tương đối so với những cái riêng khác, chứ không phải là độc lập tuyệt đối. V.I. Lênin viết “Bất cứ cái riêng nào cũng thông qua hàng nghìn sự chuyển hóa mà liên hệ với những cái riêng thuộc loại khác (sự vật, hiện tượng, quá trình)”1. Chính vì thế giữa cái riêng, cái chung và cái đơn nhất có mối quan hệ biện chứng với nhau.
12. Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung với cái riêng và cái đơn nhất
Khi bàn về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, V.I. Lênin đã khái quát hóa thành mệnh đề nổi tiếng sau đây: “cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Bất cứ cái riêng (nào cũng) là cái chung. Bất cứ cái chung nào cũng là (một bộ phận, một khía cạnh, hay một bản chất) của cái riêng. Bất cứ cái chung nào cũng chỉ bao quát một cách đại khái tất cả mọi vật riêng lẻ. Bất cứ cái riêng nào cũng không gia nhập __________
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.29, tr.381.
41
đầy đủ vào cái chung, v.v., v.v.. Bất cứ cái riêng nào cũng thông qua hàng nghìn sự chuyển hóa mà liên hệ với những cái riêng thuộc loại khác (sự vật, hiện tượng, quá trình), v.v..”1. Từ sự chỉ dẫn của V.I. Lênin, chúng ta thấy mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng thể hiện cụ thể ở những nội dung sau đây:
Thứ nhất, cái riêng bao giờ cũng tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Ví dụ: Mỗi cá nhân đều tồn tại và sống trong xã hội. Không có cá nhân không có xã hội, không có xã hội cũng không có cá nhân.
Thứ hai, cái chung tồn tại trong cái riêng. Ví dụ: bản chất xã hội của con người được tồn tại trong mỗi cá nhân cụ thể.
Thứ ba, cái riêng là cái toàn thể, cái chung là cái bộ phận. Cái chung chỉ là một yếu tố, một thuộc tính, một đặc điểm,.... của cái riêng. Cái riêng là cái phong phú, cái chung là cái sâu sắc.
Ví dụ: Mặc dù đều là con người (khi có khả năng lao động và có ý thức), tuy nhiên mỗi cá nhân trong xã hội lại có hình dáng, giọng nói, chiều cao, cân nặng... khác nhau.
Thứ tư, trong những điều kiện nhất định cái đơn nhất có thể chuyển hóa thành cái chung, và
__________
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.29, tr.381.
42
ngược lại cái chung cũng có thể chuyển hóa thành cái đơn nhất.
Ví dụ: Lúc đầu có những phẩm chất đạo đức chỉ có ở một con người, nhưng thuộc tính ấy tích cực, tiến bộ, nó có thể phát triển thành cái chung của cả xã hội.
13. Cách hiểu mệnh đề “cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng”
Phép biện chứng duy vật khẳng định “cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng”, điều đó có nghĩa là cái chung tồn tại thực sự, và cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, biểu hiện sự tồn tại của mình thông qua cái riêng, cái chung không tồn tại trừu tượng, thuần túy bên ngoài cái riêng.
Chẳng hạn, khái niệm cái bàn chỉ tồn tại thông qua những cái bàn cụ thể. Vật chất nói chung bao giờ cũng biểu hiện sự tồn tại của mình thông qua những dạng vật chất cụ thể như cây cối, hành tinh, thiên hà,... Con người nói chung bao giờ cũng được thể hiện sự tồn tại của mình thông qua những con người nói riêng cụ thể. Vận động nói chung bao giờ cũng biểu hiện sự tồn tại của mình thông qua những hình thức vận động cụ thể như vận động cơ học, vận động vật lý, vận động hóa học, vận động sinh học hay vận động xã hội. Những quy luật chung của các cuộc cách
43
mạng vô sản được thể hiện thông qua cuộc cách mạng vô sản ở từng quốc gia cụ thể, như Công xã Pari, Cách mạng Tháng Mười Nga, hay Cách mạng Tháng Tám ở nước ta,...
14. Cách hiểu mệnh đề “cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung”
Từ khái niệm cái riêng, chúng ta thấy cái riêng là chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình hay một hệ thống sự vật cụ thể, mỗi cái riêng tồn tại độc lập đối với nhau, nhưng đó chỉ
là sự độc lập tương đối.
Trong hiện thực khách quan không có sự vật, hiện tượng nào tồn tại độc lập tuyệt đối tách rời các sự vật, hiện tượng khác, vì chúng đều là những bộ phận khác nhau của thế giới vật chất, đều có mối liên hệ vật chất, đều chịu sự chi phối của những quy luật vật chất.
Mỗi con người chỉ được gọi là cá nhân nếu tồn tại trong xã hội, góp phần tạo nên xã hội. Cá nhân mang trong mình giá trị xã hội, xã hội được hình thành từ các cá nhân.
Hơn nữa, mỗi cái riêng luôn tồn tại trong những môi trường, hoàn cảnh cụ thể, do đó chúng đều có nhiều mối liên hệ đa dạng với các sự vật, hiện tượng khác. Các mối liên hệ đan xen lẫn nhau, giao thoa với nhau, tạo thành mạng lưới các
44
mối liên hệ phong phú, trong những mối liên hệ ấy nhất định sẽ có những đặc điểm chung, thuộc tính chung nào đó. Ngoài ra, mỗi cái riêng (tức là một sự vật, hiện tượng cụ thể) lại không đứng im, mà luôn vận động, biến đổi, đều có liên hệ với những cái riêng khác. Chính vì thế, V.I. Lênin đã viết rằng: “Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ
đưa đến cái chung”, “Bất cứ cái riêng (nào cũng) là cái chung”, và “Bất cứ cái riêng nào cũng thông qua hàng nghìn sự chuyển hóa mà liên hệ với những cái riêng thuộc loại khác”.
15. Cách hiểu mệnh đề “cái riêng phong phú hơn cái chung, cái chung sâu sắc hơn cái riêng”
Cái riêng để chỉ một sự vật cụ thể, một hiện tượng cụ thể, một quá trình cụ thể hay một hệ thống sự vật cụ thể, tồn tại như một chỉnh thể. Mỗi cái riêng bao gồm nhiều bộ phận, nhiều thuộc tính, nhiều đặc điểm, nhiều yếu tố cấu thành nên nó, tạo thành một chỉnh thể nói lên nó là sự vật, hiện tượng nào, phân biệt nó với sự vật, hiện tượng khác. Cho nên, cái riêng bao giờ cũng là cái toàn thể, có nhiều đặc điểm phong phú. Cái riêng là cái phong phú, vì ngoài những đặc điểm gia nhập vào cái chung, thì mỗi cái riêng còn có những đặc điểm khác biệt để phân biệt với những cái riêng thuộc loại khác.
45
Trong khi đó, cái chung lại chỉ là những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định, những yếu tố lặp lại giống nhau của nhiều cái riêng, vì thế cái chung không bao quát hết cái riêng. Hơn nữa, trong những cái chung thì chắc chắn sẽ có cái chung bản chất, cái chung phản ánh tính tất nhiên, tính quy luật của các sự vật, hiện tượng, do vậy cái chung bản chất lại là cái sâu sắc, vì nó là cái chi phối sự vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng.
Chẳng hạn, quan hệ giai cấp ở các nước phương Đông không giống ở phương Tây do những điều kiện kinh tế - xã hội không giống ở phương Tây. Mỗi con người, ngoài cái chung bản chất là khả năng lao động và có ý thức, thì mỗi người có tâm lý, tính cách, lối sống, hình dáng... khác nhau.
16. Tại sao không nên nói “cái riêng” chuyển hóa thành “cái chung”?
Để làm rõ nội dung này, chúng ta cần quay trở lại phân tích từ khái niệm cái riêng và khái niệm cái chung.
Theo định nghĩa, cái riêng là phạm trù dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình hay một hệ thống sự vật cụ thể, tồn tại như một chỉnh thể. Mỗi cái riêng có tính độc lập tương đối
46
với những cái riêng khác. Cái chung là phạm trù dùng để chỉ những mặt, những đặc điểm, những thuộc tính lặp lại giống nhau ở nhiều cái riêng, hay ở một nhóm những cái riêng. Điều đó cho thấy, cái riêng không thể chuyển hóa thành cái chung, vì cái riêng là một sự vật hoàn chỉnh, với đầy đủ các bộ phận cấu thành nên nó, không thể chuyển hóa thành cái chung là một yếu tố, một bộ
phận, một đặc điểm, một thuộc tính của nó. Chẳng hạn, con người có khả năng lao động và ý thức. Khả năng lao động và ý thức là thuộc tính chung của mọi người. Mỗi người đều có thuộc tính chung đó, nhưng thuộc tính đó không thể chuyển hóa thành con người cụ thể được. Vì lẽ đó, nên chúng ta không thể nói cái riêng chuyển hóa thành cái chung và cũng không nên nói cái chung chuyển hóa thành cái riêng, mà chỉ có thể nói trong những mối quan hệ nhất định, có những cái trong mối quan hệ này là cái riêng, còn trong mối quan hệ khác nó lại là cái chung và ngược lại.
Chỉ có thể khẳng định trong những điều kiện nhất định, cái đơn nhất có thể chuyển hóa thành cái chung và ngược lại, cái chung cũng có thể chuyển hóa thành cái đơn nhất. Ví dụ: Một biến dị khi mới xuất hiện ở một cá thể sinh vật, những cá thể khác chưa có biến dị ấy, thì biến dị ấy được coi là đặc điểm đơn nhất của cá thể đó, nhưng
47
nếu biến dị ấy là biến dị tốt, sau này được di truyền nhân rộng ra cả loài thì nó sẽ chuyển hóa thành cái chung.
Hay mô hình hợp tác xã kiểu cũ là đặc điểm chung của các hợp tác xã ở nước ta thời kỳ trước đổi mới, nhưng từ khi đổi mới đến nay, mô hình ấy không còn phù hợp, đã được chuyển đổi sang mô hình mới, ở đâu đó còn tồn tại mô hình hợp tác xã kiểu cũ thì đó chỉ là hiện tượng mang tính đơn nhất. Như thế, cái chung cũng có thể chuyển hóa thành cái đơn nhất.
17. Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa cái chung với cái riêng và cái đơn nhất trong nhận thức và hoạt động thực tiễn
Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng nên chỉ có thể phát hiện ra cái chung thông những cái riêng, không thể tìm cái chung ở bên ngoài cái riêng, từ ý muốn chủ quan của con người.
Vì cái riêng không tồn tại độc lập tuyệt đối tách rời cái chung, cái riêng bao giờ cũng tồn tại trong mối liên hệ với cái chung, cho nên để giải quyết những vấn đề riêng một cách đúng đắn thì phải dựa trên những cái chung. Trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn chúng ta cần dựa
48
vào cái chung bản chất, vì cái chung là bản chất là cái sâu sắc chi phối sự vận động, phát triển của những cái riêng. Trong chỉ đạo thực tiễn, nếu không nắm được cái chung thì dễ rơi vào tình trạng mò mẫm, mù quáng và dễ dẫn đến thất bại.
V.I. Lênin viết: “người nào bắt tay vào những vấn đề riêng trước khi giải quyết các vấn đề chung, thì kẻ đó, trên mỗi bước đi, sẽ không sao tránh khỏi “vấp phải” những vấn đề chung đó một cách không tự giác. Mà mù quáng vấp phải những vấn đề đó trong từng trường hợp riêng, thì có nghĩa là đưa chính sách của mình đến chỗ có những sự dao động tồi tệ nhất và mất hẳn tính nguyên tắc”1.
Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, là một bộ phận của cái riêng, nên cái chung luôn chịu tác động của nhân tố khác trong cái riêng, vì vậy khi áp dụng cái chung, áp dụng những nguyên lý lý luận chung vào những cái riêng thì cần phải cá biệt hóa, cần hết sức sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể của những cái riêng.
Vì cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa cho nhau trong những điều kiện nhất định, nên trong hoạt động chúng ta cần chú ý phát hiện những nhân tố mới tiến bộ để nhân điển hình
__________
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.437.
49
tiên tiến, phổ biến những sáng kiến, kinh nghiệm, gương người tốt, việc tốt thành những cái chung trong xã hội, bên cạnh đó cũng cần ngăn chặn những hiện tượng tiêu cực, các tệ nạn trong xã hội, chuyển hóa nó thành cái đơn nhất dần dần tiến tới thủ tiêu nó.
Sau khi tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin về con đường cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh nhận thức rằng đó là con đường cách mạng chân chính nhất cho cách mạng Việt Nam và cho các dân tộc thuộc địa bị áp bức. Nhưng Người cũng lưu ý rằng cần phải được vận dụng một cách sáng tạo không chỉ
ở các nước tư bản phương Tây mà đặc biệt cần phải được vận dụng sáng tạo ở các nước phương Đông - nơi mà chủ nghĩa Mác - Lênin chưa nghiên cứu sâu tới. Theo Người: “Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”1. Vì vậy, khi áp dụng lý luận Mác - Lênin vào Việt Nam, Người đã phân tích rất kỹ lưỡng những điểm chung và điểm riêng giữa phương Đông và phương Tây. Trên cơ sở đó, Người đã đưa ra lý luận giai cấp rất sâu sắc, đóng góp vào việc bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin.
__________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.1, tr.509-510.
50
18. Trong thực tiễn tuyệt đối hóa cái riêng hoặc tuyệt đối hóa cái chung đều là sai lầm
Cái riêng và cái chung có quan hệ biện chứng với nhau, không tách rời nhau, cái riêng không tồn tại độc lập tuyệt đối tách rời cái chung, cái chung không tồn tại trừu tượng, thuần túy bên ngoài cái riêng, cái chung nằm trong cái riêng, biểu hiện sự tồn tại của mình thông qua cái riêng. Vì vậy, nếu tách rời cái riêng và cái chung thì sẽ rơi vào quan điểm siêu hình, do đó cần chống quan điểm siêu hình tách rời cái chung với cái riêng, tuyệt đối hóa, thổi phồng cái này phủ nhận cái kia.
Tuyệt đối hóa cái riêng hoặc tuyệt đối hóa cái chung sẽ dẫn đến sai lầm về phương pháp trong nhận thức và trong hành động: nó đưa đến chủ nghĩa giáo điều, hoặc chủ nghĩa kinh nghiệm, thậm chí rơi vào chủ nghĩa xét lại.
Vì cái chung và cái riêng quan hệ biện chứng với nhau, nên nếu chúng ta tuyệt đối hóa cái chung thì sẽ mắc phải bệnh giáo điều, còn nếu tuyệt đối hóa cái riêng thì sẽ rơi vào tư tưởng bè phái cục bộ, địa phương chủ nghĩa, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi.
Chẳng hạn, trước đổi mới chúng ta đã hiểu và vận dụng một cách giáo điều lý luận của C. Mác về chủ nghĩa xã hội. Lý luận của C. Mác chủ yếu nêu về bước quá độ trực tiếp từ một nước tư bản phát triển lên chủ nghĩa xã hội. Ở những nước tư bản
51
phát triển, sau khi cách mạng vô sản thành công, giai cấp vô sản chỉ cần xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, xác lập chế độ công hữu là có ngay chủ nghĩa xã hội. Theo ý nghĩa đó, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C. Mác và Ph. Ăngghen viết: “Những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất này là: xoá bỏ chế độ tư hữu”1. Trong khi đó, nước ta lại quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ nền sản xuất nhỏ tồn tại một cách phổ biến, một điều kiện, hoàn cảnh khác với C. Mác, Ph. Ăngghen đã nêu, song chúng ta vẫn áp dụng nguyên xi những nguyên lý của lý luận Mác. Kết quả là chúng ta đã giáo điều khi vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác về xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho nền kinh tế - xã hội nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng. Từ khi đổi mới, chúng ta đã nhận thức lại, vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, đã từng bước đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng và đang có những bước phát triển vững chắc.
19. Nguyên nhân và kết quả
Ở phương Đông cổ đại, nhiều trường phái triết học ở Ấn Độ đã lấy “luật nhân quả” để __________
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.616. 52
xây dựng lý thuyết của mình. Ở phương Tây cổ đại, Lơxíp và Đêmôcrít cho rằng, không có sự vật, hiện tượng nào thiếu nguyên nhân, mọi sự vật, hiện tượng đều xuất hiện trên cơ sở nào đó
do tính tất yếu.
Mối quan hệ nhân quả đã được các nhà triết học qua nhiều thời đại quan tâm nghiên cứu vì bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng đều có nguyên nhân của nó, muốn nhận thức một sự
vật, hiện tượng nào đó phải tìm nhiều nguyên nhân của nó. Tuy nhiên, việc tìm hiểu nguyên nhân của các sự vật, hiện tượng không đơn giản. Mỗi người đều có thế giới quan của mình trong việc xác định nguyên nhân. Tùy theo thế giới quan khác nhau mà người ta xác định nguyên nhân cũng rất khác nhau.
Thông thường, hiện tượng A gây nên biến đổi và kéo theo sau nó một hiện tượng khác - gọi là hiện tượng B. Khi đó A được gọi là nguyên nhân, còn B được gọi là kết quả.
Chẳng hạn, sự tương tác giữa các điện tích âm và điện tích dương trong sợi dây tóc (có điện trở lớn) của bóng đèn là nguyên nhân làm cho bóng đèn phát sáng.
Nguyên nhân là phạm trù dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau gây nên những biến đổi nhất định.
53
Kết quả là phạm trù dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
Ví dụ: Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp chủ nô và nô lệ dẫn đến sự ra đời của nhà nước chiếm hữu nô lệ. Khi đó, sự tác động lẫn nhau giữa giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ là nguyên nhân, còn sự xuất hiện của nhà nước chiếm hữu nô lệ là kết quả.
Khái niệm nêu trên thể hiện mức độ hiểu biết sâu sắc hơn so với trước đây về nguyên nhân, kết quả. Nó khắc phục được hạn chế của quan điểm cho rằng nguyên nhân gây nên một kết quả nào đó không nằm bên trong sự vật, hiện tượng mà do tác động nằm ở bên ngoài sự vật, hiện tượng. Từ đó, nó cũng là cơ sở để khắc phục được thiếu sót của quan niệm coi nguyên nhân cuối cùng của sự vận động, biến đổi của toàn bộ thế giới vật chất không phải ở trong chính thế giới vật chất, mà ở ngoài nó, do một lực lượng siêu nhiên như thần linh, thượng đế...
20. Phân biệt nguyên nhân với nguyên cớ và điều kiện
Trong khái niệm, nguyên nhân và kết quả được phân biệt khá rõ, nhưng trong thực tế việc xác định
54
nguyên nhân và kết quả không đơn giản, mà hết sức phức tạp, dễ có sự nhầm lẫn giữa nguyên nhân với nguyên cớ, giữa nguyên nhân với điều kiện.
Trước hết, chúng ta cần phân biệt sự khác nhau giữa nguyên nhân với điều kiện: Nguyên nhân là cái trực tiếp gây ra kết quả, quan hệ nhân quả là quan hệ có tính quy luật, còn điều kiện chỉ là yếu tố tạo môi trường giúp cho nguyên nhân chuyển thành kết quả.
Ví dụ: Nguyên nhân sâu xa của cuộc cách mạng xã hội là do mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất. Nhưng cách mạng chỉ xảy ra khi có những điều kiện khách quan và chủ quan chín muồi.
Mặt khác, chúng ta cần phân biệt sự khác nhau giữa nguyên nhân với nguyên cớ: Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, là nguồn gốc của kết quả. Còn nguyên cớ không sinh ra kết quả, nó chỉ có quan hệ bên ngoài với kết quả. Chẳng hạn, sự kiện Vịnh Bắc Bộ diễn ra năm 1964, đế quốc Mỹ đã tạo ra cớ để gây ra cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc Việt Nam bằng không quân và hải quân.
21. Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên
55
nhân có trước, kết quả có sau. Trong mối quan hệ nhân quả cần lưu ý:
- Trong quan hệ nhân quả, nguyên nhân có trước, kết quả có sau, nói cách khác quan hệ nhân quả là mối quan hệ có tính nối tiếp về mặt thời gian, nhưng chiều ngược lại chưa chắc đã đúng, không phải mối quan hệ nào có sự nối tiếp về thời gian giữa các hiện tượng cũng là mối quan hệ nhân quả. Ví dụ: hiện tượng ngày và đêm, đây là hiện tượng có sự nối tiếp về thời gian, nhưng không phải là mối quan hệ nhân quả, không phải ngày là nguyên nhân của đêm và cũng không phải đêm là nguyên nhân của ngày.
- Một nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả. Ngược lại, một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau tạo nên.
Các nguyên nhân khác nhau tác động theo cùng một hướng với sự vật thì sẽ tạo thành hợp lực ảnh hưởng cùng chiều với việc sinh ra kết quả. Ngược lại, nhiều nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo những hướng khác nhau thì chúng sẽ làm suy yếu, thậm chí triệt tiêu tác dụng của nhau.
Trong các nguyên nhân tạo nên kết quả thường được chia thành các loại: nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân thứ yếu, nguyên nhân bên trong, nguyên nhân bên ngoài, nguyên nhân chủ quan,
56
nguyên nhân khách quan, nguyên nhân tất nhiên, nguyên nhân ngẫu nhiên,... .
Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân. Nguyên nhân sinh ra kết quả, nhưng kết quả sau khi xuất hiện không giữ vai trò thụ động mà tác động trở lại nguyên nhân. Ví dụ: Sản xuất là nguyên nhân của tiêu dùng, nhưng tiêu dùng lại tác động trở lại nguyên nhân. Tiêu dùng hợp lý thì sẽ kích thích sản xuất phát triển, tiêu dùng không hợp lý sẽ kìm hãm sản xuất.
Nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi vị trí cho nhau.
Mối liên hệ giữa nguyên nhân và kết quả còn thể hiện ở sự thay đổi vị trí lẫn nhau giữa chúng, ở chỗ có những hiện tượng trong mối liên hệ này là nguyên nhân, nhưng trong mối liên hệ khác nó lại trở thành kết quả và ngược lại. Ph. Ăngghen đã viết: “Nguyên nhân và kết quả là những khái niệm chỉ có ý nghĩa là nguyên nhân và kết quả khi được áp dụng vào một trường hợp riêng biệt nhất định; nhưng một khi chúng ta nghiên cứu trường hợp riêng biệt ấy trong mối liên hệ chung của nó với toàn bộ thế giới thì những khái niệm ấy lại vẫn gắn với nhau và xoắn xuýt với nhau trong một khái niệm về sự tác động qua lại lẫn nhau một cách phổ biến, trong đó nguyên nhân và kết quả luôn luôn thay đổi vị trí cho nhau; cái ở đây hoặc trong lúc này là nguyên nhân thì ở
57
chỗ khác hoặc ở lúc khác lại là kết quả, và ngược lại”1. Một hiện tượng A sinh ra hiện tượng B, hiện tượng B là kết quả và rồi nó lại trở thành nguyên nhân sinh ra hiện tượng C,... tạo thành chuỗi nhân - quả vận động vô cùng tận của thế giới. Như vậy, một hiện tượng nào đó được xác định là nguyên nhân hay kết quả bao giờ cũng được đặt trong một mối quan hệ cụ thể, xác định.
22. Tại sao nói muốn cho hiện tượng nào đó mất đi thì phải làm mất nguyên nhân tồn tại của nó, cũng như những điều kiện để các nguyên nhân ấy phát huy tác dụng?
Để giải thích nội dung này chúng ta cần quay trở lại khái niệm nguyên nhân, khái niệm kết quả, mối liên hệ giữa nguyên nhân với kết quả, mối liên hệ giữa nguyên nhân với điền kiện.
Nguyên nhân hoàn toàn khác với điều kiện, nguyên nhân là cái trực tiếp sinh ra kết quả, điều kiện không sinh ra kết quả, nhưng giữa nguyên nhân và điều kiện lại có mối quan hệ phụ thuộc khăng khít với nhau, nguyên nhân muốn chuyển thành kết quả thường phải gắn với những điều kiện nhất định. Chính vì thế, nó làm cho chúng ta đôi khi nhầm lẫn nguyên nhân với điều kiện và __________
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.20, tr.38. 58
rất khó phân biệt rõ được đâu là nguyên nhân, đâu là điều kiện.
Ví dụ: Hạt thóc là nguyên nhân sinh ra cây lúa, nhưng hạt thóc muốn nảy mầm thành cây lúa phải có phôi và có đủ những điều kiện nhất định về nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, không khí,... Nếu hạt thóc không có phôi (thóc lép) thì dù có đủ
những điều kiện đó nguyên nhân (hạt lúa) không thể sinh ra kết quả (cây lúa ra đời).
Từ những luận giải trên đây cho thấy, muốn cho hiện tượng nào đó không xuất hiện thì phải làm cho nguyên nhân tồn tại của nó không xuất hiện, cũng như những điều kiện để các nguyên nhân ấy phát huy tác dụng, điều đó cũng có nghĩa là, muốn cho hiện tượng nào đó mất đi thì phải làm mất nguyên nhân tồn tại của nó, cũng như những điều kiện để các nguyên nhân ấy phát huy tác dụng.
23. Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả trong nhận thức và hoạt động thực tiễn
Trước hết cần xác định về mặt nguyên tắc, không có hiện tượng nào không có nguyên nhân, bất kỳ hiện tượng nào cũng đều là kết quả của nguyên nhân này hay nguyên nhân khác, cho nên chỉ có những hiện tượng chúng ta đã làm rõ được
59
nguyên nhân của nó hoặc chưa làm rõ được nguyên nhân của nó mà thôi.
Bất kỳ hiện tượng nào cũng đều có nguyên nhân của nó, nên nhiệm vụ của nhận thức phải làm rõ những nguyên nhân của nó. Trong quá trình đi tìm nguyên nhân của hiện tượng, chúng ta cần lưu ý:
Mối liên hệ nhân quả là mối liên hệ mang tính khách quan, nên chúng ta cần phải tìm nguyên nhân của các hiện tượng trong thế giới khách quan, chứ không thể tìm nguyên nhân của chúng ở ngoài thế giới khách quan.
Mối liên hệ nhân quả là mối quan hệ có tính nối tiếp về mặt thời gian, nên khi tìm nguyên nhân của một hiện tượng nào đó chúng ta cần tìm nguyên nhân đó ở các sự kiện, hiện tượng, những mặt, những mối liên hệ xảy ra trước khi có hiện tượng đó.
Một hiện tượng có thể có nhiều nguyên nhân, nên trong quá trình đi tìm nguyên nhân của hiện tượng cần phân tích tất cả các loại nguyên nhân sinh ra nó, trong đó xác định rõ vị trí, vai trò của từng nguyên nhân, phân biệt rõ nguyên nhân bên trong, nguyên nhân bên ngoài, nguyên nhân chủ
yếu, nguyên nhân thứ yếu, nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan,... để từ đó xác định được phương hướng xử lý thích hợp trong những điều kiện cụ thể.
60
Vì nguyên nhân và kết quả có thể hoán đổi vị trí cho nhau trong những mối quan hệ nhất định, có những hiện tượng trong mối liên hệ này là kết quả, nhưng trong mối liên hệ khác lại là nguyên nhân, nên để hiểu rõ tác dụng của hiện tượng ấy chúng ta cần xem xét hiện tượng ấy trong những mối liên hệ mà nó giữ vai trò là nguyên nhân hay trong những liên hệ mà nó giữ vai trò là kết quả.
Vì mối liên hệ nhân quả mang tính tất yếu, nên trong nhận thức và hành động chúng ta cần lưu ý:
Để loại bỏ một hiện tượng nào đó chúng ta cần loại bỏ nguyên nhân sinh ra nó. Ví dụ: Muốn chữa bệnh thì chúng ta cần tìm ra nguyên nhân phát sinh bệnh trong con người, nếu chỉ chữa những triệu chứng bên ngoài thì không chữa được bệnh.
Muốn hiện tượng nào đó xuất hiện chúng ta cần tạo ra nguyên nhân và những điều kiện cần thiết để nguyên nhân đó có thể chuyển thành kết quả. Một hiện tượng lại do nhiều nguyên nhân, nên để một hiện tượng nào đó xuất hiện cần xem xét nhiều nguyên nhân, trên cơ sở ấy lựa chọn phương pháp hành động thích hợp.
Vì các nguyên nhân bên trong, nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân tất nhiên, nguyên nhân bản chất,... giữ vai trò quyết định trong sự ra đời,
61
tồn tại, phát triển và tiêu vong của hiện tượng, nên trong nhận thức, trong hoạt động thực tiễn cần dựa trước hết vào những nguyên nhân này.
24. Tất nhiên và ngẫu nhiên
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng chỉ có ngẫu nhiên chứ không có tất nhiên. Các nhà duy tâm chủ quan cho rằng, tất nhiên chỉ tồn tại trong thế giới khái niệm, trong tư duy của con người chứ
không tồn tại trong thế giới sự vật.
Trái với các nhà duy tâm, phần lớn các nhà duy vật trước Mác thừa nhận sự tồn tại khách quan của cái tất nhiên trong tự nhiên, xã hội. Nhưng họ lại không thống nhất trong việc thừa nhận tính khách quan của cái ngẫu nhiên, không thừa nhận sự tồn tại khách quan của cái ngẫu nhiên. Họ cho rằng mỗi hiện tượng đều có nguyên nhân nên không thể có cái ngẫu nhiên, ngẫu nhiên chỉ là kết quả của sự không hiểu biết về nguyên nhân đầy đủ của nó mà thôi.
Trong số các nhà duy vật trước Mác, cũng có một số người cho rằng tự nhiên và xã hội chỉ có cái ngẫu nhiên. Rằng, các biến cố trong cuộc sống của chúng ta thường là kết quả của những hiện tượng ngẫu nhiên. Một số nhà duy vật khác thừa nhận sự tồn tại khách quan của cả cái tất nhiên và của cả cái ngẫu nhiên, nhưng lại coi chúng là
62
những cái hoàn toàn tách rời nhau, không có liên hệ với nhau.
Tất cả những quan niệm trên đây đều không phản ánh đúng đắn mối liên hệ giữa tất nhiên và ngẫu nhiên trong hiện thực. Sự phản ánh đúng đắn mối liên hệ đó chỉ tồn tại trong phép biện chứng duy vật.
Theo các nhà triết học duy vật biện chứng, tất nhiên là phạm trù dùng để chỉ cái bắt nguồn một cách hợp quy luật từ những mối liên hệ cơ bản ở bên trong sự vật, là cái do toàn bộ sự phát triển trước đó quy định nên nó nhất định xảy ra.
Ngẫu nhiên là phạm trù dùng để chỉ cái bắt nguồn từ những mối liên hệ ở bên ngoài sự vật nên nó có thể xảy ra hoặc không xảy ra.
Ví dụ: Hạt thóc khi gieo xuống đất với điều kiện nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng phù hợp thì nhất định nó sẽ nảy mầm thành cây mạ, cây lúa, đó là cái tất nhiên. Nhưng hạt thóc đó nảy mầm sớm hay muộn lại phụ thuộc thời tiết bên ngoài quy định, đó là cái ngẫu nhiên.
Tất nhiên có mối liên hệ với cái chung, vì cái tất nhiên của các sự vật, hiện tượng nói lên tính quy luật vận động, phát triển của chúng, tồn tại một cách phổ biến trong tự nhiên, xã hội.
Tất nhiên và quy luật thuộc cùng một loại, cùng trình độ vì quy luật phản ánh tính tất nhiên của các sự vật, hiện tượng.
63
Tất nhiên gắn liền với cái chung, cái bản chất, quy luật, thì cái ngẫu nhiên lại gắn liền với cái không bản chất, cái không ổn định.
25. Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
Phép biện chứng duy vật thừa nhận tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và ý chí của con người, đều có vị trí nhất định đối với sự phát triển của sự vật. Cả hai đều có nguyên nhân khách quan, chúng chỉ khác nhau ở chỗ cái tất nhiên có nguyên nhân từ những mối liên hệ cơ bản ở bên trong sự vật, còn cái ngẫu nhiên lại có nguyên nhân từ những mối liên hệ ở bên ngoài sự vật.
Mọi hiện tượng đều có nguyên nhân. Cả tất nhiên và ngẫu nhiên đều có nguyên nhân tồn tại khách quan, kể cả khi chúng ta chưa biết rõ được nguyên nhân của chúng.
Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên thể hiện ở chỗ, tất nhiên bao giờ cũng vạch đường đi xuyên qua vô số ngẫu nhiên, còn cái ngẫu nhiên lại là hình thức biểu hiện của tất nhiên và bổ sung cho tất nhiên.
Ví dụ: Nếu còn tình trạng người nô dịch, áp bức người, còn bạo lực, cường quyền thì sẽ còn sự
64
phản kháng, chiến tranh, khủng bố. Sự phản kháng, chiến tranh, khủng bố có thể xảy ra ở bất kỳ nơi nào cũng đều là sự phản ánh tình trạng nô dịch, áp bức, bóc lột vẫn còn tồn tại.
Tất nhiên là cái do những mối liên hệ cơ bản ở bên trong sự vật quy định, nên nó thể hiện khuynh hướng phát triển của sự vật, nhưng khuynh hướng ấy bao giờ cũng bộc lộ ra bên ngoài dưới hình thức ngẫu nhiên nào đó. Như
vậy, không có cái ngẫu nhiên thuần túy, mà là cái ngẫu nhiên luôn bao hàm cái tất nhiên, ẩn giấu cái tất nhiên.
Trong những điều kiện nhất định, tất nhiên có thể chuyển hóa thành cái ngẫu nhiên. Và ngược lại, cái ngẫu nhiên cũng có thể chuyển hóa thành cái tất nhiên.
Ví dụ: Trong hình thái kinh tế - xã hội cộng sản nguyên thủy, việc trao đổi vật lấy vật là cái tất nhiên, vì khi đó nền sản xuất hàng hóa chưa ra đời, đồng tiền chưa xuất hiện. Nhưng sau này, nền sản xuất hàng hóa ra đời, đồng tiền xuất hiện thì khi đó trao đổi vật lấy vật chỉ còn mang tính ngẫu nhiên.
Sự phân biệt giữa tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ mang tính tương đối, nên chúng ta cần tránh cứng nhắc trong khi xem xét các sự vật, hiện tượng.
65
26. Tại sao nói tất nhiên đóng vai trò chi phối đối với sự vận động, phát triển của sự vật?
Theo quan niệm của phép biện chứng duy vật, cái quy định sự vận động, phát triển của các sự vật, đó là cái bên trong, cái bản chất, cái có tính quy luật.
Khái niệm cái tất nhiên đã nêu rõ, tất nhiên là cái bắt nguồn từ những mối liên hệ cơ bản ở bên trong sự vật, là cái do toàn bộ sự phát triển trước đó quy định, nên nó nhất định xảy ra. Còn ngẫu nhiên là cái bắt nguồn từ những mối liên hệ ở bên ngoài sự vật, nên nó có thể xảy ra hoặc không xảy ra.
Như đã phân tích ở phần trên, phạm trù tất nhiên và phạm trù quy luật thuộc cùng một loại, cùng một trình độ, vì quy luật là mối quan hệ tất nhiên của các sự vật. Như vậy, cái tất nhiên là cái bên trong, là cái tất yếu xảy ra theo quy luật nội tại của các sự vật.
Ví dụ: Nếu cây có đủ dưỡng chất, trong điều kiện bình thường thì quả tất nhiên phải chín. Nhưng tùy thuộc vào nhiệt độ của từng mùa (xuân, hạ, thu, đông) mà quả có thể chín nhanh hoặc chậm hơn.
Điều đó cho thấy cái tất nhiên đóng vai trò chi phối đối với sự vận động, phát triển của sự vật. Tuy nhiên, cái ngẫu nhiên cũng có những
66
ảnh hưởng đến sự vận động, phát triển của sự vật, nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm đối với sự vận động, phát triển của sự vật.
27. Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn
Vì tất nhiên là cái nhất định xảy ra trong những điều kiện nhất định, còn ngẫu nhiên là cái có thể xảy ra hoặc không xảy ra, cho nên trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn cần dựa vào tất nhiên chứ không thể dựa vào ngẫu nhiên. Nhưng ngẫu nhiên cũng có ảnh hưởng rất lớn đối với sự vận động, phát triển của sự vật, do đó trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn cần chủ động đặt ra các phương án dự phòng, sẵn sàng ứng phó với những cái ngẫu nhiên không mong muốn có thể xảy ra.
Ví dụ: Trong điều kiện phát triển của khoa học kỹ thuật như hiện nay, chúng ta đã khá chủ động trong các dự án phát triển nông nghiệp, nhưng trước sự biến đổi của khí hậu, cùng với những hiện tượng thời tiết cực đoan cũng thường ngẫu nhiên xuất hiện, đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn có những phương án dự phòng nhất định về thủy lợi, về đê điều, về lũ lụt, giông lốc...
67
Vì tất nhiên không tồn tại thuần túy ở bên trong sự vật, mà biểu hiện ra bên ngoài thông qua ngẫu nhiên, cho nên muốn tìm ra cái tất nhiên phải thông qua ngẫu nhiên, phải dựa trên sự so sánh, phân tích những ngẫu nhiên để phát hiện ra tất nhiên. Chẳng hạn, trong những năm 80 của thế kỷ XX, thông qua những hiện tượng “khoán chui” trong nông nghiệp ở Đồ Sơn (Hải Phòng), ở Vĩnh Lạc (Vĩnh Phú),... và khắp nơi trong cả
nước, Đảng ta đã tổng kết, khái quát hóa, đưa ra Chỉ thị 100 vào năm 1981, sau đó hoàn thiện thành Khoán 10 vào năm 1988.
Trong những điều kiện nhất định, cái ngẫu nhiên có thể chuyển hóa thành cái tất nhiên và ngược lại, do đó cần tạo ra những điều kiện cần thiết để thúc đẩy nhanh quá trình chuyển hóa cái tích cực, hoặc ngăn trở cái tiêu cực theo nhu cầu của hoạt động thực tiễn.
Việc nhận thức được tính tất nhiên và hành động theo tính tất nhiên thì sẽ giúp con người trở thành người chủ động, tự do hơn, hoạt động hiệu quả hơn. Ví dụ: Khi nắm được chu kỳ sinh trưởng của một loại cây trồng, con người sẽ tìm ra biện pháp để thúc đẩy sự phát triển, tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả lao động sản xuất.
68
28. Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức
Nội dung là phạm trù dùng để chỉ tổng thể tất cả các mặt, các yếu tố, các quá trình tạo nên sự vật. Hình thức là phạm trù dùng để chỉ phương thức, cách thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của sự vật.
Ví dụ: Nội dung của một cơ thể động vật là toàn bộ các yếu tố, bộ phận, các hệ thống, các quá trình hoạt động của các yếu tố, bộ phận, hệ thống… để tạo nên cơ thể đó. Hình thức của cơ thể động vật là trình tự sắp xếp, liên kết các yếu tố, bộ phận, hệ thống… tương đối bền vững của cơ thể.
Giữa nội dung và hình thức có sự thống nhất, gắn bó hữu cơ với nhau.
Các yếu tố, các quá trình vừa góp phần tạo nên nội dung đồng thời lại vừa tham gia vào các mối liên hệ tạo nên hình thức của sự vật. Do đó, nội dung và hình thức luôn gắn bó chặt chẽ với nhau. Không có hình thức nào không chứa nội dung, cũng như không có nội dung lại không tồn tại trong một hình thức nhất định.
Tính độc lập tương đối của nội dung và hình thức.
Một nội dung có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Chẳng hạn, nội dung là câu chuyện
69
gồm những tình tiết, sự kiện về cuộc đời một người có thể được thể hiện dưới rất nhiều hình thức khác nhau như tiểu thuyết, vở kịch, phim...
Một hình thức có thể thể hiện những nội dung khác nhau. Ví dụ: Trong một hình thức của một bộ phim có thể thể hiện nhiều nội dung khác nhau, như tình yêu quê hương, đất nước, tình yêu lứa đôi, tình đồng đội…
Vai trò của hình thức và nội dung đối với sự vận động, phát triển của sự vật.
So với hình thức, nội dung giữ vai trò quyết định đối với quá trình vận động, phát triển của sự vật. Nội dung biến đổi nhanh, hình thức thường biến đổi chậm hơn nội dung. Khi nội dung biến đổi đến một mức độ nào đó thì hình thức sẽ phải thay đổi cho phù hợp với nội dung.
Hình thức có thể tác động trở lại nội dung. Nếu hình thức phù hợp với nội dung sẽ thúc đẩy nội dung phát triển. Ngược lại, nếu hình thức không phù hợp với nội dung sẽ kìm hãm nội dung phát triển.
29. Cách hiểu mệnh đề “nội dung giữ vai trò quyết định hình thức trong quá trình vận động, phát triển của sự vật”
Mỗi sự vật đều có nội dung và hình thức của nó. Sự vận động và phát triển của sự vật chủ yếu
70
là kết quả của sự tác động lẫn nhau giữa các yếu tố cấu thành nên sự vật (chính là nội dung của sự vật). Điều này có nghĩa là trong sự vận động phát triển của sự vật, nội dung sẽ biến đổi trước. Khi nội dung biến đổi tới mức độ nhất định, để không cản trở sự phát triển, hình thức sẽ phải thay đổi để phù hợp với nội dung mới.
Ví dụ: Trong hoạt động giảng dạy, tùy vào nội dung bài học mà người giảng viên quyết định lựa chọn những hình thức, phương pháp giảng dạy thích hợp khác nhau như thuyết trình, nêu vấn đề, hỏi - đáp, thảo luận nhóm... Nếu hình thức, phương pháp phù hợp sẽ giúp nâng cao hiệu quả của buổi học và ngược lại.
30. Vì sao trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần chống khuynh hướng tách rời nội dung khỏi hình thức cũng như tách hình thức khỏi nội dung và chống chủ nghĩa hình thức?
Nội dung và hình thức của sự vật bao giờ cũng là thể thống nhất, gắn bó hữu cơ với nhau, không có nội dung nào lại không được thể hiện dưới một hình thức nào đó; và không có một hình thức nào lại không chứa đựng một nội dung nào đó. Do đó, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn không được tách rời nội
71
dung khỏi hình thức cũng như tách rời hình thức khỏi nội dung.
Nếu chỉ quan tâm đến nội dung, không quan tâm đến hình thức thì sẽ trở nên thô thiển. Ví dụ: Một người có ý tưởng nhưng không có hoặc không chú ý đến ngôn từ diễn đạt, ý tưởng đó trở
nên lộn xộn, không rõ ràng.
Ngược lại, nếu chỉ quan tâm đến hình thức, coi nhẹ nội dung thì sẽ dẫn đến chủ nghĩa hình thức. Ví dụ: Một người chỉ lo trau chuốt ngôn từ nhưng ý tưởng trống rỗng thì sẽ rơi vào phô trương, huênh hoang, “thùng rỗng kêu to”.
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần chống chủ nghĩa hình thức.
Chủ nghĩa hình thức là khuynh hướng tuyệt đối hóa vai trò của hình thức, coi nhẹ nội dung. Trong thực tế, khuynh hướng này có thể thấy được trong mọi lĩnh vực hoạt động và đều để lại những hậu quả tiêu cực.
Trong lĩnh vực quan hệ của con người, chủ nghĩa hình thức biểu hiện ở việc sùng bái những quy tắc, những nghi lễ, phong trào, ngôn từ... mà không chú ý đến hiệu quả thực chất.
Ví dụ: Một cán bộ lãnh đạo, quản lý chỉ quan tâm hô hào khẩu hiệu, tổ chức phong trào mà không quan tâm tới hiệu quả lãnh đạo, quản lý. Các quyết định lãnh đạo, quản lý không hiệu quả, quan liêu là người mắc bệnh hình thức.
72
31. Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức trong nhận thức và hoạt động thực tiễn
Vì nội dung và hình thức luôn thống nhất, gắn bó chặt chẽ với nhau nên trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần chống khuynh hướng tách rời nội dung khỏi hình thức cũng như tách hình thức khỏi nội dung.
Vì cùng một nội dung có thể thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau nên trong hoạt động thực tiễn, cần phải biết sử dụng sáng tạo nhiều hình thức khác nhau. Ví dụ: Cùng là một nội dung tuyên truyền phòng chống dịch bệnh, chúng ta có thể sử dụng rất nhiều hình thức khác nhau để truyền tải, tuyên truyền tới người dân. Chính việc sử dụng đa dạng các hình thức này sẽ làm tăng hiệu quả của công tác tuyên truyền.
Vì nội dung quyết định hình thức cho nên khi xét đoán một sự vật nào đó, cần căn cứ trước hết vào nội dung của nó. Ví dụ: Muốn đánh giá đúng thực trạng phát triển của một nền sản xuất, trước hết, chúng ta phải căn cứ vào nội dung của nền sản xuất đó, tức là căn cứ vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (biểu hiện ở trình độ của người lao động, trình độ phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ trong sản xuất…). Và để thúc đẩy sản xuất phát triển cũng cần tập trung
73
thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất thông qua việc thúc đẩy sự phát triển của các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất như người lao động, kỹ thuật, công nghệ...
Vì hình thức tác động trở lại nội dung, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của nội dung cho nên, trong hoạt động thực tiễn, cần luôn luôn theo dõi sát mối quan hệ giữa nội dung và hình thức của sự vật để có thể kịp thời can thiệp một cách đúng đắn, nhằm tạo sự phù hợp giữa nội dung và hình thức, từ đó bảo đảm sự
phát triển của sự vật. Nếu hình thức đã cũ, trở thành lỗi thời, cản trở sự phát triển của nội dung thì nó phải được cải tạo, thay bằng hình thức mới.
Chẳng hạn, khi lực lượng sản xuất phát triển làm cho quan hệ sản xuất trở thành lạc hậu, không còn phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất thì cần phải xóa bỏ nó, thay thế bằng một quan hệ sản xuất mới tiến bộ hơn cho phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, từ đó thúc đẩy sản xuất phát triển.
Mặt khác, hình thức cũ vẫn còn phù hợp với nội dung đã biến đổi thì cũng cần phải biết tận dụng hình thức đó. Điều này rất có ý nghĩa, nhất là trong giai đoạn phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, chúng ta cần sử dụng nhiều loại hình
74
quan hệ sản xuất cũ như quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Một số hình thức của quan hệ sản xuất này vẫn đang phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất nên đã trở thành một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển của sản xuất.
Đối với lĩnh vực nghệ thuật, chúng ta có thể và cần thiết phải sử dụng các loại hình nghệ thuật cũ đã hình thành từ rất lâu trong lịch sử để thể hiện những nội dung mới trong cuộc sống hiện đại. Việc làm này vừa góp phần bảo tồn, phát huy giá trị của các loại hình nghệ thuật, vừa làm tăng sự đa dạng, sinh động cho việc thể hiện những nội dung của cuộc sống hiện đại.
32. Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng
Bản chất là phạm trù triết học chỉ tổng hợp tất cả các mặt, các mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định ở bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật đó.
Hiện tượng là phạm trù triết học chỉ cái biểu hiện ra bên ngoài của bản chất.
Ví dụ: Bản chất của một người là tổng hợp tất cả những tính cách, đạo đức, phẩm chất, năng lực… của người đó. Bản chất này được biểu hiện ra bên ngoài thông qua các cử chỉ, hành vi, hoạt động, qua các mối quan hệ của người đó trong xã hội.
75
Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng Bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan, là cái vốn có của các sự vật. Mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng là mối quan hệ biện chứng vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau. Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng Bản chất bao giờ cũng bộc lộ ra qua hiện tượng, còn hiện tượng bao giờ cũng là sự thể hiện của bản chất nhất định.
Bản chất nào thì sẽ thể hiện ra qua hiện tượng ấy. Ví dụ: Bản chất của một người là tốt, bản chất đó sẽ được thể hiện qua những hiện tượng là các hành vi, lời nói chuẩn mực, thái độ chân thành, đúng mực trong cư xử, giao tiếp...
Không có bản chất thuần tuý tách rời hiện tượng, không thể hiện qua hiện tượng và ngược lại, không có hiện tượng nào mà lại không thể hiện bản chất nhất định.
Bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ra qua các hiện tượng khác nhau. Người có bản chất tốt sẽ thể hiện thông qua các hành vi tốt, lời nói chuẩn mực, lối sống trong sáng. Người có bản chất xấu thì hành vi không đàng hoàng, lén lút, giấu giếm…
Bản chất thay đổi thì hiện tượng biểu hiện nó cũng thay đổi theo, bản chất mất đi thì hiện tượng biểu hiện nó cũng mất theo.
Ví dụ: Khi chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa bị thủ tiêu thì những hiện tượng thể hiện bản chất
76
của chế độ đó, như tình trạng người bóc lột người, những bất công, bất bình đẳng… trong xã hội cũng sẽ không còn.
Bản chất và hiện tượng mâu thuẫn nhau
Bản chất sâu sắc hơn hiện tượng còn hiện tượng phong phú hơn bản chất. Bởi vì, bản chất là tổng hợp những mối liên hệ tất nhiên, bên trong, những quy luật quy định sự tồn tại và phát triển của sự vật; còn hiện tượng mang tính phong phú hơn bản chất. Bản chất ẩn giấu bên trong, hiện tượng bộc lộ ra bên ngoài. Bản chất không được bộc lộ hoàn toàn ở một hiện tượng mà ở nhiều hiện tượng khác nhau. Ví dụ: Mỗi con người có rất nhiều cử chỉ, hành vi, lời nói khác nhau, nhưng tất cả điều đó đều thể hiện phần nào bản chất của họ.
Hiện tượng biểu hiện bản chất nhưng biểu hiện dưới hình thức cải biến, không còn nguyên dạng bản chất, thậm chí hiện tượng xuyên tạc bản chất. Ví dụ: Có người bản chất xấu, chuyên đi lừa đảo, nhưng họ tỏ ra là người tử tế để dễ lừa gạt người khác.
Bản chất tương đối ổn định, chậm biến đổi còn hiện tượng biến đổi nhanh hơn bản chất. Bởi vì, hiện tượng không chỉ được quyết định bởi bản chất của sự vật, mà còn bởi những điều kiện tồn tại bên ngoài của nó, bởi sự tác động qua lại của nó với các sự vật xung quanh.
77
33. Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn
Đối với hoạt động nhận thức
Bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan, là cái vốn có của bản thân sự vật nên chỉ có thể tìm ra bản chất của sự vật ở chính sự vật đó.
Bản chất không tồn tại thuần tuý ngoài hiện tượng, nó bao giờ cũng bộc lộ thông qua các hiện tượng tương ứng. Do đó, muốn tìm bản chất phải thông qua nghiên cứu hiện tượng. Ví dụ: Muốn biết được bản chất của nhà nước là tốt hay xấu, chúng ta cần quan sát các chính sách, pháp luật của nhà nước đó cũng như thái độ, hành vi của cán bộ trong nhà nước ấy.
Bản chất bộc lộ thông qua nhiều hiện tượng nên nhận thức của con người là quá trình tìm hiểu từ nhiều hiện tượng đến bản chất, từ bản chất ít sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn. Điều này đòi hỏi chúng ta không được tự thỏa mãn, dừng lại ở bất kỳ một trình độ nhận thức nào về bản chất của sự vật.
Đối với hoạt động thực tiễn
Bản chất là tổng hợp tất cả các mặt, các mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định ở bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật, còn hiện tượng là biểu hiện ra bên ngoài của
78